Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 3 Mùa Vọng

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 3 Mùa Vọng

Thứ Hai tuần 3 Mùa Vọng.

Thứ Ba tuần 3 Mùa Vọng.

Thứ Tư tuần 3 Mùa Vọng.

Thứ Năm tuần 3 Mùa Vọng.

Thứ Sáu tuần 3 Mùa Vọng.

Thứ Hai tuần 3 Mùa Vọng

LỜI CHÚA: Mt 21, 23-27

Khi ấy Chúa Giêsu vào Đền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: “Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?”

Chúa Giêsu trả lời: “Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. – Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?”

Họ bàn tính với nhau rằng: “Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri”.

Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không được biết”. Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó”.

 

Suy Niệm 1: Gioan là một ngôn sứ

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S. J. )

“Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?

Ai đã cho ông quyền ấy” (c. 23).

Hai câu hỏi của giới lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem đặt cho Đức Giêsu.

Làm các điều ấy là vào thành thánh giữa đoàn dân tung hô vang dội,

là đuổi những người buôn bán trong Đền thờ,

là chữa bệnh và giảng dạy ở đó (Mt 21, 12-15).

Ai là Đấng đã cho ông Giêsu quyền ấy?

Đây không phải là câu hỏi để thượng tế và kỳ mục tìm thông tin.

Đây là câu hỏi để họ tìm thêm lý lẽ nhằm bắt bẻ Đức Giêsu khi có dịp.

Đức Giêsu đã không trực tiếp trả lời câu hỏi này.

Hay đúng hơn Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi khác (c. 24).

Ngài chỉ hỏi họ đúng một điều thôi, về nguồn gốc phép rửa của Gioan.

“Do trời hay do người phàm”, do Thiên Chúa hay do loài người (c. 25).

Câu hỏi này lập tức đưa họ vào thế bị động, lưỡng nan.

Nếu do Thiên Chúa, tại sao họ lại không tin Gioan? (c. 25).

Nhưng họ lại không dám bảo phép rửa của Gioan là do người phàm,

vì dân chúng tin Gioan là một ngôn sứ (c. 26),

nghĩa là người của Thiên Chúa, người được sai để nói lời của Ngài.

Các thượng tế và kỳ mục đã không dám trả lời câu hỏi của Đức Giêsu.

Nếu nhìn nhận phép rửa của Gioan là đến từ Thiên Chúa,

thì họ cũng phải nhìn nhận Đức Giêsu,

vì Gioan làm chứng Đức Giêsu là Đấng Mêsia.

Điều này thì họ không hề muốn, vì nó đòi họ phải thay đổi cuộc sống,

thay đổi mọi lối suy nghĩ và mọi niềm tin xưa nay.

Ngược lại nếu coi thường phép rửa của Gioan, họ lại sợ dân chúng.

Họ không dám đi ngược với cái nhìn của dân, vì muốn được lòng dân.

Rõ ràng họ không có tự do để chọn một trong hai.

Đức Giêsu đã bắt họ phải công khai quan điểm của mình.

Nhưng họ đã chọn thái độ né tránh: “Chúng tôi không biết. ” (c. 27).

Nói câu này trước mặt dân chúng thì quả là khó nghe và khó tin.

Làm sao họ lại không biết chuyện quan trọng đó?

Vì họ không thỏa mãn điều kiện Đức Giêsu đưa ra (c. 24),

nên Ngài sẽ không trả lời cho họ biết Ngài dùng quyền nào (c. 27).

Thành thật với chính mình thật khó biết bao!

Đón nhận sự thật với trọn cả tâm hồn đòi phải trả giá.

Sự thật bao giờ cũng đòi ta đổi đời, không để ta yên.

Chính vì thế ta thích quanh co và dễ né tránh sự thật.

Nhưng dù ta có né tránh sự thật, thì sự thật vẫn cứ theo đuổi ta luôn.

Chẳng ai làm át được tiếng nói của sự thật.

Mùa Vọng là thời gian ra khỏi bóng tối của dối trá, để đón lấy sự thật.

Chỉ cần bớt một chút cứng cỏi của tự mãn về cái tôi,

thêm một chút mềm mại của tình yêu khiêm hạ,

là ta có cơ may gặp được chân lý như đám đông dân chúng.

Và chân lý sẽ cho ta được tự do (Ga 8, 32).

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin dẫn con vào nhà của con,

căn nhà của trái tim,

căn nhà vừa quen vừa lạ.

Xin hãy cho con thấy

những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co,

những mâu thuẫn và vô lý nơi con.

Xin hãy cho con thấy

những nhỏ mọn, ích kỷ,

những yếu đuối, khô khan,

những cứng cỏi và tự ái nơi con.

Xin cho con ý thức

những lo âu, sợ hãi

đang đè nặng làm con ngột ngạt,

những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,

những vết thương không biết bao giờ lành,

những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.

Lạy Chúa Giêsu,

xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.

Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,

hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.

Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,

bằng trái tim bao dung của Chúa.

Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,

trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn

để yêu mến mọi người. Amen.

 

Suy Niệm 2: Ngôi sao từ trời

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Rời khỏi Ai cập, dân Do thái dưới sự lãnh đạo của Mô sê đã tiêu diệt Ba-san, Ốc, A-mo-ri. Thấy vậy dân Mô-áp và Ma-đi-an sợ hãi, thuê thầy pháp Bi-lơ-am đến nguyền rủa Ít-ra-en. Nhưng được Chúa mặc khải, Bi-lơ-am, thay vì nguyền rủa, lại chúc phúc cho Ít-ra-en. Thay vì hạ nhục lại tôn vinh Ít-ra-en và loan báo sẽ có ngôi sao từ nhà Gia cóp xuất hiện khiến Ít-ra-en trổi vượt các dân khác: “Vua của nó cao cả hơn A-gác, và vương quốc nó được tôn vinh”. Vua Mô-áp tức giận, nhưng vẫn không tin Lời Chúa. Vì Lời Chúa đi ngược với quyền lợi của ông.

Thời Chúa Giêsu cũng vậy. Dân chúng tin tưởng lời rao giảng của Gio-an Tẩy giả. Nhưng cấp lãnh đạo không chấp nhận. Biết rõ sứ mạng Gio-an là từ trời, họ vẫn không muốn công nhận. Nhưng họ cũng không dám chống đối công khai. Vì họ sợ dân chúng là những người tin tưởng Gio-an. Hơn nữa Gio-an làm chứng về Chúa Giê-su. Nhận Gio-an tức là nhận Chúa Giê-su. Nên giai cấp Biệt phái càng không dám công khai chấp nhận.

So sánh Bi-lơ-am với các Biệt phái ta thấy: Bi-lơ-am có thiện chí còn Biệt phái thì không. Bi-lơ-am nói theo sự thật. Biệt phái trốn tránh sự thật. Bi-lơ-am phục thiện. Biệt phái cố chấp trong sai lầm. Bi-lơ-am tôn trọng sự thật dám bỏ quyền lợi. Biệt phái bảo vệ quyền lợi nên bỏ sự thật. Bi-lơ-am để cho Thần Khí hướng dẫn. Biệt phái theo xác thịt nên chống lại Thần Khí.

Chúa đang đến với ta. Nhưng ta có nhận ra và đón tiếp được Người hay không là tùy thái độ của ta. Nếu ta theo xác thịt, không dám từ bỏ cuộc sống theo dục vọng, xác thịt, ta sẽ không gặp được Chúa. Để có tâm hồn sẵn sàng, ta phải từ bỏ lối sống theo xác thịt, hoàn toàn theo sự hướng dẫn của Thần Khí.

Lạy Chúa, Ngôi Sao Từ Trời, xin đến cứu con, cho con được sức mạnh dứt lìa thói ươn lười, ủy mị, cắt đứt những hưởng thụ, những ham mê, để mạnh mẽ sống một cuộc sống mới trong Chúa và với Chúa. Lạy Ngôi Sao Từ Trời, xin hãy đến soi sáng tâm trí để con nhận biết sự thật, soi sáng đường con đi để con không vấp ngã trên đường đến với Chúa.

 

Suy Niệm 3: Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có

Trong tập sách “Án Tử Xuân Thu” có câu chuyện kể lại tài ứng xử của Án Tử như sau:

Khi Án Tử sắp sang nước Sở, vua Sở nghe thấy bảo với cận thần rằng: – Án Tử là người có tài ăn nói của nước Tề, nay muốn sang đây, ta muốn làm nhục, có cách gì không?

Cận thần thưa: – Ðể bao giờ Án Tử sang, cận thần sẽ tìm một người, cho trói lại và dẫn người ấy đến trước mặt vua để giả làm một người nước Tề bị bắt vì tội ăn trộm.

Lúc Án Tử đến nơi, vua Sở làm tiệc thiết đãi tử tế. Ðang giữa cuộc rượu, bỗng thấy hai tên lính điệu một người bị trói vào. Vua hỏi: – Tên kia tội gì mà phải trói thế?

Lính thưa: – Tên ấy là một người nước Tề mắc phải tội ăn trộm.

Vua đưa mắt nhìn Án Tử hỏi rằng: – Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ?

Án Tử đứng dậy thưa rằng:

– Chúng tôi trộm nghe thấy rằng: cây quất mọc ở đất Hoài Nam thì là quất ngọt, đem sang cấy ở đất Hoài Bắc thì quất chua, cành lá giống nhau mà quả lại chua ngọt khác nhau là tại làm sao? Tại vì thủy thổ khác nhau vậy. Nay thân sinh ở nước Tề thì không ăn trộm, sang ở nước Sở lại sinh ra trộm cắp, có lẽ vì lý do khác nhau về thủy thổ mà nó sinh ra như vậy chăng?

Sở Vương muốn làm nhục, làm hại Án Tử nhưng rồi trước bằng chứng về sự thực mà Án Tử đưa ra để biện minh, Sở Vương đành thúc thủ chịu cái nhục. Nhờ vào sự thật mà hậu quả đã đột ngột xoay chuyển dự liệu trù tính của kẻ bày mưu. Hoàn cảnh của Sở Vương lúc này cũng phần nào giống như tâm trạng của các thượng tế và kỳ lão khi họ lên tiếng muốn bắt bẻ Chúa Giêsu.

Bài trích sách Dân Số của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã tường thuật cho chúng ta về hành vi của Balaam, một thầy pháp của dân Moab. Ông được trao nhiệm vụ chúc dữ cho dân Israel dân Chúa. Thế nhưng, khi được đưa lên đỉnh núi Peor, ông lập đàn tế thần chuẩn bị lời chúc dữ. Nhìn xuống doanh trại của dân Israel, được thúc đẩy bởi Thần Khí của Giavê Thiên Chúa, một sự thật không thể cưỡng lại khiến cho từ miệng ông lời chúc dữ đã trở thành lời chúc lành.

Trong bài Tin Mừng, một cách nào đó câu trả lời của các thượng tế và kỳ lão đặt ra cũng mang hình thức tìm kiếm sự thật. Tuy nhiên, mục đích của họ lại khác hẳn, họ muốn bắt bẻ Chúa Giêsu, muốn tìm cớ hại Ngài. Tuy thế, Chúa Giêsu vẫn khoan dung trước thái độ cố chấp của họ. Ngài đặt ra cho họ một câu hỏi của Ngài không phải là một sự bắt bẻ hoặc gài bẫy họ để họ có dịp trở lại nhưng Ngài muốn đặt họ trước một sự thật, đó là Gioan Tẩy Giả kẻ dọn đường Chúa đến với phép rửa thống hối.

Quay ngược thời gian trở về với Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu cũng muốn khơi dậy nơi họ khởi động niềm tin vào Ngài, vì Gioan Tẩy Giả một vị tiên tri lớn của người Do Thái, cuộc đời và lời giảng của ông không một điểm nào đáng trách, bao người đã đến nghe ông giảng và họ lãnh nhận phép rửa thống hối. Thế mà chính bản thân ông, Gioan Tẩy Giả chỉ coi mình là tiếng kêu trong sa mạc, dọn đường cho một Ðấng đến sau ông. Trước Ðấng ấy, ông không đáng cởi dây giầy cho Ngài.

Lời của Gioan Tẩy Giả không phải là một câu nói hàm ý tâng bốc nhưng là một chứng từ cho sự thật. Về sau Chúa Giêsu đã nói rõ: “Trong những con cái do người nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn ông”.

Tìm về Gioan Tẩy Giả và phép rửa của ông, các trưởng tế và các kỳ lão cũng được gọi để chấp nhận sự thật, thế mà họ vẫn cố chấp và ác ý. Sự cố chấp và ác ý đã khiến họ không thể trở thành môn đệ của Ngài, không được dạy bảo về Ngài.

Balaam là một người ngoại giáo nhưng ông đã thành thật, đã khuất phục trước Quyền Năng của Thiên Chúa, nên ông đã được Thiên Chúa dùng. Còn thượng tế và kỳ lão tuy thuộc dòng dõi được chọn nhưng vì cứng lòng cố chấp mà đã bị loại ra ngoài.

Trong thế giới hôm nay Thiên Chúa cũng vẫn đang đối thoại, đang mời gọi con người tìm về sự thật. Lời Ngài đã được nói qua Ðức Kitô một lần thay cho tất cả, mỗi biến cố chỉ là một nhắc nhở tìm về Lời và đối chiếu với Lời. Thái độ đứng trước Người, Lời đã khiến cho con người được thưởng hay là bị luận phạt.

Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đến đemsự thật giải phóng chúng con, hôm nay trong tâm tình mong đợi ngày Chúa đến, xin cho chúng con biết tìm về cội nguồn sự thật để rồi sự thật sẽ soi sáng hướng dẫn hành động của chúng con và sẽ biến chúng con nên dụng cụ của Chúa dù cho thân con bất xứng chẳng đáng gì.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Chất vấn về quyền

Sách Lã thị xuân thu có kể câu chuyện về tài ứng đối của Án Tử như sau:

Nghe tin Tử sắp sang nước Sở, vua Sở báo với quân thần rằng: “Án Tử là người có tài ăn nói của nước Tề sắp sang đây. Ta muốn làm cho hắn bị nhục, các ngươi có kế gì không?”. Cận thần xin thưa: “Để bao giờ Án Tử sang, chúng tôi sẽ trói một người giải đến trước mặt vua, để giả làm người nước Tề và cho là phạm tội ăn trộm”.

Khi Án Tử đến nơi, vua Sở cho thiết tiệc khoản đãi. Đang giữa bữa tiệc, bỗng có hai tên lính điều một người bị trói vào, vua Sở hỏi: “Tên này tội gì mà bị trói thế?. Họ đáp: “Đó là một người nước Tề, phạm tội ăn trộm”. Vua đưa mắt nhì Án Tử và nói: “ Người nước Tề hay trộm  cắp lắm nhỉ?. Án Tử đứng dậy thưa: “Chúng tôi có nghe, cây quất mọc ở đất Hoài nam thì là thành quất chua. Cành lá giống nhau, mà quả lại chua, ngọt khác nhau là tại làm sao? Thưa là tại thuỷ thổ khác nhau. Nay người dân ở bên Tề thì lương thiện, mà sang nước Sở lại sinh ra trộm đạo, có lẽ cũng bởi thuỷ thổ nên sinh ra  đổi khác chăng.

Sở Vương muốn làm nhục Án Tử, nhưng rồi trước bằng chứng về sự thật mà Án Tử đưa ra để biện minh, Sở Vương lại đành nuốt nhục. Chính bằng chứng về sự thật mà Án Tử nêu ra, đã đột ngột  làm  xoay chuyển dự  mưu của những kẻ muốn bày trò làm nhục người khác.

Hoàn cảnh của Sở Vương phần nào giống như tâm trạng của giới thượng tế, Biệt phái và thời Chúa Giêsu, khi họ lên tiếng bắt bẻ Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.

Một cách nào đó, câu hỏi của nhóm Thượng tế và kỳ lão đặt ra cũng mang hình thức tìm kiếm sự thật, nhưng mục đích của họ là bắt bẻ và tìm cớ hại Ngài. Chúa Giêsu vẫn tỏ ra khoan dung trước thái độ cố chấp của họ. Ngài  đặt ra cho họ một câu hỏi, không phải để bắt bẻ hay gài bẫy họ, mà là để mời gọi họ nhận chân sự thật.

Khi quay ngược lại thời Gioan Tẩy Giả Chúa Giêsu muốn khơi dậy nơi họ khởi đầu của niềm tin là: Hãy tin vào Ngài. Cuộc đời và lời giảng dạy của Gioan không những thu hút nhiều người đến nghe giảng, mà còn chịu phép rửa thống hối. Vậy mà chính bản thân ông, Gioan chỉ coi mình là tiếng kêu trong sa mạc, dọn đường cho Đấng đến sau ông. Lời của Gioan Tẩy giả chính là một chứng từ về sự thật: “Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi và tôi không đáng cởi giây giầy cho Ngài”.

Nhắc lại Gioan Tẩy Giả và phép rửa của ông là Chúa Giêsu muốn các Thượng tế và kỳ lão chấp nhận sự thật. Nhưng họ vẫn cố chấp và ác ý, khiến họ không thể trở thành môn đệ của Ngài.

Trong thế giới hôm nay; Thiên Chúa vẫn đang đối thoại, mời gọi con người tìm hiểu sự thật. Con người được cứu rỗi hay bị luận phạt tuỳ thuộc thái độ đón nhận hay khước từ lời mời gọi đó.

 

Suy Niệm 5: Quyền ủy nhiệm

Đức Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” (Mt. 21, 23)

Những căng thẳng giữa Đức Giêsu và các thủ lãnh tư tế đã xảy ra. Họ khiển trách Người về những công việc Người làm mà không có quyền của ai ban cho.

Để giảng dạy trong đền thờ, phải là hàng thầy cả hay kỳ lão, phải học hành nghiên cứu và đậu bằng cấp tốt nghiệp sau thời kỳ đã được thử nghiệm. Thế mà Đức Giêsu không học trường lớn nào. Người không có bằng tốt nghiệp sư phạm hay tiến sĩ gì. Trước mặt các thầy thượng phẩm, Người không có khả năng giảng dạy trong nơi thánh. Họ kết án Người vô tài bất lực.

Họ hỏi Người: “Ông lấy quyền nào mà làm điều đó, và ai đã cho ông quyền này?”. Nói cách khác: bằng cấp ông đâu? Ủy nhiệm thư cho ông đâu? Đức Giêsu từ chối trả lời họ. Người hỏi lại họ. Câu hỏi làm họ bối rối.

Giả như Đức Giêsu cư xử cách khác, như Người nói cho họ biết Người là Con Thiên Chúa và lấy quyền Chúa Cha mà giảng dạy, thì họ có tin Người không? Chắc là không. Người xét thấy không thuận tiện để mặc khải lúc này. Vì, đối với Người, không phải có những ủy nhiệm thư hay quyền thế làm cho việc rao giảng chân lý được thích hợp thuận lợi, mà chính điều chân thật làm sáng tỏ sự thật, còn kẻ nói thì ít quan trọng.

Thiên Chúa không nhất thiết cần đến những kẻ học rộng, biết nhiều mới nói được cho chúng ta. Ngài tự nói với chúng ta qua những kẻ tin Ngài. Lời của một em bé, một cụ già, một bà mẹ có thể có giá trị quan trọng hơn lời của linh mục hay giáo sư đại học.

Lời Chúa không bị trói buộc. Lời Chúa tràn lan khắp nơi và vọt ra từ con tim tốt lành hồn nhiên hơn là từ một đầu óc nhồi sọ.

  1. G

 

Suy Niệm 6: Hãy khiêm tốn để được cứu độ

Có những câu hỏi được đưa ra để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó! Cũng có những vấn nạn đặt ra với mong muốn được hiểu thêm kiến thức, tuy nhiên, cũng có những thắc mắc được đưa ra không phải vì ý ngay lành, nhưng mục đích để hạ gục, bắt lỗi và kết án đối phương.

Hôm nay, Đức Giêsu bị rơi vào tình cảnh thứ ba khi các Kỳ mục và Thượng tế hỏi Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?”. Đức Giêsu biết rõ sự thâm độc của họ, vì nếu Ngài nhận rằng quyền năng của Ngài do được ủy nhiệm, thì hẳn Ngài là một kẻ ly giáo và chính quyền sẽ lên tiếng vì họ sẽ gán Ngài vào cái tội gọi là phủ nhận quyền của những nhà lãnh đạo! Còn nếu Đức Giêsu nói rõ rằng: quyền đó là do Thiên Chúa trao cho Ngài, và Ngài có quyền năng như Thiên Chúa, thì Ngài sẽ rơi vào tội lộng ngôn, phạm thượng!

Khi lường trước được những hệ lụy như vậy, và “giờ” của Ngài chưa đến, nên Đức Giêsu đã hỏi ngược lại họ: “Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?”. Nếu cái bẫy mà họ đưa ra cho Đức Giêsu để dồn Ngài vào chân tường, thì giờ đây, họ lại thay thế chỗ của Đức Giêsu khi bị Ngài hỏi ngược lại! Tuy nhiên, mục đích của Đức Giêsu thì khác họ, Ngài không muốn đẩy họ vào đường cùng, nhưng mục đích của Ngài là muốn cho họ nhận ra vai trò của Đấng Cứu Thế và giá trị đích thực của cuộc đời, hầu sám hối để được ơn tha tội.

Tuy nhiên, vẫn lòng trai dạ đá, với những mánh khóe bẩn thỉu, họ đã trả lời cách vu vơ: “Chúng tôi không biết”. Nhưng khi trả lời như thế, họ đã lãnh nhận hậu quả nặng nề, vì: họ thuộc về thành phần lãnh đạo tinh thần, nên sự xuất hiện của Gioan, họ phải biết rằng ông là ai? Đằng này không biết, chứng tỏ họ vô trách nhiệm và hèn nhát vì không dám chân nhận sự thật.

Trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó những hạng người hèn nhát không dám đứng ra để bảo vệ chân lý, công bằng. Họ biết đó là sai, nhưng vẫn nhắm mắt làm ngơ, chỉ vì chúa của họ là cái bụng, nên sẵn sàng bất chấp mọi sự, miễn sao đạt được mục đích rẻ tiền. . .

Tuy nhiên, điều những nhà lãnh đạo Dothái khi xưa không chừng lại là chính những chọn lựa của chúng ta hiện nay khi chúng ta tìm mọi lý lẽ để biện minh, bóp méo Lời Chúa để uốn nắn Lời của Ngài theo thiển ý của ta hầu phục vụ cho những việc làm xấu xa, đê tiện  của mình!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy thành tâm sống khiêm tốn, bén nhạy với Lời của Chúa. Luôn tin tưởng vào quyền năng của Ngài. Tránh thái độ kiêu căng, tự mãn, ích kỷ mà vu khống, đẩy đưa người anh chị em chúng ta vào chỗ chết.

Mùa Vọng là mùa chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Nhưng, để sự chờ mong của chúng ta thực sự có ý nghĩa, thì ngay trong giây phút này, mỗi người phải khiêm tốn, sẵn sàng đón nhận Lời Chúa, thay đổi lối sống không phù hợp với Tin Mừng để xứng đáng hưởng ơn cứu độ.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có được tâm tình của người môn đệ là khao khát sự hoàn thiện trong việc trung thành, ngoan ngoãn vâng theo Lời Thiên Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Chấp nhận Đấng Cứu Thế hay không

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Đấng Cứu Thế đã đến trong trần gian. Nhưng ta có chấp nhận Ngài hay không là tùy ở ta có khiêm nhường và thành tâm hay không.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, vì yêu thương nhân loại chúng con, Chúa đã xuống thế làm người. Chúa đã tỏ mình ra qua lời giảng dạy và qua những việc làm đầy uy quyền. Vậy mà các thượng tế và kỳ mục vẫn không nhận ra Chúa. Vì họ đã quá kiêu căng.

Con cũng lo sợ cho chính con. Con đã để cho lòng của con đầy ắp sự kiêu căng. Con dễ dàng đánh mất sự bén nhạy trước lời ngỏ của Thiên Chúa. Con cũng dễ dàng loay hoay tìm kiếm bảo vệ quyền lợi mình. Con cũng dễ dàng để cho mình rơi vào tình trạng chán ngán và không còn đói khát sự công chính. Con cũng nhận thấy rất rõ khuynh hướng để mình đi trong mê lầm giả trá.

Chúa đã từ chối không tỏ mình ra cho những vị thượng tế và kỳ mục kiêu căng cố chấp. Xin Chúa tha thứ cho con. Xin Chúa giúp con luôn biết khiêm nhường trong cuộc sống. Xin cho con luôn được ơn biết mở rộng tâm hồn để thành tâm đón nhận chân lý và ân sủng của Chúa.

Lạy Chúa, con đang sống trong Mùa Vọng, mùa mong chờ Chúa đến. Con không mong chờ Chúa giáng sinh vì Chúa đã giáng sinh rồi. Nhưng con mong chờ Chúa đến lần thứ hai như Chúa đã hứa để hoàn tất quyền làm Chúa trên vũ hoàn. Đang khi đó, Chúa vẫn đến với con qua từng biến cố, qua từng anh em con gặp gỡ, và nhất là trong thánh lễ hằng ngày. Xin Chúa ban cho con luôn nhậy bén và hằng thức tỉnh đợi chờ Chúa đến mỗi ngày. Amen.

Ghi nhớ: “Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?”

 

Suy Niệm 8: Đặt vấn đề để tìm sự thật

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

  1. Chúa Giêsu bị chất vấn:

– Ai chất vấn? ”Các thượng tế và kỳ mục” (c. 23). Mc 11,27 còn kể thêm các kinh sư. Như thế, những người chất vấn Chúa Giêsu gồm đủ 3 thành phần của Thượng hội đồng Do Thái giáo, tức là những lãnh tụ cao cấp nhất của đạo.

– Chất vấn về điều gì? Về quyền của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã đuổi những người buôn bán, đã chữa bệnh và nay đang giảng dạy. Và tất cả những việc đó Ngài lại làm ngay trong Đền thờ, tức là ở một nơi chính thức nhất, nơi mà người ta coi là lãnh địa riêng của những lãnh tụ tôn giáo Do Thái. Ngài không phải là tư tế, không phải là kỳ mục và cũng không phải là kinh sư. Tại sao Ngài làm những việc đó, và làm ngay trong Đền thờ?

– Động cơ của việc chất vấn: không phải chất vấn để tìm cho biết sự thật, mà chất vấn để bắt lỗi.

  1. Phản ứng của Chúa Giêsu:

– Chúa Giêsu không trả lời mà hỏi ngược lại những kẻ chất vấn Ngài. Làm như thế, không phải là Ngài muốn tránh né vấn đề, mà Ngài muốn họ suy nghĩ về một vấn đề căn bản hơn: chỉ vì ganh ghét nên họ đã không đón nhận lời rao giảng của Gioan và Chúa Giêsu. Nay họ phải suy nghĩ kỹ xem sứ mạng của Gioan và Ngài là do đâu: có phải do tham vọng cá nhân hay do chính Thiên Chúa?

  1. Kết cuộc: Họ không chịu suy nghĩ (vì không thích suy nghĩ vấn đề đó) nên đáp là không biết. Chúa Giêsu thấy họ không có thiện chí nên cũng không trả lời câu hỏi của họ.

Suy gẫm

  1. Câu hỏi của Chúa Giêsu khiến các thượng tế và kỳ mục phải bối rối. Sự bối rối đó vạch trần lòng dạ cố chấp của họ không muốn tìm hiểu sự thật. Sự thật về phép rửa của Gioan chỉ thuộc một trong hai trường hợp: hoặc do Thiên Chúa hoặc do loài người. Nhưng họ không muốn tìm hiểu và không muốn trả lời. Nếu họ chịu tìm hiểu thì họ đã có câu trả lời và đã dám trả lời. Nhiều khi vì không muốn bỏ đi một thành kiến, chúng ta cũng không chịu khó tìm hiểu nên cũng rơi vào thái độ cố chấp tới nỗi mù quáng như vậy.
  2. Có một số điều ta không thích nghĩ tới và không muốn đặt lại vấn đề, vì nếu làm thế thì ta phải sắp xếp lại cuộc sống, có thể phải từ bỏ những thói quen đã thành nếp, có thể phải khởi sự lại từ đầu. Thí dụ: cuộc sống hiện nay của tôi với những tương giao, những tham vọng, những thói quen. . . có gì không ổn không? Có gì phải sửa đổi? Có gì phải từ bỏ? Phải cố gắng thêm gì?. . . Ta không muốn nghĩ tới để ta có thể tiếp tục an phận. Nhưng Lời Chúa hôm nay mời ta can đảm đặt lại vấn đề. Có như thế ta mới đi đúng hướng và đời ta mới tốt đẹp hơn.
  3. Bài đọc I là một câu chuyện rất hay nhắc nhớ chúng ta nên thoát khỏi thành kiến cố chấp, thoát khỏi danh lợi thú đang bịt mắt ta, và hãy nhìn ra sự thật: Balaam là một thày bói ngoại giáo rất nổi tiếng. Ông được kẻ thù của dân Do Thái ba lần thuê mướn với lễ vật hậu hỹ để ông đi trù ẻo người Do Thái. Cả ba lần ông đi đều bị con lừa của ông phá đám không cho thực hiện. Ông đánh nó, Chúa cho nó biết nói ra ý đồ đen tối và sự tham lam của ông. Cuối cùng ông nhận ra sự thật và đi đến doanh trại người Do Thái để tuyên sấm ca tụng họ như nội dung của bài đọc một. Ông tiên báo một vì sao sáng sẽ mọc lên, một Phủ việt của nhà vua sẽ xuất hiện: Đức Giêsu Kitô.

Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra uy quyền của Chúa trên đời chúng con. Vì Ngài là Đấng uy quyền và bất biến, vĩnh cửu và toàn năng. Xin cho uy quyền của Chúa lan tỏa ra qua Lời Chúa để thay đổi tâm hồn chúng con, để cuộc sống chúng con chứng tỏ uy quyền của Chúa qua cuộc sống, qua vũ trụ và những biến cố cuộc đời.

 

Suy Niệm 9: Lấy quyền ai?

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Chúng ta biết Đức Giêsu là cái gai trước mắt các nhà lãnh đạo Do thái, họ quyết không chịu đội trời chung với Ngài. Họ căm ghét và tìm cách giết Ngài. Nhưng họ chưa dám cương quyết thi hành vì sợ dân chúng. Trong lúc chờ cơ hội, họ tìm đến mở cuộc khẩu chiến với Ngài. Họ mong kiếm tìm được lời gì có thể buộc tội hay ít ra  làm cho Ngài mất ảnh hưởng và dân chúng bớt ngưỡng mộ Ngài.
  2. Hôm đó, Đức Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem và thanh tẩy Đền Thờ “khi đánh đuổi bọn buôn bán cùng với bò lừa ra khỏi khu vực Đền Thờ” (Mt 21,12). Các thượng tế, luật sĩ và kỳ mục họp bàn với nhau để chủ ý ghép Đức Giêsu vào tội “Lộng quyền” nhằm giết Ngài. Họ bàn bạc, sắp xếp và quyết định đưa ra một câu hỏi để chất vấn Đức Giêsu: “Ông lấy quyền nào mà làm điều ấy”? Họ cố ý dùng câu trả lời của Đức Giêsu  để kết tội Ngài. Đây là một câu hỏi không thành tâm muốn biết quyền năng của Chúa để tin Ngài nhưng thực ra lại mang một ý đồ xấu.
  3. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ, nhưng thay vì trả lời, Đức Giêsu đặt ngược lại cho họ một câu hỏi về phép rửa của Gioan Tẩy giả: “Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyên nào mà làm các diều đó. – Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta”? Đây không phải là Đức Giêsu né tránh vấn đề, Người chỉ muốn đặt vấn đề vào đúng vị trí về sứ mệnh của Gioan Tẩy Giả, vì Gioan có thông dự vào vào việc loan báo vương quyền Thiên Chúa. Như thế nói về Gioan tức là nói về Đức Giêsu. Người đặt câu hỏi như vậy khiến những người hạch hỏi Chúa  rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.
  4. Nhưng kẻ đặt câu hỏi với Đức Giêsu biết rõ rằng: Toàn dân đã xác tín Gioan là một tiên tri  được Chúa sai đến, cho nên phép rửa của Gioan là bởi trời. Họ cũng biết chắc Ngài sẽ trách họ: ”Nếu các ông đã biết bởi trời, tại sao các ông không tin Gioan”? Còn nếu trả lời rằng của Gioan là bởi người ta, thì họ lại sợ dân chúng ném đá. . . Cho nên, họ trả lời Đức Giêsu: ”Chúng tôi không được biết”.
  5. Sở dĩ các thượng tế và kỳ lão không nhận bằng chứng của Gioan, cũng không tin Đức Giêsu là Thiên Chúa là vì họ có thành kiến, kiêu ngạo, họ cho rằng họ biết hết, kỳ thực họ chẳng biết gì. Họ chỉ nhìn Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu theo định kiến thiển cận thấp hèn của họ. Muốn nhận biết Chúa, phải gạt bỏ mọi thành kiến.

Một vị giảng thuyết được mời đến một nhà thờ nọ. Ông được báo trước rằng một số giáo dân  thường bỏ về trước khi bài giảng kết thúc.

Bắt đầu giảng, ông loan báo: “Sáng nay, tôi sẽ nói với hai hạng người trước tiên nói với người tội lỗi, và sau đó với những người thánh thiện”.

Ông diễn thuyết cho “những người tội lỗi” được một lát, rồi ông nói họ: “Bây giờ các bạn có thể ra về”. Thế nhưng hôm đó, mọi người ở lại cho đến kết thúc bài giảng.

Thính giả như người biệt phái và luật sĩ. . . . .

  1. Trước câu hỏi này của Đức Giêsu, các thượng tế và kỳ mục đã nói “Chúng tôi không biết”. Đó không phải là trả lời mà cách nói tránh né sự thật. Họ dư biết phép rửa của Gioan là bởi trời, nhưng sợ phải nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nên họ không dám đối diện với sự thật; vì một khi nhìn nhận vai trò của Gioan Tẩy Giả, mà Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu Đức Giêsu, thì họ cũng phải nhìn nhận  vai trò cứu thế của Đức Giêsu như Gioan loan báo. Nếu đón nhận sự thật đó, hệ quả là các ông phải thay đổi tất cả: từ não trạng, niềm tin, đến nếp sống. Vì không muốn hoán cải nên họ đã quanh co, tránh né sự thật mà nói: ”Chúng tôi không biết”(5 phút Lời Chúa).
  2. Truyện: Kẻ cắp gặp bà già.

Thời Xuân Thu chiến quốc có kể câu chuyện về vài cách ứng đối của Án Tử như sau:

Nghe tin Án Tử sắp sang nước Sở. Vua Sở bảo quần thần rằng: “Án Tử là người có tài ăn nói của nước Tề sắp sang đây. Ta muốn làm cho hắn bị nhục, các ngươi có kế gì không”? Cận thần thưa: “Để bao giờ Án Tử sang, chúng tôi sẽ trói một người nước Tề và cho là phạm tội ăn trộm”.

Khi Án Tử đến nơi, vua Sở cho thiết tiệc khoản đãi. Đang giữa bữa tiệc, bỗng có hai tên lính điệu một người bị trói vào, vua Sở hỏi: “Tên này tội gì mà bị trói thế”?  Họ đáp: “Đó là một người nước Tề, phạm tội ăn trộm”. Vua đưa mắt nhìn Án Tử và nói: “Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ”?

Án Tử đứng dậy bèn thưa: “Chúng tôi trộm nghe cây quất mọc ở đất Hoài Nam thì là quất ngọt, nhưng đem sang trồng ở đất Hoài Bắc lại thành quất chua. Cành lá giống nhau, mà quả lại chua, ngọt khác nhau là tại sao? Thưa là tại thủy thổ khác nhau. Nay người dân ở bên Tề thì lương thiện, mà sang nước Sở lại sinh ra trộm đạo, có lẽ cũng bởi thủy thổ nên sinh ra đổi khác chăng”?

Qua câu chuyện này chúng ta có thể rút ra bài học: Chúa muốn dạy ta hãy cố gắng mà đối xử tốt với nhau, đừng lấy lời nói cay đắng, độc ác mà làm trò đùa châm chích ai bao giờ. Hơn nữa, ta cũng phải cố gắng mà sống theo lẽ phải. Bởi chỉ có con đường đó thì lương tâm ta mới được vui tươi và nếu cố sống như thế ta mới được Chúa chúc phúc.

 

Suy Niệm 10: Sống theo lẽ phải

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu bị chất vấn:

– Ai chất vấn? “Các thượng tế và kỳ mục” (câu 23). Theo Mc 11, 27 thì còn có cả các luật sĩ. Như thế, những người chất vấn Chúa Giêsu gồm đủ 3 thành phần của Thượng Hội Đồng Do Thái giáo, tức là những lãnh tụ cao cấp nhất của Đạo lúc đó.

– Chất vấn về điều gì? Về quyền của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã đuổi những người buôn bán (Mt 21, 12-13tt), sau đó đã chữa bệnh (Mt 21, 14) và lại còn giảng dạy (Mt 21, 23). Tất cả những việc đó Ngài lại làm ngay trong Đền thờ, tức là ở một nơi chính thức nhất, nơi mà người ta coi là lãnh địa riêng của những lãnh tụ tôn giáo Do Thái.

Ngài không phải là tư tế, không phải là kỳ mục và cũng chẳng phải là luật sĩ. Tại sao Ngài làm những việc đó, và làm ngay trong Đền thờ?

– Động cơ của việc chất vấn: không phải chất vấn để tìm cho biết sự thật, mà chất vấn để bắt lỗi.

  1. Phản ứng của Chúa Giêsu:

Chúa Giêsu không trả lời mà hỏi ngược lại những kẻ chất vấn Ngài. Câu hỏi của Chúa Giêsu khiến các thượng tế và kỳ mục phải bối rối. Sự bối rối đó cho chúng ta thấy lòng dạ cố chấp không muốn tìm hiểu sự thật của họ. Sự thật về phép rửa của Gioan chỉ có thể thuộc một trong hai trường hợp: hoặc do Thiên Chúa hoặc do loài người. Trả lời bằng cách nào đây? Bằng cách nào cũng bị kẹt. Trả lời là do Thiên Chúa thì Chúa sẽ hỏi lại tại sao họ không tin Gioan. Còn nếu họ bảo là do người ta thì họ lại sợ dân chúng vì lúc đó dân chúng ai cũng tin Gioan là tiên tri, có nghĩa là người của Thiên Chúa. Chính vì thế mà họ không dám trả lời.

Rất nhiều khi vì thành kiến hoặc do tà tâm ác ý chi phối mà chúng ta cũng rơi vào thái độ hẹp hòi rồi từ đó chúng ta cũng phải đối diện với những sự thật khó xử như thế.

Án Tử sắp sang xứ nước Sở. Vua Sở nghe tin thì bảo cận thần rằng: Án Tử là một tay ăn nói giỏi ở nước Tề, nay sắp sang đây, ta muốn làm nhục hắn một phen, các khanh có cách gì không?

Cận thần thưa:

– Đợi bao giờ Án Tử sang, chúng tôi xin trói một người, dẫn đến trước nhà vua.

– Để làm gì?

– Để giả làm người nước Tề.

– Cho là phạm tội gì?

– Tội ăn trộm.

Lúc Án Tử đến nơi. Vua Sở làm tiệc thết đãi tử tế. Rượu uống ngà ngà, bỗng thấy hai tên lính điệu một người bị trói vào.

Vua hỏi: – Tên kia tội gì mà phải trói thế?

Lính thưa: – Tên ấy là người nước Tề bị bắt vì tội ăn trộm.

Vua đưa mắt vừa nhìn Án Tử vừa nói rằng: – Người nước Tề hay trộm cắp thế sao?

Án Tử đứng dậy, thưa rằng: “Chúng tôi trộm nghe cây quất mọc ở đất Hoài Nam, thì là quất ngọt, đem sang trồng ở đất Hoài Bắc, thì hoá quất chua. Cành, lá giống nhau mà quả lại chua, ngọt khác nhau là tại làm sao? Là tại thủy thổ khác nhau vậy. Nay dân sinh trưởng ở nước Tề thì không ăn trộm, sang ở nước Sở thì sinh ra trộm cắp. Có nhẽ cũng tại vì cái thuỷ thổ khác nhau nên đã hóa ra như thế chăng!

– Vua Sở cười nói: Ta muốn nói đùa mà thành phải chịu nhục. Thế mới hay kẻ cả không nên nói đùa bao giờ.

Vua Sở lập mưu làm nhục Án Tử nhưng không ngờ lại bị Án Tử quật lại thật nhục. Rõ ràng: kẻ cắp gặp bà già, vỏ quít dày có móng tay nhọn, quyết lòng ngậm máu phun người, bỗng đâu gió thổi máu rơi lại mình. Câu chuyện giữa Chúa Giêsu và những người chất vấn Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng như thế.

  1. Vậy thì bài học hôm nay Chúa muốn dạy chúng ta là trong cuộc sống, chúng ta hãy cố gắng đối xử tốt với nhau, đừng lấy lời nói cay đắng, độc ác mà làm trò đùa châm chích ai bao giờ. Hơn nữa chúng ta cũng phải cố mà sống theo lẽ phải. Bởi chỉ có như thế, lương tâm chúng ta mới được vui và mới được Chúa chúc phúc.

Balaam là một thầy bói ngoại giáo rất nổi tiếng. Ông được kẻ thù của dân Do Thái ba lần thuê mướn với lễ vật hậu hỹ, để ông đi trù ẻo những người Do Thái. Cả ba lần ông đi đều bị con lừa của ông phá đám không cho ông thực hiện công việc xấu xa đó. Ông đánh nó thì Chúa cho nó lên tiếng nói. Nó mắng lại ý đồ đen tối và sự tham lam của ông. Cuối cùng, ông đã nhận ra sự thật và khi đi đến doanh trại người Do Thái thay vì ông trù ẻo như kẻ thù mong muốn thì ông lại tuyên sấm ca tụng dân Do Thái. Hơn nữa, thay vì trù ẻo Balaam lại tiên báo một vì sao sáng sẽ mọc lên, một phủ việt của nhà vua sẽ xuất hiện: Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta cũng hãy bắt chước Balaam để luôn biết nói lên những lời hay ý đẹp làm vui lòng mọi người để cuộc sống chung quanh chúng ta mỗi ngày được trở nên tốt đẹp và đầy tình người hơn. Amen.

 

Thứ Ba tuần 3 Mùa Vọng

 

LỜI CHÚA: Mt 21, 28-32

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!” Nó thưa lại rằng: “Con không đi”. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: “Thưa cha, vâng, con đi”. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?” Họ đáp: “Người con thứ nhất”.

Chúa Giêsu bảo họ: “Quả thật, Ta bảo các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài”.

 

Suy Niệm 1: Hối hận nên lại đi

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S. J. )

Dụ ngôn hôm nay là một dụ ngôn đặc biệt, với nội dung đơn sơ.

Đức Giêsu nói dụ ngôn này cho các thượng tế và kỳ mục.

Một người cha có hai con trai.

Ông sai đứa con thứ nhất đi làm vườn nho.

Lúc đầu anh ta từ chối, nhưng sau đó hối hận nên lại đi (c. 29).

Ông gặp đứa con thứ hai và kêu anh làm cùng một việc.

Anh mau mắn nhận lời, nhưng rốt cuộc lại không đi (c. 30).

Đức Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng việc hỏi họ một câu khá dễ:

“Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của cha?”

Không mấy khó khăn, các thượng tế và kỳ mục đã trả lời đúng.

Nhưng họ không ngờ mình mắc bẫy của Ngài

như xưa vua Đavít đã mắc bẫy của ngôn sứ Nathan (2 Sm 12, 5).

Bởi chính họ là đứa con thứ hai, nhận lời, nhưng rồi lại không đi,

chính họ là những người không thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Hẳn giới lãnh đạo ở Giêrusalem sẽ tức điên lên vì nhục nhã

khi nghe Đức Giêsu nói đứa con thứ nhất

chính là những kẻ thu thuế và các cô gái điếm (c. 31).

Theo Đức Giêsu, những người tội lỗi này sẽ vào Nước Trời

trước cả giới lãnh đạo tôn giáo đầy uy tín, đạo đức, oai phong.

Tại sao lại có chuyện oái oăm đó?

Chính thái độ tin hay không tin ông Gioan tạo ra sự khác biệt này.

Gioan xuất hiện như một hiện tượng nổi bật, ai cũng thấy.

Các vị chức sắc tôn giáo cũng thấy,

nhưng sau đó họ không hối hận mà tin (c. 32).

Còn những người tội lỗi, giống đứa con thứ nhất,

lúc đầu từ chối cha, nhưng sau đó đã hối hận và vâng lời (c. 29).

Họ đã tin Gioan và bước vào đường công chính (c. 32).

Từ chỗ nói: “Thưa cha, con đây”, đến chỗ thực sự đi làm vườn nho,

có một khoảng cách khá lớn, khiến nhiều người ngần ngại.

Chấp nhận tin là chấp nhận lên đường, bước vào cuộc phiêu lưu.

Con đường công chính đầy thách đố, bấp bênh và bất trắc.

Tin vào Gioan đòi hỏi sám hối, để đón Đấng Thiên Sai.

Nhưng ít người muốn nhận mình có lỗi.

Có khi cô gái điếm lại dễ hối hận hơn một người công chính.

Có khi anh thu thuế lại dễ ăn năn hơn một người đạo hạnh.

Dù sao tin vào Gioan khiến mọi người không được sống như xưa.

Hơn nữa, niềm tin ấy thế nào cũng dẫn đến tin vào Đức Giêsu.

Tin vào Đức Giêsu là chấp nhận mất đi những chỗ dựa ổn định.

Không dám mất thì cũng chẳng dám tin.

Nhiều Kitô hữu hôm nay gặp khó khăn không nhỏ về đức tin,

vì sống đức tin đòi họ phải trả một giá quá lớn.

Nếu chúng ta đã có lần nói: Con không muốn đi!,

thì chúng ta luôn có thời gian suy nghĩ lại, để tự điều chỉnh,

và sau đó nói: “Này con đây, xin hãy sai con. ”

 

Cầu nguyện: 

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

 

Suy Niệm 2: Người nghèo của Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con người có khả năng thay đổi. Đó vừa là lợi điểm vừa là nhược điểm. Đọc bài Tin mừng hôm nay ta thoáng chút bùi ngùi tiếc thương cho người con vốn được tiếng là ngoan ngoãn và đã trả lời rất mực hiếu thuận với cha. Ngờ đâu lòng dạ thay đổi quá mau chóng và bất ngờ. Từ “có” sang “không”, từ ngoan ngoãn đến hư hỏng, từ hiếu thuận đến bất hiếu.

Nhưng an ủi biết bao và cũng bất ngờ biết bao, người con bị tiếng là hư hỏng, bất hiếu đã nói không với cha, nhưng rồi hối hận lại ra đi làm vườn nho cho cha. Thật kỳ diệu khả năng có thể thay đổi của con người. Thật ngỡ ngàng khi Chúa cho biết đó chính là những người bị coi là tội lỗi tầy đình, những người thu thuế và gái điếm. Còn đứa con được tiếng ngoan ngoãn, những người tự xưng mình là đạo đức gương mẫu, bất ngờ trở thành bị kết án, đó chính là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó.

Theo vị tiên tri, sở dĩ những người nhỏ bé nghèo hèn mau chóng hoán cải vì họ tự biết mình tội lỗi, không có gì để tự hào, để cậy dựa, nên dễ dàng lắng nghe Lời Chúa. Còn những người tự hào mình đạo đức lại bị loại trừ vì họ không sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa, bị Chúa chúc dữ: “Khốn cho thành phản loạn và ô uế, khốn cho thành tàn bạo, không nghe tiếng kêu mời, chẳng tiếp thu lời sửa dạy”. Họ kiêu căng tự mãn vì những thành công của mình. Tự tin vào mình, đến nỗi “không cậy trông vào Đức Chúa, chẳng đến gần Thiên Chúa của mình”. Vì thế họ “nghênh ngang trên núi thánh”của Chúa, cứng cỏi không hoán cải, đánh mất cơ hội lãnh nhận ơn cứu độ. Trái lại những người tội lỗi khiêm nhường sẽ được ơn cứu độ: “Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng… Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ…; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa… Chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi”.

Lạy Chúa, xin đừng để con kiêu căng tự mãn đứng lì trong tội lỗi, nhưng xin cho con nhận biết mình tội lỗi yếu hèn, cần ăn năn sám hối, như thế con sẽ nhận được ơn Chúa thứ tha.

 

Suy Niệm 3: Ví dụ hai người con

Mùa đông năm 1982, một phản lực cơ Hoa kỳ bi chết máy đã đâm nhào xuống một dòng sông. Nhiều hành khách sống sót chơi vơi giữa đòng sông giá lạnh. Giữa những người bộ hành chứng kiến, một thanh niên bất chấp dòng nước lạnh đã phóng người xuống sông cứu vớt một thiếu phụ đang chới với trên sóng nước. Hành động này khiến Tổng thống Reagan tuyên dương anh là anh hùng dân tộc. Khi được hỏi lý do việc liều mạng sống, anh trả lời: “tôi đã làm điều tôi phải làm”.

“Tôi đã làm điều tôi phải làm”, lời giải thích trên cũng có thể là lời tuyên tín sống động của những người không hề mang danh hiệu Kitô, nhưng có lẽ lại sống tinh thần Kitô một  cách sâu xa hơn những người vỗ ngực xưng mình là môn đệ Đức Kitô, nhưng cuộc sống lại hoàn toàn là một phản chứng.

Trong Tin mừng, Chúa Giêsu có lẽ muốn đề cao những tín hữu vô danh ấy. Họ có thể là người chưa một lần nghe nói đến tên Chúa. Chưa hề được chịu phép rửa, chưa hề đặt chân đến Nhà thờ; họ cũng có thể là người ngoại đạo, vô thần, nguội lạnh, chống đạo, nhưng đời sống của họ được dệt bằng những hy sinh, quên mình, phục vụ, tử tế, công bình; tôn giáo của họ, nói như Đức Đạt lai Lạt Ma, chính là lòng tử tế.

Lời Chúa hôn nay mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống mình: có lẽ chúng ta cũng giống như người con thứ hai: miệng thưa vâng, nhưng tay chân chúng ta không muốn thực thi ý Chúa, miệng chúng ta cầu kinh, nhưng lòng trí và cuộc sống lại xa  Chúa.

Thiên Chúa đang đến trong từng phút giây cuộc sống, đó phải là xác tín của chúng ta trong Mùa Vọng này. Và bởi vì Thiên Chúa là Đấng đang có mặt và đang đến, cho nên mỗi phút giây, mỗi biến cố, mỗi gặp gỡ đều phải dẫn tới mối tương quan thân tình với Thiên Chúa. Và như thế cả cuộc sống chúng ta sẽ là lời kinh triền miên dâng lên Chúa.

Hãy để cho lời kinh chúng ta biến thành hành động của phục vụ, hy sinh, liên đới, chia sẻ, và lúc đó trọn cuộc sống chúng ta sẽ là tiếng xin vâng bất tận dâng lên Chúa.

 

Suy Niệm 4: Cái bên ngoài không cứu độ được linh hồn

Ngày nay, nhiều người Công Giáo vẫn có quan niệm gắn kết đời mình vào những chuyện sinh hoạt đoàn thể, họ rất đề cao những tổ chức bề ngoài. . . Điều này không có nghĩa là không tốt, nhưng không phải là chuyện tốt nhất! Bởi lẽ, nếu không chừng, chính những sinh hoạt đó sẽ dẫn chúng ta đến tình trạng sống đạo hình thức, bề ngoài, trên môi miệng!

Thật vậy, trong đời sống thực tế cho thấy, rất nhiều người tỏ vẻ năng nổ trong các đoàn thể, lễ hội. . . nhưng khi đối diện với những lựa chọn cốt lõi của Tin Mừng, họ thường là những người thua cuộc vì mọi chuyện của họ bị chi phối hoàn toàn thuần túy bởi việc giữ luật thuần túy, mà  không hề có khả năng đón nhận thánh ý Thiên Chúa trên cuộc đời của mình, nhất là khi gặp đau khổ, thử thách. Sự kiêu ngạo đã là ông chủ trong tâm hồn họ, nên chúng ta không lạ gì khi đối diện với Lời Chúa, họ cảm thấy xa lạ và không thể chấp nhận để Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời mình!

Nguyên nhân chính là việc giữ đạo của họ không có chiều sâu, Lời Chúa không bén rễ trong tâm hồn, vì thế, khi phong ba bão táp ập đến là họ sẵn sàng ngả theo chiều gió để cho nó cuốn đi.

Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu kể dụ ngôn: “Hai người con” để cảnh báo những Thượng tế và Kỳ mục trong dân về nguy cơ mất ơn cứu độ khi đang ở ngay trong nhà của mình. Còn những người tội lỗi như thu thuế và gái điếm lại là những người được ơn cứu độ trước họ vì họ có lòng khiêm tốn và sẵn sàng để cho Lời Chúa cật vấn lương tâm họ và khi nhận ra mình là người tội lỗi, họ đã khiêm tốn xin ơn tha thứ để được ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cẩn trọng trong lối giữ đạo. Nếu không, chúng ta là những người miệng thì lâm râm kinh sách tối ngày, nhưng những việc như bác ái, yêu thương, khiêm tốn. . . thì lại quá xa vời; hay đôi khi chúng ta chỉ giữ đạo trong nhà thờ, khi ra khỏi nhà thờ là chửi nhau, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng hạng sang. . .

Lạy Chúa Giêsu, trong tâm tình Mùa Vọng, xin Chúa ban cho mỗi chúng con biết nhìn lại lối sống đạo của mình. Biết đặt những giá trị tinh thần lên trên những chuyện hình thức bên ngoài. Luôn sống cốt lõi của luật hơn là những chuyện bề ngoài. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 5: Làm theo ý muốn của Thiên Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu mời gọi tất cả mọi người vào Nước Thiên Chúa. Nhưng muốn vào Nước Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là nói suông, mà là làm theo ý muốn của Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đọc Phúc Âm con thấy có một điều lạ. Có những kẻ tội lỗi không cứng lòng, như người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa, ông Gia-kêu trưởng phường thu thuế, người trộm lành; chỉ cần vài lời nhẹ nhàng hoặc một cử chỉ nhân ái của Chúa cũng đã đủ để đưa họ trở về. Còn những người vẫn tự hào mình là công chính, như nhóm biệt phái, như các luật sĩ, được nghe bao lời của Thánh Gioan Tiền Hô cũng như của Chúa, thế mà họ vẫn cứng lòng, tâm hồn họ vẫn trơ trơ. Họ không trở về, bởi vì họ không nhận mình tội lỗi.

Lạy Chúa, Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã có lần phải than rằng: tội lớn nhất của thời đại hôm nay là người ta phạm tội mà không nhận ra tội của mình, người ta phạm tội mà không cho là mình phạm tội. Con người ngày nay đã dần dần đánh mất cảm thức về tội lỗi, lương tâm đã ra tháo thứ. Lạy Chúa, Chúa đã từng nói với nhóm luật sĩ và biệt phái: “Nếu các ngươi là những người mù, thì các ngươi sẽ không có tội. Đàng này các ngươi lại nói: chúng tôi thấy chứ, nên tội các ngươi vẫn còn đó”. Cái đáng tiếc nghiêm trọng không phải là việc con có tội, nhưng là có tội mà cứ tưởng mình đạo đức.

Lạy Chúa, xin đừng để con tự mãn, tưởng mình không có gì cần phải sám hối cải thiện. Xin cho con luôn biết khiêm tốn đứng vào hàng ngũ các tội nhân để luôn được tha thứ và nhận được nhiều hồng ân Chúa ban. Amen.

Ghi nhớ: “Gioan đến và những kẻ tội lỗi tin ngài”.

 

Suy Niệm 6: Thi hành đúng ý Chúa

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Dụ ngôn hai người con:

– Người con thứ nhất: Cha nó bảo nó đi làm vườn nho. Nó đáp không. Nhưng sau đó nó hối hận và đi làm. Đây là hình ảnh của lương dân: ban đầu không đáp lời mời gọi của Thiên Chúa, nhưng sau đó hối hận và làm theo lời Chúa dạy.

– Người con thứ hai: Khi cha nó bảo nó đi làm vườn nho, nó nhanh nhẹn thưa vâng, nhưng thực tế là không đi làm. Đây là hình ảnh của dân Do Thái, chỉ đáp ứng với Chúa bằng miệng chứ không thi hành.

Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giêsu đánh giá:

– Đứa con thứ nhất mới là đứa thi hành đúng ý Thiên Chúa.

– Điểm đặc biệt là Đức Giêsu đã coi lương dân là đứa con thứ nhất, hơn cả dân Do Thái dù được Thiên Chúa kêu gọi trước nhưng chỉ được coi là đứa con thứ hai.

Suy gẫm

  1. Thưa vâng với Chúa là việc rất dễ. Biết bao lần tôi đã thưa vâng với Ngài, thưa rất nhanh nhẹn, rất sốt sắng. Nhưng chỉ là thưa thế thôi, chứ thực sự là tôi đã không làm như tôi thưa. Đó là bởi vì hình như tôi chỉ sống đạo khi cầu nguyện, khi tĩnh tâm. Sau đó trở lại cuộc sống thì tôi quên hết những gì đã thưa và đã hứa với Chúa. Tôi giống như những nhà ngoại giao, những con buôn, và thậm chí hầu như tôi coi rẻ Chúa, tôi xí gạt Ngài.
  2. Khi phân tích sâu hơn về thái độ của hai người con này, Đức Giêsu cho thấy vấn đề then chốt là hối hận và hoán cải: người con thứ nhất “sau đó hối hận”; người con thứ hai “vẫn không chịu hối hận. ” Hoán cải là điều mà ai ai cũng phải thường xuyên làm. Mỗi Lời Chúa mà chúng ta nghe hướn dẫn ta thấy phải làm gì; so lại với cách sống thì ta thấy mình đã không làm như thế; từ đó ta quyết tâm hoán cải để làm lại cho đúng ý Chúa. Đây chính là điều ta phải thường xuyên làm.
  3. “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”: Tại vì họ biết mình tội lỗi. Biết mình tội lỗi thì dễ hoán cải hơn. Và vì hoán cải nên được vào Nước Thiên Chúa. Xin cho con biết thân phận con là kẻ tội lỗi.
  4. Mùa đông năm 1982, một phản lực cơ Hoa Kỳ bị chết máy đã đâm nhào xuống một dòng sông. Nhiều hành khách sống sót chơi vơi giữa dòng sông giá lạnh. Giữa những người bộ hành chứng kiến, một thanh niên bất chấp dòng nước lạnh đã phóng người xuống sông cứu vớt một thiếu phụ đang chới với trên sóng nước. Hành động này khiến Tổng thống Reagan tuyên dương anh là anh hùng dân tộc. Khi được hỏi lý do việc liều mạng sống, anh trả lời “Tôi đã làm điều tôi phải làm. ”

“Tôi đã làm điều tôi phải làm,” lời giải thích trên cũng có thể là lời tuyên tín sống động của những người không hề mang danh hiệu Kitô nhưng có lẽ lại sống tinh thần Kitô một cách sâu xa hơn những người vỗ ngực xưng mình là môn đệ Đức Kitô nhưng cuộc sống lại hoàn toàn là một phản chứng.

 

Suy Niệm 7: Dụ ngôn hai người con

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đứng trước lời rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, có hai hạng người với hai thái độ trái ngược nhau, đó là giới lãnh đạo Do thái và những người tội lỗi và dân chúng. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con để làm nổi bật sự tương phản giữa lời nói và việc làm: nói có mà không làm; nói không nhưng lại làm. Giữa sự đối nghịch này, hành động được đánh giá là quan trọng, vì hành động là dấu hiệu của một tâm hồn trong sáng, biểu hiện qua những hành động ngay thẳng. Vì thế, Đức Giêsu đã thẳng thắn tuyên bố: ”Không phải những người nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa, là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những kẻ thi hành ý Cha trên trời”.
  2. Cần tìm hiểu hình bóng của dụ ngôn này:

– Người con thứ nhất là đứa con “thưa vâng” rồi không đi làm: ám chỉ những nhà lãnh đạo Do thái và tất cả những ai vâng lệnh bằng lời nói mà không thực hành. Những người này vẫn tự xưng là  giới đạo đức và lên mặt mô phạm với đời. Nhưng họ từ chối ơn Thiên Chúa, không nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, mặc dầu trước khi Người đến, họ vẫn khát vọng Người.

– Người con thứ hai thưa “không đi”, nhưng sau hối hận và đã đi làm: ám chỉ những người tội lỗi, thu thuế, đĩ điếm và chư dân. Những người này thoạt mới nghe giảng, họ ngại ngùng không theo; nhưng sau họ đã nghe Gioan Tẩy Giả  và lời giảng của Đức Giêsu nên đã sám hối ăn năn.

  1. Kết luận dụ ngôn Đức Giêsu nói: ”Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm, sẽ vào Nước Trời trước các ông”. Chưa bao giờ ta thấy Đức Giêsu đã nói thẳng với các người biệt phái như lần này. Chính họ có lẽ cũng không ngờ.

Câu nói đó có nghĩa là: các ông tưởng mình thánh thiện trong sạch, giữ luật không trách được điểm nào, còn người thu thuế các ông coi như cặn bã xã hội, những người mà các ông cấm không cho đi chung  đường với họ. Các ông lầm. Những người thu thuế và đĩ điếm mà các người miệt thị đến mức đó sẽ vào Nước Trời trước các ông. Nói rõ là những người ấy  tốt hơn các ông.

  1. Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường nói nhiều mà làm ít, giữa lý thuyết và thực hành còn một khoảng cách lớn. Có thể nói: trên thế giới này không có con đường nào dài cho bằng “con đường từ miệng đến tay”. Vì thế mới có câu: “Năng thuyết bất năng hành”. Lý thuyết có hay mấy mà không được thự hiện thì cũng không có giá trị.

Trong đời sống đạo cũng thế, chúng ta biết Chúa, cần thông hiểu giáo lý vì “vô tri bất mộ” mà. Như thế cũng chưa đủ, còn phải đem cái biết ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày nữa. Đức Giêsu đã nói: ”Ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy” mà “giữ lời Thầy” thì có nghĩa là hãy thực hành những điều Thầy dạy, là làm theo ý Thầy. Bài dụ ngôn vế hai đứa con trong Tin Mừng đã chứng tỏ điều đó.

  1. Phải sống trung thực với lòng mình, phải làm sao cho “ngôn hành đồng nhất”, lời nói và việc làm không được mâu thuẫn nhau. Nhiều người nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như đứa con thứ trong dụ ngôn này.  Những người như thế thì người ta phang cho một câu mỉa mai: ”Trăm voi không được bát nước xáo”.

Người ta đánh giá trị một người thì không phải ở lời nói mà ở việc làm, vì nói thì ai cũng nói được, nhưng khi phải bắt tay làm thì mới thấy khó khăn, nên nhiều người đã bỏ cuộc. Đối với những người chỉ nói ba hoa chích chòe mà không dám bắt tay làm việc gì thì người ta chê:

Nói thì đâm năm chém mười,

Đến khi tối trời chẳng dám ra sân.

  1. Truyện: Anh chàng Aristogiton.

Aristogiton hồi ấy lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ võ những đức tính anh hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, thính giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến với tất cả các cường quốc trên thế giới.

Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng.

Biết rõ những bí ẩn của chàng, ông Photion trợn mắt nói: ”Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát”.

  1. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải có thái độ nào với tư cách là một Kitô hữu, một chứng nhân của Chúa? Chúng ta sẽ cố gắng:

– Đừng nghĩ rằng mình thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.

– Cũng đừng cho rằng mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.

Hãy sống trung thực với lòng mình. Hãy sám hối và chỉnh sửa lại cuộc sống, sao cho mình xứng đáng là con Chúa, là Kitô hữu để cuộc sống tốt lành của mình tỏa ra mùi thơm tho nhân đức vì “hữu xạ tự nhiên hương”. Lúc đó không cần phải phô trương, tự cuộc sống của mình đã chứng minh điều đó:                                            

Trúc xinh trúc mọc bờ ao,

Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.

Trúc xinh trúc mọc đầu đình,

Em xinh em đứng một mình cũng xinh. (Ca dao)

 

Suy Niệm 8: Người được vào Nước Chúa

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Theo dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy hai người con đại diện cho hai lớp người trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ:

– Một lớp người nhận ra mình tội lỗi và biết sửa lại lỗi lầm của mình,

– Lớp thứ hai thì tự mãn, nghĩ mình không có tội gì.

* Nghe Gioan rao giảng, những người tội lỗi và thu thuế đã nhận ra tội lỗi của mình và biết thống hối ăn năn; còn những người Pharisêu thì tỏ ra tự mãn, tự tin vào sự công chính của mình. Họ tưởng rằng, cứ giữ đúng luật bề ngoài là có quyền coi mình là người vô tội và họ cho mình quyền lên án, khinh chê kẻ khác. Chúa Giêsu đã lên án tội giả hình và tự mãn của họ.

Như vậy, điều quan trọng không phải là phạm tội nhiều hay ít, mà là biết nhận ra tội lỗi của mình và sám hối ăn năn hay không. Lịch sử cứu độ là một tấm bi kịch giữa tội lỗi của con người và lòng thương yêu tha thứ không mệt mỏi của Thiên Chúa.

Thái độ tự mãn giống như những người Pharisêu ngày nay chưa phải là đã hết. Có nhiều người tưởng rằng, mình giữ được một mớ lề luật bề ngoài và làm được một số những việc lành phúc đức như đọc kinh xem lễ, hành hương, lần chuỗi vv. . là đã đủ, đã hoàn hảo tốt lành rồi, không còn cần thêm gì nữa. Nghĩ như thế thì có khác chi những người Pharisêu xưa. Cuộc sống như thế mới là cuộc sống ở trong nhà thờ chứ chưa phải là cuộc sống ở giữa đời. Cuộc sống như thế chắc chắn không phải là cuộc sống Chúa mong muốn: “Tôi bảo thật cho các ông biết, những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông vì họ đã tin”. (Mt 21,31)

  1. Rồi khi suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta còn thấy Chúa muốn dạy chúng ta những bài học rất cụ thể cho cuộc sống mình:

* Trước hết là không được quá tự mãn về cuộc sống đạo và một số việc đạo đức bề ngoài của mình. Phải biết nhận ra những yếu đuối và tội lỗi sai trái của mình mà ăn năn thống hối, đó mới là điều quan trọng.

Thánh Đaminh một hôm nói cùng những người đang có mặt trong phòng bệnh của ngài:

– Tôi không hiểu được tại sao Thiên Chúa không khiến lửa trên trời xuống thiêu hủy cái làng này đi vì nó chứa chấp một người tội lỗi nhất trong thiên hạ!

Họ nhìn nhau ngơ ngác:

– Phải chi chúng con biết được kẻ tội lỗi ấy là ai, để tìm cách lo cho họ được cải thiện.

– Người tội lỗi ấy chính là tôi!

-????

– Phải, bởi vì nếu một người tội lỗi nhất trong thiên hạ được ơn Chúa dồi dào như tôi đã được, thì người đó đã nên thánh hơn tôi đây gấp ngàn vạn lần rồi.

* Thứ đến là tôi không có quyền khinh khi lên án ai cả, bởi vì họ có thể vào Nước Trời trước tôi. Và người phải ăn năn sám hối trước tiên chính là tôi chứ không phải ai khác.

Cựu Tổng thống Nam Hàn, ông Roh Tae Woo đã khóc sướt mướt trên màn ảnh truyền hình quốc gia. Ông đã công khai thú nhận rằng, trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của ông từ năm 1988-1993 ông đã tham lam công quỹ đến 645 triệu đô-la. Ông nói trong nghẹn ngào:

– Tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ khi ra trước mặt quý vị. Tôi sẽ nhận tất cả mọi trách nhiệm của tôi, tôi sẵn sàng chịu mọi hình phạt.

Nhìn nhận và xưng thú tội lỗi của mình trước mặt mọi người xem ra không phải là chuyện bình thường đối với một nhà chính trị. Dù sao ông Roh Tae Woo cũng đáng được ca tụng như một người liêm sỉ, phải có đủ liêm sỉ mới dám công khai nhận tội như vậy.

* Và cuối cùng, là phải biết tha thứ. Chúa đã tha thứ cho tôi khi tôi biết sám hối, thì tôi cũng phải biết tha thứ khoan dung cho những người yếu đuối. Tôi phải khắt khe với chính mình và khoan dung với kẻ khác.

Mẹ Têrêsa Calcutta kể: Ngày nọ có một ký giả hỏi tôi một câu khá kỳ lạ. Ông ta hỏi:

– Kể cả mẹ, mẹ cũng đi xưng tội ư?

Tôi đáp:

– Vâng, tôi đi xưng tội mỗi tuần.

Ông ta nói:

– Nếu tất cả quí vị đều phải đi xưng tội thì quả thực Chúa phải là một người quá đòi hỏi.

Tôi bèn nói:

– Con của ông đôi khi làm điều gì đó không đúng. Việc gì sẽ xảy đến khi con ông gặp ông và nói: “Bố ơi, con xin lỗi bố! Lúc đó ông sẽ làm gì? Ông sẽ đưa đôi cánh tay ra ôm choàng lấy nó và hôn nó. Tại sao? Vì đó là cách ông nói với nó rằng, ông yêu nó. Thiên Chúa cũng làm y như thế. Người yêu ông cách dịu dàng, âu yếm”.

Lạy Chúa, trong mọi sự, với mọi người, xin Chúa dạy con biết lắng nghe, biết nhạy cảm phán đoán theo ý tốt cho người khác và sẵn sàng tha thứ bỏ qua những lỗi lầm của họ với con, chỉ vì Chúa cũng luôn đối xử với con như thế, và còn hơn cả thế nữa. Amen.

 

 

Thứ Tư tuần 3 Mùa Vọng

 

LỜI CHÚA: Lc 7, 19-23 (Hl 18b-23)

Khi ấy, Gioan gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?” Khi những người này đến cùng Chúa Giêsu, họ thưa Ngài rằng: “Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Ngài: Ngài có phải là Ðấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?”

Ngay lúc đó, Chúa chữa những người khỏi bệnh hoạn tật nguyền và quỷ ám, và cho nhiều người mù được thấy. Ngài đáp lại rằng: “Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy: người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng; và phúc cho ai không vấp phạm vì Ta”.

 

Suy Niệm 1: Còn phải đợi ai

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S. J. )

Đường lối của Thiên Chúa lúc nào cũng làm con người ngỡ ngàng.

Ngài có lối nghĩ, lối đi rất riêng, khó đoán trước được.

Chính vì thế con người dễ bắt hụt Ngài.

Ngài ở đây mà ta lại cứ đi tìm Ngài ở kia.

Nhiều khi ta kêu ca vì không sao gặp được Ngài

ở những điểm hẹn quen thuộc.

Phải đổi cái nhìn xưa, ra khỏi lối nghĩ cũ, mới hy vọng gặp được Ngài.

Gioan có một hình ảnh khá rõ về Đấng Mêsia.

Ngài như người cầm nia rê lúa và đốt thóc lép trong lửa

hay như cái rìu chặt những cây không sinh trái.

Đấng Mêsia thích dùng lửa để thanh luyện cái xấu (Lc 3, 9, 16-17).

Gioan rất xác tín về hình ảnh này của mình.

Vì thế ông sốt ruột khi không thấy Đức Giêsu làm điều ông chờ đợi.

Trong bóng tối của nhà tù nằm ở phía đông Biển Chết,

Gioan còn phải chiến đấu với bóng tối của sự nghi ngờ nơi mình.

Đức Giêsu mà ông loan báo có đúng là Đấng Mêsia không?

Ông sai hai môn đệ đến tận nơi gặp Đức Giêsu, để hỏi cho ra lẽ.

“Thầy có thật là Đấng-phải-đến không,

hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (c. 19).

Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy một khuôn mặt Mêsia khác hẳn.

Ngài bảo hai môn đệ của Gioan về thuật lại cho thầy mình

những gì họ mắt thấy tai nghe vào chính giờ họ đến gặp (c. 21).

Có sáu dấu chỉ của thời đại Mêsia, thời của Đấng Thiên Sai:

người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,

kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy,

và người nghèo được nghe Tin Mừng (c. 22).

Đây là những dấu chỉ Ngài đã và đang làm cho dân chúng.

Những dấu chỉ này làm cho bao lời ngôn sứ Isaia ngày xưa

được ứng nghiệm (Is 26, 19; 29, 18-19; 35, 5-6; 42, 18; 61,1).

Như thế Đức Giêsu quả là Đấng Mêsia,

nhưng không phải là Mêsia như Gioan chờ đợi.

Ngài không phải là một Mêsia đến phán xét hay tiêu diệt ác nhân,

cho bằng là một Mêsia khiêm nhu và đầy lòng thương xót.

Đức Giêsu đến để công bố một năm hồng ân cứu độ (Lc 4, 19).

“Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (c. 23).

Muốn tránh vấp ngã, Gioan phải đổi cái nhìn của mình về Đấng Mêsia.

Đổi cái nhìn về Thiên Chúa không phải chuyện dễ.

Nhiều khi chúng ta thích một Thiên Chúa chiến thắng vẻ vang,

một Thiên Chúa quyền uy, dùng sức mạnh để chinh phục lòng người.

Chúng ta không chịu được một Thiên Chúa kiên nhẫn với cỏ lùng,

và để cho kẻ ác nhởn nhơ tác oai tác quái.

Ước gì chúng ta không mất đức tin khi đứng trước máng cỏ,

trước Hài Nhi Giêsu, nhỏ bé và yếu ớt, lặng lẽ và khiêm hạ,

vì chúng ta tin Ngài cứu độ thế giới bằng chính sự yếu đuối.

 

Cầu nguyện: 

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Đấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thưong của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

 

Suy Niệm 2: Nhìn xem dấu chỉ

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Gio-an đưa ra một câu hỏi nguyên tắc. Chúa Giê-su đưa ra một câu trả lời thực hành. Gio-an đưa ra một câu hỏi trực tiếp. Chúa Giê-su đưa ra một câu trả lời gián tiếp. Gio-an đưa ra một câu hỏi bắt buộc. Chúa Giêsu đưa ra một câu trả lời tự do.

Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? Chính giờ ấy Chúa Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy”. Đừng lý thuyết hãy thực hành. Đừng vội phán xét lý sự, hãy bình tĩnh nhìn xem rồi sẽ biết phán đoán. Đừng nói nhiều, hãy hành động. Đừng nghe qua trung gian, hãy tiếp xúc trực tiếp, tận mắt kiểm chứng.

Hãy về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng”. Cứ xem quả thì biết cây. Xem công việc thì biết người làm. Xem dấu chỉ thì có thể nhận biết thực tại. Ai có thể cho người mù được thấy nếu không phải là Đấng dựng nên ánh sáng. Ai có thể cho người chết sống lại nếu không phải là Đấng làm chủ sự sống. Ai có thể thứ tha tội lỗi nếu không phải là Thiên Chúa?

Dấu chỉ hiển nhiên nhưng lại tự do. Hiển nhiên vì ai cũng có thể thấy. Tự do vì không ép buộc. Thấy rồi có thể tin hay không. Tùy tấm lòng. Tự do nhưng lại đầy tính thuyết phục. Và phải tâm phục khẩu phục để cho niềm tin phát xuất tự đáy lòng.

I-sa-i-a cho biết sở dĩ Chúa có thể cho “người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy” vì Chúa là chủ vũ trụ, Người ban sự sống, điều khiển muôn loài và là Chúa duy nhất có thể cứu độ: “Ngoài Ta ra không không có thần nào nữa, chẳng có thần công minh cứu độ ngoại trừ Ta. Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ”.

Lạy Chúa, Chúa là chủ vũ trụ và là chủ đời con. Đời con sẽ không có lối thoát nếu không đi về với Chúa. Con mù tối, què quặt, bất toại, xin Chúa hãy khai sáng để con nhìn ra sự thật, hãy phục hồi để con trở lại đường ngay, hãy ban sức mạnh để con hăng hái tiến bước. Xin cho con noi gương Chúa, làm chứng cho Chúa bằng những việc làm cụ thể. Lạy Chúa, xin mau đến cứu độ con.

 

Suy Niệm 3: Đấng Cứu Thế đến

Trong tác phẩm “Ngày Đức Kitô chết” của Jim Bishop, có một đoạn mô tả những gì người Do thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến:

“Việc Đấng Cứu Thế đến là nỗi ám ảnh của cả một quốc gia, là niềm vui ngoài mức tưởng tượng, là hạnh phúc vượt khỏi niềm tin, là niềm an ủi cho những vất vả của con người, là giấc mơ của bậc cao niên, là hy vọng của dân đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu Thế luôn luôn là sự hứa hẹn của buổi sáng ngày mai”

“Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi. Ngài chính là sự hứa hẹn của buổi sáng ngày mai”. Quả vậy, như trong bài Tin Mừng hôm nay, khi dẫn những lời tiên tri Isaia về thời Cứu Thế, Ngài đã cho thấy Ngài là Đấng phải đến. Ngài đem đến Nước Thiên là một yếu tố quyết định mạnh mẽ. Sau Ngài sẽ không còn ai sẽ đến, vì Ngài đã hoàn tất lời sấm ngôn: “người mù được thấy, người què được đi, người phung hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại, người nghèo khó được nghe báo Tin Mừng”.

Mùa vọng nói với chúng ta về việc Chúa Giêsu đến, Ngài không chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng kỷ niệm vào lễ Giáng sinh, nhưng Ngài còn đến vào cuối lịch sử để làm thẩm phán xét xử chúng ta nữa.

Ước gì chúng ta đừng chờ đợi một Đấng nào khác ngoài Đức Kitô, cũng đừng đi lướt qua Đấng phải đến đang hiện diện, cũng đừng khinh thường những giáo huấn của Ngài. Bởi vì Ngài là Đấng phải đến, Ngài là Đấng đã đến trong thế gian, và Ngài là Đấng sẽ đến đầy quyền năng cao cả để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ đã làm. Ước gì chúng ta được vào số những người được Ngài chúc phúc và mời gọi đến lãnh lấy nước Trời làm cơ nghiệp.

 

Suy Niệm 4: Họ đã thấy và đã tin

Một trong những phương pháp giáo dục tốt mà ngày nay các nhà tâm lý giáo dục thường hay áp dụng, đó là: người thầy thường đưa học trò của mình đi thực tế để mắt thấy tai nghe vì trong những ngày tháng học ở giảng đường chỉ là lý thuyết. Tuy nhiên, thời gian đi thực tế là thời gian gặt hái được nhiều thành công nhất.

Hôm nay, Gioan Tẩy Giả cũng dùng biện pháp này khi sai hai môn đệ của mình đi đến gặp Đức Giêsu và hỏi: “Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?”. Khi sai các môn đệ đi như thế, hẳn Gioan không phải là người không biết vai trò, sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì khi ngài còn được tự do, chưa phải tù đầy, chính ngài nhận ra Đức Giêsu ngay từ khi còn trong lòng mẹ, vì thế, ngài đã nhảy mừng khi Đức Maria đến thăm mẹ của mình là bà Elisabét; Gioan cũng thấy Chúa Thánh Thần ngự xuống đậu trên vai Đức Giêsu và có tiếng Chúa Cha xác nhận Đức Giêsu khi Ngài chịu phép rửa; rồi cũng chính ngài đã loan báo về Đấng đến sau mình, nhưng uy quyền và chức vụ của Đấng ấy rất đỗi cao sang, khiến ông không đáng cởi giây dày cho Ngài; cuối cùng, Gioan tuyên bố: “Đây là chiên Thiên Chúa”.

Tuy nhiên, khi sai các môn đệ của mình đến với Đức Giêsu như thế, ông đã mở mắt cho các môn sinh và muốn các đồ đệ của mình hãy can đảm từ bỏ ông để đi theo Đức Giêsu, Đấng là nguồn ơn cứu độ, là đường, sự thật và là sự sống, còn ông, ông chỉ là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

Khi họ đến gặp Đức Giêsu, Ngài đã cho các ông chứng kiến tận mắt những phép lạ chứng tỏ quyền năng và ơn cứu độ của Ngài khi chữa lành những người ốm đau, bệnh tật, loan báo ơn cứu độ cho mọi người, nhất là những người tội lỗi. . .

Khi cho họ chứng kiến như thế, Đức Giêsu không quên cảnh tỉnh họ: “Phúc cho kẻ không vấp ngã vì ta”.

Tại sao Ngài lại nói như thế? Thưa là vì Ngài biết rõ lúc này, nhiều người đang mong chờ Ngài là một vị Cứu Tinh theo kiểu quyền lực chứ không phải là người thi ân giáng phúc thiêng liêng. . . !

Vì thế, lời cảnh thức của Đức Giêsu cho các môn đệ Gioan khi xưa cũng chính là lời khuyên răn chúng ta ngày hôm nay! Thật vậy, nhiều khi chúng ta muốn níu kéo Chúa về phe chúng ta để tiêu diệt những người tội lỗi, bất lương. Hoặc đôi khi chúng ta yêu cầu Chúa phải ban cho chúng ta những ơn chúng ta xin dù ơn xin đó nghịch với Lương Tâm. . . Tuy nhiên, những điều đó hẳn là không thể được Chúa nhận lời, vì thế, nhiều khi chúng ta chưng hửng. . . !

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi vào mối tương quan thân tình với Chúa bằng việc trực tiếp để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Cần có tấm lòng yêu thương, bác ái, liên đới và quảng đại như Chúa.

Noi gương Gioan Tẩy Giả, sẵn sàng lui vào hậu trường để Đức Giêsu được lớn lên và can đảm giới thiệu các môn sinh của mình đến và gặp Đức Giêsu để họ đi theo và thi hành sứ vụ của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con học được bài học từ hành động và cuộc đời của Chúa, để chúng con ra đi rao giảng và loan truyền những kỳ công Chúa đã làm cho nhân loại. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 5: Rao giảng bằng phong cách sống và hoạt động cụ thể

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu truyền giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa không chỉ bằng lời nói suông, nhưng còn bằng chính cuộc sống và hoạt động cụ thể của Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bản chất của Hội Thánh là truyền giảng Tin mừng. Tất cả mọi Kitô hữu, bất kể già trẻ lớn bé, đều có bổn phận truyền giảng Tin mừng. Nhưng lạy Chúa, một em thiếu nhi, một bà già ít học thì truyền giảng Tin mừng thế nào? Lời Chúa hôm nay đã trả lời cho con: Chúa đã không truyền giảng bằng lời nói suông, mà còn bằng chính phong cách sống và hoạt động cụ thể. Lạy Chúa, Chúa đã không tốn công lý luận dài dòng để biện minh cho thân thế và sứ mạng của mình. Chúa mời gọi thầy trò Gioan nhìn thẳng vào những việc làm của Chúa mà thẩm định. Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI nhắc nhở con: “Ngày nay người ta không thích nghe các thầy dạy mà chỉ muốn nghe các chứng nhân, và nếu người ta có nghe các thầy dạy vì các thầy dạy ấy trước đó đã là những chứng nhân. ”

Lạy Chúa, Tin mừng của Chúa đã được truyền giảng vào quê hương con gần năm thế kỷ nhưng kết quả thật khiêm tốn; vỏn vẹn 6 triệu người Công giáo trong tổng số 80 triệu dân. Con nhìn nhận mỗi người chúng con đều có phần trách nhiệm trước thực tế đáng buồn ấy, vì chúng con chưa sống và hành động theo tinh thần Phúc Âm.

Con xin Chúa giúp con dùng chính cuộc sống mình để giới thiệu Chúa cho anh em. Xin cho con biết sống thánh thiện, góp phần nhỏ bé để xoa dịu những khổ đau của anh em, và sống bác ái phục vụ tha nhân theo gương Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Hãy thuật lại với Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy”.

 

Suy Niệm 6: Hình ảnh thực sự đúng của Đấng Messia

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Gioan Tẩy Giả là người dọn đường cho Đấng Messia nhưng đang bị Hêrôđê giam trong ngục tù. Ở trong tù, Gioan nghe biết hoạt động của Đức Giêsu. Một mặt ông nghĩ Ngài chính là Đấng Messia mà ông loan báo là sắp đến. Nhưng mặt khác, ông hơi nghi ngờ, bởi vì theo ông thì Đấng Messia là một quan tòa xét xử, trừng trị kẻ ác, thế mà ông chưa thấy Đức Giêsu xét xử và trừng trị ai cả. Vì thế ông sai môn đệ đến hỏi, xin Đức Giêsu nói rõ Ngài có phải là Đấng Messia phải đến hay không.

Đức Giêsu không trả lời thẳng, mà bảo các môn đệ Gioan về kể lại cho thầy họ những điều họ đã thấy Đức Giêsu làm: cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, và kẻ nghèo được nghe Tin mừng. Đây chính là hình ảnh Messia mà tiên tri Isaia đã mô tả. Nhưng không phải là một Messia thẩm phán, mà là một Messia Tôi Tớ phục vụ.

Đức Giêsu cũng biết rằng hình ảnh Messia Tôi Tớ quá ngược với hình ảnh Messia Thẩm phán mà Gioan vẫn có trong đầu. Cho nên Ngài nhắn thêm với Gioan: “Phúc cho người nào không vấp ngã vì tôi. ”

Suy gẫm

  1. Chính Gioan Tẩy Giả mà còn nuôi một hình ảnh một Đấng Messia uy quyền xét xử và trừng trị kẻ gian ác, huống chi chúng ta. Chúng ta cũng nuôi một hình ảnh Thiên Chúa uy quyền, một hình ảnh Giáo Hội hiển hách. Vì thế chúng ta thường khoe với người khác về cách tổ chức, về những hoạt động, những thành tích… của đạo. Chúng ta tưởng rằng như thế thì người ta sẽ mến và trọng Thiên Chúa và Giáo Hội của chúng ta.

Nhưng Đức Giêsu thì không muốn thế: Thiên Chúa mà Ngài trình bày là một Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, tha thứ; về bản thân thì Ngài muốn cho người ta thấy Ngài là Đấng Cứu Nhân Độ thế. Mà quả thật, những hình ảnh loại này mới có sức cảm hóa và thuyết phục người ta.

Nói cụ thể, thay vì phô trương cho người ta thấy những nét huy hoàng của đạo, thay vì cãi nhau với người ta để tôn cao Giáo Hội, qua cách sống và hành động của chúng ta, hãy cho mọi người thấy rằng chúng ta và Giáo Hội tha thiết muốn làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người bệnh được khoẻ, kẻ nghèo được ấm no, người khổ được an ủi…

  1. Mẹ Têrêxa Calcutta là người cho thế giới thấy rõ nhất hình ảnh Đấng Messia quan tâm cứu giúp những kẻ khốn khổ. Nhưng tiếc thay Mẹ Têrêxa không còn nữa! Mà thế giới thì vẫn luôn cần có những người như Mẹ. Ước gì trong Giáo Hội xuất hiện những Têrêxa Calcutta khác. Ước gì tôi cũng là một Têrêxa Calcutta khác.
  2. “Hay là chúng tôi phải đợi một Đấng Messia khác”: nếu Giáo Hội không là một Messia cứu nhân độ thế, thì người ta sẽ đi tìm Đấng cứu nhân độ thế ở chỗ khác. Nếu cộng đoàn của tôi không phải là một nơi cứu nhân độ thế, thì người ta sẽ tìm đến những chỗ khác. Nếu tôi không phải là một người cứu nhân độ thế, thì dù tôi là linh mục, tu sĩ hay Kitô hữu, tôi cũng chẳng có giá trị gì cho người tôi mong đợi, người ta sẽ đi tìm một người khác.
  3. Mùa Vọng là thời gian mong chờ Đấng Messia, và Giáo Hội muốn nói cho người thời nay biết rằng họ có thể tìm thấy nơi chính Giáo Hội Đấng Messia mà lòng họ mong chờ. Nhưng liệu Giáo Hội có thuyết phục được họ không?
  4. Trong tác phẩm “Ngày của Đức Kitô chết” của Jim Bishop, có một đoạn mô tả những gì người Do Thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến:

“Việc Đấng Cứu Thế đến là nỗi ám ảnh của cả một quốc gia, là niềm vui ngoài mức tưởng tượng, là hạnh phúc vượt khỏi niềm tin, là niềm an ủi cho những vất vả của con người, là hy vọng của dân đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu thế luôn là sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai. ”

 

Suy Niệm 8: Đấng phải đến

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đang lúc ngồi trong tù, Gioan Tẩy Giả sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng Cứu thế không? Chúa không trả lời mà bảo họ về thuật lại cho Gioan những việc các ông xem thấy Người đang làm: người mù được thấy, kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe và người nghèo được nghe giảng Tin Mừng. Tức là Chúa trả lời cách gián tiếp: Người là Đấng Cứu Thế, là Đấng Thiên Sai.

Người Do thái chờ đợi một Đấng Cứu Thế quyền phép, để giải phóng họ khỏi ách nô lệ ngoại xâm và làm bá chủ thế giới. Nhưng Chúa Cứu Thế không đến  để làm việc đó, Người đến để phục vụ, để chữa lành người bệnh tật, để cứu vớt những kẻ lầm lạc tội lỗi.

  1. Chúng ta cần hiểu rõ lý do tại sao ông Gioan đang bị giam trong ngục lại sai hai môn đệ đến phỏng vấn Đức Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến không”? Chúng ta thấy có hai lý do khiến cho Gioan làm như thế:

– Một đàng ông có ý đánh tan tính ghen tỵ và mối hoài nghi của các môn đệ của ông về thân thế Đức Giêsu, vì họ đang tôn trọng ông hơn Đức Giêsu.

– Đàng khác, Gioan muốn cho môn đệ mình có dịp tiếp xúc trực tiếp với Đức Giêsu để có dịp nghe giảng giải và chứng kiến những việc Đức Giêsu đang làm mà tin nhận Người là Đấng Cứu Thế đã đến.

  1. Còn một lý do nữa mà ông Gioan sai hai môn đệ đến chất vấn Đức Giêsu: Ở trong tù, Gioan nghe biết những hoạt động của Đức Giêsu: một mặt ông nghĩ Ngài chính là Messia mà ông loan báo là sắp đến. Nhưng mặt khác, ông hơi nghi ngờ, bởi vì theo ông thì Đấng Messia theo như tiên tri Isaia đã phác họa là một quan tòa xét xử, trừng trị kẻ ác, thế mà ông chưa thấy Đức Giêsu xét xử và trừng trị ai cả. Vì thế ông sai môn đệ đến hỏi, xin Đức Giêsu nói rõ Ngài có phải là Đấng Messia phải đến hay không.
  2. Đức Giêsu có thái độ nào trước cuộc phỏng vấn đó? Ngài không trả lời trực tiếp mà chỉ bảo họ về thuật lại cho Gioan những việc Ngài đang làm: cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, và kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. Bởi vì thời đó, ai cũng tin khi nào Đấng Cứu Thế đến, thì Người sẽ làm nhiều phép lạ, nay Đức Giêsu muốn cho môn đệ Gioan biết chính Người là Đấng ấy, nên Người đã làm nhiều phép lạ để cho họ mắt thấy tai nghe. Rồi Người bảo họ về đưa tin cho Gioan. Nhắn bảo như vậy, Đức Giêsu muốn nói với Gioan hãy căn cứ vào việc Người làm phép lạ để giác ngộ cho các môn đệ của ông tin vào Người là Đấng Cứu Thế.
  3. Hình ảnh Đấng Cứu Thế ngày xưa và ngày nay. Ngày xưa khi Chúa Cứu Thế Giáng sinh, các luật sĩ, vua Hêrôđê và cả dân thành Giêrusalem đã không nhận ra Người, vì họ đã quan niệm Đấng Cứu Thế là Đấng uy phong và phải sinh ra ở nơi lầu son gác tía, chứ không phải ở chuồng bò.

Vì Chứu Cứu Thế xuất hiện trong cung cách như thế, nên chúng ta ngày nay phải hết sức tỉnh táo mới khỏi đón hụt mất Chúa Cứu Thế. Bởi vì, vẫn như ngày nào, Chúa đang hiện diện ở giữa chúng ta; không ồn ào giữa hàng ngũ người tùy tùng hầu hạ kiểu vua chúa phong kiến ngày xưa, mà Người ẩn mình trong thân phận con người nghèo đói, ốm đau, bệnh tật.

  1. Ngày nay phải rao giảng về một Đấng Cứu Thế như thế nào?

Chính Gioan Tẩy giả mà còn nuôi một hình ảnh một Đấng Messia uy quyền xét xử và trừng trị kẻ gian ác, huống hồ chúng ta. Vâng, xét cho kỹ thì có lẽ chúng ta cũng thích hình ảnh về một Thiên Chúa uy quyền, một Giáo hội hiển hách hơn là một Thiên Chúa cúi xuống mà phục vụ cũng như một Giáo hội nhiều khi bị lép vế. Chính vì thế mà chúng ta thích khoe với người khác về cách tổ chức, về những hoạt động, những thành tích v. v. . . của đạo. Chúng ta tưởng rằng, làm như thế thì người ta sẽ mến yêu và kính trọng Thiên Chúa và Giáo hội của chúng ta hơn.

Nhưng Đức Giêsu thì lại không muốn thế: Người muốn Thiên Chúa mà Người trình bầy cho mọi người là một Thiên Chúa hiền lành, nhân từ, yêu thương, tha thứ. Người muốn cho người ta thấy Người là Đấng cứu nhân độ thế, giầu lòng thương xót hơn là một Đấng oai hùng  hiển hách.

  1. Truyện: Ông có phải là Chúa Giêsu không?

Một thương gia kia đang dự buổi họp tổng kết. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về nhà đúng bữa ăn ban tối. Nhưng cuộc họp kéo dài hơn dự định.

Tan buổi họp, ai nấy hối hả chạy ra xe buýt. Một người xô phải quầy bán táo của một cậu bé, táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu bé.

Rồi mọi người đều lên được xe buýt, thở phào nhẹ nhõm. Nhưng ít giây sau, một người trong nhóm cảm thấy bứt rứt về chuyện cậu bé. Ông xuống xe trở lại chỗ cũ. Ông thấy cậu bé đang vất vả tìm từng trái táo để lượm lại. Thì ra cậu bé mù.

Tội nghiệp quá, ông giúp cậu bé lượm lại từng quả táo cho đến hết. Một số quả đã bị giập. Ông móc túi dúi vào tay cậu bé một món tiền, rồi ra đi. Cậu bé bán táo hỏi với theo: “Ông có phải là Chúa Giêsu không”?

Mùa Vọng nói với ta về việc Đức Giêsu đã đến. Ước gì ta đừng chờ đợi một đấng nào khác Người, cũng đừng khinh thường những giáo huấn của Người, nhưng hãy sống hoán cải, khiêm tốn phục vụ mọi người như chính Chúa vậy.

 

Suy Niệm 9: Đợi một Đấng Messia khác?

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Vâng! Chính Gioan Tẩy Giả mà còn nuôi trong đầu hình ảnh về một Đấng Messia đầy uy quyền sẵn sàng xét xử và trừng trị kẻ gian ác, huống chi chúng ta. Xét cho kỹ thì có lẽ chúng ta cũng thích hình ảnh về một Thiên Chúa uy quyền, một Giáo Hội hiển hách hơn là một Thiên Chúa cúi xuống mà phục vụ cũng như một Giáo Hội nhiều khi bị lép vế. Chính vì thế mà chúng ta thích khoe với người khác về cách tổ chức, về những hoạt động, những thành tích v. v. của đạo. Chúng ta tưởng rằng, làm như thế thì người ta sẽ mến yêu và kính trọng Thiên Chúa và Giáo Hội của chúng ta hơn.

Nhưng Đức Giêsu thì lại không muốn thế: Thiên Chúa mà Ngài trình bày cho mọi người là một Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, tha thứ. Ngài muốn cho người ta thấy Ngài là Đấng cứu Nhân Độ Thế giàu lòng yêu thương. Mà quả thật, những hình ảnh loại này mới có sức cảm hóa và thuyết phục người ta.

Nói một cách cụ thể hơn, thay vì phô trương cho người ta thấy những nét huy hoàng của đạo, thay vì cãi nhau với người ta để tôn Giáo Hội lên, chúng ta hãy cho người ta thấy rằng, chúng ta và Giáo Hội chúng ta đang tha thiết muốn làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người bệnh được khoẻ, kẻ nghèo được ấm no, người khổ được an ủi v. v. Chúng ta có thể làm những việc đó qua dời sống của chúng ta.

 Một nhà truyền giáo, lần đầu tiên đến Trung Hoa, giảng về Chúa Giêsu cho một nhóm dân bản địa. Khi ngài kết thúc, một người nói:

– Phải, chúng tôi đã biết ngài. Ngài đã sống ở đây.

Nghe thế, nhà truyền giáo liền nói:

– Không, Đức Giêsu sống ở nước khác, cách đây gần 2000 năm rồi.

Nhưng những người đó vẫn khăng khăng bảo:

– Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúa đã sống trong làng này. Chúng tôi biết Ngài.

Rồi ông dẫn nhà truyền giáo đến nghĩa trang và chỉ cho nhà truyền giáo thấy ngôi mộ của một nhà truyền giáo khác, đã từng sống với họ, phục vụ họ và cuối cùng, an giấc nơi cộng đoàn của họ.

Mẹ Têrêsa đã có lần nói: “Hãy mở lòng, để Thiên Chúa làm thấm nhuần tấm lòng bạn bằng tình yêu thương. Chúa yêu thương bạn với tình yêu dịu hiền. Những gì Chúa ban tặng không phải để bạn giữ lấy và khoá kỹ, nhưng để bạn cho đi. ”

Chính mẹ là người đã cho thế giới thấy rõ hình ảnh về Đấng Messia luôn quan tâm đến việc cứu giúp những kẻ khốn khổ. Tiếc thay là mẹ Têrêsa không còn nữa! Thế giới thì vẫn luôn cần có những người như mẹ. Ước gì Chúa ban cho Giáo Hội những Têrêsa Calcutta khác. Và ước gì mỗi người chúng ta cũng là một Têrêsa Calcutta cho thế giới hôm nay.

  1. “Hay là chúng tôi phải đợi một Đấng Messia khác?” (Lc 7,20) 

Ngày xưa, Gioan đã sai môn đệ ông hỏi Chúa như thế. Ngày hôm nay, có lẽ cũng có nhiều người muốn hỏi Giáo Hội như vậy? Hay là chúng tôi còn phải đợi một Giáo Hội khác?

Vâng, nếu Giáo Hội hôm nay không là một Giáo Hội cứu nhân độ thế, thì người ta sẽ đi tìm Đấng cứu nhân độ thế ở chỗ khác. Nếu cộng đoàn của tôi không phải là một nơi cứu nhân độ thế, thì người ta sẽ tìm đến những chỗ khác. Nếu tôi không phải là một người cứu nhân độ thế, thì dù tôi là Linh mục, tu sĩ hay Kitô hữu, tôi cũng chẳng có giá trị gì cho người mong đợi ở tôi và người ta sẽ đi tìm một người khác.

Trong quyển tự thuật Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách thống trị của người Anh, người ta được biết: Trong những ngày còn là sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc Kinh Thánh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối Phúc Thật đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.

Mahatma Gandhi xác tín rằng, Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và để đón nhận vài lời chỉ dẫn, ông đã phải thất vọng. Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng đã chặn ông lại và nói với ông rằng, nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu mà dự.

Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và từ đó trở đi ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa.

Thế là Chúa mất đi một tín đồ nhiệt thành. Người ta nói rằng, nếu hôm đó ông được đối xử một cách nhân từ và rộng lượng thì ngày nay cả nước Ấn Độ có lẽ đã được biết Chúa.

Nhưng tiếc thay! Đã quá muộn.

Chúng ta xin cho chúng ta biết sống một cuộc sống như Chúa để thành chứng nhân cho Chúa trong thế giới hôm nay.

Lạy Chúa xin cho chúng con trở thành những cánh tay nối dài của Chúa. Amen.

 

 

 

Thứ Năm tuần 3 Mùa Vọng

 

LỜI CHÚA: Lc 7, 24-30

Khi những người Gioan sai đến đi rồi, Chúa Giêsu nói với đám đông về Gioan rằng: “Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc óng ả và đời sống xa hoa thì ở trong cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Chính về ông đã có lời chép rằng: “Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con”. Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông”.

Toàn thể dân chúng đã nghe Ngài, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của Gioan. Còn những người Biệt phái và Luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, và họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho.

 

Suy Niệm 1: Hơn cả ngôn sứ nữa

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S. J. )

“Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Lc 7, 23).

Dưới góc độ nào đó, có thể nói Gioan đã “vấp ngã” vì Đức Giêsu.

Khuôn mặt của Ngài không như những gì ông nghĩ và mong đợi.

Ông ngỡ ngàng vì Đức Giêsu hành động ngược với điều ông trình bày.

Rõ ràng Gioan vẫn thuộc về thời đại cũ.

Nhưng Đức Giêsu tôn trọng vị thế của Gioan,

và đã hết lời ca ngợi ông trước mặt dân chúng.

Gioan đã gây nên một phong trào rộng lớn nhằm canh tân.

Ông sinh ra một cách lạ lùng và sống cũng lạ lùng.

Hoang địa là nơi ông chọn để sống một mình và cất tiếng gọi sám hối.

Tiếng gọi này thu hút đến nỗi người ta kéo nhau đến gặp ông.

“Anh em đi xem gì trong hoang địa ?”

Câu hỏi này được Đức Giêsu nhắc đến ba lần (cc. 24-26).

Gioan hẳn không phải là một cây sậy dễ uốn mình theo mọi chiều gió.

Nếu thế thì ông đã chẳng bị bắt và tống ngục.

Gioan cũng không phải là người ăn mặc sang trọng trong cung.

Ông sống khổ hạnh cả về ăn lẫn mặc (Lc 1, 15; 7, 33).

Nếu hoang địa lôi kéo bao đoàn người háo hức đổ về

thì chỉ vì người ta muốn tìm gặp một vị ngôn sứ.

Dân chúng tin Gioan là vị ngôn sứ mà họ chờ đợi đã lâu.

Họ mong được nghe Thiên Chúa nói sau thời gian dài thinh lặng.

Đức Giêsu khẳng định Gioan còn lớn hơn một ngôn sứ nữa (c. 26),

bởi lẽ ông chính là người đi trước dọn đường cho Ngài (c. 27).

Ông thuộc về một thời đại đã qua, nhưng ông giới thiệu về thời đại mới.

Ông là ngôn sứ cao trọng hơn các ngôn sứ của Cựu Ước

vì ông trực tiếp chỉ cho mọi người thấy Đấng Cứu độ.

Dọn đường cho Chúa Giêsu đến là việc chúng ta vẫn phải làm.

Ngài vẫn cần những Gioan mới để mở đường cho Ngài vào,

để trở thành nhịp cầu cho con người thế kỷ 21 gặp và tin.

Chúng ta không thể mặc áo lông lạc đà hay ăn châu chấu.

Chúng ta cũng không vào hoang địa để sống độc thân.

Nhưng lối sống của chúng ta phải khiến người đương thời

đặt những câu hỏi về Đức Giêsu, về vĩnh cửu, về ý nghĩa cuộc sống.

Chấp nhận làm người dọn đường cũng phải chấp nhận thất bại.

Những người bình dân và tội nhân đã tin vào sứ điệp của Gioan (c. 29),

còn những người trí tuệ hơn lại khước từ, không chịu phép rửa (c. 30).

Khước từ Gioan là khước từ ý định cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.

Kitô hữu chúng ta được diễm phúc hơn Gioan

vì được thuộc về Nước Thiên Chúa do Đức Kitô khai mở (c. 28).

Chúng ta đang được hưởng những ân phúc mà Gioan chưa được hưởng.

Gioan chỉ cho dân tộc mình thấy Đấng Cứu Độ,

còn chúng ta được sống tình thân với Đấng Cứu Độ và nên một với Ngài.

Kitô hữu cũng phải chấp nhận sống trong một thứ hoang địa khắc khổ nào đó,

để tiếng kêu của mình dễ được con người hôm nay nghe hơn.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu

Xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,

Nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,

Dễ thấy Chúa hiện diện

Và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,

Xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,

Khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu

Để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu

Để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,

Vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,

Hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

 

Suy Niệm 2: Ý định của Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Gio-an loan truyền ý định của Thiên Chúa. Gio-an là tiên tri trung thành. Ông kiên trung loan báo ý định của Thiên Chúa. Dù gặp biết bao khó khăn thử thách, ông không như loài lau sậy vật vờ ngả nghiêng trước gió, nhưng luôn vươn lên thẳng tắp như đại thụ giữa phong ba. Ông trung thực loan báo ý định của Thiên Chúa cách nguyên tuyền, không tô son trát phấn, chẳng gấm vóc lụa là. Ý định của Thiên Chúa vì thế sáng tỏ như ban ngày. Ông cao trọng nhất vì được vinh dự đi sát cạnh Chúa Cứu Thế. Cả một đám rước dâu Cựu Ước dài dằng dặc trong mấy nghìn năm với biết bao thế hệ, Gio-an được vinh dự là phù rể đi ngay bên cạnh Tân Lang. Nhưng trước sau ông vẫn thuộc về Cựu Ước, chỉ loan báo ý định của Thiên Chúa.

Chúa Giê-su thực hiện ý định của Thiên Chúa. Đó chính là ý định yêu thương. Yêu thương bằng xương bằng thịt là chính Ngôi Hai Thiên Chúa, Con Một yêu dấu của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa nhập thể làm người để ở với ta, để chia sẻ thân phận của ta và nhất là để cứu độ ta.

Thiên Chúa kiên trì trong ý định yêu thương của Người. Dù con người phản bội. Dù đã có lúc Thiên Chúa nổi giận. Nhưng rồi tình yêu thương lướt thắng. Thiên Chúa không thể mâu thuẫn với chính mình nên lại tiếp tục ý định yêu thương: “Trong một thời gian ngắn Ta đã ruồng bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp. Lúc lửa giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn người, nhưng vì tình nghiã ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót. . . Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi”. Thật cảm động biết bao.

Chúa Giê-su, để thực hiện ý định yêu thương của Thiên Chúa, đã hi sinh thân mình, không chỉ xuống thế làm người mà còn sẵn sàng chịu chết để ý định yêu thương của Thiên Chúa được thực hiện.

Phần tôi, tôi có hiểu được ý định yêu thương của Thiên Chúa không? Nếu hiểu được tôi sẽ phải dọn đường đón nhận. Nếu hiểu được tôi phải kiên trì loan báo như Gio-an, dù gặp thời thuận tiện hay không. Nếu hiểu được ý định cao quí và hệ trọng này, tôi phải noi gương Chúa Giê-su, hiến mình để ý định cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện.

Lạy Chúa Giêsu xin mở lòng con, để con sẵn sàng đón nhận Chúa là ý định yêu thương cứu độ của Đức Chúa Cha.

 

Suy Niệm 3: Gioan Tiền Hô

Đức Giêsu phác ra đây một vài nét về Gioan Tiền Hô:

Tiên tri … và còn hơn cả tiên tri. Gioan, cũng như các tiên tri, nói với người thời đại mình, chống lại não trạng, chống lại ý kiến của thời đại. Người công bố sứ điệp đầu tiên sau đây mà chúng ta đang cần tới: đừng điều chỉnh tư tưởng, hy vọng, hành động các ngươi theo những cái thiên hạ nói và làm trong một xã hội tan rã và biến động, nhưng hãy điều chỉnh mình theo Thiên Chúa. Hãy trở lại. Đừng điều chỉnh mình theo bất cứ ý tưởng nào đang lưu hành trong Giáo Hội, song hãy theo những kẻ có sứ mệnh hướng dẫn Giáo Hội.

Sứ giả đi trước dọn đường. Đây là một mầu nhiệm lớn lao, mầu nhiệm về cách thức Thiên Chúa đến trong nhân loại. Đức Kitô cũng đã có thể xuất hiện với loài người một cách đột ngột uy hùng. Nhưng thực tế đã không phải như thế và hiện cũng không xảy ra như vậy. Suốt trong lịch sử, có những người nhận được sứ mệnh chuẩn bị người khác đón nhận Chúa ngự đến. Cả ngày nay nữa, còn có những người mang sứ mệnh chuẩn bị kẻ khác đón nhận Chúa. Về phương diện này, mọi Kitô hữu đều phải tự coi như được giao phó cho một sứ mệnh.

Nhưng chúng ta không phải là Gioan Tiền Hô! Cố nhiên rồi! Nhưng Gioan làm chứng cho một cái gì? Người đã trung thành với điều Thiên Chúa xin người làm. Người đã cầu nguyện, đã tự buộc mình phải hy sinh từ bỏ, đã can đảm để làm chứng khi cần. Nhờ đó, người là đấng cao trọng, và có nơi, Chúa Giêsu tuyên bố người hạnh phúc.

(Trích trong ‘Lương Thực Hàng Ngày’)

 

Suy Niệm 4: Gioan là người có phúc

Hôm nay, Đức Giêsu khen ngợi Gioan Tẩy Giả vì cuộc sống của ông thật chính trực, công minh, cam đảm và trung thành khi sống một cuộc đời khắc khổ trong Sa mạc.

Quả thật, Gioan thật xứng đáng được ca ngợi là người có phúc và cao trọng trước mặt Thiên Chúa vì ông sẵn sàng thi hành sứ vụ ngôn sứ dù thuận tiện hay không thuận tiện. Ông đã ăn chay và cầu nguyện để làm gương cho mọi người và chỉ ra cho mọi thành phần trong dân con đường sám hối để được ơn cứu độ.

Gioan thực sự đã là vị tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ngài cũng là người khai mào cho Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu.

Những lời khen ngợi của Đức Giêsu dành cho Gioan đã khơi gợi trong lòng chúng ta về cách thức đối xử với nhau, đó là: biết khen chê đúng mức.

Nếu chỉ chê mà không khen thì phải chăng chúng ta dễ bị rơi vào tình trạng tự mãn, khinh khi, kiêu ngạo; nếu chỉ biết khen mà không dám phê bình thì sẽ dẫn tới tình trạng nịnh hót, luồn cúi, gian dối, không chân thành khi thiếu đi sự thành thực.

Mùa Vọng là mùa mời gọi chúng ta cần tránh thái độ của những người Pharisêu. Vì kiêu ngạo, tự mãn, nên họ đã không chấp nhận phép rửa sám hối của Gioan. Mặt khác, noi gương Gioan, chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa bằng cách ăn năn, sám hối để được ơn tha thứ của Thiên Chúa; cam đảm trở thành chứng nhân sự thật cho Thiên Chúa ngay giữa lòng xã hội hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn sám hối chân thành: biết mình và biết Chúa. Luôn sống cương trực, thẳng thắn để Lời Chúa không bị bóp méo trong khi loan báo. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 5: Ông Gioan Tẩy Giả

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau khi môn đệ Gioan ra về, Đức Giêsu khen ngợi và giới thiệu vai trò tiền hô của ông.  Ông là tiên tri trổi vượt hơn các tiên tri, vì ông là sứ giả  dọn đường cho Chúa đến trần gian. Nếu sánh ông với mọi người thì ông cao trọng hơn hết, nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông, vì họ được sống với Chúa. . . Mọi người nghe ông giảng đều hết lòng tin theo Chúa, cả những người thu thuế và tội lỗi cũng vậy. Chỉ có nhóm biệt phải và luật sĩ thì cứng lòng không chịu tin.
  2. Đức Giêsu khen ông Gioan về hai điểm:

– Gioan không là một người nhu nhược , mềm yếu như cây sậy phất phơ trước gió. Ông là một người cương trực và can đảm dám hạch tội vua Hêrôđê đến nỗi  sẵn sàng chịu giam trong ngục và bị cắt cổ.

– Ông  không phải là một người tìm một cuộc sống xa hoa, đầy tiện nghi, ăn mặc sung sướng; trái lại, ông là một người đạo đức thánh thiện, dám sống đời khổ hạnh hãm mình, hy sinh trong hoang địa.

  1. Gioan là con người cương trực, thẳng thắn, dám ăn dám nói,  không sợ bất cứ một quyền lực nào. Ông dám phê phán những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh của mình. Nếu Gioan chịu làm một cây sậy gió thổi chiều nào theo chiều đó thì cuộc đời Gioan đã không bị gẫy đổ. Vua Hêrôđê sẽ ủng hộ Gioan, mọi người quí trọng Gioan và coi Gioan là chính Đấng Messia. Tóm lại, ông sẽ được tất cả. Nhưng sứ mạng của ông không hoàn thành.

Nhưng vì Gioan can đảm thi hành sứ mạng bất chấp những phong ba bão táp, nên ngài đã bị cầm tù, bị chém đầu và kết thúc cuộc đời mình  trong ngục tù tăm tối, dưới tay một đứa con gái. Tuy nhiên, chính vì thế mà Gioan trở thành “người cao trong nhất trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ”.

Cái chết của ông là minh chứng cho sự trung thực thẳng thắn, là triều thiên tử đạo đổ máu đào cản ngăn những điều bất nhân bất nghĩa. Thật thế, Gioan chỉ luôn biết sống trung tín và loan báo những gì  mà Thiên Chúa muốn cho ông nói và làm.

  1. Trong suốt cuộc đời Gioan luôn sống trung thành và tỏa sáng với nhiệm vụ tiền hô. Có thời điểm, dân chúng suy tôn tung hô ông như là Đấng Cứu Thế nhưng ông đã minh xác: “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, sẽ có một người đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi dây dầy Người” (Lc 3,16). Chính Gioan xác nhận vai trò của ông trong tương quan với Đấng Cứu Thế: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Ông chỉ là một tiên tri, là tiền hô và là chứng nhân cho Thiên Chúa như Tin Mừng thứ tư đã khẳng định: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, người đó tên là Gioan, ông đến để làm chứng cho ánh sáng” (Ga 1,6).
  2. Cái chết của mẹ Têrêsa Calcutta đã làm rúng động cả thế giới. Nhiều vị nguyên thủ quốc gia cũng như nhiều vị lãnh đạo tôn giáo đã thương tiếc Mẹ; vì nơi Mẹ, họ nhận ra hình ảnh của một người luôn sống yêu thương và nhân từ như lời Chúa dạy.

Sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay chất vấn chúng ta về trách nhiệm làm Kitô hữu. Ông Gioan Tẩy Giả là một vị tiên tri đích thực của Thiên Chúa. Cả cuộc đời ông, từ lời nói, hành động và cả cái chết, đều là lời giới thiệu Thiên Chúa cho mọi người.

Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi  trở nên những tiên tri  giới thiệu Thiên Chúa cho trần gian. Chúng ta phải thực hiện sứ vụ này bằng những hành động yêu thương và phục vụ cụ thể trong cuộc sống.

  1. Truyện: Câu chuyện một cụ già 75 tuổi.

Đây là một câu chuyện đã xẩy ra trong một giáo xứ  vùng sâu vùng xa. Khi về nhận xứ, Linh mục chánh xứ được biết ở đây có nhiều người đã được ơn trở lại với Chúa. Trong một buổi họp mặt ở nhà thờ, sau khi giảng, vị Linh mục hỏi mọi người:

– Ở đây ai là người có công nhiều nhất trong việc giúp cho anh chị em trở thành con cái của Chúa? Rồi ngài gợi ý: người đó có thể là một bà mẹ, là người rao giảng, là giáo viên, là người hàng xóm của anh chị em.  Và bây giờ tôi mời anh chị em đứng lên và tiến đến bắt tay người nào có ảnh hưởng nhất đối với anh chị em trong việc đem Đức Kitô như là Đấng Cứu Độ đến với mình.

Sau lời của vị Linh mục, hầu như mọi người đổ dồn cặp mắt về phía một bà cụ già đã ngoài 75 tuổi ngồi bên phải vị Linh mục. Bà cụ chưa bao giờ nói trước công chúng. Bà cũng không phải là một nhà giảng thuyết, hoặc người làm việc trong nhà thờ, bà cụ chỉ là một người mẹ, một người vợ Công giáo đầy lòng tin, hết lòng tận tụy với bổn phận hằng ngày của mình mà thôi.

Thế mà cả một chuỗi dài những người nối tiếp nhau tiến đến bắt tay bà cụ. Họ nói:

– Cuộc sống âm thầm, tận tụy, đầy lòng tin của cụ, những hành động và chứng từ của cụ đối với Chúa Giêsu đã đưa dẫn chúng tôi  đến với Đức Kitô Đấng Cứu Độ.

Chính nhờ đời sống tươi đẹp, thánh thiện đó mà người phụ nữ Công giáo này đã đưa nhiều người đến với Đấng Cứu Thế có thể hơn cả một nhà giảng thuyết tài giỏi.

 

Suy Niệm 6: Gioan là ngôn sứ, dọn đường cho Đấng Messia

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

  1. Hạt giống. . .

Đoạn Tin Mừng này nối tiếp đoạn hôm qua. Khi các môn đệ của Gioan Tẩy giả ra đi rồi, Đức Giêsu nhận xét về ông này:

– Gioan không là một người nhu nhược như cây sậy phất phơ trước gió, trái lại ông rất can đảm dám vạch tội vua Hêrôđê.

– Gioan không phải là một người tìm sống một cuộc sống tiện nghi ăn sung mặc sướng, trái lại ông sống rất thanh đạm và kham khổ.

– Gioan chính là một ngôn sứ, và còn hơn ngôn sứ, Gioan là dọn đường cho Đấng Messia.

  1. . . . nẩy mầm.
  2. Nếu Gioan chịu làm một cây sậy gió thổi chiều nào uốn theo chiều đó thì cuộc đời Gioan đã không bị gãy đổ, Hêrôđê sẽ ủng hộ Gioan, mọi người quý trọng Gioan và coi Gioan là chính Đấng Messia. Tóm lại Gioan sẽ được tất cả. Nhưng sứ mạng Gioan không hoàn thành.

Nhưng vì Gioan can đảm thi hành sứ mạng bất chấp những phong ba bão táp, nên ngài đã bị cầm tù, bị chém đầu và kết thúc đời mình trong ngục tù tăm tối, dưới tay một đứa con gái. Tuy nhiên chính vì thế mà Gioan trở thành “người cao trọng nhất trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ”.

Xin cho con can đảm trung thành với sứ mạng của con.

  1. Để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, Gioan chỉ cần giảng cho dân nghe thôi là đủ, tội gì phải vào sống trong hoang địa, tội gì phải ăn uống kham khổ bằng châu chấu và mật ong rừng, tội gì phải mặc áo bằng da thú thô sơ nhám nhúa? Thưa vì Gioan không muốn giảng chỉ bằng lời mà còn bằng cách sống. Gioan giảng về sự sám hối, hoán cải, cho nên Gioan cần phải sống kham khổ như thế.
  2. “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn Gioan”: một vị ngôn sứ cực nhọc dọn đường cho Đấng Cứu Thế, chịu sống kham khổ trong sa mạc, và chịu chết thê thảm vì sứ mạng của mình, thế mà còn không có phúc bằng tôi, một người sống thời Tân Ước!

Xin cám ơn Thánh Gioan Tẩy giả. Ngài đã chuẩn bị sẵn tất cả để cho con hưởng dùng.

Xin cám ơn Chúa đã đặc biệt ưu đãi con dù con không có công gì.

Xin cho con thực sự trở thành kẻ bé nhỏ trong Nước Chúa.

 

 

Thứ Sáu tuần 3 Mùa Vọng

 

LỜI CHÚA: Ga 5, 33-36

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do Thái rằng: Các ngươi đã sai người đến hỏi Gioan và ông đã làm chứng cho sự thật. Còn Ta, Ta không ỷ vào lời chứng của một người, nhưng Ta nói thế là để các ngươi được cứu thoát.

Gioan là đèn cháy sáng, và các ngươi trong một lúc đã vui mừng vì ánh sáng đó.

Nhưng phần Ta, Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta.

 

Suy Niệm 1: Ngọn đèn cháy sáng

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S. J. )

Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu nhiều lần nói về mình:

“Tôi là Ánh sáng thế gian” (8,12; 9,5; 12,46).

Ngài là Ngôi Lời, là Ánh sáng thật đến trong thế gian này

để chiếu soi mọi người chẳng trừ ai (Ga 1,9).

Tiếc thay có những người đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng,

vì các việc họ làm thì dối trá và xấu xa (3,19-21).

Người ta né tránh ánh sáng vì sợ việc mình làm bị bại lộ.

Nhưng ai sống theo sự thật sẽ bị thu hút bởi ánh sáng của Đức Giêsu.

Ai theo Ngài sẽ không phải đi trong bóng tối, không sợ vấp ngã (11,10),

nhưng sẽ có ánh sáng đem lại sự sống (8,12).

Ai tin vào Ngài sẽ không sẽ không ở lại trong bóng tối (12,46),

nhưng sẽ trở nên con cái ánh sáng (12,36).

Gioan Tẩy giả là người được Thiên Chúa sai đến

để làm chứng cho Ánh sáng là Đức Giêsu (1,7-8).

Ông là nhịp cầu để mọi người nhờ ông mà tin vào Ánh sáng.

Gioan không phải là Ánh sáng, dù ông đến trước Đức Giêsu.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài gọi ông là ngọn đèn cháy sáng (c. 35).

Đức Giêsu còn nhắc lại chuyện người Do thái đã cử người đến gặp Gioan.

Và ông đã làm chứng cho sự thật (c. 33 ; x. 1,19-28).

Sự thật là: Đức Giêsu, Đấng đến sau ông thì cao trọng hơn ông nhiều.

Ông chỉ là ngọn đèn, còn Đức Giêsu là Ánh sáng.

Đám đông đã nhờ ngọn đèn ấy mà đến với Ánh sáng.

Ngọn đèn của Gioan rực sáng giữa lúc dân Do-thái chờ mong,

và họ đã vui sướng kéo đến với Gioan để hưởng ánh sáng ấy.

Tiếc thay điều ấy chỉ kéo dài một thời gian, rồi tàn lụi.

Vì nhiều người không tin Đấng là Ánh sáng mà Gioan làm chứng.

Chúng ta đã gần đến ngày mừng Lễ Chúa Giáng Sinh.

Lễ Giáng Sinh là lễ mừng Ánh sáng đi vào thế gian tối tăm này.

Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa, và sáng hơn xưa,

nhưng bóng tối của tội lỗi và sự chết vẫn còn đó.

Con người luôn có tự do để đón nhận hay từ khước ánh sáng.

Bóng tối sẽ bủa vây khi tôi đóng cửa lòng mình.

Thực sự mừng lễ Giáng sinh là dám mở ra trước Ánh sáng,

không dấu diếm tình trạng tăm tối, lạc hướng của mình,

nhìn nhận mình đã rời xa sự thật, sự thiện và sự sống.

Chỉ khi khiêm hạ nhận mình đang bị tối tăm đè bẹp,

ta mới đẩy lui được sự thống trị của bóng tối nơi ta.

Mừng Giáng Sinh bằng trang trí nhiều đèn màu, không đủ.

Chỉ mong tôi để Ánh sáng Chúa đi vào bóng tối đời mình,

biến tôi thành một ngọn đèn cháy sáng như Gioan

để đem lại niềm vui sống cho thế giới hôm nay.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa là Ánh sáng thân thương,

giữa những bủa vây của u sầu ảm đạm,

xin Chúa dẫn con đi.

Đêm thì tối, đường còn xa,

xin Chúa dẫn con đi,

xin giữ bước chân con.

Con đâu dám xin thấy tương lai xa xôi,

chỉ thấy một bước trước mặt cũng đủ rồi.

Chưa bao giờ con như bây giờ,

cũng chưa bao giờ con xin Chúa dẫn.

Con đã quen chọn và thấy con đường của mình.

Nhưng giờ đây,

xin Chúa dẫn con đi.

Chân phước John Henry Newman

 

Suy Niệm 2: Thực thi thánh ý

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Gio-an dù là một chứng nhân trổi vượt. Một người cao cả hơn mọi người do phụ nữ sinh ra. Một ngọn đèn chiếu sáng cõi đời. “Và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông”. Và Gio-an đến để làm chứng cho Chúa. “Ông không phải ánh sáng. Nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng”. Nhưng Chúa vẫn không cần đến lời chứng của ông. Chúa có lời chứng của Thiên Chúa cao siêu tuyệt đối. Là Thiên Chúa Cha. Cha của muôn loài. Và Chúa Giê-su là Con. Vì đã làm những việc Chúa Cha giao phó: “Tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi”.

Những việc Chúa đã làm thật kỳ diệu. Kẻ mù được thấy. Kẻ què được đi. Người câm nói được. Người chết sống lại. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được như thế.

Những việc Chúa làm minh chứng Chúa là người Con chí hiếu. Không nói gì mà đã không nghe từ Cha. Không làm gì ngoài thi hành thánh ý Chúa Cha. “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy”(Ga 4,34). “Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết”(Pl 2, 8). Cuộc chiến đấu trong vườn Cây Dầu là cuộc chiến thắng của người Con hiếu thảo: “Lạy Cha nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý Con. Xin vâng ý Cha mà thôi”(Lc 22,42). Chỉ người Con đích thực mới có thể tuyệt đối vâng theo thánh ý như thế.

Từ đó tất cả những ai vâng theo thánh ý, không phân biệt dân ngoại hay có đạo, đều trở thành con cái Chúa. Được Chúa cho vào nhà Chúa dâng lễ vật. Được Chúa yêu thương nhận lời cầu khẩn. “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu ngueyejn của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân”.

Để sống Mùa Vọng, không gì bằng ta tuân theo ý Chúa. Làm những công việc của Chúa. Tuân theo thánh ý Chúa. Đó là cách giới thiệu Chúa cho thế giới hôm nay. Đó là làm cho Chúa hiện diện trong thế giới. Và ta trở thành người con chí ái của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Sức mạnh và giới hạn của chứng tá

Lời Đức Kitô hôm nay làm ta suy nghĩ về sức mạnh và giới hạn của chứng tá.

Từ đâu phát sinh sức mạnh của chứng tá cho Đức Giêsu? Sức mạnh ấy phát sinh từ phẩm chất của giáo thuyết, từ uy quyền của phép lạ, từ những dấu hiệu của lòng nhân từ, đại độ. Chúa Giêsu nói: những công việc Người làm chứng tỏ rằng chính Chúa Cha đã sai Người đến, vì chỉ có Chúa Cha mới có thể ban quyền năng để làm các điều đó. Quả thực, công việc Chúa Giêsu đã thu hút sự chú ý của người Do Thái, nhưng tại sao họ không biết đọc cái chứng tá mà công việc kia mang lại? Vì, trong trật tự đức tin, chứng tá tự giới hạn lại để tôn trọng tự do. Nó đòi hỏi được đón nhận cách tự do bởi những tâm hồn ngay thẳng, những cõi lòng tự do, những trí khôn lương thiện.

Mà Do Thái thì chất đầy những đam mê chính trị và quốc gia, những thành kiến, tư lợi và hẹp hòi trong việc hiểu biết Lề Luật. Trong những điều kiện như thế, họ đóng kín trước chứng tá do các việc Chúa Giêsu làm. Trí khôn con người là thế đó: họ còn đi đến chỗ dùng ngay các việc của Chúa mà đả lại Người.

Ta có dám quả quyết rằng hiện tượng đó là một chuyện của quá khứ, không liên quan gì tới ta nữa chăng? Hiện nay một số người dùng Phúc Âm chống lại Phúc Âm. Mà họ lại được nhiều người nghe theo. Phần ta, hãy cầu xin Chúa Thánh Thần giúp ta đọc Phúc Âm, nghĩa là nghe chứng từ của Đức Giêsu với một tâm hồn ngay thẳng, một cõi lòng tự do, một trí khôn lương thiện. Bởi vì không ai đến với Chúa Giêsu nếu không được Chúa Cha lôi kéo, nên ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Cha đừng bao giờ để tình trạng mơ hồ, nước đôi ngăn cản con mắt ta đọc chứng tá mà Chúa Thánh Thần đang đem tới về Đức Kitô hôm nay.

(Trích trong ‘Lương Thực Hàng Ngày’)

 

Suy Niệm 4: Chứng nhân sự thật

Trong Mùa Vọng, Gioan Tẩy Giả được biết đến như Vị Tiền Hô đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Khi đến, ông đã trở nên ngọn đèn chiếu sáng cho những ai cần tìm ơn cứu độ.

Quả thật, ông là người đã được Thiên Chúa phù trì cách đặc biệt, vì thế, ông càng lớn lên thì nhân đức của ông cũng tăng theo như lời tiên tri Giacaria đã loan báo: “Còn hài nhi thì lớn dần, nên dũng mãnh về thần khí và vào nơi hoang địa cho đến ngày lãnh sứ mệnh đến với dân Israel” (Lc 1,80)

Tuy nhiên, giữa lúc uy tín, danh dự và uy thế của ông lên cao, thì cũng là lúc ông thể hiện xuất sắc vai trò của người dọn đường, vì thế, ông đã nói: “Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé đi” (x. Ga 3, 30). Khi nói như thế, ông muốn giới thiệu Đức Giêsu đích thực là Đấng Cứu Thế.

Thật vậy, ông đã cam đảm nói cho mọi người biết rằng: ông chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, là kẻ dọn đường, để chuẩn bị lòng dân đón đợi Đấng Cứu Thế. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng. Ông không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng đến để chuẩn bị cho Đấng Xóa Tội trần gian.

Cuộc đời của Đức Giêsu không chỉ được Gioan Tẩy Giả làm chứng, mà Ngài còn có một lời chứng cao trọng hơn cả Gioan, lời chứng đó chính là Thiên Chúa Cha: “Ta có lời chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta” (x. Ga 5, 36-40).

Như vậy, ngoài lời chứng của người trần, Đức Giêsu còn có Thiên Chúa Cha, người đã làm chứng cho Đức Giêsu như trong lúc Ngài chịu Phép Rửa tại sông Giodan. Lúc đó, Ngài được Thiên Chúa Cha xác nhận: “Đây là con Ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng. Hãy vâng nghe lời Người”. Rồi lúc biến hình trên núi, Chúa Cha cũng xác minh điều đó. Đến lượt Đức Giêsu, Ngài đã thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha là cứu chuộc nhân loại để cho nhân loại được sống.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy học nơi Gioan Tẩy Giả, đó là sẵn sàng làm chứng cho sự thật. Không chấp nhận uốn cong, bóp méo Lời Chúa để cho mình được an thân. Sống chứng nhân thì quan trọng hơn là lời nói, nhưng nếu lời nói mà đi đôi với hành động thì thật là tuyệt vời. Gioan Tẩy Giả đã làm được điều đó!

Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta đặt mình trước mặt Chúa trong Mùa Vọng này, để thấy được rằng chúng ta có trở nên người mang trong mình ánh sáng của Thiên Chúa và loan truyền ánh sáng đó cho người khác hay không?

Lạy Chúa Giêsu, Chúa được Chúa Cha sai xuống trần gian để mở ra cho nhân loại con đường cứu độ. Con đường đó là con đường của sự thật, của Thánh Giá. Xin Chúa ban cho chúng con luôn ý thức mình là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế và là người chứng nhân cho sự thật trong thế giới hôm nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 5: Làm chứng cho sự thật

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Lại một lần nữa, bài Tin Mừng hôm nay lại nói về Gioan Tẩy Giả – người làm chứng cho chân lý, làm chứng về Đức Giêsu. Tuy nhiên, ngoài nhân chứng của phàm nhân là Gioan Tẩy Giả,  Đức Giêsu còn một nhân chứng khác  cao trọng hơn rất nhiều: đó là Thiên Chúa Cha, chính Cha đã trao sứ mạng cho Đức Giêsu và việc Đức Giêsu hoàn thành sứ mạng Cha trao là một chứng từ sống động.
  2. Tại sao người Do thái không chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế trong khi toàn bộ Thánh Kinh Cựu Ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế ? Chỉ vì họ thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Đức Giêsu, và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến (Mỗi ngày một tin vui).

Tại sao lại có thảm kịch này ? Chúng ta không lấy làm lạ vì người Do thái nuôi sẵn  một hình ảnh về Đấng Messia quang vinh, uy quyền hợp với sở thích của họ. Cái hình ảnh ấy che khuất hình ảnh đích thực  của Đấng Messia.

  1. Người Do thái đòi Đức Giêsu phải có bằng chứng để họ có thể tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế. Ngài đã nại đến chứng từ của Gioan Tẩy giả. Gioan đã đến làm chứng cho sự thật, tuy chỉ là chứng tá của phàm nhân.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã giải thích về chứng tá của Gioan để giúp cho người Do thái khỏi lẫn lộn Gioan với Ngài là Đấng Cứu Thế, vì có lúc tiếng tăm của Gioan vang dội trong dân chúng khiến họ nghĩ rằng Gioan là Đấng Cứu Thế.

Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, mặc dù tiếng tăm của ông có vang dội. Để diễn tả điều này, Đức Giêsu ví Gioan như là đèn soi sáng cho họ vui hưởng ánh sáng trong một thời gian, thời gian này là lúc Gioan rao giảng và làm phép rửa, khiến tiếng tăm ông vang dội trong dân chúng.

  1. Một lần nữa chúng ta xác nhận Gioan – người làm chứng cho chân lý, làm chứng về Đức Giêsu như khởi đầu Tin Mừng thứ tư đã khẳng định: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga1,7-8).

Ánh sáng là Đức Kitô – Ngôi Lời nhập thể: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Đức Giêsu nhiều lần đã nói về mình: “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 9,5).  Đức Giêsu chính là ánh sáng bừng lên chiếu dọi cho mọi người, dẫn đưa họ khỏi cảnh đời tối tăm, và đi đến nguồn hạnh phúc chân thật  như tiên tri Isaia loan báo: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).

  1. Ngoài chứng tá của Gioan, Đức Giêsu còn một nhân chứng khác cao trong hơn: Đó là Thiên Chúa Cha. Chính Cha đã trao sứ mệnh cho Đức Giêsu và việc Ngài hoàn thành sứ mệnh Cha trao  là một chứng từ sống động. Chúa Cha làm chứng bằng những lời của Người trong Kinh Thánh: Bên dòng sông Giođan, sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha phán từ trời và giới thiệu với nhân loại người Con chí ái mang sứ mạng Người: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mt 3,17; Mc 1,11; Lc 3,21).
  2. Gioan Tẩy Giả đã làm chứng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế vì ông là ngọn đèn cháy sáng, ông làm gương sáng cho mọi người noi theo: ông sống khắc khổ, ông sống hy sinh, cam đảm. Chúng ta củng phải can đảm làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày trong mọi hoàn cảnh.

 Còn các việc Đức Giêsu làm cũng đủ làm chứng Người là Đấng Cứu Thế, vì Người luôn làm việc theo ý Chúa Cha.

  1. Truyện: Can đảm làm chứng cho Chúa.

Ngươi ta cho biết, tại một trường tiểu học của Nhật Bản, có 150 học sinh, mà trong đó chỉ có một học sinh duy nhất là Kitô hữu. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh khác đến tố cáo với thầy chủ nhiệm  là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xen em đã làm gì ? Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mặt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cám ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì.

 

Suy Niệm 6: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

  1. Hạt giống. . .

Đoạn Tin Mừng này là một phần của bài diễn từ Chúa Giêsu nói với những người do thái sau khi Ngài làm phép lạ chữa một người bất toại ở hồ Bétdatha.

Những người do thái ấy chống đối Đức Giêsu vì Ngài làm việc này trong ngày Sabbat. Đức Giêsu nói một bài diễn từ dài, đại ý là: sở dĩ Ngài làm việc trong ngày sabát là vì Ngài noi gương Thiên Chúa là Cha của Ngài (đoạn phía trước, các câu 19-20). Họ không tin và ngầm muốn Ngài có người làm chứng. Biết thế, Đức Giêsu đưa ra một người chứng, đó chính là Gioan Tẩy giả. Ngoài ra còn có một người chứng đáng tin hơn nữa, đó là chính Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài và bảo Ngài làm những việc đó.

  1. . . . nẩy mầm.
  2. “Trong khi toàn bộ Thánh Kinh Cựu Ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng cứu thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người do thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Chúa Giêsu, và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến” (“Mỗi ngày một tin vui”). Tại sao có thảm kịch này? Vì người do thái nuôi sẵn một hình ảnh về Đấng Messia, hợp với sở thích của họ. Cái hình ảnh ấy che mất hình ảnh đích thực của Đấng Messia. Ta thấy đó, người ta có thể đọc sách thánh mà không tìm thấy Thiên Chúa nhưng chỉ thấy chính mình.
  3. Một thợ săn lạc trong rừng nhiều lần. Một người bạn mua cho anh một la bàn. Dù vậy, anh thợ săn trẻ vẫn bị lạc. Khi tìm thấy, người bạn hỏi xem anh có mang theo la bàn. Anh bảo có.

– Tại sao anh không dùng nó?

– Tôi không dám. Tôi muốn đi về hướng Nam và cố giữ cho kim chỉ hướng Nam, nhưng không được. Nó luôn lắc quanh và chỉ hướng Bắc.

Nhiều người mong Thánh Kinh chỉ hướng họ muốn đi, hơn là hướng Thánh Kinh muốn họ đi. (Góp nhặt)

  1. Có lần, nhà văn Mark Twain nói: “Nhiều người lấy làm buồn phiền vì không hiểu một đoạn Thánh Kinh nào đó. Phần tôi, tôi thấy rằng những đoạn Thánh Kinh làm tôi bối rối nhất là những đoạn mà tôi cho là mình đã hiểu. ”
  2. Muốn đọc Sách Thánh mà thấy được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để cho lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.