Tìm Hiểu Lời Chúa Chúa Nhật 23 Thường Niên C

Tìm Hiểu Lời Chúa Chúa Nhật 23 Thường Niên C

Trong Chúa nhật này, chúng ta được mời gọi phải lựa chọn. Truyền thống khôn ngoan, từ đó bài đọc thứ nhất được trích đọc, bắt nguồn từ thực tế rằng cuộc sống là một chuỗi các lựa chọn. Bài đọc hai và Tin Mừng cung cấp cho chúng ta những mẫu gương về cách các Kitô hữu nên chọn. Cuối cùng, mô tả của Thánh vịnh về bản chất phù du của cuộc sống đặt bối cảnh cho việc thực hiện quyết định của chúng ta.

 

BÀI ĐỌC 1: Kn 9,13-18

Ca tụng Đức Khôn Ngoan

Đoạn văn đáng yêu này là phần kết của lời cầu nguyện của vua Salômôn xin ơn khôn ngoan. Ông nói rằng Đức Khôn Ngoan và sự hiểu biết thực sự về những điều của Thiên Chúa nằm ngoài tầm hiểu biết của con người. Nếu chúng ta không thể hình dung nổi những điều thuộc về thế giới hữu hình xung quanh, làm sao chúng ta có thể hy vọng đạt được sự hiểu biết về thượng giới ngoài tầm hiểu biết của các giác quan chúng ta? Lời cầu nguyện được đặt trong miệng của vua Salômôn, người mà trong Cựu Ước được coi là hiện thân của sự khôn ngoan, nhưng chỉ theo cách con người, vì sách Khôn Ngoan được biên soạn tại Alexandria chỉ một thời gian ngắn trước khi Chúa giáng sinh. Vào thời điểm này, sự nhìn nhận rằng Đức Khôn Ngoan nằm ngoài tầm với của tất cả các khoa học con người càng gây ấn tượng hơn khi nhìn vào những thành tựu của các trường triết học vĩ đại của Alexandria. Thỉnh thoảng, những bài thơ như vậy, rải rác trong văn chương Khôn Ngoan của Cựu Ước, là một lời nhắc nhở quý giá rằng Thiên Chúa vượt quá mọi sự hiểu biết của con người về trí tuệ, sức mạnh và vẻ đẹp. Có lẽ đẹp nhất và choáng ngợp nhất là kinh nghiệm về Thiên Chúa được truyền đạt trong các bài thơ của Gióp 38-41. Những bài thơ này cũng có thể được coi là lời ca ngợi Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa sẽ trở nên xác phàm và được tỏ hiện cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô

 

ĐÁP CA: Tv 90,3-6; 12-17

Chúa thực hiện lời cầu xin

Thánh vịnh 90 là duy nhất được cho là của Môisen (xem câu 3 và so sánh với St 2,7). Tác giả Thánh vịnh nhìn nhận rằng cuộc sống là ngắn ngủi; do đó, ông cầu xin Chúa ban cho ơn khôn ngoan để sống  khoảng thời gian ngắn ngủi này hợp ý Chúa (c. 12). Có lẽ ông nhớ lại biến cố thần hiển tại núi Sinai, và hỏi Chúa rằng dân chúng sẽ phải đợi bao lâu nữa mới đến lúc Ngài trở lại dưới một hình thức hữu hình như vậy (c. 13 ).

Trong khi chờ đợi, ông cầu xin Chúa đổ tràn đầy lòng nhân từ của Ngài trên dân để họ được an vui ngay giữa những phiền lụy của cuộc sống ngắn ngủi (cc. 14-15). Ông cũng xin Chúa tỏ cho dân thấy bằng chứng về các công trình của Ngài, để họ và con cháu của họ nhận biết rằng Chúa vẫn ở cùng họ (c. 16). Vì vậy, tác giả tin tưởng rằng đối với những ai tin cậy Chúa thì mọi ngày đều tốt đẹp, là cơ hội để vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa. Ông Môisen kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng cách kêu xin Chúa củng cố các công việc của Ngài qua bàn tay của dân giao ước. Thiên Chúa đã chọn Israel để trở thành dân thánh và là ánh sáng cho dân ngoại thì xin Ngài hoàn tất mỹ mãn. Tác giả cầu xin cho dân giao ước được phép hoàn thành sứ mệnh đó với tư cách như thể là đối tác trong kế hoạch của Chúa cho lịch sử cứu độ (c. 17).

Thiên Chúa đã đáp lại lời cầu xin của tác giả Thánh vịnh khi cho Con Chúa là Chúa Giêsu ngự đến, và tỏ cho nhân loại thấy sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa qua mầu nhiệm Nhập Thể, cũng như qua sứ vụ của Người trên trần gian. Muôn dân đã nhìn thấy công trình cứu độ rạng ngời được thực hiện qua mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Con Chúa.

 

BÀI ĐỌC 2: Plm 9b-10, 12-17

Phaolô và Philêmôn

Lá thư của Phaolô gửi cho Philêmôn – và bài đọc này chiếm khoảng một nửa bức thư – là một lá thư ngắn thân thiện của Phaolô gửi cho Philêmôn về một nô lệ của Philêmôn có tên là Ônêsimô, người đã phục vụ Phaolô trong tù và đã trở thành một Kitô hữu. Có hai giả thuyết về lý do tại sao Ônêsimô ở với Phaolô: hoặc Ônêsimô chạy trốn khỏi chủ của mình và ẩn trốn với Phaolô, hoặc Philêmôn cho Phaolô mượn Ônêsimô trong một thời gian giới hạn. Trong cả hai trường hợp, Phaolô hiện đang gửi Ônêsimô trở lại, đồng thời, cũng muốn Philêmôn để cho Ônêsimô ở lại với ngài thêm một khoảng thời gian nữa. Yếu tố quan trọng và hấp dẫn nhất trong lá thư là tình anh em thắm thiết của Phaolô với người nô lệ, hiện là một Kitô hữu. Sau nhiều thế kỷ dài chấp nhận chế độ nô lệ trong Kitô giáo, các Kitô hữu sẽ nhận ra rằng tình cảm và tình anh em được thể hiện ở đây khiến cho chế độ nô lệ giữa các Kitô hữu không thể chấp nhận được. Một bước nữa được thực hiện sau đó là bất kỳ sự nô dịch nào của con người đều không phù hợp với Kitô giáo, và tất cả mọi người phải được đối xử như anh chị em, bình đẳng trước mặt Chúa. Đó là một trường hợp điển hình về sự hiểu biết luân lý Kitô giáo một cách tiệm tiến.

 

TIN MỪNG: Lc 14,25-33

Chọn làm môn đệ

Cái giá phải trả của việc làm môn đệ là nội dung của giáo huấn của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng này. Điều quan trọng cần lưu ý là mặc dù những gì có vẻ là những đòi hỏi triệt để, nhưng giáo huấn này được nói với đám đông chứ không chỉ dành cho những người đã dấn thân vào vai trò môn đệ bước đầu và những người được kêu gọi dấn thân hơn cũng như sống thân mật hơn nữa. Ba điều kiện để trở thành môn đệ được đưa ra ở đây: dứt bỏ mọi thứ để cam kết với Chúa Giêsu, đón nhận thập giá, và từ bỏ mọi tài sản.

Lời khuyên của Chúa Giêsu về việc “ghét” những thành viên thân thiết nhất trong gia đình của một người đã trở thành chủ đề được nhiều người quan tâm và giải thích. Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý ra mệnh lệnh này theo nghĩa đen, vì toàn bộ nền tảng giáo huấn của Người là tình yêu thương. Ở đó người ta không được nghĩ rằng không thể vừa yêu mến Thiên Chúa vừa yêu người lân cận. Quả thật, người ta được truyền lệnh phải yêu cả hai. Cụm từ này có lẽ bắt nguồn từ một thành ngữ tiếng Semitic đề cập đến lòng trung thành ưu tiên, ngụ ý rằng khi lựa chọn một thứ, người ta loại trừ mọi thứ khác. Chúng ta thấy điều này được thể hiện trong tình cảm của ông Giacóp đối với hai người vợ của mình, Rakhel và Lêa (x. St 29,30-31). Vì vậy, “ghét” có nghĩa là “yêu ít hơn.” Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng không điều gì, cả những liên hệ thân thiết nhất trong gia đình hay tình yêu cuộc sống riêng của một người, có thể ưu tiên hơn sự cam kết với Người. Ai không thể hiến dâng của lễ này thì không thể làm môn đệ của Người.

Điều kiện thứ hai để trở thành môn đệ là sẵn sàng vác thập giá của mình. Sự cam kết hoàn toàn mà Chúa Giêsu thực hiện đối với sứ mệnh của Người đã dẫn đến đau khổ và cái chết. Sự cam kết của những ai đi theo Người không kém hi sinh như vậy. Yêu cầu này thực hiện sẽ khác nhau ở nơi mỗi người, nhưng căn bản là như nhau – cam kết trọn vẹn. Nhận thấy rằng lòng nhiệt tình ban đầu có thể che đậy một nỗ lực cống hiến hời hợt, Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng muốn làm môn đệ trước tiên hãy tính đến khả năng của mình trước khi dấn thân cho Người. Họ không nên dấn thân vào đời môn đệ mà không xem xét những gì liên quan. Một mặt, họ phải biết về cái giá đòi hỏi; mặt khác, họ phải ý thức về khả năng của mình để đáp ứng chi phí đó. Nói cách khác, họ phải tính toán xem liệu họ có đủ khả năng theo Người hay không, cũng như liệu họ có thực sự muốn từ chối yêu cầu của Người hay không. Họ không nên bước tiếp trừ khi họ sẵn sàng và có thể đáp ứng tất cả những gì họ phải thực hiện cho quyết định của mình. Ai không thể toàn tâm toàn ý dấn thân thì không thể làm môn đệ của Người.

Cuối cùng, các môn đệ sẽ là những người sẵn sàng từ bỏ tất cả tài sản của họ để chiếm hữu và được Chúa Kitô chiếm hữu. Đây không phải là một đòi hỏi mới hay khác biệt. Theo một nghĩa nào đó, nó bao hàm trong chính nó hai đòi hỏi kia. Sự cam kết hoàn toàn đối với Chúa Giêsu đòi hỏi sự sẵn sàng từ bỏ sự thoải mái và an toàn của một cuộc sống gia đình ổn định cũng như sự sẵn sàng sử dụng tất cả những gì người ta có cho cuộc phiêu lưu đó. Ai không thể toàn tâm toàn ý dấn thân như thế thì không thể làm môn đệ của Người.

—-

THAM KHẢO SÁCH GIÁO LÍ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

+ GLHTCG 273, 300, 314 : Sự siêu việt của Thiên Chúa

+ GLHTCG 36-43 : Việc nhận biết Thiên Chúa theo giáo huấn Hội Thánh

+ GLHTCG 2544 : Yêu mến Đức Kitô trên tất cả mọi sự và mọi người

+ GLHTCG 914-919, 931-932 : Bước theo Chúa Kitô trong đời sống thánh hiến

Lm Giuse Ngô Quang Trung

 

 

print