Các Bài Suy Niệm Lễ Thăng Thiên C
Cv. 1, 1-11; Dt. 9, 24-28; 10, 19-23; Lc. 24, 46-53
NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
MỤC LỤC
- Sự hiện diện của Chúa 4
- Khai mở một trang sử mới – Keith Witfield 7
- Có những trang mạng mở lối vào đức tin 11
- Bàn tay Chúa. 20
- Chúa lên trời 22
- Sức mạnh từ trời cao 24
- Niềm hy vọng Nước Trời. 27
- Chúa lên trời 30
- Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc. 33
- Chứng nhân – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 36
- Chúa Giêsu lên trời – R. Veritas 41
- Quê hương chúng ta là quê trời 47
- Ra khơi – R. Veritas 51
- Không giải thích được – Achille Degeest 54
- Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện 57
- Hướng lòng về thượng giới – Lm Ignatio Trần Ngà 62
- Chúa tin tưởng chúng ta. 65
- Hãy mang Chúa đến cho nhân trần 68
- Sống Mầu Nhiệm Lên Trời – Lm. Thiện Duy 72
- Chuyến đi về trời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 79
- Hãy là chứng nhân của Thầy 83
- Thời kỳ của Giáo Hội – Flor McCarthy. 89
- Chuyển giao sứ mạng 96
- Suy niệm của R. Gutzwiller 100
- Chúa lên trời 104
- Chứng nhân 106
- Chúa lên trời 108
- Chúa lên trời – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm. 112
- Lên trời 115
- Làm chứng 118
- Chứng nhân 120
- Bài giảng của Lm. GB. Hiếu 124
- Chứng nhân 127
- Nước trời 131
- Những chứng nhân mới – Lm. Trần Thanh Sơn 134
- Suy niệm của Giuse Trần Xuân Chiêu 139
- Bàn tay giơ ra để chúc lành. 144
- Chứng nhân Nước Trời- Lm. Bùi Quang Tuấn 147
- Ra khơi 152
- Chúa lên trời – Fr Thomas Tuý 156
- SCĐ/326 – Tin Mừng 160
- Những giáo huấn cuối cùng và lên trời 162
- Chú giải của Noel Quesson 170
- Chú giải của Fiches Dominicales 177
- Tìm ý để dọn bài giảng về đề tài: Thiên Đàng 183
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đâu là ý nghĩa của biến cố Chúa về trời.
Biến cố Chúa về trời không có nghĩa là Chúa di chuyển hộ khẩu, Chúa thay đổi nơi cư trú, từ mặt đất này tới một nơi nào đó, nhưng có nghĩa như là một sự tôn vinh, như lời thánh Phaolô đã viết: Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, cho nên Thiên Chúa đã tôn vinh Người. Các tín hữu tiên khởi đã tin rằng: Đức Kitô được tôn vinh tiếp tục hiện diện giữa trần gian. Người hiện diện không phải chỉ ở Giuđêa, mà còn khắp cùng bờ cõi trái đất. Ngài hiện diện trong chính sự rao giảng của Giáo Hội. Phần cuối của đoạn Tin Mừng cho thấy ngay cả sau khi Ngài đã lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, các tông đồ vẫn tin tưởng rằng có Chúa cùng hoạt động với các ông khi các ông rao giảng và Ngài củng cố lời giảng của các ông bằng những phép lạ kèm theo. Thực vậy, thánh Matthêu đã lặp lại lời Chúa: Này Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Còn thánh Luca thì đã ghi nhận: Sau khi Chúa lên trời, các tông đồ trở lại Giê rusalem, lòng tràn ngập niềm vui. Tại sao lại như thế? Chẳng lẽ các ông vui mừng vì Người đã rời xa họ hay sao? Phải chăng đây là một thoáng mặc khải, hé mở cho chúng ta thấy sự vắng mặt của Người đã trở thành một sự hiện diện thất gắn bó và mật thiết. Người tuy xa mà lại gần, tuy vắng mặt mà vẫn luôn hiện diện.
Thực vậy, phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy việc Giáo Hội nối tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô, nối tiếp những công việc Người đã làm, kể cả những công viêc lạ lùng như trừ quỷ, chữa lành các bệnh nhân. Giáo Hội thể hiện sự hiện diện của Đức Kitô giữa trần gian. Sự hiện diện này không còn bị đóng khung trong thời gian và không gian. Nhưng đã được mở ra để có thể đến với mọi người.
Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ biết ngước mắt nhìn lên cao, mà điều quan trọng đó chính là chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả việc làm và đời sống, nhất là bằng sự dấn thân, để thực hiện một sự lựa chọn rõ rệt. Con Thiên Chúa khi làm người và ở giữa chúng ta, đã thể hiện một sự lựa chọn rõ rệt, Ngài không hiện diện một cách chung chung, và vô thưởng vô phạt, nhưng đã hiện diện như một Tin Mừng cứu độ cho nhiều người, đồng thời như một hòn đá vấp ngã đối với một số người khác.
Và khi Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối sự hiện diện của Người, Người cũng đòi chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoá như Người. Chính vì thế, rất có thể đã xảy ra là tại một nơi nào đó, có sự hiện diện của người Kitô hữu, của Giáo Hội, nhưng lại không có sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Sở dĩ như vậy là vì sự chọn lựa của chúng ta đã đi ngược lại với sự chọn lựa của Chúa Giêsu. Chẳng hạn như khi chúng ta có những hành động bất công, bóc lột kẻ khác, thì chính bản thân chúng ta đã bôi nhọ và xoá bỏ sự hiện diện của Đức Kitô.
Chính vì thế mà mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống xem lời nói và việc làm của chúng ta, có là một chứng tá trung thực cho sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa trần gian này hay không.
(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
Khai mở trang sử mới của Giáo hội
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” ( Mc 16,20)
Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.
Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người. Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).
Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông. Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui”. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng, các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.
Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện tròn đầy. Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “ Đấng sẽ đến”. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:
- Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Do Thái 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.
- Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).
- Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “ Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).
- Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết: “ Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).
Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.
Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.
Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.
Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.
Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).
Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.
Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính…đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).
Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Vì thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.
Trong Sứ điệp truyền thông 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và mạng xã hội: “Có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa”. Giáo Hội tìm cách hội nhập sứ điệp Tin Mừng vào trong “nền văn hoá mới này” do những những phương tiện truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và với những cách cư xử mới.
Tiếp nối định hướng đó, Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 năm nay, ĐGH Bênêđictô viết sứ điệp truyền thông với chủ đề “Mạng lưới xã hội: Chân lý và Đức Tin; không gian mới cho việc Truyền bá Tin Mừng”. Lời mở đầu, ngài viết: “Tôi muốn xem xét việc phát triển các mạng xã hội kỹ thuật số đang góp phần rõ ràng tạo nên một “agora” (quảng trường) mới, một không gian công cộng mở, nơi đó con người chia sẻ các ý tưởng, thông tin, ý kiến, và cũng là nơi phát sinh những mối tương quan và hình thái cộng đồng mới”. Đức Thánh Cha nhận định tính tích cực của các trang mạng xã hội: “Các mạng xã hội, ngoài việc là một phương tiện loan báo Tin Mừng, còn có thể là một yếu tố phát triển con người. Chẳng hạn, trong một số bối cảnh địa lý và văn hóa mà các Kitô hữu cảm thấy bị cô lập, các mạng xã hội có thể giúp họ cảm thấy vẫn hiệp nhất thực sự với cộng đoàn Kitô hữu khắp thế giới. Những trang mạng tạo thuận lợi cho việc chia sẻ các nguồn tài liệu đạo đức và phụng vụ, giúp con người có thể cầu nguyện với cảm giác thấy mình gần gũi với những người cùng một niềm Tin”.
Có nhiều trang mạng dẫn lối vào Đức Tin: “Trong thế giới kỹ thuật số, có những trang mạng xã hội mang lại cho con người ngày nay những dịp để cầu nguyện, suy niệm và chia sẻ Lời Chúa. Những trang mạng này cũng có thể mở những cánh cửa dẫn vào những chiều kích khác của đức Tin. Quả thật, nhờ gặp gỡ trước trên mạng, nhiều người đã khám phá tầm quan trọng của việc gặp gỡ trực tiếp, những kinh nghiệm của cộng đoàn, và cả việc hành hương, là những yếu tố luôn luôn quan trọng trong hành trình đức Tin. Bằng cách cố gắng đưa Phúc âm hiện diện trong thế giới kỹ thuật số, chúng ta có thể mời gọi mọi người cùng cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ tại những nơi chốn cụ thể như nhà thờ, nhà nguyện. Trong bất cứ hiện thực nào của cuộc sống mà chúng ta được mời gọi tham dự, dù đó là không gian vật lý hữu hình hay trong thế giới kỹ thuật số, không được thiếu đi sự gắn bó và hiệp nhất khi diễn tả đức Tin và làm chứng cho Tin Mừng. Khi gặp gỡ tha nhân, chúng ta đều được kêu gọi bằng mọi cách phải làm cho tình yêu Thiên Chúa được nhận biết đến tận cùng trái đất”.
Đứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân lực và phương tiện để đưa Tin Mừng đến từng nhà? Đây là câu trả lời đích xác: “Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á”. (x.Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48).
Cho dù phương tiện truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin, chứ không từ những kỹ thuật. Đức tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: “Trong thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn”. (Sứ điệp Truyền Thông 2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục đích và kết quả như mong muốn cần có tĩnh lặng: “Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành động” (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi người Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Chúa, chúng ta mới có thể truyền thông Lời Chúa cho người khác. Chỉ có những người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.
Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội,thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu độ và loan báo tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.
Người ta kể rằng: sau thế chiến thứ hai, một toán lính đồng minh đi giúp các người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ nát. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa, thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bọm đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Viên sĩ quan viết vào pho tượng câu này: Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.
Một người khốn khổ nằm chờ chết bên vệ đường. Chúa xót thương người ấy, nhưng Chúa lại không thể gởi chén cơm manh áo cho người ấy. Nhưng may quá, tôi không phải là Chúa, tôi có thể đem cho người ấy một ly nước, một chén cơm. Đó là chỗ duy nhất tôi hơn Chúa.
Trong Phúc Âm chính Chúa cũng đã phán: Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta bị đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Chúa có thể làm nên cơm gạo cho người nghèo nhưng Chúa lại không thể đưa cơm gạo ấy cho họ được. Ngài phải nhờ đến đôi bàn tay của chúng ta.
Đó là những suy tư tôi đọc thấy trong một cuốn sách. Nghe qua thì rất táo bạo, nhưng đã nói lên một sự thật rất sâu xa, đó là Chúa dùng bàn tay chúng ta để ban phát những quà tặng, để xoa dịu những nỗi khổ đau cũng như để nâng đỡ và khích lệ cho những người chung quanh.
Trong chương trình cứu độ của Chúa, phần đóng góp của con người cũng thật là quan trọng như lời thánh Augustinô đã nói: Chúa sẽ không thế nào cứu chuộc được chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Chúa đã chịu chết một lần trên cây thập giá và đã làm nên kho tàng ơn cứu độ. Thế nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, để phân phát nguồn ơn sủng ấy cho anh em đồng loại. Hay nói một cách khác cuộc sống của người Kitô hữu, phải là một sự nối tiếp công trình cứu độ của Đức Kitô. Bản thân chúng ta phải kéo dài sự hiện diện của Chúa cho đến tận cùng thời gian.
Cũng chính vì thế, trước khi về trời, Chúa đã truyền cho các môn đệ: Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê rusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Và như vậy, Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài đễ đem Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Bởi đó, chúng ta phải sống thế nào để người khác khi nhìn vào chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa.
Chiều thứ năm tuần thánh, sau khi rời phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ theo con đường Bêtania để lên núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã phải trải qua một cơn hấp hối đầy cay đắng, đến nỗi mồ hôi máu chảy xuống…
Rồi ngày hôm nay, Ngài đã đi lại con đường ấy, cũng để tiến đến núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã gặp gỡ, đã vĩnh biệt các môn đệ, trước khi Ngài được đưa lên trời dưới mắt các ông.
Từ đó, chúng ta nhận thấy: Cùng một địa điểm, nhưng có những khác biệt và tương phản. Thực vậy, lần trước Ngài đến để thực hiện thánh ý Chúa Cha, đó là chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Lần sau Ngài đến trong vinh quang như một Đấng đã chiến thắng.
Tôi nghĩ rằng đó chính là hình ảnh, là con đường, mà mỗi cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội, sẽ phải dấn thân vào trong thời điểm hiện nay.
Đúng thế, có những lúc Giáo Hội phải lên núi Cây Dầu để làm quen với thập giá, nếu muốn được chiêm ngưỡng vinh quang phục sinh. Đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy rõ được điều ấy.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ điều gì trước khi vĩnh biệt họ? Tôi xin thưa: Ngài đã nhắc tới cái chết và sự sống lại của Ngài nhằm tha thứ tội lỗi. Rồi Ngài phán: Từ nay họ sẽ là chứng nhân của mầu nhiệm vượt qua, bằng các loan báo Tin mừng hoán cải ở mọi nơi, trong mọi lúc và trên mọi nẻo đường trần gian. Và một điều quan trọng khác nữa, đó là họ sẽ phải sống mầu nhiệm thập giá để làm chứng cho Đức Kitô.
Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy thiên thần đã nhắc khéo các môn đệ:
– Này các bạn xứ Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời làm chi.
Hay nói cách khác:
– Các bạn hãy về đi. Về với sứ mạng vừa mới được trao phó.
Đúng thế, con người chúng ta tiến bước, đôi mắt ngước nhìn trời, nhưng bàn chân thì lại đạp đất. Đó là một hình ảnh trung thực nhất về Giáo Hội nói chung và về mỗi người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta lại có khuynh hướng ly khai, tách biệt hai yếu tố căn bản ấy và chúng ta đã tạo nên một nếp sống chông chênh, không vui lòng Chúa, mà cũng chẳng đem lại lợi ích gì cụ thể cho bản thân mình.
Nếu ngày xưa Đức Kitô đã phải vác thập giá để tiến tới Phục sinh, thì hôm nay cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội cũng phải bước đi trên con đường ấy, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đương về vinh quan và thập giá là đương dẫn tới phục sinh.
Vì thế, hãy chập nhận thập giá đời thường là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa lên quê hương Nước trời, chia sẻ niềm hạnh phúc vinh quang với Ngài.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.
Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người, nếm cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng. Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề. Nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra, và được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với Cha. Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.
Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng. Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế. Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.
Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống.
Chúc lành cho mọi người là người như Ngài.
Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.
Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.
Sự thành công của Đức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.
Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy, chúng ta tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.
Đức Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất. Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.
Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ. Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn. Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng. Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.
Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt. Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn, để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.
Chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, nhưng lòng chúng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời. Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời, thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.
Chúng ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất: ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói và nhất là vấn đề xây dựng con người.
Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề. Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra, bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực. Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng, và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).
“Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1). Đừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.
Ước gì Chúa Giêsu, Đấng được đưa lên cao, kéo ta lên khỏi cái tầm thường ô trọc mỗi ngày.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tiền bạc, tiếng tăm, khoái lạc làm người ta nặng nề. Còn bạn, bạn thấy mình nặng nề vì điều gì? Có cách nào thoát được không?
Đời sống là một nỗ lực “bay lên cao” khỏi sức kéo xuống của vật chất và của cái tôi trì trệ. Có khi nào bạn được nhẹ nhàng mà bay lên khỏi sức kéo đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
- Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
- Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn những lời cuối cùng như một di chúc để lại cho các môn đệ thân thương, Người muốn các môn đệ của mình xác tín một điều: muốn được thông phần vinh quang với Người, họ phải chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, của thập giá. Chính Người đã đi trên con đường ấy trước và mời gọi họ bước theo: “Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”( Lc 24, 46). Thập giá là nơi duy nhất cho chúng ta thấy tình yêu vĩnh cữu của Thiên Chúa. Qua thập giá, Chúa Giêsu mở ra một con đường hạnh phúc thật, hạnh phúc bất diệt cho chúng ta. Và Người muốn những ai theo Người cũng được hưởng niềm hạnh phúc ấy.
“Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24, 49). Các tông đồ phải là chứng nhân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Là nhân chứng, các tông đồ không thể ngồi yên một chỗ mà phải ra đi, phải thắng vượt tính nhút nhát, phải hy sinh và can đảm hoàn thành sứ mạng làm chứng của mình, phải tuyên xưng niềm tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Các ông thi hành sứ mạng chứng nhân cho Đấng phục sinh là xây dựng thế giới yêu thương, công bằng xứng với trời mới đất mới mà Chúa Giêsu đã cứu chuộc. Các ông làm chứng về Người bằng một đời sống yêu thương phục vụ, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá như Người đã làm.
Như thế, Chúa Giêsu muốn các ông là cánh tay nối dài sứ mạng cứu độ của Người trong thế giới. Về trời không phải là Người không còn hiện diện nhưng Người vẫn hiện diện qua các tông đồ, qua Giáo Hội. Và sứ điệp ngày xưa Người trao cho các tông đồ thì ngày nay vẫn đang được thực hiện qua mỗi người chúng ta. Về trời nhưng chương trình cứu độ của Người vẫn phải được tiếp tục nơi thế gian này, qua Hội thánh, và qua mỗi người chúng ta. Sứ mạng cứu độ này cần phải được thực hiện bằng lời nói và bằng những hành động cụ thể bên ngoài.
Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện sống động giữa chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho mọi người sống chung quanh chúng ta và thế giới này nhận ra được sự hiện diện đó. Do đó, đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Người bằng đời sống Kitô hữu của mình. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng “cái có” của bản thân mình. Chúng ta phải có Người trong cuộc sống của mình, có kinh nghiệm và cảm nghiệm thực tế về Người trong đời sống mình, có đi lễ có đọc kinh, có rước lễ và nói chuyện thân tình với Chúa Giêsu Thánh Thể, có kinh nghiệm suy niệm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Hơn nữa, chúng ta phải có tình yêu Chúa trong cuộc sống được thể hiện qua những cử chỉ yêu thương, giúp đỡ, quan tâm đến tha nhân, chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, kinh nghiệm về bí tích hoà giải, kinh nghiệm cần lòng thương xót của Chúa,…Khi có Chúa trong lòng, khi chúng ta đã cảm nghiệm về Chúa, chúng ta dễ dàng đem Chúa đến cho thế giới, chia sẻ kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ thân mật và chân tình với Người cho thế giới, cho anh chị em chung quanh chúng ta. Đồng thời, chúng ta là muối, là men, là ánh sáng cho đời (Mt 5,13-16) nghĩa là cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một tấm gương phản chiếu được tình thương của Thiên Chúa đến với mọi người xung quanh. Mỗi người chúng ta phải là một dấu chỉ cho người khác. Chúng ta dù bé nhỏ nhưng sức mạnh đức tin của chúng ta là Chúa Thánh Thần sẽ bù lại cho tình trạnh mong manh của chúng ta. Được như thế, chúng ta đang làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh.
Sống mầu nhiệm Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quang mình. Sống chứng nhân là xây dựng nước trời ngay trong cuộc sống này, trong gia đình, trong họ đạo của chúng ta. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám bước theo Chúa, can đảm sống đức tin, chấp nhận hy sinh, dám sống yêu thương để làm chứng cho Chúa giữa mọi người để mai sau chúng con cũng được vào Nước Trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.
Truyện kể: Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách. Một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua, hỏi xem anh đọc gì? Anh đáp: Đọc Kinh Thánh. Nhà buôn cười cười nói: Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi! Người Phi Châu đáp: Nếu ở đây mà Kinh Thánh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi.
Kinh Thánh là lời mạc khải của Thiên Chúa ban cho con người. Đọc Kinh Thánh giúp cho chúng ta nhận biết về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa chọn lựa, cưu mang và phát triển là để đón nhận Đấng Cứu Thế. Sự hình thành của Kinh Thánh Cựu Ước kéo dài cả mấy ngàn năm đón chờ. Tuy dù dân tộc Do-thái được chuẩn bị cách rất cẩn thận qua Kinh Thánh mạc khải, qua các dấu chỉ và qua các lời tiên tri loan báo, nhưng nhiều người đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đấng mà cha ông bao năm mong chờ. Bởi lẽ các vị lãnh đạo tôn giáo như các Thượng tế, Thầy cả, Tư tế, Luật sĩ, Biệt phái, Nhóm Sađucêô và các Đầu mục, Kỳ lão đã dẫn dân đi lạc vào ngõ khác. Chúa Giêsu đã đến hoàn tất mọi lời Kinh Thánh loan báo về Ngài. Chúa đến không phải để hủy phá lề luật, nhưng làm cho nên trọn. Chúa Giêsu là phiến đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường. Ngài chính là cột trụ trung tâm duy nhất của mọi niềm tin.
Cuộc lữ hành trần thế của dân Do-thái tiến bước dần đến ơn cứu độ. Suy tư và não trạng chung của nhiều người vẫn còn bám víu vào những truyền thống và tục lệ cha ông. Vì thế, họ không dễ dàng mở cửa đón nhận những làn gió mới. Đạo Do-thái với những sinh hoạt tôn giáo, những hệ thống thần học, những luật lệ và những thực hành sống đạo đã ăn rễ sâu trong niềm tin. Một hệ thống tôn giáo quá nặng về phần tổ chức, sống vị luật và chú tâm hình thức. Tâm hồn họ dần rời xa cốt lõi của niềm tin là đời sống nội tâm. Nhiều người chỉ còn tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi miệng nhưng lòng họ lại rời xa. Chúa Giêsu xuất hiện như cai gai trước mắt nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời. Chúa công khai giảng dạy tại trung tâm tôn giáo ở Giêrusalem. Chúa đã gặp gỡ mọi thành phần trong dân và đối diện với các nhóm lãnh đạo chuyên biệt. Chúa Giêsu tìm đưa dẫn họ về với căn cốt của đạo. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Sống đạo nội tâm. Sống đạo trong yêu thương, bác ái và vâng phục.
Chúa Giêsu đến để rao giảng tin mừng cứu độ. Chúa mời gọi mọi người sám hối vì Nước Trời đã gần kề. Thời gian đã viên mãn. Chúa thực hiện một cuộc vượt qua mới trong tinh thần mới. Chiếc xe thời gian đã đến, ai không bước lên, sẽ bị tụt lại sau. Mặc dầu có nhiều sự chống đối và chối từ, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh hy sinh cứu độ. Chúa hiến thân chịu chết và đã sống lại. Chúa Phục Sinh đã trở thành niềm hy vọng tuyệt đối cho nhiều người. Có rất nhiều người cùng đồng hành chia sẻ với cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Chúa không dấu diếm hay lừa dối những người tin theo Chúa, nhưng Chúa đã báo trước những sự khó khăn, sự bách hại, xua đuổi và chịu hy sinh đau khổ. Qua thánh giá khổ đau mới có thể bước vào vinh quang sự sống. Stêphanô là hoa qủa đầu mùa của niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh đã lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Người ta thù ghét cả những người tin vào Chúa Kitô sống lại. Các nhà lãnh đạo tôn giáo là những người đầu tiên lên tiếng phủ nhận, phản đối và bách hại. Tác giả sách Tông Đồ công Vụ kể rằng trước khi bị ném đá cho chết, Stêphanô được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.”(Tđcv 7, 56). Stêphanô đã tuyên xưng đức tin một cách can đảm, dầu phải đối diện với sự đau khổ và sự chết kề bên. Ông đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Stêphano hiểu ý nghĩa lời dạy: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước trời là của họ. Nhưng những người đồng hương không thể chấp nhận một giáo lý mới của một người đã bị kết án tử hình: Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô (Tđcv 7, 57-58).
Stêphanô thấm nhuần Tin Mừng của Chúa: Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ (Tđcv 7, 60). Chúng ta biết máu của các vị thánh tử đạo là hạt giống ươm mầm đức tin. Thật vậy, sau cái chết của Stêphanô, ông Saolô đã được ơn trở lại. Saolô cùng đồng cảnh, đồng thuyền với nhóm đồng hương nhân danh đạo giáo để kết án ném đá Stêphanô. Chúa Giêsu phục sinh đã mở đường đưa dẫn ông Saulô trở về làm nhân chứng cho Ngài. Ông Saulô đã đổi đời và đổi tên thành tông đồ Phaolô. Phaolô trở thành một nhân chứng nhiệt thành. Không sợ gian nan, đau khổ và bách hại, ông đã sống chết cho niềm tin. Cả cuộc đời còn lại Phaolô đã không ngừng rao giảng Chúa Kitô phục sinh cho nhiều người. Ngài cũng đã chịu tử vì đạo và lấy máu đào chứng minh cho niềm tin sắt son.
Chúa Giêsu là kiên thuẫn, là đá tảng và là nơi nương náu cho những tâm hồn tìm kiếm Chúa. Chúa mời gọi mọi người lắng nghe và thực hành lời Chúa, họ sẽ được chia phần vinh quang hạnh phúc: Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một (Ga 17, 22). Chúa Giêsu yêu mến những người Chúa đã chọn và tất cả những ai thuộc về Chúa. Ngài muốn ấp ủ chúng ta như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Chúa đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24).
Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy sách tội xưa và cùng được tham dự vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là chỉ thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa trong một đoàn chiên theo một Chúa Chiên. Chúa cầu nguyện để mọi người nên một trong Chúa. Trở nên một trong ý nghĩa phổ quát. Không phải nên một với người này, người kia hay nhóm này, nhóm nọ. Chúng ta nên một với Chúa Kitô để cùng tôn thờ Thiên Chúa Cha. Chúng ta cùng chia sẻ một niềm cậy trông và một niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu ngày sau. Chúng ta tuyên xưng chỉ có một Chúa, một đức tin và một phép rửa. Chúng ta tin nhận Chúa Kitô: Là An-pha và Ômêga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22, 13).
Trong cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng có rất nhiều tổ chức các tôn giáo khác nhau. Tuy các tôn giáo có khác nhau về cơ cấu, tổ chức và thực hành sống đạo nhưng cùng quy hướng về sự tôn thờ một Thiên Chúa và hy vọng cuộc sống vĩnh cửu ngày sau. Chúa Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Con đường dẫn lối vào Nước Trời tuy hẹp nhưng Chúa Giêsu đã đi trước và mở lối đưa đường. Chúa Giêsu phán: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Chúa Kitô là trung tâm điểm qui tụ mọi niềm tin về một mối để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận hạt giống đức tin qua Bí tích Rửa Tội, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm sống niềm tin và hăng say làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)
Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: “Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô”. Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.
Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.
Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.
So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.
Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: “Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ”. Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: “Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.
Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.
Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.
Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.
Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.
Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.
Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.
Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con gnười toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, Chúa chúng ta lên Trời, chúng ta không làm trái đất rung động, nhưng hướng tâm hồn lên Đức Kitô và trông đợi Ngài đến như lời Ngài đã hứa trước khi về Trời, để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Tuy nhiên, cần phải biết rõ rằng lòng tự cao, tự đại, hà tiện, dâm ô là những thói hư tật xấu, tội lỗi lôi kéo, giam hãm chúng ta trong tội lỗi… Hãy hướng về Trời, hướng lòng lên thật cao, kết hợp với Chúa. Sự Phục sinh của Chúa là chính niềm hy vọng của chúng ta, sự kiện Chúa lên Trời là vinh quang của chúng ta. Vậy nếu chúng ta cử hành lễ Chúa về Trời với lòng trung thành và sùng kính, thánh thiện và đạo đức, chúng ta về Trời với Chúa và vươn tâm hồn lên tới Chúa.
* Phụng vụ Lời Chúa
– Tđcv 1, 1-11: Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta lên Trời
– Tv 47, 2: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng
– Êph 1, 17-23: Đức Kitô thống trị địa cầu
Hoặc – Êph 4, 1-13: (trừ Năm B)
Hoặc – Dt 9, 24-28 ou 10, 19-23: ( trừ Năm C)
– NĂM A – Mt 28, 16-20: Hãy đi giảng dạy muôn dân
– NĂM B – Mc 16, 15-20: Chúa Giêsu ban những lời cuối cùng cho các Tông Đồ
– NĂM C – Lc 24, 46-53: Những lời sau hết và sự lên Trời của Đức Giêsu
“Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Allelui ! Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”, Alleluia! Alleluia! Alleluia! “(Ca nhập Lễ trong ngày)
Hôm nay, Đức Kitô Phục sinh vinh quang và yêu dấu, Đấng sống lại từ trong cõi chết bởi quyền năng Thiên Chúa, sau khi đã được an táng trong mồ, tức là Đền thờ người Do thái phá hủy, kết thúc bốn mươi ngày thánh và trước sự kinh ngạc của các Tông Đồ, “đã được cất nhắc lên cao trước mắt các ông và một đám mây che khuất Ngài khỏi tầm nhìn các Tông Đồ” (Tđcv 1,9).
Hành động cuối cùng này của Chúa Giêsu có hai ý nghĩa. Trước hết, khi lên trời, Ngài mạc khải cách rõ ràng thần tính của Ngài: sau khi đã chu toàn sứ mạng của mình trên trần gian, nay Chúa trở về nơi mà từ đó Ngài đã đến trong thế gian, nơi đó là cung lòng Thiên Chúa Cha. Hơn nữa, Đức Giêsu về Trời cùng với nhân tính mà Ngài đã lãnh nhận và đã làm cho sống lại từ cỏi chết. Nhân tính đó là nhân tính của chúng ta, được thanh luyện, thần thiêng hoá, và được trở nên đời đời. Chúa về Trời mạc khải “ơn gọi cao cả nhất” của mỗi người: con người được gọi đến hưởng sự sống đời đời trong Nước Chúa, nước của tình thương, của ánh sáng và hòa bình.
Đức Kitô Phục sinh, với thời gian, bằng sự hiện diện của mình và các chứng từ cần thiết đã gia tăng niềm tin nơi con người vào Đấng sống lại. Cái chết của Chúa Kitô, trong thực tế, đã làm cho lòng trí các môn đệ rối bời. Tâm trí các ông nặng trĩu với nỗi buồn da diết khi chứng kiến Thầy bị đóng đinh, thở ngắn thờ dài và sau cùng là trút hơi thở cuối cùng, thân xác bất tỉnh, chết và mai táng trong mồ. Một sự thẫn thờ sinh ra từ sự thiếu lòng tin đã gieo vào tâm trí các các môn đệ. Cái chết đau thương trên thập giá đã làm các thánh Tông Đồ, các môn đệ Chúa và nhiều người khác run sợ khi tin vào Chúa phục sinh. Đức Kitô Phục sinh lên trời cao là chân lý hiển nhiên đã củng cổ niềm tin của các ông do nỗi buồn sâu thẳm và làm cho tâm hồn các ông tràn ngập niềm vui.
Thật tuyệt vời và khôn tả được nguyên nhân niềm vui của họ! Đức Giêsu về Trời ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang, báo trước quê hương chúng ta đích thực là quê Trời. Chúng ta là chi thể của Ngài, Đầu đã về Trời, đây là niềm hy vọng lớn lao cho cả thân xác. Khi lên trời, Đức Giêsu đã mở ra lại con đường dẫn về quê hương thật của chúng ta, là thiên đàng. Giờ đây, với sức mạnh Thánh Thần của Ngài, Ngài nâng đỡ chúng ta trong cuộc lữ hành hằng ngày trên trần gian.
Tất cả chúng ta cùng vui mừng với niềm vui thánh thiện và tạ ơn Ngài. Hôm nay, chúng ta không chỉ vững tin và nắm chắc thiêng đàng, mà còn cùng với Chúa Kitô tiến vào chốn Trời cao nhờ ơn khôn tả của Chúa Kitô, chúng ta có được hơn là chúng ta mất do sự thù ghét của ma quỷ.
Sau khi Chúa đã được cất nhắc lên Trời, các đồ đệ quy tụ lại với nhau trong lời cầu nguyện, ở phòng Tiệc Ly, cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu. (x. Tđcv 1,14), vừa cùng nhau khẩn xin Chúa Thánh Thần, Đấng có thể ban cho họ quyền năng để làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh (x. Lc 24,49; Tđcv 1,8). Ngày này, chúng ta hướng về Mẹ Maria là “Nữ Vương Thiên Đàng”, xin Mẹ bảo vệ gìn giữ Hội Thánh, cách riêng mỗi người chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền ban, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Đức Giêsu và với Mẹ vui hưởng tôn nhan Chúa muôn đời. Amen.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Dịp Lễ Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:
“Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: “Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất”.
Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa “Hãy ra khơi”, mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. “Hãy ra khơi” ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm. Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: “Tại sao các ông còn nhìn trời?”
Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. “Trời”, nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: “Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.”
Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: “Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em.”
Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.
Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này”.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đức Giêsu đã thuyết phục các tông đồ tin rằng Người đã sống lại. Chúa mở tâm trí cho các ông hiểu ý nghĩa Kinh Thánh và thấy mình đang đi vào kế hoạch liên tục của Thiên Chúa. Các ông sắp làm chứng cho Đấng được loan báo trong Kinh Thánh, Người đã thật sự sống với các ông cuộc đời dưới thế của Người và sắp tiếp tục công cuộc cứu độ qua Giáo Hội, đem lợi ích cho khắp thế giới. Các ông sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần đến hoàn tất sự hiểu biết của mình, như Đức Giêsu đã hứa. Lúc đó sẽ thấu hiểu ý nghĩa khổ nạn và Phục Sinh, hơn nữa sẽ khám phá Phúc Âm được dùng vào một công cuộc có tầm mức bao la đến chừng nào. Các ông sẽ không choáng váng tê liệt, sẽ thật sự trở nên tông đồ vì mặc lấy sức mạnh từ Trên ban cho. Chúng ta không ngạc nhiên đọc câu: Họ trở lại Giêrusalem, lòng mừng khôn xiết. Như vậy, chứng kiến Chúa lên trời, các môn đệ tuyệt nhiên không kinh ngạc, trái lại vui mừng vô hạn. Tại sao? Ví các ông chắc hẳn bắt đầu hiểu rõ bí nhiệm về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúng ta dừng lại để suy niệm về việc Chúa chúc lành và niềm hân hoan không giải thích được của các môn đệ.
1) Giơ tay, Chúa chúc lành cho họ.
Các môn đệ lãnh nhận chúc lành của Thày, coi đó là cử chỉ của Thiên Chúa kết thúc một sự hoàn tất và mở màn cho một sự bắt đầu. Hoàn tất, vì thời gian Chúa sống giữa thế gian đã chấm dứt. Chúa vào vinh quang của Chúa Cha. Tác động của Đức Giêsu hiện diện hữu hình không còn nữa, sắp chuyển sang một thể thức tác động khác, đồng thời các môn đệ bắt đầu một cuộc trông đợi. Chúc lành của Chúa làm dậy lên trong các môn đệ một nghị lực sắp lớn mạnh nảy nở. Cử chỉ Chúa giơ tay ban phép lành biểu hiện sức mạnh của sự sống, của lòng bác ái và một nghị lực tràn ngập tâm hồn các ông, sắp biến đổi và hướng dẫn các ông thành toàn bản ngã và sứ mạng. Một ví dụ thực tế: Chúng ta nhắc lại rằng chúc lành nhân danh Đức Kitô của linh mục chủ tế lúc Thánh Lễ hoàn tất, biểu hiện sự hoàn tất và sự phái đi. Chúng ta có nhiệm vụ hoàn tất trong đời sống thực tế ơn lành nhận được trong Thánh Lễ, và chúng ta được phái đi vào thế giới làm chứng cho Đức Kitô.
2) Các môn đệ vui mừng mặc dầu Đức Giêsu vừa biến đi trước mắt các ông.
Chúng ta chúng ta nghĩ rằng các ông được sinh ra trong tình yêu đích thật của Thày, các ông không hề nghĩ về thân phận mình theo tính ích kỷ thường tình, trái lại được vui mừng nhìn Thày đi vào vinh quang của Chúa Cha. Tuy nhiên cho dầu tình yêu đầy vị tha tới đâu thì cũng phải có sự hiện diện của Thày. Có thể các môn đệ làm một cuộc thí nghiệm mới về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúa về trời trở nên gần gụi các ông hơn trước. Chúa biểu lộ sự hiện diện trong quyền năng thần thánh của Người, Chúa đem Thần Khí vào tâm hồn các ông. Tới đây chúng ta thấy vai trò đức tin là cần thiết. Điều tốt là các môn đệ nay trở thành chứng nhân cho Chúa phải tham dự vào kinh nghiệm đức tin mà tất cả chúng ta đều phải có, một niềm tin trong hân hoan không giải thích được, trải qua mọi gian nan thử thách. Niềm tin ấy sinh ra một niềm trông cậy hân hoan hơn nữa, vì lẽ ngày Chúa lên trời sẽ đưa tới ngày chúng ta sẽ vô cùng hân hoan, Chúa ở đâu, chúng ta cũng sẽ ở đó.
Chúa Thăng Thiên: Mầu Nhiệm và Sự Kiện
Hôm nay chúng ta đọc hai trình thuật của Thánh Luca diễn tả cùng một thực tại: Chúa Giêsu Thăng Thiên.
Tuy nhiên, hai trình thuật này lại có nhiều điểm xem ra không dễ dung hòa với nhau, nhất là về phương diện lịch sử. Trong Tin Mừng (Lc 24,50-51), tác giả Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay buổi chiều ngày Phục Sinh. Nhưng trong Công Vụ Tông Đồ, ông lại xác định biến cố Thăng Thiên vào thời điểm kết thúc “40 ngày” (Cv 1,3). Tại sao lại có sự khác biệt đó?
Trong Tin Mừng Lc, biến cố Thăng Thiên là biến cố kết thúc sách Tin Mừng. Tác giả không cung cấp những yếu tố thời gian rõ ràng, nên nhiều người hiểu rằng ông kể lại biến cố đó như thể đã xảy ra ngay chiều ngày Phục Sinh và diễn ra trong một cách thức long trọng: Chúa Giêsu giơ tay chúc lành cho các đồ đệ, “và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Lc 24,51).
Trong Cv, điều Thánh Luca bận tâm và cố ý nhấn mạnh là công trình của Hội Thánh không được khởi sự chỉ với các đồ đệ của Chúa, mà là với chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính Người hiện ra với họ, đồng hành với họ, thăm viếng họ suốt 40 ngày. Do đó, công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh không phải là công trình của nhân loại, mà là công trình do chính Chúa Phục Sinh ấn định, khởi xướng, dẫn dắt. Vì thế, biến cố Thăng Thiên được đặt ở lúc kết thúc “40 ngày”.
Trình thuật trong sách Cv dài hơn và có nhiều chi tiết hơn trình thuật trong Lc: “Trong bốn mươi ngày, Đức Giêsu đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Người truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không? ” Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,3b-11).
Điểm đặc biệt đáng chú ý nhất trong trình thuật này là tác giả đã không sử dụng bất cứ một chi tiết ly kỳ nào để miêu tả chính biến cố Thăng Thiên, cũng không nói gì về tâm tình hay cảm xúc của những người chứng kiến. Trình thuật chỉ kể đơn giản rằng: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1,9). Đám mây quyên lấy Người, khiến cho không ai có thể kể lại là Người đã đi vào cõi Trời như thế nào. Rõ ràng tác giả cố tránh những chi tiết ly kỳ.
Điều này làm cho trình thuật khác hẳn tất cả những câu chuyện truyền kỳ và hoang đường đương thời. Tác giả không mô tả chính việc Đức Giêsu lên trời, cho bằng trách cứ thái độ của các đồ đệ cứ đăm đăm nhìn lên trời, phía Đức Giêsu đã đi. Đó là thái độ đặc trưng của những người mong cuộc tận thế sẽ mau xảy đến. Thánh Luca là một người công bố Tin Mừng. Điều ông quan tâm là giúp các tín hữu thời đại ông sống sứ mạng của họ theo thánh ý Thiên Chúa. Ông không bận tâm đến thái độ và phản ứng của các đồ đệ chứng kiến cuộc Thăng Thiên, mà chú ý đến việc Hội Thánh phải lấy lập trường đức tin như thế nào đối với mầu nhiệm Thăng Thiên và mầu nhiệm Cánh Chung. Điều chính yếu là lập trường căn bản mà Hội Thánh phải có đối với mầu nhiệm Cánh Chung. Vì thế, ông nhấn mạnh rằng Hội Thánh phải từ bỏ những sự tính toán ngày tháng (Cv 1,7), và phải tin rằng chính Đức Chúa, trong hiện tại của Hội Thánh, đang điều khiển lịch sử của thế giới và công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
Liên quan đến mầu nhiệm Thăng Thiên mà chúng ta cử hành hôm nay, cứ theo những gì Kinh Thánh trình bày, chúng ta có thể nói: đây là một thực tại có hai khía cạnh. Một bên là mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh vào trong cõi của Thiên Chúa một cách vô hình, còn bên kia là biến cố Người từ giã thế gian này một cách hữu hình. Khía cạnh thứ nhất trình bày cuộc tôn vinh Chúa Phục Sinh trên cõi trời, mang đậm chiều kích thần học, vượt quá giác quan và chỉ có thể chấp nhận nhờ lòng tin và nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Khía cạnh thứ hai là một sự kiện xảy ra trong lịch sử, thuộc phạm vi của những thực tại có thể kinh nghiệm được.
Khía cạnh thứ nhất, khía cạnh mầu nhiệm, là điều chính yếu và thuộc về nội dung căn bản của lòng tin. Còn việc Đức Giêsu chia tay các đồ đệ sau 40 ngày là một biến cố xảy đến như một ân huệ Thiên Chúa thương ban cho chúng ta vì bản tính yếu đuối của con người có giác quan. Vậy sự kiện xảy ra vào lúc kết thúc “40 ngày” không thể diễn tả trọn vẹn, đầy đủ và tương xứng chính mầu nhiệm đức tin thâm sâu vượt quá giác quan con người.
Chính vì thế, khi mô tả biến cố Thăng Thiên, cả trong Tin Mừng lẫn trong Cv, ta thấy Thánh Luca luôn cố ý giữ gìn một tâm tình kính cẩn trước mầu nhiệm. Ngài tránh mọi chi tiết mang tính huyền thoại, chỉ giữ lại ở mức tối thiểu những hình ảnh văn chương không thể không dùng để diễn tả mầu nhiệm. Để trình bày ý tưởng Đức Chúa Phục Sinh đã siêu vượt thế giới hư nát này và đi vào vinh quang Thiên Chúa, Kinh Thánh buộc phải dùng lối nói “lên trời”. Đó là hình ảnh có giá trị tượng trưng mà chúng ta buộc phải chấp nhận để diễn tả mầu nhiệm.
Vậy khi chúng ta nói Đức Giêsu lên trời, điểm cốt yếu phải tin là Chúa Kitô đã sống lại và siêu vượt khỏi cái thế giới tù túng, tội lụy, hay thay đổi và đầy đau thương này. Với thân xác phục sinh, Người đã đi vào một thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Thế giới đó là thế giới xác thực, thiêng liêng, mới mẻ và siêu việt. Chỉ trong thế giới đó mới có sự sống đích thực. Thế giới đó siêu việt (chứ không xa cách) thế giới chúng ta đang sống. Đó là một thế giới khác biệt hẳn về phương diện thực hữu, chứ không phải về phương diện không gian xa gần hay rộng hẹp. Chúng ta có thể “sờ đụng” vào thế giới đó trong lòng tin và nơi các bí tích cứu độ. Đó là một sự “tiếp cận” một thực tại mầu nhiệm nhưng đồng thời rất thật, rất gần, thật và gần hơn cả cái thế giới phàm tục mà ta đang sống đây.
Vì thế, nói theo một nghĩa nào đó, mầu nhiệm Thăng Thiên cũng chính là mầu nhiệm mà Hội Thánh đang mời gọi chúng ta sống hằng ngày, ngay trong cái hôm nay của cuộc đời chúng ta.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Khi con người chỉ biết nhìn xuống…
Người đàn bà có biệt danh là “bà lom khom” đã trở thành hình ảnh quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới những công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi mặt xuống đất để tìm nhặt những đồng tiền xu mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong các công viên. Người dân trong khu vực gọi bà là “bà-lom-khom” vì hình như mắt bà rất kém, phải khom gập người xuống mới có thể thấy được những đồng tiền rơi rớt đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập khá lớn, nên ngày nào bà cũng khom người đi nhặt như con kiến cần cù, như con ong kiên nhẫn nhất.
Vì lúc nào bà cũng cúi gằm xuống đất, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn xuống để tìm những đồng xu lẻ, dần hồi cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa.
Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền xu mà chẳng biết gì đến thế giới chung quanh!
* * *
Hình ảnh người đàn bà còng lưng trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà đánh mất thế giới thiêng liêng.
Với tầm nhìn hạn chế, con người chỉ thấy gần mà không thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống đời nầy mà lãng quên cuộc sống đời sau, chỉ biết vun quén của cải vật chất mà không lo làm giàu của cải thiêng liêng; chỉ biết kiếm tìm lạc thú trần gian mà lãng quên hạnh phúc đời đời… Họ chối bỏ Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!
Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất, họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của kiếp người. Cuộc đời của họ được thi hào Nguyễn Du diễn tả cách bi thương:
“Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”.
Như thế, đối với người không tin thì sống là hành trình tiến về ngôi mộ; còn đối với chúng ta, sống là hành trình tiến về thiên quốc.
Viễn tượng mới
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ hoang nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.
Như con ve chui lên khỏi đất, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất cao tiếng hát dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi hãy vượt lên trên thế giới vật chất, đập bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống đời sống mới.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta hướng về đích xa:
“Quê hương chúng ta ở trên trời” (Philip 3, 20)
Thế nên: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Col 3, 1-4)
Vậy chúng ta đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn. Phải dành ưu tiên cho linh hồn chúng ta, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Chỉ dán mặt xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời thì vô cùng tai hại.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có một truyền thuyết xưa kia kể lại rằng: Khi Đức Giêsu hoàn thành sứ mạng dưới thế, Ngài trở về trời và được Thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:
– Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?
Chúa Giêsu trả lời:
– Ta đã chọn 12 Tông đồ, một nhòm môn đệ và một vài phụ nữ. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thỏa mãn nên hỏi tiếp:
– Nhưng số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự trù nào khác không?
– Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên Ngài vẫn quả quyết:
– Đó là kế hoạch duy nhất Ta chọn. Ta không dự trù một kế hoạch nào khác cả. Ta tin tưởng vào họ.
Vâng, thưa anh chị em, mãi đến 20 thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn không thay đổi kế hoạch Ngài đã chọn. Các Tông đồ đã không làm Ngài thất vọng và cả đám dân được họ rao giảng Tin Mừng cũng đã không phụ lòng Ngài. Và hiện giờ Ngài đang tin tưởng vào chúng ta.
Thật vậy, trước khi từ giã các môn đệ ngài để trở về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các ông trọng trách rao giảng Tin Mừng của Ngài và đã hứa ban cho các ông được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thân: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Vì thế, các môn đệ đã trở về, lòng tràn ngập hân hoan. Đây chính là lúc phải bắt tay vào việc. Chính nhờ vào niềm tin và nỗi vui mừng nầy, các môn đệ đã hăng hái ra đi rao giảng Tin Mừng sau khi được lãnh nhận Thánh Thần. Các ông không còn sợ hãi của những ngày Chúa chịu chết, nhưng đầy sức mạnh để dám đương đầu với tất cả những khổ đau, những thương tích mà chính các ông không thể trốn tránh được. Quả thật, các môn đệ của Chúa Giêsu đã không phụ lòng Ngài.
Cha Mark Link, S.J đã sánh ví ngày lễ Thăng Thiên như một cuộc chuyền cây gậy từ vận động viên nầy sang vận động viên khác trong một cuộc chạy tiếp sức. Cách đây hơn 2000 năm, vào ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã chuyền cây gậy sứ mạng của Ngài cho Phêrô, Giacôbê và Gioan… đến lượt họ, họ đã chuyền cho những người tiếp theo sau, rồi những người nầy lại chuyền cây gậy ấy đến chúng ta. Và giờ đây đến lượt chúng ta lại phải chuyền gậy cho những người kế tiếp.
Thực tế mà nói, điều nấy có nghĩa gì? Sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng về Chúa Giêsu như các Tông đồ đã làm mang ý nghĩa gì? Đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Chúa Giêsu bằng đời sống Kitô hữu của mình. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi người. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Chúa Giêsu vào cuộc đời mình thì họ sẽ thay đổi được bộ mặt trái đất nầy thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.
Anh chị em thân mến, Sứ điệp của ngày lễ Thăng Thiên hôm nay đưa ra cho chúng ta sự thách thức trước trước niềm tin tưởng mà Chúa Giêsu đã đặt nơi mỗi người chúng ta:
“Anh em là muối đất… anh em là anh sáng trần gian…” (Mt 5, 13 -16). Là men, là muối, là ánh sáng cho đời, cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không làm cho Chúa Giêsu phải thất vọng.
Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống, để làm chứng cho Chúa, để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quanh mình. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa của mình.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đó đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Nhưng, nếu là thập giá có Đức Kitô sẽ là một hiến tế thánh thiện, một của lễ hy sinh mang lại ơn ích cho chính mình và cho tha nhân. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang u sầu vì lầm than cơ cực. Bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đang trao phó cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành thánh giá của hồng ân cứu độ. Thập giá làm chúng ta không vui. Thập giá làm chúng ta đau khổ. Nhưng chính nhờ những thập giá trong cuộc đời sẽ là nhịp cầu đưa tới tới bề bờ hạnh phúc vô biên.
Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy nói cho họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.
Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn cây dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu “Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.
Kinh Nghĩa Đức Tin mà chúng ta đọc mỗi ngày Chúa Nhật, là tóm kết tất cả những điều chúng ta phải tin và những việc chúng ta phải làm để thể hiện đức tin của chúng ta. Trong niềm tin đó có việc Chúa Giêsu chịu chết, sống lại, khỏi 40 ngày lên trời. Còn trong Kinh Tin Kính cũng có đoạn nói về sự việc này là Chúa Giêsu sống lại, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trong những tuần vừa qua, nếu có đi lễ ngày thường chúng ta sẽ được nghe diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu, có nghĩa là những lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài. Ngài cho các môn đệ biết là Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Cụ thể trong những bài đọc hôm nay cũng có nhắc đến việc Chúa Giêsu lên trời: “Nói xong Người được cất lên ngay trước mắt các ông”. Còn Tin Mừng Maccô trong Chúa Nhật năm B thì sẽ có tường thuật giống như sách Tông Đồ Công Vụ: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Vì thế việc Chúa Giêsu “lên trời” là một sự thật. Tuy nhiên Chúa Giêsu lên trời có phải là Ngài không còn ở với chúng ta nữa hay không? Chúng ta phải hiểu “lên trời” nghĩa là gì? Việc “lên trời” của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì trong cuộc sống chúng ta? Và cuối cùng là chúng ta phải làm gì khi nghe những lời sau cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời?
I/ BIẾN CỐ LÊN TRỜI CỦA CHÚA GIÊSU
1/ Lên trời nghĩa là gì?
Đức Kitô Phục Sinh đã vào trong vinh quang, đó là một tín điều. Nhưng đó còn là một mầu nhiệm vượt quá kinh nghiệm giác quan, và có lẽ không chỉ hạn hẹp nơi ngọn núi ở Galilê mà Chúa Giêsu hẹn gặp các môn đệ hôm nay. Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Tình trạng tốt đẹp, khá hơn thì gọi là “lên” (gặp một người làm ăn khá giả mình nói: “lúc này lên hương rồi hé!”). Tình trạng lùi lại, xấu hơn thì gọi là “xuống” (Lâu ngày gặp lại một người bạn ốm nhom, hốc hác, mình nói: “sao lúc này xuống dữ vậy!”). Ngày xưa khi Ngài nhập thế thì gọi là “xuống trần”. Hôm nay Ngài trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là “lên trời”. Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi, nhưng đó là tình trạng Ngài đã lấy lại vinh quang. Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta, vì Ngài đã nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Hiểu như vậy để chúng ta đừng nghĩ rằng Chúa Giêsu lên trời là Ngài rời bỏ chúng ta, không còn ở với chúng ta. Nhưng mừng lễ Chúa Giêsu lên trời là chúng ta mừng vinh quang của Chúa, mừng Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tuy nhiên Ngài không còn hiện diện một cách hữu hình với con người nữa, hay nói cách khác: xác phàm của con người không thể thấy được vinh quang của Đức Kitô Phục Sinh.
2/ Biến cố “lên trời” trong đời sống kitô hữu
Khi lần chuỗi với mầu nhiệm năm sự mừng, chúng ta đọc: “Thứ hai ĐGS lên trời. Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”. Thánh Phêrô thì khuyên các tín hữu của mình: “Nếu anh em sống lại làm một với Đức Kitô, thì anh em cũng phải tìm kiếm những thực tại cao siêu ở trên trời”. Còn trong Hiến Chế về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II thì xác quyết: “Giáo Hội trần thế là một cuộc lữ hành về quê hương trên trời”. Vì thế, tuy sống ở đời này, nhưng chúng ta phải lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau. Thánh tử đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh đã nói trước khi bị hành hình: “Thân xác tôi đây các ông muốn làm gì thì làm đi, nó sẽ chết nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang”. Không cần ở đâu xa, ngay tại họ đạo Tắc Sậy của Giáo Phận Cần Thơ cũng có một con người biết qu#ý trọng thực tại cao siêu ở trên trời nên đã sẵn sàng từ bỏ những thứ chóng qua ở đời này để đổi lấy hạnh phúc đời sau. Người đó không ai khác hơn là cha Px. Trương Bửu Diệp.
3/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu
Điểm thứ 3 mà chúng ta cần lưu ý qua biến cố Chúa Giêsu lên trời là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đây là mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không chọn Giêrusalem vừa là thủ đô, vừa là cái nôi của Kitô giáo để gặp gỡ các môn đệ, nhưng Ngài chọn Galilê là vùng đất bị người Dothái loại trừ, là biểu tượng của dân ngoại. Ngài không chọn vùng đồng bằng để tâm sự với các ông, nhưng lại chọn ngọn núi cao vốn là nơi mặc khải của Thiên Chúa, để từ nơi cao đó các ông sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh phải tỏa rạng vinh quang của Thiên Chúa. Vì vậy những lời sau cùng của Chúa Giêsu, cách thức gặp gỡ của Ngài muốn nhắc nhở các môn đệ sứ mạng truyền giáo, bằng cuộc sống tỏa sáng cho mọi người noi theo.
II/ CUỘC SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời với 3 sự thật về ý nghĩa của việc lên trời, về việc Chúa lên trời trong đời sống của người kitô hữu và mệnh lệnh truyền giáo của Chúa, chúng ta phải sống những điều đó như thế nào đây?
1/ Chúa lên trời nhưng vẫn ở với con người
Trước hết chúng ta đã biết lên trời là tình trạng vinh quang của Chúa Giêsu. Vì vậy nhờ vinh quang mà Ngài càng có thể ở cạnh con người, càng giúp đỡ con người một cách đắc lực hơn. Cho nên chúng ta hãy nhớ rằng Chúa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, để chúng ta sống là sống cho Chúa, sống trong Chúa và sống với Chúa. Mọi sự bất toàn nơi con người chúng ta là do không y thức sự hiện diện của Chúa. Nếu chúng ta biết và nhớ rằng Chúa luôn ở bên cạnh tôi thì làm sao chúng ta có thể làm những điều xấu được. Vì vậy làm sao để chúng ta ý thưc sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta đây? Chúng ta hãy dựa vào những phương thế siêu nhiên mà Chúa và Giáo Hội đã dạy chúng ta. Đó là năng đọc và suy niệm lời Chúa; lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Giải Tội; siêng năng lần chuỗi mân côi; đọc lời nguyện tắt, có nghĩa là chọn một câu nào đó mình thích để lặp đi lặp lại suốt ngày trong đời sống chúng ta. Ví dụ: “Lạy Chúa Giêsu xin thương xót con”, hay: “Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa”. Chúng ta hãy nhớ rằng tự sức chúng ta và những phương thế tự nhiên không thể nào thắng được ba thù: thế gian, ma quỷ và xác thịt đâu; chỉ có ơn Chúa và phương thế siêu nhiên mới có thể giúp sức cho chúng ta mà thôi.
2/ Hướng lòng lên trời
Từ việc Chúa lên trời cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa. Vì vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Chuẩn bị cho cuộc sống mai sau có nghĩa là chúng ta phải biết rằng cuộc sống này chỉ là tạm bợ, chóng qua, để chúng ta không bám víu vào mà chỉ lo tìm kiếm những thứ thuộc về đời này, những thứ mà Chúa Giêsu gọi là thuộc về thế gian. Đồng thời chúng ta phải sống thực tại Nước Trời ngay tại trần gian này. Mà thực tại Nước Trời là gì nếu không phải là tình yêu thương. Do đó dấu hiệu để chúng ta biết mình sống ở đời này mà có lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau hay không chính là việc chúng ta có thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống hay không.
3/ Thực hiện lệnh truyền giáo
Cuối cùng, chúng ta phải thực hiện di chúc của Chúa Giêsu, đó là “anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó cũng là ước nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu, muốn cho mọi người được vào Nước Trời với Chúa. Vì vậy bổn phận của chúng ta là phải đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa, hay còn gọi là truyền giáo. Truyền giáo là làm sao? Chúng ta khoan hãy nghĩ đến chuyện lôi kéo nhiều người vô đạo, làm sao cho càng có nhiều người được rửa tội càng tốt… đó là cách thức của việc truyền giáo. Nhưng trước hết chúng ta hãy nghĩ đến nội dung truyền giáo, có nghĩa là Tin Mừng mà chúng ta muốn truyền đạt là như thế nào; có hấp dẫn người ta mới theo, có đáng tin người ta mới vào. Điều đó đòi hỏi bản thân chúng ta trước hết phải cảm nhận được điều mình muốn truyền đạt. Mình phải cảm thấy niềm vui, hạnh phúc trong đời sống đạo thì mình nói người ta mới tin. Khi đã có nội dung của Tin Mừng rồi thì phần còn lại là cách chúng ta trình bày cho người khác bằng lời rao giảng, bằng cách sống đạo, bằng lời cầu nguyện… Lúc đó người ta tin chúng ta không phải vì lời rao giảng, không phải vì những việc chúng ta làm, nhưng vì hạnh phúc chúng ta đang cảm nhận, niềm vui chúng ta đang có, và hy vọng chúng ta đang mong chờ.
Tóm lại, Phụng Vụ Lời Chúa trong lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay cho chúng ta biết rằng việc lên trời của Ngài là trở lại tình trạng vinh quang thuở ban đầu, nên Ngài vẫn hiện diện và càng ở bên cạnh để ban ơn giúp sức cho chúng ta. Nhờ Chúa Giêsu lên trời mà chúng ta tuy sống ở đời này nhưng vẫn hướng lòng về trời cao để sống giá trị của Nước Trời ngay tại thế này để hy vọng một ngày nào đó cũng được về trời với Chúa. Cuối cùng vì niềm tin vào việc chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa nên chúng ta có bổn phận làm cho người khác cũng được vào Nước Trời, bằng cách phải cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì tôi là người kitô hữu, từ đó lời rao giảng của chúng ta mới có sức mạnh lôi kéo người khác. Lạy Chúa, xin cho con lòng ái mộ những sự cao siêu ở trên trời.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe đến tác phẩm “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Đây là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984.
Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần 60, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan.
Để sửa sai, Nam Tào đã cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ thân xác người khác, nhưng đáng tiếc, lại là một anh hàng thịt bặm trợn nên dần dần Trương Ba cũng mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Trương Ba đã đau xót thốt lên:
“Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát.”
Đôi khi chúng ta cũng từng có những trăn trở và giằng xé như Trương Ba, con người ta thực sự nằm ở đâu? Ý nghĩa cuộc sống của ta là gì? Ta là ai, một tâm hồn nho nhã của ông lão Trương Ba hay một ông Trương Ba thô lỗ ở hàng thịt?
Thực ra, cuộc sống là một hành trình. Một hành trình phải đi tới. Một hành trình đòi hỏi con người mình phải lột xác mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Có ai đó từng nói: “Khi con sâu bướm đến tuổi, nó bắt buộc phải lột xác, hình thành kén và hóa bướm, nếu không nó sẽ chết. Khi đại bàng 40 tuổi, nó bắt buộc phải chịu những đau đớn tột cùng của việc nhổ lông, cạy mỏ để bước sang tuổi mới, nếu không nó sẽ chết.”
Cuộc sống con người cũng phải luôn thay đổi, luôn thích nghi để mình nên hoàn thiện hơn. Con người luôn phải đấu tranh với cái thiện, cái ác để bảo vệ chân thiện mỹ trong cuộc đời của mình. Không ai sinh ra là đã hoàn thiện, mà phải nỗ lực vượt qua mọi cám dỗ, mọi thử thách để hoàn thiện chính mình.
Thay đổi là điều không thể tránh được trong đời – có khi đó là một việc bình thường nhưng cũng có lúc là sự mất mát. Có những thay đổi là chuyện tự nhiên, như sinh – lão – bệnh – tử của con người, nhưng cũng có những đổi thay gây ra nhiều thảm kịch như bệnh tật, tai nạn hay phá sản… Nhưng cũng giống như sự thay đổi suốt quá trình chuyển hoá diệu kỳ của loài sâu buớm trong lớp vỏ kén để trở thành một cánh bướm rực rỡ sắc màu, sự thay đổi chính là cơ hội để ta thoát khỏi giới hạn của kiếp người để hướng tới một đời sống siêu nhiên cao quý hơn.
Điều này đã xảy ra nơi Chúa Giêsu. Ngài sinh ra trong thân phận con người. Ngài cũng nỗ lực vượt lên trên mọi khó khăn, mọi gian khổ, kể cả cái chết để hoàn thành đời mình. Ngài đã hoàn thành kiếp người trong vâng phục thánh ý Chúa Cha để ngày nay Ngài được đổi mới hoàn toàn qua sự phục sinh vinh quang. Ngài đã chấp nhận đi qua cái đau của con kén để trở thành cánh bướm rạng rỡ trong vinh quang. Sự phục sinh của Ngài là phần thưởng cho những đau khổ thập giá mà Ngài trải qua.
Lễ Chúa về trời còn là lời khẳng định cho chúng ta về chuyến đi cuộc đời của Ngài. Ngài đã đi qua kiếp người. Ngài đã đi qua những bể dâu của cuộc đời để tiến vào quê trời, là nơi không còn khóc lóc, than van và đau khổ. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời không ngừng chọn theo thánh ý Chúa để từ khước những lời mời mọc của ma quỷ thật ngọt ngào, thật quyến rũ về danh lợi thú trần gian. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời dâng hiến để phục vụ tha nhân và phục vụ tin mừng Nước Trời. Ngài đã sống một cuộc đời như hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu mục nát để trổ sinh bông lúa vàng. Ngài đã đi đến cùng của việc xin vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu lời xin vâng cần phải thể hiện bằng chén đắng cuộc đời. Thế nên, Ngài đã được Chúa Cha ân thưởng và siêu thăng lên cõi trời. Ngài đã hoàn thành sứ mạng của mình tốt đẹp và nay về trời chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa Cha.
Đó cũng là con đường mà Chúa luôn mời gọi chúng ta bước theo. Đường thập giá tới vinh quang. Đường hẹp đưa ta vào cõi sống trường sinh. Đường tử bỏ những tham sân si để sống cao thượng và thanh thoát hơn. Đừng đam mê xác thịt. Đừng nuông chiều xác thịt. Hãy sống tiết độ. Hãy vác thập giá của bổn phận, của hy sinh phục vụ anh em để nhờ đó mà ta được đổi mới nên tốt hơn, nhất là được lột bỏ con người cũ để sống sự sống con người mới, con người của con cái sự sáng, ngõ hầu mai sau cũng được phục sinh với Chúa.
Cuộc đời là một hành trình. Hành trình tiến về Thiên quốc. Hành trình này không thể đạt được bằng sự dễ dãi, nuông chiều xác thịt. Hành trình này đòi phải hy sinh, phải phấn đấu mới mong đạt được. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhìn lên trời cao là đích điểm của mình để can đảm từ bỏ những đam mê tội lỗi trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta biết lột bỏ con người cũ cùng những tính hư nết xấu của mình để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa hơn, ngõ hầu mai sau cũng được về quê trời hưởng phúc vinh quang với Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vinc. Ngọc Biển)
Toàn Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, tức là lên trời. Việc Chúa lên trời, Ngài đã chấm dứt cuộc đời trần thế theo ý muốn của Chúa Cha.
Vậy, đâu là ý nghĩa của việc Chúa lên trời? Ngài lên trời có chấm dứt sự hiện diện trong Giáo Hội hay không? Trước khi lên trời, Chúa đã để lại cho Giáo Hội sứ mạng gì? Và, mỗi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng Thiên Quốc ra sao?
- Ý nghĩa của việc Chúa lên trời
Sự kiện Chúa Giêsu về trời cho chúng ta thấy: Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Đã chu toàn sứ mạng cứu độ con người qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại để làm chứng những lời Ngài đã loan báo. Và, hôm nay, Ngài lên trời để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng mai ngày cũng được về trời với Ngài như lời Ngài đã nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26).
Việc Chúa Giêsu lên trời cũng là lúc kết thúc những cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt và mở ra một cuộc gặp gỡ thiêng liêng, vượt lên trên không gian và thời gian. Sự kiện này không chấm dứt mọi hoạt động của Ngài trên trần gian. Nhưng qua đó, Chúa Giêsu hiện diện cách phổ quát: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, qua Giáo Hội, trong con người của các chứng nhân. Vì thế, Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, nhưng Ngài lại khai mở ra cho các Tông đồ và Giáo hội một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của việc loan báo và làm chứng về Đấng Phục Sinh.
- Sứ mạng của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời
Chúa Giêsu về trời, Ngài trao ban sứ mạng truyền giáo cho Giáo hội, khởi đi từ các Tông đồ. Lệnh truyền của Chúa Giêsu:”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15), để “muôn dân trở thành môn đệ”(Mt 28,19) phải là lời mời gọi, một lệnh truyền cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trước khi Chúa Giêsu về trời, về với Đấng là Cha đã sai mình đến trần gian, Ngài đã truyền lệnh cho các tông đồ: “Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian” (Ga 17,18; x. 20,21). Anh em hãy ra đi và loan báo về: “Đức Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24,46-47).
Khi Chúa đã lên trời, thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi, phải ra đi để đến với muôn dân như lời Ngài đã truyền. Các ông ra đi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Đấng đã chết và đã phục sinh. Vào Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Vào Đấng đã yêu thương con người, đã chết và đã sống lại vì hạnh phúc và phần rỗi của con người. Đấng ấy đã lên trời để đem lại niềm hy vọng cho những ai tin vào Ngài cũng được lên trời như các ông đã thấy Ngài lên trời.
Chính trong giây phút này, các ông nhận lãnh sứ mạng xây dựng Giáo Hội, một Giáo Hội có Thiên Chúa là Chủ và có nhau là anh em. Một Giáo Hội yêu thương, hiệp nhất. Một Giáo Hội công bằng văn minh.
Khi Ngài lên trời, Ngài đã giơ tay chúc lành cho các Tông đồ. Hành vi giơ tay được hiểu như là cử chỉ của sự trao ban bình an và đồng thời cũng là biểu hiện sự tin tưởng và trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho các Tông đồ.
Sứ mạng mà các ông lãnh nhận và tiếp nối nơi Thầy của mình không phải là một công việc dễ dàng. Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói” (Lc 10,3). Vì thế, “anh em hãy ở khôn như rắn và đơn sơ như chim bồ câu” (Mc 10,16b).
Khó khăn! Đúng vậy. Chẳng bao lâu, các ông đã bị vua Chúa, quan quyền truy nã vì loan báo về danh Chúa Giêsu… Vì thế, các Tông đồ phải chạy trốn hết thành này sang thành nọ. Hơn bao giờ hết, các ông thấm thía chân lý của hạt lúa gieo vào lòng đất. Chân lý ấy đã được Thầy của mình sống cách triệt để và mời gọi mình bước theo: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,24). Hiểu được điều đó, các ông đã không sợ bất cứ ai hay một thế lực nào làm cản trở công cuộc loan báo Tin Mừng. Quả thế, Thánh Phaolô đã nói: “Về bất cứ điều gì, đừng sợ những kẻ chống đối anh em: đó là dấu chỉ cho thấy họ sẽ bị hư vong, còn đối với anh em, thì lại là dấu chỉ ơn cứu độ. Điều ấy là ân huệ Thiên Chúa ban. Quả thế, nhờ Đức Kitô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục” (Pl 1,28-30). Cuối cùng, các ông đã không thể ngồi yên khi biết bao con người chưa nhận biết Chúa, nên lại một lần nữa, Phaolô diễn tả tâm trạng đó như sau: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
- Sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi chúng ta
Tiếp nối các Tông đồ, có biết bao nhiêu người đã lên đường, đến những nơi heo hút treo leo. Đã biết bao vị thừa sai bỏ lại mạng sống nơi rừng thiêng nước độc. Miễn sao Tin mừng được loan báo. Quả thật: việc truyền giáo hay loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô (x. Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16). Sứ mạng ấy bắt nguồn từ việc Chúa Cha đã trao cho Con của Ngài là Chúa Giêsu, và chính Ngài cũng trao phó cho các Tông đồ và cho mỗi chúng ta: “Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian” (Ga 17,18; x. 20,21).
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ từ nơi Ngài. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy ra khỏi sự ổn định, an toàn của bản thân và hãy lên đường loan báo Tin Mừng, dẫu biết rằng, công cuộc ấy chẳng mấy tốt đẹp theo kiểu con người suy nghĩ. Vì thế, Chúa Giêsu đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (Lc 21,17). Và “hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,29). Nhưng hãy học nơi các Tông đồ: càng bị sỉ nhục, bắt bớ và tù đày, các ông lại càng “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Bởi xác tín rằng “… trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33; x. Rm 8,35-37).
Lời loan báo của chúng ta vào Đức Giêsu phục sinh quả là một hành trình, đòi hỏi chúng ta phải là những người đã cảm nghiệm được về Đấng mà chúng ta loan báo: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48). Không ai lại đi loan báo về một người mà chúng ta không biết và không tin; hay loan báo vào những thời điểm hay một nhóm người nhất định trong một không gian cụ thể, mà là: “Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất” (x. Cv 1,8). Trong hành trình loan báo đó, dù gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng chúng ta tin tưởng vào sự bảo trở của Đấng mà Chúa Giêsu đã ban xuống trên các Tông đồ khi xưa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem và khắp cùng thế giới” (x. Cv 1,8).
Chúng ta mừng lễ Chúa lên trời, cũng là lúc một lần nữa chúng ta xác định về vai trò ngôn sứ và chứng nhân của mỗi chúng ta. Mong thay lời bài hát “Đẹp Thay” của Linh mục Nhạc sĩ Mi Trầm lại một lần nữa được vang lên trên môi miệng những ngôn sứ của Lời trong xã hội hôm nay: Đẹp thay những bước chân gieo mầm cứu rỗi. Đẹp thay những bước chân rảo khắp nẻo đường. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vui sướng. Ai gieo trong nước mắt, sẽ về trong tiếng cười. Ôi đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới, loan tình thương Chúa Trời, loan niềm vuii cứu đời, cho mọi người và mọi nơi.
Để kết thúc, xin cũng mượn lời của Đức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận trong tác phẩm Đường Hy Vọng của ngài, khi nói về những khó khăn mà người môn đệ của Chúa Giêsu sẽ phải chịu trên con đường loan báo Tin Mừng; đồng thời cũng xác tín mạnh mẽ những ân ban cho những ai trung thành đến cùng trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ngài nói: “Con run sợ: vấp ngã, khó khăn, hiểu lầm, công kích, sỉ nhục, tử hình… Con quên Phúc Âm sao? Chúa Giêsu đã chịu tất cả. Cứ theo Ngài con sẽ Phục Sinh” (ĐHV số 44).
Lạy Chúa, hôm nay Chúa về trời, Chúa đã chúc lành cho các Tông đồ và cũng cho tất cả mỗi người chúng con là những người tin Chúa; đồng thời Chúa cũng trao phó cho các ngài và Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin Chúa cho mỗi chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi làm chứng cho Chúa trong lòng xã hội hôm nay dầu có phải chịu đau khổ, thử thách. Amen.
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. HIỆN DIỆN VÀ VẮNG MẶT
Vào ngày Lễ Thăng Thiên, Đức Giêsu đã rút lại sự hiện diện thể lý của Người đối với các môn đệ. Nhưng sự vắng mặt thể lý ấy không có nghĩa là chấm dứt sự hiện diện. Sự thăng thiên của Đức Giêsu là sự giải phóng của Người khỏi mọi giới hạn của thời gian và không gian. Nó không thể hiện vận động của Người trên mặt đất, nhưng sự hiện diện thường xuyên của Người ở mọi nơi trên trái đất.
Sự hiện diện thể chất không phải là tất cả. Thật vậy, một đôi khi, sự hiện diện có thể đạt được bằng con đường hiệp thông mật thiết. Trong đời sống chúng ta gặp nhiều nỗi thất vọng bởi sự kiện, sự gặp gỡ và tiếp xúc không phải lúc nào cũng tạo ra sự thân mật, gần gũi mà chúng ta tìm kiếm. Hai người có gần gũi nhau về mặt thể chất thế nhưng cuộc sống vẫn xa cách, cô đơn. Bởi lẽ không có sự gặp gỡ trong trí óc và tâm hồn. Họ giống như những vỏ sò trên bãi biển.
Mặt khác, người ta có thể rất gần nhau dù xa cách nhau hàng ngàn dặm. Đối với những người cùng nhau lớn lên, trưởng thành phải có những thời kỳ vắng mặt và hiện diện. Khi vắng mặt, chúng ta nhìn nhau bằng một phương thế mới mẻ. Chúng ta bớt bực bội nhau vì những cung cách bên ngoài, và có thể thừa nhận giá trị thật của nhau tốt hơn.
Nếu chúng ta có thể hiện diện trọn vẹn với bạn hữu khi chúng ta ở với họ thì sự vắng mặt của chúng ta cũng sẽ mang lại kết quả. Khi hồi tưởng sự hiện diện nồng nàn ấy hơi ấm của nó sẽ tiếp tục nuôi dưỡng người kia. Vì thế, không chỉ sự hiện diện của chúng ta mà cả sự vắng mặt của chúng ta cũng đem lại nhiều ơn ích.
Khi chúng ta nghĩ đến nhau trong sự yêu thương, một dây liên kết tinh thần hình thành ở giữa chúng ta và chúng ta bước vào một sự thân mật mới. Đối với những người yêu thương nhau, không có chỗ dành cho sự “xa cách”.
Đức Giêsu lên trời không phải là một cuộc hành trình ra ngoài không gian, nhưng là một cuộc hành trình về nhà, chúng ta không nên nghĩ rằng trước đó Người sống trên mặt đất, còn giờ đây Người lại trở lại nơi thật sự thuộc về Người. Nếu như thế thì Kitô giáo không hơn một tôn giáo của sự hoài niệm, hồi tưởng. Đức Giêsu đã về với Chúa Cha. Trong suốt sứ vụ ở trần gian, Người chỉ có thể ở một nơi và trong một thời gian. Nhưng giờ đây, Người đã hiệp nhất với Thiên Chúa, Người hiện diện bất cứ nơi nào Thiên Chúa hiện diện, có nghĩa là ở khắp mọi nơi.
Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu điều ấy rất rõ. Họ biết rằng Đức Giêsu vẫn ở với họ, cho dù không cùng một cách thức như trước đây. Họ tin rằng Người vẫn chia sẻ đời sống với họ, và cái chết có nghĩa là được hiệp nhất với Người trong vinh quang mãi mãi.
Tuy nhiên khi nhìn lại, chúng ta cũng thèm muốn được như những người có may mắn nhìn thấy Chúa Phục Sinh bằng chính mắt mình. Nhưng Tin Mừng cho biết những người ở trong tình huống đáng ao ước ấy đã không thật sự nhận ra Đức Giêsu cho tới lúc Người dẫn giải Kinh Thánh và bẻ bánh.
Là những Kitô hữu hôm nay, chúng ta cũng có những phương tiện như thế để nhận ra Chúa: Kinh Thánh và việc bẻ bánh. Về vấn đề gặp gỡ Đức Giêsu bằng đức tin, thế hệ đã qua không có nhiều đặc quyền hơn thế hệ hiện tại.
Đức Giêsu đã tín nhiệm các Tông đồ (và giờ đây tín nhiệm chúng ta) để Tin Mừng bảo đảm được rao giảng và được sống. Người cần chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Người trong thế gian.
Suy Niệm 2. NHÂN CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ
Trước khi rời xa các tông đồ, Đức Giêsu đã uỷ thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Để giúp họ thi hành sứ vụ ấy. Người hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cùng họ. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Người đã hoàn thành lời hứa ấy.
Nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới hiện nay tuỳ thuộc vào chúng ta. Chúng ta là những nhân chứng của Đức Kitô. Đó là một đặc ân to lớn nhưng là một nhiệm vụ luôn làm người ta chán nản. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể cậy đến sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta phải làm chứng như thế nào?
Có sự làm chứng bằng lời nói. Chúng ta làm chứng bằng việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Điều này có thể bao gồm việc giải thích đức tin và bảo vệ đức tin.
Có sự làm chứng bằng việc làm. Một cây táo không bao giờ cho trái táo sẽ là một chứng tá nghèo nàn đối với vườn cây ăn trái. Dù chỉ trái táo ngon cũng nói lên được một điều gì đó. “Chớ vao giờ khuyên bảo một điều gì mà bạn không thể làm gương về điều đó” (Thoreau).
Rồi có sự làm chứng bằng đời sống của mình. Cây cối làm chứng cho sự sống bằng chính sự hiện hữu của nó. Cao, thẳng, bất độn, chúng là những chứng tá im lặng nhưng hùng hồn của đời sống. Bông hoa làm chứng về cái đẹp đơn giản bởi vẻ đẹp phong phú của chúng. Và những Kitô hữu làm chứng bằng đời sống của họ. Bài giảng thuyết hùng hồn nhất là bài giảng thuyết thinh lặng bằng gương sáng. Ngày nay, người ta không còn muốn nghe những bài giảng về đức tin. Họ muốn nhìn thấy Tin Mừng trong hành động.
Sự làm chứng bằng đời sống của một Kitô hữu còn mạnh mẽ hơn bất cứ lý luận nào. Có những người mà đời sống của họ toả sáng chứng cứ về quyền năng biến đổi của đức tin. Trong đời sống của họ, đức tin là một ngọn lửa sáng, giữa đời sống của những người khác, đức tin là một ánh sáng lờ mờ hoặc một tia lửa bất chợt. Dù có mọi giới hạn và khuyết điểm của con người, nếu một người sống đơn sơ, lấy Đức Kitô làm mẫu mực thì người ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa và về những thực tại siêu việt.
Chứng tá của Tin Mừng mà thế giới cho rằng có thể kêu gọi người ta nhiều nhất là sự quan tâm đến con người, là việc làm bác ái hướng về người nghèo, người yếu đuối và người chịu đau khổ. Sự quảng đại được nhấn mạnh trong thái độ và các hành động đó nổi lên sự tương phản với tình vị kỷ của con người. Nó đưa ra những vấn đề chính xác dẫn đưa người ta đến với Thiên Chúa và đến với Tin Mừng. Một cam kết với hoà bình, công lý, nhân quyền là một sự làm chứng cho Tin Mừng.
Có một cấp độ thứ tư của việc làm chứng, đó là làm chứng với cái chết của mình. Nhưng điều này không đòi hỏi mọi người hoặc ban cho mọi người. Đây không phải là con đường êm ái và dễ dàng, nhưng là một con đường đòi hỏi một tính kiên trì, sức mạnh và lòng can đảm đặc biệt.
Thế giới ngày nay có một sự khao khát mãnh liệt Đức Kitô của Tin Mừng. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: “Anh em hãy ở lại thành đô, cho đến lúc mặc lấy quyền năng từ trên cao”. Quyền năng nói ở đây là quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần có chính quyền năng này, nếu chúng ta làm chứng cho Đức Giêsu. Và ai làm chứng sẽ chia sẻ vinh quang của Người.
CÂU CHUYỆN KHÁC.
Ngày xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông đều yêu thương các con, ông vẫn có một tình thương dịu dàng với đứa con áp út tên Giuse. Những người con khác ganh tỵ với Giuse và quyết định giết anh. Tuy nhiên, vào giây phút cuối cùng, họ đổi ý. Thay vì giết em, họ bán em cho những thương gia đi ngang qua đó, họ nói với cha họ rằng người em đã bị thú giết chết.
Giuse bị xích lại và đưa sang Ai Cập, ở đó ông được bán như một người nô lệ. Ông có một đời sống cùng cực, hèn kém. Dsư5 việc còn tệ hơn, khi ông bị vu khống và bị giam vào ngục tối. Dù xung quanh là những tội phạm cứng lòng, ông vẫn tiếp tục tín nhiệm vào Thiên Chúa và sống một đời sống tốt. Ông cũng làm bạn với các tội phạm. Cuối cùng ông làm rạng danh ông và được tha.
Lúc đó, như thấy trước nạn đói khủng khiếp sẽ đến, ông đã cảnh báo nhà vua phải truyền lệnh cho dân tiết kiệm ngũ cốc. Nhà vua không chỉ theo lời khuyên của ông mà còn đặt ông làm quản lý công việc. Giuse đã hoàn thành công việc một cách xuất sắc.
Nạn đói đã xảy ra như dự kiến và dân chúng có thể lấy lúa gạo tích trữ ra dùng. Nhưng trong các nước láng giềng, tình trạng trở nên tồi tệ. Dân chúng các nước kéo nhau về Ai Cập để tìm mua ngũ cốc. Và nhà vua nói với họ: “Hãy đến gặp Giuse”.
Một ngày kia, anh em của Giuse đã đến Ai Cập để mua ngũ cốc. Khi họ nhận ra ông họ run sợ. Nhưng thay vì trả thù, Giuse đã tiếp đãi tử tế, và cho họ đầy đủ ngũ cốc mà họ cần. Ông nói với họ hãy trở về nhà và đưa cha họ đi theo họ trở lại Ai Cập cho ông gặp.
Người cha già rất đỗi vui mừng khi nghe nói rằng đứa con trai thân yêu của ông vẫn còn sống. Các anh của Giuse đã phạm phải một hành động ác độc chống lại ông. Nhưng qua đó, điều tốt lành đã đến với ông. Ông có thể cứu các anh mình khỏi nạn đói và làm cho cho cả nhà được đoàn tụ.
Câu chuyện của Giuse là một trong những câu chuyện cao cả nhất của Kinh Thánh. Ông Giuse là hình ảnh của Đức Giêsu, Chúa Con yêu dấu của Chúa Cha, đã bị anh em Người bán đi, bị giết chết, nhưng giờ đây đã được Chúa Cha cho sống lại và đặt Người ở bên hữu Chúa Cha trong vinh quang. Từ vị trí cao trọng ấy, Người cứu chuộc chúng ta, anh chị em của Người khỏi tội lỗi và cái chết đời đời. Và Người tìm kiếm để quy tụ mọi thành phần còn tản lạc của gia đình Thiên Chúa.
Ngày hôm nay chúng ta cử hành sự thăng thiên của Đức Giêsu. Người lên trờ ngự bên hữu Chúa Cha. Đây là một ngày vui vẻ. Nhưng Người đã cho chúng ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Không phải là phân phát ngũ cốc, nhưng là rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.
Trong điền kinh có môn chạy tiếp sức. Người thứ nhất cầm gậy chạy một đoạn quy định, chạy đến người đồng đội của mình trao cây gậy đó cho đồng đội của mình để chạy tiếp và cứ như thế cho đến hết số người quy định.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Chúa Thăng Thiên là làm sao? Có phải Chúa bay về vùng trời cao xa, Chúa bay về thiên quốc … Không phải như thế đâu. Chúa Thăng Thiên tức là Chúa chấm dứt sự hiện diện hữu hình tại thế của Người. Chúa Thăng Thiên nhưng Chúa không bỏ mặc các môn đệ mồ côi nhưng Ngài hứa “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” . Đoạn Tin Mừng theo thánh Luca mà chúng ta được đọc hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra và minh chứng chính Ngài là chứng mà Kinh Thánh đã tiên báo và kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng về những điều đó. Muốn làm chứng điều đòi hỏi đầu tiên là người đó phải là người chứng kiến, phải cảm nhận tức là họ phải tin chắc chắn đó là thật thì mới dám làm chứng. Nhưng ở đây làm chứng cho Chúa Phục Sinh còn đòi hỏi một yếu tố quan trọng hơn đó chính là sức mạnh, quyền năng từ trời cao ban xuống.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại nhiều lần Chúa đã hiện ra với các môn đệ để minh chứng rằng chính Ngài là Đấng đã chịu đau khổ, đã chịu chết, và nay đã sống lại. Các môn đệ đã tận mắt chứng kiến và hôm nay các ông được mời gọi làm chứng cho điều đó. Chúa Giêsu đã làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và hôm nay trọng trách đó, “cây gậy tình yêu” đó được chuyển giao lại cho các môn đệ để các ông làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa cho con người được thể hiện qua tình yêu tự hiến, qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Chúa Thăng Thiên, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng của Ngài và Ngài chuyển giao sứ mạng đó cho mỗi người chúng ta. Đối với chúng ta niềm vui Chúa Phục Sinh của Chúa Giêsu có là một niềm vui trọng đại nào không? Sự phục sinh của Chúa Giêsu có mang lại cho chúng ta chút ý nghĩa nào không? Sự phục sinh của Chúa Giêsu là một niềm vui lớn lao cho cả nhân loại, không riêng gì chúng ta. Chúa phục sinh tức Chúa đã chiến thắng cái chết với thân xác phải chết của chúng ta qua sự vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Qua cái chết của Chúa Giêsu còn thể hiện một tình yêu bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngay Con Một mà Chúa cũng chẳng từ mà ban cho chúng ta thì thử hỏi Chúa còn tiếc gì đối với chúng ta nữa, thánh Phaolô đã nói “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân”, chúng ta không đáng yêu chút nào nhưng tình yêu của Thiên Chúa bao trùm lấy chúng ta. Qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ tình yêu của Chúa cho chúng ta bây giờ chỉ còn việc ta sẽ đáp lại tình yêu đó như thế nào, và sẽ loan báo tin vui đó ra sao. Nếu chúng ta tin rằng Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta thì sao chúng ta chưa biết tạ ơn Chúa, chúng ta chưa cảm tạ Chúa trong từng ngày sống của chúng ta, chúng ta chưa phó thác mọi sự cho Chúa. Phó thác không phải là buông xuôi nhưng là thực hiện hết khả năng của mình trong sự tin tưởng vào Thiên Chúa. Chúa Giêsu chiến thắng khi Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Chúa để cũng được chiến thắng như Chúa Giêsu. Nghe tiếng Chúa qua việc siêng năng cầu nguyện, qua việc học hỏi thánh Kinh, qua việc tham dự Thánh Lễ, lãnh nhận các bí tích nhất là Bí Tích Thánh Thể … nghe tiếng Chúa để thi hành ý Chúa.
Chúa Thăng Thiên nhưng các môn đệ không buồn sầu thảm não như hôm Thầy bị bắt nhưng lòng các ông đầy hân hoan vì các ông biết rằng từ nay không được thấy Thầy mình hiện diện khả giác nữa nhưng các ông cảm nhận được sự hiện diện ấy bằng niềm tin. Trong niềm tin các ông cùng nhau hiệp nhất, cầu nguyện, chính trong niềm tin Chúa Phục sinh mà các ông gắn bó hơn với Chúa và gắn bó hơn với nhau. Mọi người Kitô hữu chúng ta cũng hãy biết gắn bó với nhau, hiệp nhất nhau trong lời cầu nguyện, hiệp nhất nhau trong Thánh Lễ, và chắc chắn khi đó sẽ cảm nhận được sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô.
Hôm nay Chúa Thăng Thiên mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Giáo hội, kỷ nguyên của chính chúng ta. Chúng ta hãy làm chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa đã cho chúng ta tất cả kể cả Con yêu Dấu của Ngài bằng một đời sống vui tươi, cảm tạ, một mối tương quan bác ái, huynh đệ đối với mọi người chung quanh để làm sao thể hiện một con người được cứu độ, được Thiên Chúa yêu thương và loan báo tình yêu thương đó cho mọi người.
Người ta nói khi yêu không thể giấu được: một anh chàng hay một cô nàng đột nhiên ca hát, hớn hở, rất linh hoạt, rất cởi mở, vui tươi, yêu đời … thì người ta có thể đoán anh chàng hay cô nàng đó đang yêu.
Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta sẽ tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trao phó là loan báo tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta bằng một đời sống như thế.
Ý nghĩa Phục sinh
‘Đức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, rồi phải nhân danh Ngài rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi từ Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ là Đấng mà lề luật, các tiên tri và thánh vịnh đã hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái gì khác hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về việc cứu độ của Thiên Chúa. Được phác hoạ trong Cựu ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi sách thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh. Và kết quả riêng tức ý nghĩa sâu xa nhất là sự thứ tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của ơn cứu độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được diễn tả qua những lời đó. Hy sinh thập giá là hy tế đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất hy tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel cũng như cho cả nhân loại.
Loan báo Phục sinh
‘Các anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ biến cố ấy thành lịch sử. Và lịch sử đó không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh, của một vị Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về sự kiện ấy. Đó là làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng được như vậy, con người phải đón nhận sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp sai đến trên anh em, điều Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa Kitô là nội dung chính cốt của sứ điệp Kitô giáo qua các lời giảng dạy của các tông đồ cũng như qua sách công vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy, tất cả đều phai nhoà đi hết. Việc rao giảng Kitô giáo không phải là trình bày các qui luật luân lý, giảng giải các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy trước hết là một khẳng định rõ về cái chết và sự Phục sinh của Chúa, vì đó là những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.
TỪ BIỆT
Đây là lần cuối cùng Chúa Giêsu ở giữa các tông đồ. Ngài ở giữa họ để nói lên lời từ biệt. Sự việc xảy ra gần Bêtania ở cửa thành thánh. Thánh Luca trình bày sự kiện này hết sức ngắn gọn, nhưng Ngài sẽ trở lại vấn đề trong chương Tin mừng sách Công Vụ với nhiều chi tiết hơn là ở đây, khi nói đến việc Chúa về Trời. Theo Tin mừng ta thâý việc kết thúc sứ vụ loan báo Tin mừng
- Đức Kitô
Chúng ta được biết Đức Kitô từ biệt các tông đồ đang khi các Ngài chúc lành cho họ. Ngài không còn giảng dạy và ra lệnh gì nữa. Mọi cái mờ ám đều biến dạng. Cho dầu cuộc khổ nạn, việc Phêrô chối Chúa, sự nghi ngờ Chúa sống lại và sự phập phồng sau lần hiện ra cuối cùng. Mọi sự đều được sáng tỏ. Tất cả đều kết thúc tốt đẹp bằng phúc lành của Chúa, Đấng sẽ ban cho họ sinh lực để sống dù Ngài không còn hiện diện trước mắt nữa, và để họ hành động và tiếp tục sự nghiệp, họ sẽ giữ kỷ niệm sống động, việc Thày chúc lành.
Chúa lên trời chẳng qua là sự Người trở về cùng Chúa Cha và được biến hình cả thể xác lẫn tình thần, việc Chúa lên trời đó đối với các môn đệ cũng là một dấu chỉ tối cao về việc Ngài trở lại và nhờ đó, các ông cũng được lên trời. Từ giờ đó, họ biết rằng đời họ là một cuộc hành trình tiến về ánh sáng và bất chấp mọi trở ngại của cuộc sống trần gian cũng như quân thù bách hại, mọi chuyện sẽ hoàn tất trong ánh sáng của sự biến hình.
- Các tông đồ
Họ quì gối xuống và thờ lạy. Họ không còn u tối, sợ sệt, phập phồng, hồ nghi gì nữa. Vì thế họ tin kính thờ lạy. Việc Ngài Phục sinh và lên trời chứng minh rõ ràng cho họ biết nguồn gốc cũng như bản tính Thiên Chúa của Ngài và Ngài được cất nhắc lên ngự bên hữu Chúa Cha. Thờ lạy, thán phục chỉ là cách thức nói lên sự hân hoan của họ. ‘Rồi họ trở lại Giêrusalem, vui mừng khôn xiết, và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa’. Tin mừng kết thúc trong niềm hoan lạc, việc Chúa trở lại ‘uy nghi’ cho các tông đồ có cơ hội tôn vinh Ngài. Khi nhìn lại, khi nhớ đến lời truyền tin cho Giacaria và Đức Maria, khi nhớ lại các sứ điệp các thiên thần gởi cho các mục tử, nhớ đến việc dâng Chúa trong Đền thờ, rồi ơn kêu gọi riêng họ, việc họ thông dự vào quyền giảng dạy và làm các phép lạ của Chúa, từ đây họ hiểu rằng mọi sức đối kháng của thù địch đều không làm gì được và qua cuộc khổ nạn và thập giá Chúa, sự đối kháng ấy cũng góp phần vào việc đặt nền cho hoạt động cứu thế đúng nghĩa, cho hy tế cứu chuộc để cứu rỗi thế giới, sau cùng họ thấy rằng Chúa biến hình, từ đây không còn khổ đau nữa, thì họ chỉ còn biết tạ ơn Thiên Chúa với lòng thành tín khôn tả. Kế hoạch Ngài đã thực hiện, sự nghiệp Ngài đã hoàn thành, vinh quang Ngài đã tỏ hiện cho loài người. chính Thánh Luca đã kết thúc Tin mừng của ông bằng thánh thi ngợi khen vậy.
Cách đây mấy ngàn năm, khi khoa học về vũ trụ chưa được phát triển, dân Do Thái cũng như những dân tộc vùng cận đông thường có một cái nhìn đơn sơ về vũ trụ. Họ coi trái đất là như một chiếc mâm, chung quanh đất là biển, dưới lòng đất là âm phủ, nơi ở của những người đã khuất. Còn bầu trời là như cái lồng bàn úp lên trên đất và biển. Trên chiếc lồng bàn này có nhiều thứ kho: kho nước, kho mây, kho gió, kho tuyết, kho sương mù. Mỗi khi Thiên Chúa mở cửa những kho này là chúng ta lập tức sẽ có những hiện tượng thiên nhiên tương ứng.
Vòm trời cũng là nơi Ngài treo các vì tinh tú để soi sáng cho mặt đất. Thiên Chúa ngự trên chốn trời cao cùng với các thiên thần. Vậy khi nói Chúa Giêsu được đưa lên trời, thì có nghiã là Ngài được đưa vào thế giới của Thiên Chúa. Ngài được tôn vinh bên Chúa Cha, sau khi đã hoàn tất công trình cứu độ nhân loại.
Đối với chúng ta thì hơi khác một chút. Điều cốt lõi của biến cố Chúa về trời không phải là chuyện Chúa đã bay lên, thoát khỏi sức hút của trái đất, mà là mầu nhiệm Ngài được Chúa Cha nâng dậy từ cõi chết và đưa vào chung hưởng vinh quang bên Chúa Cha. Nơi ở của Thiên Chúa là thiên đàng. Nhưng thiên đàng ở đây, chúng ta không được rõ. Toan tính đi tìm thiên đàng bằng một con tàu vũ trụ điều đó chỉ đưa đến thất vọng và chứng tỏ một thái độ ấu trĩ, vì thiên đàng nằm ngoài khả năng cảm nhận của giác quan, như lời thánh Phaolô: Tai chưa hề nghe, mũi chưa hề ngửi và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa dành cho những người trung thành phụng sự Ngài. Chúng ta không thấy thiên đàng nhưng thiên đàng còn có thực hơn cả vũ trụ hữu hình này, bởi vì thế giới của con người sống nhờ vào thế giới của Thiên Chúa.
Mặc dù Chúa đã về trời nhưng Ngài vẫn còn ở lại với chúng ta luôn mãi; bởi vì lên trời không phải là đi vào một thế giới xa lạ với thế giới loài người và cắt đứt mọi liên hệ với trần thế… Tuy chúng ta không còn thấy Ngài một cách hữu hình nhưng Ngài vẫn tiếp tục hiện diện giữa chúng ta dưới những hình thức khác.
Chúng ta có thể gặp Ngài qua những kỳ công trong vũ trụ. Chúng ta có thể gặp Ngài qua những lời giảng dạy. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Giáo Hội. Chúng ta có thể gặp Ngài nơi những người anh em, nhất là những kẻ khổ đau và bất hạnh. Như thế Ngài được tôn vinh lên trời không phải là làm một cuộc đi xa, nhưng trái lại là một cuộc đến gần. Phục sinh và Lên Trời là để làm tròn sứ vụ giữa lòng thế giới. Chính vì thế mà Ngài đã truyền cho các môn đệ cũng như cho chúng ta phải tiếp tay với Ngài: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Bởi đó, hãy chu toàn bổn phận của chúng ta, bằng cách sống đức tin và đem đức tin đến cho những người chung quanh, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta sẽ được chia sẻ niềm hạnh phúc thiên đàng với Ngài.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Trước khi từ từ lên cao, Ngài đã ban huấn lệnh: “Các con sẽ là chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa, Samaria, và cho đến tận cùng cõi đất”.
Các môn đệ đã chứng kiến cuộc khải hoàn vinh hiển của Chúa, họ không thể nào im tiếng được. Họ đã mạnh mẽ xác quyết: “Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Kitô mà anh em đã giết rồi treo lên cây gỗ… và tôn Ngài làm thủ lãnh và Đấng cứu độ để đem lại cho Israel ơn tha thứ và hoán cải. Về những sự việc đó chúng tôi đây là những chứng nhân cùng với Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người”, “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại để chúng ta được nên công chính”…
Tất cả các môn đệ đều bị bách hại đến đổ máu ra vì chứng cớ đức tin và lời rao giảng của mình. Và sau họ, từng lớp lớp người cũng đã ngã gục chỉ vì tin vào Đấng Phục Sinh.
Đối với chúng ta là những kẻ đã tin, đến lượt chúng ta cũng phải làm chứng về Ngài, không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng chính đời sống chúng ta nữa. Chúng ta hãy chứng tỏ cho thế giới biết rằng cuộc sống thường ngày là những bước tiến lên với Chúa Kitô, và những thử thách, hy sinh là cần thiết để thanh luyện và làm sáng tỏ đức tin của chúng ta.
Chúng ta tiến lên trời với Chúa Kitô bằng kiên nhẫn, hy sinh… hầu biểu lộ đức ái, bởi vì đức ái là khát vọng Thiên Chúa và làm điều lành cho tha nhân. Điều đó có nghĩa là chúng ta chờ đợi thời giờ của Thiên Chúa và giúp mọi người phương tiện tiến lên với Thiên Chúa. Đức ái là thái độ phản ánh trung thực nhất niềm khát vọng nội tâm của chúng ta.
Đời sống tu trì là một minh chứng cho niềm khát vọng lên trời trong chờ đợi nhẫn nại và hy sinh. Quả vậy, vì tin ở lời hứa của Chúa sẽ ban gấp trăm ở đời này và đời sau được sống muôn đời mà chúng ta đã từ bỏ tất cả để theo Ngài. Điều Chúa Kitô hứa, Ngài đã đang và sẽ còn thực hiện. Hạnh phúc mà Ngài ban cho những ai theo Ngài chính là niềm hoan lạc trong tâm hồn, hoan lạc của những ai có Chúa làm tất cả. Niềm hoan lạc đó là hiệu quả tất nhiên của sự bình an, bình an của những kẻ ẩn náu trong tình thương Chúa. Và những gì do tình thương Chúa gửi đến đều tốt lành. Ngay cả cái chết cũng là dịp để chúng ta vui mừng, vì chết là cánh cửa cuối cùng được mở ra cho chúng ta gặp Chúa Kitô Phục Sinh – Thăng Thiên mà chúng ta yêu mến kiếm tìm.
Hỡi những ai tìm Chúa, tâm lòng hãy vui sống và chúc tụng Thiên Chúa là Cha Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tái sinh chúng ta cho hy vọng sống động, nhờ sự phục sinh – thăng thiên của Ngài.
Khi còn ở với các môn đệ, đã nhiều lần Chúa Giêsu nói trước là Ngài sẽ về trời, giờ đây là lúc Ngài thực hiện điều đó. Việc Chúa Giêsu lên trời mãi mãi là một huyền nhiệm. Dùng ngôn ngữ loài người để tả một huyền nhiệm của Trời thì thật khó biết bao. Nhưng điều quan trọng là biến cố đã xảy ra. Thật khó mà tưởng tượng rằng sự xuất hiện của Chúa Giêsu cứ thưa dần, thưa dần cho tới khi tắt hẳn. Nếu thế đức tin con người sẽ tàn lụi. Nếu như Chúa Giêsu biến thành Đấng Kitô của cõi trời và không còn liên hệ gì với cõi trần này, lúc đó chúng ta sẽ rơi vào khủng hoảng.
Đối với các Kitô hữu, sự thăng thiên của Chúa Giêsu có ba ý nghĩa:
1) Đó là sự kết thúc. Một giai đoạn đã qua và một giai đoạn khác bắt đầu.
Ý nghĩa trọng đại của việc Chúa thăng thiên là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho tới đời đời. Tác giả thư Do thái viết: “Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài; sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi. Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cửu trùng” (Dt 1,3). “Không phải nhờ máu dê hay máu bê, nhưng là nhờ chính Máu của Ngài, Ngài đã vào thánh điện — duy chỉ một lần — sau khi đã thành đạt việc cứu chuộc muôn đời” (Dt 9,12). Chúa Giêsu đã làm xong công tác cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một vị Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng đời đời vượt khỏi thời gian và không gian.
2) Và như vậy đây là một khởi đầu
Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải với tấm lòng sầu muộn, vì họ biết rằng từ nay không gì có thể ngăn cách mình với Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô?” (Rm 8,35) và ông khẳng định: “Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù là hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù là chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta!” (Rm 8,38-39)
3) Hơn thế nữa, sự thăng thiên của Chúa quyết chắc với các môn đệ rằng họ chẳng những có một người Thầy ở thế gian mà còn có một người Thầy ở trên trời nữa.
Thánh Phaolô thách thức: “Ai sẽ cáo tội những kẻ Thiên Chúa đã chọn — Thiên Chúa đã giải án tuyên công, ai sẽ là người lên án? — Phải chăng là Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa, và là Đấng đang chuyển cầu cho ta” (Rm 8,33-34)
Chẳng hề có ai, vì Chúa đã chết đền tội chúng ta, đã sống lại làm Cứu Chúa của chúng ta và hiện đang ngồi bên hữu cầu thay cho chúng ta như một trạng sư. Bên hữu Cha là chỗ có thế lực, có uy quyền nên sự cầu thay của Chúa Giêsu rất linh nghiệm.
Còn một điều quan trọng hơn nữa, sự thăng thiên của Chúa Giêsu là điều kiện để Ngài sai Chúa Thánh Thần xuống, mà chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm này vào Chúa nhật tới.
Nếu chúng ta biết Chúa Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các thánh đã yêu mến, đã yêu mến một quê hương tốt hơn -quê hương trần gian- mà các ngài gọi là quê hương trên trời. Thánh Phaolô khuyên chúng ta là những người cùng chết, cùng sống lại với Chúa Giêsu cũng sẽ được cùng cất lên trời để gặp Ngài: “Vậy đã cùng sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Lòng trí hãy hướng về những điều trên cao, đừng (hướng) về những điều dưới đất. (Cl 3,1-2)
Chúng ta phải cẩn thận về điều thánh Phaolô muốn nói ở đây, chắc chắn Ngài không hề biện hộ cho việc mơ tưởng tới một thế giới khác khiến những người tin Chúa tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngưỡng cõi đời đời mà thôi. Vì ngay sau đó, thánh Phaolô tiếp tục quy định một loạt các nguyên tắc đạo đức vạch rõ rằng người Kitô hữu cứ tiếp tục công việc ở đời này và duy trì mọi mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình phải quan tâm đến, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi đời đời. Rõ ràng điều ấy sẽ đem đến cho người Kitô hữu một loạt các giá trị mới. Kitô hữu sẽ không còn bận tâm đến những điều mà người thế gian xem là quan trọng nữa. Các tham vọng đang ngự trị thế gian sẽ bất lực và không thể làm cho người ấy vướng bận nữa. Người ấy sẽ tiếp tục sử dụng những điều thuộc về thế gian này nhưng trong một cách thức mới. Người ấy sẽ đặt việc ‘cho đi’ lên trên việc ‘thu góp’, phục vụ trên cai trị, tha thứ ở trên báo thù. Tiêu chuẩn về giá trị của người ấy sẽ là tiên chuẩn của cõi trời chứ không phải cõi đời.
Khi người thanh niên giàu có đến xin Chúa Giêsu chỉ cho anh phương cách để được sống vĩnh cửu. Chúa bảo anh về đem tài sản phân phát cho kẻ nghèo để được của cải trên trời. Điều gì đã làm vì tình yêu sẽ bền vững muôn đời.
Thật an ủi khi biết rằng Đấng chờ đợi ta ở trên trời cũng là Đấng đã, đang bao bọc ta ở dưới đất.
Đức Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên giống Đức Giêsu mỗi ngày một hơn.
Đức Giêsu lên trời
Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ suốt bốn mươi ngày sau khi Ngài sống lại. Trong thời gian này Người đã ăn uống với các ngài, dạy dỗ các ngài nhiều điều; rồi đến thời đã định, Người đã lên trời trước mắt các ông.
Phải hiểu điều này như thế nào, khi người thời nay biết trái đất tròn; như vậy, trời phía trên đầu của người ở Việt Nam, lại là hướng dưới chân của người ở Mỹ, và ngược lại. Một phi hành gia bay lên vũ trụ, trời là khoảng không đối với họ! Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu không lên trời, nhưng ở lại với con người cho đến ngày tận thế: “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế” (Mt.28, 20). Làm sao trả lời cho con người ngày nay về việc hai trình thuật dường như trái ngược nhau?
“Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, là một cách nói dùng để chỉ Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm gì có tay phải tay trái như con người. Đây là cách nói nhân hình, nghĩa là, nói về Thiên Chúa theo kiểu con người. Để hiểu đúng, không được hiểu theo nghĩa đen. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là, Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Các ngươi là chứng nhân về những điều này
Không phải tất cả mọi người đều được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Chỉ có một số người được chọn, mới được diễm phúc này, và họ trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Các tông đồ là những người được thấy Chúa, và các Ngài đã là những chứng nhân anh dũng của Đấng Phục Sinh qua việc dùng chính mạng sống mình để làm chứng. “Ngu gì” để chết cho điều không thật hoặc không quan trọng! Sẵn sàng chết để làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh, làm cho điều các tông đồ rao giảng “đáng tin”.
Các tông đồ đã chết. Các ki-tô hữu là những môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt mình, các ki-tô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh cho con người thời đại hôm nay.
Các tông đồ đã chết để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Ki-tô hữu hôm nay được mời gọi để sống yêu thương, như dấu chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ki-tô hữu trong thế giới này. Yêu, đòi phải hy sinh, và cũng là một cách “chết” cho người yêu.
Nên giống Đức Giêsu
Đức Giêsu là thượng tế, là của lễ và bàn thờ. Lời Thiên Chúa nhập thể vì yêu con người, Ngài đã chết để đền tội con người, để con người không phải chết vì tội mình nữa nhưng được sống, vì có người đã chết thế cho mình.
Đức Giêsu dùng chính máu Ngài để thanh tẩy tội lỗi con người. Ngài thương cảm con người với những yếu đuối và giới hạn của họ. Ngài đã trải qua tất cả những gian nan thử thách, để con người có can đảm tới với Ngài.
Là người, anh chị em với nhau. Mỗi người phải trở nên một “Giêsu khác” để thông cảm và nâng đỡ anh chị em mình. Mỗi người được mời trở nên giống Đức Giêsu, bằng “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Theo bạn, Đức Giêsu Phục Sinh bây giờ đang ở đâu? Xin giải thích.
- Trong đời tu hoặc đời sống ki-tô hữu, người ta thường nói tới “cái chết không đổ máu”, bạn hiểu điều này như thế nào? Cho thí dụ.
- Người nên giống Đức Giêsu nhất, là người có những đức tính nào?
Qua Phúc Âm, chúng ta biết: sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn ở trần gian bốn mươi ngày. Trong suốt quãng thời gian này, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Các ông có diễm phúc được nhìn thấy Ngài, được ăn uống với Ngài. Tất cả những sự việc ấy đã tạo nên cho các ông một niềm xác tín: Ngài đã phục sinh.
Cũng trong thời gian ấy, Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình. Ngài nói với các ông:
– Ta sẽ trở về với Cha Ta, cũng là Cha của các con, về với Thiên Chúa của Ta, cũng là Thiên Chúa của các con.
Thế nhưng, các ông đã không hiểu được lời nói mầu nhiệm này. Sau cùng, Ngài đã gặp các ông trong phòng tiệc ly, tâm sự với các ông và khi bữa ăn kết thúc, theo thông lệ, Ngài dẫn các ông lên núi Cây Dầu.
Các ông đi qua đường phố Giêrusalem, xuống thung lũng Cêdron, theo con đường Ngài đã bước đi trong cuộc tử nạn. Chắc hẳn khi đi lại con đường ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đã nói chuyện, đã hàn huyên với nhau rất nhiều.
Khi tới núi Cây Dầu, Chúa Giêsu và các môn đệ đã đưa mắt nhìn chung quanh và đã thấy được toàn cảnh thành phố Giêrulem với miền đất hứa. Chúng ta hãy cùng các tông đồ đứng trên đỉnh núi Cây Dầu và đưa mắt nhìn: Gần đấy là Bêtania, nơi ba chị em Martha, Maria và Lagiarô sinh sống. Họ là những người được Chúa yêu và cũng là những người yêu Chúa.
Về phía bên trái là Bêlem, nơi Ngài mở mắt chào đời. Rồi sau đó là những vệt trắng. Đó là những con đường từ Giêrusalem đi tới những thôn làng, những thị trấn của xứ Giuđêa. Hẳn rằng các tông đồ đã nhớ tới biết bao nhiêu kỷ niệm trên những nẻo đường quen thuộc này: nào là những việc kỳ diệu Chúa đã làm, nào là những lời lẽ khôn ngoan Chúa đã dạy. Xa hơn một chút là dòng sông Giócđan, nơi các tông đồ sống lại những kỷ niệm đầu tiên, khi gặp Chúa và được Ngài kêu gọi.
Còn về phía bên phải: xa xa là biển cả. Những con tàu nhổ nheo đi về Rôma, cũng như đi về những miền khác nhau của dân ngoại. Có lẽ chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ:
– Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Trong thâm tâm, Ngài muốn bảo các ông rằng:
– Hy lễ của Ta đã hoàn tất. Công việc của Ta đã kết thúc. Bây giờ đến lượt các con. Vậy các con hãy đi loan truyền Tin mừng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Có lẽ các tông đồ đã trả lời:
– Vì tình yêu và vinh quang của Chúa, chúng con sẽ làm tất cả.
Sau đó, Chúa Giêsu đã lên trời. Còn các tông đồ thì ngạc nhiên nhìn theo cho đến khi thiên thần hiện ra và bảo:
– Các ngươi đứng nhìn làm chi. Đức Kitô đã về trời thế nào thì Ngài cũng sẽ trở lại như vậy.
Hẳn chúng ta đã biết: Ngài sẽ trở lại vào ngày tận thế. Rồi sau đó lại sẽ về trời. Nhưng về trời lần này, thì cùng với Ngài còn có tất cả những người đã tin theo và yêu mến Ngài.
Chính vì thế, các tông đồ không hề buồn phiền, vì các ông biết rằng đây chỉ là một cuộc tạm biết, chứ không phải là một cuộc ly biệt, vĩnh viễn chia cắt đôi ngả. Ngài sẽ trở lại và các ông sẽ lại được xem thấy Ngài. Trong lúc chờ đợi, các ông ra sức chu toàn sứ mạng Ngài đã trao phó, đó là rao giảng Tin mừng, làm chứng về Ngài.
Với chúng ta cũng vậy. Mổi khi tham dự thánh lễ, chúng ta có diễm phúc được ở gần Chúa, được lắng nghe lời Ngài. Thế nhưng, trước khi thánh lễ kết thúc, qua môi miệng của vị linh mục, Chúa cũng nói với chúng ta:
– Lễ xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều đó có nghĩa là: hãy ra về để chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Hãy ra về để rao giảng Tin mừng. Hãy ra về để làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời.
Chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu Lên Trời kết thúc một cách chính thức cuộc đời nhập thể của Chúa Giêsu trên trần gian, kể từ giây phút thụ thai, tức là khi Thiên Thần Truyền tin cho Đức Maria cho đến giây phút Chúa Giêsu từ giã các Tông đồ sau khi phục sinh và về trời để trở về cùng Thiên Chúa Cha.
Cuộc đời của Chúa Giêsu và những lời giảng dạy của Ngài Luôn thách thức, luôn mời gọi con người phải có một trong hai thái độ tin yêu chấp nhận hay kiêu ngạo chối từ. Xưa cũng như nay và qua mọi thời đại, con người phải chọn lựa một trong hai thái độ này. Đối với những ai kiêu ngạo chối từ Thiên Chúa và Chúa Kiô thì việc Chúa Lên Trời đối với họ có thể được so sánh như là việc Chúa rút lui, biến mất khỏi cuộc sống con người, không còn ý nghĩa gì nữa.
Con người được tự do quyết định về cuộc sống của mình theo những tiêu chuẩn riêng và thuận hoặc nghịch lại Lời Chúa. Họ không còn màng chi đến sự thật đã được Chúa mạc khải. Nếu không lên án kết tội Chúa thì họ cũng quên hẳn mất Chúa. Nhưng đối với những ai tin yêu chấp nhận Chúa, chẳng hạn như các Tông đồ và những đồ đệ của Chúa lúc đó và ngày hôm nay thì biến cố Chúa Giêsu Lên Trời khai mào cho một thời kỳ mới, thời kỳ trách nhiệm của các ngài là làm chứng cho Chúa, chia sẻ với anh chị em xung quanh về tình thương và sự thật của Chúa. Đây cũng chính là thời kỳ dấn thân cho sứ mạng làm chứng cho Chúa Kitô. Mặt khác, Chúa biết rõ sự yếu đuối của những đồ đệ thân yêu của Ngài, nên trước khi từ biệt các Tông đồ Chúa hứa ban một Đấng soi sáng đến an ủi là Chúa Thánh Thần để các ngài đủ sức mạnh cho toàn sứ mệnh đã lãnh nhận.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay hãy xét lại thái độ sống của mình như thế nào? tốt hoặc xấu, hay tệ hơn chúng ta đã chối bỏ Chúa, sống nghịch lại với những lời dạy của Chúa, làm cớ cho anh chị em xung quanh xa lìa Chúa, hoặc là chúng ta đang cố gắng hết sức mình cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Ngài.
Trong suốt tuần lễ tới này, chúng ta hãy luôn cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta sống dấn thân cho Chúa và làm chứng cho Chúa ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Dù chỉ là một nữ tu sáng lập đơn côi ban đầu, mẹ Têrêsa đã làm nên phép lạ cho dòng Thừa Sai Bác Ai của mẹ lên đến 4000 nữ tu, 450 sư huynh và hàng ngàn người ngoại giáo ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc nhân ái của mẹ, với 600 cơ sở và 126 quốc gia trên thế giới. Từ ngày thành lập từ năm 1950 đến nay mỗi năm nhà dòng của mẹ đã giúp nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy dỗ cho 20.000 trẻ em và săn sóc cho 90.000 người mắc bệnh phong cùi trong các bệnh viện riêng ở 10 quốc gia. Các trẻ em mồ côi mà mẹ đã nuôi dạy từ hơn nửa thế kỷ nay nhiều không kể xiết.
Ngày mẹ qua đời, tổng thống pháp Jacques Chirac đã gởi một bức điện với lời lẽ đau buồn như sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít Tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và ít ánh sáng hơn trên thế giới này”.
Mẹ Têrêsa quả là một chứng nhân anh dũng. Mẹ không chỉ tin đạo mà còn sống đạo để làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa cho thời đại hôm nay.
Bài tin Mừng hôm nay kết thúc Tin Mừng thánh Luca, kể lại việc Chúa Giêsu dạy dỗ các tông đồ lần cuối cùng, sai các ông đi rao giảng và làm chứng cho Ngài rồi Ngài lên Trời.
Sách Công vụ tông đồ trình bày cho chúng ta biết biến cố lên trời là một sự hoàn tất gắn với một khởi đầu. Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng cứu độ trần gian và khởi đầu cho sứ mạng làm chứng nhân của Giáo Hội.
Điều mà bài tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là việc Chúa Giêsu được đem lên trời cách kỳ diệu mà là việc các tông đồ được sai đi để loan báo một Tin Mừng mới lạ, một Tin Mừng cho muôn dân. Đó là Tin Mừng về việc cứu độ.
Các Tông đồ đón nhận lời mời của Chúa Giêsu trong niềm tin tưởng và hân hoan. Tin vào Chúa Giêsu đã phục sinh và lên trời. Tin Ngài sẽ ban Thánh Thần để giúp các ông thi hành sứ mạng mới. Hân hoan vì mỗi người đều được Chúa Giêsu tin tưởng và sai đi.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ, những chứng nhân tích cực sẽ không ngừng làm chứng cho các giá trị Tin Mừng, cho đến tận thôn cùng xóm vắng.
Đức Giêsu đã lên trời, nhưng bằng ngày vẫn có muôn vàn chứng nhân tiếp bước Ngài, đón nhận, sáng tạo và đi xây dựng cho thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Họ cũng là những người gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận một trật tự bất công, một thế giới thiếu vắng tình thương trong đó một số người giàu có dư dật trong khi hàng vạn người phải lang thang đói rách. Họ là những kẻ gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu, vì họ làm hết cách để người ta tin rằng, nhân loại có thể ngày một tiến gần hơn đến công bình, tha thứ và tình thương.
Để làm những việc ấy chính các Tông đồ và những chứng nhân tiếp nối các Tông đồ trong Giáo hội chấp nhận sự hiểu lầm, chống đối, đau khổ, tù đày và cả cái chết. Bởi họ luôn có sức mạnh của Chúa Thánh Thần và xác tín vào niềm tin Chúa Giêsu phục sinh.
Chính anh em là chứng nhân.
Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa Giêsu lên trời và cũng đã nghe nhiều lần lời mời gọi của Chúa Giêsu “phải rao giảng cho muôn dân… chính anh em là chứng nhân”. nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi đó với niềm tin tưởng và hân hoan không? hay chúng ta nghĩ đó là công việc của các linh mục, của tu sĩ nam nữ.
Hơn bao giờ hết cuộc sống của hôm nay đã có không ít những khó khăn đang đặt ra cho mỗi gia đình và cho mỗi người chúng ta. Những khó khăn đó đã làm cho chúng ta quên đi đời sống chứng nhân của mình. Tuy nhiên cũng có những người trong chúng ta sống dửng dưng, không quan tâm đến ai khác ngoài cái tôi của mình ngoài tiền bạc và tham vọng cá nhân.
Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân cho Ngài. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải lập nhà dòng hay xây dựng những cơ sở để làm việc từ thiện như Mẹ Têrêsa, điều Ngài chờ đợi nơi mỗi người chúng ta là hãy bỏ đi tính ích kỷ xâm chiếm cuộc sống của chúng ta để mở tâm hồn mở con tim mở miệng ra để sống cho Ngài và cho tha nhân.
Mở tâm hồn để lắng nghe, suy niệm và chiêm ngắm Chúa trong Thánh Kinh đó là cách thức để Lời Chúa trở thành ánh sáng và sức mạnh cho những lựa chọn và quyết định trong cuộc sống hằng ngày.
Mở con tim ra với tha nhân giúp nhau phát huy những tương đồng, chấp nhận dị đồng, vượt qua những bất đồng. Đặc biệt là biết người đau khổ… để mỗi người có thể nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu và là người xây dựng hòa bình.
Cuối cùng chúng ta hãy biết nói về Chúa Giêsu cho người khác khi có điều kiện.
Con người thời nay thường nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ đã xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ thích chúng ta làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương.
NHẬP LỄ
Chúa Giêsu về trời không có nghĩa là Chúa định vị vào một nơi nào trên không trung, lệ thuộc thời gian như con người chúng ta thường nghĩ, nhưng đúng hơn là chấm dứt một giai đoạn hiện diện hữu hình, để khởi đầu hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh và để các tín hữu Chúa nhiệt thành nên chứng tá cho Chúa trong cuộc sống này. Xin cho mỗi người chúng ta nên chứng nhân tích cực hoạt động cho Chúa hằng sống.
– Lạy Chúa, lòng Chúa yêu thương chẳng khi nào lìa bỏ chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy Chúa Kitô, Chúa là Đầu của toàn thể Hội Thánh, là niềm hy vọng của chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót …
– Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con nên chứng tá cho Chúa, kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha tội. Xin Chúa …
GIẢNG
Cũng như biến cố Chúa Giêsu phục sinh là sự kiện quan trọng cho nền tảng đức tin của Kitô giáo, lẽ ra phải được thuật lại hoặc tuyên truyền cách nào thật long trọng, rầm rộ để mọi người nhận ra, thế nhưng trong Thánh Ý Thiên Chúa, chúng ta thấy Chúa Giêsu phục sinh rất âm thầm, không ai biết; tác giả các sách Phúc Âm chỉ thuật lại những sự kiện hậu phục sinh rất bình thường: các bà đạo đức ra phần mộ Chúa, thấy ngôi mộ trống, người chạy về báo tin, kẻ chạy ra kiểm chứng, cùng lắm là toán binh lính lo âu về thông tin cho các thượng tế Do-thái giáo để nhận được những đồng tiền hối lộ với lời chứng gian: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” (Mt 28,13).
Sự kiện Chúa thăng thiên cũng vậy, rất đơn giản: Sau khi căn dặn các Tông Đồ trong Nhóm Mười Một (Mc 16,14) cần đi rao giảng Phúc Âm đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Thánh Máccô nhẹ nhàng tuyên cáo: “Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (c.19).
Ý Chúa muốn gì qua những sự kiện đơn giản mà lẽ ra phải được tổ chức long trọng cho những biến cố quan trọng trong nền tảng niềm tin Kitô giáo như thế? Phải chăng Chúa muốn:
+ Niềm tin mang tính chất tự do, cần được đón nhận bằng cả tấm lòng yêu mến của mình, không mang tính chất bó buộc thúc ép? Tuy nhiên, vì yêu mến đón nhận sự kiện ngoài tầm hiểu biết, thì niềm tin đó sẽ đưa dẫn chúng ta vào nơi hạnh phúc của Thiên Chúa, bởi như Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13), thì người đón nhận tin Chúa, không phải là đã liều mất mạng sống vì Lời Chúa hay sao?
+ Phục sinh chỉ là bước ngoặt cho một đoạn đường mới trong hành trình đi theo Chúa, để cuộc sống trong niềm tin Chúa mãi mãi là sức sống cho người tín hữu, thì việc Chúa thăng thiên cũng không phải là cắt đứt liên hệ với cuộc sống con người tại trần gian này; trái lại, về trời nhưng Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cùng các môn đệ như Chúa đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b). Chính vì thế Chúa ban huấn lệnh cho các môn đệ “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” và mời gọi các ngài làm “chứng nhân” cho những việc Chúa thực hiện này (x.Lc 24,47-48), không phải chỉ đứng đó “nhìn trời” (Cv 1,11).
Chúa về trời để khởi đầu một giai đoạn mới cho Hội Thánh, từ nay chính các tín hữu Chúa sẽ hoạt động, có Chúa hỗ trợ qua tác động của Chúa Thánh Thần: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” (Lc 24,49). Chúa không hiện diện hữu hình, nhưng hằng “ở cùng” chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế”.
Tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, chúng ta cần sống làm chứng cho Chúa, để những người nhìn vào nếp sống của chúng ta, có thể nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc sống nhân loại, chờ đợi con người đón nhận Chúa để được hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng ta có mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin là con cái Chúa, quyết tâm sống theo Lời Chúa, cho dẫu có bị người đời thù ghét hay làm thiệt hại vật chất hoặc tinh thần chăng?
Xin Chúa Giêsu Phục Sinh hằng ở cùng chúng ta và giúp chúng ta chiến thắng mọi thử thách, để ngày kia cùng được chia sẻ hạnh phúc trên trời với Chúa. Amen.
Dù chỉ là một nữ tu sáng lập đơn côi ban đầu, mẹ Têrêsa đã làm nên phép lạ cho dòng Thừa Sai Bác Ai của mẹ lên đến 4000 nữ tu, 450 sư huynh và hàng ngàn người ngoại giáo ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc nhân ái của mẹ, với 600 cơ sở và 126 quốc gia trên thế giới. Từ ngày thành lập từ năm 1950 đến nay mỗi năm nhà dòng của mẹ đã giúp nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy dỗ cho 20.000 trẻ em và săn sóc cho 90.000 người mắc bệnh phong cùi trong các bệnh viện riêng ở 10 quốc gia. Các trẻ em mồ côi mà mẹ đã nuôi dạy từ hơn nửa thế kỷ nay nhiều không kể xiết.
Ngày mẹ qua đời, tổng thống pháp Jacques Chirac đã gởi một bức điện với lời lẽ đau buồn như sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít Tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và ít ánh sáng hơn trên thế giới này”.
Mẹ Têrêsa quả là một chứng nhân anh dũng. Mẹ không chỉ tin đạo mà còn sống đạo để làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa cho thời đại hôm nay.
Bài tin Mừng hôm nay kết thúc Tin Mừng thánh Luca, kể lại việc Chúa Giêsu dạy dỗ các tông đồ lần cuối cùng, sai các ông đi rao giảng và làm chứng cho Ngài rồi Ngài lên Trời.
Sách Công vụ tông đồ trình bày cho chúng ta biết biến cố lên trời là một sự hoàn tất gắn với một khởi đầu. Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng cứu độ trần gian và khởi đầu cho sứ mạng làm chứng nhân của Giáo Hội.
Điều mà bài tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là việc Chúa Giêsu được đem lên trời cách kỳ diệu mà là việc các tông đồ được sai đi để loan báo một Tin Mừng mới lạ, một Tin Mừng cho muôn dân. Đó là Tin Mừng về việc cứu độ.
Các Tông đồ đón nhận lời mời của Chúa Giêsu trong niềm tin tưởng và hân hoan. Tin vào Chúa Giêsu đã phục sinh và lên trời. Tin Ngài sẽ ban Thánh Thần để giúp các ông thi hành sứ mạng mới. Hân hoan vì mỗi người đều được Chúa Giêsu tin tưởng và sai đi.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ, những chứng nhân tích cực sẽ không ngừng làm chứng cho các giá trị Tin Mừng, cho đến tận thôn cùng xóm vắng.
Đức Giêsu đã lên trời, nhưng bằng ngày vẫn có muôn vàn chứng nhân tiếp bước Ngài, đón nhận, sáng tạo và đi xây dựng cho thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Họ cũng là những người gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận một trật tự bất công, một thế giới thiếu vắng tình thương trong đó một số người giàu có dư dật trong khi hàng vạn người phải lang thang đói rách. Họ là những kẻ gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu, vì họ làm hết cách để người ta tin rằng, nhân loại có thể ngày một tiến gần hơn đến công bình, tha thứ và tình thương.
Để làm những việc ấy chính các Tông đồ và những chứng nhân tiếp nối các Tông đồ trong Giáo hội chấp nhận sự hiểu lầm, chống đối, đau khổ, tù đày và cả cái chết. Bởi họ luôn có sức mạnh của Chúa Thánh Thần và xác tín vào niềm tin Chúa Giêsu phục sinh.
Chính anh em là chứng nhân.
Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa Giêsu lên trời và cũng đã nghe nhiều lần lời mời gọi của Chúa Giêsu “phải rao giảng cho muôn dân… chính anh em là chứng nhân”. nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi đó với niềm tin tưởng và hân hoan không? hay chúng ta nghĩ đó là công việc của các linh mục, của tu sĩ nam nữ.
Hơn bao giờ hết cuộc sống của hôm nay đã có không ít những khó khăn đang đặt ra cho mỗi gia đình và cho mỗi người chúng ta. Những khó khăn đó đã làm cho chúng ta quên đi đời sống chứng nhân của mình. Tuy nhiên cũng có những người trong chúng ta sống dửng dưng, không quan tâm đến ai khác ngoài cái tôi của mình ngoài tiền bạc và tham vọng cá nhân.
Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân cho Ngài. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải lập nhà dòng hay xây dựng những cơ sở để làm việc từ thiện như Mẹ Têrêsa, điều Ngài chờ đợi nơi mỗi người chúng ta là hãy bỏ đi tính ích kỷ xâm chiếm cuộc sống của chúng ta để mở tâm hồn mở con tim mở miệng ra để sống cho Ngài và cho tha nhân.
Mở tâm hồn để lắng nghe, suy niệm và chiêm ngắm Chúa trong Thánh Kinh đó là cách thức để Lời Chúa trở thành ánh sáng và sức mạnh cho những lựa chọn và quyết định trong cuộc sống hằng ngày.
Mở con tim ra với tha nhân giúp nhau phát huy những tương đồng, chấp nhận dị đồng, vượt qua những bất đồng. Đặc biệt là biết người đau khổ… để mỗi người có thể nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu và là người xây dựng hòa bình.
Cuối cùng chúng ta hãy biết nói về Chúa Giêsu cho người khác khi có điều kiện.
Con người thời nay thường nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ đã xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ thích chúng ta làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương.
Nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng: chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vàng thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy. Họ tôn thờ những thần tượng nhảm nhí thay cho Thiên Chúa, như một lời phát biểu đầy châm biếm: hiện giờ tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu là tôn giáo … bóng đá.
Bởi đó ngày hôm nay, sau khi hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn chúng ta tới quê trời. Hay nói cách khác, trần gian là quán trọ, nước trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Khốn cho tôi nếu tôi quên đi chân lý ấy. Khốn cho tôi nếu tôi ra sức biến đổi trái đất thành một thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho tôi nếu tôi không biết dùng cuộc sống này để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho tương lai mai hậu… Nhưng dựa vào đâu chúng ta xác quyết rằng: còn một cuộc sống khác, một thế giới khác?
Chúng ta không chụp được hình, cũng không bắt được làn sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy hay có kinh nghiệm, nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy, chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến nước trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: “Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa dành cho kẻ yêu mến Ngài”. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không mô tả: “Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian, buổi sáng và buổi chiều, tội lỗi và sự chết. Ở đó, Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt của chúng ta”. Chúng ta không thể biết nếu hôm nay Đức Kitô đã không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say rao giảng Tin Mừng, chấp nhận mọi khổ đau, chịu đựng mọi thử thách. Thế giới ấy sẽ to lớn gấp ngàn vạn lần thế giới chúng ta đang sống. Vậy thế giới ấy ở đâu? Có phải là lơ lửng giữa các vì sao, trên không trung bao la? Có phải là ở dưới lòng đại dương thăm thẳm? Không, tất cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu?
Thưa: ở bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn ngắm Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào có Ngài thì đó là nước trời, thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Trái lại, bất kỳ nơi nào không có Thiên Chúa, bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn ngắm Ngài, thì đó là hỏa ngục, thì đó là chốn đọa đầy. Xưa kia thánh Tôma tông đồ nói: “Nào chúng ta cùng đi để được chết với Ngài”. Còn hôm nay, chúng ta có thể đổi lại câu nói ấy: “Nào chúng ta cùng đi để được sống với Ngài”. Phải, sống với Ngài trong một cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Chúng ta cần đến khoa học và kỹ thuật, nhưng chúng ta phải luôn nhớ: khoa học và kỹ thuật không thể giúp chúng ta tránh khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như ngày mai sẽ là thứ hai không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mặt trời mọc vào ban sáng và lặn vào ban chiều hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Phải, vì có thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ hai; có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn ban chiều để lặn; có thể có một mùa đông mà sau đó mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời”.
Khởi từ cuộc Phục Sinh của mình, Đức Giêsu đã đổi mới mọi sự. Ngài đã vượt qua sự chết để khai mở sự sống. Từ đây, lịch sử nhân loại bước sang một giai đoạn mới. Các thế lực sự dữ như: đau khổ, gian nan, vất vả, và nhất là cái chết vẫn còn đó, nhưng không còn được sức mạnh. Tất cả đã bị Đấng Phục Sinh khuất phục. Nhờ sự Phục Sinh của Đức Giêsu thế giới cũ đã qua đi và một thế giới mới đã bắt đầu xuất hiện (x.Kh 21, 1-5).
Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, ngang qua hình ảnh ngôi mộ trống, phụng vụ lời Chúa cho thấy bởi sự sống lại của mình, Đức Giêsu đã tạo dựng nên một thế giới mới. Và rồi không chỉ lập nên một thế giới mới, Đấng Phục Sinh còn lập nên một dân mới khi Ngài thổi hơi ban Thánh Thần để biến đổi các tông đồ từ những kẻ nhát đảm ở trong những căn phòng đóng kín cửa, thành những con người can đảm dám mở bung cửa, ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân. Từ đây, bước đi giữa biển đời tăm tối, dân mới do Đấng Phục Sinh thiết lập không còn bơ vơ, nhưng họ có Lời Chúa làm kim chỉ nam, định hướng cho cả cuộc đời của họ. Họ chỉ cần để tâm lắng nghe và khiêm tốn thực hành lời dạy của Đấng Phục Sinh, chắc chắn họ sẽ thu được kết quả, như mẻ cá lạ mà các tông đồ đã kéo được trên bờ biển Tibêria năm xưa. Hơn thế nữa, dân mới là Giáo Hội do Đấng Phục Sinh thiết lập còn được chính Ngài làm Thủ Lãnh. Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Lành biết rõ từng người trong dân mới. Ngài hằng chăm sóc và ban cho họ được sống và sống dồi dào. Đồng thời, trong tư cách là vị Mục Tử nhân lành, Đấng Phục Sinh cũng mời gọi mỗi người chúng ta là thành phần trong dân mới hãy sống yêu thương nhau như Ngài đã hằng yêu thương chúng ta. Mặt khác, đối với Đấng Phục Sinh, việc chúng ta tuân giữ lời dạy yêu thương không những là một dấu chỉ để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Ngài, nhưng còn là một biểu hiệu cụ thể chứng tỏ lòng yêu mến của chúng ta đối với Ngài, như lời Ngài tuyên bố: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14, 23).
Và hôm nay, trước khi chấm dứt sự hiện diện hữu hình của mình giữa nhân loại, Đấng Phục Sinh đã mời gọi các tông đồ và cả từng người chúng ta lên đường ra đi loan báo cho muôn dân biết về Tin Mừng Phục Sinh mà chúng ta đã lãnh nhận. Chính vì thế, theo truyền thống của Giáo Hội, Chúa Nhật lễ Thăng Thiên hôm nay đã được chọn làm ngày “Thế giới truyền thông”.
- GIÁ TRỊ CỦA ĐAU KHỔ:
Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp đầu tiên mà mỗi người chúng ta cần loan báo cho mọi người đó là cuộc khổ nạn của Đức Kitô, như lời Ngài phán với các môn đệ trước lúc về trời: “Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình”. Khi nhắn gởi với các tông đồ sứ điệp này, một lần nữa, Đức Giêsu khẳng định với chúng ta rằng: không thể có cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên vinh hiển hôm nay, nếu trước đó, Ngài đã không đi đến tận cùng con đường thập giá. Hay nói cách khác, Kitô giáo không hứa hẹn một con đường dễ dãi, hấp dẫn, nhưng để đạt đến một đời sống vĩnh cửu, mỗi người cần phải đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, con đường thập giá, con đường của đau khổ. Kitô giáo không tôn sùng đau khổ và cũng không chạy trốn đau khổ, nhưng mời gọi chúng ta sẵn sàng đối diện và đón nhận mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống hàng ngày, và biến chúng trở thành phương thế dẫn đưa chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu.
Nói đến việc đón nhận đau khổ, trái ý… vào giờ này, ở nơi đây, trong ngôi Thánh Đường này thì dễ, nhưng để đón nhận những đau khổ và thử thách ngay trong cuộc sống thực tế hàng ngày, thì quả thật không dễ chút nào. Đối mặt với đau khổ, khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là tìm cách trốn chạy đau khổ. Thế nhưng, có một thực tế mà nhiều khi chúng ta không muốn nhận, đó là tự sức mình, chúng ta không thể nào loại trừ hết mọi đau khổ. Đau khổ vẫn còn đó vì trong từng người chúng ta vẫn còn dục vọng, vẫn còn “Tham, Sân, Si”. Càng chạy trốn, càng vùng vẫy đau khổ như càng thắt chặt cuộc đời của chúng ta. Chính vì chỉ cậy vào sức mình như thế, nên cuối cùng có nhiều người đã đi vào con đường tuyệt vọng.
Biết rõ sự yếu đuối và giới hạn của con người chúng ta, nên trước khi về Trời, Đức Giêsu đã hứa với các tông đồ và với từng người chúng ta: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa”. Chính vì ý thức được sự mỏng dòn của mình, và trong tâm tình tin tưởng vào lời hứa của Đấng Phục Sinh, thánh Phaolô đã lên tiếng cầu xin cho chúng ta: “Xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, dể nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi”. Thánh nhân, xin Thiên Chúa ban Thần trí của Ngài cho chúng ta, để nhờ ánh sáng của Ngài soi dẫn, chúng ta biết vững lòng trông cậy vào ơn Chúa. Nhờ đó, chúng ta đủ can đảm đón nhận những gì Chúa gởi đến trong cuộc sống mỗi ngày.
- TIN MỪNG PHỤC SINH:
Tuy nhiên, chúng ta đón nhận đau khổ không phải vì đau khổ, nhưng chúng ta đón nhận nó như một phương tiện để giúp chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu. Đau khổ, chỉ là một bước thanh luyện cần thiết để giúp chúng ta đạt đến vinh quang Phục Sinh. Chính Đức Giêsu, mặc dù đã đi con đường thập giá, nhưng Ngài không dừng lại ở cái chết khổ nhục trên thập giá. Đàng sau cái chết, đó là cuộc Phục Sinh vinh hiển. Chính sự sống lại của Đức Giêsu đã làm cho con đường thập giá trở nên có giá trị. Sau này trong thư gởi tín hữu Corinhtô, thánh Phaolô đã tuyên bố: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15, 14). Ý thức điều đó, sau những lời nói về cuộc thương khó của Đức Giêsu, thánh sử Luca liền cho chúng ta biết về sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: “Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày”. Tin Mừng Phục Sinh phải là điều mà mỗi người chúng ta cần xác tín và là mục tiêu cuối cùng của cuộc sống mỗi người chúng ta.
Như thế, vững lòng đón nhận mọi biến cố vui buồn sướng khổ trong cuộc sống hiện tại, và luôn hướng lòng về đời sống vĩnh cửu là hai mặt gắn liền không thể tách rời của mỗi người kitô hữu. Đồng thời, đó cũng là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần loan truyền cho mọi người trong thế giới hôm nay. Chúng ta phải dùng chính đời sống của mình để loan báo cho mọi người về giá trị của con đường thập giá và niềm vui Phục Sinh, như lời dặn của Đấng Phục Sinh: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa, và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Hơn nữa, rao giảng bằng cuộc sống, cũng chính là cách thức truyền giáo thích hợp nhất trong thế giới hôm nay.
Chớ gì nhờ sức mạnh của Đấng Phục Sinh nâng đỡ, mỗi người chúng ta không tuyệt vọng khi gặp thử thách gian nan, nhưng luôn bình an trong mọi sự. Nhờ đó, chúng ta trở nên những chứng nhân mới cho Đấng Phục Sinh trong thời đại hôm nay. Amen.
Sau khi sống lại 40 ngày, và sau những lần gặp gỡ với các môn đệ, Đức Giêsu đã thực hiện lời Người đã nói trước, người đã từ biệt các ông và lên Trời.
Nhưng tại sao Đức Giêsu dạy các môn đệ làm phép Rửa đã, sau đó mới giảng dạy cho họ? Tại sao không nói Chúa về Thiên đàng mà lại lên Trời, dễ làm người ta hiểu lầm ở một điểm nào trên không gian? Tại sao cho đến lúc này vẫn có những môn đệ còn hoài nghi? Theo Matthêu thì Đức Giêsu lên Trời tại Galilêa, vậy tại sao thánh Luca (Lc 24,50-53) lại nói Chúa lên Trời ở Bêtania?
- Galilêa
Matthêu không có ý nhấn mạnh tới địa danh nơi Chúa lên Trời, nhưng tác giả muốn nhấn những sự kiện có liên quan tới công trình cứu thế của Đức Giêsu tại Galilêa:
Galilêa là một địa danh rộng lớn thuộc phía bắc It-ra-en, nơi có đủ các thứ dân sinh sống. Đây là khu vực mà người It-ra-en ở Giê-ru-sa-lem coi khinh, cho là vùng đất của dân ngoại. Nơi đây được coi như trung tâm của các giao tiếp, sắc tộc, ngôn ngữ, thương mại, hoà trộn tín ngưỡng và vô tín ngưỡng.
Galilêa được coi là điểm hẹn lí tưởng giữa Thiên Chúa và con người: Trên núi Sinai, nơi Môi-sen đã ở trên đó 40 ngày đêm và được Thiên Chúa mạc khải cho 10 điều răn. Ngôn sứ Isaia và sau này là thánh Matthêu nhắc tới địa danh Galilêa như một điểm sáng: “Hỡi Galilêa miền đất của dân ngoại, những dân đang ngồi trong bóng tối tử thần được nhìn thấy ánh sáng” (Is.9,1).
Galilêa gắn liền với sứ vụ của Đức Giêsu: Na-da-ret nằm trong vùng đất Galilêa, nơi gia đình Đức Giêsu sinh sống, lớn lên và làm việc. Trên núi Ô-liu, nằm phía đông Giê-ru-sa-lem, là nơi Đức Giêsu thường xuyên đến để cầu nguyện. Tại đây còn có vườn Giêt-si-ma-ni, có làng Bêtania, nơi Người đã cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại, có ngọn núi Bet-pha-giê nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giêsu long trọng vào thành Giê-ru-sa-lem và tiên báo thành này bị tàn phá không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.
Galilêa còn là dấu chỉ hẹn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ: Cũng có mây mù che phủ, như đã từng che phủ Môi-sen trên núi Si-nai, cũng như Đức Giêsu với ba môn đệ yêu dấu ở Ta-bo-rê; cũng con số 40 kì diệu: 40 ngày trên núi Si-nai của Môi-sen hay 40 ngày chay tịnh của Chúa; 40 ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Người đã gặp gỡ lần cuối với các môn đệ như đã chỉ định trước: “Các bà hãy mau về nói với các môn đệ rằng người đi Galilêa trước các ông” (Mt.28,7).
Như vậy Galilêa là nơi Chúa Giêsu đã sống gương mẫu, rao giảng chân lí, thành lập Giáo Hội và tuyển môn đệ. Đức Giêsu đã làm xong nhiệm vụ và đi trước để dọn chỗ cho những ai tiếp tục sứ mệnh Người giao phó.
- Cõi Trời
Chúa Giêsu về Trời, là về nơi Người phát xuất: Ngài đã hoàn thành nhiệm vụ của Người ở trần gian, Người cần được hưởng vinh quang với Ba Ngôi Thiên Chúa. Mười một Tông đồ đã đến điểm hẹn, có một số còn hoài nghi. Thực ra tất cả các môn đệ đều khởi đầu từ chỗ hoài nghi rồi đến tin tưởng, và dám đổ máu mình ra để chứng tỏ niềm tin đó. Các ngài vẫn còn những hạn chế của con người, như Phê-rô, Tô-ma, hay hai môn đệ Emmau; các ngài còn phải được học hỏi các màu nhiệm mặc khải, các ngài phải được thử thách đủ, trước khi làm nhiệm vụ. Các Tông đồ còn được chứng kiến Thầy mình về Trời để các ông hi vọng. Chỉ có sự thật mới thuyết phục được các ngài theo Chúa; tất cả nói lên rằng, Đức tin là một hành động hoàn toàn tự do dành cho con người.
Chúa lên Trời là đi từ chỗ hữu hình vào nơi vô hình: Nói Chúa lên Trời, là nói theo kiểu thế gian. Người ta thường quan niệm trời là tất cả không gian ngoài trái đất, trời là nơi Đấng Tạo Hoá ngự trị và điều khiển muôn loài. Tuy nhiên, Trời đây không phải là một điểm nào, không phụ thuộc chiều cao của không gian vật lý, không phụ thuộc vào quy luật của vũ trụ, thời gian, có thể cân đong đo đếm. Chúa lên Trời không phải là lánh xa trái đất, đến ngự trị trong một vì tinh tú hào quang, Chúa lên Trời là thay đổi từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái siêu nhiên. Trời hay Thiên đàng là một, Người hiện diện khắp mọi nơi.
Đức Giêsu về Trời để nhận nhiệm vụ mới: Người duy trì sự hiện diện của Người nơi nhân loại: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Đức Giêsu được trao toàn quyền trên trời, dưới đất, vũ trụ hữu hình và vô hình. Người đánh bại cái chết, Người làm Vua vũ trụ, Đấng sáng tạo và bảo tồn vũ trụ, không có gì nằm ngoài quyền của Người.
- Thế gian
Đức Giêsu đã về Trời và trao lại nhiệm vụ cho Giáo Hội. Người đã lệnh cho mọi người trên trái đất phải thi hành chỉ thị của Người:
Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân và làm cho họ trở thành môn đệ Thầy. Môn đệ đây được hiểu là các Kitô hữu. Đức Giêsu gọi các môn đệ và muốn họ nhân rộng ra, tăng mạnh lên. Chúa tạo dựng con người và muốn cho họ hưởng hạnh phúc. Các Tông đồ được coi là người kế nghiệp Chúa Ki-tô, là những thợ gặt lành nghề. Họ phải biết đưa mọi người vào Nước Chúa. Chúa từ chối Sa-tan với tất cả vinh hoa của nó, Người muốn các Tông đồ tiếp tục chinh phục toàn thể vũ trụ để đưa mọi người vào Nước Trời hạnh phúc mà Người đi trước dọn chỗ, để mọi người có thể tận hưởng muôn đời.
Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Đức Giêsu muốn thâu nạp nhiều môn đệ qua phép Thanh Tẩy. Người đã thánh hoá nước, để nước có sức thánh hoá nhờ Thánh Linh. Người muốn họ nối kết với nhau trong một tập thể, mà Ba ngôi Thiên Chúa là mối dây, là tình yêu liên đới, là sức sống sung mãn dồi dào trong toàn thể, cũng như từng cá nhân. Không thể nhân danh cá nhân nào, không nhân danh thụ tạo nào, thần thánh nào, mà là nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa, để họ được gia nhập vào gia đình thánh thiện của Chúa.
Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Việc Đức Giêsu đặt nhiệm vụ này cuối cùng, không phải là Người dạy họ phải làm theo thứ tự như vậy, đó chỉ là câu nói nhằm mục đích kêu gọi môn đồ. Người muốn họ phải hiểu biết đầy đủ, để chia sẻ Lời dạy của Chúa, phải biết được giá trị của việc làm, để thực thi nhiệm vụ của một môn đệ.
Nhiệm vụ Chúa giao phó cho các Tông đồ cũng là nhiệm vụ của chúng ta. Chúa không muốn riêng ai quản lí màu nhiệm Mạc khải, Chúa ra lệnh mỗi người phải mạnh dạn ra đi rao giảng và làm chứng về Người, hầu được hưởng phúc Nước Trời với Thiên Chúa Ba Ngôi.
***
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con tin bằng trái tim, tuyên xưng bằng miệng và bày tỏ bằng việc làm, rằng Chúa ngự trong chúng con ngõ hầu nhân loại thấy rõ những việc lành chúng con làm mà tôn vinh chúc tụng Cha chúng con trên trời. Vì Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con, Đấng muôn đời vinh hiển. Amen! (Origênê)
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn)
Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Kytô vinh hiển về trời. Có thể nói biến cố Thăng Thiên là một biến cố đặc biệt, vì đó không chỉ là một mạc khải biểu lộ vinh quang khải hoàn của Chúa Kytô nhằm đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời cũng như sự kiện Phục sinh của Người; Đó cũng không chỉ là biến cố cuối cùng của lịch sử cứu độ mà đây chính là thời kỳ khai mở cho một biến cố mới: Chúa Thánh Thần sẽ đến hướng dẫn và dạy dỗ các môn đệ như Chúa Giêsu đã hứa.
Khi đối chiếu hai bản văn Tin mừng thứ ba và sách Công vụ Tông đồ của cùng một tác giả là thánh sử Luca, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì cùng một biến cố Thăng Thiên nhưng lại có sự mâu thuẫn rõ ràng về mặt thời gian: một đàng là biến cố Thăng Thiên xảy ra ngay sau khi Chúa Phục sinh, chỉ trong một ngày và một đàng là 40 ngày sau (x. Lc 24; Cv 1, 3). Lý giải sao về điều này?
Chúng ta có thể thấy dụng ý thần học của Luca trong đoạn Tin mừng trên, vì sự thực thì Phục sinh và Thăng Thiên là một thực thể thống nhất không thể tách rời nhằm biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền thống trị của Người. Như thế, ngay sau khi Phục sinh, Chúa Kytô đã đi vào vinh quang thiên quốc chứ không phải chờ đợi gì nữa. Tuy thế, thỉnh thoảng Chúa Kytô xuất hiện cách hữu hình với các môn đệ nhằm củng cố đức tin và dạy dỗ các ông. Có thể thấy 40 ngày là quãng thời gian tượng trưng đầy đủ và sung mãn để các ông tiếp nhận những giáo huấn và hiểu rõ hơn sứ mệnh của Người. Thật vậy, đây chính là quãng thời gian mà Chúa Kytô tỏ mình cho các môn đệ nhận biết Người (Lc 24, 39). Người mở tâm hồn cho các ông hiểu rõ ý nghĩa của biến cố Phục sinh (24, 44). Để rồi những gì các ông vừa trải nghiệm với Người, tất cả sẽ trở thành những chủ đề cho lời rao giảng cốt yếu sau này- những gì đã được Kinh thánh loan báo đều được thực hiện trọn vẹn trong mầu nhiệm Vượt qua. Chính các ông sẽ là những chứng nhân cho những gì các ông từng trải nghiệm mà Công vụ Tông đồ đã ghi. Sau quãng thời gian này, Chúa Kytô không còn hiện diện cách hữu hình, cách thể lý bằng xương bằng thịt nữa và tác giả Công vụ Tông đồ nói rằng Chúa Kytô lên trời.
Thánh sử Luca ghi lại sự kiện Chúa lên trời thật giản dị: “Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (24, 50). Hình ảnh cuối cùng của Chúa Kytô ở trần gian chính là bàn tay giơ ra để chúc lành. Đây chính là hình ảnh tuyệt vời bởi nó không chỉ là dấu chỉ từ biệt và chúc lành mà chúng ta thường thấy nơi các thánh tổ phụ chúc lành cho các con, cho những người thừa kế vào lúc lìa cõi thế, mà còn là dấu chỉ nhằm cho thấy Chúa Giêsu mãi mãi sẽ ở cùng và ban ơn cho các môn đệ của Người ở trần gian này. Cuộc chia ly này không giống cuộc chia ly trong vườn Ôliu, các môn đệ lòng đây hoan hỷ và không ngớt tụng ca Thiên Chúa: cuộc chia ly trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Kytô bên cạnh các môn đệ.
Biến cố Thăng Thiên không chỉ cho thấy công trình cứu chuộc như lời Kinh thánh loan báo đã hoàn thành mà còn là thời điểm làm cho tất cả mọi người nhận ra những lầm lỗi của mình, ăn năn sám hối để hưởng nhờ ơn tha thứ của Thiên Chúa; biến cố Thăng Thiên không chỉ là lúc Chúa Kytô Phục sinh trao trách nhiệm rao giảng cho các môn đệ mà còn là thời điểm đ¨¢nh dấu những hoạt động truyền giáo cho muôn dân của các ông sau này; biến cố Thăng Thiên không chỉ là một lời hứa, một lời chúc phúc nhưng còn là một sự hiện diện, một sức mạnh của Chúa Kytô làm cho các môn đệ hoan hỷ, không ngớt lời tụng ca Thiên Chúa và giúp các ông trở nên can đảm và nhiệt huyết hơn trong sứ vụ chứng nhân Tin mừng.
Ước gì tâm tình của ngày lễ Thăng Thiên giúp mỗi người chúng ta thêm lòng tin tưởng vào sự hiện diện cách vô hình của Đấng Phục sinh để rồi như các môn đệ xưa, cuộc sống của chúng ta là những chuỗi ngày đầy ắp niềm vui trong Chúa, lời cầu nguyện và tạ ơn của chúng ta sẽ hoà nhập với lời cầu nguyện và tạ ơn của các môn đệ để rồi theo chân các ngài, chúng ta ra đi dấn thân cho công cuộc truyền giáo như lòng Chúa hằng ước mong.
Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài do một cha thừa sai kể lại: Sau một tuần giảng đại phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế cụ bà hốt hoảng trả lời, “Không được đâu, suốt đời ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất.”
Thiên đàng sẽ chỉ là một con số “không”, chẳng có chút gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của yêu thương, mà yêu thương thì phát xuất từ con tim, nghĩa là từ bên trong. Bên trong chứ không phải bên ngoài hay bên trên kia.
Nước trời không ở bên ngoài hay bên trên, cũng không phải là một nơi nào đó trong không gian. Nước trời phải được hiểu như là một thực tại phía trong: trong lòng tôi, trong nơi tôi đang cư ngụ hay làm việc, và trong tầm với của gia đình.
Cho nên nói Chúa Giêsu lên trời cũng chính là nói Chúa Giêsu đi vào trong đời ta, nhà ta, lòng ta, gia đình ta. Có như thế thì lời “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” mới đong đầy ý nghĩa của nó. Chứ nếu như Ngài lên trời cao xanh hay Ngài ở nơi thế giới ngoài kia thì làm sao hiểu là Ngài đang ở cùng chúng ta được. Và vì Chúa Giêsu đã đi sâu vào đời ta, nhà ta, nên Ngài đã truyền cho chúng ta phải làm chứng cho sự hiện diện của Ngài: “Các ngươi phải là nhân chứng của Ta.”
Chứng tá cho Đức Giêsu là làm sao vẽ được dung mạo của Ngài ngay trên cuộc sống của mình, làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sinh hoạt, diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa và ở trong chúng ta.
Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.
Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời.”
Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”
Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp.”
Ba câu nói của ba con người– vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ– đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.
Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình.”
Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.
Bạn chưa cần phải đi đâu xa để làm chứng tá về niềm tin; bạn cũng chưa thể đi đến mút cùng trái đất để giảng về tình yêu và an bình của trời cao. Nhưng bạn có thể làm chứng tá cho Đức Giêsu ngay trong gia đình của mình.
Trước mỗi hành động, lời nói, giao tế, cư xử, hãy tự hỏi: tôi có làm mất niềm tin nơi người bạn đời hay nơi con cái của tôi không? Tôi đang xây dựng tình thương và an bình hay đang sống phản chứng trước mặt con cái và bạn đời? Tôi có đang cố gắng vẽ lên chân dung của Thiên Chúa qua việc hy sinh để kiến tạo một mái ấm gia đình không?
Những dòng chữ sau đây rất đáng cho bạn và tôi tâm niệm để ý thức hơn khi vẽ lên cho đời những “mái ấm”:
“Mái ấm là môi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học thế nào là điều ngay, thế nào là điều thiện, thế nào là lòng tử tế.
Đó là nơi tuổi thơ tìm về để được an ủi vỗ về mỗi khi đau khổ, bệnh tật.
Đó là nơi chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền.
Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương…
Đó là nơi mà những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, bởi vì là giá của mồ hôi nước mắt.
Đó là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu.
Và đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc.
Mái ấm gia đình. Đó là nơi được Thiên Chúa chúc phúc.”
Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế–mái ấm gia đình–để sau Lễ Lên Trời này, bạn và tôi cũng sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.
Tại Rôma, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II luôn luôn cử hành lễ Chúa Thăng thiên vào đúng ngày, tức là vào ngày thứ Năm, trong khi đó thì tại các Giáo Hội địa phương, như tại Việt Nam, Giáo hội cử hành vào ngày Chúa Nhật tiếp sau. Như thế, hôm nay chúng ta được dịp may để nghe lại đây một vài đoạn trích từ chính bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ Kính Chúa Thăng Thiên. Đức Thánh Cha đã chia sẽ như sau: Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa Lên Trời, chúng ta đã nghe được Lời Chúa: “chúng con sẽ nhận lấy sức mạnh Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên chúng con và chúng con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất.”
Từ hơn 2000 năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử con người. Những lời này làm cho Giáo hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo hội trở nên như men làm dậy lên mọi nền văn hóa trên thế giới.
Hôm nay trong lễ kính Chúa Thăng Thiên, chúng ta muốn nghe lại những lời trên để với sức mạnh đã được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa: “Hãy ra khơi”, mệnh lệnh và Chúa Giêsu đã nói với Phêrô. Đây là một mệnh lệnh mà tôi muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Năm Mới”, và đây là mệnh lệnh với một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng ngày lễ Chúa Thăng Thiên.
“Hãy ra khơi”. Ra nơi mà Giáo hội cần tiến đến không phải là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ, nhưng còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm như những tông đồ, như những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa Lên Trời. Chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang của Thiên Chúa Cha. Chắc chắn nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này, và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Am hôm nay nói rằng: “Tại sao các ông còn nhìn trời?”.
Việc cầu nguyện và chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi dấn thân vào trong lịch sử. Trời nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng , nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện, đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang.
Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi, đỏi hỏi chúng ta phải làm chứng. Bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước, và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập đại hội Hồng Y đặc biệt bế mạc hôm nay.
Các vị Hồng Y từ khắp nơi trên thế giới và tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về công việc rao giảng Phúc Am và làm chứng Kitô trong thế giới ngày nay vào “Khởi Đầu Ngàn Năm Mới”. Đây, đối với chúng tôi là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui giống như của các tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời.
Thật vậy, Thánh Luca đã ghi lại rằng, sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Và tiếp sau trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo hội, và cuộc Hội Hồng Y cũng được Đức Thánh Cha đặt nằm trong viễn tượng này. Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo hội đễ Giáo hội có thể rao giảng Phúc Am Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em.
Trong Thánh Lễ hôm nay và trong giây phút này, chúng ta được Đức Thánh Cha nhắc lại một ý nghĩa quan trọng của biến cố Chúa Lên Trời, không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, nhưng Ngài còn bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.
Từ Chúa Nhật hôm nay đến tuần tới lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình xem chúng ta đã mở rộng tâm hồn mình đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế, và chúng con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này”.
Một tín hữu đi ngang qua một quán rượu, anh nghe trong quán có tiếng cười nói ầm ĩ. Anh dừng lại lắng nghe, thì ra nhóm đàn ông vừa uống rượu vừa chế giễu tôn giáo và những kẻ có đạo. Anh nói với họ rằng: “Đúng đó, tôi chẳng hiểu các màu nhiệm trong đạo, nhất là kẻ chết có thể sống lại. Nhưng tôi biết rõ một điều ở trong thành phố này, Thiên Chúa đã cúi xuống một nắm đất sét hôi hám, bẩn thỉu vô cùng, Ngài thổi hơi vào nó. Nó liền biến đổi từ gã đâm thuê, chém mướn, sike, trộm cướp, cờ bạc, rượu chè, thành một thanh niên kiến tạo hòa bình, thương yêu giúp đỡ láng giềng. Người đó chính là tôi, đang đứng trước qúi vị đây”. Cả đám đông ồ lên một tiếng. Thì ra họ đã nghe đồn về “anh trưởng” của một mái ấm thành phố mà báo chí thường nhắc đến.
Nếu suy nghĩ một chút, quí vị ngộ ra lời người thanh niên còn đi xa hơn sự thật về anh rất nhiều. Thiên Chúa đã thổi Thần Khí vào nắm đất trong vườn Eđen và nhân lọai thành hình. Ngài lại rợp bóng trên nhân lọai và nhân lọai ấy trở thành Con của Ngài trong lòng trinh nữ Maria. Nhân lọai mới này chịu khổ nạn trên thập giá để đền bù tội lỗi, nhưng ngày thứ ba sống lại. Hôm nay được đón về trời ngồi tòa vinh hiển, có các thiên thần hầu cận.
Lên trời có ý nghĩa thế nào đối với đức Kitô, thì cũng vậy đối với mỗi tín hữu, thí dụ người thanh niên hư hỏng vừa nói ở trên. Vậy lên trời đối với Chúa Giêsu ra sao? Và chúng ta thế nào? Có được quyền lên trời không? Phải sống ra sao để theo Chúa? Trước hết, lên trời đối với Chúa Giêsu là sự nghiệp và đau khổ của một con người đã chấm dứt. Ngài lên cùng Thiên Chúa Cha với thân xác và linh hồn mà Ngài đảm nhận ở dương gian. Ngài và Thiên Chúa Cha kết hợp mật thiết trong tình yêu chân thật là Chúa Thánh Thần. Đấng sẽ đổ ơn lành xuống cho nhân lọai, khởi sự từ biến cố lễ 50. như vậy sự hiện diện của Thiên Chúa trên Giáo Hội không khi nào chấm dứt, đúng như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Thày sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20). Điều Thiên Chúa bắt đầu ở vườn Eden, nay hòan tất nơi đức Kitô, bất chấp tội lỗi. Chương trình của Thiên Chúa không bao giờ thất bại. Chúa Giêsu là con của lòai người, nay là con của Thiên Chúa xét theo nhân tính. Ngài là tạo vật mới vượt qua không gian, thời gian, đau khổ và cái chết. Như vậy nhân tính đã được dự phần vào thiên tính thực thụ và có chứng cớ rõ ràng. Đúng là hy vọng lớn lao cho lòai người? Chúng ta không được phép thất vọng vì bất cứ lý do nào. Đức Giêsu đã tòan thắng sự dữ và tội lỗi, chúng ta cũng có hy vọng tương tự.
Con đường lên thiên đàng đã được họach định cho nhân lọai. Nhân tính Đức Giêsu vui hưởng hạnh phúc, mà tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được xem, trí tuệ chưa hề tưởng tượng. Ngài uống tận nguồn nước vĩnh cửu của đời sống Ba Ngôi Ngài cử hành muôn thuở chiến thắng thế gian, satan, xác thịt cùng với Đức Mẹ, các thánh và các thiên thần trong vinh quanh. Nhưng xin nhớ trên dương gian Ngài không hề ích kỷ, trên thiên đàng càng xả kỷ hơn nữa. Trên dương gian Ngài chữa lành bệnh tật, cho kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, câm nói được, chết sống lại thì bây giờ chẳng lẽ Ngài không làm được nữa sao? Ngài đã thí mạng sống vì chúng ta, chẳng lẽ Ngài thôi thực hiện? Vì thế thơ Do Thái viết: “Ngài hằng đứng trước tòa Thiên Chúa để cầu bầu cho nhân lọai”. Nếu bà thánh Thérésa Hài Đồng Giêsu trước khi qua đời hứa mưa hoa hồng ân phúc xuống chị em trong dòng, chẳng lẽ Đức Giêsu không làm được cho chúng ta?
Cho nên chúng ta phải tin rằng Ngài đang hiện diện trong Hội thánh, tưới gội ơn cứu rỗi cho nhân lọai. Các bí tích là một bảo đảm. Ngài ở với lòai người trong bí tích Thánh Thể y như ở trên trời vinh hiển, yêu thương, quyền năng. Xin đừng đùa cợt với các bí tích đó là công việc Thiên Chúa tiếp tục nơi dương gian. Ngài hòan tòan là con người mới với thân thể thiêng liêng, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngài hiện diện cho những ai có đôi mắt đức tin, như các tông đồ xưa, nhất là nơi nhà tạm với ngọn đèn leo lét.
Chúng ta phải làm chi lúc này? Đừng đứng đó mà ngó lên trời, như hai thiên thần cảnh cáo các môn đệ? Sự thật một số tín hữu tiên khởi đã lầm tưởng Chúa sắp xuất hiện, nên cứ ngồi đó mà chờ đợi, đến nỗi Thánh Phaolô phải nói thẳng thừng: “Ai không chịu làm thì đừng ăn.” Tín hữu không phải là kẻ mộng du, nhưng là người thức tỉnh, chia sẻ cuộc sống của Ngài, chúng ta phải lao động và làm việc như Chúa. Các người làng Nazareth ngày xưa đã ngạc nhiên: “Anh ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” Câu nói này chẳng là trò đùa, mà là sự thật. Suy ra, Chúa lao động với đôi tay và khối óc suốt 30 năm. Còn ngài đi đây đó rao giảng sứ mệnh thì quá hiển nhiên. Bốn phúc âm đều thuật lại, không cần biện minh. Vậy mà, hỡi ôi, các tu sĩ linh mục ngày nay cư sử ra sao trong cuộc sống? Họ dùng thời gian, tài sức ra sao cũng hiển nhiên không kém! Chia sẻ cuộc sống với Chúa là điều kiện cần thiết để nên giống Ngài và đọat giải cứu rỗi. Các môn đệ tiên khởi đã nêu gương cho chúng ta hôm nay! Bao lâu nữa Ngài sẽ trở lại? Chẳng ai được biết. Nhưng mọi người đều biết rằng, trừ thân xác, còn linh hồn mỗi người trở về cùng Thiên Chúa thì không phải đợi. Cho nên lao động để nâng đỡ gia đình, con cái, xã hội là cần thiết và như vậy chúng ta tích cực chuẩn bị cho ngày Ngài trở lại.
Hiện thời trên dương gian Tin mừng của Chúa Kitô là Tin mừng thánh giá. Qua tin mừng ấy, nhất là qua những thương tích, Ngài tưới gội sức sống và ơn thánh xuống cho thế giới. Màu nhiệm cứu độ của Ngài còn tiếp tục qua con đường đó, chứ không phải an nhàn, thư thái. Ngài mời gọi chúng ta cộng tác: “Ai muốn theo Tôi, hãy để kẻ ấy vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” Vậy mà một tu sĩ trẻ vừa nói với tôi: “Đi tu chỉ mong được có thế!” Ý ông là được ăn sung, mặc sướng, tận hưởng các tiện nghi thế gian. Chẳng hiểu thần khí nào thúc đẩy ông như vậy. Chắc chắn không phải Thần Khí Đức Kitô. Vì hôm nay Ngài về trời để lại cho chúng ta con đường thập giá để noi theo mà tiến bước về trời. Chẳng còn con đường nào khác. Amen. Alleluia.
(Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’)
Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn các tông đồ: “Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem…” Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là: hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.
Thế nhưng thế nào là loan Tin Mừng?
Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia…
Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn…
Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc “mù mà lại dắt mù”, và kết quả là “cả hai sẽ lăn cù xuống hố”.
Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì “cho đi cái mình chẳng có”? Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì?
Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.
(Chú giải và suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)
“Khi đi về trời, Đức Giêsu cũng chỉ cho chúng ta biết mục tiêu của đời sống chúng ta.”
1.- Ngữ cảnh
Chương 24 của TM Lc được xây dựng thành 3 đoạn và một kết luận (xem bài trước). Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay lấy một vài câu của phần ba và đoạn kết luận.
Khi hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu cho thấy Người chính là Đức Kitô đã chịu đóng đinh, Người cũng không được gìn giữ khỏi đau khổ và thiếu thốn, khỏi bị từ khước và thù ghét, khỏi những đau đớn và cái chết. Nhưng cũng chính Đấng chịu đóng đinh là Đấng Phục Sinh. Người đã bị điệu đi đến cái chết trong tình trạng thê thảm và tàn bạo, nay Người đang đứng trước mặt các ông như là Đấng đang sống đã thắng vượt cái chết và không thể chết nữa. Rồi Người cho các môn đệ hiểu rằng các ông chẳng những không phải sợ là bị hủy diệt hoàn toàn, mà còn có thể và phải đi làm chứng về biến cố trọng đại này. Đức Giêsu đã dựa vào Kinh Thánh để trình bày cuộc Thương Khó – Phục Sinh, rồi xác định sứ mạng của các môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu Phục Sinh ban sứ điệp (24,46-49);
2) Đức Giêsu lên trời (24,50-53).
3.- Vài điểm chú giải
– bắt đầu từ Giêrusalem (47): Câu này là câu chuyển tiếp đưa sang tập thứ hai của tác phẩm Lc (= Sách Cv).
– Chứng nhân (48): Tại đây, tác giả Lc đã nói trước điều ngài sẽ triển khai trong sách Cv, bắt đầu ở Cv 1,21-22. Ngoài TM IV, sách Cv là quyển sách thuộc Tân Ước trong đó từ này và các từ phái sinh (làm chứng, chứng tá, chứng từ) được sử dụng nhiều nhất: 29 lần. Lý do là vì quyển sách này là sách về chuyên việc làm chứng. Như thế, từ martys, “chứng nhân”, cũng có một tầm quan trọng đặc biệt. Đặc biệt không được lẫn lộn từ này với tư cách “mục chứng”: Hy ngữ cổ điển, và chính Lc (Lc 1,2) dùng từ autopês, “người chứng mắt thấy”. Vai trò của một autopçs khá thụ động, và tư cách này thực ra chỉ là một tình trạng thực tế: autopês là người có cơ hội chứng kiến một biến cố nào đó; do đó, nếu cần phải làm chứng hoặc toà án buộc làm chứng, người ấy có thể trình bày những gì mình đã thấy, như mình đã thấy. Còn chứng nhân (martys) có một vai trò tích cực hơn nhiều, có một sứ mạng phải hoàn tất: đó là không những công khai công bố những gì mình đã chứng kiến, mà còn xác định ý nghĩa, tầm mức của biến cố ấy nữa. Là người đi qua biến cố, “chứng nhân” trở thành người tuyên cáo (trong bối cảnh tôn giáo, thần học) sứ điệp đã được hàm chứa trong biến cố ấy. Câu truyện tuyển chọn ông Mátthia thay thế cho Giuđa minh hoạ điểm phân biệt này (Cv 1,15-26). Bởi vì trong thực tế, ta khó mà hiểu được vì sao lại phải đi tới một tuyển chọn, thậm chí một sự chuẩn nhận để cắt đặt một chứng nhân nếu người này chỉ cần có một điều kiện là hiện diện thể lý trong một biến cố thuộc quá khứ. Trái lại, ta hiểu là cần có một cuộc tuyển chọn (rút thăm) nếu vai trò người được chọn vượt quá khung cảnh chật hẹp này, nếu cùng với việc công bố biến cố, người ấy còn phải biết minh giải đúng đắn biến cố ấy. Vậy các chứng nhân mà Cv sẽ nói tới trong cả sách, là những nhà thần học về các hoạt động cứu độ của Chúa.
Muốn làm chứng về sự sống lại của Đức Chúa (Cv 4,33), thì phải công bố chân tính và toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu. Công viẹc làm chứng này của các tông đồ được mô tỏ rõ ràng trong các bài diễn từ (Cv 2,22-36; 3,12-16; 4,8-12; 5,29-32; 10,34-43; 13,26-41; 17,30-31).
– điều Cha Thầy đã hứa (49): dịch sát là “lời hứa của Cha Thầy”, là Thánh Thần, như Cv1,4b.5b sẽ diễn tả rõ. Thánh Thần sẽ là nguồn của “quyền năng” trong câu tiếp theo.
– giơ tay (50): Đây là cách chúc lành của tư tế (xem Aharon trong Lv 9,22), hoặc của vị thượng tế (xem Simôn II trong Hc 50,20-21). Điều mà Dacaria (Lc 1,21-22) đã không thể làm được, thì Đức Giêsu đang làm cho người đang đi theo Người. Mặc dù tác giả Lc mô tả Đức Giêsu thực hiện một hành vi tư tế, nền thần học của ngài không hề đề cập đến Đức Giêsu như là tư tế.
– được đem lên trời (50): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa (x. Cv 1,9.11.22). Các câu 50-53 dường như mâu thuẫn với Cv 1,3-11. Theo Cv, Đức Giêsu “còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1,3). Trong khi đó, bản văn TM dường như lại bảo rằng tất cả những gì tác giả Lc kể trong ch. 24 đã xảy ra trong ngày Phục Sinh, rằng di chúc của Đức Chúa đang rời xa thế gian này (cc. 41-49) và cuộc Lên trời của Người (cc. 50-53) theo liền ngay sau cuộc hiện ra vào chiều ngày Phục Sinh.
Dường như Lc đã có những ý hướng Phụng vụ khi trình bày các biến cố: mỗi ngày chúa nhật của cộng đoàn Kitô hữu là một lễ Phục Sinh, một ngày Phục Sinh.
– các ông bái lạy Người (52): Các môn đệ làm một cử chỉ nhận biết Đức Kitô. Họ thinh lặng bái lạy để thờ phượng Người, như người Do-thái đã làm trước mặt thượng tế Simôn (Hc50,22) để nhận phúc lành của ông.
– trở lại Giêrusalem (52): Như vậy, TM Lc kết thúc tại nơi nó đã bắt đầu (1,5). Giêrusalem đã là mục tiêu của hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu (23,5); bây giờ Giêrusalem lại được nêu ra như điểm nhắm. Nhưng rồi, điểm nhắm lại trở thành khởi điểm khi “lời” lan tỏa đến tận cùng trái đất (Cv 1,8).
– lòng đầy hoan hỷ (52): dịch sát là “với niềm vui lớn lao”. Đây là niềm vui của những người không những đã được thấy Đấng Phục Sinh, mà còn đã đặt sự Phục Sinh của Người liên hệ với cuộc ra đi của Người và đặt cuộc ra đi này liên hệ với lời hứa Thánh Thần. Lời nhắc đến “niềm vui lớn lao” khiến ta hiểu rằng biến cố Lên Trời chấm dứt thời gian Đức Giêsu ở tại trần thế, mà cũng là hoàn tất cuộc Phục Sinh của Người, là khởi đầu của thời gian Giáo Hội. Niềm vui này của những người chứng kiến cuộc Lên Trời là tiếng vọng và sự hoàn tất của niềm vui mà sứ thần hứa cho tư tế Dacaria và cho một số đông vào ngày Gioan Tẩy Giả chào đời (Lc 1,14). Nhưng nhất là niềm vui này thể hiện trọn vẹn niềm vui lớn lao mà sứ thần hứa cho các mục đồng, “một niềm vui cho toàn dân” (2,10). Ở đây cũng vậy, khởi đầu và kết thúc gặp nhau.
– hằng ở trong Đền Thờ (53): Như vậy, tác giả Lc bắt đầu mô tả đời sống cộng đoàn của Hội Thánh phôi thai (x. Cv 2,46; 3,1; 5,42). Ở đây lại nổi bật tầm quan trọng của Đền Thờ theo hướng nhìn của Lc.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu Phục Sinh ban sứ điệp (46-49)
Trong tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, và Người giúp các ông hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của Người trên thập giá và cuộc Phục Sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại, muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở về trời (x.Cv 1,21t). Mỗi lời loan báo đều phải phát xuất từ các chứng nhân này, nghĩa là không dựa trên những suy diễn, những ý tưởng hoặc ý kiến cá nhân, nhưng trên các biến cố lịch sử và trên những giáo huấn do Đức Giêsu ban cho. Do đó, lời loan báo chỉ có thể phát xuất từ những người đã tháp tùng và lắng nghe Đức Giêsu, đã hiểu ý nghĩa của cuộc đời Người nhờ được Người giải thích.
Các môn đệ không thể hiểu nhiệm vụ bao la này bằng sức riêng. Do đó, Đức Giêsu báo cho các ông là Người sẽ gửi cho các ông điều Chúa Cha đã hứa, tức là Thánh Thần. Chính Thánh Thần, là quyền lực của Thiên Chúa, sẽ giúp cho các ông có khả năng loan báo với xác tín và can đảm công trình và sự Phục Sinh của Đức Giêsu (x. Cv 2,22-36).
* Đức Giêsu lên trời (50-53)
Sau khi đã dùng nhiều cách để làm cho các môn đệ tin chắc vào sự sống lại của Người và sau khi đã chuẩn bị các ông đi vào nhiệm vụ, Đức Giêsu từ biệt các ông. Người sẽ không hiện diện bên các ông theo kiểu hữu hình nữa. Nhưng Người sẽ cùng đi với các ông trên mọi nẻo đường. Người giơ tay lên để từ biệt các ông. Trong khi Người đi xa dần khỏi mắt các ông, Người chúc lành cho các ông. Người gửi đến cho các ông sức mạnh của hành vi chúc lành của Người, để sức mạnh này ở lại với các ông và nâng đỡ các ông suốt đời trong mọi hoạt động.
Chỉ đến lúc này, tác giả mới nhắc đến niềm vui của các môn đệ và việc các ông chúc tụng Thiên Chúa. Dacaria (Lc 1,64.68-79) và ông Simêôn (2,28-32) đã chúc tụng Thiên Chúa. Lời chúc tụng Thiên Chúa liên tục vang lên khi dân chúng chứng kiến những hành vi quyền lực của Đức Giêsu (7,16; 13,13; 17,15; 18,43). Sau khi đã trải nghiệm qua Đấng Phục Sinh hành vi quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, nghĩa là sự Phục Sinh của Đức Giêsu, các môn đệ chỉ có một câu trả lời đúng đắn: ca ngợi trong niềm hoan hỷ và chan hòa tâm tình biết ơn đối với Thiên Chúa.
+ Kết luận
Tác giả Lc đã bắt đầu tác phẩm với việc Dacaria dâng hương và dân chúng cầu nguyện trong Đền Thờ (Lc 1,8-10), để xin Thiên Chúa nhớ lại dân Ngài và tỏ lòng nhân ái. Bây giờ tác giả kết thúc Tin Mừng với việc các môn đệ của Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Các ông đã cùng đi với Đức Giêsu cho đến khi Người lên trời, các ông đã biết hơn bất cứ ai rằng Thiên Chúa đã nhớ đến dân Ngài thế nào. Và tất cả những ai nhờ chứng tá của các môn đệ và qua tác phẩm Lc mà trải nghiệm lòng từ bi cao cả của Thiên Chúa, thì không thể làm gì hơn là tham gia vào việc ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
- Hôm nay là Chua Giêsu lên trời. Khi mừng đại lễ này, chúng ta tưởng niệm lần cuối cùng Đức Giêsu tỏ mình ra hữu hình với các môn đệ. Người chọn một cách thức hiện diện khác để hỗ trợ các môn đệ trong hoạt động truyền giáo. Từ nay, Người sẽ đồng hành với họ, sẽ hiệp thông với họ khi chia sẻ bữa ăn, sẽ sống động khi họ giải thích Sách Thánh và khi họ ý thức rằng họ đang được đón nhận sự sống viên mãn của Người. Người bỏ cách hiện diện trước đây bằng thân xác, để từ nay hiện diện mãi mãi với mỗi môn đệ.
- Khi đi về trời, Đức Giêsu cũng chỉ cho chúng ta biết mục tiêu của đời sống chúng ta. Nếu chúng ta xác tín rằng chúng ta thuộc về “trên cao”, thì chúng ta sẽ phải quy hướng trọn cuộc sống chúng ta về đó. Chúng ta vẫn sống giữa các thực tại trần gian, chúng ta vẫn phải sử dụng các yếu tố trần gian, nhưng không bám víu vào các phương tiện ấy, trái lại, biết dùng chúng cách tích cực mà chuẩn bị cho mình và người khác đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Trước ngày đi chịu chết, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm nhưỡng vinh quang của con” (Ga 17,24).
- Thánh Thần, là quyền năng của Chúa Cha và của Đức Giêsu, luôn ở với Hội Thánh để hỗ trợ Hội Thánh trong sứ mạng đã nhận từ Đức Giêsu. Đọc sách Cv, chúng ta nhận ra được sức năng động của Thánh Thần.
- Nếu các tín hữu gắn bó mật thiết với Đức Giêsu, họ nhận ra quyền lực vô song của Thiên Chúa trong viẹc cho Đức Giêsu sống lại. Khi đó, họ chỉ có thể cảm thấy tưng bừng hoan hỷ và lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa sẽ hồn nhiên từ đáy lòng trào dâng lên môi miệng họ. Và trọn cuộc sống của họ là một chứng từ về quyền lực cứu độ của Thiên Chúa mà họ đã trải nghiệm.
Cũng như đối với trình thuật về cuộc Thương khó và Phục sinh, ta nên suy niệm những trình thuật khác nhau về biến cố Thăng Thiên được ghi lại cho ta: suy niệm tận nguồn gốc đặc biệt của chúng, để khỏi lẫn lộn Người với một thứ hình tượng -người máy.
Năm nay, chúng ta có may mắn được nghe hai trình thuật diễn tả cùng một biến cố do cùng một tác giả thuật lại đó là Luca. Thật rõ ràng, nếu Luca không nỗ lực dung hòa toàn diện hai đoạn văn mô tả của ông, là vì theo ông, chính những khác biệt đó có một ý nghĩa… vượt qua tính lịch sử được hiểu theo nghĩa hẹp.
Trong Tin Mừng, Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay chiều hôm Phục sinh, và chác chắn ngay trong đêm tiếp theo ngày thứ nhất trong tuần (Lc 24, 1. 24, 13. 24, 36. 24, 50), nếu ta nhớ lại khi các môn đệ làng Em-mau vào bàn ăn, thì “trời đã muộn“ (Lc 24, 29), và các ông phải đi bộ khoảng 12 cây số trong “hai tiếng đồng hồ“ (Lc 24, 13) để trở lại Giêsusalem. Còn Đức Giêsu đã mất giờ giải thích Lề luật, các ngôn sứ và Thánh Vịnh liên hệ đến Người, với các môn đệ (Lc 24, 44) ngay chiều Phục sinh…
Trước khi dẫn họ đến Bê-tha-ni-a, ở đó Người được đem về trời (Lc 24, 50). Trái lại, trong Công vụ Tông đồ, cũng chính Luca xác định biến cố Thăng Thiên vào lúc kết thúc “bốn mươi ngày” (Cv 1,3). Ngoài những tưởng tượng có tính cách ấu trĩ mà ta cần phải từ bỏ, hiển nhiên là giữa những lần “hiện ra” khác nhau của Người, Đức Giêsu không lánh ẩn trong một khu phố tại Giêrusalem, trong một nơi bí mật, để chờ đợi “ên” trời về cùng Chúa Cha! Thực sự, Phục sinh, Thăng Thiên và Hiện xuống, là ba khuôn mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất: bởi vì vừa sống lại, thì Đức Giêsu đã bước vào vinh quang của Chúa Cha và ngự bên hữu Người “theo kiểu nói của khải huyền. Đặc biệt, Luca nhấn mạnh đến sự kiện Đức Giêsu “rời bỏ“ những kẻ mà Ngài đã cho họ được gặp mặt… Người biến mất trước cái nhìn của họ (Lc 24, 31 – 24, 51).
Như thế, Thăng thiên vào chiều tối Phục sinh xảy ra để gắn liền cuộc sống nhân loại của Đức Giêsu với việc tôn vinh quyền năng Thiên Chúa của Người…và đó là trang cuối cùng của Tin Mùng!
Trong khi biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để bắt đầu cuộc sống mới của Đức Giêsu vượt qua không gian và thời gian… thì cũng là lúc khởi sự trang đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian của Đức Giêsu Nadarét…là bắt đầu thời kỳ của Giáo hội.
Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Đức Giêsu nói: “Khi Thầy còn ở với anh em”. Điều đó chứng tỏ rằng Người không còn ở trái đất như trước nữa. Thăng thiên sắp tới chỉ lặp lại những gì đã diễn ra do biến cố Phục sinh: từ đây trở đi, sự hiện diện của Chúa Phục sinh, dù có thực sự đi nữa, thì cùng ở trong một trạng thái khác… Người đã bước vào thế giới của Thiên Chúa rồi.
“Việc ứng nghiệm… và hiểu biết Kinh Thánh!”. Đức tin là phương thế duy nhất để đạt được “thế giới của ‘Thiên Chúa” mà Đức Giêsu đang hiện diện, vì giờ đây Người “không còn ở với chúng ta theo cùng một cách thức như trước nữa”. Ngay trên bước đường đi đến Em-mau, Đức Giêsu đã khiển trách hai người đồng hành với Người là những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin” (Lc 24, 25).
“Như sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy”. Chỉ khi sống lại, Người mới giải thích Kinh thánh: thực vậy, cần phải “chết đi sống lại”, để khi người ta đọc lại Kinh Thánh, mới có thể nhận ra điều đó đã được loan báo. Do đó, trong đời sống của chúng ta, có một số những biến cố đột nhiên xảy đến, soi sáng trở lại những sự việc, những lời nói mà trước đó chúng ta chưa hiểu được cách sâu xa.
“Các Thánh Vịnh”: Đức Giêsu đã thuộc lòng và hằng ngày dùng Thánh vịnh để cầu nguyện. Còn tôi thì sao? Liệu tôi có đủ độ nhớ chỉ một Thánh Vịnh để cầu nguyện, nhất là một trong những Thánh Vịnh nói về Đức Giêsu không?
Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.
Luca nhấn mạnh đến sự kiện: chỉ nhờ biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được “những lời Kinh Thánh chép”. Như thế, đời sống của riêng ta, đời sống của mọi người, đời sống của những kẻ mà ta vẫn tưởng rằng mình có tương quan thân mật nhất… chỉ sáng tỏ trong ngày của Chúa. Đúng vậy, những biến cố liên hệ đến cuộc đời của Đức Giêsu, trước ngày đó, vẫn làm cho các môn đệ hoang mang, khó hiểu! “Đau khổ” của Đức Giêsu trên thập giá, có vẻ như một sự ngẫu nhiên, một tai nạn, một thất bại. Nhưng giờ đây họ mới khám phá ra, đó là sự ứng nghiệm chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha: “Cần phải ứng nghiệm không gì đã được Kinh Thánh báo trước… “. Đó không phải là một định mệnh, cũng không phải là một số mệnh nghiệt ngã và khắt khe… mà là một chương trình yêu thương! Nhưng cho tới ngày đó, họ chưa nhận ra. Giờ đây, họ sắp trở nên chứng nhân cho những điều đó. “Ngày Phục sinh ngày dài nhất của thời gian… “Ngày thứ nhất” đó sẽ kéo dài, tới vô tận! Không có ngày nào khác như thế nửa. Ta hiểu ra rằng, Luca đã muốn gom cách tiêu biểu để cả trong ngày duy nhất đó, và ngày này sẽ được kéo dài qua đời sống chứng tá của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Hiện nay, chúng ta có luôn là “nhân chứng” cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không? Đức Giêsu, trước thái độ kịch liệt công phẫn của những người được coi là “sạch” đã nghiêng về phứa những người Samari ngoại giáo… những kẻ lạc đường, đĩ điếm, ngoại tình… những kẻ dốt nát, bị nhóm Pharisêu và thông giỏi khinh bỉ… những kẻ thông đồng với dân ngoại, những người thu thuế cộng tác với đế quốc Rôma… mọi người nghèo khổ bị xã hội ruồng bỏ, những kẻ thấp kém, bệnh tật, phong cùi. Thay vì ra hình phạt của Thiên Chúa mà lề luật đòi buộc, Đức Giêsu lại loan báo “ơn tha thứ” không giới hạn, không loại trừ một người nào khỏi ơn cứu độ phổ quát được cống hiến cho mọi người, bắt đầu từ Giêrusalem”. Đúng vậy, Thiên Chúa là Cha những người tội lỗi. Người tha thứ cho mọi người. Và noi gương Thiên Chúa, ta cũng phải tha thứ cho mọi người, ngay cả những kẻ thù của mình! Vì đã rao giảng những điều như thế nên Đức Giêsu đã bị kết án và bị đóng đinh như kẻ “phạm thượng”. Nhưng rõ ràng việc sống lại minh chứng rằng, Ngài đã có lý. Những người đại diện cho lề luật bị lên án. Đấng chịu đóng đinh luôn sống động. Mọi điều Đức Giêsu đã giảng dạy và hành động… sẽ tiếp tục và được chính Thiên Chúa minh chính hóa.. “Anh ern sẽ là chứng nhân!”.
Lạy Chúa, Chúa đòi chúng con phải thay đổi trở về thế nào đây? Thực sự, chúng con chưa làm chứng đầy đủ cho tình yêu cứu độ phổ quát!
Và đây chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.
Họ rất cần điều đó. Chúng ta cũng rất cần điều đó, cần “quyền năng” không do ta, chứng từ trời cao ban xuống! Bởi vì các môn đệ sắp phải sống và rao giảng trong một thế giới, bề ngoài chưa có gì thay đổi cả: sự dữ bạo lực, hận thù, chết chóc… độc ác, tà thuyết, sai lầm, dốt nát, áp lực đủ thứ… vẫn còn tiếp diễn.
Đấng sẽ trao ban quyền năng đó… ở đây không nêu tên… bởi vì, cũng như Chúa Cha “không ai trông thấy bao giờ.. và khác với Đức Giêsu, Đấng là khuôn mặt hữu hình của Thiên Chúa… Thần Khí không có dạng hình. Hay, đúng hơn Ngài mang bộ mặt của ta, theo cách nói của Thánh Phaolô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô. Khi cây nến Phục sinh được tắt đi vào Lễ Thăng Thiên, thì độ là lúc các ngọn lửa được thắp sáng:để xâm chiếm mỗi người môn đệ vào Lễ Hiện Xuống.
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được lên trời.
Đó là sự “rời khỏi”. Chỉ mình Luca sử dụng từ ngữ đây ý nghĩa đó.
So sánh với cùng một trình thuật trong Công vụ Tông chúng ta nhận thấy có nét giản dị hơn. Ở đây, không có yếu tố mô tả nào, không có “đám mây” cũng không có hai Người mặt áo trắng”. Không phải là Luca không hay biết tới ngôn ngữ khải huyền. Trong một trình thuật khác, ông sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ này. Nhưng trong đoạn văn trên, ông muốn tương đối hóa, đơn giản hóa nó.
Tất cả đều rất bí mật, và chúng ta thử dõi theo Đức Giêsu xem sao: “Người dẫn các ông…”, “Người giơ tay chúc lành cho các ông”. “Người rời khỏi các ông để trở về với Chúa Cha trên trời”.
Chưa bao giờ Đức Giêsu đã “chúc lành” cho các tông đồ. Nhưng đây là một cảnh từ biệt. Luca có ý nối kết lại một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh thường kết thúc đời mình bằng một cử chỉ chúc lành cho những kẻ tiếp sau: Giacóp (St 49), Môsê (Đnl 33), Đavit (1Sb 28-29). “Phép lành” của Đức Giêsu là cử chỉ cuối cùng của Người. Một cử chỉ mà Người sẽ không ngừng thể hiện, nhờ mỗi linh mục, đại diện của Người, làm lại trên chúng ta vào lúc chào tạm biệt trong Thánh lễ, bằng cách “giơ tay lên” để chúc lành cho chúng ta nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa.
Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giênlsalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Thật là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn, lại vui tươi. Cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu đã trở thành nhóm người “tôn thờ” Đức Giêsu và cùng nhau “ca tụng Thiên Chúa”. Đức Giêsu ở “trên trời”. Các môn đệ của Người ở “trong Đền Thánh’. Đó chỉ là một biểu tượng… một sự đối xứng. Một phụng tự mới.
“ CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN”
VÀI ĐLỂM CHÚ GIẢI:
- Đối với Đức Giêsu: hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua.
Trong sách Công Vụ Tông đồ, chúng ta đã đọc thấy biến cố Lên Trời xảy ra vào ngày thứ Bốn mươi sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin Mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Làm như thế Luca muốn nêu bật tính thống nhất không thể tách biệt của mầu nhiệm vượt Qua: biến cố Lên Trời biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền bá chủ thần linh của Người. biến cố ấy đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời và Tin Mừng của Đức Giêsu bằng việc tôn phong thiên quốc của Đấng Mêsia. Mâu thuẫn rõ ràng về thời gian – điều hoàn toàn tương hợp với cách hành văn của thời ấy – không nhằm mục tiêu nào khác hơn là phô bày tất cả vẻ phong phú của biến cố cứu độ này.
Sau khi tỏ mình cho các môn đệ nhận ra mình: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà” (c.39). Đức Giêsu mở tâm hồn cho họ hiểu ý nghĩa của biến cố phục sinh: “Tất cả những gì sách luật Môsê, sách các ngôn sứ và các Thánh vịnh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (c.44). Tất cả những gì các ông vừa trải qua cùng với Người, đều hiện rõ ý nghĩa dưới ánh sáng của Thánh Kinh, và chính Thánh Kinh được thực hiện hoàn hảo trong mầu nhiệm Vượt Qua: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại rồi phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Khi dẫn các môn đệ tới tận Bêtania, giờ đây Đức Giêsu từ biệt và chúc lành cho các ông là những người kế thừa mình theo cách các thánh tổ phụ chúc lành cho các con vào lúc lìa cõi thế..
Và đang khi Ngươi được “đem lên trời” các môn đệ “phủ phục bái lạy Người”, một cử chỉ tôn thờ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi.
Mặc dầu chia ly hoặc phải chia ly, nhưng tất cả mọi người đều chấp nhận từ nay không còn được trông thấy, mà chỉ sống bằng lòng tin nên các môn đệ cũng “lòng đầy hoan hỉ”, “các ông trở lại Giêrusalem, ở trong Đền thờ” – nơi mọi việc đã khởi đầu khi thiên thần báo tin cho ông Dacaria – các ông “không ngớt chúc tụng Thiên Chúa”.
Roland Meynet quảng giải: “Các môn đệ xem thấy Đức Giêsu lần cuối, cuộc chia ly thế là dứt khoát rồi. Tuy nhiên, các ông không buồn sầu, ngược lại, các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Chính là vì Thầy không đi vào cõi chết như họ đã trông thấy ba ngày trước, nhưng được đưa lên trời, đến cùng Chúa Cha. Các ông bái lạy Người và không ngớt chúc tụng Thiên Chúa. Nếu Đền thờ là nơi và là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người, thì các ông biết rằng: nếu các ông luôn ở lại trước mặt Đấng tối Cao, các ông sẽ không phải xa cách Đấng vừa về với Ngài. Liệu các ông có lòng đầy hoan hỉ như thế, nếu các ông không tin chắc rằng Đức Giêsu luôn ở với các ông, mặc dầu không trông thấy? Xem như nghịch lý: cuộc chia ly đối với các ông lại trở thành dấu chỉ rằng Đức Giêsu luôn ở bên các ông. (L’Evangile selon saint Luc, Cerf cuốn 2, trg 239).
- Đối với Hội Thánh: Khai mở một kỷ nguyên mới.
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Glêsu, mà còn tiếp tục trong Hội Thánh. Sứ điệp Tin Mừng được hoạch định “cho muôn dân”, được rao giảng “bắt đầu từ Giêrusalem”.
“Anh em là chứng nhân của những điều đó”. Đức Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ như vậy. Và trước khi lìa bỏ các ông để “được đưa lên trời”, Người loan báo cho các ông biết rằng, các ông sẽ “nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”, quyền năng mà Cha đã hứa, để hoàn thành sứ mạng vĩ đại vượt quá sức riêng của các ông.
Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Một kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc ‘I’in Mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất. Công việc gieo trồng này sẽ bội thu, bởi vì nó bắt rễ lừ những gì vừa hoàn thành lại Giêrusalem, đó là việc “Đức Giêsu chịu khổ nạn, sống lại và sự sám hối được rao giảng nhân danh Người để được ơn tha tội”.
BÀI ĐỌC THÊM:
- Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng hành động
(G. Bessiere: ‘Dieu si proche’ Năm C, DDB, trg 68-69).
Tận cùng lại là một khởi đầu.
Mọi sự đều xảy ra tại Giêrusalem.
Các môn đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải…”. Đây không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa làm ở giữa dân Người.
Đức Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên Chúa, biến đổi cả nhân loại. Đức Giêsu đi về cùng Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái đất.
Cử chỉ cuối cùng của Đức Giêsu thâu tóm cả cuộc đời của Đức Giêsu trên trần gian: “Đang khi giơ tay chúc lành cho các ông, thì Người lìa các ông…”. Đức Giêsu lên trời đang khi chúc lành, hình ảnh cuối cùng đó sẽ còn mãi: bàn tay đang chúc phúc.
Còn các ông “lòng đầy hoan hỉ” và “các ông không ngớt chúc tụng Thiên Chúa trong đền thờ”. Giữa trời và đất, giữa đất với trời, lời chúc phúc được giao lưu.
Giờ đây các môn đệ Đức Giêsu – những môn đệ thời xưa và những môn đệ thời nay – cần phải loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới và tận cùng lịch sử, bằng lời nói và bằng hành động. Phải không ngớt chúc tụng.
- Được sai đi truyền giáo thế chân các tông đồ.
Đức Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa khỏi các môn đệ và được đưa lên trời”.
Có điều lạ là các môn đệ không biến cuộc chia ly thành một tấn bi kịch. Tác giả thuật lại rằng các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Dường như các ông đã được soi sáng cho hiểu rằng: Đức Giêsu đã hoàn thành trọn vẹn sứ mạng cứu thế của Người. Từ nay đến lượt các ông có nhiệm vụ làm chứng.
Biến cố Lên Trời cho thấy công trình cứu độ này đã hoàn thành; mọi điều Thánh Kinh loan báo đều là lời của Thiên Chúa. Tất cả đều đã được thực hiện, cả đến việc phục sinh. Từ nay, làm cho thế giới sám hối trở lại.
Biến cố Lên Trời chứng tỏ rằng Đức Giêsu chuyển giao nhiệm vụ cho các chứng nhân. Giờ đây đến lượt các môn các đệ hoạt động. Họ có nhiệm vụ làm cho kế hoạch đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu được tỏ hiện cho mọi dân mọi nước.
Đồng thời biến cố lên Trời cũng còn la một lời hứa. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho các chứng nhân của Đức Giêsu. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho họ từ trời cao. Sức mạnh ấy củng cố trí tuệ và tâm hồn các ông, sẽ biến các ông nên can đảm.
Biến cố Lên trời là lơi chúc phúc từ trời. Một phúc lành làm cho con người cảm nghiệm năng lực của Thiên Chúa thấm nhập vào mình, cảm thấy mình được tôn trọng trong tự do và có khả năng sáng tạo để đạt kết quả.
Biến cố Lên Trời còn được tiếp nối bằng lời cầu nguyện vui tươi và tinh thần hoan hỉ. Các môn đệ không bị mồ côi chút nào. Các ông có Chúa Thánh Thần ở cùng. Các ông ở nhà của Người là Đền thờ. Các ông ca tụng những thiện hảo của Thiên Chúa. Các ông chúc tụng Người.
***
Niềm vui của ta, hỏi rằng có ngang tầm với niềm vui của các môn đệ đầu tiên không? Lời cầu nguyện của ta, có hòa nhập với lời tạ ơn của các ông không? Cuộc sống thường ngày của ta có phải là cuộc dấn thân truyền giáo theo chân các tông đồ không?
Bởi vì biến cố Lên Trời của Chúa phải được sống và được cử hành như thế đó.
(Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang)
- Hôm nay, Chúa Giêsu về trời, về thiên đàng.
Trời, thiên đàng, chính là quê hương thật của chúng ta. / Chúa Cha rất yêu thương chúng ta. Ngài lo lắng đủ cách để cho mỗi người chúng ta được phước thiên đàng. Ngài cho Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc chúng ta, để đưa chúng ta về thiên đàng với Ngài.
- Chúa Giêsu nói rất rõ về thiên đàng.
Ngài nói Ngài bởi trời, bởi thiên đàng mà đến: “Tôi là bánh từ trời xuống.” (Ga 6,41), “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). / Ngài nói Ngài là Con của Cha ở trên trời: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). / Ngài nói rõ chuyện Ngài về trời, về thiên đàng, để dọn chỗ cho chúng ta. Thật là sung sướng khi mỗi người chúng ta được Chúa Giêsu giữ sẵn chỗ trên thiên đàng: “Các con đừng lo, hãy tin vào Thầy. Có nhiều chỗ ở trong nhà Cha Thầy…Thầy đi về trời để dọn chỗ cho các con, rồi Thầy lại đến đón các con về cùng Thầy để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó với Thầy.” (Ga 14,1-3) / Ngài khuyến khích chúng ta hãy tìm cho được của cải trên trời, trên thiên đàng: “Các con đừng tích trữ của cải ở dưới đất, nơi bị mối mọt đục khoét và kẻ trộm đục vách lấy mất. Các con hãy tích trữ của cải ở trên trời, nơi mối mọt không đục khoét được, nơi kẻ trộm không đào vách lấy được.” (Mt 6,19-20) / Ngài lại còn khuyến khích chúng ta vui mừng vì được phần thưởng trên nước thiên đàng: “Các con đừng vui mừng vì trừ được ma quỷ, các con chỉ nên vui mừng vì tên các con được ghi khắc trên nước thiên đàng” (Lc 10,20). / Ngài dạy chúng ta hằng ngày phải cầu nguyện với Chúa Cha của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha chúng con ở trên trời.” (Mt 6,9) / Ngài dùng nhiều hình ảnh tốt đẹp để nói về thiên đàng: thiên đàng là một tiệc cưới rất vui vẻ (Mt 22, 1-2), một kho vàng đầy giá trị (Mt 13,44), một viên ngọc vô cùng quý báu (Mt 13,45).
- So sánh đời sống trên thiên đàng và đời sống dưới trần gian này.
Khi biết về thiên đàng như lời Chúa Giêsu dạy, người Công Giáo chúng ta thấy trần gian này không có được hạnh phúc nếu Con Thiên Chúa không xuống thế cứu chuộc loài người. / Trần gian này là nơi đầy đau khổ: sinh ra đã khóc, lớn lên phải cực, lại thêm bệnh tật, rồi phải già yếu, phải hấp hối và phải chết! / Trần gian này là nơi đầy phỉnh gạt: tiền bạc, danh vọng, sung sướng mà thế gian ban tặng cho những ai theo nó, nói là rất hạnh phúc, rất tuyệt vời, nhưng trong thực tế, chúng là những điều rất chóng tàn phai. / Nếu chúng ta không tin có thiên đàng ở đời sau, nếu chúng ta chỉ biết có thiên đàng trên mặt đất này, thế nào chúng ta cũng gặt hái buồn phiền, thất vọng và chán nản. / Cuộc sống của chúng ta trên trần gian này chỉ là tạm thời và thật là vắn vỏi. Đời sống mai sau, hoặc là sống bên Chúa, hoặc là ở với ma quỷ, mới thật là đời đời, vĩnh viễn. Ai sống như ý Chúa muốn và tuân giữ các luật Chúa truyền, mới được phần thưởng sống hạnh phúc đời đời sau này với Chúa trên thiên đàng.
- Thiên đàng là nơi đầy hạnh phúc thật.
Trên thiên đàng, hạnh phúc không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận! / Thiên đàng là nơi ta có một cuộc sống đời đời hạnh phúc mà Chúa dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài. / Trên thiên đàng, không còn tội lỗi, không còn sự chết, không phải buồn sầu, đau đớn và bệnh tật. / Trên thiên đàng, ta sẽ sống hạnh phúc đời đời bên cạnh Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ. Trên thiên đàng, chúng ta sẽ được hân hạnh làm bạn với các thánh thiên thần và tất cả các thánh nam nữ. / Trên thiên đàng, chúng ta sẽ gặp lại mọi người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, bạn hữu, thân nhân, ân nhân. / Trên thiên đàng, những sự ngày nay chúng ta không biết, lúc đó, chúng ta sẽ biết được hết. / Trên thiên đàng, thân xác chúng ta được biến hoá một cách tuyệt diệu để thưởng thức mọi vẻ đẹp thiên nhiên trong vũ trụ này. / Thiên đàng cũng là nơi đầy bất ngờ cho chúng ta. Bất ngờ về những người được lên thiên đàng: những người khiêm nhượng, không ai biết, như những người thu thuế trong Phúc Âm; những người bị xã hội khinh chê, ruồng bỏ, như người ăn mày Ladarô trong Phúc Âm; những người tội lỗi nặng nề nhưng biết ăn năn chừa cải, như người trộm lành trong Phúc Âm; những người hèn mọn bé nhỏ và những người có tinh thần trẻ nhỏ như lời Chúa đã phán rõ trong Phúc Âm. Bất ngờ về những việc được thưởng trên thiên đàng: những việc nhỏ hèn, những việc không ai thấy, những việc không ai biết.
- Để được lên thiên đàng, chúng ta phải muốn thật trong khi cầu nguyện.
Thánh Tôma tiến sĩ đã trả lời câu này cho ta: “Phải thật lòng muốn lên thiên đàng”. / Có nhiều loại muốn: có loại muốn hời hợt, muốn qua loa, muốn rồi bỏ; có loại muốn tích cực, muốn triệt để, muốn thật. / Thứ nhất, phải muốn thật trong khi cầu nguyện. / Được lên thiên đàng là một ơn vô cùng cao quý, vô cùng trọng đại. Chúng ta phải luôn luôn cầu xin cho được ơn ấy. Thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ” (Ph 212) / Bền đổ cầu xin, chúng ta sẽ được ơn tuyệt vời này. Chúa Giêsu đã từng phán: “Ai xin thì sẽ được,…”
- Để được lên thiên đàng, chúng ta phải muốn thật trong khi khinh chê những sự thế gian chóng qua này.
Có kẻ sống duy vật, duy lạc. Họ xem trái đất này là thiên đàng vật chất. / Đối với họ, tiền bạc, danh vọng, khoái lạc vật chất là trên hết. / Họ là đồ đệ của vua Sardanapalô, hoàng đế xứ Assyria ngày xưa. Vua này chỉ biết ăn chơi sung sướng, phạm đủ mọi tội lỗi trên đời. Vua bắt đúc tượng mình bằng đồng, và truyền khi chết, dựng tượng đó nơi công trường. Dưới bức tượng, vua cho khắc câu để truyền lại cho hậu thế: “Ớ khách qua đường, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi, ngoài ra, mọi sự khác đều vô ích.”/ Ai muốn lên thiên đàng, không được sống như ông vua này, nhưng phải biết khinh chê những sự giả dối chóng qua của thế gian. Họ than lên như thánh Inhaxiô: “Ôi, trái đất xem ra thật không đáng gì khi tôi nghĩ đến thiên đàng.” / Khi điệu thánh Cêcilia đi xử tử, quan và đao phủ khuyên cô rằng: “Hỡi cô, cô hãy nhìn tuổi thanh xuân của cô. Tuổi cô tươi xinh như mộng. Cô hãy biết rằng cô là người vợ của một bậc sang trọng giàu có. Cô hãy nghĩ lại đi.” / Thánh nữ liền trả lời: “Tôi không nghĩ lại gì hết. Tôi mất bùn đất nhưng được lại vàng bạc châu báu. Tôi mất đời sống khốn khổ trên mặt đất, nhưng được đời sống sung sướng muôn đời trên thiên đàng. Thân xác này héo khô tan nát trên mặt đất, nhưng tôi lại được một thân xác đầy đẹp đẽ và đầy ánh sáng trên thiên đàng.”
- Để được lên thiên đàng, chúng ta phải muốn thật trong khi chống lại những nguy hiểm trên đời này.
Con đường đưa chúng ta về trời là con đường hẹp, đầy chông gai, đau khổ, thánh giá. Chính Chúa Giêsu đã dẫn Đức Mẹ đi trên con đường này, và giờ đây, Ngài cũng dẫn chúng ta đi như vậy. Chúng ta phải mạnh mẽ tiến lên trên con đường đầy khó khăn này để về cho được nước thiên đàng. / Ngày xưa, vua Alaric dẫn đạo binh đi chiếm nước Ý. Khi gặp một ngọn núi cao, binh sĩ uể oải nhụt chí, vua liền hét to: “Tiến lên, chúng ta sẽ chiếm được thành Rôma.” Khi gặp một con sông dài chắn ngang, binh sĩ chán nản, vua Alaric hét to: “Tiến lên, chúng ta sẽ chiếm được thành Rôma.” Khi gặp sức chống cự của binh lính Ý, binh sĩ vua Alaric sắp ngã lòng, vua liền hét to: “Tiến lên, chúng ta sẽ chiếm được thành Rôma.” Và nhờ thế, vua Alaric và binh sĩ của vua đã chiếm được thành Rôma và nước Ý. / Phần chúng ta, không phải chiến đấu để chiếm một nước chóng qua, hư nát, nhưng là một nước vĩnh viễn, đầy tràn hạnh phúc, đó là nước thiên đàng. / Mỗi lần tội lỗi, ma quỷ, xác thịt, thế gian, khó khăn, đau khổ hồn xác chặn đứng con đường về thiên đàng của chúng ta, chúng ta hãy mạnh mẽ hô to: “Tiến lên, ta sẽ chiếm được nước thiên đàng.”
- “Con chỉ mong được lên thiên đàng mà thôi!”
Nhà bác học Le Verrier có nhiều phát minh lớn lao về thiên văn. Đức Cha địa phận khen ông: “Danh tiếng ông lên tận các ngôi sa ”. Ông khiêm nhượng trả lời: “Xin Đức Cha cầu nguyện cho con, con chỉ mong được lên thiên đàng mà thôi. ”
- Hãy lo cho đời sống vĩnh cửu ngay bây giờ!
Thánh Caminlê đệ Lenly, khi thấy mồ mả, thường suy nghĩ: “Nếu những người chết đang nằm đây, được trở lại cõi thế, thì có sự khó nhọc nào mà họ tránh né chẳng nhận để được sống đời đời? Còn tôi, tôi còn đang có thời giờ, mà tôi có làm gì để lo cho đời sống đời đời không?”
- “Vua là kẻ ngu dại nhất trên đời!”
Ông vua kia nói với tên hề trong cung điện: “Ngươi là kẻ ngu dại nhất trên đời. Ngươi hãy cầm chiếc gậy này. Khi thấy ai ngu dại hơn ngươi, ngươi hãy trao chiếc gậy này cho người đó.” / Khi vua sắp chết, tên hề hỏi vua: “Vua sắp đi đâu?” / “Sắp đi qua thế giới khác.” / “Khi nào về? Một tháng sao?” / “Không.” / “Một năm sao?” / “Không! Không bao giờ trở về!” / “Thế vua có chuẩn bị hành lý gì không?” / “Không!” / “Thế thì vua hãy cầm lấy chiếc gậy này. Vua là kẻ ngu dại nhất trên đời!”
- Tả cảnh thiên đàng không nổi.
Một người bạn thân yêu của thánh Augustinô yêu cầu ngài viết một cuốn sách về thiên đàng. / Thánh Augustinô vào phòng, đóng cửa lại, cố suy nghĩ để viết. Ngài viết thư xin thánh Hiêrônimô giải đáp một vài thắc mắc. Bỗng Thánh Augustinô nghe một giọng nói vang lên: “Hỡi Augustinô, anh muốn gì đó? Anh muốn dùng ngòi bút để hiểu sự bao la của trời đất sao? Anh tự hào muốn thấy điều con mắt phàm trần không bao giờ thấy được sao? Anh muốn hiểu điều anh không thể hiểu được sao?” / Đó là giọng của Hiêrônimô. Hôm đó chính là ngày Thánh Hiêrônimô qua đời. / Từ đó, Thánh Augustinô bỏ ý định viết cuốn sách về Thiên Đàng.
- “Ôi Thiên Đàng! Ôi Thiên Đàng!” Hai tiếng này làm cho linh hồn tôi được bằng an vui vẻ.”
Một vị tu rừng tìm cách sống trong một cái hang nhỏ và tối tăm, đêm ngày ăn chay, đánh tội, hãm mình. / Ngày kia, một đoàn người, gồm những kẻ mộ mến tài đức của ngài, lên rừng đến thăm. / Thấy cách sống của vị tu rừng này, họ bỡ ngỡ hỏi: “Làm sao ngài có thể ở trong này một ngày mà thôi?” / “Quý vị hãy vào, nhìn qua cái lỗ này, quý vị sẽ rõ.” / Họ vào và thấy: nơi tường hang rêu phủ, có một lỗ hổng, để lộ ra một góc trời. / Họ không hiểu. Vị tu rừng liền cắt nghĩa: “Góc trời đó là nguồn an ủi của tôi. Những khi tôi buồn chán, tôi nhìn ra góc trời đó và kêu lên: “Ôi Thiên Đàng! Ôi Thiên Đàng!” Hai tiếng này làm cho linh hồn tôi được bằng an vui vẻ.”
- Người Công Giáo còn có Quê Trời!
Ao có bờ./ Sông có bến./ Người đời có Quê Đất./ Người Công Giáo còn có Quê Trời.