01.10: Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê Su – Đồng Trinh

print

 01.10: Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê Su (1873 – 1897)

  

Têrêsa Hài Đồng Giêsu sinh ngày 2 tháng giêng năm 1873 tại Alencon, nước Pháp. Ngài là con thứ chín của hai ông bà Louis Martin và Zélie Guérin.

Trước kia hai ông bà đã có ý nguyện dâng mình phục sự Chúa trong tu viện mà không thành. Bù lại, năm người con đều đã hiến thân theo đời sống tu trì. Khi sinh ra Têrêsa, mẹ Ngài đã nói:
 

– Tôi chỉ ao ước có nhiều con để dẫn chúng về trời.

Nhưng khi mới lên bốn, Têrêsa đã mất mẹ, bà chết vì căn bệnh ung thư. Nhưng được sự dịu hiền của người cha đã bao bọc thánh nữ suốt quãng thời thơ ấu. Một buổi chiều, níu tay cha, Têrêsa chỉ nhìn lên trời mà nói:

– Cha ơi! xem kìa, tên con đã được viết trên trời.

Dù còn nhỏ từ tuổi lên ba, ngài nhớ rằng mình đã không từ chối Chúa điều gì. Ngài đã cố sửa tính cứng đầu, ích kỷ và hay thay đổi. Lúc lên mười, ngài ngã bệnh nặng. Nhưng ngài đã thấy tựơng Đức Trinh Nữ mỉm cười với mình và cơn bệnh biến mất.

Têrêsa luôn nghĩ tới những sự trên trời, ngài nói rằng: Chúa Giêsu đã chết trên thánh giá để cứu rỗi các linh hồn, nhưng thật đáng buồn khi có rất nhiều người không đáp lại lời mời gọi của Chúa. Bởi thế, thánh nữ đã cầu nguyện và thống hối để đưa các linh hồn về trời. Có một kẻ cướp tên là Pranzini bị kết án tử hình. Thánh nữ đã tự ý cầu nguyện cho hắn được ơn hối cải. Ngài còn xin một dấu chỉ chứng tỏ hắn hối cải. Và rồi, tên cướp đã từng từ chối sự giúp đỡ của linh mục, lúc lên đoạn đầu đài, bỗng quay nhìn thánh giá và hôn ba lần.

Từ nhỏ đã quyết nên thánh, Têrêsa muốn được sớm tận hiến cho Chúa. Mười lăm tuổi, ngài đã ước ao được gia nhập dòng kín. Không được phép, ngài hành hương đi Rôma để xin phép Đức Giáo Hoàng, Đức Lêo XIII đã chỉ trả lời:

– Nếu Chúa muốn.

Đức Giám mục Bayeux đã cho phép ngài vào dòng ngay. Nơi đây đã có ba người chị của ngài. Nhận được tên Têrêsa của Chúa Giêsu Hài Đồng, ngài thêm vào của mình. Ngày khấn dòng, ngài cầu nguyện:

– Ôi Chúa Giêsu, con xin ơn bình an và tình yêu vô bờ bến. Xin cho con được tử đạo trong lòng hay nơi thân xác, hay tốt hơn, được tử đạo cả hai.

Chính nhờ “đường con thơ tin tưởng và phó thác” mà thánh nữ đạt đến tuyệt đỉnh thánh thiện và hoàn tất ơn gọi sống tình yêu và đau khổ, ngài đã:

– Quyết không bỏ qua một hy sinh nhỏ bé nào.

Ngài đã chịu bề trên hiểu lầm và đối xử một cách nghiêm khắc, chịu giá lạnh và hy sinh liên tục, ngài bị trách mắng bất công, bị thử thách đủ loại, mà chỉ đáp lại bằng nụ cười. Người ta chỉ gặp thấy nơi ngài thứ ánh sáng an bình và không thể đoán biết nổi những đau khổ mà dường như ngài muốn dấu cả Chúa nữa:

– Con cố gắng mỉm cười khi phải đau khổ… để Chúa nhân lành như bị lừa bởi dáng vẻ bề ngoài, cũng không biết rằng: con phải đau khổ nữa.

Lạnh lẽo ngài không chà tay, đau chân ngài chú ý kẻo chân đi khập khiễng, ngài âm thầm thực hiện những việc giúp đỡ phiền hà nhất. Một chị bạn làm bể chiếc bình, nhưng ngài bị la rầy mà ngài vẫn cúi đầu nhận lỗi. Một chị bạn đã găm kim vào da thịt ngài khi giúp ngài đội khăn mà ngài vẫn cám ơn không hề kêu trách. Một nữ tu già kỳ chướng cần được sự giúp đỡ, Têrêsa tận tụy phục vụ bà và chỉ mỉm cười đáp lại những phiền trách của bà.

Người ta hỏi ngài:

– Chị nói thế nào là ở như một trẻ thơ trước mặt Chúa?

Ngài trả lời:

– Là khiêm tốn đón chờ mọi sự bởi Chúa nhân lành, như một trẻ thơ chờ đón tất cả bởi tay cha nó. Mọi sự khác chẳng quan hệ gì.

Thật viễn vông khi muốn vài chục người chung quanh quí chuộng. Tôi chỉ mong được yêu thương ở trên trời bởi vì chỉ ở trên đó mới hoàn hảo mà thôi.

Ngài không đòi được soi sáng nữa, khiêm tốn và phó thác, ngài tin rằng:

– Tôi không mơ ước được thấy Chúa và các thánh của Ngài như nhiều người khác ao ước được nhìn thấy và thấu hiểu mọi sự, mà chỉ muốn ở lại trong cuộc sống đức tin.

Giáo thuyết rất đơn sơ, nhưng sâu sắc của ngài được nuôi dưỡng không ngừng bằng những suy ngắm và được trình bày trong cuốn MỘT TÂM HỒN. Chị ngài, mẹ Anê thời đó, đã truyền cho ngài viết lại những ký ức này. Sợ rằng việc này “làm phân tâm”, nhưng vì vâng lời ngài đã thực hiện. Thế là chúng ta có được một sứ điệp khôn sánh về đức khiêm hạ, sức mạnh tình yêu và phó thác. Con người muốn bé nhỏ ấy lại có những ước muốn vô cùng.

– Con thấy mình có ơn gọi làm chiến sĩ, làm linh mục, làm tông đồ, làm tiến sĩ và chịu tử đạo.

Và ngài lại chỉ thực hiện những hy sinh nhỏ, được biến nên trong sáng bởi tình yêu đại độ.

– Một phương thế để nên trọn lành ư? Con chỉ biết có tình yêu.

Tháng 6 năm 1894, có triệu chứng đầu tiên thánh nữ bị bệnh lao. Dầy vậy ngài vẫn tiếp tục các bổn phận và không tìm cách giảm bớt một công tác nào. Không hiểu biết, người ta trách ngài biếng nhác. Hơn nữa, ngài còn bị thử thách nặng nề trong tâm hồn. Ngập chìm trong tăm tối, ngài như bị mất đức tin, nhưng vẫn dũng cảm trung thành với Chúa. Khi người ta mang đến một ly thuốc đỏ đẹp, ngài nói:

– Ly thuốc nhỏ này, người ta tưởng là đầy rượu ngon, thực sự chưa bao giờ tôi đã phải uống một thứ thuốc nào đắng hơn. Đó là hình ảnh đời tôi. Dưới mắt người khác nó đầy màu sắc vui mắt, người ta tưởng tôi uống một thứ rượu ngon ngọt, nhưng thực sự nó là thuốc đắng.

Sau những đau đớn dữ dằn, ngài nói:

Con không hối hận vì đã hiến mình cho tình yêu

Khi sắp từ trần, ngài hứa:

– Trên trời con sẽ làm mưa hoa hồng xuống.

Ngày 30 tháng 9 năm 1897 ngài qua đời tại phòng bệnh dòng kín Lisieux.

Ngày 17 tháng 5 năm 1925 ngài được tôn vinh lên hàng các thánh. Năm 1927 Đức Piô XI đã đặt thánh nữ làm quan thầy mọi công cuộc Truyền giáo.