Dân làng Hồ – Chương VII: Những Mối Quan Hệ Đầu Tiên Với Dân Làng Kon Kơ Xâm – Vụ Hỏa Hoạn – Âm Mưu Sát Hại Các Thừa Sai

print

CHƯƠNG VII

NHỮNG MỐI QUAN HỆ ĐẦU TIÊN VỚI DÂN LÀNG KON KƠ XÂM – VỤ HỎA HOẠN – ÂM MƯU SÁT HẠI CÁC THỪA SAI

 

Vậy là giờ đây cả bốn anh em thừa sai chúng tôi đã được đoàn tụ trong nơi ở mới. Nhưng xét về mặt con người, thì hoàn cảnh chúng tôi thật đáng buồn và thất vọng. Chúng tôi, những thừa sai được Chúa gửi đến rao giảng Tin Mừng, để chiến đấu đến cùng chống lại quỷ dữ, chống lại tất cả những xu hướng xấu xa mà chúng xúi giục và muốn duy trì trong tâm hồn con người, thế mà, ngay từ đầu, chúng tôi đã bị xem như là những kẻ đồng lõa của hỏa ngục, những kẻ truyền bá các đam mê xấu xa, hèn hạ nhất!

Ôi! Biết bao lần trong các dịp chúng tôi đi quan sát trong vùng khi thấy anh chị em dân tộc đáng thương chạy trốn, thì lẽ nào con tim chúng tôi lại không rướm máu, quặn đau khôn xiết! Chúa Giêsu nhân hậu đã nói với người phụ nữ xứ Samaria: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa, và ai là người nói với chị: ‘cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4, 10). Những lời nói dịu dàng này rất thường đến trong tâm trí tôi. Đôi khi vì không thể làm cho anh em dân tộc hiểu được mình, cũng không làm sao cho tiếng nói của mình đến tai họ được, tôi phải la lên từ xa với những kẻ đang chạy trốn, cho dù họ chẳng nghe: “Hỡi người anh em dân tộc đáng thương và yêu quý! Giá mà anh em biết được tôi thương yêu anh em và muốn làm điều tốt lành cho anh em! Giá mà anh em biết được, vì yêu mến anh em, tôi đã không quản ngại vất vả nhọc nhằn! Tôi đã vượt biển cả và coi thường bão tố! Giá mà anh em biết được tổ quốc tôi phồn vinh như  thế nào, mà tôi đành lìa bỏ chỉ vì anh em! Ôi, nhất là anh em có thể biết được mẹ của tôi, một người mẹ tốt lành, thánh thiện, ở cách xa đây sáu nghìn dặm, mà tôi đã phải đau nhói lòng nói lời vĩnh biệt bà! Và tất cả các điều đó, chỉ vì yêu quý anh em, mà anh em lại chạy trốn tôi, lại sợ hãi tôi, người bạn tốt nhất của anh em!”

Nhưng dù đau buồn thế nào đi nữa, tâm hồn chúng tôi cũng không bao giờ thất vọng. Nghĩ đến lẽ sắt son của đức tin, chúng tôi nhanh chóng được an ủi; khi nhớ đến xưa kia Chúa Giêsu Kitô không được nhìn nhận, bị sỉ nhục, bị loại trừ, chúng tôi lại thấy bừng cháy lên trong lòng một niềm hăng say mới. Sự căm ghét mà người ta dành cho chúng tôi chính là bảo chứng được Chúa chúc lành. Cha Combes từng nói với anh em chúng tôi: “Hãy nhìn lại lịch sử tất cả công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, việc rao giảng Tin Mừng lúc khởi đầu luôn gặp vô vàn khó khăn và bách hại. Nơi nào mà lúc đầu các nhà truyền giáo không gặp thử thách, thì đó là dấu hiệu Chúa không mấy chúc lành, và công việc của họ chỉ gặt hái được kết quả không đáng kể. Nếu quỷ dữ khuấy động, tru trếu, gầm thét, đó là vì nó sợ, nó cảm thấy công việc của nó sắp thất bại. Vậy hãy can đảm lên, khiêm nhường, tin cậy nơi Chúa, và chúng ta sẽ đạt được mục đích, bất chấp quỷ dữ, và thậm chí khó khăn hơn nữa, bất chấp tội lỗi của chúng ta”.

Trong những thời gian đầu lưu trú tại Kon Kơ Xâm, không một người dân làng nào dám lai vãng đến gần nơi chúng tôi ở. Chỉ một mình ông Hmur, hằng ngày, sau việc đồng áng, đến thăm chúng tôi. Có khi ông ngủ lại đêm với chúng tôi. Tuy rất thân thiện và tin tưởng chúng tôi, ngay đêm đầu tiên ngủ tại nhà chúng tôi đã làm cho ông một phen khiếp sợ. Đêm đến, theo thói quen, anh em người Kinh bắt đầu đọc kinh chung với nhau, hay đúng hơn là hát kinh. Giọng kinh lúc thì buồn buồn, trang trọng, lúc thì mau lẹ, ngân nga tạo cho ông một ấn tượng kỳ lạ. Ông không biết nên chạy trốn hay ở lại, muôn ngàn nỗi sợ hãi dị đoan làm xáo trộn tâm hồn ông và ông nằm “án binh bất động” vì kinh khiếp. Buổi đọc kinh kết thúc, anh em lại bắt đầu trò chuyện và cười đùa như thường. Bấy giờ, ông Hmur mới cảm thấy yên tâm. Và sau này ông đã thú nhận với chúng tôi là ông cảm thấy như được cất khỏi một khối nặng khủng khiếp đè trên lồng ngực.

Trong nhiều tháng liền, chính ông Hmur đã đảm nhận cung cấp lương thực cho chúng tôi. Năm đó, làng Kon Kơ Xâm mất mùa lúa và cơn đói bắt đầu. Do đó, dân làng không thể trợ giúp chúng tôi, dầu cho họ có thiện chí đi nữa. Vì vậy, ông Hmur buộc phải đi đến những làng khác, thường rất xa, để mua đủ gạo nuôi sống vài chục người chúng tôi lúc bấy giờ. Ngoài gạo ra, thỉnh thoảng ông mua thêm vài con gà, vài tá chuột hun khói và nhiều thứ linh tinh khác nữa. Mặc dầu, nghèo khó như tất cả đồng bào của mình, nhưng ông Hmur không bao giờ tìm cách bám víu chúng tôi để làm giàu, hay lợi dụng khi có cơ hội. Không bao giờ ông xin xỏ chúng tôi thứ gì cả, và khi chúng tôi biếu ông chút gì đó để đáp lại phần nào nỗi vất vả mất thời giờ để phục vụ chúng tôi, thì ông luôn đón nhận với lòng biết ơn, dù món quà chẳng đáng là bao.

Ông Hmur có một cô em gái góa chồng, cũng tốt lành như ông. Chính cô là người giã gạo cho chúng tôi, cũng chính nhờ cô mà các phụ nữ làng Kon Kơ Xâm không còn sợ hãi chúng tôi nữa. Ông Hmur rất thương em mình và đã nhận nuôi đứa con trai duy nhất của cô, vì vợ chồng ông son sẻ. Như vậy, gia đình họ có tất cả bốn thành viên: ông Hmur, Hmon – em gái ông, Jieng – vợ ông và Tót, con trai độc nhất của Hmon. Tôi liệt kê ra đây những cái tên này, bởi vì đó chính là danh tánh bốn người Ba Na đầu tiên mà Thiên Chúa đã ghi vào sổ hằng sống. Nếu ơn đức tin không thuần tuý là ơn nhưng không thì bốn người này thật xứng đáng lãnh nhận hồng ân đó nhờ công lao của chính họ. Sau này chúng ta sẽ thấy Chúa tỏ ra quảng đại xiết bao đối với linh hồn họ. Tấm lòng của những nhà thừa sai chúng tôi, do ơn gọi, là bạn của những linh hồn cần được cứu rỗi, chúng tôi đã yêu quý những linh hồn này bằng một tình mến đặc biệt. Vì vậy, hằng ngày chúng tôi đã cầu xin Chúa nhân lành ban cho họ ơn nhận biết và thờ phượng Người. Cha Combes thường nói: “Rồi đây anh em sẽ thấy, ông Hmur sẽ là tân tòng đầu tiên của chúng ta”. Ngài đã nói đúng!

Chúng tôi sớm hiểu rằng trong một xứ nghèo như thế này, nơi nạn đói vốn thường chiếm trọn một phần ba quỹ thời gian hằng năm, quả thật sẽ khó mà tìm đủ mua lương thực cần thiết để sống. Vì vậy, chúng tôi đã nghĩ đến việc tự mình trồng trọt quanh nhà. Không ai bảo ai, mỗi người trong đoàn đều ra sức lao động, và Chúa đã cho mồ hôi, công sức chúng tôi đổ ra sinh hoa kết trái: mùa gặt lúa đầu tiên, chúng tôi đã có đủ lương thực ăn trong sáu tháng, không cần phải tìm mua thêm.

Nhưng, trước khi đề cập đến mùa gặt này, thiết tưởng nên thuật lại một tai họa bất ngờ xảy đến, suýt nữa gây cho chúng tôi những hậu quả nghiêm trọng trong lúc phát quang rừng. Chúng tôi đốn cây, phát dọn từ nhiều ngày trước. Và khi cây đã khô, chúng tôi đốt rẫy theo cách người dân tộc quen làm; nhưng vì thiếu kinh nghiệm, chúng tôi đã không chú ý đến việc đề phòng để khoanh vùng đám cháy. Mỗi người cứ việc châm lửa vào chung quanh đám rẫy, vì thế chẳng mấy chốc ngọn lửa bùng phát lên tứ phía, bập bùng và dữ dội. Khi chúng tôi thấy ngọn lửa lan toả nhanh chóng khủng khiếp, chúng tôi vô cùng hoảng sợ. Thoạt tiên, chúng tôi tưởng ngọn lửa chỉ tác động chút ít đến các cây cối trong rừng, nhưng khi nhìn thấy ngọn lửa thiêu rụi các bụi rậm, cây con, cả những cây cao lớn như một nắm rơm khô, thì chúng tôi mới tri hô cầu cứu. May thay ngày hôm đó, tất cả dân làng Kon Kơ Xâm đều ở nhà làm việc tập thể bên trong chiến luỹ của làng. Khi nhìn thấy ngọn lửa bốc cao trên không trung, họ biết chúng tôi đang gặp tai họa và tất cả mọi người từ nhỏ đến lớn, thanh niên cũng như bô lão, đều nhanh chân chạy đến. Đám cháy vẫn không ngừng lan toả, chỉ còn vài phút nữa thì chính ngôi làng cũng sẽ trở thành mồi ngon cho ngọn lửa. Nhờ tích luỹ được kinh nghiệm, dân làng liền châm lửa đốt từ chỗ họ đứng cho lửa cháy lan tới rừng. Khi hai đám cháy tiến đến gặp nhau thì chúng sẽ mau chóng yếu đi vì không còn mồi cháy nữa, và cuối cùng lụi tắt.

Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi sợ hãi như ngày hôm đó. Nếu Chúa cho phép ngọn lửa thiêu rụi làng Kon Kơ Xâm thì may ra chỉ có phép lạ mới cứu chúng tôi khỏi mất mạng và công cuộc truyền giáo cho anh em dân tộc mới không thoát cảnh “bị bóp chết ngay khi còn trong trứng nước”. Trong ngày định mệnh đó, Cha Combes và tôi đã gặp nguy biến. Khi ngọn lửa bắt đầu bùng phát thì chúng tôi đang ở giữa rẫy. Vì chú tâm vào tai hoạ đang đe doạ, hai chúng tôi không nhận thấy mình đang bị lửa bao quanh không còn lối thoát ra. Bỗng nhiên, Cha Combes la lên: “Ô kìa, chúng ta bị nhốt giữa đám lửa! Mau mau chạy về phía bờ sông!” Nói rồi làm liền, miệng lẩm bẩm kêu cầu Đức Trinh Nữ, hai chúng tôi phóng qua đám lửa và lao mình xuống dòng sông Dak Bla. Nếu đã có lần chúng tôi thật lòng hát kinh Te Deum (Cảm tạ Chúa), thì đúng là ngày hôm ấy! Thế mới biết Chúa đã gìn giữ các thừa sai của Người như chính con ngươi mắt Chúa!

Ma quỷ hằng lợi dụng mọi điều để khuấy động anh em dân tộc chống lại chúng tôi, nên nó đã không bỏ lỡ cơ hội tốt đẹp này để gây hại cho chúng tôi. Vụ hỏa hoạn này làm chúng tôi kinh hoàng, buồn phiền khôn tả, và bị kẻ thù muôn kiếp khai thác để làm cho anh em Ba Na nghi kỵ chúng tôi nhiều hơn nữa. Đối với ai biết được tính hiếu hoà và bản chất dịu hiền nơi phong hoá của họ thì không thể giải thích khác hơn về mưu đồ mà dân làng Kon Kơ Xâm đã ngấm ngầm chống đối chúng tôi. Thật vậy, làm sao hiểu được việc họ đã muốn đến ngay tận nhà, lạnh lùng tàn sát chúng tôi, trong khi bình thường họ là những người hiền lành và rất sợ đổ máu? Nhưng ma quỷ đã nhúng tay vào; nó luôn toàn quyền thống trị trên những miền đất bất hạnh này; lòng căm thù của nó đối với các linh hồn đã luôn được thoả mãn nơi đây. Bấy giờ, vì sự hiện diện của các linh mục của Chúa Kitô, vương quốc của nó bị đe doạ sụp đổ, nên nó thử thực hiện một cố gắng cuối cùng hầu mong khỏi tan rã. Sự việc xảy ra như sau:

   Một ngày kia, dân làng Kon Kơ Xâm đang cùng uống rượu với các anh em thuộc một số làng lân cận được họ mời đến tham dự tiệc. Ông Hmur, người bạn chí cốt của chúng tôi, cũng mời chúng tôi đến đó uống rượu do chính ông làm. Hôm đó, tôi không lên cơn sốt, Cha Combes cũng không. Chúng tôi nhận lời và cùng với một vài anh em khác theo ông vào nhà rông. Mọi người đã tụ tập ở đó, trò chuyện huyên náo, uống đã hả hê, hơi men dường như bốc lên tận đầu. Ông Hmur uống ít, gương mặt mọi khi tươi vui, nay có vẻ nghiêm nghị và lo âu. Ông biết có một âm mưu đã hình thành để hãm hại chúng tôi; ông cũng biết danh tính những kẻ cầm đầu nữa. Theo âm mưu đã vạch sẵn, đêm hôm sau, thừa lúc đêm tối, bọn chúng bất ngờ đến bao vây nhà chúng tôi, đánh úp khi chúng tôi đang ngủ và sẽ giết sạch chúng tôi. Đương nhiên, người ta không lôi kéo ông Hmur tham gia vào tội ác mà ai cũng biết ông không bao giờ chấp nhận, nhưng một vài người bạn thân đã tiết lộ cho ông biết tất cả chi tiết âm mưu này. Và vì thế, không cần báo trước về mối nguy hiểm đang đe doạ chúng tôi, mà ông lại dẫn chúng tôi đến giữa nơi dân làng đang tụ tập. Ông muốn ra đòn công khai bảo vệ chúng tôi, một mình chống lại tất cả bọn họ.

Hmur là một người có thân hình cao to, lực lưỡng hơn mọi cư dân khác trong làng Kon Kơ Xâm. Lúc bấy giờ, ông khoảng bốn mươi tuổi, chân tay rắn chắc vì đang độ sung sức. Ông nổi tiếng can đảm, dân làng đã thường thấy ông dẫn đần họ, với vẻ thản nhiên xem thường nguy hiểm, một mình chống chọi với kẻ thù và bắt chúng làm tù binh. Giọng nói vang vang của ông, khi cần, gieo rắc nỗi khiếp sợ vào lòng người nghe. Tắt một lời, ông có tất cả cái dũng lực khiến kẻ khác phải nể sợ và kính phục.

Khi chúng tôi đã ngồi ở nhà rông một lúc khá lâu, ông Hmur không thể nén giận được nữa, mặt bừng bừng nộ khí, đột ngột đứng lên giữa đám đông, cất giọng sang sảng: “Tôi biết có nhiều người quy tội cho tôi đã kết bạn với những người Kinh này và trách tôi sao lại mời họ đến dự buổi tiệc rượu hôm nay. Tại sao những người Kinh này lại có những kẻ thù trong chúng ta? Họ đã làm điều gì xấu? Họ đã phạm điều gì bất công? Nếu họ ăn gạo của các người thì họ đã trả tiền và không ai ép các người bán cho họ. Có ai trong các người, từ đứa bé cho đến ông già, đã bị họ làm điều gì xúc phạm? Vậy thì hãy đứng lên xem nào, các người là những kẻ chỉ biết nói thầm, nói lén và âm mưu điều ác trong bóng tối. Đồ hèn nhát! Ai dám trả lời, tôi thách người đó đứng lên! Phải, tôi nói thẳng trước mặt cả làng rằng tôi thương những người xa lạ này, bởi vì họ tốt lành và một mình tôi đây, tôi biết bảo vệ công lý cho họ”. Nói rồi, ông lao nhanh đến bếp lửa, chụp lấy một thanh củi đang cháy, và kê sát vào cuống họng, sau đó gọi tên cầm đầu vụ âm mưu và nói: “Hỡi thằng hèn nhát, nếu mày dám chống lại tao, thì hãy theo tao mà cắn vào thanh củi này và thề kết hận với tao như tao thề kết hận với mày”. Bầu khí im lặng nặng nề bao trùm cả gian nhà mà trước đó náo động tiếng chuyện trò. Trong căn nhà rộng lớn đầy người này, người ta có thể nghe được tiếng ruồi bay qua. Không một người nào dám trả lời ông Hmur. Tên cầm đầu bị gọi đích danh thì run lên như lá cây trước gió, hắn rối rít xin lỗi và vụ việc kết thúc tại đó.

Phần chúng tôi, vì chưa rành tiếng Ba Na nên chúng tôi không hiểu chút nào màn kịch kỳ quái này. Nhưng hai ba năm sau, kẻ cầm đầu âm mưu đã trở lại Đạo, được lãnh nhận phép Rửa và trở nên một Kitô hữu sốt sắng. Lúc đó, nhớ lại tội ác mà mình đã suýt phạm, anh ta tức giận cho chính mình và để lương tâm thôi cắn rứt, anh đã đến sấp mình dưới chân Cha Combes. Anh ta biết sẽ làm cho Cha Combes ngạc nhiên và cũng biết rằng chúng tôi hoàn toàn mù tịt về mối nguy hiểm đến tính mạng mà chúng tôi may mắn thoát khỏi, tất cả là do lòng nham hiểm của anh ta, nhưng nay anh ta không thể im lặng được nữa. Anh kêu lên: “Con là kẻ khốn nạn! Thưa Cha, trước kia con đã muốn ám sát Cha. Nhưng nay, nếu ai muốn tấn công Cha thì con sẽ có mặt để bảo vệ Cha và chết vì Cha. Ai đụng đến Cha thì phải bước qua xác của con”. Và anh đã thuật lại mọi việc trên đây, cũng như những lời nói hùng hồn của ông Hmur mà lúc bấy giờ chúng tôi nghe tận tai, nhưng đã không hiểu gì cả.