Hiệp Sống Tin Mừng Vọng & CN Phục Sinh B

print

Hiệp Sống Tin Mừng

Đêm Vọng Phục Sinh B

Cv 10,34.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Mc 16,1-8

CÙNG CHÚA CHIẾN THẮNG SỰ CHẾT

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 16,1-8.

(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà MA-RI-A mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn tin là họ hãy trở về xứ Ga-li-lê để gặp Người tại đó.        

  1. CHÚ THÍCH:

– C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, cuối ngày Thứ Bảy và bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cùng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt nên gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi đã xuất hiện tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong mấy người đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1; Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40), có mặt khi mai táng và đã quan sát nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc mấy phụ nữ đã đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên gọi, cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Hội Thánh sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian Đức Giê-su được môn đệ mai táng quá ngắn và được làm vội vã, nên mấy phụ nữ này đã phải mua thêm dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc của ngày Chúa Nhật, tức khoảng 6 giờ sáng.

C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.

C 5-6: + Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một người phàm nữa.

C 7-8: + Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu thơm cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất mà dân Do thái sống lẫn lộn với các lương dân.

HỎI: So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: Anh La-da-rô, người con trai bà góa thành Na-in, con gái ông Gia-ia… có giống với thân xác loài người được sống lại vào ngày tận thế không?

– ĐÁP:

+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho ông Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, cho ông xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương nơi cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng cho thấy Người không phải là ma vì có xương thịt mà các ông có thể nhìn xem và sờ thấy. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiến của các ông (x Lc 24,38-43).

+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà vẫn không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa nhà Tiệc Ly đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh cũng hiện diện ở khắp nơi nên dù không hiện diện cụ thể mà vẫn nghe được lời Tô-ma nói với các anh em môn đệ (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh tuy đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng thân xác Người có đặc tính thiêng liêng, nên người ta không thể xác định Người đang ở nơi đâu (x. Lc 24,51 ; Pl 2, 9-11).

+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được khiêng đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh. Người ta sẽ bước vào một cuộc sống mới vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):
  2. CÂU CHUYỆN:

1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH XUA TAN BÓNG TỐI GIAN ÁC TỘI LỖI:

JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng một hôm đang thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa Kỳ. Giữa buổi diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: “Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.

Đèn tắt, sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!”. Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên những tiếng hô: “Đã thấy!”.

Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!”. Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng.

Ông John Keller kết luận: “Nếu tất cả mọi người chúng ta hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.

Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ dần dần bớt tối đi. Nếu tất cả mọi người đều thắp sáng lên ngọn đèn tin yêu của mình, thì thế giới này sẽ bừng sáng lên.

Mỗi tín hữu chúng ta đều có cây đèn đức tin, nếu được cháy sáng đức cậy và đức mến, thì mỗi gia đình, cộng đoàn Hội Thánh, và cả thế giới sẽ rực sáng lên tình thương, niềm vui và ơn cứu độ như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

2) CÂU CHUYỆN LỘT XÁC NÊN MỚI:

Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là SƠ-SIU ĐƠ MIU-Ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tung tăng đùa giỡn trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông đang ngồi, và nằm im như chết. Đơ Miu-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Miu-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy dường như nó đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng dần lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn mới nhập bọn kia. Đơ Miu-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.

Ai trong chúng ta cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết rồi sống lại trong thời gian chưa đầy 3 ngày. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi phục sinh và đã hiện ra gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó…

3) THANH TẨY MÙI HỔ DỮ:

Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp” như sau:

Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, lại vừa huấn luyện thú của một đoàn xiếc. Người chồng, dù nhận thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thú không thể thiếu mùi ấy, vì nhờ đó mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và ngoan ngoãn nghe theo cô. Rồi một hôm, hai vợ chồng giận nhau và cơn giận kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành bằng cách tẩy sạch mùi cọp bằng một loại nước hoa thơm phứ và hai người đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đến đêm hôm sau thì người vợ đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị trước đó chị đã thuần hóa được. Vì nó đã không còn nhận ra chị khi mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và chỉ trong phút chốc, chị đã bị tan xác dưới móng vuốt của con cọp mà chị hết lòng yêu thương.

Qua câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì thương chồng, chị đã chấp nhận tẩy rửa mùi cọp nơi mình và đã hy sinh mạng sống mình do hành động ấy. Đức Giê-su đã yêu và yêu đến cùng, nên đã hiến mạng sống mình vì chúng ta như Người đã nói:  “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong Đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng chịu mai táng vơi Đức Ki-tô, chôn vùi đi con người cũ tội lỗi với mùi dục vọng sai trái, để được sống lại với Người như lời thánh Phaolô: “Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24). 

4) TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH SẼ KHÔNG BUỒN SẦU VÌ MẤT NGƯỜI THÂN:

Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: “Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giê-su”. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: “Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không hả mẹ?” Bà mẹ đáp: “Phải”. Bé hỏi tiếp: “Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại buồn và nói là em con đã mất?” Bà mẹ chợt tỉnh ra nên từ đó bà không còn cảm thấy đau buồn nữa, vì ý thức rằng con mình giờ đang vui hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng.

  1. SUY NIỆM:

Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng vững chắc và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người tín hữu, nhờ đó chúng ta mới có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân của Người.

1) Ý nghĩa của mầu nhiệm Phục Sinh:

  1. a) Đức Ki-tô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng cùng được sống lại với Người: Khi sống lại Đức Ki-tô đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là sự nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của phục sinh vinh quang. Ánh sáng của Đức Ki-tô đã bừng lên trong đêm tối, và niềm hy vọng thân xác loài người sau này sẽ sống lại không phải là sự hão huyền. Đến ngày tận thế Đức Ki-tô sẽ lại đến phán xét chung nhân loại. Người sẽ cho những ai tin vào Người, thể hiện qua việc yêu thương phục vụ Người hiện thân nơi những người nghèo đói bất hạnh, cũng sẽ được vào trong vinh quang phục sinh với Người.
  2. b) Người tín hữu cần sống niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh như thế nào?

Chết với Chúa Ki-tô là loại trừ con người cũ của chúng ta đang nằm dưới ách thống trị của các thói hư như tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để con người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô được lớn lên.

Sống lại với Chúa Ki-tô là mặc lấy Chúa Ki-tô như lời thánh Phao-lô: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).

Mặc lấy Chúa Ki-tô là có những tâm tình cao đẹp, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Ki-tô, biết thứ tha, yêu thương và chân thành phục vụ tha nhân như Chúa Ki-tô.

Làm được như thế, chắc chắn chúng ta sau này sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Phục Sinh.

2) Chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:

  1. a) Các môn đệ đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:

Sở dĩ các môn đệ đã có thể làm chứng cho Chúa Giêrsu là nhờ được ơn Thần Khí của Người biến đổi: Từ thái độ sợ hãi trốn chạy trở nên can đảm công khai nhận mình là môn đệ Chúa, Từ thái độ hèn nhát phản bội trở nên trung thành can đảm tuyên xưng đức tin, vui mừng chịu đòn vọt tù tội và sẵn lòng chịu chết vì đức tin. Chắc chắn các ngài đã gặp được Chúa Phục Sinh nên lời chứng của các ngài mới đầy xác tín và có sức thuyết phục, đến nỗi các tín hữu đầu tiên đã sẵn lòng dâng của cải mình có làm của chung, chấp nhận cuộc sống chui lủi trốn chạy, sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau. Người ta sẽ không thể lý giải được sự biến đổi kỳ diệu đó nếu các ngài đã không gặp được Chúa Phục Sinh.

  1. b) Các tín hữu hôm nay phải làm chứng cho Chúa như thế nào và bằng cách nào?:

– Làm chứng cho Chúa hôm nay không phải chỉ là thuật lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Đức Ki-tô đã chiến thắng thần chết, đã từ cõi chết sống lại mà chính chúng ta đã được gặp Chúa và được Người biến đổi ra sao. 

– Làm chứng cho Chúa hôm nay là loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biểu lộ dung nhan của Người qua lối sống quên mình vị tha và bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa.

– Chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Người giống như các môn đệ Chúa xưa. Ngày nay, để được biến đổi giống như các ngài, chúng ta cần năng đến tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm hiểu ý Chúa, quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Rồi còn phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, đón nhận được Thần Khí Phục Sinh để chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu như Người đã phán: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). 

  1. THẢO LUẬN: Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?
  2. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong! Nhưng lạy Chúa.  Con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi… Thế mà trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông, và nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để ban ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa sau này.         

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

***

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CN PHỤC SINH ABC

Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN

I.HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9

(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

2.Ý CHÍNH:

Gio-an viết Tin mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Riêng đoạn Tin mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.

3.CHÚ THÍCH:

-C 1: +Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày: Ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và khởi đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên đã gọi đó là ngày Chúa Nhật hay ngày của Chúa. +Sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). +Ma-ri-a Mác-đa-la: Đây là Ma-ri-a quê tại Mác-đa-la. Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía Tây Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét. Bà này đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Đức Giê-su (x. Lc 8,2). Số 7 xuất hiện khá nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái giáo và Kinh Thánh Tân Ước của Ki-tô giáo. Nó được coi là con số hoàn mỹ cả về số lượng lẫn tâm linh. Bà Ma-ri-a này là một trong những phụ nữ đầu tiên ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và chứng kiến hai môn đệ mai táng Đức Giê-su (x. Mt 27,61; Mc 15,47).

-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô, là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Nên Ma-ri-a Mác-đa-la đã phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. +Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói chỉ có trong Tin mừng Gio-an. Một kiểu nói khiêm tốn: tác giả không muốn nhắc tên riêng của mình. +Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa phục sinh như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ nói theo suy luận tự nhiên khi nghĩ rằng có ai đó đã đến lấy xác Thầy và đưa ra khỏi mồ. “Chúng tôi” ám chỉ Ma-ri-a không đi một mình mà cùng đi với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).

-C 3-4: +Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ thông báo mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. Điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông này. +Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản vì ông còn trẻ nên khỏe hơn và cũng vì có lòng mến Thầy hơn.

-C 5-6: +Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. +Nhưng không vào: Có thể Gio-an chờ để nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông đang bàng hoàng trước sự kiện cửa mộ mở và mải suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô kịp chạy đến nơi. +Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô vốn tính quả quyết nên đã lập tức vào mộ khi vừa đến nơi.

-C 7-9: +Và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ, các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại đi ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần sự giúp đỡ của người đời mới trỗi dậy ra khỏi mồ được. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ thế nào thì cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại là dấu chỉ cho thấy Đức Giê-su đã sống lại. Vì kẻ trộm sẽ chẳng chịu mất nhiều thời giờ ngồi cởi các dây vải ra xếp gọn để vào một nơi rồi mới đem xác đi ! +Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác xếp gọn để lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy sống lại, dù Người đã ba lần báo trước (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy mồ trống, các khăn vải liệm xác và dây băng được cuộn lại để riêng một chỗ, thì hai ông nhớ lại những lời Thánh Kinh đã được ứng nghiệm và tin Đức Giê-su đã thực sự từ cõi chết sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).

4.CÂU HỎI:

1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật?

2) So sánh các lời tường thuật của bốn tác giả Tin mừng về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa có giống nhau không?

3) Bạn biết gì về bà Ma-ri-a Mác-đa-la?

4) Bà Ma-ri-a đã báo tin xác Thầy biến mất cho 2 Tông đồ nào? Tại sao?

5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin mầu nhiệm Thầy phục sinh không?

6) Thái độ chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy ý thức trách nhiệm của 2 ông thế nào?

7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô?

8) Tại sao Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào mộ ngay?

9) Phê-rô và Gio-an cùng thấy hiện tượng mồ trống, băng vải và khăn che đầu được xếp gọn, nhưng ông nào đã tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh trước?

10) Do đâu mà hai ông Gio-an và Phê-rô tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không bị kẻ gian lấy cắp như báo cáo của bà Ma-ri-a trước đó?

II.SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) THẾ GIỚI SẼ RA SAO NẾU KHÔNG CÒN ĐỨC TIN VÀO CHÚA?

 “THẾ GIỚI TRONG TĂM TỐI” là tựa đề của cuốn phim diễn tả câu chuyện về một nhà khảo cổ học lừng danh, đã tổ chức một công cuộc khai quật mang tính khoa học ở thủ đô Giê-ru-sa-lem.

Ngọn đồi Golgotha đã được đào bới cẩn thận, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gio-an, xác của Chúa Giê-su được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, rồi một ngày mọ nhà khảo cổ đã cho biết: “Tôi đã tìm thấy xác của ông Giê-su”. Rồi ông đã tổ chức cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao tháng ngày đào bới vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người khô đét, nhưng vẫn còn nhận ra tay chân bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm.

Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện phục sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn đây”.

Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm thấy xác ông Giê-su:

– Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.

– Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.

– Chuông các thánh đường im tiếng.

– Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.

– Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống…

– Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.

Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong ngôi mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới này”.

Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết (theo Radio Veritas)

2) SỐNG LẠI THẬT VỀ PHẦN LINH HỒN NHỜ LẮNG NGHE LỜI CHÚA:

Bà REGINA RILEY hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã bỏ rơi đức tin nhiều năm… Bỗng vào một buổi sáng Chúa nhật, bà không thể tin vào mắt mình khi thấy hai đứa con đi vào nhà thờ ngồi ở hàng ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào đã khiến các con trở về với Chúa như vậy. Đứa em đã mau mắn kể lại như sau:

Trong thời gian đi nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, chúng con thấy một cụ già không mang theo dù, người ướt sũng đang đội mưa bước đi với dáng điệu khập khiễng như sắp ngã quỵ.

Chúng con liền dừng lại và mời cụ lên xe. Sau đó cụ cho biết mình đang đi nhà thờ cách đó 5 cây số để dự lễ Chúa Nhật. Chúng con liền đưa cụ đến tận nhà thờ. Nhưng vì trời vẫn còn mưa nên hai anh em vào nhà thờ dự lễ vói ý định sẽ đưa cụ về nhà sau lễ. Lạ thay, sau khi được nghe Lời Chúa và bài giảng của vị linh mục, chúng con cảm thấy rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như đứa con được trở về sau nhiều ngày đi xa nhà.

Hai anh em trong câu chuyện trên đã một thời tin Chúa. Nhưng giông tố thời niên thiếu đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức tuổi ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện và loan báo một tin mừng bằng gương sáng đạo đức là quyết tâm đội mưa đi dự lễ Chúa Nhật. Điều này như lời Chúa nhắc bảo: “Thầy hẹn gặp hai con tại nhà thờ”. Nhờ được gặp Chúa mà đức tin của hai anh em đã sống lại.

3) VÌ THEO ĐẠO MÀ TÔI ĐÃ MẤT TẤT CẢ:

Trong một xưởng thợ, một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau nói lời khích bác chê bai Đạo Công Giáo. Họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người… Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã lên tiếng: “Phải, vì Đạo Chúa mà tôi đã bị mất tất cả!”

Mọi người đều hướng mắt nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: “Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán làng xóm, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê xa lánh. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi bao tâm địa xấu xa, các đam mê xấu khác nữa… Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến tổ ấm yêu đương trở thành hỏa ngục. Thì nay, mọi người trong gia đình tôi đã nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, do theo đạo mà tôi đã bị mất tất cả “.

Sau đó, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: “Hỡi các bạn, bây giờ các bạn đã biết Đạo Công Giáo đã khiến tôi mất đi những gì rồi. Vậy các bạn cũng hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan với các bạn rằng, các bạn sẽ không phải hối hận đâu”.

4) CHU TOÀN SỨ MỆNH RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC:

Một câu chuyện ngụ ngôn về sứ mệnh được sai đi của Hội Thánh như sau:

Sau khi chịu chết trên thập giá, Chúa Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn của Người vẫn còn mang những dấu đau thương từ những cây đinh và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã hỏi Chúa Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người gây ra?” Chúa Giê-su đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay cho tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại hỏi: “Thế thì Chúa đã làm gì để con cái loài người nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa Giê-su đáp: “Ta đã sai các môn đệ đi loan báo tin vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin mừng Cứu Độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của con cái loài người, tỏ ra nghi ngờ họ, nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên không thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ ác mà chán nản muốn buông xuôi thì sao? Chúa có lập một chương trình cứu độ nào khác nữa không?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người luôn nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh là Thần Khí của Ta đến cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó”.

3.SUY NIỆM:

Bằng lối văn súc tích Tin mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay như sau:

1) Lòng mến đã thúc bách Ma-ri-a Mác-đa-la mau mắn đi thăm mồ Chúa:

Niềm vui phục sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ Đức Giê-su ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mồ đã biến mất. Trước đó chính lòng mến đã khiến bà can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại để chứng kiến hai môn đệ an táng Thầy vào  chiều Thứ Sáu (x. Mt 27,61). Giờ đây lòng mến lại thôi thúc Ma-ri-a và cùng với mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để xức trên xác Đức Giê-su (x. Mc 16,2). Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy cắp xác Thầy và bà không biết họ để Người ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a chẳng hề dám nghĩ là Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy mang về mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a lại quay ra mồ tiếp tục than khóc. Trong lần ra mộ này, bà đã vinh dự là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

2) Lòng mến đã làm cho môn đệ Gio-an nhận biết Chúa Phục Sinh trước anh em:

Gio-an là một trong bốn môn đệ được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Ông là một trong ba môn đệ được được chứng kiến Người biến hình (x Mt 17,1) và cũng là môn đệ được Thầy yêu quý nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thúc bách ông, làm cho ông trở thành người can đảm nhất: Dám đi theo sau khi Thầy bị bắt và bị xét xử trước hai tòa án đạo đời; Dám đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trao phó Đức Ma-ri-a làm mẹ và đã đón Mẹ Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng chính tình yêu ấy đã khiến Gio-an chạy nhanh hơn và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8). Cũng tình yêu ấy đã giúp Gio-an trở thành người đầu tiên trong nhóm Mười Hai nhận ra Chúa tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7).

3) Lòng mến là điều kiện để được Chúa trao quyền mục tử chăn dắt đoàn chiên:

Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông tình nguyện bỏ mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), chứng kiến phép lạ Người làm cho một bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51) và được đi theo chứng kiến cảnh Thầy hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin mừng, Đức Giê-su thường đến trọ tại nhà Si-mon Phê-rô mỗi khi đi ngang (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em để tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được Người khen là có phúc, và hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông cũng được Đức Giê-su trao sứ vụ củng cố đức tin cho anh em sau khi ăn năn trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù có nhiều khuyết điểm như: khuyên Thầy đừng chấp nhận đi con đường thập giá vào vinh quang nên đã bị Người nặng lời quở trách (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Người giáo huấn về thái độ kém lòng tin (x Mt 14,31) hoặc khi không muốn được Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn có lỗi khi quá tự tin vào sức riêng mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x Mt 26,69-75).

Nhưng Phê-rô cũng có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Chúa đi “lưới bắt các linh hồn” (x Mt 4,18-20). Ông cũng hay được Thầy hỏi ý kiến như: có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17,24-27). Ông cũng hay bàn hỏi Thầy như phải tha thứ cho người khác đến mấy lần? (x Mt 18,21). Có lần ông đại diện anh em tuyên xưng lòng tin và hứa trung thành theo Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông đã hành động bảo vệ Thầy bằng cách rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi Thầy bị bắt (x Ga 18,10). Ông không khiếp nhược trốn chạy như các người khác, mà cùng Gio-an đi theo để biết diễn tiến về cuộc khổ nạn của Người (x Ga 18,15). Trong Tin mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị đánh cắp, Phê-rô cùng với Gio-an chạy ra mộ kiểm chứng thựic hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô và Gio-an đã tin Thầy đã phục sinh (x Ga 20,8-9). Phê-rô còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Hai (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo người mặc áo trắng đứng trên bờ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào để sớm gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Chúa Phục Sinh trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Thầy lúc cuối đời (x Ga 21,18-19).

4) Giá trị của đức Tin và đức Mến trong cuộc sống của người tín hữu:

Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối từ bỏ tội lỗi, thành người đầu tiên đi ra thăm mồ và được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ vụ loan Tin mừng cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước các anh em. Lòng mến Thầy làm cho Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông Phê-rô đã sớm ăn năn sám hối và đã được Thầy tín nhiệm trao cho sứ vụ làm đá tảng đức tin, bảo vệ nâng đỡ đức tin của các anh em, và còn được trao quyền chăn dắt đoàn chiên là Hội Thánh.

Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hoặc hốt hoảng khi gặp phải đau khổ thất bại. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất, những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm trong nước mắt đau thương như Ma-ri-a Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng sự chết đã không thể giam hãm được Đức Giê-su. Sự sống đã trỗi dậy từ sự chết. Ánh Sáng đã bừng lên từ trong bóng tối. Tình Yêu đã chiến thắng hận thù và Tin mừng Phục Sinh đã và sẽ được loan truyền đi khắp thế gian.

4.THẢO LUẬN:

1) Nơi Đức Giê-su: sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không?

2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ giải cứu và giúp bạn trỗi dậy?

5.NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH,

Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời con mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm cho con luôn vững tâm giữa bao sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt con luôn rạng rỡ.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con luôn mau mắn trỗi dậy sau mỗi lần vấp ngã.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần luôn tác động đổi mới đời con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH – HHTM