Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 2 Mùa chay

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 2 Mùa chay

Thứ hai sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay.

Thứ ba sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay.

Thứ tư sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay.

Thứ năm sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay.

Thứ sáu sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay.

Thứ bảy sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay.

Thứ hai sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 6, 36-38

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán; đừng kết án thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con.

Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!”

SUY NIỆM 1: Hãy có lòng nhân

Lòng nhân có chỗ đứng quan trọng trong Khổng giáo.

Sách Luận Ngữ coi lòng nhân là nét đặc trưng của con người.

Phật giáo cũng đề cao tinh thần từ bi hỷ xả.

Lấy ân báo oán, oán sẽ tiêu tan.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời các môn đệ

“Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (c. 36).

Như thế nhân từ là nét đặc biệt nơi Thiên Chúa.

Nhân từ nằm ở nơi khuôn mặt và ngay nơi trái tim của Ngài.

Như tín đồ của các tôn giáo khác, Kitô hữu phải sống lòng nhân.

Nhưng hơn nữa, ở đây, Đức Giêsu mời gọi chúng ta

bắt chước lòng nhân từ của chính Thiên Chúa,

một lòng nhân từ không bị giới hạn bởi bất cứ ngăn cách nào.

Lòng nhân được diễn tả bằng bốn mệnh lệnh của Đức Giêsu,

hai mệnh lệnh tiêu cực và hai mệnh lệnh tích cực.

Các mệnh lệnh này đều ngắn gọn và nhịp nhàng.

Phần sau của mỗi mệnh lệnh đều ở thể thụ động,

nhằm nói lên hành động của Thiên Chúa.

“Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, đừng kết án để khỏi bị kết án,

hãy tha thứ thì sẽ được tha thứ, hãy cho thì sẽ được cho lại.”

Xét đoán ở đây không có ý nói đến hành động xét xử của vị quan tòa.

Nó chỉ muốn nói đến khuynh hướng hay phê bình, chỉ trích người khác.

Cần để ý đến tam giác giữa Thiên Chúa, tha nhân và chúng ta.

Thái độ của ta đối với tha nhân thế nào,

ta sẽ bị Thiên Chúa đối xử lại như vậy.

Nói cách khác, ta muốn được Thiên Chúa đối xử với mình ra sao,

ta hãy đối xử với tha nhân như vậy.

Càng cho nhiều và tha thứ nhiều, càng bớt xét đoán hay kết án,

ta càng được hưởng lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Thiên Chúa đong lại cho chúng ta bằng đấu của chúng ta,

không phải vì Ngài thiếu quảng đại hay rộng lượng.

Nhưng vì giống như người đi múc nước bằng một chiếc thùng nhỏ,

người ấy sẽ chỉ lấy được ít nước thôi.

Thiên Chúa muốn ban cho ta nhiều hết sức,

nhưng điều đó còn tùy vào sức chứa của ta.

Có khi chính ta lại tự giới hạn khả năng đón nhận của mình.

Mùa Chay là thời gian để ta sống lòng nhân của Thiên Chúa.

Hãy thay đổi cái đấu ta thường dùng để đong cho người khác,

chúng ta sẽ thấy mình giàu có hơn xưa.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,

nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa

vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường

để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,

mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,

không một biến cố nào làm xáo trộn,

không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công,

cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn

để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở

để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: CON NGƯỜI LÀ CON ĐƯỜNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Mùa chay là mùa trở về với Chúa. Đa-ni-ên cho thấy con người thật xấu xa tội lỗi. Cần trở về với Chúa. Cần được Chúa xót thương tha thứ.

Nhưng muốn về với Chúa phải đi qua con đường. Hôm nay Chúa Giê-su cho biết con đường đó chính là con người. Thái độ của ta đối với đồng loại sẽ quyết định tương lai của ta. Con đường về với Chúa có bằng phẳng hay không là tùy mối quan hệ của ta với đồng loại có êm xuôi hay không.

Thiên Chúa là Cha nhân từ. Được đến với Chúa ta sẽ được hưởng lòng nhân từ của Chúa. Nhưng để đến được với Chúa ta cũng phải nhân từ như Chúa. Nhân từ vừa là kết quả của việc gặp gỡ kết hiệp với Chúa nhưng đồng thời cũng là điều kiện để được đến gặp gỡ Chúa.

Là kết quả. Ai đã gặp gỡ kết hiệp với Chúa sẽ trở nên giống Chúa, sẽ biết yêu thương đồng loại. Sẽ biết khoan dung, tha thứ, đối xử nhân từ độ lượng với đồng loại.

Là điều kiện. Ai muốn được Chúa nhân từ cũng phải nhân từ với anh em. Chúa cho ta tự do được lựa chọn quy luật xét xử. Nếu ta khắc nghiệt với anh em, Chúa cũng dùng sự khắc nghiệt đó để xét xử ta. Nếu ta khoan dung tha thứ đối xử rộng lượng với anh em, Chúa cũng khoan dung tha thứ, đối xử rộng lượng với ta.

Còn hơn thế nữa. Chúa không chịu thua lòng quảng đại của ta. Ta cho đi một thì Chúa trả lại gấp trăm ngàn lần.

Mùa Chay, phải tìm đường về với Chúa, chính vì thế phải tìm đường về với anh em. Vì con người chính là con đường Chúa muốn ta đi qua để đến với Chúa. Đường rộng hay hẹp, quanh co hay ngay thẳng, gồ ghề hay phẳng phiu là tùy ta quyết định. Ta tội lỗi xấu xa cần đến lòng thương xót của Chúa. Nhưng lòng thương xót ấy ta phải tự tạo khi ta tỏ lòng thương xót tha thứ cho anh em. Điều ta tìm kiếm ta sẽ gặp được. Ta được tha thứ khi chính trong ta có lòng tha thứ. Ta được thương xót khi lòng ta dâng lên mối cảm thương. Chính khi thương xót tha thứ cho anh em, ta được Chúa ở cùng ta. Ta mang tấm lòng Thiên Chúa. Đó chính là khởi điểm và cũng là đích điểm của mùa Chay. Tìm về với Chúa và đạt được chính Chúa. Xa mà gần biết bao.

SUY NIỆM 3: Hãy sống nhân từ.

Mahatma Ganhdi, một nhà ái quốc Ấn Độ, lúc còn trẻ, ông sang Anh quốc học nghề luật sư và nhờ đó có dịp tiếp xúc với Kitô giáo. Ông đọc Phúc âm thường xuyên và rất say mê Chúa Kitô, đặc biệt ông thán phục bản Hiến chương Tám Mối Phúc Thật và lấy đó làm nguồn cảm hứng cho đường lối bất bạo động của ông trong việc dành lại độc lập cho dân tộc mình. Tuy nhiên, có lần ông đã tâm sự với một người thân cận rằng: dù thán phục giáo lý của Chúa Kitô, nhưng ông không thể trở thành kẻ tin Chúa, vì ông thấy nhiều Kitô hữu không sống Tám Mối Phúc Thật của Chúa. Ông nói: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi ghét người Kitô hữu, vì họ không giống Chúa Kitô. Nếu họ giống Chúa Kitô thì dân Ấn Độ chúng tôi đã trở lại Công giáo cả rồi”.

Nhận xét của Mahatma Ganhdi trên đây phải cảnh tỉnh chúng ta về ơn gọi và trách nhiệm của chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta phải sống như Chúa Kitô, phải có những tâm tình từ bi, nhân hậu, yêu thương như Ngài. Tin mừng hôm nay là một bản tóm lược giáo huấn yêu thương của Chúa. Ngài mạc khải cho chúng ta về một Thiên Chúa là Cha nhân từ, đồng thời bày tỏ cho chúng ta biết phải sống thế nào để xứng đáng là con cái Cha trên trời và cảm nhận được tình yêu của Ngài. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai đã thấy Ngài bao giờ ngoại trừ Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô. Chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa như thế nào, và chỉ qua Ngài, con người mới có thể thấy và cảm nhận được lòng nhân từ của Thiên Chúa. Do đó, khi mời gọi chúng ta hãy nên trọn lành như Cha trên trời, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng Ngài là mẫu mực của sự trọn lành, chỉ có Ngài mới thể hiện trọn vẹn lòng nhân từ của Thiên Chúa. Cũng chính vì thế, Ngài đã tóm gọn cả cuộc sống người Kitô hữu bằng mệnh lệnh: “Hãy theo Ta”, nghĩa là hãy sống như Ngài, sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Nguyện cho sức sống Chúa Kitô mà chúng ta tiếp nhận qua Thánh Thể và các Bí tích làm chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, ngõ hầu lòng nhân từ của Thiên Chúa mà Ngài đã thể hiện cũng được tiếp tục tỏ bày qua cuộc sống của chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Đừng xét đoán

Xét đoán người khác cho đúng sự thật là một việc rất khó. Xét đoán hành vi bên ngoài đã khó rồi, xét đoán tâm trí bên trong lại càng khó khăn hơn nữa. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ đừng xét đoán người khác.

Chúng ta thường nghe nói: “dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Thời xưa, câu nói ấy đã đúng, ngày nay nó lại càng đúng hơn nữa. Với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhân loại ngày nay đã có thể đo được một cách dễ dàng núi cao, biển rộng, sông dài. Còn hơn thế nữa, họ đã đo được những khoảng cách vời vợi trong vũ trụ mà đơn vị phải tính bằng triệu năm ánh sáng. Ngược lại, họ cũng đã đo được những khoảng cách cực nhỏ mà đơn vị càng ngày càng được thu hẹp. Ðó là về đo lường. Còn về phân tích và thống kê, nhờ phát minh ra máy vi tính cực mạnh, có thể tính được nhiều phép tính trong vòng một giây, người ta đã phân tích và thống kê được nhiều thứ. Gần đây, người ta đã hầu như hoàn thành được bản đồ gien của con người. Thật là những thành quả đáng kinh ngạc.

Tuy nhiên, trước những thành quả thâm sâu của lòng người, những phát minh và ứng dụng đó tỏ ra bất lực. Có máy móc nào cho biết đích xác hàm ý của một nụ hôn không? Ông Giuđa ngày xưa đã chẳng nộp Chúa với một nụ hôn chỉ điểm đó sao? Tâm hồn chúng ta là một cõi thẳm sâu mầu nhiệm. Có thể nói đó là một chốn mênh mông vô tận mà ngay cả bản thân chúng ta cũng không thể nào khám phá ra hết. Dù có thành tâm thiện chí đến đâu đi nữa, chúng ta cũng không tài nào nắm bắt được hết mọi ngõ ngách của lòng mình, chúng ta nghĩ rằng mình hiểu quá rõ chính mình, nhưng thực tế không phải như vậy, chỉ có Thiên Chúa là Ðấng toàn trí toàn năng mới hiểu rõ hết mọi ngọn nguồn của tâm hồn chúng ta, và mới có thể phán xét chúng ta một cách chính xác trăm phần trăm. Còn chúng ta, ngay cả việc xét đoán mình, chúng ta cũng hoàn toàn có nguy cơ rơi vào sai lầm. Xét đoán mình đã khó đến thế, nói chi đến việc xét đoán kẻ khác. Nhờ ý thức được giới hạn của mình, chúng ta sẽ không chủ quan khi nhận xét những người chung quanh. Chúng ta không xét đoán được chính xác thì làm sao chúng ta có thể lên án họ một cách hồ đồ được chứ. Và nếu chúng ta không lên án họ thì chúng ta sẽ làm gì đây? Xin thưa: chúng ta sẽ thông cảm bao dung với họ, sẽ nhìn họ với đôi mắt yêu thương và con tim nhân ái. Và dù họ có thực sự là con người băng hoại đi nữa, chúng ta cũng sẽ thực lòng tha thứ cho họ và cầu nguyện giúp họ cải tà qui chính. Chúng ta không xét đoán chính mình, chúng ta cũng không xét đoán anh chị em chung quanh, nhưng chúng ta hãy phó thác tất cả cho lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin ban cho con tấm lòng nhân ái bao dung để con biết thực tình yêu thương kính trọng mọi người chung quanh. Xin Chúa dạy con biết cẩn thận trong phán đoán, khách quan khi nhận định và độ lượng khi phân xử. Xin Chúa nhắc con luôn nhớ rằng con đong bằng đấu nào thì Chúa sẽ đong lại cho con bằng đấu đó.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Vấn đề của con tim

“Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.” (Lc. 6, 36-37)

Thánh Lu-ca biến đời sống Ki-tô hữu thành con tim, một con tim biết noi theo con tim của Thiên Chúa. Kẻ có lòng thương xót là kẻ có con tim. Kẻ rung cảm trước khổ đau của người khác thì chắc hẳn biết hành động cứu giúp. Có con tim là tốt, là nhân hậu. Những câu thành ngữ phổ biến như: Tấm lòng vàng, hết lòng, lòng nhân ái, tận tâm tận lực, trái lại là lòng chai cứng, ác tâm, nhẫn tâm, cứng lòng. Đức Giê-su bảo chúng ta: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”. “Hãy thương xót sẽ được xót thương” như Đức Giê-su Ki-tô đã thực hiện.

Chúng ta phải sống hoàn toàn nhân đạo, điều này dễ không? Tha thứ cho kẻ làm hại mình, tiếp đón kẻ xỉ nhục mình, dịu hiền với kẻ ngược đãi hành hạ mình, bình tĩnh với kẻ chống đối xỉ vả mình, giả điếc làm ngơ cho người ta đấm đá mình như bịch cát cho võ sĩ đấm đá …

Như thế, chẳng dễ chút nào! Ở thời chúng ta ngày nay, lòng thương xót và thương hại bị dư luận xấu khinh bỉ, bị coi là làm nhục người ta, làm hạ phẩm giá người ta. Người ta không muốn thương xót nữa. Tuy nhiên, lòng thương xót chân thành không thể làm cho người chịu ơn bị hèn kém hay bị nhục nhã mà trái lại họ còn được tôn trọng. Ngoài ra, về một vài phương diện nào đó lòng thương xót thực hiện một phần sự công bằng vì sự nghèo đói ngày nay là do xã hội bất công gây nên. Luật xã hội đòi buộc phải cung cấp cho những người nghèo sống xứng đáng nhân phẩm của mình.

Thánh Lu-ca đã nhấn mạnh nội dung của từ thương xót. Thương xót thì không xét đoán, không lên án. Không ai được tự đặt mình là quan xét anh em mình. Không ai được đánh giá và kết tội nặng nhẹ của người thân cận mình, cũng như bảo họ là kẻ xấu. Hoàn toàn phải loại bỏ những lối nhìn đánh giá người khác theo luân lý và tuyệt đối không được tuyên bố đương sự có tội. Phải hoàn toàn nên giống như Thiên Chúa, Ngài gớm ghét tội lỗi, nhưng luôn luôn cứu chữa kẻ tội lỗi. Lòng thương xót chính là tha thứ và giúp đỡ. Tha thứ xóa bỏ mọi rào cản giữa người với người, và giúp đỡ là xây dựng tình liên đới với nhau. Như thế người Ki-tô hữu mới được mời gọi xây dựng nước trời, xây dựng gia đình Thiên Chúa là Cha mọi người.

Thương người mới thực sự bắt chước Cha trên trời như ông Péguy nói: “Lối cư xử với chiên lạc của Chúa là luật ngàn đời cho chúng ta”.

SUY NIỆM 6: LOAN BÁO TIN MỪNG BẰNG ĐỜI SỐNG (Lc 6, 36-38)

Mahama Gandhi, một nhà ái quốc của Ấn Độ, đã dành lại độc lập cho đất nước ông bằng biện pháp bất bạo động. Nguyên nhân dẫn đến việc ông sử dụng đường lối không đổ máu để dành tự do là vì nguồn cảm hứng đến từ chính Tin Mừng, nhất là “Tám Mối Phúc” và cuộc đời của Đức Giêsu khi ông thường xuyên đọc Lời Chúa và có dịp tiếp xúc với người Anh tại Anh Quốc lúc còn trai trẻ thời tu học tại đây.

Tuy nhiên, khi tâm sự với bạn của ông, ông thốt lên: “Tôi rất yêu mến Đức Giêsu, nhưng tôi không thích người Công Giáo, vì họ không giống như Đức Giêsu. Nếu họ giống như Ngài, thì dân tộc Ấn Độ chúng tôi đã trở thành những Kitô hữu từ lâu rồi”. Chính vì lý do đó, ông đã không thể trở thành Kitô hữu!

Ôi sự thật xót xa! Tuy nhiên, chuyện tưởng chừng như xảy ra bên Ấn Độ hay Anh Quốc thời Mahama Gandhi, nhưng thực ra, nó đang thường trực qua lời nói, hành động và lối suy nghĩ của chúng ta nơi môi trường và cuộc sống hiện thời hôm nay.

Thật thế, bởi vì trong đời sống đạo của chúng ta hiện nay, nhiều khi chỉ có bề ngoài mà không có chiều sâu; chỉ có lượng mà không có phẩm; chỉ có nói mà không có hành động; chỉ có hô hoán yêu thương, nhưng khi gặp những chuyện cần phải giúp đỡ thì tìm cách lẩn tránh! Hay nhiều khi chúng ta ích kỷ và chia ô cuộc đời để tách biệt những điều trong Tin Mừng với cuộc sống!

Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta không được phép chia ô cuộc đời của mình như vậy. Không ai cho phép chúng ta tách biệt nhà thờ, thánh lễ, kinh nguyện ra khỏi cuộc sống nơi xóm làng, chợ búa, nhà ga, gia đình… Nhưng phải đưa Lời Chúa vào mọi ngõ ngách, chiều kích của cuộc sống.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy sống những tâm tình của Chúa, đó là: đừng xét đoán hay kết án. Hãy tha thứ, cho đi…, đây không chỉ là một khuyến khích, nhưng nếu chúng ta sống như vậy, hẳn sẽ được Thiên Chúa đối xử với chính mình như thế.

Mong sao, chúng ta có Chúa trong tâm hồn và sống giới luật yêu thương, khi không kết án, xét đoán, nhưng tha thứ và cho đi, để chính chúng ta được cứu độ và chia sẻ niềm vui cứu độ ấy cho mọi người, ngõ hầu họ nhận ra tình yêu của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có lòng nhân từ, tha thứ như Chúa, để chúng con thuộc về Chúa và đem Chúa đến giới thiệu cho người khác bằng chính cung cách sống của chính mình. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Cha anh em là Đấng nhân từ

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Xénophon, nhà triết lý Hy Lạp sống vào giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã kể câu chuyện ngụ ngôn về xét đoán:

“Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị (túi): Một cái đằng trước và một cái đằng sau. Cái bị đằng sau chứa đựng tất cả cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đằng trước thì đầy rẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác”.

Suy niệm

Đức Giêsu dạy bài học về lòng nhân từ và bác ái: Đừng xét đoán, đừng lên án. Vì chỉ một mình Thiên Chúa có quyền xét đoán. Hãy tha thứ, hãy cho đi.

Tha thứ là đỉnh cao của lòng vị tha Kitô giáo mà Chúa Giêsu đã đề nghị: Yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho người hại mình. Chính Ngài trên thập giá đã sống đỉnh cao yêu thương này và làm gương cho chúng ta khi Ngài đối xử với những kẻ giết mình bằng lời cầu nguyện với Chúa Cha và cũng là di chúc cho chúng ta: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).

Chúa Giêsu còn nhấn mạnh tha thứ là điều kiện để được thứ tha như Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện mỗi ngày: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).

Hãy cho đi: Vì Thiên Chúa nhân từ, và giàu tình thương. Chúng ta càng biết mở lòng mình ra với Thiên Chúa, đến với tha nhân thì càng nhận được nhiều hồng ân hơn chúng ta mong đợi đến từ Thiên Chúa như Đức Giêsu khẳng định: “Hãy cho thì sẽ cho lại các con; Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!” (Lc 6,38).

Xin Chúa tha thứ cho chúng con vì chưa thực hiện được lời Chúa dạy và giúp chúng con luôn sống nhân từ và quảng đại như Chúa: Quảng đại mở lòng mình ra mà chia sẻ chân thành.

Ý lực sống: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).

Suy Niệm 8: Hãy sống nhân từ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)           

  1. Đức Giêsu huấn dụ các môn đệ về tinh thần phải có trong cộng đoàn: có lòng nhân từ, đừng xét đoán và kết án, hãy tha thứ, biết cho đi. Đặc biệt Đức Giêsu nói rằng tùy cách chúng ta đối xử với người khác như thế nào mà ta sẽ đượcThiên Chúa đối xử như thế đó.

Hãy ở nhân từ như Cha các ngươi là Đấng nhân từ:

– Đừng xét đoán, đừng kết án thì khỏi bị kết án.

– Hãy tha thứ thì sẽ được tha thứ.

– Hãy cho đi thì sẽ được cho lại.

  1. “Anh em hãy có lòng nhân từ…”.

Sau khi công bố Hiến chương Nước Trời, Đức Giêsu đưa ra những đòi hỏi cụ thể: chúng ta phải thương yêu nhau. Đây là lề luật phải giữ, phải thực hiện. Để đi xa hơn, Đức Giêsu còn đòi hỏi mỗi môn đệ  phải yêu thương mọi người không trừ ai, kể cả kẻ thù của mình và bách hại mình. Chúng ta cũng được kêu gọi hãy tha thứ cho kẻ thù và đừng bao giờ lên án ai, đừng bao giờ dùng bạo lực, tốt nhất là làm cho tha nhân điều mà ta muốn tha nhân làm cho mình.

Lý do của tất cả cách cư xử trên vì Cha trên trời: “Các con hãy ở nhân từ như  Cha các con là Đấng nhân từ”. Cha chúng ta thế nào, chúng ta cũng phải sống như vậy, vì thế chúng ta hãy yêu thương, tha thứ, đừng xét đoán, biết cho đi.

  1. “Anh em đừng xét đoán…”.

Đức Giêsu cấm không được xét đoán, vì một đàng, con người thì hữu hạn lại vô thập toàn, nên không thể xét đoán đúng và công bằng được; đàng khác, chỉ có Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cả bên trong, mới có quyền xét đoán. Nhưng Chúa không cấm con người nhận định về nhau, để giúp nhau hoàn thiện và thăng tiến như sửa lỗi cho nhau, khuyên nhủ nhau…

Xénophon, nhà triết học Hy lạp sống vào giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã kể câu chuyện ngụ ngôn về xét đoán: “Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị. Một cái đàng trước và một cái đàng sau. Cái bị đàng sau chứa đựng tất cả cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đáng trước thì đầy dẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác”.

  1. Như Cha trên trời là Đấng nhân từ.

Chúa dạy các môn đệ phải có tinh thần từ tâm với anh em. Đòi hỏi này gián tiếp chấp nhận sự thật là trong đời sống chúng có những rạn nứt, phiền hà gây đau khổ cho nhau. Nhưng để làm chứng cho tinh thần khoan dung của Chúa đối với tội nhân, Chúa đòi hỏi con cái Ngài, cũng phải có lòng từ tâm đối với nhau. Vì thế, Đức Giêsu đã giới thiệu lòng nhân từ của Thiên Chúa là Cha, như mẫu gương cho các môn đệ noi theo: như Cha anh em trên trời là Đấng nhân từ.

Mahatma Gandhi, một nhà ái quốc Ấn độ, lúc con nhỏ, ông sang Anh quốc học nghề luật sư và nhờ đó có dịp tiếp xúc với Kitô giáo. Ông đọc Phúc âm thường xuyên, đặc biệt ông thán phục bản Hiến chương tám mối phúc thật và lấy đó làm nguồn cảm hứng cho đường lối bất bạo động của ông  trong việc dành lại độc lập cho dân tộc mình.Tuy nhiên, có lần ông đã tâm sự với người thân tín rằng dù thán phục Giáo lý của Chúa Kitô, nhưng ông không thể trở thành kẻ tin Chúa, vì ông thấy nhiều Kitô hữu không sống tám mối phúc thật của Chúa. Ông nói: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không thích người Kitô. Nếu họ giống như Chúa Kitô thì dân Ấn độ chúng tôi đã trở thành Công giáo cả rồi”.

Nhận xét của Mahatma Gandhi trên đây cảnh tỉnh chúng ta về ơn gọi và trách nhiệm của chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta phải sống như Chúa Kitô, phải có những tâm tình từ bi, nhân hậu và yêu thương như Ngài.

  1. “Anh em hãy cho…”

Vì Thiên Chúa nhân từ và giầu tình thương, chúng ta càng biết mở lòng mình ra với Thiên Chúa, đến với tha nhân được nhiều hồng ân hơn chúng ta mong đợi đến từ Thiên Chúa như Đức Giêsu khẳng định: “Hãy cho thì sẽ cho lại các con. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn và đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38).

  1. Truyện: Hãy biết cho đi.

Một người nọ thật giầu, muốn gì cũng có. Tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi bói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng khôn ngoan:

– Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho công việc từ thiện?

Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu truyện nhỏ sau đây: Một chú heo than thở cùng chị bò cái:

– Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế mà tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi?

Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò trả lời:

– Thịt chúng ta chỉ công hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ họ quí mến tôi hơn có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống đấy chăng? (Món quà Giáng sinh).

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Cha nhân từ và quảng đại với ta, Chúa Giêsu kêu gọi ta đối xử với nhau nhân từ và quảng đại như vậy.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hằng ngày sống bên cạnh nhau, con nhận ra nhiều khuyết điểm nơi người khác. Con dễ kết án họ. Nhưng khi nhìn thấy khuyết điểm nơi những người con yêu mến thân thiện, con dễ dàng thông cảm, thậm chí có những lúc con còn bao che. Đối với những người con quý mến, con luôn cắt nghĩa điều tồi, điều xấu nơi họ thành điều tốt. Con thật là thiên vị trong cách xét đoán. Con còn thiên vị hơn nữa khi đối diện với biết bao tật xấu nơi con. Con vẫn dung túng cho chính mình. Con biết Chúa không hài lòng về thái độ của con. Xin Chúa tha thứ cho con.

Lạy Chúa, xin dạy con nhân từ với hết mọi người. Xin giúp con biết đừng bao giờ bao che cho chính mình hay bao che cho những người thân thiết. Xin giúp con sửa đổi con người con, cho con biết sám hối và đón nhận Tin Mừng.

Xin Chúa ban cho con trái tim bao dung của Chúa để con yêu như Chúa yêu. Giữa thế gian đầy căm thù và ghen tương, con muốn mãi mãi là người của Chúa. Xin giúp con biết tha thứ để con không bao giờ kết án ai, không bao giờ đem khuyết điểm của người khác ra nói hành nói xấu và chỉ trích nhau. Xin cho con biết sống quảng đại với nhau để con đáng hưởng lòng quảng đại của Chúa Cha. Xin cho con biết hy sinh vì người khác, nhất là xin cho con được hiến thân như lễ vật toàn thiêu vì những người tội lỗi.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quảng đại với con, xin giúp con luôn biết rộng lượng với mọi người. Amen.

Ghi nhớ: “Hãy tha thứ thì các con sẽ được thứ tha”.

Suy Niệm 8: 

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

  1. Bài đọc Cựu Ước trích sách Đaniel là một lời cầu nguyện sám hối. Sách Bài đọc Phụng vụ tóm lược ý nghĩa lời cầu nguyện này trong một câu: “Chúng con đã phạm tội và làm điều gian ác”.
  2. Bài trích Phúc Âm ghi những điều Chúa dạy: Nhân từ, đừng xét đoán và kết án, tha thứ, biết cho đi. Đặc biệt Chúa Giêsu nói rằng tuỳ cách ta đối xử với người khác như thế nào mà ta sẽ được Thiên Chúa đối xử như thế đó

– Hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ

– Đừng xét đoán; đừng kết án thì các con khỏi bị kết án

– Hãy tha thứ thì các con sẽ được tha thứ

– Hãy cho thì sẽ cho lại các con

Các động từ ở vế thứ hai ở thể thụ động, hàm ý chính Thiên Chúa là Đấng tác nhân chủ động.

  1. Đọc bài trích Phúc Âm chung với bài Cựu Ước, ta thấy Giáo Hội muốn dạy rằng: phương cách để chúng ta được Chúa tha thứ là hãy sống nhân từ, không xét đoán, tha thứ và cho đi.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Sám hối không phải chỉ là tâm tình hối hận vì những tội đã phạm, mà còn là làm việc lành để đền bù tội lỗi. Những việc lành đó được Chúa Giêsu chỉ rõ trong bài Phúc Âm này: Nhân từ, rộng lượng (không xét đoán và kết án), tha thứ, biết cho đi.
  2. Trong những việc lành vừa kể, Chúa Giêsu nói nhiều hơn về việc cho đi, Ta biết cho thì Chúa sẽ cho lại. Chúa dùng hình ảnh cái đấu: nếu ta đong cho người ta bằng cái đấu nhỏ hoặc cái đấu thiếu thì Chúa sẽ đong lại cho ta bằng cái đấu nhỏ hoặc thiếu y như vậy. Ngược lại nếu ta đong cho người ta bằng đấu to thì Chúa sẽ đong lại cho ta bằng cái đấu to hơn gấp bội, lại còn dằn, còn lắc và đầy tràn nữa.
  3. Một người nọ thật giàu muốn gì cũng có. Tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi bói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng khôn ngoan: “Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi cho tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn ? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho công việc từ thiện”. Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu chuyện nhỏ như sau: một chú heo than thở cùng chị bò cái: “Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế mà tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi ?” Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò cái trả lời: “Thịt chúng ta chỉ cống hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ họ quý mến tôi hơn có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống đấy chăng”. (Trích “Món quà giáng sinh”)
  4. Thầy giáo: “Tâm, bây giờ thầy nói cho em ghi nhớ phương châm này: Cho có phúc hơn nhận” .

– Em đã biết điều đó, vì là phương châm trong nghề của Ba em.

– Ồ, thật tuyệt vời! Ông ấy làm nghề gì ?

– Võ sĩ. (Góp nhặt)

  1. Đang đi dạo, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một người ngồi trên ghế mà cuốc vườn. Tôi nghĩ: “Quá lười biếng!”. Nhưng đột nhiên tôi thấy đôi nạng dựa ở ghế của anh. Thì ra anh vẫn làm việc dù bị tật nguyền.

Bài học tôi học được về sự phán đoán nông nổi vẫn khắc ghi trong tôi cho đến hôm nay: thánh giá của người khác đôi khi là do cái nhìn hạn hẹp của ta (Góp nhặt)

  1. Tha thứ giống như cái gì ? Giống như mùi hương mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát (Góp nhặt).

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta rất nhiều điều: Nhân từ, đừng xét đoán và kết án, hãy tha thứ và biết cho đi. Đặc biệt Chúa Giêsu nói rằng, tùy cách ta đối xử với người khác như thế nào thì ta sẽ được Thiên Chúa đối xử lại như vậy.

Trong những việc lành vừa kể trên, Chúa nhấn mạnh hơn về việc biết cho đi.

Mẹ Têrêsa kể: “Có người hỏi một người đàn ông Hindu: “Kitô hữu là gì  ?” Ông trả lời: “Kitô hữu là người biết cho đi”.

Hãy mở lòng, để Thiên Chúa làm thấm nhuần tấm lòng bạn bằng tình yêu thương. Chúa yêu thương bạn với tình yêu dịu hiền. Những gì Chúa ban tặng không phải để bạn giữ lấy và khoá kỹ, nhưng để bạn cho đi.

Bạn càng dành dụm, bạn càng ít khả năng trao tặng, bạn càng có ít, càng biết rõ bạn phải cho đi bao nhiêu. Nếu có xin gì, chúng ta hãy xin Ngài giúp chúng ta sống quảng đại.

Tại Ấn Độ, nếu ai cho người nghèo một ít gạo, họ sẽ vui vẻ mãn nguyện khi nhận quà. Tại Âu Châu, người nghèo không nhận mình nghèo, nên với nhiều người, thái độ này đã làm nảy sinh nỗi thất vọng.

Chiều muộn (khoảng 10 giờ đêm), nghe chuông reo, tôi ra mở cửa và gặp một người đàn ông đang run rẩy vì lạnh.

“Thưa mẹ Têrêsa, con nghe mẹ vừa nhận một giải thưởng lớn. Khi hay tin này, con quyết định cũng tặng Mẹ món quà gì đó. Đây mẹ nhận đi. Đó là những gì con quyên được hôm nay”.

Chỉ là một chút thôi, nhưng trong hoàn cảnh của anh, đó là tất cả.

Tôi cảm động trước “giải thưởng” của anh hơn là lúc nhận giải Nobel.

Có  ngày, một đôi vợ chồng trẻ đến nhà chúng tôi và xin gặp tôi.

Họ tặng tôi một món tiền lớn, tôi hỏi: “Các bạn kiếm được số tiền lớn này ở đâu  ?” . Họ trả lời: “Chúng con mới cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới, chúng con đã quyết định không tổ chức đám cưới, không sắm áo cưới, không làm tiệc cưới, chẳng đi trăng mật. Chúng con muốn tặng mẹ số tiền chúng con dành dụm được”.

Tôi hiểu hết ý nghĩa của quyết định đó, nhất là đối với một gia đình Hindu. Do đó tôi hỏi: “Các bạn nghĩ thế nào về chuyện đó  ?”

“Chúng con yêu nhau nhiều, nên chúng con muốn chung chia niềm vui về tình yêu của chúng con với những người mẹ đang phục vụ.

Chia sẻ: hành động tốt đẹp biết bao!

Ta biết cho đi thì Chúa sẽ cho lại. Chúa dùng hình ảnh cái đấu để cắt nghĩa: nếu ta đong cho người ta bằng cái đấu nhỏ hoặc cái đấu thiếu thì Chúa sẽ đong lại cho ta bằng cái đấu nhỏ hoặc thiếu y như vậy. Ngược lại, nếu ta đong cho người ta bằng đấu to thì Chúa sẽ đong lại cho ta bằng cái đấu to hơn gấp bội, lại còn dằn, còn lắc và đầy tràn nữa.

  1. Chúa cũng nói với chúng ta về việc cần phải sám hối.

Sám hối không phải chỉ là tâm tình hối hận vì những tội đã phạm, mà còn là làm việc lành phúc đức để đền bù tội lỗi. Một trong những việc làm đó là tha thứ. Ta sám hối để cầu Chúa tha thứ cho ta thì ta cũng phải biết tha thứ cho anh em ta.

Liền sau thế chiến thứ II chấm dứt, bà Koritainbun một con người còn mang đầy những vết sẹo trên thân thể. Đó là những tàn tích của những khổ hình mà bà phải chịu trong trại tập trung của Đức quốc xã. Bà đã đi khắp Âu Châu rao giảng về sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.

Thế nhưng, vào một Chúa Nhật nọ, sau khi kêu gọi mọi người tha thứ cho nhau trong nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài, bất ngờ bà phải đối diện với một gương mặt rất quen thuộc, đó là dung mạo của người lính đã hành hạ làm khổ bà cũng như hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Từ thâm tâm, bà cảm thấy những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, và những tiếng kêu thét đòi trả thù nổi lên mạnh mẽ.

Ngay lúc đó, người đàn ông này tiến lại khiêm tốn đưa tay ra, vừa muốn bắt tay bà vừa muốn nói:

– Thưa bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của bà kêu gọi sự tha thứ, xin bà tha thứ cho tôi.

Bà Koritainbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và nhất quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã từng tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không tài nào đưa ra để bắt tay người đến xin bà tha thứ.

Sau này vào năm 1971, khi kể lại biến cố trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết: Trong những giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời cầu nguyện “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho con người đã làm khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để có thể tha thứ như Chúa”.

Và chính trong lúc đó, bà đã hiểu rằng, con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi họ được nhận tình thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa.

Thứ ba sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 23, 1-12

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy, vì thế họ nới rộng thẻ Kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là “thầy”. Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau.

Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo, vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô.

Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.

SUY NIỆM 1: Nói mà không làm

Bài Tin Mừng hôm nay được đọc trong Mùa Chay

không phải để chúng ta nghiền ngẫm thói hư của một số người Pharisêu,

nhưng để chúng ta soi gương họ mà nhận ra mình.

Chẳng có thói đạo đức giả nào của họ mà ta được miễn nhiễm.

Đạo đức giả đơn giản là một sự mâu thuẫn, thiếu thống nhất nơi lòng người.

Nói rất hay, giảng rất đúng, nhưng lại chẳng sống điều mình nói hay giảng.

Có một khoảng cách thật xa giữa ngôn và hành.

Chất trên vai người khác gánh nặng của luật lệ với những đòi hỏi chi li,

nhưng chính mình lại không muốn chia sẻ chút nào gánh nặng đó.

Vẫn là khoảng cách giữa nói và làm, giữa mình với người khác.

Đeo trên trán hay cánh tay những hộp kinh thật to, đính những tua áo thật dài:

các cử chỉ này lẽ ra để bày tỏ tình yêu đối với Lời Chúa, qui hướng về Chúa,

thì lại trở nên những cử chỉ qui về mình,

nhằm làm cho người ta thấy mình, thấy sự đạo hạnh của mình, để tìm tiếng khen.

Người đạo đức giả không thực sự tìm Chúa.

Chúa chỉ là phương tiện để họ tự đánh bóng mình trước mặt người đời.

Háo danh là điều họ khó dứt bỏ trong cuộc sống:

ưa ngồi chỗ nhất, ưa chiếm ghế đầu, thích được chào là rabbi…

Cộng đoàn Kitô hữu của Matthêu là một cộng đoàn huynh đệ.

Trong cộng đoàn ấy hẳn có những vị thầy dạy.

Có những bậc thầy cao niên được gọi một cách trân trọng là rabbi.

Có những đấng sáng lập cộng đoàn được gọi một cách kính cẩn là cha.

Nhưng bất chấp điều đó, Đức Giêsu khẳng định:

“Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (c.8).

Mọi thành viên trong cộng đoàn đều lệ thuộc như nhau

vào một vị Thầy duy nhất là Đức Giêsu Kitô,

vào một người Cha duy nhất là Cha trên trời.

Các Kitô hữu gọi nhau là anh, là chị, là em,

và đối xử với nhau như anh chị em, con một Cha, học trò một Thầy.

”Đừng để ai gọi mình là thầy, đừng gọi ai là cha…”

Lời của Đức Giêsu vẫn là một lời cảnh giác cho Giáo hội mọi thời.

Càng lớn mạnh theo thời gian, Giáo hội càng cần một cơ cấu tổ chức,

bao gồm nhiều chức vụ lãnh đạo có uy quyền.

Làm sao để tinh thần phục vụ khiêm hạ của Đức Kitô thấm vào mọi cơ cấu?

Làm sao để mọi vị thầy của Giáo hội không che khuất Đấng là vị Thầy duy nhất?

Làm sao để các người cha thiêng liêng múc được tình phụ tử dịu hiền

từ Người Cha duy nhất là chính Thiên Chúa?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

khi đến với nhau,

chúng con thường mang những mặt nạ.

Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.

Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt

dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,

chúng con cũng thường mang mặt nạ.

Có những hành vi đạo đức bên ngoài

để che giấu cái trống rỗng bên trong.

Có những lời kinh đọc trên môi,

nhưng không có chỗ trong tâm hồn,

và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,

chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,

tự ru ngủ và đánh lừa mình,

mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,

đã ăn sâu vào da thịt chúng con,

để chúng con thôi đánh lừa nhau,

đánh lừa Chúa và chính mình.

Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,

để chúng con được lớn lên trong bình an. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: CHA – THẦY- LÃNH ĐẠO

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Mùa Chay không phải là lý thuyết. Sống mùa Chay phải thực hành. Như dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra. Nếu thực hành Lời Chúa dạy thì tội “dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông”.

Nhưng ta thường nói mà không làm. Hoặc chỉ dạy người khác mà bản thân không thực hành. Trước hết vì nói dễ làm khó. Đặc biệt những người có trách nhiệm đứng đầu, có bổn phận dạy dỗ. Ta dễ méo mó công việc khi dạy lý thuyết cho người khác còn chính bản thân không thực hành. Và tệ hơn nữa khi ta tự coi mình là cha, là thầy, là người lãnh đạo. Hôm nay Chúa Giê-su dạy ta biết chỉ có Chúa mới là cha, là thầy, và là người lãnh đạo.

Cha là người ban sự sống. Ta chẳng thể ban sự sống. Chỉ Thiên Chúa mới ban sự sống. Chỉ Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Khôn ngoan là phải biết khiêm nhường tìm đến Thiên Chúa là đấng ban sự sống.

Thầy là người nắm giữ chân lý. Ta chẳng có chân lý. Chỉ Thiên Chúa mới có sự thật. Chúa Giê-su mới là Thầy duy nhất. Vì thế khôn ngoan là khiêm tốn lắng nghe Lời Chúa.

Lãnh đạo là người dẫn đường. Ta không biết đường. Hằng ngày phải dọ dẫm tìm đường đi. Chỉ Thiên Chúa biết đường dẫn đến Người. Chúa Giê-su là người lãnh đạo duy nhất. Ta phải ngoan ngoãn tuân theo hướng dẫn của Người.

Mùa Chay ta hãy đi theo Chúa Giêsu. Người chính là “Con Đường, Sự Thật và Sự Sống”. Đi theo Người là đi trên đường khổ nạn. Nhưng đi theo Người ta chắc chắn đi trên Con Đường thẳng tắp dẫn đến Sự Thật, đạt đến Sự Sống muôn đời. Đi theo Người trên con đường hiếu thảo. Luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha. Đó chính là tin nhận Thiên Chúa là Cha, là Thầy, là Người Hướng Đạo.

Lạy Cha, xin cho con sống hiếu thảo với Cha, để được là người con, nhận được Sự Sống từ Cha. Xin cho con biết lắng nghe Lời Cha, để được biết Sự Thật. Xin cho con hằng chăm chú học hỏi với Lời Chúa để con đạt tới Sự Thật. Xin cho con biết luôn đi theo con đường của Con Cha, để con đạt tới chính Cha là hạnh phúc muôn đời cho con.

SUY NIỆM 3: Biệt Phái giả hình

Có người kể câu chuyện khôi hài như sau:

Một luật sư mới ra trường thuê một căn nhà sang trọng để làm văn phòng. Nhằm gây ấn tượng nơi các thân chủ tương lai, ông cho gắn một ống điện thoại loại đắt tiền trên bàn làm việc. Ngày khai trương, ông ăn mặc chải chuốt và ngồi chờ đợi trong một tư thế rất tự tin. Có tiếng chuông reo, ông ra mời thân chủ đầu tiên vào văn phòng và để người đó chờ hơn một khắc đồng hồ, trong khi đó ông làm như đang nghe điện thoại. Người thân chủ cười thầm khi nghe cuộc nói chuyện tưởng tượng của ông với một Giám đốc của một cơ quan rất quan trọng trong thành phố. Chấm dứt cuộc nói chuyện tưởng tượng, ông luật sư quay sang hỏi thân chủ: “Thưa ông, tôi có thể làm gì để giúp ông?”. Người thân chủ đầu tiên trả lời: “Thưa ông, tôi là nhân viên của sở viễn thông thành phố, tôi được gửi đến để nối đường dây điện thoại cho ông”.

Những giao tế xã hội dễ khiến cho con người đeo mặt nạ hay đánh bóng khuôn mặt mình bằng những nét giả tạo. Ngay cả trong đời sống tôn giáo, con người cũng dễ bị cám dỗ tô vẽ và đánh bóng gương mặt mình thêm đạo đức. Đó là một trong những thái độ mà Chúa Giêsu đã đả phá một cách gay gắt.

Mùa Chay, người Kitô hữu được mời gọi gia tăng các việc đạo đức: ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí. Ý nghĩa của sám hối dễ bị biến mất khi các việc làm đó biến thành một thứ thi đua, phô trương. Chính vì muốn các tín hữu đề cao cảnh giác trước thái độ phô trương giả hình ấy mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay. Qua thái độ phô trương công đức của các Biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu nêu bật dung mạo của kẻ giả hình. Kẻ giả hình là người muốn đánh lừa người khác bằng các hành vi đạo đức. Họ tìm kiếm vinh dự mà lẽ ra chỉ thuộc về Thiên Chúa. Họ làm những động tác thờ phượng Thiên Chúa, nhưng thật ra chỉ tìm danh vọng và tư lợi. Tựu trung, giả hình là một hình thức tiếm vị Thiên Chúa. Dưới nhiều hình thức khác nhau, giả hình là một nọc độc dễ len lỏi vào tâm hồn người Kitô hữu. Khi con người thực thi những việc đạo đức cốt chỉ để tìm mình, thì lúc đó con người đang rơi vào thái độ giả hình.

Mùa Chay là mùa của hoán cải, là mùa của trở về. Trở về đối với người Kitô hữu chính là trở về với chân lý về con người. Con người đã được tạo dựng để sống cho Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người sống trọn cho Thiên Chúa, con người thực sự tìm được chính mình. Chỉ khi nào con người bị tiêu hao vì Thiên Chúa, con người mới đạt được tầm vóc viên mãn của mình. Đó là định luật Chúa Giêsu đã đề ra cho các môn đệ Ngài khi nói: “Ai mất sự sống mình thì sẽ tìm lại được”.

Tìm kiếm và yêu mến chỉ một mình Thiên Chúa, đó là định hướng cơ bản của người Kitô hữu mà chúng ta được mời gọi để đeo đuổi và thực thi trong mùa chay này.

SUY NIỆM 4: Phục vụ đến cùng

Dạy người khác luôn tuân giữ điều này, thực hiện điều kia, lúc nào cũng dễ hơn chính mình tuân hành chúng. Người Việt chúng ta thường nói: “Chỉ tay năm ngón” để nói về những người chỉ biết ra lệnh cho kẻ khác, còn mình thì chẳng hề mó tay vào việc. Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư và những người Pharisiêu giả hình cũng sống theo cung cách này. Họ dạy người ta làm đủ điều, còn họ thì chẳng hề làm điều gì như lời họ dạy.

Ðoạn Tin Mừng trên đây gồm hai phần: phần đầu ghi lại những lời Chúa Giêsu nhận xét về các kinh sư và những người Pharisiêu; phần sau ghi lại những lời Chúa Giêsu dạy dỗ đám đông và các môn đệ.

Ở phần đầu, Chúa Giêsu chỉ trích thái độ nói một đàng làm một nẻo của các kinh sư và những người Pharisiêu. Họ là những người có vai vế trong đạo. Họ nghiên cứu lề luật, giảng dạy lề luật, bảo vệ lề luật. Nhìn từ bên ngoài thì họ là những nhân vật đáng kính, học cao, biết nhiều, dáng vẻ nghiêm trang, đạo mạo, y phục chỉnh tề, đi đâu họ cũng ngồi chỗ quan trọng, đến đâu họ cũng chiếm vị trí ưu tiên. Ấy thế mà buồn thay, họ chỉ được cái vỏ xanh tốt bên ngoài, còn bên trong thì lại cằn cỗi khô héo. Chúa Giêsu không phủ nhận vai vế của các kinh sư và những người Pharisiêu trong dân. Chúa khuyên dân chúng hãy tuân giữ những gì họ giảng dạy. Nhưng bởi họ dạy mà không làm những gì mình dạy nên Chúa Giêsu cảnh giác dân chúng đừng làm theo những gì họ làm.

Sau khi nêu rõ những thói tật của các kinh sư và những người Pharisiêu, Chúa Giêsu chuyển sang phần giáo huấn cụ thể cho dân chúng và các môn đệ. Ở phần này khi nói: “Các con đừng gọi ai là cha, cũng đừng để ai gọi mình là thầy hay là nhà lãnh đạo”, Chúa Giêsu đã dùng lối nói cường điệu để nhấn mạnh vai trò tuyệt đốì của Cha và của chính Ngài. Khi giảng dạy như thế, Ngài không có ý phủ nhận vai trò của cha mẹ hay của thầy dạy hoặc của người lãnh đạo trên trần gian, mà Ngài chỉ muốn người ta đừng tuyệt đối hóa những vai trò đó, đến độ đặt ngang hàng hoặc cao hơn Thiên Chúa. Chỉ có Chúa Cha mới là Ðấng sinh thành tối cao và chỉ có Chúa Kitô mới là Ðấng giáo hóa tối thượng, còn tất cả mọi người đều là anh chị em bình đẳng với nhau. Ở đây, chúng ta gặp được một quan niệm rất quen thuộc của tư tưởng Á đông: tứ hải giai huynh đệ, người trong bốn bể đều là anh em, mà đã là anh em thì không còn lên mặt lên mày, không còn tranh chấp ghế cao ghế thấp làm gì nữa. Ðã là anh em thì yêu thương phục vụ là chuyện đương nhiên phải làm: “Trong các con, ai là người làm lớn hơn cả phải là người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được tôn lên.”

Thời các kinh sư và những người Pharisiêu đã qua từ lâu, nhưng não trạng ăn trên ngồi trước, chỉ tay năm ngón vẫn luôn tồn tại trong bản tính đã bị hư hoại của con người. Xét mình cho kỹ, chúng ta thấy đã không thiếu những lần chúng ta đối xử với những người khác theo cách thế đáng buồn trên đây. Nếu Chúa Giêsu xuất hiện, chắc hẳn Ngài cũng nặng lời quở trách chúng ta như Ngài đã từng quở trách các kinh sư và những người Pharisiêu ngày xưa.

Lạy Chúa Giêsu, con vốn thích nói hơn thích làm, thích ra lệnh hơn là tuân lệnh, thích sai khiến hơn là vâng phục, thích vênh vang hơn là khiêm hạ. Con thật chẳng khác gì các kinh sư và những người Pharisiêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Xin Chúa giúp con thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, cách làm để con trở nên anh chị em đích thực của mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Biệt phái và chúng ta.

Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là: “Ráp-bi”

Phần anh em thì đừng để cho ai gọi mình là “Ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một người lãnh đạo là Đức Ki-tô. Trong anh em người lớn hơn cả, phải là người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống; sẽ được tôn lên.(Mt. 23, 3-11)

1) Đức Giê-su cảnh giác các môn đệ và đánh động dân chúng hãy coi chừng những biệt phái và luật sĩ: “Họ ngồi trên tòa Môi-sê mà giảng dạy, vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ. Nhưng đừng làm theo những hành động của họ, vì họ nói mà không làm”. Họ sống nghịch với giáo lý họ dạy. Họ không làm những điều mà họ buộc người ta làm. Những việc họ làm đều để khoe khoang và tìm danh vọng, nên vô ích trước mặt Thiên Chúa. Đức Giê-su đã vạch rõ cái thói phù phiếm giả hình công chính mà họ lợi dụng quyền thế để trình diễn những cái sai lầm, vô ích, dối trá, giả dạng trang trọng của họ. Chúng ngược lại với điều công chính chân thật mà Đức Giê-su rao giảng cho các môn đệ và cho tất cả các Ki-tô hữu. Người nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm đời sống mình, hãy đề cao cảnh giác đừng đi theo vết chân của biệt phái. Đó là phương thế lành mạnh.

2) Mỗi tín hữu phải được Đức Giê-su dạy dỗ. Tất cả những ai lãnh trách nhiệm dìu dắt người khác, trước hết phải được Đức Giê-su dẫn dắt. Đoạn Tin mừng này của Chúa luôn luôn là lời mời gọi và là một lệnh truyền đối với Giáo hội. Thời nay người ta có thể tự hỏi: Lời cảnh giác của Chúa còn trong lương tri của chúng ta không? Bản văn này còn đánh động chúng ta không? lời kêu gọi khẩn thiết này có giúp chúng ta ăn năn trở về với đường công chính của Chúa không? Điều cốt yếu ở đây không phải chỉ dẹp bỏ những danh hiệu danh vọng, mà phải nhắm đào sâu lương tri nội tâm của môn đệ Đức Ki-tô, họ không được có một yêu sách nào cả. Không được tìm danh vọng nào cả, dù trong ý nghĩ.

3) Thà rằng tự dẹp bỏ gánh nặng của mình đi, còn hơn là nhận lấy với ước muốn được vinh dự, được xuất hiện vẻ vang, được chức nọ tước kia. Đức Giê-su thật tự do thoát khỏi những ham muốn con nít đó. Không màng chi tước vị nào cả. Người đã trở nên tôi tớ mọi người, giúp đỡ hầu hạ tất cả. Thật là Người cao cả.

Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi mọi vẻ quan trọng và sang trọng đó.

SUY NIỆM 6: NGÔN HÀNH THỐNG NHẤT (Mt 23,1-12)

Nói đến việc giữ chay, có lẽ bên Công Giáo giữ chay tương đối ít! Các tôn giáo khác họ giữ chay nhiều khi cả tháng, hay có người giữ chay cả cuộc đời!

Luật của chúng ta chỉ buộc giữ chay có hai ngày: Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng biết bao người đã so đo, tính toán thiệt hơn, coi việc giữ chay là chuyện nặng nề, mệt nhọc… Sống đạo như vậy là hình thức, là cái vỏ, còn trong thực tế không có gì cả! Chúng ta trung thành từng chi tiết nhỏ của luật, nhưng không hề có chút tâm tình hay có hồn trong đó!

Vì thế, nhiều người tham gia rất nhiều đoàn thể, lễ hội, nhưng điều quan trọng là sống bác ái, yêu thương, nhân hậu và công bằng thì họ lại không hề mảy may quan tâm!

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch mặt chỉ tên những người Pharisêu giả hình. Họ thuộc hạng phô trương, hình thức, khoe mẽ. Họ giữ luật từng chi tiết, nhưng đời sống của họ thì không hề có chút tình thương nào cả! Ngài nói: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào;  họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. Và Đức Giêsu cảnh báo: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.

Chúng ta đang sống trong những tuần đầu của Mùa Chay, mỗi người Kitô hữu được mời gọi hãy hoán cải để nhận ra sự kiêu ngạo, khoe khoang, hình thức bấy lâu nay. Từ đó, hãy lo sám hối và xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đồng thời biết khiêm tốn để Lời Chúa được thấm nhập vào trong tâm hồn của mình, ngõ hầu chúng ta sẽ trở thành người có Chúa và loan truyền Chúa cho anh chị em mình bằng chính đời sống khiêm tốn, phục vụ.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con được ơn khiêm tốn trong việc sống đạo, nhất là trong các mối tương quan với mọi người. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Tất cả đều là anh em với nhau, là con một Cha

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Aristogiton lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ vũ những đức tính anh hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, thính giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến với các cường quốc trên thế giới.

Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng. Biết rõ những bí ẩn của chàng, Photion trợn mắt nói: “Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát”.

Suy niệm

Các tiến sĩ luật, các biệt phái thời Chúa Giêsu là các ban lãnh đạo dân. Tiến sĩ luật có nhiệm vụ chú giải Luật Môisê để áp dụng vào đời sống hàng ngày. Người pharisiêu (biệt phái) là một tầng lớp tri thức đạo đức bao gồm những người chủ trương sống đạo nhặt nhiệm, nhất là trong việc thi hành luật đạo. Là những vị vọng có trách nhiệm hướng dẫn đời sống đạo đức, thế nhưng họ chỉ chú trọng đến hư danh, đến chiếc ghế danh dự trong cộng đoàn. Ðức Giêsu chỉ trích và vạch trần cách họ dạy đạo và sống đạo hình thức, chỉ mong hư danh của người biệt phái và kinh sư. Đối chiếu với sự hám danh dự nơi các người trách nhiệm Do Thái, Ngài dạy các môn đệ tinh thần phục vụ yêu thương: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”. Theo giáo huấn của Thầy, người làm lớn được ngồi trên ghế danh dự quyền bính nhưng không vì hư danh mà vì chính tinh thần phục vụ.

Chúng ta cảm thấy “sốc” khi nghe Chúa Giêsu xưng hô “Cha” chỉ dành cho Thiên Chúa và danh “Thầy” nên chỉ được dành cho Đức Kitô. Theo Giáo lý Công giáo: “Thiên Chúa với danh hiệu Cha, ngôn từ đức tin chính yếu đề cập đến hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đệ nhất của muôn vật và quyền bính siêu việt. Ðồng thời Ngài cũng tốt lành, ân cần yêu thương mọi con cái” (Giáo lý Công giáo, số 239).

Ngay cả Giáo hội sơ khai, đã có các đấng bậc làm cha, thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu, đã gọi các người mình dẫn dắt là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19). Gọi các bậc lãnh đạo trong Giáo hội là cha, chúng ta ý thức rằng các ngài được chia sẻ quyền làm cha của Thiên Chúa. Trong Giáo hội, mọi người dù có chức vụ hay chức vị khác nhau, tất cả anh em đều là anh em với nhau, con một Cha.

Trong Giáo hội cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28), và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8). Chỉ có một vị thầy là Ðức Giêsu, gọi thầy nơi các bậc dạy dỗ trong dân Chúa là thầy vì các ngài tham dự vào nhiệm vụ thầy dạy của Đức Kitô. Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ, như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28), Ngài là mẫu gương phục vụ tuyệt vời và mời gọi người mang tinh thần công vụ “người làm lớn” phải phục vụ.

Thật thế, dù công quyền hay giáo quyền, mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa. Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo, thì vì họ được chia sẻ quyền làm thầy của Ðức Giêsu. Xin tinh thần phục vụ đến từ Chúa Kitô thanh tẩy tâm trí tôi và bạn, tâm trí của các nhà lãnh đạo, các bậc thầy dạy dỗ trong dân, để xã hội và đất nước được xây dựng trên tinh thần phục vụ trong trách nhiệm, liêm chính…

Ý lực sống: “Luôn đặt trách nhiệm của mình cao hơn những gì người khác mong đợi” (Henry Ward Beecher).

 Suy Niệm 8: Đừng có giả hình

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người luật sĩ và biệt phải giả hình. Họ là những người nói nhiều làm ít, mồm miệng đỡ chân tay, nói hay nhưng làm dở. Họ lo tô vẽ dáng bề ngoài cho đạo đức mẫu mực nhưng lòng họ thì hám danh, phô trương và tham lam. Chúa phân biệt rõ hai phương diện: những gì họ nói thì đều là nói Lời Chúa, nên hãy nghe theo; nhưng những việc họ làm thì mâu thuẫn với những lời họ giảng dạy, cho nên đừng bắt chước.
  2. Luật sĩ và biệt phái tượng trưng cho quyền bính trong dân. Họ có bổn phận phải giảng dạy dân chúng và người dân có nghĩa vụ tuân giữ những lời họ giảng dạy. Thế nhưng nhiều lần họ đã bị Đức Giêsu khiển trách, chỉ vì họ tự cho mình là tài giỏi, đạo đức, từ đó họ phê bình chỉ trích lên án người khác; làm gì họ cũng muốn cho người khác thấy và khen ngợi; họ ham muốn danh vọng chức quyền, luôn luôn lên mặt dạy đời, nhất là họ nói mà không làm.

Tuy thế, Chúa vẫn  khuyên chúng ta tôn trọng họ vì họ có nghĩa vụ giảng dạy, và hãy thực hiện những lời họ giảng dạy. Vì thế Chúa phán: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ!

  1. “Các ngươi chất lên vai kẻ khác những gánh nặng…”

Thật vậy, nhiều tiến sĩ luật Do thái ưa nói về luật cách tỉ mỉ, nhưng lời nói của họ không đi đôi với việc làm, nói một đàng làm một nẻo, lo tô vẽ cho cái bên ngoài nhằm che đậy sự xấu xa lợi dụng trong lòng họ. Họ dạy luật thì để cho dân giữ, còn chính họ lại không làm gương, họ dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.

Phải chăng chỉ những luật sĩ và biệt phái thời xưa mới kiêu căng giả hình? Phải chăng thời nay không còn hạng người đó nữa? Nhan nhản trước mắt chúng ta: biết bao người ngoài miệng rêu rao là vị nhân vị nghĩa, mà kỳ thực, họ tham lam, ích kỷ, tự tôn, lợi dụng thế lực để bóc lột người khác; họ lường gạt xảo trá không những đối với con người mà cả với Chúa nữa.

Aristogiton lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ võ những đức tính anh hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, khán giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến  với các cường quốc trên thế giới. Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng.

Biết rõ những bí ẩn của chàng, ông Photion trợn  mắt nói: “Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát”.

  1. Có một người nêu ý kiến rằng: Nếu phải chọn một trong hai điều, một là cứu rỗi một triết nhân, chỉ biết mình là tất cả, kiêu ngạo, khoe khoang về kiến thức của mình. Hai là phải cứu rỗi một trăm người tội lỗi, điếm đàng, thì hiển nhiên nên chọn điều thứ hai.

Tại sao vậy? Vì ở trần gian, không có gì khó bằng khuất phục một người trí thức kiêu ngạo, tâm hồn họ đầy cái tôi của mình thì chẳng còn chỗ nào cho Thiên Chúa len vào được. Cũng như một chiếc bình đầy nước thì không thể đồng thời chứa đầy dâu hôi. Đối với tâm hồn, tình trạng cũng chẳng khác gì, Thiên Chúa chỉ ban chân lý và sự sống của Ngài cho những ai trống rỗng với chính mình. Do đó, chúng ta phải tạo một khoảng trống trong tâm hồn để có thể chứa ơn thánh.

  1. Mọi quyền hành đều bắt nguồn bởi Thiên Chúa và phải trở về Thiên Chúa. Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo thì vì họ được chia sẻ quyền làm thầy của Đức Kitô, họ phải nêu gương trước.  Nhưng trong thực tế, vẫn còn đó đây những vị này vị nọ nói thuyết thì hay nhưng lại tự chuẩn cho mình; dạy dỗ người ta nhưng chính mình lại không giữ, thậm chí còn tệ hơn – ngôn hành bất nhất. Lại nữa, chỉ thấy người khác phạm luật và trách mắng họ, nhưng thực tế thì “suy bụng ta ra bụng người” – chính mình còn bê bối hơn cả những gì mình trách người… Xin Chúa giúp chúng ta, biết dùng chính hành động làm cho lời nói có giá trị, nghĩa là khi muốn ai giữ luật, thì mình phải làm gương trước – ngôn hành như nhất.
  2. Truyện: Bé cái lầm.

Có một người đi dạo đến nơi hành hương. Vì quá mệt nhọc, ông ngồi nghỉ chân trên một bệ đá. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông, họ đã ngả mũ cúi chào.

Trong khi còn đang nghĩ ngợi, thắc mắc, thì cũng có một bà già đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã ngước nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông không thể nghe rõ.

Thế rồi bà ta tiếp tục đi như những người khác. Lúc ấy ông mới quay lưng lại và nhìn lên theo hướng bà kia đã nhìn. Ông nhận ra ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây Thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.

Suy Niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy những ai có trách nhiệm dạy bảo người khác phải thực hành những điều mình nói, với thái độ khiêm tốn và phục vụ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, con là môn đệ của Thầy. Con chẳng thấy ai được như Thầy, vì Thầy là mẫu mực hoàn hảo cho con bắt chước. Những điều Thầy dạy con thì Thầy đã sống trước và sống tới mức độ tột cùng. Thế mà lúc nào Thầy cũng khiêm tốn, và khiêm tốn cũng tột độ.

Lạy Thầy Giêsu, trước mặt Thầy, chúng con chẳng phải là cha, là thầy, và là người lãnh đạo của nhau, mà chỉ là anh em với nhau. Tuy nhiên, Thầy đã trao phó cho chúng con trách nhiệm dìu dắt nhau sống theo chân lý Thầy đã mặc khải. Xin Thầy dạy con biết chu toàn nhiệm vụ này theo gương của Thầy.

Xin giúp con là cha mẹ biết chu toàn bổn phận giáo dục con cái. Bổn phận của con quá nặng nề, con cảm thấy bất lực. Rất nhiều lúc lời con dạy dỗ chỉ gặp thấy sự dửng dưng hoặc kháng cự. Xin Thầy giúp con biết khiêm tốn giữ sự bình tĩnh tế nhị, gia tăng lời cầu nguyện, và nỗ lực sống đạo đức thánh thiện hơn. Xin đừng để gương xấu của con trở thành cớ vấp phạm cho con cái, trái lại, xin cho con biết làm gương sáng, biết thực hành những điều con dạy bảo. Xin ban ơn để con có thể ảnh hưởng tốt nơi con cái bằng chính cuộc sống của con.

Con cũng cầu xin cho các linh mục và tu sĩ được noi gương Thầy sống đời thánh thiện gương mẫu, khiêm tốn phục vụ, để lời rao giảng và cuộc đời tận hiến lôi kéo được nhiều linh hồn về với Chúa hơn.

Về phần con là con cái, xin Thầy giúp con biết hạ mình khiêm tốn vâng phục các bề trên. Dù đời sống các ngài còn nhiều thiếu sót và nhiều lỗi lầm, nhưng xin Thầy thánh hóa các ngài, và xin giúp con biết nhận ra những điều đúng đắn để tuân giữ. Amen.

Ghi nhớ: “Họ nói mà không làm”.

Suy Niệm 10: 

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích

Lời Chúa hôm nay đặc biệt nói với các “thủ lãnh”

  1. Bài đọc I (trích sách Isaia): Ngôn sứ Isaia bảo các thủ lãnh Sôđôma và Gômôra “Hãy làm điều lành, tìm kiếm công lý”, đó là cách để ta được Chúa thứ tha: “Cho dù tội lỗi các ngươi như màu đỏ thắm cũng sẽ trở nên trắng như tuyết, cho dù đỏ như vải điều cũng sẽ trở nên trắng như len”. Ta hãy chú ý tới những động từ “làm”, “tìm kiếm”. Đó là những hành động tích cực chứ không phải là những tâm tình hay lời nói suông.
  2. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói về những người biệt phái và luật sĩ. Họ nói nhiều nhưng làm ít, nói tốt nhưng làm xấu. Họ lo tô vẽ dáng bề ngoài cho đạo đức mẫu mực nhưng lòng họ thì hám danh, phô trương và tham lam. Chúa phân biệt rõ hai phương diện: những gì họ nói thì đều là nói lời Chúa, nên hãy nghe theo ; nhưng những việc họ làm thì mâu thuẫn với những lời họ dạy, cho nên đừng bắt chước.
  3. Suy niệm
  4. Là Linh mục, tu sĩ thì theo một phương diện nào đó cũng là làm “lãnh đạo”, vì cách sống của chúng ta ảnh hưởng đến cách sống của người khác. Sám hối của kẻ “lãnh đạo” là:

– Không chỉ nói mà còn làm.

– Không chỉ lo cho dáng vẻ bề ngoài của mình có vẽ mô phạm, mẫu mực mà còn phải trau dồi cái tâm đạo đức thật của mình.

  1. Isaia đặc biệt bảo các nhà lãnh đạo hãy quan tâm đến những kẻ yếu thế dưới quyền mình: “hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, mồ côi, góa bụa”
  2. Người kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau: Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ ”Bên phải dành cho người công giáo ; bên trái dành cho kẻ ngoại”. Tôi đi theo hàng lang bên phải. Đi được một lúc tôi tới ngã rẽ khác, lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau ”Bên phải dành cho người có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém”. Tôi lại đi theo bên phải. Đến một ngã rẽ khác, tôi loại thấy bảng chỉ dẫn ”Bên phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những kẻ ích kỷ”. Tôi lại chạy qua bên phải. Cuối cùng tôi gặp bảng chỉ dẫn ”Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi”. Một lần nữa, tôi chọn bên phải. Tôi đang hân hoan rảo bước thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hoả ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức dậy. Sau một phút, tôi tự hỏi” Phải chăng cuộc sống đạo của tôi toàn là giả hình như giấc mơ hãi hùng ấy ?” (Trích ”Món quà giáng sinh”)

Suy Niệm 11: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Cái tội nói mà không làm chẳng phải là của những người Pharisêu và luật sĩ như Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay, mà phải nói đó là cái tội của mọi thời đại.

Trong kho tàng giai thoại văn chương thế giới, có câu chuyện này. Chuyện xảy ra vào thời Hoàng đế Néron ở Rôma. Néron nổi tiếng là ông vua tàn bạo, rất thích phạt tội nhân bằng cách cho sư tử xé xác họ ra.

Cứ mỗi lần xử, Néron lại cùng hoàng hậu và các quan văn võ lên khán đài chứng kiến. Dĩ nhiên là quần chúng cũng được phép đến xem.

Một hôm, có tên tử tội bị xử theo kiểu này. Anh ta bị đẩy ra giữa hí trường và người ta thả sư tử ra. Con sư tử gầm gừ nhảy ra. Ai nấy đều phập phồng kinh hãi cho phút thụ hình của anh ta.

Nhưng lạ thay, lần này con sư tử hung dữ thay vì cắn xé tử tội thì nó chỉ nhảy chồm lên… rồi đến trước tội nhân lấy mũi hít hít vài cái rồi thôi.

Quân lính làm thế nào nó cũng mặc. Đoạn nó cúi đầu chào tội nhân rồi ngoắt đuôi lủi thủi đi vào với vẻ mặt buồn rầu như bị một cái gì đe dọa.

Theo luật, nếu sư tử không ăn thịt thì tội nhân được tha bổng.

Néron lấy làm lạ, nên trước khi tha về, ông ta gọi tội nhân đến mà hỏi:

– Nhà ngươi làm cách nào mà con sư tử của trẫm không dám đụng đến. Phải nói cho trẫm biết, trẫm sẽ thưởng tiền để về làm ăn.

Tội nhân đáp:

– Tâu bệ hạ, thần không làm gì mà cũng không có bùa phép chi cả mà chỉ khẽ bảo nó một câu.

– Câu gì ? Néron hỏi gấp

Anh ta thưa:

– Muôn tâu bệ hạ, thần chỉ bảo: Mày muốn ăn tao, cứ việc. Nhưng tao cho mày hay ăn xong, thế nào nhà vua cũng bắt mày đọc diễn văn bày tỏ cảm tưởng và cám ơn. Vậy nếu mày muốn ăn tao, hãy lo thảo diễn văn trước đi. Muôn tâu bệ hạ, ấy thế là nó hoảng hồn bỏ đi ngay.

Câu Chuyện trên đây là do nhà văn Gilbert Chesterton đặt ra chế nhạo cái phong trào đọc diễn văn của vua quan và những người quý phái ở nước Anh vào thời ông, mà dân chúng đã quá nhàm.

Không phải chỉ ở những thời xa xưa, mà ngày nay, thế giới càng văn minh, khoa học càng phát triển, con người càng nhiều kiến thức thì những bài diễn văn lại càng uyên bác và càng dài.

Biết bao nhiêu hội nghị, biết bao nhiêu bài diễn văn, biết bao nhiêu giấy mực, thời giờ và công sức bỏ ra để soạn thảo, để nói, để nghe.

Nhưng cuối cùng, thì người ta nói quá nhiều mà làm quá ít, hay chẳng làm gì cả.

Người ta nói để trấn an dư luận, để lấn át tiếng lương tâm, để che đậy cái man trá của lòng mình.

  1. Hãy nhớ Lời Chúa Giêsu quở trách: “Khốn cho các ngươi! Vì các ngươi nói mà không làm” (Mt 23,3).

Một công chúa Ả Rập quyết định cưới một trong những nô lệ của cô làm chồng. Nhà vua nói và làm đủ cách để khuyên can con gái, nhưng không thành công. Không một cố vấn nào của nhà vua có thể nghĩ ra cách nào để giúp ông. Cuối cùng, một quan tể tướng nổi tiếng khôn ngoan xuất hiện tại triều đình. Sau khi nghe câu chuyện của nhà vua, viên quan này nói:

– Bệ hạ đã được cố vấn một cách sai lầm rồi. Vì nếu bệ hạ cấm công chúa điều đó, công chúa sẽ oán trách bệ hạ và càng gắn bó hơn với anh chàng nô lệ kia.

– Vậy nhà ngươi hãy cho biết ta phải làm gì ?

Quan tể tướng đề xuất một kế hoạch hành động. Nhà vua không tin tưởng lắm vào kế hoạch này, nhưng cũng quyết định thử xem sao. Ông cho gọi con gái đến và nói:

– Ta sẽ kiểm tra tình yêu của con đối với anh chàng kia. Con sẽ bị giam trong một căn phòng nhỏ với anh ta trong ba mươi ngày đêm. Nếu sau đó, con vẫn muốn cưới anh ta, ta sẽ hoàn toàn chấp thuận.

 Công chúa vui mừng ôm chầm lấy thân phụ mình và chấp nhận bài kiểm tra nói trên.

Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp trong những ngày đầu. Nhưng chẳng bao lâu, tất cả trở nên chán chường. Chỉ sau một tuần, cô trở nên dị ứng với mọi hành vi, cử chỉ, lời nói của chàng – và ước gì mình có một sự bầu bạn khác. Sau hai tuần, cô chán anh ta đến nỗi cô thường xuyên la hét và đập vào cánh cửa. Cuối cùng khi được giải phóng, công chúa ôm chầm lấy vua cha, rối rít cám ơn cha mình đã cứu mình khỏi người đàn ông mà bây giờ cô không muốn gặp nữa.

Lạy Chúa Giêsu,

xin làm cho con thật mạnh mẽ,

để không nỗi thất vọng nào

còn chạm được tới con.

Xin làm cho con thật đầy ắp,

để ngay cả một ước muốn nhỏ

cũng không còn có chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ,

để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.

Xin Chúa ngự trong con thật sống động,

để không phải là con,

mà là chính Ngài đang sống. Amen.

Thứ tư sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 20, 17-28

Khi ấy, Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, đem riêng mười hai môn đệ đi theo. Dọc đường, Người nói với họ: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”.

Bấy giờ bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Người. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: “Bà muốn gì”. Bà ta thưa lại: “Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài”. Chúa Giêsu đáp lại: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?” Họ nói với Người: “Thưa được”. Người bảo họ: “Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được”.

Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em.

Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: “Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế.

Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con.

Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người”.

SUY NIỆM 1: Anh em không được như vậy

Ghế tượng trưng cho chức vụ và chức vị.

Chính vì thế bình thường người ta ai cũng thích ghế.

Ghế trong tôn giáo cũng như ghế ngoài đời.

Tìm cách có ghế, giữ ghế hay tìm cách lên một ghế cao hơn,

đó vẫn là điều khiến nhiều người vất vả,

và đó cũng là điều khiến thế giới loạn lạc và xung đột.

Bài Tin Mừng kể cho chúng ta chuyện tranh cãi giữa nhóm Mười Hai.

Vẫn là chuyện những cái ghế.

Quan trọng nhất là hai ghế nằm hai bên tả hữu của Thầy

khi Thầy vào vinh quang trong Nước Thiên Chúa.

Chỉ tiếc là chuyện tranh cãi này lại xảy ra ngay sau khi

Thầy Giêsu tâm sự riêng với các môn đệ về cuộc Khổ Nạn của mình.

Chẳng rõ có phải Gioan và Giacôbê đã nhờ mẹ mình xin giùm không.

Từ chối lời xin ngây thơ của một người mẹ thương con là điều không dễ.

Thầy Giêsu có bực mình không khi phải chịu một áp lực như thế?

“Các người không biết các người xin gì!”

Điều các người xin xa lạ với con đường Thầy sắp đi.

Điều các người mơ ước lại là điều Thầy sắp phải quyết liệt từ bỏ:

quyền lực, tiếng tăm, vinh dự…

“Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”

Như thế Thầy Giêsu thách đố nhóm Mười Hai

về khả năng chia sẻ cuộc Khổ Nạn với Ngài,

khả năng dám uống chung một chén đắng mà Ngài sắp uống.

Chỉ những ai dám cùng chịu đau khổ mới được chung phần vinh quang.

Chẳng rõ các môn đệ có lường được cái giá phải trả không,

nhưng họ đã vội trả lời là uống nổi.

Thầy Giêsu xác nhận chọn lựa của họ,

nhưng Ngài lại không hứa cho họ ngồi hai bên tả hữu của mình,

đơn giản là vì điều đó thuộc quyền của Cha.

Chuyện tranh cãi giữa các môn đệ là cơ hội để Thầy Giêsu vạch ra

cách hành xử cho những nhà lãnh đạo tương lai của Giáo Hội.

Chắc chắn nó khác với lối lãnh đạo ngoài đời,

khi người ta dùng quyền uy để thống trị và làm bá chủ (c. 25).

“Giữa anh em thì không được như vậy,” anh em không được theo thói đời.

Thầy Giêsu dạy các môn đệ điều ngược đời:

kẻ làm lớn, làm đầu phải làm đầy tớ phục vụ cho anh em mình (cc. 26-27).

Tấm gương lớn nhất là tấm gương Thầy phục vụ (c. 28).

Cuộc Khổ nạn sắp đến là việc phục vụ khiêm hạ nhất của Thầy.

Lần đầu tiên Đức Giêsu cho biết ý nghĩa cái chết sắp đến của mình,

cái chết như giá chuộc để cứu độ muôn người (c. 28).

Mười môn đệ khác có còn ghen tức hai anh em con ông Dêbêđê nữa không

nếu họ biết rằng ngồi ghế cao chính là để thấy rõ mà dễ phục vụ hơn?

Cầu nguyện:

Lạy Thầy Giêsu,

Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,

Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.

Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy,

vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con

những điều riêng tư thầm kín nhất

trong tương quan giữa Thầy với Cha.

Hơn nữa, sau phục sinh,

Thầy đã gọi các môn đệ là anh em.

Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng

đứng đầu một đoàn em đông đúc.

Xin cho chúng con

luôn thi hành ý muốn của Cha

để trở nên những người em

cùng huyết nhục với Thầy.

Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên

làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.

Còn Thầy lại hạ mình xuống

phục vụ chúng con như người tôi tớ,

rửa chân cho chúng con như một nô lệ

và chết thay cho chúng con trên thập giá.

Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy

và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: TỤC HÓA

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thế gian chạy theo thế gian. Giá trị Nước Trời trở thành cản đường. Vì thế họ muốn tiêu diệt các tiên tri. Giê-rê-mi-a làm điều tốt lành cho họ. Nhưng họ vẫn muốn giết chết ngài. Họ muốn tẩy trừ tư tế, hiền nhân và tiên tri ra khỏi đời sống để hoàn toàn có thể theo đuổi trần gian.

Thói thế gian len lỏi cả vào hàng ngũ môn đệ thân tín của Chúa. Thật đáng buồn khi Thầy trò đồng sàng dị mộng. Chúa dậy các ông con đường Nước Trời là tự hạ để được nâng lên, quên mình để được tôn vinh, phục vụ để được lãnh đạo, chịu chết để được sống. Nhưng họ vẫn theo con đường trần gian.

Hai người đã cậy thế cậy thân vận động để được chức quyền. Thật là đem cả thói thế gian vào chính trung tâm của sự thánh thiện. Dám đem những lời nhơ uế làm bẩn lỗ tai thánh thiện. Buồn hơn nữa là các tông đồ tỏ ra bất bình. Tại sao? Vì cũng nặng lòng với thế gian. Cũng đang ngắm nghé chỗ cao chỗ thấp. Có cạnh tranh nên có bất bình. Nói ra hay không cũng đều giống nhau cả.

Một lần nữa Chúa phải nói rõ ràng về những khác biệt giữa thói thế gian và thái độ của Nước Trời. Đó là hai con đường ngược chiều. Thói thế gian muốn danh, lợi, thú. Muốn thống trị, ăn trên ngồi trước. Nhưng trong Nước Trời thì phải ngược lại. “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”.

Chính Chúa đã mở ra con đường khiêm nhường phục vụ vì “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dân mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Phục vụ là quên mình. Quên mình đến hiến dâng mạng sống là phục vụ ở mức cao nhất. Là hoàn toàn coi mình là tầm thường, là tôi tớ, là không có giá trị gì. Coi anh em là tuyệt đối, là đáng quí, đáng trọng.

Tôi đang thao thức điều gì? Theo thói thế gian hay theo phong cách Nước Trời? Tôi đi vào con đường của Chúa hay của trần gian?

SUY NIỆM 3: Phục vụ đích thực

Alexandre Thompson năm nay 74 tuổi, hiện đang sống tại Thuỵ Sĩ. Mới đây ông đã viết thư cho toà đô chính Copenhagen để báo tin ông sẵn sàng tặng thành phố 40 triệu Mỹ kim để làm bất cứ dự án nào, với điều kiện tên tuổi ông phải được đặt cho một con đường ở thủ đô nơi ông đã sinh trưởng. Nhưng đề nghị của ông đã bị từ chối và dĩ nhiên số tiền ông hứa tặng vẫn còn giữ chặt trong tay ông.

Cho đi để được cho lại, đó là tính toán thường tình của con người. Người ta làm ơn làm phúc để được đền đáp, người ta hy sinh phục vụ đã tên tuổi của mình được nhắc đến. Tiền tài, quyền bính, danh vọng là ẩn số luôn ẩn núp sau những công việc mà con người gọi là phục vụ. Tựu trung, điều con người tìm kiếm trong mọi phục vụ vẫn là cái tôi của mình. Chúa Giêsu đã mang lại cho hai chữ “phục vụ” ý nghĩa đích thực của nó: phục vụ như Chúa Giêsu đã sống là sống như một người tôi tớ. Người tôi tớ trong thời phong kiến chỉ có một hiện hữu duy nhất, đó là sống cho và sống vì người khác. Như vậy, phục vụ đích thực chính là sống trọn vẹn cho tha nhân, vì tha nhân, chứ không vì bất cứ một tính toán lợi lộc nào. Phục vụ như thế cũng đồng nghĩa với quên mình và quên mình cho đến chết. Xét cho cùng, theo mẫu gương của Chúa Giêsu, phục vụ cũng đồng nghĩa với chết đi. Đó là bài học mà Chúa Giêsu đã muốn lặp lại khi cho chúng ta lắng nghe trong Tin mừng hôm nay.

Những dân chài Galilê đã bỏ mọi sự theo Chúa Giêsu, nhưng các ông từ bỏ mọi sự với một tính toán, đó là trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc tương lai của Ngài. Các ông cũng không thoát khỏi cái lý luận thường tình của con người: “Tôi cho đi để được lấy lại”, “tôi từ bỏ mọi sự để được giầu sang hơn”, “tôi phục vụ để được phục vụ lại”. Quyền bính, danh vọng vẫn luôn là cám dỗ đối với Giáo Hội qua mọi thới đại. Dưới lớp áo thâm chùng của từ bỏ vẫn còn ẩn núp nhưng tham sân si. Đội lốt tôn giáo, lời tố cáo ấy xem ra không phải là quá đáng, bất công đối với không biết bao nhiêu thành phần được gọi là người của Giáo hội.

Gồm những con người yếu hèn, tội lỗi, Giáo hội Chúa Kitô luôn cần được thanh luyện trong ý hướng, cũng như trong thể hiện của mình. Trong cuộc trở về chung của toàn Giáo Hội, mọi Kitô hữu đều được mời gọi để không ngừng hoán cải. Hoán cải là quay về với Chúa, là chỉ tìm kiếm và yêu mến một mình Ngài, là tham dự vào cuộc Tử nạn của Chúa Kitô bằng những hy sinh và từ bỏ chính mình mỗi ngày.

Ước gì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá mà chúng ta suy niệm trong Mùa Chay này luôn nhắc nhở chúng ta về ơn gọi của người môn đệ, đó là phục vụ, quên mình, và ý thức mình chỉ là đầy tớ vô dụng, chỉ làm những gì phải làm mà thôi.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Tinh thần phục vụ

Sau khi Chúa Giêsu tiên báo lần thứ ba về cuộc thương khó của Người, giữa nhóm mười hai đã xảy ra nhiều cuộc tranh luận. Càng gần tới thành Giêrusalem, cuộc tranh luận càng sôi nổi hơn. Họ bàn tán xôn xao: Thầy sắp thực hiện kế hoạch mà Thầy đã ôm ấp bấy lâu. Kế hoạch này xem ra khó hiểu đối với họ, nhưng thôi, đó là công việc của Thầy, hãy để Thầy lo liệu, và họ bàn luận với nhau về tương lai của họ sau khi Thầy được đăng quang. Họ phân chia nhau ngôi thứ, ai lớn ai nhỏ như thế nào đây. Ai là người có công nhiều, ai là người có công ít hơn. Và cuộc tranh luận này không chỉ gói gọn giữa nhóm Mười Hai, mà còn mở rộng ra đến cả người nhà của họ nữa. Hai ông Giacôbê và Gioan, con ông Dêbêđê, đưa mẹ đến xin Chúa Giêsu cho họ được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Thấy mẹ con bà Dêbêđê hành xử như vậy, mười môn đệ kia tức tối ra mặt. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu dạy cho các ông bài học về tinh thần phục vụ mà các môn sinh của Chúa phải có.

Khác với cách thức cai trị của vua quan trần thế là những người đã dùng uy quyền để ổn định dân nước, những người lãnh đạo trong Nước Trời phải dùng quyền hạn mà Thiên Chúa ủy thác cho để phục vụ lợi ích của tha nhân. Ðịa vị càng cao càng phải hạ mình để phục vụ người khác nhiều hơn: “Ai muốn làm đầu các con thì phải làm đầy tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người.”

Lời dạy của Chúa Giêsu thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta xét mình. Chúng ta tự hào mình là người có công, là những người cộng tác vào công cuộc mở mang Nước Chúa ở trần gian. Ðôi lúc chúng ta cũng bỏ công sức, thời giờ, tiền của vào các việc tông đồ truyền giáo. Chúng ta có nhiệt tình, chúng ta lao tâm khổ tứ, chúng ta ăn ngủ không yên, nhưng thử hỏi, chúng ta dấn thân như vậy vì Chúa, vì phục vụ anh em hay vì một cái gì khác. Mỗi người chúng ta hạ cố tự vấn lương tâm mình trong mùa Chay này.

Lạy Chúa, con rất muốn hoạt động cho Danh Cha cả sáng, cho Nước Cha trị đến, cho Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tuy nhiên, đôi lúc con cũng muốn mặc cả với Chúa, con làm cho Nước Chúa điều này thì xin Chúa hãy làm cho bản thân con điều nọ. Con phục vụ người khác và con cũng muốn mình được người ta phục vụ. Xin Chúa dạy con biết lột bỏ quan niệm trần tục này để mặc lấy tinh thần của người tôi tớ khiêm hạ mà tận tình phục vụ anh chị em vì lòng yêu mến Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Chỉ có một tham vọng là phục vụ

“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải là người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải là đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt. 20, 26b-28)

1) Qua mẹ con ông Giê-bê-đê, Đức Giê-su nhắc nhở chúng ta về một điều đắt giá này: Nếu chúng ta muốn theo Chúa, thì đừng mơ ước vinh quang loài người, nhưng hãy chấp nhận chia sẻ cuộc tử nạn của Người để cứu độ thế giới. Không ai gần Đức Giê-su bằng Đức Mẹ, nhưng trước khi được muôn thế hệ ngợi khen Mẹ đầy diễm phúc, Mẹ đã là Mẹ của một người bị kết án tử hình.

2) Dù sao những người con của ông Giê-bê-đê cũng đáng thiện cảm. Lòng tham vọng phàm trần của các ông là dấu chỉ có lòng quảng đại, và chính vì đó mà đã được Đức Giê-su tuyển chọn. Chúa chỉ muốn mở rộng tấm lòng tham vọng của họ ra tới chân trời vô tận, nên Chúa hỏi: “Các anh có uống nổi chén Ta uống không?”. Họ đáp: “Thưa uống nổi”, nhưng Chúa chưa đòi các ông phải lăn xả ngay để chứng tỏ hết sức mình các ông đâu, các ông sẽ uống dần dần bằng việc phục vụ rất khiêm tốn trước đã, vì thế chưa nói phải uống chén đắng.

3) Không chỉ hầu hạ, mà còn “phải hiến mạng sống”. Lời của Thầy có thể vẫn là những chữ chết không có hiệu lực gì, nếu Thầy không cho họ một tấm gương sống động chứng tỏ rõ rệt và có sức thuyết phục đặc biệt, nếu những lời này không được thực hiện từng chữ, thì người ta sẽ nghĩ rằng những lời này chỉ là cách nói có ý phóng đại để gây ấn tượng và đánh động người nghe thôi. Giáo huấn của Đức Ki-tô không phải là thứ yêu sách không thể đạt được. Người ta có thể đọc được nó ngay trong đời sống của con người. Chính Đức Giê-su đã sống hoàn toàn đúng với luật đời sống này. Người bày tỏ đời sống mình làm mẫu cho Giáo hội. Người không đến để cai trị, nhưng đến để phục vụ. Toàn diện sứ mệnh của Người là phục vụ. Thiện chí lôi cuốn Người là ý chí phục vụ. Ơn kêu gọi của Người là phục vụ. Trong bữa tối sau hết, Người đã hoàn tất việc phục vụ dành riêng cho kẻ nô lệ bằng rửa chân cho mười hai môn đệ.

Môn đệ thấy trước mặt mẫu gương phục vụ này, sẽ không chỉ nói lý thuyết phục vụ, nhưng nuôi dưỡng nó như là luật sống của mình để sống phục vụ hết mình. Môn đệ phải đón nhận lấy mẫu gương mà chính Chúa đã ban cho mình, một mẫu gương nổi bật có sức làm phai mờ mọi phần tử khác. Chính bản thân mỗi môn đệ phải thực hiện giá trị cao cả đó: Ơn kêu gọi của tôi là thí mạng sống mình cho mọi người, cho thế giới, vì yêu thương.

SUY NIỆM 6: ƠN CỨU CHỘC CỦA CHÚNG TA NƠI THÁNH GIÁ CHÚA (Mt 20,17-28)

Có nhiều người ngày nay, theo tâm lý tự nhiên, họ đều muốn có danh tiếng cá nhân, phần thưởng cá nhân, địa vị cá nhân và sự thành công cá nhân, nhưng ít ai nghĩ đến sự hi sinh cá nhân!

Thật thế, đây là cám dỗ nguy hiểm cho con người thời nay, bởi vì ai cũng chỉ nghĩ đến mình, họ luôn xây dựng cái tôi của mình thật lớn để rồi như một thành trì bảo vệ uy lực cho cá nhân mà không hề nghĩ đến người khác và bổn phận trách nhiệm của mình với cộng đồng.

Đây cũng chính là mối nguy hại cho các Tông đồ thời Đức Giêsu! Các ông theo Ngài, được Ngài mặc khải nhiều điều, và, nhất là hôm nay, Ngài loan báo cuộc khổ nạn, đồng thời mời gọi họ đi theo trên con đường khổ giá để cùng Ngài cứu chuộc nhân loại, thay vì ưng thuận,  họ đã tỏ vẻ khó chịu, bởi vì các ông đã phỏng chiếu một Đức Giêsu uy quyền, lẫm liệt khi thể hiện quyền năng của mình để đánh đông dẹp bắc theo kiểu binh đao, nhưng đằng này, Đức Giêsu đã lật đổ những mơ ước hão huyền của các môn đệ, làm cho giấc mộng công hầu khanh tướng mà các ông đang theo đuổi tan thành mây khói khi loan báo cái chết sẽ đến với Ngài.

Cám dỗ về uy quyền, danh vọng, sung túc… mà các môn đệ thời Đức Giêsu mắc phải cũng chính là cám dỗ triền miên của mỗi chúng ta ngày nay!

Mùa Chay là mùa mời gọi chúng ta nhìn thẳng vào Thánh Giá Chúa để thấy được tình thương của Đức Giêsu, thấy được sứ vụ của cuộc đời chúng ta, khám phá ra ý nghĩa của ơn cứu độ ngang qua đau khổ, nhất là khám phá ra sự vĩ đại, sức mạnh phi thường và ơn giải thoát ở sự phục vụ trong yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết sống cho người khác như Chúa, luôn mong được phục vụ hơn là tìm sự phục vụ nơi người khác cho mình. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Con Người đến để phục vụ

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn Tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện.

Chiếc xe của Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.

Những cọng rơm trên vai Đức Hồng y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta thấy một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.

Sau này khi lên ngôi Giáo hoàng – Đức Gioan XXIII vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.

Suy niệm

Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó của Ngài lần thứ ba, các môn đệ vẫn chưa hiểu hết được mầu nhiệm thập giá, các ông vẫn hy vọng một triều đại Mêssia mà Thầy sắp sửa khai mạc với sự vinh quang của Thầy – Đấng Mêssia – Đấng Cứu Thế. Mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan nhanh chân xin trước hai chỗ danh dự trong nước Ngài: Cho ngồi bên tả và bên hữu Thầy khi vương quốc Mêssia khai mạc. Rõ ràng lời thỉnh cầu này bỏ qua mạc khải hành trình Giêrusalem, bỏ qua thập giá mà Thầy đang mạc khải.

Họ vẫn chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?”. Đức Giêsu cố gắng chuyển biến tư tưởng của họ từ “vinh quang của Đấng Mêssia” theo quan niệm con người sang “con đường dẫn đến vinh quang” là xuyên qua khổ giá qua hình ảnh chén đắng. Giacôbê và Gioan dù không hiểu điều các ông xin, nhưng vẫn thưa được. Giacôbê và Gioan đã được Chúa cải hóa tham dự vào chén đắng của Thầy khiến các ông như Thầy sau này đối diện tử nạn: Giacôbê bị vua Hêrôđê Agrippa giết năm 44 và là vị tông đồ tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (x. Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ thời hoàng đế Nêrôn, đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh. Ông thoát chết bị khổ sai tại đảo Patmos (x. Kh 1,9).

Trong ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá qua hình ảnh chén đắng và phép rửa, Chúa Giêsu dẫn từ sự mộng mơ về quyền bính vinh quang mà các ông mong muốn đến sự hiệp thông đời sống với Ngài: “Ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con…” (Mt 20,26-27). Chúa Giêsu có quyền hạn đầy đủ của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không hành xử như một vị thống trị, mà trở nên như “một người đầy tớ”. Ngài đã không như “lãnh chúa” mà là “gia nhân” (x. Ga 13,13) bằng cách rửa chân cho các môn đệ vào chiều thứ Năm tuần thánh và dạy bài học phục vụ cho các môn đệ. Cho nên, người môn đệ Đức Giêsu được chọn để phục vụ anh em theo lời giảng dạy và mẫu gương của chính Thầy – Đức Giêsu. Ngài đã khẳng định bổn phận phục vụ dựa trên nền tảng là lối cư xử của Ngài: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Cuộc sống là hành trình thập giá, như hai môn đệ Gioan và Giacôbê, chúng ta được mời gọi uống chén đắng xuyên qua những đối diện mọi gian nan khốn khó của cuộc đời… Là gánh vác cuộc đời như Chúa Giêsu vác thập giá là chén đắng mà Chúa Cha trao, xuyên qua và trỗi dậy.

Ý lực sống: “Lạy Cha, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,40).

Suy Niệm 8: Tinh thần phục vụ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Gần tới lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên Giêrusalem để mừng lễ và đây là lần sau hết của đời Ngài. Trên đường đi, Chúa giáo huấn các ông, mặc dầu các ông không hiểu. Để giáo dục các ông, Ngài làm hai việc: một là loan báo cho các ông biết  Ngài sẽ bị nộp vào tay kẻ thù để hiến thân chuộc tội cho loài người; hai là dạy họ bài học phục vụ: “Ai muốn làm đầu thì hãy làm đầy tớ…” và “Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người”. Đức Giêsu cho chúng ta một mẫu gương là khiêm tốn phục vụ và hy sinh vì người khác.
  2. “Nào chúng ta lên Giêrusalem…”.

Tâm lý của các môn đệ: mặc dầu đã đi theo Chúa gần ba năm, nhưng các môn đệ cũng chưa lĩnh hội giáo lý của Ngài được bao nhiêu. Ngay sau lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ sự thương khó của Ngài: “Nào chúng ta lên Giêrusalem…Con người sẽ bị nộp cho các thượng tế. Họ sẽ lên án tử Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người  (10,32-34), các ông cũng không quan tâm lời loan báo ấy, có lẽ chẳng hiểu gì; hơn nữa đầu óc các ông còn đang mơ tưởng đến vương quốc Đức Giêsu sắp lập. Như vậy có nghĩa là vào lúc Đức Giêsu “chọn chỗ chót” thì các ông lại cố “đua nhau” chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự.

  1. “Con người đến không phải để được phục vụ…”

Câu Phúc âm này nói lên tất cả cuộc sống của Đức Giêsu: Ngài đã nhập thể làm người để phục vụ và phục vụ cho đến chết. Chẳng những Ngài đã hy sinh phục vụ, mà còn mời gọi những kẻ tin theo Ngài cũng noi gương sống phục vụ như Ngài.

Trong Tin mừng, đây là lần thứ ba Đức Giêsu nói đến con đường Thập giá mà Ngài sẽ trải qua. Nhưng cứ mỗi lần Ngài loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài, các Tông đồ đều phản ứng ngược lại: trong lần loan báo đầu tiên, Phêrô đã ngăn cản Ngài; lần thứ hai các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất; và lần này thì Giacôbê và Gioan xin được chức tước cao nhất làm cớ cho những người khác trong nhóm Mười Hai phân bì ghen tị.

  1. Cho đi để được lại…

Cho đi để được lại, đó là tính toán quá thường tình của con người. Người ta làm ơn làm phúc để được đền đáp, người ta hy sinh phục vụ để tên tuổi của mình được nhắc đến. Tiền tài, quyền bính, danh vọng là ẩn số luôn ẩn núp sau những công việc mà người ta gọi là phục vụ.

Các Tông đồ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, đã được Chúa dạy dỗ bằng lời nói và gương sáng của Ngài, thế mà các ông vẫn còn ích kỷ, vụ lợi, tham vọng; và điều đó cho thấy các ông đã từ bỏ với tính toán: cho đi để được cho lại, phục vụ để được phục vụ. Đó là tâm trạng chung của con người. Nhưng Đức Giêsu đã nêu gương phục vụ cho chúng ta, Ngài đã hoàn toàn phục vụ cách vô vị lợi. Ngài đã mang lại cho hai chữ “phục vụ” ý nghĩa đích thực của nó, đó là sống cho và sống vì người khác, sẵn sàng hy sinh quên mình vì lợi ích của người khác.

  1. Chọn con đường phục vụ nào?

Con người chúng ta trong mọi hoàn cảnh, cứ bị dẫn đến những ngã ba đường: nghĩa là trước mắt ta luôn có hai ngả mà ta phải chọn một. Hai ngả đó thường dẫn đến hai chiều khác nhau: một hướng vị kỷ và một hướng vị tha.

– Hướng vị kỷ có một sức mạnh tự nhiên lôi cuốn ta vào, nó khiến ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, hạnh phúc hay đau khổ của mình, quyền lợi hay trách nhiệm của mình. Nói chung, nó thu hút ta vào chính bản thân ta. Hầu hết mọi người, trong hầu hết mọi trường hợp, đều bị lôi cuốn vào ngả này.

– Còn hướng vị tha rất ít khi lôi cuốn ta, nhưng lương tâm ta lại thúc đẩy ta, đôi khi còn ép buộc ta bước vào. Nó đòi hỏi ta phải quên bản thân, quên những gì liên quan tới bản thân để nghĩ đến người khác, đến đám đông bên ngoài ta, đến hạnh phúc hay đau khổ của họ.

Dù đi vào hướng nào, thì sau khi đi một đoạn đường nữa, ta sẽ lại đến một ngã ba khác, cũng với hai hướng vị kỷ và vị tha trước mặt. Mỗi lần gặp ngã ba đó là mỗi lần ta phải lựa chọn hướng đi cho mình.

  1. Truyện: Một sự hy sinh tuyệt vời.

Có hai nhà doanh nghiệp du lịch vòng quanh thế giới. Họ xem được nhiều danh lam thắng cảnh, biết được nhiều lối sống của nhiều dân tộc, thấy được bao điều mới lạ. Nhưng họ nói tại Triều Tiên đã có một hình ảnh đánh động họ nhất, làm họ ghi nhớ mãi.

Một buổi sáng nọ, họ đi dạo trên đường làng, họ thấy cảnh một ông già đang kéo cầy thay trâu, đi sau cầy là một cậu bé. Họ đứng lại xem, bộ mặt ông già không có gì là buồn khổ cả. Họ xúc động, lấy máy ảnh chụp cảnh ấy. Sau đó họ đến thăm một nhà thờ và chìa bức ảnh trên cho cha sở xem. Sau khi nhìn bức ảnh cha nói:

– Vâng, đối với các ông đây là một chuyện lạ. Nhưng tôi biết rõ cha con ông ấy. Họ rất nghèo, và khi nhà thờ này khởi công xây dựng, họ muốn đóng góp vào việc xây cất. Nhưng họ không có tiền, không có lúa để bán, và mùa đông lại sắp tới họ bèn bán con bò duy nhất để lấy tiền giúp nhà thờ. Bây giờ hai cha con phải thay bò kéo cầy làm đất.

Hai người khách nhìn nhau một lát rồi một người nói:

– Thật là một sự hy sinh ngoài trí tưởng tượng! Sao cha cho phép họ làm thế?

Cha đáp:

– Họ xem đó là chuyện bình thường. Tôi đã can ngăn, nhưng họ xem việc hy sinh con bò là dâng một lễ vật cho Chúa.

Suy Niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu tự nguyện trở nên đầy tớ phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc nhân loại. Chúa mời gọi ta noi gương Chúa sống khiêm tốn, phục vụ, và hiệp thông với lễ hy sinh của Chúa trên Thánh giá.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thế giới không mấy lúc được bình an. Chiến tranh nơi này chưa kết thúc, đã xảy ra chiến tranh nơi khác: vì có những dân tộc muốn thống trị toàn thế giới, vì có những cá nhân muốn áp đặt ý mình trên mọi người. Bao nhiêu người giành giật địa vị, tranh chấp quyền lực. Bao nhiêu người tìm mọi cách ngoi lên chiếm lấy một địa vị xã hội để khỏi bị chèn ép. Bản thân con cũng khó hạ mình xuống để chịu cho người khác hơn con. Không phải chỉ có các con ông Dê-bê-đê xin chỗ nhất, cũng chẳng phải chỉ có mười môn đệ kia tức tối, mà tất cả chúng con đều như vậy.

Lạy Chúa, để làm một cuộc cách mạng, Chúa đã bắt đầu từ bản thân Chúa. Chúa để lại cho chúng con gương mẫu khiêm tốn tuyệt vời. Cả cuộc đời, Chúa đã chẳng sống cho mình, nhưng hoàn toàn quên mình để phục vụ chúng con, và hy sinh mạng sống trên Thánh giá để trở nên hy lễ cứu độ chúng con. Thánh giá Chúa muôn đời vẫn còn đó như ngọn hải đăng giữa biển đời đầy bão táp biến động.

Lạy Chúa, xin giúp con nhìn lên Chúa và bắt chước Chúa. Xin Chúa cho các nhà lãnh đạo các quốc gia biết hy sinh tận tụy phục vụ dân tộc cách vô vụ lợi. Xin cho chúng con là bậc cha mẹ đứng đầu các gia đình biết phục vụ con cái trong tinh thần quên mình, hiền hòa, cảm thông, không gắt gỏng, khó tính hoặc cứng cỏi. Xin Chúa cho các vị lãnh đạo trong Hội Thánh biết sống tinh thần hiền lành và khiêm nhường như Chúa. Và xin cho chúng con không ngần ngại hầu hạ nhau như Chúa đã từng hầu hạ chúng con. Amen.

Ghi nhớ: “Họ đã lên án tử cho Người”.

Suy Niệm 10: 

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Qua bài Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy quan niệm của Chúa Giêsu và quan niệm của các môn đệ về cuộc sống có một khoảng cách thật xa.

Với Chúa Giêsu thì cuộc sống là phục vụ và hy sinh.

Còn với các môn đệ thì chưa được như thế.

  1. Chúa bảo: “Ai muốn cầm đầu thì hãy làm đầy tớ và phục vụ mọi người”. (Mt 20,27)

Sống đối với Chúa là phục vụ. Chúa phục vụ đến quên mình, phục vụ như một người tôi tớ. “Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Còn con người thì sao ? Qua những gì được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy con người thường chỉ nghĩ đến quyền lợi, danh dự, ơn ích… Nói cách khác, chỉ nghĩ đến nhận mà không nghĩ đến cho, nghĩ đến việc được người ta phục vụ chứ chưa nghĩ đến việc phục vụ người khác.

Thánh Antôn, là giám mục của vùng Firenze nước Ý vào khoảng thế kỷ thứ 15, có kể lại một câu chuyện mà ngài đã tận mắt chứng kiến trong đời mục vụ tông đồ:

Một hôm, ngài đang đi trên đường thì Thiên Chúa cho ngài thấy có một thiên thần cứ bay lượn bên trên một ngôi nhà nghèo nàn lụp xụp. Ngài ghé vào hỏi thăm cha sở vùng này thì được biết, gia đình ấy tuy rất nghèo nhưng rất đạo đức và tốt bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Thánh Antôn động lòng thương, hiểu ra ý Chúa muốn soi sáng cho mình, ngài bèn trích quỹ từ thiện, kín đáo trợ cấp hàng tháng cho gia đình đó một số tiền vừa đủ để có vốn liếng mà chí thú làm ăn cho đỡ nghèo khổ.

Bẵng đi một thời gian, ngài lại có việc đi qua vùng ấy. Ngài chợt giật mình trông thấy một tên quỉ xấu xa đang bay lượn trên mái một ngôi nhà khang trang đẹp đẽ nhất vùng. Ngài lại ghé vào cha sở để hỏi thăm, thì hóa ra đó chính là ngôi nhà của gia đình mà ngài đã từng trợ cấp lâu nay. Ngài biết họ đã cố gắng ăn nên làm ra, nhưng dần dần, vì tham lam, họ đã học đòi những thủ đoạn mánh khóe bất lương để làm giàu nhanh chóng, đời sống họ hoàn toàn vô đạo đức, trở nên ích kỷ và độc ác. Hiện tại họ lại còn thói ăn chơi trụy lạc.

Vâng! Khi có tiền có bạc con người ta dễ sinh ra ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình chứ không để ý đến người khác.

Mẹ Têrêsa Calcutta có lần đã nói: “Thế giới thiếu vắng đức tin vì có quá nhiều ích kỷ, quá nhiều cái tôi. Để sống đức tin chân thật, lòng người phải quảng đại cho đi”.

  1. Chúa đã phục vụ, phục vụ đến quên mình. “Con Người đến để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Có lần mẹ Têrêsa nói với các chị em trong dòng của mẹ “Tình yêu đòi hỏi hy sinh. Đừng sợ yêu thương đến độ phải hy sinh, tới mức phải nhức nhối”.

Vâng, hãy tập hy sinh để được nên giống Chúa.

Trong căn nhà nhỏ ở một vùng ngoại ô, có hai vợ chồng nọ đã luống tuổi. Họ từng trải qua những ngày tháng bên nhau đầy yêu thương và yên bình. Niềm vui chung của họ là cùng chăm sóc một vườn dưa chuột xanh tốt sau nhà. Ông cụ chăm sóc vườn dưa rất cẩn thận, hết dậy sớm tưới nước lại bỏ công bắt sâu, nhổ cỏ. Những trái dưa chuột ngon nhất sẽ được hái để bà cụ muối dưa – bởi đó là thói quen của bà từ rất lâu. Mùa đông tới, khi vụ thu hoạch dưa chuột đã hết, ông cụ lại nghiên cứu các bảng danh sách giới thiệu hạt giống để đặt mua loại tốt nhất. Xuân về, các con của ông bà sống gần đấy giúp họ xới đất, gieo hạt. Bà cụ lại tìm đọc các sách nấu ăn để học hỏi thêm những bí quyết làm dưa chuột muối. Trong mắt mọi người, ông bà là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Họ sống thân thiện, gần gũi với những người chung quanh. Bất cứ vị khách nào đến chơi cũng được ông bà tặng một bình dưa chuột muối mang về.

Nhưng một ngày kia, ông cụ qua đời. Mùa xuân năm đó, tất cả con cái tụ họp bên mẹ mình và nói:

– Chúng con biết mẹ rất thích làm dưa chuột muối, nên chúng con sẽ thay cha tiếp tục đặt mua hạt giống, sẽ trồng và chăm sóc dưa chuột cho mẹ.

Người mẹ mỉm cười:

– Cảm ơn các con, các con không cần trồng dưa nữa đâu. Thật ra thì mẹ không thích ăn dưa muối nhưng vì bố các con thích trồng dưa chuột nên mẹ muối thôi.

Những người con ngỡ ngàng. Trước khi cha mất, ông từng kể với họ rằng ông không hề thích trồng dưa chuột. Ông làm điều đó chỉ vì bà thích trổ tài muối dưa mà thôi.

Vì muốn đẹp lòng người bạn đời của mình, họ chấp nhận làm những điều mình không hề thích. Họ sống vì người khác, đến mức quên cả sở thích riêng của mình.

Lạy Chúa, xưa Chúa đã vì chúng con mà xuống thế làm người. Xin dạy chúng con biết yêu thương. Amen.

Thứ năm sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 16, 19-31

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy.

Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: “Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được”.

Người đó lại nói: “Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này”. Abraham đáp rằng: “Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài”. Người đó thưa: “Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải”. Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu”.

SUY NIỆM 1: Có một vực thẳm

Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới

còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.

Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất.

Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu

cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh

cho cả thế giới trong một thời gian dài.

Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô,

chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.

Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị,

giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.

Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực.

Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc.

Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày,

vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.

Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô,

nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời.

Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín.

Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng.

Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.

Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em.

Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.

Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được.

Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.

Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau

là do chính con người đã tạo ra từ đời này.

Ông nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai,

nhưng vì ông không bị sốc chút nào

trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.

Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.

Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo,

nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.

Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công,

và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.

Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều,

nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.

Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.

Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.

Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm:

Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ,

bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.

Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác:

giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng,

giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.

Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.

Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.

Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải,

để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô

nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm…

Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta

cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.

Cầu nguyện:

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công

chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm

về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: GIẦU VÀ NGHÈO

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ai giầu ai nghèo? Tùy cách nhìn và tầm nhìn. Giê-rê-mi-a có một cách nhìn và một tầm nhìn xa rộng khi cho biết ai tin ở người đời sẽ nghèo nàn và mau tàn lụi. Như bụi cây trong hoang địa khô cằn tàn tạ. Chỉ người tin tưởng ở Thiên Chúa mới trường tồn và phong phú. Như cây trồng bên dòng nước xanh tươi không ngừng trổ sinh hoa trái. Giầu nghèo đời này và đời sau thật khác biệt.

Chỉ say mê của cải đời này thì thật nghèo nàn. Vì cơm áo gạo tiền không phải là tất cả. Tài nguyên của vũ trụ còn mênh mông không thể đo lường. Ông phú hộ khi bước vào đời sau mới thấy mình trắng tay. La-za-rô nghèo ở đời này nên chỉ trông cậy kho tàng thiêng liêng. Nhưng khi bước vào đời sau ông thật giầu có. Kho tàng thiêng liêng vô tận. Quí giá nhất là được hạnh phúc với Chúa.

Chỉ đóng kín vào bản thân thì thật chật hẹp. Con người là tương giao. Càng mở rộng càng phong phú. Ông phú hộ chỉ nhìn vào bản thân, chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ chăm chút cho bản thân. Khi chết mới thấy mình cô đơn. La-za-rô không có gì nên biết mở lòng ra. Nên khi chết ông được nằm trong lòng thương mến của mọi người, của Chúa và các thánh. Ông phong phú biết bao.

Chỉ tin vào người đời thì thật dại dột. Vì người đời giới hạn. Dù thành tâm nhưng cũng chẳng hiểu biết mọi lẽ của vũ trụ. Người đời cũng yếu ớt mong manh, mau tàn. Cậy dựa vào người đời khác nào tựa vào thân cây mục nát. Gẫy đổ sẽ kéo theo con người rơi xuống vực thẳm. Ông phú hộ rơi xuống vực sâu vô tận không có thể thoát ra. La-za-rô không tìm gì được ở nơi người đời. Ông chỉ tin vào Thiên Chúa. Nên ông có chỗ dựa vững chắc. Đời đời.

Chỉ nhìn vào mặt đất thì thật thiển cận. Còn trời cao. Còn Thiên Chúa. Còn đời sau. Ông phú hộ khi chết rồi mới biết ngước nhìn lên. Nhưng đã muộn. Chỉ còn hối tiếc. La-za-rô không mong gì dưới đất. Lòng trí ông hướng lên trời. Tầm nhìn ông mở rộng. Vì thế khi chết ông vươn cao bay xa. Ông đạt đến viên mãn.

Mùa Chay hãy biết xác định lại các bậc thang giá trị để chọn lựa đúng đắn. Chọn lựa đúng đắn theo Chúa giúp ta được phong phú, được giầu sang, được vững chắc và viên mãn trong hạnh phúc.

SUY NIỆM 3: Người giầu có và Ladarô.

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng một lần nọ đặt chân đến Ethiopi, Mẹ đã ngỏ ý với một vị Bộ trưởng để xin một khu đất xây bệnh viện cho những người cùng khốn nhất. Ông Bộ trưởng trả lời: “Thưa bà, việc săn sóc bệnh nhân và người nghèo là trách nhiệm của chính phủ, không một cá nhân hay đoàn thể nào có thể gánh được công việc này”. Mẹ liền nói: “Nhưng tôi thấy chính phủ các ông đã không chu toàn được trách nhiệm ấy; vả, việc săn sóc người nghèo khổ là trách nhiệm của mỗi người”. Và ông Bộ trưởng đã phải chấp nhận đề nghị của Mẹ.

Câu trả lời và việc làm của Mẹ Têrêxa là một minh hoạ cho giáo huấn của Chúa Giêsu về người giầu có và Ladarô nghèo khổ. Quan tâm đến người anh em, nhất là những người cùng khổ là một bổn phận, một bổn phận mà Chúa Giêsu cũng khẳng định trong diễn từ về ngày chung thẩm. Nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra rằng số phận mai hậu của họ gắn liền với một bát nước lã, một chén cơm họ chia sẻ cho một kẻ vô danh.

Dửng dưng trước khổ đau của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người giầu có trong Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu không nói đến nguồn gốc của sự giầu có mà người phú hộ đang hưởng. Ngài cũng không nói đến một hành động gian ác nào của ông. Thế nhưng, sự dửng dưng đến độ mù loà của ông trước một người hành khất lê lết trước cửa nhà ông, một thái độ như thế cũng là một tội ác rồi. Mỗi người đều có trách nhiệm về người anh em, nhất là người nghèo khổ trong xã hội. Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay có lẽ cũng gợi lại câu hỏi Thiên Chúa đặt ra cho Cain sau khi Cain giết Abel em mình: “Cain, em ngươi đâu?”. Cain trả lời: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”. Câu trả lời ấy có lẽ cũng là thái độ của chúng ta khi đứng trước nỗi khổ đau của người khác. Thiên Chúa đã tạo dựng nhân loại như một gia đình, trong đó tất cả chúng ta đều có bổn phận và trách nhiệm đối với nhau.

Mùa Chay, mùa trở về với Chúa và cũng là mùa trở về với anh em. Nhận ra mỗi người, nhất là người cùng khổ như người anh em con cùng một cha, đó là lời mời gọi mà Cha trên trời luôn ngỏ với chúng ta, và đó cũng là thông hành để chúng ta về gặp gỡ Cha trên trời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Hãy thật lòng hoán cải

Chúa Giêsu đã dùng một câu chuyện dài để minh họa mối tương quan đảo ngược giữa cuộc sống đời này với cuộc sống đời sau, nhằm mục đích kêu gọi người Do Thái sống theo lời của tổ phụ và các ngôn sứ được ghi lại trong sách Thánh để được hưởng hạnh phúc mai sau. Khi nghe phần đầu của câu chuyện về ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó trên đây, chắc chắn người Do Thái sẽ nhớ đến lời Chúa Giêsu dạy trong bài giảng về các Mối Phúc Thật, cụ thể là những mối phúc dành cho kẻ nghèo khó, đói khát và khóc lóc. Từ hình ảnh của ông nhà giàu trong âm phủ và anh Ladarô trong lòng tổ phụ Abraham, Chúa Giêsu đưa các thính giả trở về với cuộc sống thực tại ấy. Mượn lời ông Abraham, Chúa Giêsu trách cứ lối sống ương ngạnh của của họ, vì họ không chịu tin vào giáo huấn của ông Môsê và các tiên tri. Họ cứng đầu như thế, thì cho dù người chết sống lại thuyết phục họ, họ cũng sẽ bỏ ngoài tai.

Hạnh phúc đời sau thì ai cũng muốn được hưởng, nhưng gian khổ đời này thì chẳng ai muốn trải qua. Bởi thế, chúng ta thường tìm giải pháp có lợi cho chúng ta hơn hết, chúng ta tìm cách sống như thế nào để được cả đôi đàng, chúng ta trở thành người quá khôn ngoan và cũng quá tham lam, muốn được hưởng hạnh phúc tạm bợ đời này lẫn hạnh phúc đời sau. Lối sống bắt cá hai tay như thế dần dần dẫn chúng ta tới chỗ nhượng bộ hoặc thỏa hiệp với các nhu cầu vật chất của mình, mà coi nhẹ các nhu cầu tâm tình sâu thẳm, đáng ra phải được đáp ứng trước tiên. Cuộc sống thiêng liêng của chúng ta vì thế mà nghèo nàn đi khi đời sống vật chất của chúng ta có thể dư dật ra. Các giá trị Tin Mừng dần dà bị chúng ta coi nhẹ trong khi những giá trị trần tục lại được chúng ta càng lúc càng tôn vinh. Cán cân các giá trị cứ thế mà lệch dần đi. Chúng ta trở nên như người giàu có trong dụ ngôn trên đây, chúng ta yên tâm với những gì mình tích góp được, những gì mình sở hữu trong tay. Mãi lo lắng cho mình, lòng chúng ta đông đặc lại, chúng ta không còn quan tâm đến người chung quanh, chúng ta tự thỏa mãn với thế giới khép kín của mình. Thế rồi, có những lúc nào đó, khi lâm bịnh tật, khi gặp tai ương, chúng ta hốt hoảng nhận ra rằng cuộc đời trần thế chỉ là phù vân, chúng ta hối hận ăn năn, chúng ta hứa với Chúa là nếu Chúa giúp chúng ta ra khỏi nguy nan, chúng ta sẽ làm lại tất cả. Thế nhưng ai trong chúng ta đã giữ trọn lời hứa với Chúa? Hết tai ương hoạn nạn, chúng ta có thể quay về với nếp sống cũ. Qua cơn khốn đốn, chúng ta lại chễm chệ leo lên chiếc ghế trang trọng của mình.

Lạy Chúa Giêsu, con thật cứng đầu chẳng kém gì những người Do Thái thời xưa, có lẽ con còn đáng trách hơn họ nữa, vì con chẳng những không chịu tin lời Môsê và các ngôn sứ, mà ngay cả Lời Chúa dạy bảo con cũng chẳng chịu nghe theo cho tới nơi tới chốn. Trong mùa Chay này, xin Chúa giúp con thật lòng hoán cải và sống trong lòng Tin Mừng để khỏi rơi vào tình trạng bất hạnh như ông nhà giàu trong dụ ngôn được nhắc lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Cần có Thiên Chúa

“Có một ông nhà giầu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giầu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng Áp-ra-ham. Ông nhà giầu cũng chết và được đem đi chôn.” (Lc. 16, 19-22)

1) Câu chuyện Tin mừng đã đạt tới tuyệt đỉnh, nó trình bày cho ta thấy một cảnh bi thảm sống động về những kẻ giàu có ích kỷ bị chúc dữ ghê sợ, những kẻ giàu sang này ăn chơi thỏa thích, dưới những lời van xin thảm thiết của những kẻ bần cùng đói khổ than khóc. Đây là bản văn nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ giàu và an ủi người nghèo khổ.

La-gia-rô có nghĩa là người nghèo khổ được Thiên Chúa cứu giúp. Anh là một trong những kẻ nghèo khổ biết nhẫn nại chịu đựng cảnh khốn cùng và đầy lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ chỉ có thể kiên nhẫn chịu đựng cuộc sống tối tăm của họ nhờ họ cậy trông vào Thiên Chúa. La-gia-rô là một trong số họ được lời hứa của Thiên Chúa an ủi như lời Thánh vịnh và các ngôn sứ nói, là một trong những người được Tám Mối Phúc Thật chúc mừng.

Người phú hộ sống không màng chi đến Thiên Chúa. Ông có tất cả rồi, còn cần chi đến Thiên Chúa? Ông không thấy Thiên Chúa, ông không thấy kẻ khốn khổ. Ông hoàn toàn giàu có và sống dư đầy, ông không chống lại Thiên Chúa, ông không đàn áp kẻ nghèo. Ông chỉ mù thôi, mù đối với Thiên Chúa và những người nghèo khổ, mù đối với Mô-sê và những ngôn sứ.

2) Câu chuyện nhấn mạnh đến đời sau cái chết. Cả hai đều chết, cả người nghèo lẫn người giàu hoàn toàn chết như nhau. Nhưng có khác nhau: Người giàu được đưa chôn long trọng xôm trò. Người nghèo không thấy nói được an táng chi cả, phải chăng nó không đáng được nói tới. Nhưng người nghèo lại được các thiên thần đón rước.

Người giàu phải ở chốn cực hình. La-gia-rô được ngồi bàn tiệc nước trời, trong lòng Áp-ra-ham, nơi hạnh phúc vinh quang.

3) Nội dung Kinh thánh là chính Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại. Ai biết nghe và sống theo lời Đức Giê-su, sẽ không bị số phận như kẻ phú hộ đã bị phạt. Hình phạt được nói rõ trong bản văn Tin mừng này, cho biết chắc có sự chết và sống lại, có hình phạt và phần thưởng đời sau.

J.M

SUY NIỆM 6: DỬNG DƯNG VÔ CẢM LÀ TỘI ÁC! (Lc 16, 19 – 31)

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại một câu chuyện thật ấn tượng rằng: có hai bạn trẻ nghe biết các sơ trong dòng của mẹ hàng ngày nấu ăn cho 7 ngàn người, và cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Vì thế, họ đã tặng cho mẹ một số tiền lớn để giúp người nghèo. Khi được hỏi về nguồn gốc số tiền lớn mà các em dâng tặng, các em trả lời:

“Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều. Sau cùng, chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình, và chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí cho đám cưới và mua tặng phẩm để cho những người không được may mắn như chúng con”. Khi thấy thế, mẹ phân vân! Hai bạn nói tiếp:

“Vì chúng con yêu nhau, chúng con muốn có cái gì đặc biệt, đẹp đẽ cho nhau. Vì thế, chúng con muốn tặng cho nhau một món quà cưới thật đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của mình bằng một hy sinh mà cả hai đều dự phần vào”.

Ôi một nghĩa cử anh hùng! Vì ở bên Ấn Độ, đám cưới mà không có quần áo cưới cũng như tiệc cưới là một điều nhục nhã và gây tủi hổ cho cả hai gia đình, đàng trai cũng như đàng gái.

Câu chuyện trên đây ngược hẳn với câu chuyện của nhà phú hộ giàu có và Lazarô nghèo khổ!

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: giàu không phải là tội, nhưng nó chỉ là cạm bẫy nguy hiểm dễ dẫn đến tội nếu không có lòng bác ái. Ông nhà giàu trong bài Tin Mừng hôm nay đã rơi vào tình trạng tội khi ông vô cảm với người nghèo ngay ở cổng nhà ông. Vì thế, ông đáng phải sa hỏa ngục vì tiền bạc và sự sung túc đã làm cho mắt ông mù lòa, trái tim se thắt, tấm lòng trai cứng và sự dửng dưng đã trở thành tội ác và mất hạnh phúc đời đời…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có trách nhiệm liên đới với nhau, nhất là với người nghèo, người cô thế, cô thân, không nơi nương tựa… Không bao giờ chúng ta được để cho chủ trương: “Sống chết mặc bay” thường trực trong tâm hồn của mình.

Có thế, chúng ta mới xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa và đáng được Người cứu chuộc.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương những người nghèo khổ hơn chúng con bằng tình yêu vô vị lợi như Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ để cho tư tưởng phân biệt giàu nghèo, giai cấp, địa vị ngự trị trong tâm hồn chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Ông nhà giàu vô cảm và Ladarô

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Vào buổi sáng ngày 10.8.2012, tại ngã tư đường Tân Hoa giao với đường Tây Hoài Hải ở thành phố Thượng Hải, một cụ ông được phát hiện nằm ngất xỉu trên đường, đầu chảy nhiều máu do va đập sau cú ngã. Một vài người chứng kiến đầu tiên bấm số 120 để gọi xe cấp cứu… rồi thôi. Khi chưa có xe đến kịp để đưa ông cụ đi, người qua lại trên đường chỉ dửng dưng nhìn rồi bỏ mặc hoặc dừng lại chỉ trỏ. Họ tuyệt nhiên không có một động tác sơ cứu nào, thậm chí đến đỡ ông cụ dậy.

Một người phụ nữ nước ngoài đi ngang thấy sự việc trên. Ngạc nhiên trước thái độ vô cảm của những người chứng kiến, cô chạy đến nâng đầu ông cụ lên đặt trên một tấm khăn mềm, vừa khóc vừa khẩn nài mọi người xung quanh mau gọi xe cứu thương đến. Sự việc chỉ kết thúc khi cô này đưa tiền và thúc họ gọi xe cứu thương lần nữa. Nửa tiếng sau, ông cụ mới được đưa đến bệnh viện gần đó.

…Ông cụ bị nạn họ Tiền, 87 tuổi, được bệnh viện chẩn đoán thuyên tắc mạch máu não đột ngột khiến ông chóng mặt và ngã khuỵu trên đường. May mắn được cấp cứu kịp nên ông đã phục hồi… (Theo Tuổi trẻ Mobile)

Suy niệm

Người phú hộ giàu có sung túc với vật chất sống bên cạnh người anh em Ladarô nghèo khổ, bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy, nhưng người phú hộ vẫn dửng dưng coi như không có gì. Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng, nhưng cánh cổng vẫn thường khép kín, khiến hai người tuy rất gần nhưng lại rất xa nhau. Chúa Giêsu nhấn mạnh: Người phú hộ bị hình phạt vì ông vô cảm không để ý và quan tâm tới người anh em khốn khổ Ladarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống.

Cánh cửa đóng kín của nhà phú hộ tượng trưng cho tấm lòng của con người luôn đóng kín trước đau khổ của anh chị em chung quanh. Sự giàu có cộng với vô cảm khiến cho con người khép kín lòng mình với Thiên Chúa là nguồn suối hướng về anh chị em, họ bằng lòng và khép kín hưởng thụ những của cải vật chất và những lạc thú trần gian mà quên đi Thiên Chúa với đời sống vĩnh cửu. Trong tương quan với tha nhân, sự giàu có và vô cảm làm khép kín lòng mình với những người anh em: Người ta không nhìn thấy người nghèo, người khổ ngay cổng nhà mình.

Đức Giêsu khẳng định nguy cơ của người giàu và quan tâm “đặc quyền của những người nghèo” qua lời của tổ phụ Abraham so sánh về Ladarô và người phú hộ: “Suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi, còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ” (Lc 16, 25). Bài ca Ngợi khen (Magnificat) nói rất rõ: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53).

Trước những Ladarô của thời đại hôm nay là những con người đói khổ, tuyệt vọng ở khắp mọi nơi, chúng ta sống theo lời giáo huấn của Giáo hội: “Mỗi người phải coi người đồng loại – không trừ ai như “cái tôi thứ hai”, cho nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một đời sống xứng đáng, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đã không săn sóc tới Ladarô bất hạnh” (Hiến chế Mục vụ, số 27).

Mong rằng trái tim của tôi, của bạn, không đóng kín, và trở nên vô cảm trước nhu cầu và sự khốn khổ của anh em, mà luôn rộng mở lòng nhân ái chia sẻ.

Ý lực sống: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).

Suy Niệm 8: Người giầu có và người nghèo khó

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Hôm nay Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn người phù hộ và Lazarô nghèo khó. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cho chúng ta biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên mãn hay bị luận phạt muôn đời tùy theo họ biết yêu thương tha nhân hay không. Ngài vạch ra cho chúng ta con đường dẫn tới ơn cứu độ: biết nghe theo lời hướng dẫn của Maisen, các tiên tri, đặc biệt là Lời Chúa để sám hối, hoán cải và yêu thương mọi người, nhất là những anh chị em đau khổ. Thiên đàng không dành cho một mình chúng ta, chúng ta chỉ có thể tiến vào cùng với anh chị em trong tình yêu thương.
  2. Mở đầu dụ ngôn, chúng ta thấy hai con người với hai hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược xuất hiện. Một bên đại diện cho phú quí giầu sang, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn bên kia là nghèo khổ, bệnh hoạn, dơ dáy bẩn thỉu. Một bên là thế giới của “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình” và một bên là thế giới bệnh hoạn nghèo túng đến thảm thương, thế giới của “mụn nhọt ghẻ lở đầy mình” và là thế giới của những ước ao rất ư bình dị đáng thương “thèm được những thứ trên bàn ăn rơi xuống ăn cho no”. Cả hai thế giới ấy đều được khép lại với cái cửa là sự chết, nhưng cũng đồng thời mở ra một thế giới mới với hai số phận, hai cảnh đời hoàn toàn trái ngược nhau.
  3. Người phú hộ trong dụ ngôn không làm điều gì gian ác, không lỗi đức công bằng, không ức hiếp ai, không phạm gì đến Lazarô cả, vậy tại sao ông ta lại bị sa vào hỏa ngục? Tội ông ở chỗ nào? Thực ra, ông không phạm một tội ác nào mà chỉ có tội “hững hờ, dửng dưng” trước đau khổ của người khác. Ông không phạm tội một cách tích cực mà phạm tội một cách tiêu cực, đó là “tội thiếu sót” như chúng ta đọc trong kinh Cáo mình. Ông chỉ biết hưởng thụ, yến tiệc linh đình, ca hát suốt ngày đêm mà không màng gì đến người nghèo khó Lazarô nằm ngay cổng nhà ông, muốn ăn những hạt cơm rơi trên bàn ăn của ông mà cũng không được.
  4. Người ta thường nói: “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”: lành dữ đều có thưởng phạt, cao bay xa chạy cũng không thể thoát được. Cái chết đã phân chia hai người thành hai thế giới đối nghịch. Người phú hộ bị phạt, Lazarô được thưởng.  Bài học Chúa dạy ta hôm nay là phải biết quản lý tài sản của Chúa “cho nên” vì chúng ta không phải là chủ mà chỉ là quản lý những gì Chúa đã thương ban. Phải có tinh thần liên đới và bác ái, phải biết chia sẻ với người đau khổ hầu kiếm được nhiều bạn hữu để “họ sẽ đón rước các con vào an nghỉ đời đời” Lc 16,9).
  5. Chắc chắn cảnh giầu nghèo là điều không thể tránh được. Nhưng trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta cách giải quyết: người giầu luôn sẵn có kẻ nghèo bên cạnh để có dịp thực hành giới răn trọng nhất hầu được phần thưởng Chúa ban. Tiền của dư thừa là một nguy hiểm  cho những ai không có lòng mến Chúa, nhưng người có lòng mến Chúa thật thì sẽ biết sử dụng tiền của Chúa ban để làm ích cho mình và cho người khác nữa. Chúng ta dễ hiểu tại sao người giầu bị Chúa phạt khổ cực, còn người nghèo lại được Chúa thương. Bởi vì tuy nghèo khổ, nhưng người nghèo vẫn một lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa, trong khi đó người giầu có lại khép kín tâm hồn, không biết liên đới chia sẻ với người khác. Như thế, chúng ta thấy thái độ lãnh đạm dửng dưng trước đau khổ của người khác cũng là một trọng tội (Mỗi ngày một tin vui).
  6. Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã lưu ý những người con tinh thần của mình như sau:

“Của cải chôn vùi con, nếu con đội nó lên đầu. Của cải làm bệ chân con nếu con đứng trên nó. Không có của mà tham vẫn chưa phải là nghèo khó. Có của mà không dính bén vẫn có thể có lòng khó nghèo thật sự. Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Không phải là của con, nhưng là của Chúa trao cho con sử dụng. Để có tinh thần nghèo khó và nhất là sống tinh thần nghèo khó, cần có tràn đầy tình yêu Chúa. Con hãy về bán tất cả những gì con có, bố thí cho người nghèo, rồi đến đây theo Chúa. Chàng thanh niên giầu có không thể đáp lại lời mời gọi sống khó nghèo trên bước đường theo Chúa, nên đã buồn sầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của mà không có nhiều tình yêu Chúa”.

  1. Truyện: Chúa đến thăm bà lão.

Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.

Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn  ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.

Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.

Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và ngủ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.

Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.

Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: “Hôm nay ta đến với con 3 lần và cả ba lần con đều đuổi Ta” (Góp nhặt).

Suy Niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tiêu chuẩn để được vào Quê Trời không phải ở chỗ giàu hay nghèo, nhưng hệ tại việc sống bác ái với anh chị em.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa là Cha yêu thương, Chúa chẳng loại bỏ ai ra khỏi nhà Cha. Nhà Cha luôn rộng mở đón mọi thành phần, mọi giới. Nhưng quyết định số phận chung cuộc của đời con tùy thuộc tự do của con. Xin cho con biết đi trên đường yêu thương, yêu Chúa và thương mọi người, để con tới được bến bờ yêu thương là Quê Trời, nơi Chúa là tình yêu ngự trị. Xin đừng để con đi trên đường bất công hận thù, kẻo con phải đi tới bến bờ thù hận mà người ta thường gọi là hỏa ngục. Chúa cho con thấy ông La-da-rô được hưởng nơi lòng Tổ Phụ Áp-ra-ham, nơi vĩnh cửu, không phải vì ông nghèo cho bằng vì ông nghèo mà vẫn không oán hận ai, nghèo mà vẫn giữ được lòng ngay thẳng: chỉ xin chứ không gian tham.

Nhà phú hộ kia bị trầm luân không phải do giàu có. Giàu có đâu phải là tội. Số phận đời đời của ông là kết quả của một đời ích kỷ. Sống trong nhung lụa dư thừa mà không nhìn thấy người anh em thiếu thốn quanh mình, đó là trọng tội của ông.

Lạy Chúa, nếu con gặp cảnh nghèo, xin cho con đừng vì nghèo mà gian tham, cáu kỉnh với mọi người. Xin giữ đôi tay con luôn trung thực, xin giữ môi miệng con đừng nói lời gian dối. Xin cho con luôn vui tươi dù giữa nghịch cảnh trong cuộc sống. Xin cho con luôn quảng đại cả khi con nghèo túng như bà góa thành Xarépta quảng đại với tiên tri Êlia trong Cựu ước.

Và Lạy Chúa, nếu con được đủ ăn đủ mặc, xin cho con đừng ích kỷ mà quên bao anh chị em đang khổ cực quanh con. Xin mở to mắt con, mở rộng tay con, mở toang lòng con, để con biết chia sẻ. Xin đừng để con vì giàu mà tự mãn xa cách, cao ngạo với mọi người. Xin cho con biết tạ ơn, khiêm tốn và quảng đại. Amen.

Ghi nhớ: “Con đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ”.

Suy Niệm 10: 

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

  1. Bài trích sách Giêrêmia nói đến hai hạng người: hạng tin tưởng cậy dựa vào những giá trị đời này, và hạng đặt niềm cậy trông nơi Thiên Chúa. Giêrêmia nói khốn cho hạng thứ nhất và phục cho hạng thứ hai.
  2. Trong bài trích Phúc Âm, người phú hộ thuộc hạng thứ nhất. Khi ông chết thì những chỗ ông cậy dựa cũng tiêu tan luôn cho nên ông rơi vào cảnh rất khốn khổ. Ladarô là đại biểu của hạng thứ hai nên sau khi chết đã được hưởng hạnh phúc trong vòng tay Thiên Chúa (qua hình ảnh tổ phụ Abraham).

Dụ ngôn này còn muốn gởi một lời nhắn nhủ đến hạng thứ nhất: họ nên sớm thấy sai lầm của họ khi đặt niềm cậy trông vào những giá trị trần thế, để kịp thời quay về trông cậy vào Chúa. Đừng chờ đến khi chết, thấy rõ đâu là chỗ dựa vững chắc rồi mới sám hối, vì tới lúc đó, mọi việc đều không thể đảo ngược được.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Đã biết tiền bạc, của cải và nói chung những giá trị thế gian là không bền, thế nhưng nhiều người vẫn cứ cậy dựa vào chúng. Đó chính là cái ngu dại của con người. Nếu nói theo từ ngữ của ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1, đó chính là cái “khốn nạn” của con người.
  2. “Abraham nói lại: giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm”…: Thiên Chúa không tạo dựng thẳm ngăn cách Ngài với con người. Nhưng chính con người tự đào vực thẳm ấy, bằng nhiều cách:

– Bằng ích kỷ không giúp đỡ một người anh em đang cần giúp trong khi chúng ta có thể giúp (như ông nhà giàu đối với Ladarô).

– Bằng thái độ bỏ Chúa đề hoàn toàn cậy dựa vào những giá trị trần gian.

  1. Lạy Thiên Chúa của Abraham, con đã hiểu rằng lòng thương xót kẻ khốn khổ sẽ đặt con bên cạnh Ladarô trong lòng Chúa, trái lại sự ích kỷ sẽ đẩy con xuống vực thẳm chung với người phú hộ. Chúa biết con muốn chọn phía nào rồi, nhưng xin giúp con.
  2. “Dửng dưng trước đau khổ của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay”. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
  3. Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.

Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.

Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì ? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.

Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. ”Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.

Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.

Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: ”Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta”. (Góp nhặt).

Suy Niệm 11: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Đã biết tiền bạc, của cải nói chung là những giá trị không bền, thế nhưng, nhiều người vẫn cứ cậy dựa vào chúng. Đó chính là cái ngu dại của con người.

Một ngày nọ, vua Salomon bỗng nảy ra ý muốn, muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình trước mặt mọi người. Vua nói:

– Này Benaiah, trong vòng 6 tháng, ta muốn khanh mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ hội.

Benaiah trả lời:

– Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thì thưa đức vua, thần sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt ?

Nhà vua bảo:

– Nó phải có sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn. Và nếu ai đang buồn, nhìn vào nó sẽ thấy vui.

Vua Salomon thừa biết sẽ chẳng đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.

Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn không thể tìm ra được một chiếc vòng nào như thế. Rồi chính vào đêm trước ngày lễ hội, ông lang thang đến một nơi nghèo nhất của Jêrusalem. Ông đi ngang qua chỗ người bán hàng lạc xoong với những món hàng đang được bày trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân hỏi:- Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó vào thì quên đi niềm vui sướng, và người đau khổ đeo nó vào thì quên đi nỗi buồn không ?

Người bán hàng lấy từ trên tấm bạt cũ lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ, khuôn mặt ông rạng rỡ lên một nụ cười. Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội. Vua hỏi:

– Nào ông bạn của ta, ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa ?

Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và chính vua Salomon cũng cười. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói:

– Dạ nó đây, thưa đức vua!

Khi vua Salomon đọc xong dòng chữ, người ta thấy khuôn mặt của nhà vua biến sắc. Trên chiếc vòng đó người  ta khắc dòng chữ này: “Mọi sự rốt cuộc rồi cũng qua đi”.

Chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng: tất cả những sự khôn ngoan, vương giả, quyền uy và giàu có của ông rồi sẽ qua đi. Cả ông cũng thế. Ông cũng chỉ là một thứ phù du bởi vì một ngày nào đó, ông cũng sẽ phải  trở về với cát bụi.

  1. Tội của người nhà giàu ở chỗ ông thấy những đau khổ túng cực của người khác mà không một chút mảy may thương xót quan tâm.

Mẹ Têrêsa nói: “Người nào luôn sống lệ thuộc vào đồng tiền, lúc nào cũng cũng băn khoăn lo lắng về của cải của mình, thì người đó là người thực sự nghèo khó. Ngược lại, những người biết trao ban của cải để giúp đỡ người khác, người đó mới là người thực sự giàu có thực sự. Lòng tốt làm biến đổi con người nhiều hơn là những nghiên cứu khoa học và tài hùng biện. Một khi đã nhìn thấy hình ảnh của những người anh em trong nhau, bạn nghĩ rằng chúng ta có còn cần đến xe tăng và tướng lĩnh nữa không ?”

Chúng ta hãy tập cho mình có thói quen biết quan tâm tới mọi người. Đó là con đường làm cho chúng ta được dễ trở nên giống Chúa Giêsu hơn.

Ở London, thủ đô nước Anh có một ngôi thánh đường rất nổi tiếng. Đó là nhà thờ Saint Paul. Nhà thờ này có một lối kiến trúc rất độc đáo làm cho những âm thanh vang đi rất xa. Nếu áp tai vào tường, người ta có thể nghe được một người nói từ phía bên kia mái vòm tròn, dầu chỉ là giọng nói thì thầm tâm sự.

Có một đôi thanh niên nam nữ đã mượn nơi nhà thờ này làm điểm hẹn hò: Chàng trai vốn là một người làm nghề thợ đóng giày than thở với người yêu rằng:

– Anh chưa thể tiến hành hôn lễ vì đang thất nghiệp, không có tiền để mua da và các vật liệu làm giày, thì đào đâu ra tiền để làm lễ cưới ?

Nghe tin chẳng lành ấy, cô gái chỉ biết sụt sùi khóc và cầu nguyện:

– Lạy Chúa, xin giúp chúng con có tiền để làm lễ thành hôn!

Tình cờ, một người đi ngang qua hành lang phía bên kia nghe được câu chuyện và lời cầu nguyện của họ, ông ta quyết định giúp đỡ đôi thanh niên nam nữ này. Vì thế khi họ thất thểu ra về, ông khách cũng âm thầm theo sau để dò cho biết nhà chàng trai ở đâu, rồi lập tức ông cho người mang tặng anh ấy một số da và vật liệu để làm giày. Nhờ được giúp đỡ như vậy, nên người thanh niên bắt tay ngay vào việc và chẳng bao lâu anh trở nên phái đạt và anh sung sướng cử hành hôn lễ.

Mãi mấy năm sau, hai vợ chồng này mới biết được vị ân nhân của mình là ai khi ông trở thành vị thủ tướng nổi tiếng của nước Anh. Người đó chính là ngài  William Ewart Gladstone (1809-1998).

Thứ sáu sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 21, 33-43. 45-46

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa.

Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: “Ðứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?

Các ông trả lời: “Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi”. Chúa Giêsu phán: “Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh sao:

“Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?” Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái”.

Các Thượng tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri.

SUY NIỆM 1: Sinh hoa lợi

Trong Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.

Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,

để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.

Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.

Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.

Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi

các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).

Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).

Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.

Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.

Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.

Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,

người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.

Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình

bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.

Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ

là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Ítraen trong dòng lịch sử.

Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.

Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.

Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,

không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Ítraen, mà còn của cả nhân loại.

“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.

Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).

Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22

để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).

Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,

còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.

“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).

Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.

Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,

bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.

Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.

Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do thái nữa,

nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).

Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,

trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do thái tin Đức Giêsu.

Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.

Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,

và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.

Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?

Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con thường thấy mình không có thì giờ,

nhưng đồng thời cũng thấy mình

lãng phí bao thời gian quý báu.

Nhiều khi con tự hỏi

mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.

Xin cho con biết quý trọng từng giây phút

đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.

Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,

để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.

Xin cho con luôn làm việc như Chúa:

hăng say, tận tụy và vui tươi,

vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.

Vì quá khứ thì đã qua,

và tương lai thì chưa đến,

nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.

Xin cho con thấy Chúa

lúc này đang ở đây bên con,

và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài

bằng những hành động cụ thể.

Con xin hiến dâng Chúa giây phút này

như một hy lễ,

với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.

Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại

để hiện tại đưa con vào vinh cửu của Chúa. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: ĐÁ GÓC TƯỜNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đất sét chẳng thể chống lại thợ gốm. Đất tốt là ngoan ngoãn để thợ gốm đúc nặn nên hình tượng. Những người thợ làm vườn nho bất nhân và anh em tổ phụ Giu-se là những viên đá muốn tự đặt mình lên cao. Thoát khỏi tay thợ xây. Chiếm đoạt quyền Thiên Chúa. Anh em nhà Gia-cob bán Giu-se sang Ai cập. Thợ làm vườn bất nhân giết chết người con thừa tự. Họ muốn có quyền thế. Có danh vọng. Có tiền tài. Nhưng họ trở thành xấu xa đáng ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.

Tổ phụ Giu-se và Chúa Giê-su là những viên đá bị người đời chê bỏ, giết chết. Nhưng các ngài luôn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Tuân phục Thiên Chúa. Không oán hận những kẻ làm hại mình. Vì biết mình thuộc về Thiên Chúa. Nên các ngài đã trở thành đá góc tường.

Chúa Giê-su chịu chết để đem lại sự sống cho nhân loại. Trở thành ơn cứu độ cho nhân loại. Ban sự sống cho nhân loại. Cho nhân loại được trở lại hạnh phúc làm con Thiên Chúa. Người làm cho thế giới được cứu rỗi, được hạnh phúc, được sống.

Tổ phụ Giu-se bị bán làm nô lệ, bị giam cầm bất công. Nhưng ở đâu ngài cũng vui vẻ chấp nhận số phận. Nên Thiên Chúa đặt ngài lên địa vị cao trọng. Cứu sống mọi người.

Chúng ta là ai? Có lẽ chúng ta giống anh em tổ phụ Giu-se và giống đám thợ làm vườn nho bất nhân. Thiên Chúa ban cho ta sự sống, thời giờ, trí tuệ, sức khỏe và linh hồn. Để ta sinh lợi cho Thiên Chúa. Nhưng ta chiếm đoạt tất cả để sử dụng theo ý riêng. Có khi còn dùng ơn Chúa ban để phạm tội chống lại Chúa.

Mùa Chay ta hãy biết ăn năn sám hối. Dành hết cuộc đời sống theo ý Chúa. Dành hết khả năng phục vụ Chúa và tha nhân. Ta sẽ bị cười chê trước mặt người đời. Nhưng ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Chính những con người biết từ bỏ ý riêng làm theo ý Chúa mới trở thành những người xây dựng sự sống. Sự sống sung mãn vĩnh cửu.

SUY NIỆM 3: Dụ Ngôn Tá Điền Vườn Nho

Qua dụ ngôn người làm vườn nho sát nhân, không những Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết dã man mà các Thượng tế và Biệt phái sẽ gây ra cho Ngài, nhưng Ngài còn loan báo về sự phục sinh mà Thiên Chúa quyền năng sẽ thực hiện cho Ngài. Với sự phục sinh âý, Thiên Chúa như tuyên bố rằng tình yêu mạnh hơn sự chết, yếu đuối đã trở thành sức mạnh, thất bại biến thành khơi nguồn của ân ban. Chúa Giêsu đã gói ghém tất cả các mạc khải ấy trong câu trích từ Tv 118: “Chính viên đá thợ xây loại bỏ, đã trở nên viên đá góc tường”. Cái bị loại bỏ đã trở thành chuẩn mực, cái yếu đuối đã trở thành sức mạnh, cái điên dại đã trở thành lẽ khôn ngoan, cái chết đã trở thành cửa ngõ và khởi đầu nguồn sống mới.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Màu tím của Mùa Chay có lẽ không nên phủ lên khuôn mặt chúng ta lớp khăn tang của buồn sầu, thiểu não; trái lại, việc suy niệm cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu, việc chay tịnh trong thể xác và tâm hồn phải hướng chúng ta đến sự phục sinh của Chúa Kitô. Cuộc Tử nạn của Ngài không phải là con đường hầm không có lối thoát, nhưng ở cuối con đường ấy là nguồn sáng chan hoà của phục sinh. Đó cũng phải là ánh sáng chiếu dọi vào những suy niệm của chúng ta.

Cũng như thánh Phaolô, chúng ta cũng có thể góp phần bổ túc những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Chúa Kitô. Những mất mát, thua thiệt, những thất bại khổ đau trong cuộc sống đều là những đóng góp của chúng ta với điều kiện chúng ta biết đón nhận chúng với tinh thần phó thác của Chúa Giêsu, biết nhìn vào đó như những viên đá để Thiên Chúa biến thành viên đá góc xây dựng Giáo hội Chúa Kitô.

Suy tôn Thánh giá Chúa Kitô trong Mùa Chay, xin cho chúng ta biết nhìn lên ánh sáng Phục sinh, để từ đó nhận ra được ý nghĩa và giá trị của đau khổ trong cuộc sống chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Thay Ðổi Hướng Ði

Ðối với người Israel, vườn nho là một hình ảnh rất quen thuộc. Các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Edêkiel thường dùng hình ảnh này để ám chỉ dân Israel được Thiên Chúa tuyển chọn và chăm sóc để trở thành dân riêng của Người. Chúa Giêsu cố ý đưa hình ảnh quen thuộc ấy vào trong phần mở đầu của dụ ngôn trên đây. Cách diễn tả của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho người nghe nhớ đến lời ngôn sứ Isaia nói về sự bất trung của dân Israel. Cách mở đầu bài giảng như thế khiến cho các thượng tế và kỳ mục phải ở trong tư thế chuẩn bị đối phó, bởi vì họ đang là những nhà lãnh đạo của dân Israel, đang quản lý vườn nho của Thiên Chúa. Và sau phần mở đầu, Chúa Giêsu tấn công ngay vào vị thế đó của họ. Chúa gọi họ là những tá điền, mà lại là những tá điền bất nhân bất nghĩa. Người nói thẳng với họ: “Tôi nói cho các ông hay, Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa mà ban cho một dân khác với mục đích làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.”

Thoạt nghe dụ ngôn trên đây, chúng ta có thể nói nó chẳng ăn nhập gì đến mình cả. Chúa Giêsu hiện trước các thượng tế và các kỳ mục Do Thái thời xưa chứ Ngài đâu khiển trách chúng ta. Chúng ta đâu có dính dự gì vào chuyện của họ. Chúng ta đâu có giết các ngôn sứ của Thiên Chúa, chúng ta đâu có xử tử Chúa Giêsu. Thế nhưng, nếu chịu khó xét cho kỹ thì chúng ta phải giật mình vì chúng ta đã có những phản ứng chẳng khác gì họ, có khác chăng là trong một bối cảnh khác và với hành động như vậy, chúng ta không giết các ngôn sứ, nhưng chúng ta bỏ ngoài tai những lời giảng dạy của các vị, chúng ta không kết án tử Chúa Giêsu, nhưng chúng ta đẩy Người ra ngoài lề cuộc sống chúng ta. Nếu chịu khó xét mình, không khéo chúng ta lại tìm thấy hình ảnh của các thượng tế và kỳ mục của Israel nơi bản thân chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, nhiều lần chúng con trách cứ dân Do Thái ngày xưa đã cứng đầu không nhận ra Chúa, không nghe lời Chúa mà còn giết Chúa nữa, nhưng chúng con cũng đang bước theo lối mòn ấy của họ. Xin Chúa tha thứ cho con và giúp con sửa đổi đời mình để được Nước Trời làm gia nghiệp mãi mãi.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Giết con thừa tự

Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: “Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác và trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền và thu hoa lợi. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (Mt. 21, 33-34, 38)

Dụ ngôn những tá điền sát nhân loan báo rõ ràng về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Sau khi gửi nhiều ngôn sứ đến dân Ít-ra-en, Thiên Chúa gửi chính con mình, nhưng cũng không được đón nhận, chẳng hơn gì số phận những ngôn sứ xưa.

Dụ ngôn này nói lên sự tàn bạo kinh khủng, nó phản ảnh sự dã man ghê sợ của loài người đến cùng cực, khó có thể tưởng tượng nổi. Nhưng đừng để cho những xúc động ghê sợ đó trở nên cạm bẫy che lấp sứ điệp chân chính mà Đức Giêsu truyền dạy chúng ta. Sứ điệp chân chính đó là vườn nho được trao cho những người lương thiện canh tác.

Vườn nho đã được trao cho những tá điền biết làm sinh hoa kết quả. Thực sự những trái nho ở đây là những hoa trái nước trời. Dân tộc được tuyển chọn trước đã thất bại. Một dân khác đã lãnh nhận vườn nho và sẽ không làm ông chủ thất vọng.

Bức tranh này, tuy có thể tối tăm, nhưng sau cùng lại chứa đầy hy vọng. Người ta thấy ở đây chương trình của Thiên Chúa, Ngài muốn nhân loại sinh nhiều hoa trái, không bao giờ được thất vọng do những quản lý xấu. Thiên Chúa không bao giờ chịu thất bại do sự quản lý đồi tệ của con người. Ngài tái lập lại rất dễ dàng và trao lại cho những người khác công việc đã bị hư hại.

Những kẻ bất trung đã làm hỏng việc, nhưng nước Thiên Chúa thì vẫn bất diệt, vì tất nhiên Ngài sẽ thực hiện lại, và phúc cho ai được Ngài dùng để thực hiện lại công việc của nước trời.

Người ta thường nghe rằng thế hệ chúng ta có những người đang phá hủy Hội thánh của Đức Kitô. Người ta nói Đức Kitô đã bị đóng đinh rồi, Thiên Chúa đã chết rồi.

Hội thánh được hứa bảo đảm bất tử. Nhưng những kẻ bất xứng đã phung phá vườn nho của Chúa sẽ bị xô xuống vực thẳm, để cho những người khác đến và ơn cứu độ lại được loan báo cho tới khi Chúa lại đến. Chúng ta sẽ qua đi. Chúa vẫn tồn tại.

J.G.

SUY NIỆM 6: SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ (Mt 21, 33-46)

Trong Kinh Thánh Cựu Ước có kể câu chuyện của vua thánh Đavít như sau: khi vua Đavít đã thỏa mãn nhục dục với Bathsêba, vợ của vị tướng Uria. Không dừng lại ở đó, ông đã tìm cách để phủ lấp chuyện đồi bại của mình bằng cách đẩy Uria ra mặt trận ác liệt, ở đó, vị tướng này chắc chắn sẽ tử trận, và sự việc đúng như kế hoạch thâm độc mà nhà vua đã hoạch định.

Khi nghe biết sự tàn ác của vua Đavít như thế, tiên tri Nathan đến kể cho vua một câu chuyện nhằm cảnh báo nhà vua, ngài kể: một anh nhà giàu kia có rất nhiều chiên, nhưng khi có khách, thì lại truyền lệnh cho quân lính sang nhà hàng xóm bắt con dê của họ để làm thịt ăn mừng. Điều đáng nói là người hàng xóm này chỉ có duy nhất một con dê là tài sản của anh ta. Nghe đến đây, Vua Đavít tức giận và tuyên bố một câu xanh rờn: thằng đó phải chết! Nghe thấy thế, tiên tri Nathanel chỉ thẳng vào mặt vua và nói: “Thằng đó chính là vua!” Đến đây, nhà vua mới giật mình nhận ra tội lỗi của ông và ăn năn sám hối.

Câu chuyện trên đây thật trùng khớp với câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay.

Đức Giêsu biết rõ những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ có một cái tôi rất lớn được xây dựng bằng thành trì của sự kiêu ngạo, tự phụ, tự tôn, luôn coi mình là đạo đức hơn người. Thế nên, bản thân họ rất khó nhận ra con người thực chất của chính mình để sám hối. Vì thế, Đức Giêsu đã kể cho họ nghe dụ ngôn: “Những tá điền sát nhân”.

Ngài kể về những người làm công ác nhân, thất đức khi đối xử bất nhân với những người nhà của chủ được sai đến, không những thế, sự bất nhân của họ còn được sử dụng ngay với chính con của ông chủ, nên họ đã giết luôn cả đứa con thừa tự và cướp luôn vườn nho.

Sau đó, Đức Giêsu hỏi những người đang nghe: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” Nghe đến đây, các Thượng Tế và Kỳ Mục lên tiếng khí thế, họ nói: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”.

Cũng như Đavít, họ vui vẻ và khẳng khái kết án cái ác, đúng lúc ấy, trong câu 43, Đức Giêsu tuyên án với họ: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi, không cho các ông nữa, mà ban cho dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.

Đến đây, Đức Giêsu đã làm cho các Thượng Tế và Kỳ Mục nhận ra con người gian dối của họ khi dùng ngón đòn: “Gậy ông đập lưng ông”, khi chính họ tuyên án cho thảm án nặng nề nơi mình.

Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta không nhận ra tội của mình mà cứ đi lôi tội của người khác một cách không thương tiếc. Vì thế, có lúc chúng ta không khác gì những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Đức Giêsu, hay như Vua Đavít trong câu chuyện trên!

Tuy nhiên, Vua Đavít thì sám hối, còn những Thượng Tế và Kỳ Mục thì không, nên họ vẫn tiếp tục sa lầy vào con đường tội lỗi…

Mùa Chay là mùa Chúa mời gọi chúng ta hãy sám hối để được cứu độ, ngược lại, nếu không sám hối sẽ đời đời diệt vong.

Sám hối sẽ được ban nhiều hồng ân, mà hông ân lớn lao nhất chính là ơn cứu độ. Nếu không, ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi và trao cho người khác.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết nhận ra con người thật của mình để biết sám hối, ăn năn. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho”

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Có người chủ vườn nho “ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Anh rất quý vườn nho đến nỗi anh có thể làm tất cả cho sự trù phú của nho: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (Is 5,4). Với sự chăm sóc ân cần cho vườn nho, anh mong những cây nho thân yêu của mình sinh ra những trái nho ngon ngọt. Đó là hình ảnh vườn nho được chăm sóc, mà ngôn sứ Isaia đã phác họa để làm nổi bật Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân “tuyển chọn”- Israel rất ân cần chu đáo.

Tuy nhiên dân Israel được chăm sóc ân cần vẫn bạc tình bạc nghĩa, như một vườn nho chỉ sinh trái dại… Ngôn sứ Isaia đã chỉ rõ ràng: “Vườn nho đó chính là nhà Israel; Cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính là người xứ Giuđa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (Is 5,7), Thiên Chúa thất vọng về vườn nho của mình…

Suy niệm

Với dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho”, Đức Giêsu chỉ đích danh các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Ngay người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá.

Vườn nho mà Thiên Chúa trao cho dân Israel, được trao lại cho mọi dân tộc, và từ nay Thiên Chúa chăm sóc cho tất cả mọi dân nước: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho nước ấy sinh hoa lợi”. Trong Tân ước, mọi người, mọi dân tộc đều được mời gọi đi làm và ở trong vườn nho (x. Mt 20,1-16a). Dân nước này sẽ được làm thành bởi mọi kẻ sẽ sinh hoa trái của nước Trời, nghĩa là những kẻ, khi tiếp nhận Người Con, sẽ tụ họp quanh Người để làm nên dân mới của Thiên Chúa (x. Rm 9,25; 1Pr 2,10).

Dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho” có tính cách lịch sử: Nghĩa là diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ, thái độ của họ với chính Chúa. Dụ ngôn cũng mang tính cách tiên tri: Nơi con người thời đại đang và sẽ đến đối xử với Thiên Chúa, và những tá điền vườn nho là hình ảnh của các giới lãnh đạo Do Thái nhưng cũng chỉ trực diện mỗi chúng ta ngày hôm nay, những người trong giao ước mới, được mời gọi đi làm vườn nho. Chúng ta là những tá điền được Chúa trao phó trách nhiệm trông coi vườn nho và làm phát sinh hoa lợi. Những gì ta đang có chính là hoa lợi từ vườn nho.

Tự tước lấy hoa trái của Thiên Chúa, muốn mình định đoạt tất cả, loại Thiên Chúa trong cuộc đời mình, chính là hình ảnh những tá điền bất lương của ngày hôm nay, con người vẫn đang đi vào vết xe đổ của lịch sử: Khi chúng ta chọn lựa cho mình một cách sống tự mình là chủ định đoạt “vườn nho” mà không cần biết Đấng làm chủ vườn nho, chúng ta muốn tước đoạt của “thừa tự” của Đấng làm Con Thiên Chúa. Chúng ta đang phác họa lại hình ảnh nguyên tổ trong Vườn Địa Đàng xưa: Muốn lấy cái “biết” của Thiên Chúa qua hành động hái và ăn trái “hiểu biết” theo ý đồ của Satan, để có vinh quang bằng Đấng Tạo Hóa. Nhưng, sự “biết” không thấy, lại bị tước đoạt Vườn Địa Đàng được trao phó. Những tá điền vườn nho cũng vậy, khi giết con thừa tự, vườn nho không những không được hưởng, mà còn bị chủ vườn nho lấy lại giao cho các tá điền khác.

Hôm nay, tôi và bạn là người tá điền làm vườn nho được Thiên Chúa ký thác. Ước chi chúng ta luôn ý thức trách nhiệm mình là tá điền chuyên chăm trong vườn nho của Chúa. Tá điền biết cộng tác xây dựng công trình vườn nho cho vinh quang Thiên Chúa…

Ý lực sống: “Hãy đi vào vườn nho của tôi… Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21-23).

Suy Niệm 8: Dụ ngôn những tá điền sát nhân

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Qua dụ ngôn này ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương tuyển chọn  và chăm sóc dân Người. Nhưng những con người bất tín, điển hình là các nhà lãnh đạo Do thái đã đưa dân vào con đường bất nghĩa. Người đã sai các tiên tri đến với họ, và đã bị đối xử tàn tệ. Cuối cùng Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Người đến. Ngài đã bị họ sỉ nhục, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Nhưng chính nhờ Ngài, ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn người. Qua cái chết của Đức Giêsu, một dân tộc mới được hình thành. Giáo hội được khai sinh.
  2. Ý nghĩa của dụ ngôn:  Chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là dân Do thái, những tá điền làm vườn nho là các tư tế, biệt phái và luật sĩ, các đầy tớ được sai đến bị bắt, bị đánh đập và bị giết chết là các tiên tri, hoa lợi là kết quả của những việc lành, con trai duy nhất của ông chủ là Đức Giêsu, bị lôi ra khỏi vườn tức là bị đem ra khỏi thành Giêrusalem mà giết. Cuối cùng, ông chủ sẽ tru diệt bọn hung ác đó, tức là Thiên Chúa sẽ trừng phạt dân Do thái.
  3. Dụ ngôn này có tính cách lịch sử: Nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do thái, và thái độ của dân Do thái đối  với những tiên tri Chúa sai đến với họ, thái độ của họ đối với chính Chúa.

Dụ ngôn cũng mang tính cách tiên tri: Nơi con người thời đại đang và sẽ đến đối xử với Thiên Chúa,  và những tá điền vườn nho là hình ảnh các giới lãnh đạo Do thái nhưng cũng chỉ trực diện mỗi chúng ta ngày hôm nay, những người trong giao ước mới, được mời gọi đi làm vườn nho. Chúng ta là những tá điền được Chúa trao phó trách nhiệm  trông coi vườn nho và làm phát sinh hoa lợi. Những gì ta đang có là hoa lợi từ vườn nho.

  1. Mình muốn tước lấy hoa trái của Thiên Chúa, muốn mình định đoạt tất cả, loại Thiên Chúa trong cuộc đời mình, chính là hình ảnh của những tá điền bất lương của ngày hôm nay, con người vẫn đang đi vào vết xe đổ của lịch sử: Khi chúng ta chọn lựa cho mình một cách sống tự mình là chủ định đoạt “vườn nho” mà không cần biết  Đấng làm chủ vườn nho, chúng ta muốn tước đoạt của “thừa tự” của Đấng làm Con Thiên Chúa. Chúng ta đang phác họa lại hình ảnh Nguyên tổ trong Vườn Địa đàng xưa: Muốn lấy cái “biết” của Thiên Chúa qua hành động hái và ăn trái “hiểu biết” theo ý đồ của Satan, để có vinh quang bằng Đấng Tạo Hóa. Nhưng, sự “biết” không thấy, lại bị tước đoạt vườn Địa đàng được trao phó. Những tá điền vườn nho cũng vậy, khi giết con thừa tự, vườn nho không những không được hưởng, mà lại còn bị chủ vườn nho lấy lại giao cho tá điền khác (Vinh Sơn, Suối nguồn tình yêu, I, tr 198).
  2. Ngày nay, chúng ta cũng được coi là vườn nho của Thiên Chúa. Tất cả những gì Chúa ân cần săn sóc ban cho đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta được tự do hành động, sắp xếp công việc theo ý ta, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm ấy. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng làm việc cho tốt đẹp để đáp lại tình thương của Chúa đối với chúng ta.

Sách có chữ rằng: “Tiền xa ký phúc, hậu xa khả  giới”: xe trước đổ, xe sau phải coi chừng. Dân Do thái ngày xưa đã bất trung nên đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Ngày nay chúng ta là dân Do thái mới được Thiên Chúa săn sóc giữ gìn, chúng ta phải tránh xa vết xe cũ kẻo phải hư đi, nhưng phải trung thành với hồng ân Chúa ban, bằng cách làm cho ơn Chúa được sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống; đồng thời cũng phải biết chia sẻ cho người khác nữa.

  1. Truyện: Không biết chia sẻ của Chúa ban.

Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắn này đã cảm nhận được.

Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, mà đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo  bỗng trở thành giầu có là: hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ,  trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.

Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.

Một hôm, ông đề nghị với vợ:

– Hay là ta dọn đi một nơi khác.

Người vợ lắc đầu bảo:

– Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.

Nhưng người chồng giải thích:

– Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.

Người vợ thắc mắc:

– Còn tiền bạc thì mình để đâu?

Chồng trả lời dứt khoát:

– Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trung số, chỉ đem ra dùng khi nào cần thiết mà thôi.

Thế là cả gia đình dọn đến một nơi khác như dự kiến: họ lén lút ra đi không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột. Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.

Suy Niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Lịch sử cứu độ là lịch sử của Thiên Chúa trung thành với tình yêu cứu độ, còn loài người thì bất trung và từ chối tình yêu ấy. Tuy nhiên, kế hoạch cứu độ của tình yêu Thiên Chúa vẫn thành công.

Cầu nguyện: Lạy Cha, Chúa Giêsu cho con hiểu được tình yêu vô bờ của Cha, hiểu được ý nghĩa của lịch sử cứu độ Cha thực hiện cho loài người chúng con. Tình yêu Cha quá cao cả, Cha không ngừng sai các sứ giả đến mời gọi chúng con bước theo chân lý của Cha. Cha không ngừng đi tìm chúng con trở về, nhưng chúng con lại từ chối và quay lưng lại với Cha. Tuy nhiên dù chúng con phản bội, bất trung, Cha vẫn một lòng trung thành yêu thương chúng con và còn yêu thương hơn nữa. Tình yêu Cha vẫn tuôn trào, vẫn luôn đầy sáng kiến để thực hiện những kỳ công, để rồi cuối cùng ban tặng Con Một Cha cho chúng con. Cha chạy đua với tội lỗi chúng con. Tội lỗi càng dâng cao, tình yêu và ân sủng Cha lại càng chan chứa.

Lạy Cha, con biết nói sao cho hết tâm tình tạ ơn. Con biết Cha không cần con phải làm điều gì vĩ đại cho bằng biết mở lòng đón nhận tình yêu của Cha. Xin đừng để con cứng lòng và bịt tai nhắm mắt mãi. Chắc chắn trong đời có nhiều lúc con đã từ chối và phản bội Cha, nhiều lúc đã giết Con Cha. Nhưng con biết Cha vẫn một lòng thương yêu con. Xin Cha giúp con trở về với tình yêu Cha, không ngừng hoán cải để nối lại dây tình yêu đã bị con cắt đứt. Chẳng những Cha không bao giờ thất vọng về con mà lại còn tìm muôn vàn phương thế để lay động trái tim con. Xin Cha giúp con vững lòng trông cậy, không bao giờ thất vọng, cho con biết chỗi dậy mỗi ngày, biết làm lại từ đầu. Xin Cha cho con dù có bao lần vấp ngã, nhưng suốt cuộc đời vẫn trung thành với tình yêu ban đầu. Con tin tình yêu Cha sẽ chiến thắng trái tim con. Amen.

Ghi nhớ: “Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó”.

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.

  1. Bài đọc Cựu Ước kể chuyện tổ phụ Giuse bị các anh ganh ghét nên bán đi cho các lái buôn. Giuse trở thành nô lệ (Phần sau của chuyện Giuse kể tiếp là sau này Giuse lên chức tể tướng nước Ai cập và đã cứu cả gia đình mình khỏi nạn đói).
  2. Qua dụ ngôn những thợ vườn nho ác ôn, Chúa Giêsu nói Ngài chính là Giuse mới, bị dân mình giết chết, nhưng lại là Đấng cứu rỗi muôn dân. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Lòng ganh ghét đã khiến các con Giacóp coi đứa em ruột của mình là kẻ thù. Lòng ganh ghét cũng khiến các thượng tế và kỳ lão Do Thái giết chết Đấng Messia mà toàn dân mong đợi bấy lâu nay. Dù chiếc xe đã ngã, nhưng vết xe cũ vẫn luôn có người theo. Tôi có như vậy không ?
  2. Giuse đã lấy ơn để trả oán. Chúa Giêsu đã lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ Ngài. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”. Xin Chúa giúp ta cách “báo thù” tuyệt vời ấy.
  3. Một hoàng đế Trung Hoa muốn chiếm đất của kẻ thù và tiêu diệt họ. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia.

– Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù ?

– Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.

  1. Cái nhìn của Chúa khác cái nhìn của loài người. Khả năng của Chúa cũng tuyệt vời hơn khả năng loài người. Viên đá mà “những người thợ xây” – tức loài người chúng ta – coi là đồ bỏ đi, thì Thiên Chúa có thể biến thành tảng đá góc tường. Thí dụ viên đá Phêrô đã 3 lần chối Chúa, viên đá Phaolô và biến cố trên đường Đamát, viên đá Augustinô… Nhiều anh chị em tôi cũng có thể là những viên đá như thế, vậy tôi hãy khoan dung… Ngay cả tôi cũng có thể là như thế, nên tôi hãy trông cậy.

Suy Niệm 11: 

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta nhìn vào Chúa Giêsu như một Giuse mới. Giuse cũ trong Cựu Ước đã lấy ơn để trả oán. Chúa Giêsu – Giuse mới trong Tân Ước còn hay hơn: Không phải chỉ lấy ơn trả oán mà còn lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ mình nữa. Việc làm của Chúa quả là một việc lạ thường, con người khó mà hiểu nổi.

“Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc” (Mt 21,42).

Viên đá mà “những người thợ xây” – tức loài người chúng ta – coi là đồ bỏ, thì Thiên Chúa đã biến thành tảng đá góc tường. Xin mở một dấu ngoặc: Vào thời Chúa Giêsu, khi phải xây ngôi nhà có mái vòm lớn trên nóc, người ta phải có một viên đá đặt ở trên chóp đỉnh để chịu lực. Viên đá đó có một vai trò rất đặc biệt. Nó giữ cho những viên ngói trên mái vòm được liên kết với nhau nhờ thế mà cả mái vòm được đứng vững. Khi ví mình như một viên đá góc, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: Hãy nhìn mọi sự trong tinh thần lạc quan, không được phép thất vọng hay buồn phiền, nhất là khi phải đối diện với những bất công khổ đau trong cuộc sống.

Ở Mỹ có một tảng đá rất nổi tiếng. Đó là tảng đá Balebon tại tiểu bang California.

Ngày nọ, có một người dân làm đơn khiếu nại sở Kiều lộ. Người này báo động rằng vì nạn đất chùi, tảng đá này có thể đổ xuống làm hư nhà cửa của họ; và thế là với hai chiếc trực thăng yểm trợ cho hai xe cẩu loại lớn, người ta đã đưa tảng đá lên xa lộ.

Theo dõi câu chuyện trên đài truyền hình, một người Úc nọ đã đến xin mua tảng đá ấy. Sở Kiều lộ của thành phố đã bán tảng đá này với giá 100 Mỹ kim. Những người có trách nhiệm của thành phố đã mừng thầm vì cảm thấy ít ra cũng có người giúp họ di chuyển cái “của nợ” ấy đi. Sau đó, người Úc kia đã bỏ ra 20.000 Mỹ kim nữa để thuê xe chuyên chở tảng đá ấy về nhà, và sau bốn tháng miệt mài làm việc, anh đã tạc được chân dung của một tài tử nổi tiếng chuyên đóng phim cao bồi. Đó là món quà quí nhất mà người này dành cho tài tử yêu quí trước khi nhắm mắt lìa đời. Không bao lâu sau đó, tác phẩm ấy đã được bán cho một người chuyên sưu tầm tượng ảnh với giá một triệu Mỹ kim.

Tảng đá Balebon trên đây đã bị nhiều người xem là một “của nợ”, nhưng một người Úc đã nhìn ra những giá trị tiềm ẩn trong đó. Nó đã trở thành một thách đố để thực hiện một công trình vĩ đại. Và cuối cùng, công trình đã được hoàn thành. Từ một tảng đá đáng bỏ đi nó đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật và giá trị của nó không thể ngờ được.

Trước Công nghị Do Thái, thánh Phêrô đã giải thích về cái chết của Chúa Giêsu, với câu nói thời danh: “Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá góc tường” (Cv 4,11).

  1. Hãy nhìn vào tấm gương đó để chúng ta bắt chước.

Thời Xuân Thu chiến Quốc, nước Sở và nước Lương có chung biên giới và dân cư của hai nước sống ở gần biên giới đều trồng dưa. Người bên nước Lương, vì chịu khó vun xới chăm bón cho nên dưa tốt, quả nhiều. Còn người bên nước Sở thì vừa lười vừa làm biếng, chẳng chịu chăm sóc tưới bón nên dưa xấu, quả ít. Quan huyện sở tại bên nước Sở thấy vậy thì tức giận lắm. Những người trồng dưa bên Sở thấy vậy cũng đem lòng ghen ghét, nên cứ tối tối, lẻn sang nhổ cây, bứt lá làm cho dưa bên nước Lương đang tốt tươi bỗng trở nên héo hon, xơ xác.

Những người trồng dưa bên nước Lương rình biết, bèn trình báo lên quan sở tại của mình và cũng định rắp tâm sang phá dưa bên nước Sở để trả thù. Nhưng quan sở tại của nước Lương là người thâm trầm, mưu cao liền can ngăn và bảo:

– Nếu lấy ác mà xử ác thì chỉ gây thù chuốc oán, gieo mầm loạn lạc binh đao. Thay vì trả thù, ta cứ lẳng lặng sang tưới dưa cho họ, đó mới là thiện chí.

Nói là làm. Một thời gian sau, dưa bên nước Sở xanh tốt, quả nhiều. Dân nước Sở lấy làm lạ, cũng để ý rình rập, sau mới hay người bên nước Lương sang tưới dưa cho mình. Quan bản địa bên nước Sở thấy vậy lấy làm hổ thẹn. Sự việc đến tai vua nước Sở. Vua nước Sở cũng lấy làm xấu hổ và nghĩ rằng, ngoài cái tội phá dưa của người ta ra, còn thêm một tội khác nữa là gây ra thù oán. Vua nước Sở bèn xuống chiếu trách cứ quan huyện, khuyến cáo dân chúng nước Sở, rồi viết thư sai sứ giả sang nước Lương xin lỗi, tỏ lòng hiếu hòa bang giao.

Thế là hai nước giữ được sự yên bình lâu dài và dân cư thái bình.

Giá mà mỗi người chúng ta cũng biết sống như quan huyện nước Lương thì cuộc sống của mọi người sẽ đẹp biết bao!

 

Thứ bảy sau Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 15, 1-3. 11-32

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:

“Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.

Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: “Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó”. Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.

SUY NIỆM 1: Ăn mừng

Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng,

qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.

Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.

Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ,

người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống.

Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.

Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ.

Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.

Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.

Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.

Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con.

Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).

Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em,

một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28).

Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào.

Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.

Hoán cải bao giờ cũng khó.

Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha.

Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?

Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại?

Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào,

vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải,

vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).

Cả hai người con đều cần hoán cải.

Người con cả cũng hỗn hào với cha không kém gì đứa em (c. 30).

Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói.

Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29).

Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha.

Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.

Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em.

Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc.

Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không?

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.

Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,

khi coi Cha

như người cản trở hạnh phúc của chúng con.

Chúng con thèm được tự do bay nhảy

ngoài vòng tay Cha,

nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.

Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.

Như người con thứ,

chúng con bỗng thấy mình tay trắng,

rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.

Lạy Cha đầy lòng bao dung,

xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,

giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.

Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui

vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.

Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,

thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.

Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,

chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: TẤM LÒNG CHA

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trung tâm điểm của mùa chay, đó là trở về với Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa là người Cha rất yêu thương có tấm lòng nhân hậu vô biên. Cha là người ban sự sống. Không có cha thì không có sự sống. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Vì thế cha không những là nguồn cội phát sinh mà còn là nguồn mạch hạnh phúc.

Nhưng ma quỉ đưa ra một cơn cám dỗ tinh vi. Làm cho người ta nghĩ rằng lệ thuộc vào Thiên Chúa là mất tự do. Xui khiến người ta tìm cách làm chủ đời mình, bằng cách tách lìa khỏi Thiên Chúa. Nhưng họ đã phải đón nhận hậu quả phũ phàng.

Khi chiếm đoạt của cải của Thiên Chúa, con người nghĩ rằng mình giầu có. Nhưng không ngờ con người trở nên nghèo túng nhất.

Khi ra khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa, con người tưởng mình tự do. Nhưng không ngờ lại trở nên nô lệ nhất.

Khi con người chống lại Thiên Chúa, mọi thứ chống lại con người. Cả thiên nhiên, cả súc vật. Và con người chống lại nhau.

Khi không còn lệ thuộc Thiên Chúa, con người tưởng phẩm giá mình được nâng cao. Không ngờ con người trở nên tồi tệ, mất nhân phẩm.

Nhưng khi trở về nhà Cha, mọi sự lập tức thay đổi. Người con tưởng như không có gì mà giờ đây có tất cả. Có áo đẹp, giầy mới, nhẫn quí và bữa tiệc thịt béo rượu ngon. Hơn nữa nó có phẩm giá cao quí, được mọi người kính trọng. Trên hết nó được đón nhận và được yêu thương. Về nhà người con hoang đàng thấy rõ. Lìa bỏ cha là mất tất cả. Ở trong cha là có tất cả. Vì mọi sự của cha là của con. Và đặc biệt tấm lòng cha bao dung tha thứ như tiên tri Mika nói: “Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa. Người sẽ lại thương xót chúng ta. Tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển”.

Tôi đang theo mốt thời đại, muốn thể hiện sĩ diện khi muốn tự do, tách lìa quyền năng của Thiên Chúa. Tôi đang bị cám dỗ muốn toàn quyền sử dụng tiền của, kể cả sức khỏe, thân xác của mình và của người khác. Tôi đang phạm tội. Nhưng cha đang chờ tôi. Hãy mau mắn như người con hoang đàng quyết định: “Vâng, tôi quyết chỗi dậy và đi về nhà Cha”.

SUY NIỆM 3: Người con hoang đàng

Văn hào Nga Dostoievki khi biết mình không còn sống bao lâu nữa, đã gọi các con đến bên giường bệnh và yêu cầu vợ đọc cho chúng nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Khi bà vợ vừa dứt lời, Dostoievki nói như để lại di chúc riêng của ông như sau:

“Các con yêu dấu, các con đừng quên những gì các con vừa nghe đọc. Hãy tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, đừng bao giờ thất vọng về sự tha thứ của Ngài. Cha thương các con vô cùng, nhưng tình thương của cha không thể sánh được với tình yêu Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tạo dựng. Cho dù các con có phạm tội ác, các con đừng bao giờ thất vọng về Thiên Chúa. Các con là con cái Ngài, hãy khiêm tốn đến trước mặt Ngài. Hãy xin Ngài tha thứ và Ngài sẽ vui mừng vì sự sám hối của các con, như người Cha đã vui mừng khi người con hoang trở về”.

Những lời trăn trối của Dostoievki có lẽ cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng ta khi cho chúng ta lắng nghe dụ ngôn về người con hoang đàng. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa được chính Ngài cụ thể hoá qua sự gần gũi của Ngài với các tội nhân. Nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người, Chúa Giêsu cũng nhắm đến thái độ chai đá của các biệt phái và luật sĩ, được Ngài tô vẽ qua hình ảnh của người con cả. Trong một vài nét ngắn ngủi, nhưng Chúa Giêsu đã phô bày được bộ mặt chai đá, ích kỷ, mù quáng của biệt phái và luật sĩ. Người con cả là hạng người không bao giờ nhận ra được tình thương của Thiên Chúa. Bao lâu nay sống bên cạnh cha, người con cả vẫn xem mình như một thứ người làm công trong nhà, mà không nghĩ rằng “tất cả những gì của cha đều là của con”.

Đó có thể là tâm tình của rất nhiều người trong chúng ta. Chúng ta tuân giữ và thực hành đúng đắn với giới răn, nhưng có lẽ chúng ta chỉ ngước lên Chúa như một quan toà công thẳng hay như một viên cảnh sát lúc nào cũng rình rập theo dõi để trừng phạt chúng ta. Từ một hình ảnh như thế về Thiên Chúa, tâm tình mà chúng ta có đối với Ngài có lẽ chỉ là sợ hãi, nô lệ. Và bởi lẽ không nhận ra Thiên Chúa như một người cha, cho nên con người cũng không nhận ra tha nhân là anh em của mình và như vậy cũng là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.

Mùa Chay là mùa của hoán cải. Hoán cải trước tiên là trả lại cho Thiên Chúa gương mặt mà Chúa Giêsu đã mạc khải, đó là gương mặt của người Cha yêu thương con người đến thí ban Con Một mình. Nhưng không thể trở về với Thiên Chúa là Cha mà lại không yêu thương tha thứ cho người anh em của mình.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Người cha nhân hậu

Ðoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe trên đây là một trong những đoạn rất quen thuộc với người Kitô. Trước đây, đoạn Tin Mừng này có tên gọi là Người Con Hoang Ðàng, nhằm nhấn mạnh đến sự hư hỏng và sau đó là sự ăn năn hối lỗi của người con thứ. Theo cách nhìn này thì người con hoang đàng là nhân vật chính trong câu chuyện, nhưng trọng tâm của câu chuyện không phải là người con đi hoang mà là người cha nhân hậu, do đó dụ ngôn này có tên gọi là dụ ngôn về người cha nhân hậu, và được chia làm hai phần với hai dụng ý rõ rệt. Phần đầu nói về Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Ngài luôn luôn yêu thương con người, sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của họ và hằng mong chờ họ quay trở về với Ngài. Phần thứ hai nói về tính ghen tị của những người tự xưng mình là con của Thiên Chúa, nhưng lại rất nhỏ mọn, thiếu vị tha đối với anh chị em.

Qua ba hình ảnh người cha, người em đi hoang, người anh cả ở nhà trong dụ ngôn trên đây, chúng ta thấy rõ bài học mà Chúa Giêsu muốn nếu lên đó là hãy tin vào lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa Cha, hãy ăn năn sám hối mà trở về với Ngài, hãy chìa tay nâng đỡ anh chị em sa ngã đứng lên.

Lạy Chúa là Cha tuyệt vời của chúng con, xin cho chúng con biết thực hành ba điều giáo huấn mà Chúa Giêsu đã dạy chúng con trong dụ ngôn hôm nay.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Trả lời cho anh cả

Đức Giê-su nói: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tai sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. (Lc. 15, 11-13)

Trong dụ ngôn này, chính anh cả là quan trọng nhất, vì chính anh đặt ra những thắc mắc phải được giải đáp.

Người cha vui như điên khi thấy đứa con lầm lạc trở về. Thiên Chúa quan tâm săn đón thương xót kẻ tội lỗi biết bao, để tỏ cho người ta thấy một chút về trái tim thương yêu của Thiên Chúa, để người ta có một chút về hình ảnh công chính của Thiên Chúa. Nhưng bao nhiêu đứa con có vẻ trung thành, lại tỏ ra ngang ngược với cha như đứa con cả, đó là một mầu nhiệm.

Chính ra chúng phải nói tốt và làm tốt như người cha, ông không bao giờ được lợi lộc gì ở đứa ăn bám, nhưng ông vẫn đối xử đẹp với nó, dầu suốt đời ông đã chịu khổ nhọc vì nó. Có lẽ chúng ta vừa mới trách người anh cả khá tệ vì chúng ta cũng nuôi dưỡng cùng một thái độ như anh ta. Vậy nên trách mình trước rồi trách người sau “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Đức Giê-su cũng nói: “Hãy lấy cái xà khỏi mắt anh trước, rồi sẽ lấy cái rác ra khỏi mắt người”.

Trung tín luôn luôn là giá trị tốt nhất của người Ki-tô. Những bản văn Tin mừng đều đề cập đến chủ đề này rất dồi dào: “Hãy đến, tôi tớ tốt lành và trung tín, anh đã trung tín trong việc nhỏ, Ta sẽ trao phó cho anh việc lớn”. “Phúc thay tôi tớ tỉnh thức cho tới lúc chủ về …”

Nhưng đức tin đòi kẻ trung tín không được lộng quyền qua mặt lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng trung tín chân chính biết sống nhân hậu, nó không ghen tương, không tìm cái không thuộc quyền nó, nó không tính toán công lao. Ai dám có quyền trên Thiên Chúa?

Lời đáp của cha rất đẹp: “Con ơi, tất cả của cha là của con”. Thực ra ta phải nói ngược lại và rất hợp lý rằng: “Tất cả của con, con đã nhận được, kể cả lòng trung tín đều là của cha”. Không ai trung tín nếu Thiên Chúa không đoái thương.

Đức trung tín và đức tin đều là ơn huệ của Thiên Chúa ban và vô phúc cho kẻ lạm dụng chiếm lấy như một quyền lợi. Người con cả đã lầm tưởng mình trung tín với cha nên chẳng còn chân thành nghe lời cha nữa, anh tưởng anh phục vụ cha khi ở với cha, nhưng chính cha đã ban cho anh tất cả.

J.G.

SUY NIỆM 6: TRỞ NÊN GIỐNG THIÊN CHÚA TRONG TÌNH THƯƠNG (Lc 15, 1 -32)

Có một người mẹ đã suốt một đời hy sinh cho con cái. Tuy nhiên, ngay cả đến lúc già nua tóc bạc, bà vẫn không nhận được một nghĩa cử đền ơn báo nghĩa nào của người con. Nhưng mang trong mình tâm tư của người mẹ, với một tình mẫu tử, bà vẫn hết mực thương con.

Câu chuyện trên đây phản chiếu một phần nào hình ảnh của người cha nhân hậu trong bài Tin Mừng hôm nay.

Ông đã quá vất vả vì con cái! Tuy nhiên, thay vì tuổi già, ông được con cái phụng dưỡng, đằng này, nó lại đòi chia gia tài để rồi đi ăn chơi trác táng với phường tội lỗi gian dâm. Hết tiền, hết bạc, bị người ta coi thường, khinh miệt trong thân phận nô lệ và bụng đói thì mò về với Cha của mình!

Tuy nhiên, thay vì xua đuổi, ông lại tỏ ra nhân hậu khi đứa con tội lỗi trở về. Vì thế, người cha này đã tìm mọi cách để phục hồi nhân phẩm và phục quyền cho đứa con lêu lổng một thời đi hoang, và cuối cùng là mở tiệc ăn mừng…

Thế nhưng, hành động của ông nhân từ bao nhiêu, thì hình ảnh, lời nói và thái độ của người con cả lại ngược lại với ông bấy nhiêu.

Người con cả trong bài Tin Mừng hôm nay đã không chấp nhận tha thứ cho người em của anh. Anh ta trách móc cha mình rồi tỵ nạnh với em mình khi kể lể công trạng của anh ta với cha của anh.

Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta vẫn thấy hình ảnh phóng đãng ăn chơi của người con thứ, hay thái độ ích kỷ, kiêu ngạo như người con cả ngay trong con người của chúng ta, mỗi lần chúng ta đi xa hay không chịu hiểu về tình thương của Thiên Chúa và lời mời gọi của Ngài.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, đứng dạy và trở về để được ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đừng sợ tình thương của Thiên Chúa, vì tội lỗi của chúng ta có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông. Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta từng ngày, từng giờ như người cha trong bài Tin Mừng hôm nay để tha thứ, tẩy rửa tội lỗi cho chúng ta.

Mặt khác, Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta đừng vì ích kỷ mà ngăn cản tình thương của Chúa xuống trên anh chị em mình như người con cả trong bài Tin Mừng vừa nghe.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết quay trở về với Chúa trong Mùa Chay này như người con thứ, biết từ bỏ thói kiêu ngạo, tự phụ như người con cả, và biết mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu nơi người Cha trong dụ ngôn hôm nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Dụ ngôn người cha nhân hậu

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Danh họa Rembrandt, người Hà Lan, vào thế kỷ thứ XVII là một thanh niên kiêu hãnh, tự hào về tài năng. Anh làm ra nhiều tiền, nhưng cũng phung phí nhiều và cuối cùng mất hết tất cả.

Tiếp theo giai đoạn thành công và giàu có ngắn ngủi ấy là một chuỗi những thất bại, tai họa và phiền muộn: Năm 1635, người con trai của ông tên là Prubertus qua đời; ba năm sau đến lượt người con gái đầu tiên của ông là Cornelia cũng ra đi, hai năm sau đó, chính người vợ của ông cũng từ giã cõi đời. Ông phải sống cảnh gà trống nuôi con với một đứa con trai là Titô vừa mới được chín tháng tuổi. Sau khi vợ chết, ông toàn gặp khổ đau và thử thách, cuộc tình bất hạnh với bà vú nuôi của Titô đã để lại cho ông thêm hai đứa con khác. Trong những năm sau đó, mặc dù các nhà sưu tầm và giới phê bình nghệ thuật nhìn nhận tài năng của ông, nhưng tiếng tăm của ông đã bắt đầu đi xuống. Ông đã nhìn lại bản thân và cuộc đời để rồi ký thác cái nhìn về cuộc sống đầy sóng gió của mình trong bức tranh nổi tiếng “Người con hoang đàng”.

Suy niệm

Dụ ngôn người con hoang đàng, hay còn gọi là dụ ngôn ba cha con vì ba nhân vật trong dụ ngôn: Cha, con cả và con thứ hoang đàng hoặc gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu làm nổi bật trái tim của người cha: Một trái tim nhân hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương. Đức Giêsu qua hình ảnh người cha, Ngài mạc khải Thiên Chúa – một người Cha luôn bao dung như lời tuyên bố của ngôn sứ Hôsê: “Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất trung” (Hs 14,5). Người con thứ bất trung, bất hiếu lấy tài sản ra đi hoang đàng ăn chơi, bỏ cha già ở nhà, nhưng cha vẫn mong mỏi đứa con trở về.

Người em lạm dụng tình thương, tự cắt bỏ cung lòng yêu thương của cha, của gia đình ra đi hoang đàng sống theo ý mình. Khi rơi xuống tận đáy cặn bã của cuộc đời, trong sự hoang tàn không sức sống và nghèo đói, nghèo hơn cả thân nô lệ, anh trở về xin lỗi mong được nương nhờ nơi nhà cha trong thân phận người làm công, nhưng hơn cả mong đợi, từ sự sám hối, anh được sống trong cảm nghiệm lòng thương của cha.

Người con cả hờn dỗi trách cha vì đón tiếp em về trong niềm vui vô bờ với tiệc mừng và sự đối xử bao dung của cha dành cho đứa em hoang đàng. Anh tự hào về phẩm hạnh của mình, anh sống bên cha trong ân tình của cha mà vẫn không khám phá và cảm nghiệm tình yêu. Vì thế, dù sống bên cha mà sống như người nô lệ không ý thức địa vị là con. Như nhận định của thánh Ambrôisiô: Anh là “biểu tượng của những tâm hồn khi tin vào sự trung thành, yêu và dành hết với những sự việc bên ngoài nhưng xa lạ tinh thần của Thiên Chúa”. Cho nên, dù tất cả là của anh nhưng anh không cảm nghiệm được mình đang có. Thánh Gioan Kim Khẩu suy diễn lời của cha nói với anh “tất cả của cha là của con” bằng lời diễn giải: “Bầu trời là của con, đất đai là của con… Giáo hội, bàn thờ, của lễ hiến dâng, thiên thần, tông đồ, tử đạo, hiện tại, tương lai, sự phục sinh, vĩnh cửu, tất cả là của con. Cha đã không hề lấy cẩm bào của con mà mặc cho em. Cha cũng không lấy gì của con để cho em. Nhưng khi chúng ta nhìn thấy một người chết sống lại, niềm vui thật vô bờ, và người này chính là con cha”. Với người anh cả, đứa em hoang đàng – con của cha, cũng là em của anh, nhưng anh chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha… anh dù bên cha, nhưng vẫn nhạt nhòa không có tình yêu trong tim.

Một người cắt nguồn tình yêu cha, ra đi sống hoang đàng, nay quay về. Một người sống bên cha, nhưng tinh thần lại xa cách. Anh cả cũng cần mang tinh thần quay về khám phá lại tình yêu sống bên cha… Cả hai mang hình ảnh của mỗi người chúng ta ngày hôm nay hoang tàng đời mình, hay sống thánh thiện phẩm hạnh nhưng lại khô héo tình yêu trong tâm hồn.

Cả hai người con cả và thứ đều cần trở về trong tâm tình sám hối. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống. Trở về trọn vẹn để được sống lại trong cung lòng thương xót của Chúa như người con thứ. Trở về để khám phá và sống trọn vẹn tình yêu cha, như người anh cả cần khám phá.

Ý lực sống:

“Sự hối cải là một lời cầu nguyện, những người ăn năn sám hối sẽ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ những thực tại tuyệt vời” (Thánh Gioan Kim Khẩu).

 Suy Niệm 8: Dụ ngôn đứa con hoang đàng

 (Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Để nói về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi, thánh Luca đưa ra cho chúng ta 3 dụ ngôn: con chiên bị thất lạc, đồng tiền của bà góa bị mất và nhất là đứa con hoang đàng. Hôm nay thánh Luca dưa ra dụ ngôn đứa con hoàng đàng để nói về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi biết ăn năn sám hối. Thực ra, dụ ngôn hôm nay không nhằm đứa con hoang đàng, nhưng Lời Chúa nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với người tội lỗi.
  2. Người con hoang đàng này là người con thứ và cũng là con út trong gia đình khá giả, nên cậu được nhiều ưu đãi, cưng chiều. Vì được ưu đãi nuông chiều nên dễ hư hỏng, đúng với câu phương ngôn của Pháp: “Con cưng là con hư”. Vì muốn sống tự do, thoải mái, cậu đòi người cha chia gia tài, và người cha đã chia gia tài cho cậu. Số gia tài được đổi thành tiền để dễ dàng ra đi. Vừa trẻ, lại có tiền, lại được tự do không bị ai ràng buộc… nên chỉ có một con đường nhào tới là hư hỏng.

Thực vậy, cậu đi phung phí tiền bạc, chơi bời trác táng. Thế là tiền mất tật mang. Địa vị của cậu suy sụp quá mau lẹ, rơi vào tình trạng khốn đốn phải đi chăn heo cho người ta để sống qua ngày.  Nhưng rất may, câu chuyện không  chấm dứt ở đây. Giữa cảnh túng đói cùng cực, chàng trai trẻ đã biết nghĩ lại và quyết tâm trở về với gia đình. Cậu can đảm trở về cũng như cậu đã can đảm ra đi, cậu quay gót 180 độ để về cùng cha.

  1. Một trong những cách đánh động lương tâm nhân loại mà Đức Giêsu mang đến, đó là lòng thương xót của Thiên Chúa, được diễn tả qua nhiều câu nói, qua nhiều dụ ngôn, như dụ ngôn được đề tựa: ”Người con hoang đàng” được Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay. Đúng hơn, dụ ngôn đó phải được đề tựa là: “Người cha nhân hậu”, bởi vì nhân vật chính trong câu chuyện là người cha với lòng thương xót vô bờ bến của ông. Người cha ở đây chính là Thiên Chúa. Thánh Luca đã nêu bật  khuôn mặt của một người cha nhân từ, thương xót và xem niềm vui tha thứ là niềm vui to lớn nhất đối với ông.

Thiên Chúa nhân từ thương xót chúng ta như thế đó nhưng phần đông chúng ta lại ăn ở bội bạc với Thiên Chúa. Vậy cả hai ngươi con đều phải quay trở về với  cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.

  1. Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng ra đi, người cha không dùng sức mạnh của uy quyền để giữ lại. Ông đã tôn trọng sự tự do, đó là mầu nhiệm lớn lao. Đối với Thiên Chúa, Ngài có thể ngăn cản tội lỗi và sự dữ, nhưng làm như thế, Ngài sẽ tước mất sự tự do của con người. Không có tự do, con người không thể yêu mến Thiên Chúa như Ngài mong muốn. Mặt khác, con người sẽ không tìm thấy trong cuộc sống, một tình yêu trọn vẹn dẫu là có trách nhiệm.
  2. Đó là ý nghĩa dụ ngôn. Chúng ta có thể rút ra được nhiều điều hữu ích cho cuộc sống. Hôm nay chúng ta chỉ cần ghi nhớ một điều thôi: Những người Do thái xưa kia đã nhạo báng, xỉ nhục, đánh đòn và đóng đinh Chúa Giêsu. Chúng ta ngày nay có xử với Chúa như vậy không? Chúng ta đừng tưởng rằng chúng ta không đối xử với Chúa như vậy. Thưa rằng: Có đấy, và rất nhiều lần, mỗi khi chúng ta phạm tội nhẹ là một lần chúng ta nhạo báng, xỉ nhục Chúa, và nhất là khi phạm tội trọng là chúng ta đã đánh đòn và đóng đinh Chúa mà giết Chúa ngay bên lòng chúng ta. Chúng ta hãy xin lỗi Chúa và quyết tâm sống đẹp hơn.
  3. Truyện: Chúa quên hết rồi.

Một bà già thường đến gõ cửa phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất?“, sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.

– Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.

– Thế bà có hỏi Ngài không?

Cha xứ bắt đầu hồi hộp:

– Bà hỏi thế nào?

– Thì con hỏi y như cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất”?

Cha xứ càng hồi hộp thêm:

– Vậy Chúa có trả lời không?

– Có chứ.

Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:

– Chúa nói sao?

– Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”

Cha xứ thở phào nhẹ nhõm (Kể theo  ĐHY Nguyễn Văn Thuận).

Suy Niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Niềm vui trở về không phải chỉ là của kẻ quyết tâm sám hối ăn năn, nhưng đó là niềm vui chung của mọi người, niềm vui của cả Thiên Đàng. Chúa Cha vui mừng đón nhận con cái trở về.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, người con hoang đàng trên đường trở về nhà cha trĩu nặng ưu tư lo lắng. Tâm hồn anh xao xuyến nhưng vẫn dũng cảm đến gặp cha mình. Nhưng tất cả ưu tư xao xuyến kia đã bị xóa sạch vì cha yêu thương hơn anh tưởng. Tình thương luôn mang lại nhiều bất ngờ.

Lạy Chúa, cũng như người con thứ kia, có lúc con đã tự tạo cho mình những ngày vui tươi, hạnh phúc theo cách nghĩ riêng con. Nhưng cuối cùng, con cảm nhận những niềm vui và hạnh phúc đó thật là bèo bọt, phũ phàng! Vì thế, hôm nay con muốn dứt khoát, quyết tâm trở về nhà Cha.

Lạy Chúa, đường trở về nhà Cha tràn đầy niềm vui vì là con đường duy nhất có thể cứu sống. Con biết điều đó. Nhưng vẫn còn nhiều trở ngại ngăn cản con. Cũng như người con thứ, con tưởng mình không được đón tiếp mà chỉ mong được cư xử như người làm thuê. Nhưng không! Chúa đón nhận con hơn cả người cha trong dụ ngôn. Hôm nay, không phải người giúp việc mặc áo mới cho con, xỏ nhẫn, xỏ giày cho con. Nhưng chính Chúa làm cho con điều ấy. Tình thương Chúa luôn chờ đợi con trở về và đổi mới cuộc đời con. Niềm vui của con trước hết bắt đầu từ nơi Chúa. Và đó là niềm vui chung của cả gia đình, của cả Nước Trời. Xin cho con biết tin vào tình yêu Chúa và xin nâng đỡ lòng quyết tâm của con.

Lạy Chúa, khởi điểm của lòng sám hối là nhận biết mình yếu đuối tội lỗi. Xin Chúa soi sáng để con nhận ra con người thật của mình với bao lầm lỗi khuyết điểm, và giúp con can đảm đứng dậy trở về với Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Em con đã chết nay sống lại”.

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với người tội lỗi:

  1. Bài đọc 1 có câu: “Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển”.
  2. Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh hoạ rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.
  3. Bởi đó, câu xướng trước bài Tin Mừng mời gọi người tội lỗi hãy an tâm quay về với tình thương tha thứ của Chúa, vì “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể: một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai, người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách làng xóm. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà qui chánh thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong dĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra toà vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con. Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin Mừng thánh Luca.
  2. Dụ ngôn này giống như một bộ tranh gồm 3 bức. Bức nào cũng đáng ta chiêm ngưỡng:

– Hãy nhìn bức tranh người cha, và chiêm ngưỡng tấm lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa.

– Hãy nhìn bức tranh đứa em, để suy nghĩ về con đường hư đốn của kẻ tội lỗi và con đường trở về của kẻ sám hối.

– Hãy nhìn bức tranh người anh, để thấy cõi lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế nào.

  1. Một bà già thường đến gõ cửa phòng Cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất ?’, sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.

– Thưa Cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.

– Thế bà có hỏi Ngài không ?

– Thưa có chứ.

Cha xứ bắt đầu hồi hộp:

– Bà hỏi thế nào ?

– Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ?”

Cha xứ càng hồi hộp thêm:

– Vậy Chúa có trả lời không ?

– Có chứ.

Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:

– Chúa nói sao ?

– Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”

Cha xứ thở phào nhẹ nhỏm (Kể theo Đức Cha Px NVT)

Suy Niệm 11: 

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót vô biên của Thiên Chúa.

Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đó.

  1. Hãy nhìn bức tranh đứa em, để suy nghĩ về con đường hư đốn của kẻ tội lỗi và con đường trở về của kẻ sám hối.

Trong một tuyển tập ngụ ngôn, tác giả người Ý, ông Yacob Basavalti có kể câu chuyện như sau: Một tên cướp nọ muốn trút bỏ gánh nặng tội lỗi đang đè nặng trên lương tâm, nên đã tìm đến với một linh mục. Nhưng vừa nghe xong những lời thẳng thắn của linh mục, anh ta liền nổi giận, tuốt gươm chém chết vị linh mục. Một thời gian sau, cảm thấy hối hận, anh ta lại tìm đến một vị linh mục khác, lần này vị linh mục cho biết để được ơn tha thứ của Chúa, anh phải đến Tòa Thánh. Cũng thấy bị xúc phạm, anh ta liền tuốt gươm kết thúc cuộc đời vị linh mục thứ hai.

Vị linh mục thứ ba mà tên cướp tìm đến xưng tội sẵn sàng ban phép giải tội cho anh, nhưng về việc đền tội, ngài yêu cầu anh hãy đi chôn cất tất cả những người chết mà anh gặp, đồng thời hãy khóc lóc như thể họ chính là người thân của anh. Vị linh mục trao cho anh một cái chai nhỏ để hứng nước mắt. Tên cướp ra về và nghe bất cứ nơi nào có đám tang, anh cũng tìm đến, nhưng mắt anh vẫn luôn khô ráo, anh không thể nhỏ được một giọt nước mắt nào. Cho đến một hôm tình cờ anh được đối diện với Chúa Giêsu đang khóc trên một cây Thập Giá, anh nhìn lên và than thở với Chúa về nỗi khổ đau không hề biết khóc là gì. Chính lúc đó, tự nhiên nước mắt anh trào ra. Anh lấy chai đã nhận được từ tay vị linh mục trao cho để hứng lấy và từ lúc đó anh đã hiểu được thế nào là sám hối. Sau đó anh đã tìm vào sa mạc để sống những ngày còn lại.

  1. Hãy nhìn bức tranh người anh, để thấy cõi lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế nào.

Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Độ là cha Anthony de Mello có kể câu chuyện ngụ ngôn:

Một ngày nọ, Thiên Chúa đi vào Thiên Đàng, và ngài ngạc nhiên khi khám phá ra tất cả mọi người đều được vào đó cả. Thế là ngài dừng lại suy nghĩ: “Phải chăng ta không phải là Đấng công bình vô cùng”.

Ngài liền cho gọi sứ thần Gabriel:

– Ngươi hãy tập trung mọi người lại trước mặt Ta và đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.

Tất cả mọi người đều đến trình diện trước tòa Chúa. Sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ nhất, và Chúa phán:

– Tất cả những ai đã phạm giới răn thứ nhất hãy xéo khỏi mặt Ta, và đi vào hỏa ngục.

Một số người từ từ ra khỏi đám đông, buồn bã đi vào hỏa ngục.

Sứ thần tiếp tục đọc các giới răn khác, và cứ sau mỗi giới răn thì có một số người lặng lẽ đi vào hỏa ngục như trên.

Sau khi sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ 6, thì cả đám đông đều tự động đi vào hỏa ngục, chỉ còn lại vị ẩn sĩ già, đầu hói, “béo mập”.

Thiên Chúa đưa mắt nhìn sứ thần rồi hỏi:

– Phải chăng chỉ có người này được vào Thiên Đàng thôi sao ? Nếu vậy thì hắn phải cô độc lẻ loi lắm.

Nói xong, Thiên Chúa truyền lệnh cho sứ thần gọi đám đông lại và cho họ được trở lại Thiên Đàng. Nhìn thấy đám người tội lỗi xấu xa bỗng nhiên có được sự tha thứ, vị ẩn sĩ già bèn nổi giận và hằn học nói:

– Chúa không phải là Đấng công bình. Tại sao Chúa không cho con biết trước điều đó.

Đây quả là hình ảnh của người anh trong dụ ngôn: Rất hẹp hòi với anh em mình.

  1. Hãy nhìn bức tranh người cha,và chiêm ngưỡng tấm lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa. Đây là câu chuyện Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận rất thích kể:

Một bà già thường đến gõ cửa phòng cha xứ, kể cho ngài nghe việc Chúa hiện ra với bà mỗi đêm. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, cha xứ bảo:

– Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài xem ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất, sau đó tới kể cho cha nghe”.

Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm tưởng là bà đã trúng kế của ngài.

Nhưng rồi một tuần sau, bà già lại trở lại.

– Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.

– Thế bà có hỏi Ngài không ?

– Thưa có chứ.

Cha xứ bắt đầu hồi hộp:

– Bà hỏi thế nào ?

– Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ?”

Cha xứ càng hồi hộp thêm:

– Vậy Chúa có trả lời không ?

– Có chứ.

Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:

– Chúa nói sao ?

– Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”

Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.

Lạy Chúa,

xin cho mỗi người chúng con biết sống đầy lòng yêu thương và nhân từ như Chúa. Amen.