Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 10 Thường Niên

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 10 Thường Niên

 

THỨ HAI TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN.

THỨ HAI TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt. 5, 1-12

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. – Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. – Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. – Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. – Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. – Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. – Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. – Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ”.

“Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy”.

 

Suy Niệm 1: Phúc thay

Suy niệm:

Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô nước Anh,

đã được mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.

Một trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc.

Theo ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả.

“Nếu bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế.

Nếu bạn không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế.

Vậy rõ ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”

Thật ra các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả,

dù mới đọc ta có cảm tưởng như vậy.

Các Mối Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”,

kế đến nói lên ai là người được hưởng phúc ấy,

cuối cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”.

Hạnh phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên

do “nhân” là việc lành phúc đức của họ.

Dù sống tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.

“Quả” hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.

Điều này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động:

“sẽ được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”

Trước khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo:

“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17).

Nước Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu.

Quà tặng nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban,

chẳng phải do công sức của con người.

Hãy mở lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ.

Nhưng hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp.

Bài giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống

của những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo.

Để nhận được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy,

cần cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn.

Sống theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy.

Không đưa tay thì cũng chẳng được quà.

Nhưng không phải cứ đưa tay là có quà,

nếu Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin.

Kitô giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả.

Cung kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa,

là hiền lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô.

Cung kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình,

là làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục.

Khi làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa,

thậm chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10).

Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới

qua những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.

Có bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu.

Chỉ khi ấy ta mói thấy thật sự lời của Ngài là Tin Mừng.

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Phúc thay !!

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su đến khai mạc Nước Trời. Tám Mối Phúc là hiến chương. Đem đến bao niềm hi vọng. Hi vọng cho ta không tìm được ở trần gian này. Sẽ tìm được trong Chúa. Trong Nước Trời. Hi vọng vì chính Chúa Giê-su đã sống lời Người loan báo. Người đã sống nghèo giữa người nghèo. Hiền lành khiêm nhường vượt bậc. Gặp nhiều đau khổ. Khiến phải rơi lệ. Toát mồ hôi máu. Nhưng luôn giữ được tâm hồn trong sạch. Và trái tim xót thương. Cả trên thánh giá. Những người sống theo Chúa Giê-su sẽ đạt tới hạnh phúc như lời Chúa hứa. Nhưng ngay từ bây giờ họ đã trở thành niềm hi vọng cho trần gian. Tìm những giá trị cao hơn của cải vật chất. Không tìm quyền lực thống trị. Nhưng tìm khiêm nhường phục vụ. Biết hi sinh cho chân lý. Biết quên mình. Quan tâm yêu thương phục vụ người khác. Đó là điều thế gian đang thiếu thốn. Đó là phúc cho trần gian.

Ê-li-a suốt đời phục vụ Chúa. Bảo vệ giáo lý chân chính. Công khai chống lại vua A-kháp. Vì vua nghe lời hoàng hậu Giê-sa-ben. Bỏ Chúa mà thờ thần dân ngoại. Bị vua A-kháp, nhất là hoàng hậu Giê-sa-ben ghét bỏ, loại trừ. Nhưng Ê-li-a luôn được Chúa an ủi. Ông đói mệt. Chúa gửi thiên thần đến nâng đỡ, mang bánh và nước cho ông. Ông ẩn trốn trong hang núi. Chúa cho suối nước chảy. Cho quạ mang bánh hằng ngày. Ông đau khổ vì trần gian bách hại. Nhưng ông được phúc vì Chúa yêu thương. Và ông trở thành phúc lành cho dân Ít-ra-en (năm chẵn).

Chính vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ tín hữu Cô-rin-tô hãy sống tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa. Khi cùng Chúa chịu đau khổ. Vì bị thế gian bắt bớ. Chính Chúa sẽ an ủi ta. Và ta cũng hãy noi gương Chúa. Được Chúa an ủi. Ta cũng hãy biết an ủi nhau. Được Chúa chúc phúc. Ta hãy trở thành phúc lành cho anh em. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúc chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Theien Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi”. Ta sẽ được phúc trên Nước Trời. Và ngay từ bây giờ ta mang phúc Nước Trời cho người trần gian (năm lẻ).

 

Suy Niệm 3: Tám mối phúc thật

Có lẽ người Công giáo nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người ngoài Kitô giáo cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống như bản thân Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối với người Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là nguồn cảm hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết gia Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?

Bản văn Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay là của thánh Mátthêu. Chúa Giêsu chỉ công bố Tám Mối Phúc Thật một lần duy nhất, nhưng được hai tác giả ghi lại; dĩ nhiên, với hai cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái nhìn của Luca có tính xã hội: Luca giải thích các mối phúc thật dưới ánh sáng giáo huấn của Chúa Giêsu về nghèo khó và việc sử dụng của cải trần thế, để từ đó đề cao giai cấp những người nghèo khổ trong xã hội; với Luca, những người nghèo thật sự là những tín hữu tiên khởi của Giáo Hội. Trái lại, Mátthêu quan tâm đến khía cạnh luân lý nhiều hơn: nếu Luca đề cao giai cấp cùng khổ, thì Mátthêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”, do đó theo Mátthêu, con người vào được Nước Trời không đương nhiên vì tình trạng nghèo khó, mà vì thái độ tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy, Mátthêu đáng giá về sự đói khát: nếu Luca nói đến những nạn nhân của bất công, tức những người đói khát cơm bánh thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói khát công lý nơi con người.

Tổng hợp hai cái nhìn khác nhau của Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa ra bài học về sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan báo không chỉ là Thiên Ðàng trong thế giới mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống tại thế này, qua những giá trị như công bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính trong những thực tại trần thế mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những thực tại Nước Trời.

Niềm tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về Quê hương đích thực là Thiên Quốc. Tuy nhiên, niềm tin hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước Trời; chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Ðây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.

Một trong những nguyên nhân khiến người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì con người không hiểu được sứ điệp của Tin Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và cuối cùng bị treo trên Thập giá là bởi vì những người đương thời không hiểu được sứ điệp và con người của Ngài. Ðó cũng chính là thân phận của người Kitô hữu trong trần thế, nhưng chính khi bị bách hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của mình, người Kitô hữu mới thể hiện được ý nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.

Chúa Giêsu đã chẳng nói: khi nào Ta bị giương cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta sao? Ðó là sức mạnh và nét hấp dẫn của Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà còn thể hiện cho đến cùng. Chết để cho sứ điệp Tin Mừng được đón nhận, đó là nghịch lý của Tám Mối Phúc Thật. Cái chết ấy được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của người Kitô hữu, nghĩa là hăng say phục vụ, sống quảng đại, liêm khiết, sống bác ái yêu thương, ngay cả chấp nhận những thua thiệt miễn là không đánh mất niềm tin của mình.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Phúc thay!

Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,

Vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay ai hiền lành,

Vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (Mt. 5, 1-4)

Những lời đầy hy vọng

Phúc thay, ai có tâm hồn nghèo khó! Phúc thay ai hiền lành! Phúc thay ai sầu khổ! Phúc thay ai xây dựng hòa bình! Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính!

Người ta thuộc lòng những lời này. Đó là cốt lõi của Phúc âm. Có lẽ Chúa Giêsu đã không bao giờ nói lời đẹp hơn. Chưa có người nào trước Người đã nói những lời chứa chan hy vọng như thế cho những ai phải sống vất vả, chiến đấu, đau khổ, đi tìm sự thiện.

Quả là những lời đầy hy vọng! Một ngày nào đây tẩt cả những ai khốn khổ hằng tin cậy vào Chúa sẽ được hạnh phúc. Một ngày nào đây công bình sẽ được thực thi. Một ngày nào đây đau khổ sẽ biến mất, tiếng khóc sẽ đổi thành niềm vui cho những kẻ tin. Mọi sự sẽ đẹp, sẽ tốt, sẽ ngon lành. Những ai rồi đây sẽ phải vất vả, chiến đấu và đau khổ mà vẫn phó thác ngả mình vào vòng tay yêu thương của Chúa, sẽ hân hoan sống bên Người.

Những lời để sống ngay bây giờ

Nhưng hạnh phúc, phải chăng chỉ ngày mai mới có? Phải chăng đến tận cùng thời gian lời Chúa hứa cho ta hạnh phúc mới được thực hiện? Mà đã là người, ai lại chẳng ước mong khi chết rồi sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc? Chính ngay bây giờ, hôm nay, ngay lập tức mà chúng ta muốn được hạnh phúc.

Hạnh phúc dù phải vất vả, dù bị người ta hiểu lầm và giễu cợt, dù bị ốm đau, dù cuộc sống vất vưởng, có thể được chăng?

Chúa Giêsu trả lời: được chứ. Ngay bây giờ, chính những ai sống theo tinh thần của tám mối phúc, người ấy sẽ hạnh phúc. Nhưng mai ngày họ sẽ hạnh phúc hơn. Và niềm hy vọng này là nguồn vui cho những kẻ ấy ngay từ hôm nay.

 

Suy Niệm 5: CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC (Mt 5, 1-12)

Xem lại CN 4 TN A, CN 6 TN C, Thứ Sáu tuần 23 TN, lễ Các Thánh 1/11.

Là con người, từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ai ai cũng đều mong muốn mình được hạnh phúc hoặc sờ chạm thấy hạnh phúc dù chỉ một chút. Thánh Tôma Aquinô cũng đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, tất cả mọi người đều khát mong hạnh phúc”. Chính vì thế, nhiều người chấp nhận đánh đổi rất nhiều để cầu mong được hạnh phúc. Ngày nay, cũng đã có nhiều người tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài.

Tuy nhiên, điều họ mong muốn và tìm kiếm đó có đúng không hay chỉ là một sự mơ tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc? Vậy, hạnh phúc đích thực là gì và ở đâu?

Hôm nay Đức Giêsu đã vạch ra cho các môn đệ và những người đương thời với Ngài những con đường để đưa đến hạnh phúc. Con đường đó là: tinh thần nghèo khó; hiền lành; chịu đau buồn vì Chúa; khao khát điều công chính và sẵn sàng chấp nhận bị bách hại vì điều công chính đó; hãy thương xót người; có lòng trong sạch; ăn ở thuận hoà. Trung thành với các “mối phúc thật” và gắn vào trong đó lòng mến thì hẳn sẽ đạt được hạnh phúc đích thực là Nước Trời.

Hôm nay, Đức Giêsu cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta đi trên con đường Chân Phúc đó để được cứu độ, hạnh phúc và bình an. Tuy nhiên, con đường đó chẳng mấy ai đi! Bởi vì nó là con đường “hẹp”, con đường của từ bỏ, của chông gai. Nhưng để đạt được niềm hạnh phúc thực sự, chúng ta không còn con đường nào khác là đi trên chính con đường mà Đức Giêsu đã đi, bởi lẽ đường rộng và lối thênh thang sẽ dẫn đến đau khổ, bất hạnh và diệt vong.

Lạy Chúa Giêsu, đã biết bao lần chúng con khước từ con đường Chúa vạch ra cho chúng con để được hạnh phúc. Ngược lại, chúng con lại lựa chọn con đường dễ dãi, thênh thang hầu thỏa mã tính xác thịt nơi mình, mà bán rẻ lương tâm, nhân phẩm của chúng con để rồi mất đi hạnh phúc thật.

Xin cho chúng con biết tìm về nguồn cội của hạnh phúc là chính Chúa, biết đi trên con đường “các mối phúc” để dẫn tới hạnh phúc đích thực. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Giái đáp vấn nạn để được hạnh phúc

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tám mối phúc thật của Chúa Giêsu chính là giải đáp cho vấn nạn làm thế nào để được hạnh phúc thật. Con người sẽ được hạnh phúc thật khi tin vào Chúa Giêsu và đón nhận sứ điệp của Người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cứ theo quan điểm thông thường của người thế gian, tám mối phúc thật mà Chúa đã tuyên bố thật ngược đời, thật khó chấp nhận, bởi loài người vẫn thường nghĩ rằng, để được hạnh phúc, phải thành đạt về tiền bạc, danh vọng và được hưởng lạc thú.

Đã có lúc chính con cũng cảm thấy tám mối phúc thật là những điều ảo tưởng. Hoặc chính con cũng lầm tưởng rằng Chúa ca tụng sự nghèo túng, và nếu sống theo lời Chúa dạy, con sẽ thành một người bạc nhược, tiêu cực và u sầu.

Lạy Chúa, Thánh Kinh cho con hiểu rằng: kẻ nghèo là kẻ coi Thiên Chúa đáng trọng hơn mọi sự ở đời. Họ không cậy dựa vào sự gì mà chỉ cậy dựa vào một mình Thiên Chúa thôi. Trong lòng của họ, Thiên Chúa được đặt chỗ cao nhất.

Vâng, lạy Chúa, xin cho con hiểu được chân lý cao siêu đó. Xin cho con biết noi gương Chúa, cảm nghiệm được cái phúc của kẻ mất mọi sự ở đời, để được chính Chúa là sự giàu sang hạnh phúc đích thực. Xin lấy đi trong trái tim con những ham muốn vật chất, những ích kỷ nhỏ nhen, những hận thù ghen ghét, và lấp đầy trái tim con bằng lòng khiêm nhường nghèo khó, bằng lòng bác ái vị tha và một tình yêu chân thật.

Lạy Chúa, Chúa chính là gia nghiệp và là hạnh phúc của con. Amen.

Ghi nhớ : “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.

 

Suy Niệm 6: Đặt niềm tin cậy vào Chúa

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Ở Hoa Kỳ, hằng năm, những hãng xăng dầu thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi tờ báo “Chicago Times Herald” vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới Waukegan cho các độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu đòi hỏi những bản đồ chỉ đường giữa các thành phố. Những tấm bản đồ vẽ ra những con đường tốt nhất, những chỗ phải đi đường vòng, những điều kiện của xa lộ, những chỗ nghỉ ngơi, đổ xăng và những điểm cần phải chú ý dọc theo bên đường…

Hạnh phúc là điều ai cũng mong tìm và đạt đến trong hành trình của cuộc sống như triết gia Aristốt đã nói xa xưa: “Hạnh phúc là cái mà tất cả mọi người tìm kiếm”. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta đường tới hạnh phúc qua tấm bản đồ tám mối phúc thật. Chính sứ mạng của Chúa Giêsu đến thế gian trao cho con người tấm bản đồ để dẫn tới hạnh phúc, một niềm vui nội tại không bị chi phối khi ta sống giữa những hoàn cảnh.

Suy niệm

Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi vào đầu sứ vụ của Ngài đã dẫn nhân loại đến với hạnh phúc bằng tám phúc. Mỗi mối phúc mà Chúa Giêsu đề cập, không được con người quan tâm như là những điều may mắn hạnh phúc, trái lại là những khổ đau mà con người luôn tránh. Những hoàn cảnh này Chúa Giêsu tuyên bố: họ hạnh phúc thật.

‘‘Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước Trời là của họ”. Người mang tinh thần nghèo khó là ‎ý thức thân phận thiếu hụt của mình nên sẵn sàng mở tâm hồn để Thiên Chúa làm tràn đầy ân sủng. Chính trong thân phận nghèo, họ cảm nhận được sự thiếu thốn và sẵn sàng chia sẻ với anh em cùng khổ.

‘‘Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp”. Hiền lành và khiêm nhường trong lòng, đó là những gì Chúa Giêsu đã sống và kêu gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29).

‘‘Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”. Trong đau khổ con người tham dự vào cuộc thương khó của Đức Kitô, Đấng chia sẻ với những bước đường đau khổ của kiếp người. Tình trạng khổ dưới mắt người đời là vô phúc nhưng được Thiên Chúa chúc phúc và cho tham dự vào cuộc khổ nạn của Thiên Chúa, cho nên chính họ được tham dự vào hạnh phúc vinh quang trong Đức Kitô Phục sinh.

‘‘Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng”. Khao khát nên người công chính là khao khát chính Thiên Chúa và ai trở nên người công chính sẽ được Thiên Chúa bảo vệ: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa (Kn 3,1), hơn nữa: “Thiên Chúa yêu người công chính” (Tv 145).

‘‘Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Như Chúa Giêsu đã mang trái tim nhân ái xót thương tất cả mọi người, ngay cả những người tội lỗi, Ngài dạy con người lòng xót thương tha thứ trong Kinh Lạy Cha (x. Lc 11,4).

‘‘Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Tâm hồn trong sạch được khắc ghi Luật Chúa (x. Tv 40, 9). Yêu mến Chúa (x. Mt 22,37; Mc 12,30; Lc 10,27). Được gặp Chúa thổ lộ tâm tình như người yêu với người yêu (x. Hs 2,16-18; 21-22).

‘‘Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Người xây dựng hòa bình trên trái đất là đang tham gia thiết lập vương quốc hòa bình mà Thiên Chúa thiết lập Nước Trời bắt đầu nơi trần gian.

‘‘Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì nước Trời là của họ”. Chính trong lúc bị bách hại là cùng chịu khổ nạn và cùng được phục sinh vinh quang với Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết: “…vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17).

Hạnh phúc được tính bởi tinh thần với sức mạnh, chúng ta tranh đấu với những vấn đề cuộc sống. Hạnh phúc được sinh ra trong lúc chúng ta đặt trong tim mình những công trình và thực hiện với sự vui mừng và hoan hỉ trong Thiên Chúa bất chấp mọi hoàn cảnh.

Ý lực sống :

‘‘Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa” (Tv 40,5).

 

Suy Niệm 7: Tám mối phúc thật (Mt 5,1-12)

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Hôm nay Chúa Giêsu đã vạch ra cho các môn đệ và những người đương thời với Ngài những con đường để đưa đến hạnh phúc. Con đường đó là: tinh thần nghèo khó, hiền lành, chịu đau buồn vì Chúa, khao khát điều công chính và sẵn sàng nhận bị bách hại vì điều công chính đó, hãy thương xót người, có lòng trong sạch, ăn ở thuận hoà. Trung thành với các “mối phúc thật” và gắn vào trong đó lòng mến thì hẳn sẽ đạt được hạnh phúc đích thực là Nước trời.

Hạnh phúc! Một điều mơ ước muôn thuở của con người. Tuy người ta chưa đồng ý với nhau về một định nghĩa của hạnh phúc, nhưng mọi người đều nỗ lực tìm đến hạnh phúc bằng mọi phương tiện và bằng bất cứ giá nào. Giấc mơ lớn nhất của con người là hạnh phúc. Từ xa xưa, triết gia Aristote đã cảm nghiệm được điều này khi ông nói: “Hạnh phúc là một cái mà tất cả mọi người đều tìm kiếm”. Còn triết gia Blaise Pascal bảo rằng: “Ai cũng đi tìm hạnh phúc, kể cả người thắt cổ tự tử”.

Có thể qui tất cả 8 đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo”. Người có tâm hồn nghèo là người:

Mặt tiêu cực: không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này… (nói cách khác: không màng đến nước trần gian).

Mặt tích cực: chỉ ước ao sống tốt theo thánh ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành Thiên Chúa (nói cách khác: được sống trong Nước trời).

Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của Kitô hữu là vứt hết những gì mình có, để được lấp đầy bằng chính Chúa (Lm Carôlô)

Vậy hạnh phúc là gì? Thực ra chưa có một định nghĩa nào về hạnh phúc khả dĩ thúc đẩy mọi người phải công nhận, nhưng xét cho cùng, đối với chúng ta thì hạnh phúc là được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim. Con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và được trở về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy rằng hạnh phúc của con người là được ở trong Nước Thiên Chúa.

Con người trần thế tìm đủ mọi cách để dành cho được giàu sang, quyền thế, cho dù phải gây thù chuốc hận, cho dù phải gây ra những cuộc chiến tranh tương tàn khốc hại… Đang khi đó Chúa Giêsu lại cho nghèo là một mối phúc. Chắc chắn Ngài không ủng hộ thứ nghèo làm giảm phẩm giá con người. Ngài muốn cho con người có được sự giàu sang vĩnh cửu: được cả Nước trời làm gia nghiệp, chứ không phải thứ giàu sang chỉ đem lại cho con người niềm hạnh phúc chóng vánh ở đời này. Để đạt được thứ giàu sang vĩnh viễn ấy phải biết làm cho mình nghèo đi những thứ của cải tạm bợ và giả trá. Đó là “nghèo”: – nắm giữ chức quyền nhưng không tham quyền cố vị, trái lại phục vụ trong khiêm tốn; – làm ra của cải vật chất nhưng không bị lệ thuộc vào chúng, trái lại biết “hằng ngày dùng đủ” và cảm thông chia sẻ với nhau trong tình anh em. Nghèo như thế, chiến tranh, hận thù mới biến mất, và thế giới này chỉ có tình mến chan hòa. Nghèo như thế mới là hạnh phúc (5 phút Lời Chúa).

Niềm tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về quê hương đích thực là Thiên quốc. Tuy nhiên, niềm tin tưởng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước trời; chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Đây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời (Mỗi ngày một tin vui).

Truyện: Quỷ dữ cũng khát khao hạnh phúc

Một hôm khi cầu nguyện, một linh mục xin Chúa cho tra vấn một tên quỷ:

‘‘Nhân danh Chúa, ta hỏi mi: đâu là hạnh phúc nhất?’’ 

‘‘Dĩ nhiên là thiên đàng. Ôi, được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc. Nếu có lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu thế gian và mọi tinh tú trong vũ trụ, rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Chúa, thì tất cả cũng chỉ là con số không.’’

‘‘Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi đánh mất hạnh phúc thiên đàng?’’

‘‘Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận. Lúc này dù phải chịu tất cả mọi cực hình hoả ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sàng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng thiên đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi!’’

Thì ra ngay cả quỷ dữ cũng khao khát hạnh phúc (Chờ đợi Chúa).

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Đặt trong sơ đồ chung của Tin Mừng Mátthêu:

Bắt đầu từ hôm nay phụng vụ chọn đọc Tin Mừng theo thánh Mátthêu. Các bài Tin Mừng từ hôm nay đến Thứ Sáu Tuần thứ 12: các chương 5-7 nằm trong Bài Giảng Trên Núi, trong đó Chúa Giêsu công bố những giáo lý then chốt của Ngài để ai sống theo thì sẽ được vào Nước trời.

Phân tích

Người ta quen gọi đây là bản Hiến Chương Nước trời. Nước trời là nước hạnh phúc. Muốn vào nước đó phải có 8 đức tính căn bản là:

1/ Tâm hồn nghèo.

2/ Hiền lành.

3/ Sầu khổ.

4/ Khao khát nên đức công chính.

5/ Xót thương người.

6/ Tâm hồn trong sạch.

7/ Xây dựng hòa bình.

8/ Chịu bách hại vì đức công chính.

Suy gẫm

  1. Có thể quy tất cả đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo.” Người có tâm hồn nghèo là người không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc, danh lợi lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này, nói cách khác: không màng đến nước trần gian.

Vì căn bản hạnh phúc có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của Kitô hữu là vứt hết những gì mình có, để được lấp đầy bằng chính Chúa.

  1. Hạnh phúc là gì?

Xét cho cùng, hạnh phúc là được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó chỉ được hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim. Con cá chỉ được hạnh phúc khi được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và được trở về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy hạnh phúc của con người là được ở trong nước Thiên Chúa.

  1. Một hôm khi cầu nguyện, một linh mục xin Chúa cho tra vấn một tên quỷ:

– Nhân danh Chúa, ta hỏi mi: Đâu là nơi hạnh phúc nhất?

– Dĩ nhiên là Thiên đàng. Ôi, được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc. Nếu có lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu thế gian và mọi tinh tú trong vũ trụ, rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Thiên Chúa, thì tất cả cũng chỉ là một con số không.

– Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi đánh mất hạnh phúc thiên đàng?

– Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận. Lúc này dù phải chịu tất cả những cực hình hỏa ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sàng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng thiên đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi!

Thì ra ngay cả quỷ dữ cũng khao khát hạnh phúc.

4.”Phúc thay cho anh em vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5, 11)

Ngày 19-6-1988 cả Giáo hội Việt Nam vui sướng vì 117 vị Tử Đạo đã được phong hiển thánh. Những nỗi đớn đau tủi nhục vì Chúa Kitô của các Ngài đã được chúc phúc.

Hôm nay, chúng ta cũng không thoát khỏi những khó khăn, đau đớn và tủi nhục trong cuộc chiến cam go loại bỏ tật xấu, dứt khoát với tội lỗi, hay những suy nghĩ tiêu cực nơi chính bản thân. Cuộc chiến ấy đòi hỏi chúng ta phải cam đảm.

Xin các thánh Tử Đạo Việt Nam thông truyền cho chúng con dòng máu tôi khuất của các Ngài và giúp chúng con biết chiếu tỏa tôn nhan Thiên Chúa nơi chính con người và cuộc sống của chúng con.

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Người ta quen gọi đây là bản Hiến Chương Nước Trời.Nước Trời là nước hạnh phúc. Muốn vào nước đó phải có 8 đức tính căn bản sau đây:

1/ Tâm hồn nghèo.

2/ Hiền lành.

3/ Sầu khổ.

4/ Khao khát nên người công chính.

5/ Xót thương người.

6/ Tâm hồn trong sạch.

7/ Xây dựng hòa bình.

8/ Chịu bách hại vì đức công chính.

Có thể quy tất cả đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo”. Người có tâm hồn nghèo là người:

– Về mặt tiêu cực: không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc, danh lợi lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này, nói cách khác: không màng đến những gì nước trần gian tìm kiếm.

– Vì căn bản hạnh phúc  có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của Kitô hữu là vứt hết những gì mình có để được thanh thản tự do và để được lấp đầy bằng chính Chúa.

Khi hoàng đế Napoléon của nước Pháp, người chinh phục cả Âu Châu bị đày sang đảo Sainte Helène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều được ghi chép lại, không một biến cố nào được bỏ qua.

Một hôm, biết rằng, ngày tận cùng của Napoléon đã gần đến. Lúc Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử mới hỏi Hoàng đế:

– Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất ?

Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài, rồi quay lại nói với người viết tiểu sử của ông:

– Ta nhớ, ta nhớ rất rõ ngày hạnh phúc nhất trong đời ta đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi, khi còn bé. Đó là ngày ta Rước lễ lần đầu.

  1. Như vậy, hạnh phúc là gì ?

Xét cho cùng, hạnh phúc là được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó chỉ được hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim. Con cá chỉ được hạnh phúc khi được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và phải được trở về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy hạnh phúc của con người là được ở trong Nước Thiên Chúa.

Một hôm khi cầu nguyện, một Linh mục xin Chúa cho tra vấn một tên quỷ:

– Nhân danh Chúa, ta hỏi mi: Đâu là nơi hạnh phúc nhất ?

– Dĩ nhiên là Thiên Đàng. Ôi, được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc. Nếu phải lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu thế gian và mọi tinh tú trong vũ trụ, rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Thiên Chúa, thì tất cả cũng chỉ là một con số không.

– Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi đánh mất hạnh phúc Thiên Đàng ?

– Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận. Lúc này dù phải chịu tất cả những cực hình hỏa ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sàng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng Thiên Đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi!

Thì ra ngay cả quỷ dữ cũng khao khát hạnh phúc. (Chờ đợi Chúa)

  1. Làm sao để có được hạnh phúc ?

Hạnh phúc hay không là tuỳ ở ta.

Ngày xưa, tại một quảng trường của thành phố nọ ở Ba Tư, có nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.

Một hôm, giữa lúc mọi người đang say mê lắng nghe lời nhà hiền triết, thì có một mục tử từ trên núi xuống. Nghe tiếng đồn về sự khôn ngoan thông thái của nhà hiền triết, anh muốn được chứng kiến tận mắt, nghe tận tai, và nhất là để hạ nhục ông giữa đám đông. Anh đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt con chim nhỏ và hỏi:

– Thưa ngài, tôi nghe nói ngài là nhà thông thái khôn ngoan, ngài có thể cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay là con chim sống hay con chim chết ?

Nhà hiền triết biết đó là một cái bẫy. Nếu ông bảo rằng, con chim còn sống thì tức khắc người mục tử sẽ bóp con chim chết trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng, nó đã chết, thì người mục tử sẽ mở bàn tay ra để con chim bay đi. Sau một lúc im lặng trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết trả lời:

– Con chim ngươi cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết.

Chúa Giêsu đã từng nói: “Thiên Đàng ở ngay trong lòng của ngươi”. (Lc 17,19)

Lạy Chúa,

Chúa đã chịu chết và sống lại,

xin dạy chúng con biết chiến đấu

trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.

Chúa là mặt trời tỏa sáng tình yêu Cha,

là hy vọng hạnh phúc bất diệt,

là ngọn lửa tình yêu nồng nàn.

Xin lấy niềm vui của Người

mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ,

trở thành mối dây yêu thương,

bình an và hiệp nhất giữa mọi người. Amen.

Mẹ Têrêsa Calcutta

 

 

THỨ BA TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 5, 13-16

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.

Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.

 

Suy Niệm 1: Muối cho trái đất

Suy niệm:

Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,

là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,

hay đơn giản là người bạn của Ngài.

Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.

Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,

những người vừa được nghe các Mối Phúc,

Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ.

“Các con là muối cho trái đất” (c. 13).

“Các con là ánh sáng cho thế giới” (c. 14).

Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.

Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất.

Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau.

Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi.

Muối có nhiều công dụng.

Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.

Muối cần cho sự sống thường ngày con người.

Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ.

Họ cần cho trái đất này,

Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.

Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn.

Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.

Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).

Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.

Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi.

Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có.

Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người.

Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.

Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,

khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.

Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được.

Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại.

Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy.

Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.

Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình,

nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.

Một phần ba thế giới là Kitô hữu,

bẩy phần trăm người Việt Nam là Công Giáo.

Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay.

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,

nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,

nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu,

nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,

thì thế giới này sẽ đổi khác,

Hội Thánh sẽ đổi khác.

Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.

Nếu khối bột chẳng được dậy lên,

thì là vì men đã mất phẩm chất.

Chúng con phải chịu trách nhiệm

về sự dữ trên địa cầu :

có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.

Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,

nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.

Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,

chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,

giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,

nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,

dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.

Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,

và không cho chúng con được yên ổn.

Ước gì một tỉ người công giáo

chịu để Chúa chi phối đời mình

và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.

Như thế vũ trụ này

trở thành vũ trụ của Thiên Chúa. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Muối và Ánh Sáng

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sau khi giảng bài Tám Mối Phúc, Chúa Giê-su nói các môn đệ phải là muối và ánh sáng. Hiển nhiên là muối mang vị mặn thiên đàng. Và ánh sáng Nước Trời. Quả thật thế gian đang hư hỏng vì thói cạnh tranh. Tìm tiền của. Mạnh hiếp yếu. Tìm hưởng thụ vui chơi. Tàn nhẫn. Lương tâm hoen ố. Áp bức. Người tông đồ của Chúa cần có vị muối mặn và ánh sáng của Tám Mối Phúc. Không coi trọng tiền của. Tránh xa quyền lực. Giữ tâm hồn trong sạch. Biết cảm thương. Hiền lành khiêm nhường. Để ướp mặn thế gian. Để soi sáng thế gian. Thế gian sẽ không bị hư hỏng. Thế gian sẽ biết đi trong ánh sáng. Đến hạnh phúc.

Phao-lô là muối mặn của Chúa. Là ngọn đèn sáng của Chúa. Nơi ngài rạng ngời hương vị Tin Mừng. Giữa thế giới điên đảo gian dối hỗn độn, ngài làm chứng về một Thiên Chúa chân thật, trường cửu. Không lập lờ vừa “có” lại vừa “không”. Nơi Người chỉ là “có”. Là thực tại. Là sự thật. Là trường cửu. Chúa đã hứa ban hạnh phúc Nước Trời là đúng thật. Lời hứa còn được củng cố bằng việc Chúa xức dầu và ban Thần Khí cho ta: “Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người. vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen” để tôn vinh Thiên Chúa. Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (năm lẻ).

Ê-li-a cũng là muối và là ánh sáng của Chúa. Giữa một dân tộc hư hỏng vì chạy theo vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben, ông vẫn giữ lòng trung tín với Chúa. Muối đó ướp mặn bà goá Xa-rép-ta. Khiến cho bà tin tưởng vào Chúa. Không tìm chạy theo lợi lộc vật chất. Nhưng đã hi sinh phục vụ vị tiên tri. Tiên tri chiếu lên ánh sáng của Chúa. Ánh sáng sự thật. Nên lời hứa của tiên tri được thực hiện. “Ông Ê-li-a nói với bà: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói….Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”. Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán” (năm chẵn).

Chúng ta hãy dám sống sự thật của Tám Mối Phúc. Chắc chắn Chúa sẽ thực hiện lời hứa. Ban phúc cho ta. Và ban phúc cho những người nghe và tin vào Lời Chúa. Bấy giờ ta trở nên muối và ánh sáng cho thế gian.

 

Suy Niệm 3: Muối và Ánh Sáng

Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.

Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.

Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô giáo.

Muối và đèn soi vốn là những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội. Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh ấy như sau: “Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn rao giảng Tin Mừng của Chúa”.

Ðã có một lúc Giáo Hội gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn. Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.

Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.

Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.

Nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Muối và Ánh Sáng

Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà đã nhạt đi, thì lấy gì muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (Mt. 5, 13-14)

Thế giới chẳng đẹp gì

Thế giới chẳng đẹp đẽ cho lắm. Nào là chiến tranh, bất công, bạo lực và hận thù tràn lan. Bạn cứ đọc báo là thấy ngay! Chỗ này chỗ kia, người ta đâm chém nhau, ăn cắp của nhau, đánh lộn nhau, sâu xé nhau. Đâu đâu người ta cũng thấy phô ra cái chẳng đẹp, chẳng tốt, chẳng sạch. Xa xa thì ở nơi nhà hàng xóm, mà cần gì phải đâu xa ngay tại nhà mình cũng có nữa.

Người ta không yêu nhau nhiều. Chắc chắn là không đủ. Có nhiều những người bất hạnh hơn là phải có. Có quá nhiều phụ nữ bị bỏ rơi đang khóc. Quá nhiều trẻ em bị hành hạ. Quá nhiều người nghèo khổ chẳng ai thèm chú ý tới. Có quá nhiều mảnh đời đủ mọi hạng tuổi mà thật ra chẳng được bao nhiêu thú vui để sống.

Lãnh đạm đủ rồi!

Trước những thảm cảnh đó, ta phải làm gì? Có thể làm gì? Có người lên tiếng! Thì đã có chính phủ để mắt tới! Thì đã có những nghiệp đoàn họ lo! Thì đã có những cơ quan cứu trợ xã hội để họ làm tốt công việc của họ!” Chỉ có giải pháp đó thôi sao?”

Chúa Giêsu có những lời mà người nghe phải hiểu rằng có một giải pháp khác. Chúa nói với chúng ta: “Anh em là muối đất. Anh em là ánh sáng trần gian”. Người còn phán: “Chính anh em phải làm cái gì đó. Chính anh em phải động đậy lên, phải nhúng tay vào. Chính anh em phải thay đổi thế giới một chút. Chính anh em phải giúp đỡ người ta được hạnh phúc hơn một chút, được tốt hơn một chút, được có tình huynh đệ hơn nữa”.

Chúng ta có là muối mặn không? Là ánh sáng chiếu soi không? Nếu chúng ta là những kẻ chẳng soi sáng cho ai, chẳng khích lệ ai, chẳng nâng dỡ ủi an ai, chẳng đem đến cho ai nụ cười; nếu chúng ta là những người lãnh đạm ơ hờ. Chà!…Một phần nào đó chính là vì chúng ta mà thế giới không khá hơn đó.

 

Suy Niệm 5: MUỐI PHẢI LÀ MUỐI (Mt 5, 13-16)

Xem lại CN 5 TN A.

Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khỏe của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải,  co bắp thịt, đau cơ, uể oải, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng… là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng xát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối… Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”.

Hôm nay, Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: “Chính anh em là muối cho đời”. Nhưng liền sau đó, như một sự cảnh báo trước: “Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó?”.

Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiên nhường, yêu thương, tự hủy, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm… thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta.

Muốn được như thế, như những hạt muối, chúng phải chịu hòa tan trong nước thì mới có giá trị, người Kitô hữu muốn trở nên chứng nhân, thì cũng phải tan hòa cuộc đời như những hạt muối, chấp nhận từ bỏ cái tôi ích kỷ để trở thành hữu dụng cho tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vẫn mãi là muối mang vị mặn của Chúa, để chính Chúa ướp chúng con và cũng để chúng con cùng Chúa ướp cho đời khỏi bị hư thối bởi những trào lưu tục hóa trong thế gian này. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Sự sáng thế gian

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Người môn đệ Chúa Giêsu phải là muối, là ánh sáng cho trần gian. Đời sống thánh thiện theo Tin Mừng sẽ gìn giữ xã hội khỏi suy thoái và giúp xã hội thăng tiến.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hàng ngày con nhìn thấy biết bao tội ác diễn ra quanh con. Đời sống luân lý ngày càng suy thoái. Những trào lưu xấu và những lý thuyết lầm lạc, đang lôi kéo và làm hư hỏng nhiều tâm hồn. Đứng trước thực trạng bi đát ấy, người ta đã báo động, la ó. Nhiều người thiện chí đã cố gắng ngăn chặn điều xấu và làm một cái gì đó tích cực để lôi kéo xã hội thăng tiến. Nhưng trái lại, rất nhiều người vẫn thờ ơ, thậm chí còn gieo rắc tội ác để đẩy xã hội xuống vực thẳm.

Lạy Chúa, con là môn đệ của Chúa. Chúa muốn con hơn ai hết phải tích cực tiêu diệt sự xấu, sự dữ, sự lầm lạc và gieo rắc điều tốt, điều lành, điều đúng. Chúa trao cho con sứ mạng trở thành muối và ánh sáng cho đời. Thế mà nhiều lúc đời sống Kitô hữu nơi con đã xuống cấp. Muối thánh thiện nơi con đã trở nên nhạt nhẽo, ánh sáng nơi con đã lu mờ và đem úp dưới thùng. Thậm chí lắm lúc con đã lôi kéo anh chị em vào con đường tội ác, sai trái.

Lạy Chúa, xin tha thứ cho con. Xin ướp mặn lại đời con bằng ân sủng và sự thánh thiện của Chúa. Xin Chúa giúp con đừng bao giờ hợp tác với điều xấu, trái lại, xin cho con can đảm tiêu diệt điều xấu bằng cách làm điều tốt, dù có bị thiệt thòi hay bị cười chê. Xin Chúa thúc đẩy con dám nói chân lý, dám sống theo phúc âm, dám lôi kéo người khác đi trên đường ngay nẻo chính. Amen.

Ghi nhớ : “Các con là sự sáng thế gian”.

 

Suy Niệm 7: Muối ướp đời

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Mahatma Gandhi (1869 – 1948), nhà ái quốc và được tôn vinh là vị cha già dân tộc Ấn Độ, cũng là vị thánh của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng đường lối ôn hòa bất bạo động.

Một hôm người ta hỏi ông rằng: “Trước thảm họa nguyên tử, ngài sẽ làm gì?”

Ganhdi trả lời: “Tôi sẽ cầu nguyện”.

Gandhi là người rất yêu mến giáo huấn của Chúa Kitô, nhưng khi được hỏi thêm: “Vì sao ngài không theo đạo Công giáo?”

Ông trả lời: “Phúc Âm của Chúa thì rất tốt lành, nhưng người công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi”.

Sau đó ông còn nói thêm: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập tức”.

Chính vì không sống đúng tư cách người môn đệ Chúa Kitô, người tín hữu đã làm che mờ Chúa Kitô nên Gandhi đã không đến với Đạo Kitô. Câu trả lời của Gandhi làm cho chúng ta cảnh tỉnh nhớ lại Lời Chúa nói trong Tin Mừng Mt 5,13-16: “Các con là muối ướp đời, là ánh sáng cho trần gian”.

Suy niệm

Người môn đệ trở nên như muối, là muối thì luôn có vị, muối không được lạt đi! Tác giả Cl. Tassin chú giải: “Các môn đệ đem hương vị cho đời và bảo đảm sự sống còn của thế gian trước mặt Thiên Chúa. Nhưng nếu họ không đảm đương được công việc này và đánh mất tinh thần các mối phúc, họ sẽ chẳng còn giá trị gì và Thiên Chúa sẽ từ bỏ họ” (Theo Tin Mừng thánh Mátthêu, Centurion, 1991, tr.62). Không chỉ trở nên vị mặn và hữu dụng như tính chất của muối, người môn đồ phải trở nên ánh sáng của nhân loại (x.Pl 2,15; so sánh với Ep 5,8-14), là tham dự vào sự sáng của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là ánh sáng của thế gian” (Lc 2,32; Ga 8,12; 12,35). Nguồn ánh sáng cứu độ như Thánh Vịnh đã tuyên xưng: “Đức Chúa là ánh sáng và là sự cứu chuộc của tôi” (Tv 27,1).

Ánh sáng cũng được sử dụng như là một biểu tượng trong Kinh Thánh, thường chỉ sự mặc khải cứu độ của Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia đã loan báo, người Tôi tớ Giavê được công bố là “ánh sáng muôn dân” (Is 49,6); và Israel cũng phải là ánh sáng cho dân ngoại (x. Is 42,6).

Giáo lý Công giáo số 1216 xác định: Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bản thân họ là “ánh sáng”. Cho nên, thánh Phaolô mời gọi mỗi chúng ta: “Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Chúng ta đều được mời gọi nên như muối và ánh sáng:

Phaolô cũng đồng hóa “muối” với “sự khôn ngoan”và ngài mời gọi chúng ta trong từng lời ăn tiếng nói phải mang vị mặn mà của muối: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương” (Cl 4,5-6).

Trong ý nghĩa đó, mỗi hành động của chúng ta cũng phải mang hương vị mặn mà của tình yêu đậm đà sẵn sàng chia sẻ với anh chị em mình. Mỗi khi dấn thân, tham gia gánh vác công việc trong xã hội, Giáo hội cũng phải chan chứa vị mặn muối của trách nhiệm công vụ vì anh chị em.

Khi mang lời mặn mà dễ thương, hành động thắm nồng tình yêu, tinh thần trách nhiệm, người Kitô hữu đã trở nên ánh sáng như Công đồng Vaticanô II đã chỉ rõ: “…Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa”, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).

Tuy nhiên, khi chúng ta đi vào sống ở giữa và trong thế gian, dưới sự ảnh hưởng của các thế lực bóng tối, hương vị của muối trong chúng ta có thể trở nên nhạt, đèn của chúng ta có thể bị hết dầu nên lụi tàn ánh sáng. Để tìm lại được hương vị mặn và dầu cho đèn sáng, cần được ướp lại bằng vị mặn của Đức Giêsu, ngọn đèn cần được nuôi bằng dầu tình yêu của Ngài qua các bí tích đặc biệt là bí tích Hòa Giải: Được tha thứ, chữa lành và thêm sức mạnh và bí tích Thánh Thể để được kết hiệp với Chúa Giêsu bằng sức sống thánh và tình yêu dâng hiến.

Từng bước đi và sống trong dương gian xin cho chúng con luôn tâm niệm như Chúa mời gọi là muối là ánh sáng.

Ý lực sống:

Chọn con là đèn

soi giữa thế trần.

Làm muối mặn mà

ướp đời dương gian…

 

Suy Niệm 8: Muối đất và ánh sáng (Mt 5,13-16)

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Sau khi Chúa Giêsu cho biết phải có 8 đức tính như bài Tin mừng hôm trước để có thể làm công dân Nước trời, Ngài bảo các môn đệ phải làm chứng cho Ngài: phải trở nên muối ướp mọi người cho khỏi hư hỏng; phải trở nên ánh sáng soi cho mọi người nhìn biết Chúa. Nếu các môn đệ là muối, là ánh sáng mà đã lạt, đã bị che khuất đi, nghĩa là không lo làm gương sáng gương lành, thì sẽ không giúp ích được gì cho ai, mà sẽ ra vô dụng bất lợi nữa.

Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.

Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống toả lan tình người. Dù chỉ là ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của người Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho sự sống (Carôlô).

“Chính anh em là muối cho đời”

Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khoẻ của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng… là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng sát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối… Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”.

Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiêm nhường, yêu thương, tự huỷ, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm… thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối, vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta (Ngọc Biển).

“Chính anh em là ánh sáng cho thế gian”

“Thiên Chúa là ánh sáng” (1Ga 1,5), và chỉ có Chúa Giêsu mới dám nhận mình là ánh sáng. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ là Kitô hữu chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian. Vì thế, muốn trở thành ánh sáng như Chúa Giêsu, chúng ta phải ở gần Người và kết hợp với Người, bởi “gần đèn thì ta được tỏa sáng”. Chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian khi phản chiếu vinh quang Chúa bằng đời sống chứng nhân:

Người Kitô hữu là con cái sự sáng, phải dùng đời sống gương mẫu và chứng tá của mình để soi dẫn cho người chung quanh biết đường về cùng Chúa.

Ánh sáng Tin mừng của Chúa phải được minh chứng qua lối sống của người Kitô hữu.

Chính đời sống của người Kitô hữu phải là bài giảng Tin mừng cho thế gian: hoạt động của người Kitô hữu phải là dịp cho người ta ca tụng Thiên Chúa; vai trò của người Kitô hữu trong thế gian phải như ánh đèn chiếu sáng chân lý của Chúa, Tin mừng của Chúa cho mọi người.

Trở nên muối đất và ánh sáng thế gian bằng cách nào?

Bằng chứng tá cuộc sống của mình, bằng lời nói ăn khớp với việc làm, không phải vừa có vừa không như thánh tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu thành Côrintô, mà phải luôn rõ ràng, dứt khoát, hoặc có hoặc không, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung tín và chân thật, một khi hiểu được sứ mệnh của mình thì đời sống người Kitô hữu không thể nào là tầm thường hoặc vô ý nghĩa được.

Tất cả mọi công việc dù nhỏ nhặt và tầm thường đến mấy đi nữa cũng không bị mất mát hoặc vô dụng, nhưng sẽ nên như một tia sáng lóe lên xóa tan tăm tối, sẽ như một cây cỏ làm cho mảnh vườn thêm xinh tươi, sẽ như một bông hoa nhỏ làm cho cảnh vườn thêm màu sắc, sẽ như một viên gạch xây dựng toà nhà xã hội và như những giọt nước tụ hợp lại để trở thành biển cả mênh mông.

Truyện: Ảnh hưởng của gương sáng

Có những lời nói và việc làm rất vô tình nhưng gây một ảnh hưởng rất lớn. Đức Hồng y Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:

Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh vỡ lọ nước. Vị linh mục tức giận tát cậu bé và thốt lên: “Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa”. Cậu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy là Titô.

Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính toà, lúc đó tôi lên 7 tuổi. Trong một phiên giúp lễ, tôi cũng đánh rơi cái lọ. Tôi sợ tưởng chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ là Đức cha rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ học ở trường nào? Con có bao giờ nghe nói tới Louvain không?” Tôi đáp: “Thưa Đức cha, chưa”. Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ con rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường Đại học Louvain”. Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.

Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về hướng này, còn Titô thì đi về hướng ngược lại (Chờ đợi Chúa).

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Sau khi Chúa Giêsu cho biết cần phải có 8 đức tính để được vào làm công dân Nước trời, Ngài khuyến khích các môn đệ cố gắng sống 8 đức tính ấy: người nào sống 8 đức tính ấy thì cuộc sống của người đó sẽ có ảnh hưởng tốt như muối và ánh sáng vậy. Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt: Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường xung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.

Ánh sáng thì rực rỡ huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật.

Cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh mới gây tác động: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụi xuống.

Lý do để tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải vất đi.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu tuy có khác nhau: có người ân thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.

Là muối đất, là ánh sánh thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn lu mờ giữa biển khơi, chứng từ của Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.

  1. Muốn tác động tốt thì phải chấp nhận hy sinh, hao mòn.
  2. Muối làm thức ăn thêm ngon. Là muối của cuộc đời, Kitô hữu phải sống sao cho người ta thấy được “khẩu vị” của cuộc sống, thấy sống mà vui, sống mà đáng.

Ánh sáng làm cho khung cảnh thêm huy hoàng rực rỡ. Là ánh sáng thế gian, Kitô hữu sống ở đâu thì nơi đó phải thêm hạnh phúc, tươi vui lạc quan hơn.

  1. Có những lời nói và việc làm rất vô tình nhưng gây ảnh hưởng rất lớn. Đức Cha Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:

Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh rơi lọ nước. Vị Linh mục tức giận tát cậu bé và thét lên: “Cút đi và đừng bao giờ trở lại đây nữa”. Câu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy tên là Titô.

Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính tòa, lúc đó tôi lên bảy tuổi. Trong một phiên giúp lễ tôi cũng đánh rơi lọ rượu. Tôi sợ tưởng đến chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ Đức Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ vào học ở trường nào  ? Con có bao giờ nghe nói Louvain không  ?” Tôi đáp: “Thưa Đức Cha chưa”. Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường đại học Louvain”. Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức Linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.

Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về một hướng này, còn Titô đi về hướng ngược lại. (Trích “Chờ đợi Chúa”)

  1. “Chính anh em là muối cho đời”. (Mt 5,13)

Lúc trước tôi có dịp ra Huế. Khi lên đèo hải vân, tôi thấy mấy người công nhân đang đập đá, mặt nhễ nhãi mồ hôi, chiếc áo bạc màu bám chặt lấy thân gầy. Và tôi tự hỏi: “Nếu không có những giọt mồ hôi đó, không có những tấm lưng cong oằn, cháy nắng ấy thì đèo hải vân liệu có rộng hơn, đẹp hơn và an toàn hơn cho khách đi đường trong đó có tôi không  ?

Có biết bao người trong xã hội đã và đang “ướp mặn” cho cuộc sống. Phần tôi, xấu hổ vì cảm thấy mình chưa phải là muối, là men cho môi trường mình đang sống.

Lạy Chúa, xin cho con được trở thành muối cho đời qua công việc yêu thương và phục vụ hằng ngày. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: Muối và ánh sáng

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúa Giêsu lấy hai hình ảnh muối và ánh sáng để nói lên vai trò của các môn đệ ở trần gian, phải có ảnh hưởng trên kẻ khác.

  1. Muối cho đời.

Khi bảo Kitô hữu là muối của đời, Chúa muốn nói gì ? Tại sao Chúa lại bảo chúng ta là muối ? Ngày nay muối là thứ gia vị rẻ tiền hơn hết, nhưng cũng thiết yếu hơn hếtChúa không có ý coi thường hay hạ giá chúng ta qua ẩn dụ này. Có lẽ nhiều người trong chúng ta muốn Chúa ví mình như vàng như ngọc. Nhiều bà mẹ thương quí con mình thường nựng con mình như vậy. Còn ở đây Chúa lại ví ta là muối của đất. Khi nói thế, Chúa muốn trân trọng nói đến phẩm chất của cuộc sống qua tính chất của muối. Giá trị của vàng, của ngọc là giá trị tương đối vì đó là những giá trị trao đổi: Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong những cơn đói kém hay như trong sa mạc, đã có nhiều người chết trên đống vàng, chết đói chết khát trong lúc còn rất nhiều của cải. Trong khi đó, giá trị của muối là giá trị tự tại nằm trong vị mặn của nó. Chúa muốn những người tin Ngài phải có tính chất của muối.

Muối có nhiều công dụng trong sinh hoạt của cuộc sống con người. Tuy nhiên, tất cả những công dụng đó đều hàm chứa trong vị mặn của muối. Chính vì vậy, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh nếu muối mất mặn thì sẽ chẳng lấy gì làm cho nó mặn lại được. Muối đó không còn dùng được nữa, phải bỏ đi.

  Vậy thì vị mặn của muối nơi chúng ta là gì ? Thưa là những đức tính tốt trong ta gây được ảnh hưởng tốt cho những người chung quanh: trong gia đình, giữa bạn hữu, nơi làm việc, trong trường học.

Mẹ Têrêsa nói: “Thầy Vinod, người điều hành Gandhiji Prem Nivas, trung tâm người cùi ở Titagarh, Calcutta, hiểu tại sao chúng tôi cố không giảng đạo, nhưng chỉ tỏ cho thấy đức tin của chúng tôi qua hành động và sự phục vụ.

– Mẹ có chứng kiến những người được Mẹ giúp đỡ cải đạo sang Công giáo không ?

– Có, một vài người đã cải đạo, nhưng chúng tôi không hề cố khuyến khích họ một cách trực tiếp. Bằng việc rèn luyện đức ái của người Thiên Chúa giáo, chúng tôi đến gần Chúa hơn và chúng tôi cũng cố giúp những người khác đến gần Ngài hơn mà không đặt bất cứ áp lực tôn giáo nào lên họ. Khi họ đón nhận tình yêu tức là họ đón nhận Thiên Chúa và ngược lại.

Một câu hỏi đặt ra cho người Kitô hữu hôm nay: sống giữa người khác, chúng ta đã đóng vai trò muối ướp mặn đến đâu rồi ? Hay họ chỉ là muối đã lạt đi rồi ? Nếu thế thì họ trở thành vô dụng và chỉ còn việc vất ra ngoài đường cho người ta chà đạp lên thôi.

  1. Anh em là ánh sáng thế gian:

Ánh sáng là để cho người ta thấy. Đốt đèn rồi che lại, lấy thùng đậy lại thì ngọn đèn trở nên vô dụng. Ánh sáng cũng có nghĩa là làm chứng. Đèn phải để trên đế cao để cho thiên hạ thấy việc tốt của anh em làm mà ngợi khen Cha anh em ở trên trời.

Một trong những nhà truyền thuyết giáo xuất chúng nhất của thế kỷ 19 là Đức Hồng Y Mermillotd, Giám mục giáo phận Lausanne (Thụy sĩ). Ngài qua đời năm 1892. Có một lần, sau khi giảng về phép Mình Thánh Chúa trong nhà thờ chính tòa, giáo dân ra về. Còn ngài theo thói quen ở lại chầu Mình Thánh Chúa nửa giờ. Khi ngài vừa đứng dậy để đi ra, ngài nghe có tiếng của một bà gọi ngài. Ngài rất ngạc nhiên, vì ngài tưởng không còn ai trong nhà thờ nữa. Người phụ nữ trình bày:

“Kính thưa Đức Cha, con đã nghe Đức Cha giảng. Bài giảng rất thuyết phục. Nhưng những lời Đức Cha nói suông chưa làm con xác tín về phép Thánh Thể. Con biết Đức Cha giống như một luật gia bảo vệ cho đức tin của Giáo hội công giáo. Con còn muốn điều gì hơn thế nữa. Vậy là con nấp và con quan sát. Khi con thấy Đức Cha quỳ gối cầu nguyện hồi lâu và sốt sắng, dù Đức Cha biết trong nhà thờ không có ai, gương sáng ấy đã đánh động con. Con không muốn theo đạo Tin lành nữa. Con muốn trở lại đạo công giáo”.

Mẹ Têrêsa nói: “Chúa Giêsu đã đến như là ánh sáng của thế gian, và những ai theo Ngài, đều được mời gọi phổ biến ánh sáng này, ánh sáng ban sự sống cho con người”.

Gẫm lại Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cảm thấy không mấy yên tâm trong vai trò truyền giáo của chúng ta. Do phép rửa tội, chúng ta trở thành môn đệ của Chúa Giêsu để được sai đi. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em đi (Ga 20,21). Sống trong gia đình, xóm giềng, giữa mọi người, mỗi người Kitô hữu đều được Chúa sai đến với những người chung quanh mình. Tuy nhiên, cho đến bây giờ chúng ta chưa ý thức được vai trò môn đệ được sai đi của chúng ta.

Lạy Cha từ ái,

Cha muốn chúng con là muối, là ánh sáng cho trần gian.

Xin cho chúng con biết hòa nhập để biến đổi môi trường chúng con sống. Amen.

 

 

 

 

THỨ TƯ TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 5, 17-19

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.

Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.

 

Suy Niệm 1: Để kiện toàn

Suy niệm :

Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,

vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.

Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,

thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.

Nhiều người không dám theo đạo,

vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.

Vào thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.

Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,

nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.

Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,

và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định :

“Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.

Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).

Luật Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.

Môsê đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.

Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.

Bây giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.

Ngài biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.

Đức Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.

Nhưng Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,

vì chẳng ai biết rõ ý Cha bằng Con.

Trong Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,

ta sẽ thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.

Hành vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.

Một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.

Giai đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.

Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,

nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.

Muốn trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,

cần sống Luật Tôra đã được Ngài giải thích lại.

Người Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,

bỏ Lề Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông

Giáo huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.

Làm thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình

không tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt

với những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?

Làm sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,

mà vẫn chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?

Chỉ cần một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn

tất cả mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,

Chúa đã muốn trở nên con của loài người,

con của trái đất, con của một dân tộc.

Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa

dù họ từ khước Tin Mừng

và đóng đinh Chúa vào thập giá.

Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,

một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu

sau những năm dài chiến tranh,

một quê hương đang mở ra trước thế giới

nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc

và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.

Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên

trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,

nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,

và làm một điều gì đó thật cụ thể

cho những đồng bào quanh chúng con.

Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước

bằng khối óc, quả tim và đôi tay.

Và ước gì chúng con biết khiêm tốn

cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: Kiện toàn lề luật

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thấy Chúa Giê-su hành xử khá tự do. Chữa bệnh ngày sa-bát. Không ăn chay. Lui tới với người tội lỗi, phong cùi. Nhiều người nghĩ rằng Chúa đến để phá huỷ Lề Luật. Nhưng hôm nay Chúa minh định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Chúa kiện toàn thế nào? Có ba yếu tố cơ bản. Kiện toàn bằng tình yêu. Xưa kia luật là cứng ngắc. Khắt khe. Không nhân nhượng. Nhưng Chúa đã cho biết nền tảng của Lề Luật là tình yêu. Phải giữ luật vì lòng yêu mến. Mến Chúa và yêu người. Như Chúa dạy: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ”. Thậm chí Người còn ban hẳn một điều răn mới thay cho các điều răn cũ. Đó là phải thương yêu. Kiện toàn bằng lòng thương xót. Xưa kia máy móc nghĩ rằng cứ giữ luật là nên công chính. Tôi có thể tự mình nên công chính. Nay phải cậy nhờ lòng thương xót của Chúa. Chỉ nhờ lòng thương xót của Chúa tôi mới có thể được ơn cứu độ. Kiện toàn bằng Thần Khí. “Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống”

Ê-li-a là người đầy Thần Khí và có lòng yêu mến lớn lao nên dám hi sinh tính mạng khi chống lại hoàng hậu I-de-ven độc ác. Cả nước đã theo hoàng hậu mà thờ thần Ba-an, nhưng Ê-li-a, với lòng yêu mến Chúa trung tín, vẫn tuân giữ lề luật của Chúa. Ông tin tưởng vững vàng vào lòng thương xót của Chúa nên dám thách thức các sư sãi của Ba-an trong một buổi cầu nguyện dâng hi lễ công khai trước mặt toàn dân. Tin tưởng và khiêm nhường, ông đã cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa, và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này”. Vì thế Chúa đã nhận lời ngài. Cho lửa bởi trời xuống thiêu đốt lễ vật ông dâng. Và toàn dân đã lấy lại được niềm tin. “Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: “Đức Chúa quả là Thiên Chúa!” (năm chẵn).

Thánh Phao-lô cho biết Chúa kiện toàn bằng Thần Khí. Giao Ước cũ căn cứ trên chữ viết. Giao Ước dựa vào Thần Khí. Chữ viết thì giết chết. Thần Khí mới ban sự sống. Chữ viết thì mau qua. Thần Khí thì vĩnh cửu. Vì thế Giao Ước mới là hoàn hảo. Và người phục vụ Giao Ước mới cũng sẽ được vinh quang. “Nếu việc phục vụ Lề Luật – thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá – mà được vinh quang đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang – dù đó chỉ là vinh quang chóng qua -, thì việc phục vụ Thần Khí lại không được vinh quang hơn sao…Thật vậy nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại chẳng vinh quang hơn sao”? (năm lẻ).

 

SUY NIỆM 3: Kiện toàn lề luật

Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.

Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.

Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.

Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta chu toàn lề luật của Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Rắc rối yêu thương

“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ. Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt. 5, 17)

Quá nhiều luật lệ!

Hai mươi hoặc ba mươi năm vè trước, người Kitô hữu phải tuân giữ nhiều luật lệ và điều răn hơn hôm nay. Điều gì phải làm hay không được làm đều đã được phân định rạch ròi đến từng chi tiết. Thời ấy người ta rất tỉ mỉ, phải nói là quá tỉ mỉ nữa.

Khoảng mấy năm gần đây, nhiều sự đã thay đổi. Hôm nay người ta thường nghe nói rằng chẳng còn luật lệ gì nữa. Có người tiếc rẻ, người khác lại vui mừng. Những người luyến tiếc mạnh miệng nói rằng Giáo hội bây giờ dễ dãi quá, để mặc cho ai nấy muốn làm gì thì làm.

Đức Giêsu với lề luật

Chúa Giêsu bảo ta rằng “dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, cũng không được bãi bỏ”. Nói được rằng Chúa Giêsu ủng hộ việc có nhiều luật lệ và điều răn chăng? Chắc chắn là không.

Như ta biết, đối với Chúa Giêsu chỉ có một điều răn thâu tóm mọi điều răn khác. Đó là điều răn dạy phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Nhưng bởi chỉ có một điều răn nền tảng, thì không có nghĩa là không có điều răn nào khác cũng quan trọng.

Để yêu thương như Chúa muốn, người ta không thể giữ mực chung chung, mà phải đi vào cụ thể, phải chú ý đến cả những điều nhỏ nhặt. Tình yêu được hình thành từ vô vàn những sự chăm chú, từ vô số những cái tế nhị, từ ngàn lẻ một những chuyện nhỏ nhặt. Ta đừng tin những ai nói mình yêu Chúa yêu anh em mà lại bất chấp mọi điều khác.

Những điều răn nhỏ nhất phải tuân giữ mà Chúa nói đến ở đây, chính là những điều tế nhị phải có trong khi yêu thương vậy.

 

Suy Niệm 5: GIỮ LUẬT THEO TINH THẦN CỦA CHÚA (Mt 10, 7-13; hoặc Mt 5, 17-19)

Xem lại CN 6 TN A, Thứ Tư tuần 3 MC

Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quý hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.

Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn thần đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc?

Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ trong ngày Sabát, giới lãnh đạo Dothái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Đức Giêsu bất chấp Lề Luật. Thấy được sự sầm sì của họ, Đức Giêsu lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Pharisêu: “Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay Lời các ngôn sứ; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn mặc cho Lề Luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề Luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.

Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con tuân giữ Lề Luật của Chúa trong sự ép buộc, nhưng là trong lòng mến, để qua đó, nhờ Lề Luật mà làm cho chúng con được gần Chúa và anh chị em chúng con hơn. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Giữ luật theo ý Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu kiện toàn luật Cựu ước, vì Người cho ta hiểu được ý nghĩa của lề luật, và vì Người thực hiện những lời tiên báo trong Cựu ước. Phải giữ luật theo ý hướng của Chúa Giêsu thì mới trở nên công dân Nước Trời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa ban lề luật cho con là để con được tự do, được nên thánh, lề luật của Chúa là những bậc thang vững chắc đưa con đến với Chúa, đưa con vào Nước Trời.

Thế nhưng nhiều khi con có cảm tưởng luật Chúa ràng buộc con, làm con mất tự do thoải mái trong cuộc sống. Nhiều khi con cảm thấy nặng nề khi đi lễ ngày Chúa nhật. Nhiều khi con thấy luật hôn nhân công giáo giới hạn tự do của con. Nhiều khi luật Chúa đưa con đến những chọn lựa khó khăn và ngăn cản con chọn những giải pháp dễ dãi.

Với Lời Chúa hôm nay, con muốn đặt niềm tin vào Chúa. Chính vì yêu thương mà cha mẹ cấm cản hoặc truyền dạy con cái làm điều này điều nọ. Cũng vậy, con xác tín rằng chính vì yêu thương và muốn con sống tốt mà Chúa ban luật Chúa cho con. Xin cho con biết tin vào Chúa và vào tình thương của Chúa để con yêu mến và sống theo luật Chúa.

Lạy Chúa, xin ban cho con tinh thần tôn trọng lề luật Chúa. Chắc chắn con sẽ phải hy sinh ý riêng mình rất nhiều, nhưng con tin rằng khi con hết lòng với Chúa, Chúa sẽ ban cho con cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc. Đời con sẽ như cây trồng bên bờ suối và trổ sinh hoa trái đúng mùa. Amen.

Ghi nhớ : “Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn”.

 

Suy Niệm 7: Giữ Luật Chúa với tình yêu mến

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Cổ ngôn Đông phương có nói: “Nhân vô thập toàn”, nghĩa là con người không đủ mười phần hoàn toàn, lời của cổ nhân xác nhận sự chưa hoàn thiện của con người để khích lệ mọi con cháu thăng tiến thêm trên đường cải thiện. Các luật lệ đã được quy định để định hướng giúp con người làm việc thiện tránh điều ác. Thánh Tôma Aquinô định nghĩa: “Luật pháp là những quy định của lý trí nhằm công ích, được ban hành do người điều khiển cộng đồng”. Thánh Giacôbê khẳng định Đấng Tối Cao tức Thiên Chúa tạo tác mọi quyền hành và luật lệ khi viết: “Chỉ có một Đấng làm ra Luật Lệ” (Gc 4,12).

Có Thiên luật và Nhân luật.

Thiên luật là luật thiên nhiên, luật phát sinh từ tâm linh của Thiên Chúa, chi phối mọi hành động và sinh hoạt (Summa Theologia, I-II, q. 93, a). Là luật tự nhiên được ban cho con người cùng với những hợp lý như những quy tắc của các hành vi tự do. Hay luật Thiên Chúa ban hành qua con người là những luật lệ được mạc khải trực tiếp cho nhân loại. Loại luật này được phân làm hai: Luật Cũ, cũng gọi là Cựu ước (ban hành qua Abraham, Môisê và các ngôn sứ) và Luật Mới, cũng gọi là Tân ước (ban hành cho con người qua Đức Giêsu).

Nhân luật được coi phát sinh từ Thiên Chúa khi giải thích những luật lệ do Thiên Chúa mạc khải, khuyến dụ mọi người tuân giữ để đạt tới cứu cánh thiện hảo, là luật dân sự hay Giáo luật.

Suy niệm

Ngay từ thời xa xưa, Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Luật này càng phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ.

Khổng Tử dạy các môn đệ rằng: “Trước hết hãy có sẵn một nền trắng, rồi sau mới vẽ thành bức họa” (Luận ngữ II, 8). Phải có phông nền rồi mới có thể tiếp tục công trình hội họa. Công trình hoàn thiện Luật được theo một tiến trình phát triển được Chúa mạc khải sơ khởi phông nền với các tổ phụ, đặc biệt là Môisê qua mười điều răn, được các ngôn sứ phát triển và được chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu hoàn thiện.

Thật thế trong Đức Giêsu Kitô, Giáo huấn của Ngài làm nên Luật Kitô giáo: Tân ước hoàn thành các Lề luật đã được mạc khải sơ khởi mà ta gọi là Luật Do Thái giáo: Cựu ước. Tân ước là một chồi non làm sinh hoa kết trái nhưng được nuôi từ gốc và bằng nhựa của cây ôliu cũ tức “Cựu ước”, để làm cho cây sinh ra nhiều quả (x. Rm 11,17-24). Chính Đức Giêsu là Đấng đã được loan báo và chuẩn bị cả ngàn năm mong đợi của dân Do Thái khi chờ đón Đấng Cứu Thế, Đấng đến cứu họ được tự do và để kiện toàn Luật và lời các ngôn sứ đã loan báo trước làm hoàn thành toàn bộ Kinh Thánh với hai phần rõ rệt: Tân ước và Cựu ước. Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật.

Các kinh sư và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn Lề Luật: Tất cả vì luật. Chúa Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hạng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sabát (x. Lc 6,8-11; 13,14; 14,1-6; 6,1-2…). và các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn (x. Lc 11,38). Họ cho rằng: Ngài muốn phá bỏ Lề Luật, nhưng Chúa Giêsu tuyên bố: “… đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môisê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).

Xin Chúa thổi tình yêu của Ngài vào trong cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ giới răn Đạo Chúa và giáo huấn của Giáo hội Chúa Kitô, chúng ta giữ Luật Chúa không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, nhưng thực thi với tinh thần của tình yêu.

Ý lực sống:

“Hãy yêu mến Chúa rồi làm điều bạn muốn” (thánh Augustinô).

 

Suy Niệm 8: Kiện toàn lề luật (Mt 5,17-19)

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu tuyên bố cho mọi người biết: Ngài đến không phải để bãi bỏ luật Maisen và lời dạy của các tiên tri trong Cựu ước, nhưng làm cho hoàn hảo và đầy đủ hơn.

Vì Chúa Giêsu dạy một số điều xem ra không đúng với luật Maisen và giáo huấn của các tiên tri theo lối giải thích của những người Biệt phái, nên nhiều người tưởng Ngài muốn hủy bỏ Luật Maisen. Vì thế Ngài phải giải tỏa sự hiểu lầm ấy: Ngài không huỷ bỏ mà là kiện toàn chúng. Kiện toàn bằng cách dạy người ta hiểu những khoản luật đó là ý muốn của Cha trên trời nên phải sống những khoản luật đó trong tinh thần Cha – Con.

Hôm nay, khi thấy Chúa Giêsu làm phép lạ trong ngày Sabat, giới lãnh đạo Do thái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Chúa Giêsu bất chấp Lề luật. Thấy được sự xầm xì của họ, Chúa Giêsu lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Biệt phái: “Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề luật hay lời các tiên tri; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Khi nói như thế, Chúa Giêsu muốn mặc cho Lề luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.

Chúa Giêsu không phải là con người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Maisen truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ Lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ Lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho Lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến (Mỗi ngày một tin vui).

Ngay những năm đầu của lịch sử Giáo hội đã xảy ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng có nguy cơ làm tan nát Giáo hội còn non trẻ: đó là có cần phải tuân giữ những truyền thống của Luật Maisen hay không. Luật giữ ngày hưu lễ có còn đòi buộc nữa không, một khi người ta đã trở nên môn đệ của Chúa Giêsu? Đó cũng là những vấn nạn của mọi thời: trung thành bảo vệ truyền thống hay cách mạng đổi mới tận căn? Người ta nghĩ rằng đối với người môn đệ của Chúa Giêsu, mọi giáo huấn Cựu ước không còn giá trị nữa. Chúa Giêsu đã trả lời: “Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn”.

Đối với Ngài, vấn đề không hệ tại ở việc bảo thủ một ý hướng cứng nhắc, cũng chẳng phải là lật đổ đổi mới, mà là trao ban cho quá khứ một sự sống mới. Vì đâu có phải mọi truyền thống đều tốt và nên bảo vệ cả đâu. Cũng chẳng phải hễ cái gì mới cũng quí cả đâu! Điều mà các bậc tổ tiên đã sống, đã hệ thống hóa trong những thời xa xưa là điều đáng quí, nhưng chúng cần được Chúa Giêsu kiện toàn bằng cách lột bỏ sự khô cứng của Lề luật (5 phút Lời Chúa).

Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.

Mỗi người chúng ta cũng có chiếc nhẫn thần là Lề luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta đối với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc.

Truyện: Tiếng nói lương tâm của một vị vua

Dạo tháng 4 năm 1990 để khỏi ký đạo luật cho phép phá thai do Quốc hội thông qua, vua nước Bỉ đã từ chức trước đó hai ngày, vì với tư cách là Kitô hữu, lương tâm không cho phép ông ký nhận. Theo hiến pháp Bỉ, do sự từ chức của Nhà vua, Hội đồng Bộ trưởng sẽ thay nhà vua để công bố đạo luật. Theo đạo luật này, nếu gặp khủng hoảng khó khăn và có chứng nhận của bác sĩ, người phụ nữ có quyền phá thai trong 12 tuần lễ đầu. Nhà vua từ chức được đúng hai ngày, Quốc hội tuyên bố việc từ chức của ông chấm dứt, và ông lại tiếp tục cai trị.

Một ông vua từ chức để một luật lệ bất nhân ra đời, đó là hình ảnh của luật pháp loài người: hoặc con người tìm kẽ hở của luật pháp để thủ lợi và hành động ngược với tiếng lương tâm, hoặc do con người nhân danh pháp luật để chà đạp người khác. Mục đích của luật pháp là để phục vụ con người, do đó nếu luật pháp đi ngược lại con người và chối bỏ Thiên Chúa, thì lúc đó thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời loài người (Mỗi ngày một tin vui).

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Vì Chúa Giêsu dạy một số điều xem ra không đúng với luật Môisê và giáo huấn của các ngôn sứ theo lối giải thích của người Pharisêu, nên nhiều người tưởng Ngài muốn hủy bỏ luật Môisê. Vì thế Ngài phải giải tỏa sự hiểu lầm ấy: Ngài không hủy bỏ chúng mà là kiện toàn chúng.

Kiện toàn bằng cách dạy người ta hiểu những khoản luật đó là ý muốn của Cha trên trời nên phải sống những khoảng luật đó trong tinh thần Cha – Con.

  1. Suy gẫm (…nẩy mầm)
  2. Cuộc sống xã hội cần được luật pháp bảo đảm. Cuộc sống càng phức tạp thì mạng lưới pháp luật càng gia tăng. Một đàng con người cảm thấy được pháp luật bảo vệ, nhưng đàng khác cũng cảm thấy bị luật pháp đe dọa. Và sự đe dọa đáng sợ nhất là cái chết của tình người. Chúa Giêsu đến để chỉ cho con người đâu là giá trị cao cả nhất và cũng là quy luật cao cả nhất của cuộc sống. Giá trị và quy luật ấy chính là tình yêu. Một ngôi nhà đẹp đẽ đến đâu mà thiếu vắng tình người thì cũng giống như một nghĩa địa; một xã hội tiến bộ tới đâu mà thiếu vắng tình người thì chẳng khác nào một bãi sa mạc. Chúa Giêsu đến không phải để dẹp bỏ pháp luật nhưng là để kiện toàn, bằng cách đem lại cho nó một linh hồn, một sức sống. Linh hồn và sức sống ấy chính là tình yêu thương. (Trích “Chờ đợi Chúa”)
  3. Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kì và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quý hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kì diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy rất mạnh, ngón tay rất đau đớn.

 Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là lề luật của Thiên Chúa. (Góp nhặt)

  1. Có hai thái độ quá khích với lề luật: một là thái độ vụ luật, vụ nguyên tắc, giữ luật một cách nô lệ không chút tình cảm; hai là thái độ bất chấp ngang tàng sống như không có luật.
  2. “Ta không đến để hủy bỏ lề luật nhưng đến để kiện toàn”: trước một khoản luật mà tôi cảm thấy khó chịu vì xem ra không còn thích hợp nữa, tôi phải làm gì  ? Lời Chúa Giêsu dạy rằng tôi không nên hủy bỏ khoản luật ấy, nhưng tôi hãy tìm cách kiện toàn: kiện toàn bằng cách tìm hiểu tinh thần và ý nghĩa của nó, kiện toàn bằng cách đặt vào đó một tình thương.
  3. “Ai bãi bỏ dù là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước trời”. (Mt 5,19)

Một ngày nọ các dấu chấm câu nghĩ rằng mình chẳng được đọc lên thành lời như các từ, nên buồn bã rủ nhau bỏ đi hết. Thế là có người đọc như sau:

“Nàng có ba người anh đi bộ đội những em nàng”

Chẳng phải tôi đã từng tự nhủ mình như thế này sao:

Tội nhẹ! chẳng sao cả!

Một lần nữa thì đã sao!

Mình chỉ thử một lần thôi!

Lạy Chúa, xin cho con luôn nhớ rằng: “Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn” (Lc 16,10) (Hosanna).

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Vì Chúa Giêsu dạy một số điều xem ra không đúngvới luật Môisen và giáo huấn của các ngôn sứ theo lối giải thích của người Pharisêu, nên nhiều người tưởng Ngài muốn hủy bỏluật Môisen. Thí dụ, Ngài đã không giữ tục rửa tay như luật pháp đặt ra. Ngài chữa lành người đau trong ngày Sabat dù luật pháp không cho phép. Thế mà ở đây Chúa lại nói về luật pháp với một sự tôn kính, mà không một luật sĩ hay đạo sĩ Do Thái nào có thể nói hay hơn được.

Như chúng ta biết, cuộc sống xã hội cần phải được luật pháp bảo đảm. Cuộc sống càng phức tạp thì mạng lưới pháp luật càng chặt chẽ.

Chúa Giêsu đến để chỉ cho con người biết đâu là giá trị cao cả nhất và cũng là quy luật cao cả nhất của cuộc sống. Giá trị và quy luật ấy chính là tình yêu. Một ngôi nhà đẹp đẽ đến đâu đi nữa mà thiếu vắng tình người thì cũng giống như một nghĩa địa; một xã hội tiến bộ tới đâu mà thiếu vắng tình người thì chẳng khác nào một bãi sa mạc. Chúa Giêsu đến không phải để dẹp bỏ pháp luật nhưng là để kiện toàn, kiện toàn bằng cách đem lại cho lề luật một linh hồn, một sức sống. Linh hồn và sức sống ấy chính là tình yêu thương. (Chờ đợi Chúa)

  1. Người ta kể lại rằng, một lần kia một vị giáo sư của đại học Baltimore, Hoa Kỳ, yêu cầu các sinh viên đang theo lớp giảng huấn của ông về xã hội học, hãy đến một xóm nghèo của thành phố để nghiên cứu về cơ may được thăng tiến trong xã hội của hai trămem học sinh trong xóm. Vị giáo sư không khỏi ngạc nhiên khi đọc những bản báo cáo của các sinh viên sau thời gian nghiên cứu báo cáo lại. Các sinh viên cho rằng, không em nàotrong hai trăm em của xóm nghèo này được xét là có cơ may phát triển.

Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Hồ sơ của hai trăm em được lưu giữ cẩn thận tại trường để rồi lại hai mươi năm sau, một vị giáo sư khác đem ra nghiên cứu lại và lần này giáo sư yêu cầu các sinh viên của mình hãy đến xóm nghèo trên, để điều tra lại xem hai trăm em đã được phỏng vấn cách đây hai mươi năm hiện đang như thế nào. Bản tường trình thứ hai này cho biết một kết quả hết sưc bất ngờ và tích cực:

“Ngoại trừ hai mươi em chết hoặc đã cùng gia đình dọn đi nơi khác không để lại địa chỉ, còn lại 180 em thì có một trăm bảy mươi sáu đã thành công trên đường đời, vượt xa mức tiên đoán của bản phúc trình thứ nhất đã được thực hiện hai mươi năm trước. Các em đó đã trở thành: người thì luật sư, kẻ thì bác sĩ, người khác là những nhà kinh doanh nổi tiếng”.

Vừa bỡ ngỡ, vừa tò mò muốn biết tại sao các em trước kia bị thẩm định như là không có cơ may nào để tiến lên trong xã hội, nhưng nay đã thành công như vậy thì vị giáo sư này mới cho các sinh viên đi gặp từng người đã thành công để hỏi lý do. Tất cả đều nói đến một con người còn sống đã ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của họ, con người đáng kính đó chính là thầy giáo của ngôi trường họ đã học. Vị giáo sư tìm đến người thầy giáo già để hỏi xem đã ông dùng bí quyết nào mà những học trò của ông lại thành công như vậy.

Thầy giáo già trả lời: “Bí quyết của tôi đơn sơ lắm: tôi đã lấy tình yêu thương giáo dục những trẻ đó”.

Tôi đã lấy tình yêu thương mà giáo dục những trẻ đó. Đấy là bí quyết của giáo dục. Và chỉ có tình yêu mới có thể giúp con người phát triển.

Không có tình yêu trong gia đình, cha mẹ không thể giúp con cái phát triển. Không có tình yêu trong xã hội, xã hội đó không thể đem lại sự phát triển đích thực cho con người. Con người cần đến tình yêu nhiều hơn của cải vật chất. Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lời khuyên rất đơn sơ nhưng cũng rất căn bản cho mọi công cuộc phát triển và cho hạnh phúc của con người. Mẹ nói:

“Hãy phổ biến tình yêu khắp nơi bạn sinh sống, trước hết là trong gia đình: cha mẹ hãy yêu thương con cái, vợ chồng yêu thương nhau, mọi người yêu thương người thân cận, đừng để bất cứ ai đến với bạn mà lúc ra về lại không cảm thấy mình được trở thành tốt hơn, hạnh phúc hơn. Hãy biểu lộ hình ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa trong ánh mắt, nụ cười, trong lời nói việc làm”.

Chỉ tình yêu thương mới giúp con người phát triển. Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta như vậy. Ngài là tình yêu và không ngừng yêu thương chúng ta. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu của Ngài, đồng thời đối xử như thế đối với anh em chung quanh. Yêu mến Chúa và yêu thương anh em, đó là trọn cả lề luật.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mọi người như anh em.

Và cho chúng con biết yêu như Ngài. Amen.

 

 

 

THỨ NĂM TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 5, 20-26

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.

“Các con đã nghe dạy người xưa rằng: “Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án”. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!”

 

Suy Niệm 1: Chớ giết người

Suy niệm :

“Chớ giết người”, đó là một trong những giới luật quan trọng.

Dân Do thái đã nhận giới luật này từ Thiên Chúa

qua trung gian ông Môsê trên núi Xinai (Xh 20, 13; Đnl 5, 17).

Đức Giêsu không đến để bãi bỏ Luật Môsê.

Ngài nâng Luật này lên một tầng cao mới.

Không phải chỉ hành vi giết người mới là tội.

Ngay cả ai giận ghét anh em trong lòng

và biểu lộ ra bằng những lời nhục mạ, mắng chửi,

cũng phải chịu những hình phạt tương tự (c. 22).

Đức Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn.

Ngài tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người.

Nếu lòng con người không còn giận ghét anh em,

và lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa,

thì tội giết người hoàn toàn có thể tránh được.

Sống với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát.

Đi làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương.

Thậm chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh

mà đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình,

rồi sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23-24).

Phải chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật

khi người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha?

Để đến được với người đang xích mích với mình,

cần khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy.

Đi bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình,

đó là cách làm hòa và làm lành những vết thương.

Hòa giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay

trước khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ.

“Chớ giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay,

một thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng.

Những vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày,

những cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch.

Bao cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết.

Những tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người.

“Chớ giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình.

Những vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi,

những bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình.

Cain đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ.

Tội ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay.

Làm thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình?

Làm thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống?

Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người,

trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động .

vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.

 

Cầu nguyện :

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,

xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,

xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,

xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,

xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,

Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,

xin cho các Kitô hữu chúng con

trở thành tình yêu

cho trái tim khô cằn của thế giới.

Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,

biết sống nhờ và sống cho tha nhân,

biết quảng đại cho đi

và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,

xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa

ở sâu thẳm lòng chúng con,

và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: Công chính hơn Biệt phái

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa kiện toàn Lề Luật để phù hợp với Nước Trời. Và môn đệ phải sống theo luật mới để công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu.

Luật cũ đòi buộc bên ngoài. Luật mới đòi buộc trong tâm hồn. Luật cũ cấm ghen ghét. Luật mới đòi yêu thương. Không chỉ cấm giết người. Mà còn cấm cả ghen ghét. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người…Còn Thầy, Thầy báo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”. Không những không được giận anh em. Mà còn không được để cho anh em bất bình với mình. “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”. Luật mới là luật yêu thương. Yêu thương không phải ở bề mặt. Mà phải từ đáy sâu tâm hồn. Như thế mới đẹp lòng Chúa. Là của lễ xứng đáng dâng Chúa. Mới công chính hơn kinh sư.

Đó là không còn sống theo xác thịt. Nhưng theo Thần Khí. Ê-li-a là người sống theo Thần Khí. Ông không để lòng giận ghét ai. Dù ông bị vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven làm hại. Ông chỉ làm theo lệnh Chúa. Xong việc rồi ông lại đối xử tốt với vua A-kháp. Khi Chúa tha tội, ban mưa xuống đất Do thái, Ê-li-a đã chăm sóc cho vua. Lo cho vua ăn uống cho kịp chạy mưa. Và khi mưa xuống ông chạy trước xe để tháp tùng vua theo đúng nghi lễ quân thần. “Vua A-kháp cỡi xe đi Gít-rơ-en. Tay Đức Chúa đặt trên ông Ê-li-a; ông thắt lưng và chạy trước vua A-kháp cho tới lúc vào Gít-rơ-en”. Đó quả là con người sống theo Thần Khí (năm chẵn).

Phao-lô cho biết lý do luật mới công chính hơn. Đạo cũ đọc Kinh Thánh qua một tấm màn. Còn đạo mới gặp trực tiếp với Chúa. Chúa là Thần Khí. Thần Khí là tự do. Nên tâm hồn không bị ràng buộc trong sự chết. Nhưng phản chiếu vinh quang Chúa Ki-tô. Tự do yêu thương. Vì thế Tin Mừng Chúa Giê-su bừng sáng lên. Tuy nhiên những ai sống theo xác thịt vẫn không nhìn thấy ánh sáng đó. Chỉ những ai sống theo Thần Khí mới bừng sáng lên. Sống theo Thần Khí. Con người tràn đầy tự do. Và tràn đầy yêu thương. Đó là công chính hơn biệt phái (năm lẻ).

Lạy Chúa xin “làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng con, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa, rạng ngời trên gương mặt Đức Ki-tô”.

 

SUY NIỆM 3: Sự thánh thiện đích thực

Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.

Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:

– Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?

Người đàn bà trả lời:

– Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.

Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:

– Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?

Người đàn bà liền nói:

– Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.

Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:

– Thế bà cầu nguyện cho ai?

Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:

– Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.

Chân phước Marchello ngắt lời bà:

– Bà không cầu nguyện cho bà sao?

Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:

– Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.

Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.

Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.

Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”

Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn” đó sao?

Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Thái độ nửa vời

 “Anh em đã nghe người xưa rằng: “Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Mt. 5, 21-22)

Làm như mọi người

Xã hội nào cũng có những luật lệ, quy tắc, những điều được làm, những điều cấm đoán, mà người ta phải tôn trọng, nếu không cuộc sống của người khác sẽ gặp trắc trở phiền hà. Nói chung mọi người đều được yêu cầu đừng vượt quá giới hạn. Phải giữ một mức cư xử tốt đẹp tối thiểu hoặc cùng lắm cũng phải tỏ ra có tình người thật.

Không ăn trộm ăn cắp, không làm thiệt hại tài sản người khác, không mưu hại mạng sống và sức khỏe của ai, không làm giầu cách gian lận, tuân theo luật lệ giao thông. Đó là đại khái những loại luật lệ quy tắc mà ta phải tuân thủ. Khi chu toàn được những điều này – tuy không phải lúc nào cũng dễ dàng – ta thường khá hài lòng về mình. Thiên hạ coi những ai giữ trọn được như vậy, chẳng phải anh hùng thì ít ra cũng là những con người lương thiện, những công dân tốt.

Làm hơn được chăng?

Chúa Giêsu còn đòi hỏi nhiều hơn thế. Chúa đòi hỏi những ai tin vào Người phải có lòng tốt, lòng quảng đại, sự hiến thân mỗi ngày phải tiến xa hơn nhiều. Xã hội bất quá kêu gọi tôn trọng công bình. Còn Chúa Giêsu lại mời gọi người ta sống yêu thương. Dưới con mắt Chúa, công bình chỉ là một thái độ nửa vời, hoặc nên gọi là không trọn mức cũng được. Nếu chỉ cư xử với nhau theo đức công bình, ta chỉ mới được nửa đường tới dích thôi. Chúa mốn ta giữ đức công bình được tình yêu làm cho thăng hoa tốt đẹp. Đành rằng phải có đức công bình để con người có thể cùng nhau chung sống, nhưng không đủ cho con người được sống hạnh phúc.

Chúng ta thường chỉ coi đức công bình là đủ, như vậy là ta cũng chỉ có thái độ nửa vời. Những người có thái độ nửa vời, sẽ chẳng được vào Nước Trời đâu.

 

Suy Niệm 5: HÃY TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH HƠN (Mt 5, 20-26)

Xem lại thứ Sáu tuần 1 MC

Cuốn sách: “Những căn bệnh trầm kha trong đời sống đức tin Công Giáo tại Việt Nam”, ở phần dẫn nhập, tác giả kể một câu chuyện đại khái thế này: có một người giàu có, cuộc sống sung túc, và ông ta có rất nhiều vợ. Mỗi người đều có cơ ngơi riêng. Khi gần qua đời, ông ta tin vào Chúa, theo đạo Công Giáo và được Rửa tội…

Khi nghe câu chuyện ấy, một người Công Giáo đã thốt lên ngay: “Ông này hên thật, được cả đời này lẫn đời sau!”

Điều ấy cho thấy khá rõ hiện trạng đời sống đức tin của người Kitô hữu Việt Nam: đạo không phải là một hồng phúc, nhưng là một sự may rủi, đôi khi trở thành gánh nặng!

Hôm nay, Đức Giêsu muốn giúp cho các môn đệ đi một bước xa hơn trong việc giữ Luật. Ngài nói: “Nếu các con không công chính hơn các Luật Sĩ và Kinh Sư, các con sẽ chẳng thể vào được Nước Trời” (Mt 5,20).

Nước Trời không thể có cho những người “bắc nước trực gạo người” hay “há miệng chờ sung rụng”. Nước Trời cũng không dành cho những người vụ Luật và chỉ biết sống cho chính mình mà không cần quan tâm đến anh chị em đồng loại.

Vậy, để như điều kiện cần cho được vào Nước Trời, đó chính là phải sống thật tâm, sống hết mình với Chúa và với nhau. Tức là tất cả phải được xây dựng trên tình yêu. Nếu có tình yêu, thì đâu còn chuyện giết hại lẫn nhau; đâu còn mắng chửi nhau là ngu là ngốc; và làm sao đến dâng lễ vật mà trong lòng còn căm ghét anh chị em mình… Hãy sống với giây phút hiện tại và thánh hóa chúng, vì đối với Thiên Chúa, Người không tính thời gian hay công việc, mà Người nhìn tận sâu thẳm của tâm hồn con người nơi công việc hay suy nghĩ của họ.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã chỉ ra cho chúng con con đường để được cứu độ, đó là con đường yêu thương. Xin cho chúng con biết đi trên con đường đó cho đến hết đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Sống luật yêu thương cách cụ thể

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Luật yêu thương Chúa Giêsu dạy cần thực hiện cách cụ thể: sống hòa thuận và biết tha thứ. Ta cần phải sống yêu thương tha thứ như lễ vật dâng Chúa mỗi ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con hân hoan dâng Cha tâm tình yêu mến cùng với anh em con. Hôm nay, con không đến với Cha một mình, nhưng con đến cùng với anh em khác.

Lạy Cha, trên đường đến với Cha, con còn gặp biết bao trở ngại từ chính con. Con chưa hòa hợp được với anh em. Con còn khó chịu với người bên cạnh. Nhưng Cha muốn con nắm chặt tay bạn bè trong tình thương mến. Cha muốn con đi bước trước đến với người bất hòa với con, làm hòa với họ trước khi đến với Cha.

Lạy Cha, con chiêm ngưỡng hy lễ tuyệt hảo của Con Cha trên thập giá, hy lễ của Chúa Giêsu. Trước khi hoàn tất hy lễ ấy, chung quanh thập giá đông vô kể những kẻ bất bình và thù oán, họ đang hả hê vì đã giết được Ngài. Con Một Cha đã ngước mắt lên thưa với Cha: “Lạy Cha xin tha cho họ”. Thật là cao cả. Chính Thiên Chúa đã làm hòa với người đang cướp mất mạng sống mình. Lạy Cha, đây chính là lý do duy nhất thôi thúc con tha thứ cho anh em. Tha thứ không phải là nhát đảm nhưng là hành động anh hùng, không phải là thua thiệt, nhưng là nhận được nhiều hơn. Cùng với hy lễ thập giá của Chúa Giêsu, hôm nay, con xin dâng Cha không phải chỉ lời cầu nguyện, không phải chỉ tâm tình yêu mến, nhưng xin dâng lên Cha lòng quảng đại tha thứ cho anh em. Amen.

Ghi nhớ : “Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”.

 

Suy Niệm 7: Ta muốn lòng nhân từ

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Lần đầu tiên một buổi lễ được trực tiếp truyền thanh cho cả thế giới theo dõi là lễ đăng quang của vua George VI của Vương quốc Anh.

Trong lễ đó, có nghi thức Đức Tổng giám mục Canterbury trao cho nhà vua cuốn Kinh Thánh và nói: “Thưa Hoàng đế cao cả, chúng thần xin trình Ngài cuốn sách này. Đây là báu vật cao quý nhất trên thế giới. Sự khôn ngoan ở đây, quy luật của hoàng gia cũng ở đây. Đây là những lời hằng sống của Thiên Chúa”.

Suy niệm

Luật lệ tự nó tốt nhưng không hoàn hảo. Lề Luật luôn là phương tiện chứ không là cứu cánh, như Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát” (Mc 2,27). Chúa Giêsu đến để kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương, cho nên, luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” Luật cũ, khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống theo luật nhưng sống theo luật với ân sủng và tình yêu, cho nên, luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi không dừng lại ở những việc làm hình thức mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).

Trong tinh thần luật vì con người như Chúa Giêsu nói: “Con người làm chủ ngày Sabát” (Lc 6,9), Chúa Giêsu tiến xa và hoàn thiện luật, sự hoàn thiện đó đã thiết lập Luật Mới, khi Ngài dạy hãy biến “ách nặng nề, nô lệ” của Luật Cũ thành “sự tự do vui thỏa” trong Chúa Thánh Thần. Đừng câu nệ chỉ ở nơi chữ viết ràng buộc nhưng cảm nghiệm sâu xa từ trái tim mình là chủ đích của luật Chúa. Chúng ta thấy rõ minh họa đầu tiên qua “mối tương giao huynh đệ”: Thập giới truyền bảo “ngươi không được giết người’  ?. Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng đích đòi hỏi của Lề Luật, khi tuyên bố rằng, việc không phạm tội sát nhân: Chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa: “Các con đã nghe người xưa dạy rằng ‘Không được giết người, … còn Ta, Ta bảo thật bất cứ ai phẫn nộ với anh chị em mình, thì sẽ bị phạt nơi tòa án…” (Mt 5,21-22).

Thật thế, trong sự hoàn thiện của luật, không chỉ giết người mới được coi là phạm luật, phải ra toà mà ngay cả thái độ giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em thì đã được coi là vi phạm luật. Và có ý muốn ngoại tình là đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi (x. Mt 5,27). Thậm chí chưa tích cực giải hòa với một người anh em đã gây căng thẳng, bất bình, cũng coi như là phạm Luật, không còn quyền dâng của lễ cho Thiên Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để lễ vật lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Chúa Giêsu đến để làm trọn Lề Luật trong tinh thần của luật yêu thương, có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích Lề Luật rắc rối bên ngoài làm cho con người trở nên vụ lợi và hình thức mà Chúa Giêsu đã kết án: “Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha” (Mt 23,13-36).

Đức Giêsu kiện toàn Lề Luật bằng cách thổi tình yêu của Ngài vào luật pháp khi nhấn mạnh đến điều cốt lõi: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải hi tế”. Ngài khẳng định giới răn trọng nhất mà toàn bộ Lề Luật và tiên tri đều quy về yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình (x. Mt 22,34-40). Chính Ngài đã kiện toàn giới răn cao cả ấy bằng cách tự hiến đời mình. Phần các môn đệ là chúng ta, kiện toàn Lề Luật khác hẳn việc tuân thủ các giới luật và mệnh lệnh của Chúa Kitô.

Ý lực sống:

“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người pharisiêu,

thì sẽ chẳng được vào nước Trời”. (Mt 5,20)

 

Suy Niệm 8: Đức công chính của người môn đệ (Mt 5,20-26)

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Hôm nay Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: Phải công chính hơn những người biệt phái và luật sĩ. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào cả, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.

Tại sao Chúa Giêsu đòi các môn đệ Ngài phải công chính hơn người biệt phái?

Thưa bởi vì, theo họ, thánh thiện là chu toàn cách chi li và máy móc những luật lệ đã được qui định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.

Đả phá quan niệm và cách thực hành của những người biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người biệt phái, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn những biệt phái và luật sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước trời”.

Không dùng gươm giáo hay bất cứ vũ khí hoặc phương tiện nào để đổ máu, kết liễu mạng sống người khác, làm như thế, những người luật sĩ và biệt phái cho rằng đã là tuân thủ đúng luật Maisen là “Chớ giết người”. Không sai! Nhưng Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải công chính hơn thế, khi Ngài dạy giữ luật ngay từ ý hướng bên trong, vì đó là căn cội dẫn đến hành vi biểu hiện bên ngoài: có loại trừ được lòng giận ghét thì mới không mắng chửi người khác, và như thế mới loại trừ được một động cơ quan trọng dẫn đến tội sát nhân. Giận dữ, mắng chửi đã là giết người trong tư tưởng rồi. Đàng khác, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm người khác còn gây ra đau khổ nặng nề hơn cả việc làm hại đến thân thể tha nhân (5 phút Lời Chúa).

“Chớ giết người”, chúng ta phải hiểu thế nào?

Luật Maisen qui định kẻ giết người phải bị đem ra toà xử, và tùy nghi luật lấy lại sự công bằng đúng sai xét về mặt xã hội và được áp dụng mắt đền mắt răng đền răng khi phạm nhân đã hành động sai.

Sự kiện toàn của luật Tin mừng không chỉ dừng lại ở hành động cụ thể tay chân mới là tội, và ngay cả việc giận hờn mắng nhiếc nhau đã xứng bị đem ra hội đồng và đáng phải sa hỏa ngục rồi. Thật vậy, giết nhau không chỉ dừng lại ở thể xác, nhưng bằng lời lẽ và hiến kế thâm độc còn đáng sợ hơn biết chừng nào…

Sự kiện toàn không chỉ dừng lại ở tính tương quan con người, mà là thành tương quan đối với Thiên Chúa, xúc phạm đến nhau tức là xúc phạm đến Thiên Chúa và xứng đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.

“Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật”

Việc bất bình ở đây hiểu thế nào?

Có thể xảy ra trường hợp một người thù ghét chúng ta mà không vì lỗi chúng ta. Đó không phải là vấn đề ở đây. Chính Chúa Giêsu cũng đã có những kẻ thù hung dữ, tàn bạo, tuy Ngài không hề có lỗi gì với họ. Vậy đừng lo lắng khi mình khám phá ra chung quanh mình có người nào đó cư xử với chúng ta như là có điều gì bất bình với chúng ta , mặc dầu chúng ta không làm điều gì phiền lòng họ. Trong trường hợp này, nếu chúng ta có thể đi bước đầu dàn xếp sự việc thì càng tốt, nếu không thể làm điều đó, hãy giao phó sự việc cho Chúa.

Nhưng điều Chúa Giêsu đòi hỏi là: để đến gần Chúa, chúng ta không được là nguyên nhân phát sinh bất công hay thiếu bác ái làm đau lòng người anh em. Điều này Chúa muốn dạy chúng ta.

Nếu có bất hoà xảy ra, thì phải mau chóng đi làm hoà ngay. Sự làm hoà này cần kíp và cấp bách như một điều kiện cần phải làm trước khi làm việc phụng thờ Thiên Chúa.

Không những không được thù oán, gây bất hoà với ai, mà còn không được là đối tượng cho lòng thù oán mà chúng ta có thể gây ra cho kẻ khác.

Ngay ở đời này, chúng ta phải cố hòa giải với Chúa bằng cách sống hòa thuận với nhau, chớ đợi đến đời sau, kẻo sẽ gặp án phạt rất nghiêm ngặt, vì đời này là chỗ tha thứ, đời sau là nơi thưởng phạt (Trần Hữu Thành).

Truyện: Hoà giải trước vị thần

Một trong những đền thờ cổ nói lên tinh thần của người Rôma xưa, đó là đền thờ dâng kính nữ thần có sứ mệnh hoà giải loài người với nhau, nhất là những đôi vợ chồng bất hoà.

Người Rôma xưa coi định chế hôn nhân là điều quan trọng trong sinh hoạt chính trị, xã hội; do đó, họ rất quan tâm đến việc bảo toàn gia đình. Khi hai vợ chồng bất hoà và như vậy có thể nguy hại cho đời sống gia đình, người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hòa giải.

Nghi thức diễn ra trước nữ thần rất đơn sơ: mỗi người có thể trình bày lý lẽ, phơi bày những bất công mà mình phải gánh chịu trong đời sống gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được nói một lúc, hễ ai ngắt lời người kia hoặc cả hai cùng nói một lúc thì điều đó bị coi như phạm thánh.

Nghi thức này có thể mang đến những kết quả phi thường: sau khi trình bày lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, bác bỏ mọi lời buộc tội, hai vợ chồng thường làm hoà với nhau trước mặt vị thần.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơn những người biệt phái. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.

Sau đó Chúa Giêsu đưa ra thí dụ về cách giữ một số khoản luật:

Luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.

Luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Có hai thứ thước để đo mức công chính. Thước đo của người biệt phái là xem mình có giữ luật đàng hoàng hay không; thước đo của người môn đệ Chúa là xem mình có sống trọn tình yêu thương không. Tôi thường dùng thứ thước nào  ?
  2. Cách nói cường điệu của Chúa Giêsu khi giải thích các khoảng luật “chớ giết người” cho tôi thấy thêm được rằng giận, mắng và chửi người anh em cũng là một cách giết chết người đó. Giết chết người anh em bởi vì tôi không coi người đó là anh em nên mới nặng lời như thế. trong lòng tôi “người anh em” kể như đã chết rồi, chỉ còn là một người dưng, một kẻ thù.
  3. Nếu Chúa đã chọn việc làm hòa trọng hơn của lễ, thì tôi có biết bao của lễ có sẵn hàng ngày chung đụng và nhiều va chạm này. Sao tôi không dâng cho Chúa  ?
  4. “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21)

Phần lớn chúng tôi, những người trẻ, không giết người nhưng lại “giết” mình. Tội ấy có đáng xét xử không  ? Chúng ta ít hỏi mình như thế bởi vì còn đắm say với men rượu, men tình trong những cuộc ăn chơi phóng túng. Kết cuộc là hủy hoại thân xác và tâm hồn, trí não và tương lai của mình cách thảm hại.

Lạy Chúa, xin cho giới trẻ chúng con biết quý trọng sự sống, và giúp nhau vun trồng sự sống, sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng con. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơnnhững người Pharisêu. Công chính của người Pharisêu là lo giữ luật cách chín chắnkhông sơ sót chút nào. Việc giữ luật đó chỉ là máy móc không một chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa phải được thể hiện qua việc giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương.

Sau đó, Chúa Giêsu đưa ra vài thí dụ về cách giữ một số khoản luật:

Thí dụ, luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.

Hay luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình đã.

  1. Như vậy ở đây, theo ý của Chúa, ta thấy có hai thứ thướcđể đo mức công chính. Thước đo của người Pharisêu là xem mình có giữ luật đàng hoàng hay không; còn thước đo của người môn đệ Chúa là xem mình có sống trọn tình yêu thương hay không. Chúng ta thường dùng thứ thước nào ?

Trong một làng nọ, có ba người bạn đã quen biết nhau từ lâu:

– Ablin là người thợ rèn.

– Ali làm ruộng.

– Carin là thầy lang.

Ablin, người thợ rèn có tính nóng nẩy, hay say rượu và lười biếng. Còn Ali thì có lòng kính sợ Chúa và ngày ngày từ sáng sớm đến chiều tối, ông chăm chỉ làm việc trên cánh ruộng để có đủ cơm ăn áo mặc cho gia đình. Người ta thấy đôi lúc Ali cũng nổi sùng với những người hàng xóm chung quanh, nhưng cách chung ai cũng phải công nhận ông là người tốt bụng và không hề lường gạt ai. Và cuối cùng, là Carin, một thầy lang nổi tiếng là thánh thiện. Kẻ ốm đau nhất là những người từ ở nơi xa đến, chỉ cần nhìn thấy gương mặt hiền hậu của ông cũng đủ khỏi bệnh.

Nhưng không hiểu vì lý do gì mà cả ba người đều mắc bệnh phong cùi trong cùng một ngày. Dĩ nhiên theo luật pháp và vì lợi ích của dân làng, họ phải bị trục xuất ra khỏi làng và người ta đã dựng cho ba người một túp lều để họ có chỗ che nắng che mưa.

Một hôm, cả ba người nằm ngủ và mơ thấy Chúa. Chúa phán với họ: “Hãy cầu xin cho được lành bệnh”. Sáng thức dậy, họ thuật lại giấc mơ của mình cho nhau nghe và vui mừng vì biết chắc đó là điều Chúa muốn. Họ quyết tâm cùng cầu xin Chúa như Ngài đã phán bảo họ.

Sau ba ngày, người thợ rèn, Ablin, được khỏi bệnh, khỏe mạnh và trở về làng trước. Ông tự nhủ trong lòng: không hiểu vì sao mà mình được Chúa thương nhất trong ba người.

Sau ba tháng, thì đến lượt bác nông phu là Ali, cũng được lành bệnh và trở về làng. Trên đường về ông thầm nghĩ là mình được Chúa yêu thương hơn là ông bạn thầy lang. Ông ấy vẫn còn đang bị bệnh! Thật tội nghiệp. Rồi ông tự nhủ với lòng của mình: phải chăng tiếng đồn về lòng nhân đức của thầy lang đều là sai hay sao! Nếu quả ông ta là người thánh thiện, được Chúa thương thì ông phải được Chúa chữa lành bệnh trước chớ. Còn mình, tại sao mình chính trực hơn tên thợ rèn mà cũng phải chờ đến ba tháng.

Ngày tháng trôi qua, năm này đến năm khác, ông thầy lang vẫn còn bị bệnh phong cùi hành hạ, ngày càng thêm ghê tởm và bác nông phu không sao giải thích được điều thắc mắc đó.

Một hôm, đang nằm ngủ ông nghe tiếng Chúa phán bảo:

– Ali, Ta biết rõ trong lòng con vẫn đang thắc mắc về số phận của Carin. Tại sao một con người tệ hơn con như Ablin lại được khỏi bệnh trước, mà Carin là người thánh thiện hơn con lại bị bệnh lâu như vậy. Hãy nghe đây: Sở dĩ ta nghe lời Ablin mau mắn như vậy chỉ vì sự yếu đuối của hắn. Nếu Ta để lâu hơn hắn sẽ ngã lòng thất vọng, không còn tin tưởng vào Ta nữa. Trong trường hợp của con, nếu Ta để lâu hơn ba tháng nữa thì con cũng ngã lòng thất vọng. Trái lại, lòng tin tưởng của Thầy Carin rất mạnh. Ta có thể làm ngơ như không nghe thấy lời Carin cầu xin, vậy mà Carin vẫn không thất vọng, bởi vì Carin là bạn thân của Ta, nên đã hiểu lòng Ta và vì Ta đã trở thành mọi sự cho Carin rồi”.

Sáng hôm sau, Ali giật mình thức dậy, bên tai vẫn còn nghe rõ ràng Lời Chúa cắt nghĩa và ông tự hỏi: “Biết đến bao giờ Chúa mới trở nên mọi sự, trở nên tất cả cho đời tôi. Tình yêu Chúa thật bao la và mầu nhiệm biết bao. Làm sao con có thể hiểu được Chúa cư xử như vậy với những bạn thân tình của Chúa. Thế mà con cứ ngỡ rằng: họ là những người bị Chúa quở phạt”.

Vâng, người công chính là người biết đặt Chúa lên trên tất cả mọi sự và trên cà cuộc đời của mình.

 

 

 

THỨ SÁU TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 5, 27-32

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đã nghe dạy người xưa rằng: “Chớ ngoại tình”. Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.

“Có lời dạy rằng: “Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị”. Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa”.

 

Suy Niệm 1: Ngoại tình trong lòng

Suy niệm :

Bài Tin Mừng hôm nay hẳn gây sốc cho những ai nghe Đức Giêsu,

và nhất là cho chúng ta ở thế kỷ này nữa.

Đòi hỏi của Đức Giêsu mang tính tận căn, vượt quá Luật Môsê.

Không phải chỉ là tránh ngoại tình trong hành động,

mà còn phải tránh cả ngoại tình trong tư tưởng, trong trái tim,

khi nhìn người phụ nữ bằng cái nhìn thèm muốn chiếm đoạt.

Phụ nữ ở đây hẳn là người đã có chồng, đầu tóc được che khăn.

Thèm muốn ở đây không phải chỉ là một rung động tự nhiên trước vẻ đẹp,

nhưng muốn nói đến một dục vọng xác thịt được nuôi dưỡng kéo dài,

nhắm đến một tương quan bất chính với người phụ nữ ấy.

Thèm muốn này có tính chiếm đoạt.

Điều này đã được nói đến ở giới răn thứ mười:

chớ thèm muốn vợ người khác (Xh 20, 17).

Đàn ông hôm nay thấy khó tránh cái nhìn thèm muốn, chiếm đoạt.

vì phụ nữ hôm nay biết cách lôi kéo cái nhìn của họ.

Nhiều phụ nữ coi “gợi cảm” và “gợi tình” là điều cần nhắm tới.

Các quán bán cà phê đều cần những cô “có ngoại hình”.

Trong các tạp chí và trên mạng thiếu gì những hình ảnh tươi mát, dâm ô.

Chúng ta đã quen với một nền văn hóa tiếp thị bằng hình ảnh như thế.

Từ nhìn đến thèm muốn cháy bỏng, rồi dẫn đến sa ngã thực sự.

Nạn mãi dâm, ngoại tình, đổ vỡ trong gia đình vẫn là chuyện nhức nhối.

Từ đó phát sinh bao bệnh tật và tệ nạn trong xã hội.

Đức Giêsu muốn ngăn chặn cái xấu từ trong gốc rễ.

Bà Evà đã nhìn, đã thèm muốn, rồi cuối cùng đã hái trái cấm.

Từ mắt đến tim và đến tay: đó vẫn là con đường bình thường của cám dỗ.

Đức Giêsu đã dùng lối ngoa ngữ để nói lên đòi hỏi tận căn của Ngài.

Nếu mắt hay tay làm dịp cho chúng ta phạm tội về xác thịt,

thì thà mất mắt phải hay tay phải mà vào Nước Trời

còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục.

Chúng ta không hiểu theo nghĩa đen để rồi chặt tay hay móc mắt,

vì làm thế cũng chẳng khiến ta hết dục vọng.

Nhưng chúng ta hiểu mình cần phải chịu những hy sinh đau đớn

mới có thể giữ mình thanh khiết để xứng đáng với Nước Trời.

Làm sao để cái nhìn của tôi được trong sáng ngay giữa một thế giới ô uế?

Làm sao để tôi không coi người khác phái chỉ là đối tượng của dục vọng xác thịt?

Làm sao tôi có thể quay đi và nhắm mắt để được tự do?

 

Cầu nguyện :

Như đóa sen trong đầm lầy,

xin giữ tâm hồn con thanh khiết.

Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,

xin gìn giữ mắt con.

Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,

xin dạy con biết trân trọng thân xác.

Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,

xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.

Xin nâng con lên cao

vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,

để biết tự hiến trong yêu thương.

Xin đừng để con phung phí sức lực

vào những chuyện tình cảm chóng qua,

nhưng giúp con tự rèn luyện mình

để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.

Như đóa sen trong đầm lầy,

xin giữ thân xác con thanh khiết. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: Thiên Chúa của niềm hy vọng

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa tiếp tục kiện toàn Lề Luật. Bằng nội tâm hoá. Giữ luật không phải theo hình thức bề ngoài. Nhưng từ đáy sâu tâm hồn. Đó là diệt tận căn sự dữ. Thực ra việc làm chỉ là kết quả cuối cùng. Chỉ là phần ngọn. Phần gốc khởi đầu và ăn sâu trong tâm hồn. “Bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”.

Phải diệt trừ tội lỗi tận gốc. Vì sự sống. Đây là kiện toàn Lề Luật ở mức cao nhất. Luật cũ đưa đến sự chết. Luật mới đưa đến sự sống. Chịu thiệt thòi đời này để được sự sống đời đời. “Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”.

Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Của niềm hy vọng. Những ai phục vụ Chúa. Chịu thiệt thòi ở đời này. Đừng nghĩ rằng thế là hết. Là chết. Chúa sẽ mở ra con đường hy vọng mới. Mở ra sự sống mới. Ê-li-a tuyệt vọng. Vì cuối cùng chỉ còn mình ông thờ phượng Chúa. Ông bị săn đuổi sắp chết. Sẽ chẳng còn ai tiếp tục thờ phượng Chúa. Nhưng trong cơn gió thoảng nhẹ nhàng, Chúa cho ông thấy cả một niềm hy vọng, một sự sống mới nảy sinh. “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sac mạc cho tới Đa-mát mà về. tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; Còn Giê-hu con của Nim-si, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ít-ra-en. Ê-li-sa, con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi” (năm chẵn).

Thánh Phao-lô quả quyết điều đó. Ngài có thể bị xua đuổi, hành hạ. Nhưng như thế sự sống của Chúa càng tỏ hiện. “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật thế, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi”. Càng chịu đau khổ vì Chúa, thì sự sống của Chúa càng mạnh mẽ. Càng chết cho Chúa thì sự sống sẽ càng sung mãn. Và sẽ dẫn đến sự sống lại. Sự sống đời đời. Đó chính là niềm hy vọng. “Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em” (năm lẻ).

Hãy diệt trừ tội lỗi. Dù phải chịu đau khổ. Kể cả mất mạng sống. Nhưng Chúa sẽ trả lại cho ta sự sống. Sự sống đích thực. Sung mãn. Vĩnh cửu.

 

SUY NIỆM 3: Chớ ngoại tình, đừng ly dị

Hôn nhân không phải là một sự phối hợp tạm thời để có thể dễ dàng phân ly vì sự thay đổi hoặc vì đam mê của con người. Chúa Giêsu lên án những phóng đãng luân lý, như sự bất trung, ngoại tình, ly dị do pháp luật cho phép.

Chống lại sự bất trung, Chúa Giêsu lên án cách nhìn ngắm không trong sạch của những ước muốn xác thịt, liều mình đi đến chỗ phạm tội trong tâm hồn. Cử chỉ này bị coi là đã thành tội, vì tội phát sinh bởi ý muốn thầm kín của tâm hồn. Với những lời gắt gao, Chúa nhắc lại việc cần phải dấn thân một cách nghiêm chỉnh và cương quyết chống lại những lạc hướng do ích kỷ, để cứu vãn và tăng cường tình yêu hôn nhân bằng mọi giá.

Chống lại việc ly dị, Chúa Giêsu đã sửa lại luật Môsê cho phép ly dị trong một số trường hợp. Ðối với Ngài, lý do là sự lựa chọn của một tình yêu dâng hiến, với tình yêu này, người nam và người nữ dấn thân sống chung với nhau suốt đời. Ngài kêu gọi lương tâm của con người, và không luật nào được thay thế và vi phạm lương tâm này. Tội tà dâm phải được loại trừ tận gốc rễ, và trong tư tưởng thầm kín. Cái nhìn trong sạch: “Phúc cho ai có tâm hồn trọng sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa”; muốn thế, cần phải hy sinh những gì gây cớ vấp phạm.

Trong luật cũ có vẻ bao dung đối với nam giới và nghiêm khắc đối với nữ giới, thì Chúa Giêsu đặt cả hai trên cùng một cấp bậc: Ngài lên án rõ ràng và như nhau về việc ly dị đối với cả hai giới, và tuyên bố việc phối hợp với người khác sau khi ly dị là ngoại tình.

Theo giáo huấn của Chúa, việc phối hợp giữa người nam và người nữ là một biểu lộ của tình yêu, và tình yêu này đến từ Thiên Chúa, chứ không do tình dục ích kỷ. Tình yêu là một sự trao ban cho nhau, là cuộc gặp gỡ của tự do.

Xin Chúa cho chúng ta biết tiến lên theo Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta không chiều theo những ước muốn và hành động của xác thịt; trái lại biết sống trong tự do của Chúa, nhờ đó lề luật của Chúa sẽ trở nên nguồn an vui và sức mạnh của chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Giải phóng tình yêu

“Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt. 5, 27-28)

Những lời nói cũ rích?

Có những người nói rằng thời đại ta là thời đại giải phóng tình dục và họ vỗ tay hoan hô. Những người khác nhìn thấy cảnh sống phóng túng tràn lan hầu như khắp nơi, thì lại chỉ buông lời trách móc. Ta nên xử trí thế nào cho phải. Cách ăn nết ở của đàn ông đàn bà cũng như của thanh thiếu niên nam nữ xưa đối với nhau có những mặt tốt và mặt xấu của nó. Xưa có những cách bày tỏ tình bằng hữu, cho đến cả tình yêu nữa, không phải luôn luôn hoàn hảo, xứng với con người hay hợp với tinh thần Kitô giáo đâu. Nhưng những cách cư xử mới của những người thời nay cũng không phải là hoàn toàn bảo đảm. Chắc chắn là chúng ta đã đạt tới những nếp sống phóng túng chẳng giúp gì cho việc khơi đậy và phát triển một tình yêu sâu xa giữa nam nữ cũng như giữa vợ chồng.

Trong bối cảnh hiện nay thì chắc chắn những lời Chúa phán kia có nguy cơ bị coi là lỗi thời. Không được thèm muốn vợ người khác, phải cương quyết để sống trung tín với người nam hay nữ mình yêu, người ta còn sẵn sàng thực hiện điều này không?

Yêu thương, khó đấy

Thế nhưng ta phải thực hiện yêu thương, sẽ phải luôn luôn thực hiện yêu thương, bởi lẽ không bao giờ một tình yêu muốn được coi là chân thật, bền bỉ và trung tín sẽ chịu dung dưỡng với những dễ dãi và thỏa hiệp.

Từ mấy thập niên qua, người ta dã tốn công nhiều để giải phóng người nam và người nữ khỏi một số những điều cấm kỵ vốn cản trở họ yêu nhau một cách hồn nhiên và được vui sướng. Nhưng giờ đây một trách vụ mới lại được đặt ra. Phải giải phóng tình yêu khỏi tất cả những gì làm thoái hóa, hư hỏng và bóp nghẹt tình yêu, làm cho tình yêu trở thành một thực phẩm không còn mùi vị gì nữa và không còn mời gọi vươn lên nữa.

Chúa Giêsu đã yêu thương đến độ đón nhận thập giá. Chẳng có tình yêu giữa hai vợ chồng khi tình yêu ấy không trải qua con đường này.

 

Suy Niệm 5: HÃY SỐNG TRONG SẠCH TỪ TƯ TƯỞNG (Mt 5, 27-32)

Trên các trang mạng xã hội gần đây có đăng tải câu chuyện của một quan tham, ông ta là Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Ông này có ý đồ dâm đãng với nhiều phụ nữ. Ông ta trở thành điển hình cho thói ăn chơi sa đọa và bệnh hoạn. Giấc mơ mà ông này đeo đuổi chính là được “qua đêm” với 1.500 người phụ nữ. Kết cục ông đã bị bắt (xc. http://www.tienphong.vn/the-gioi/quan-tham-trung-quoc-dat-muc-tieu-ngu-voi-1500-nguoi-phu-nu-711861.tpo).

Hôm nay Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học về sự thanh bạch, khiết tịnh từ bên trong, Ngài nói: “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”. Sau đó, Ngài đã nói lên tính cẩn trọng, dứt khoát với tội để có sự toàn vẹn trong cuộc sống mai hậu: “Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục”.

Trong đời sống thực tế, có nhiều người bên ngoài tỏ ra rất đạo đức, thánh thiện, nhưng bên trong luôn đi tìm muốn sự bất khiết.

Lời Chúa hôm nay nhắc cho mỗi chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, nhất là tội dâm dục, để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc trên Thiên Quốc mai sau.

Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con và ban cho có tự do, đồng thời Chúa cho phép chúng con sử dụng sự tự do đó để làm điều thiện hay xấu. Xin Chúa ban ơn trợ lực, để chúng con biết sử dụng ân huệ Chúa ban mà làm việc tốt, hầu sinh ích cho phần hồn chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Chung thủy trong đời hôn nhân

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa dạy phải sống chung thủy trong đời hôn nhân. Muốn được như vậy, phải cương quyết không chiều theo những thèm muốn tội lỗi và cương quyết cắt đứt dịp tội.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Cha Toàn Năng, chúng con tạ ơn Cha đã tạo dựng nên chúng con là những người nam, người nữ. Tạ ơn Cha đã cho chúng con khả năng hấp dẫn lẫn nhau, hướng về nhau, để xây dựng một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Nhưng tội lỗi đã phá đổ điều tốt đẹp ấy và làm cho chúng con trở thành lệch lạc. Chúng con chỉ muốn thỏa mãn đam mê dục vọng một cách ích kỷ.

Lạy Cha, xin Cha giúp con làm chủ bản thân mình, xin giúp con chấn chỉnh sự lệch lạc ngay từ cái nhìn, ngay từ trong ý hướng tâm hồn của con. Con sẽ hành động xấu khi con chiều theo ước muốn xấu. Và hành động của con chỉ tốt khi con có những ý hướng tốt.

Cuộc sống con hôm nay tràn ngập biết bao hình ảnh dâm ô thúc đẩy con phạm tội. Xin cho con ơn biết khôn ngoan và can đảm tránh xa dịp tội. Xin giúp con giữ gìn đôi mắt trong sạch. Trong lúc con bị cám dỗ, xin ban ơn nâng đỡ giúp con chiến thắng. Xin Cha cho các thanh niên thiếu nữ biết quý trọng tâm hồn trong sạch như là hương thơm ngọc quý của tuổi trẻ.

Đặc biệt, con xin Cha thương xót những gia đình đang trong cơn khủng hoảng vì ngoại tình hoặc có nguy cơ ly tán. Xin Cha cho gia đình họ và gia đình chúng con đây được trung tín trong lời cam kết hôn nhân. Xin giúp gia đình họ vượt qua những giờ phút thử thách để tìm lại được hạnh phúc trong tình yêu. Amen.

Ghi nhớ : “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”.

 

Suy Niệm 7: Kiện toàn Lề Luật

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đaminh Saviô sinh ra trong một gia đình Công giáo, cha mẹ sống rất đạo đức, đặc biệt là người mẹ. Bà chu đáo trong giáo dục con cái, dạy cho con biết phân biệt điều lành điều dữ và nhất là biết tránh xa các dịp tội. Đaminh ghi nhớ rõ từng lời mẹ dạy.

Lên năm tuổi, ngài trở thành một cậu giúp lễ. Khi lên bảy tuổi, ngài được rước lễ lần đầu. Trong ngày đó, Đaminh đã chọn cho mình một quyết tâm để sống. Ngài hứa với Chúa Giêsu: “Thà chết chẳng thà phạm tội!”.

Hằng ngày, Đaminh đã cầu nguyện để luôn trung thành với lời hứa ấy… Đaminh luôn gìn giữ tâm hồn trong trắng, không dính vết tội nhơ. Cậu rất gớm ghét tội lỗi làm mất lòng Chúa.

Ngày 18/5/1950, Đaminh Saviô qua đời lúc tuổi đời vừa tròn 14 và trở nên một trong những vị thánh trẻ nhất trong Giáo hội Công giáo.

Suy niệm

Chúa Giêsu hoàn thiện luật như chính Ngài nhấn mạnh: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Kiện toàn Lề Luật khi Ngài dạy thực thi luật vớt tất cả tâm hồn. Ngài dạy không dừng lại, quanh quẩn ở luật pháp mà vượt qua luật, Ngài dẫn đưa nhân loại đi tới Tin Mừng đem hạnh phúc tình thương cho con người. Chính bài giảng Bát phúc trình bày tính cách vĩnh cửu của luật pháp mà Ngài hoàn thiện.

Tuy nhiên, luật của Ðức Giêsu đòi hỏi đến tận nguồn gốc của hành động, nguyên nhân thúc đẩy hành động. Vì thế, luật của Ngài đòi hỏi khắt khe hơn và buộc người ta phải hoán cải tận căn rễ của sự tội: Sẵn sàng làm một số việc vừa quyết liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động chặt tay và móc mắt. Chúa Giêsu không nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay móc mắt vì đây chỉ là cách nói nhấn mạnh của Ngài để gây một ấn tượng khó quên đối với người nghe: Giữ luật trong tình yêu vì tình yêu phải hy sinh.

Khi kiện toàn Lề Luật, Đức Giêsu hoàn thiện hôn nhân. Luật cũ trọng nam khinh nữ khi bao dung đối với nam giới mà nghiêm khắc đối với nữ giới. Chúa Giêsu đặt cả hai trên cùng một cấp bậc và bất ly dị khi hôn nhân được chúc lành làm thành bí tích. Ngài lên án rõ ràng và như nhau về việc ly dị đối với cả hai giới, và tuyên bố việc phối hợp với người khác sau khi ly dị là ngoại tình. Xin cho chúng ta quyết tâm sống luật Chúa với tình yêu và sự tín trung…

Ý lực sống:

Luật pháp kiện toàn Chúa rộng ban,

Yêu thương, thanh khiết, chẳng tà gian…

Kỷ cương tuân giữ, gieo nhân ái,

Hoa lòng tươi nở khắp muôn phương

(Trích và kết hợp từ Thiên Pháp của Hạt Nắng và Đường Thiện hảo của Bâng Khuâng Chiều Tím).

 

Suy Niệm 8: Chung thủy trong hôn nhân (Mt 5,27-32)

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Lề luật diễn tả ý Thiên Chúa, vì thế sống theo luật là sống theo Chúa. Thế nhưng luật lệ cần được kiện toàn theo hoàn cảnh, theo thời gian. Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: Ngài không phá bỏ luật Cựu ước, nhưng Ngài canh tân để bộ luật được hoàn thiện hơn. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa dạy phải chung thuỷ trong đời sống hôn nhân. Muốn sống được như vậy, phải cương quyết không chiều theo những thèm muốn tội lỗi và cương quyết cắt đứt mọi dịp tội.

Luật cũ cho ly dị thực ra không phải Thiên Chúa ban, nhưng vì sự yếu đuối của dân mà ông Maisen đã chấp nhận. Chúa Giêsu đã kiện toàn theo tinh thần mới khi khẳng định sự bất khả phân ly của hôn nhân. Có lần nhóm Biệt phái đến hỏi Chúa Giêsu họ có phép được ly dị không? Thay vì trả lời “Có” hay “Không”, thì Chúa Giêsu lại nhắc cho họ điều căn bản là từ thuở ban đầu trong ý định của Thiên Chúa đã muốn cho người nam và người nữ kết hợp với nhau trong việc cộng tác sáng tạo và bất khả phân ly. Thế nhưng, vì ích kỷ mà con người phản bội dối gian nhau, thiếu tình yêu và tha thứ cho nhau… dẫn đến đổ vỡ. Chính vì thế mà Maisen cho phép ly dị như một chọn lựa ngoài ý muốn để giải gỡ cho họ.

Chống lại luật ly dị, Chúa Giêsu đã sửa lại luật Maisen cho phép ly dị một số trường hợp. Đối với Ngài, lý do là sự lựa chọn của một tình yêu dâng hiến, với tình yêu này, người nam và người nữ dấn thân sống chung với nhau suốt đời. Ngài kêu gọi lương tâm của con người, và không luật nào được thay thế và vi phạm lương tâm này. Tội tà dâm phải được loại trừ tận gốc rễ, và trong tư tưởng thầm kín. Cái nhìn trong sạch: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa”, muốn thế, cần phải hy sinh những gì gây cớ vấp phạm.

Sự chung thuỷ trong hôn nhân mà Kitô giáo đề cao cũng được tìm thấy trong nhiều tôn giáo và văn hoá khác. Tuy nhiên, nét nổi bật của đòi hỏi chung thuỷ trong Kitô giáo chính là nền tảng của nó, tức là Thiên Chúa. Con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa, và nếu Thiên Chúa là tình yêu chung thuỷ, thì hình ảnh Ngài nơi con người cũng phải là tình yêu chung thuỷ, ơn gọi của con người chính là thực hiện hình ảnh ấy.

Dù sống độc thân hay trong bậc hôn nhân, ơn gọi chung của con người vẫn là sống chung thuỷ. Chung thuỷ với chính bản thân, hay chung thuỷ với người khác, đối tượng cuối cùng của chung thuỷ vẫn là Thiên Chúa. Khi con người tôn trọng chính mình là lúc con người tôn trọng hình ảnh Thiên Chúa trong chính mình (Mỗi ngày một tin vui).

Chúa Giêsu cũng dạy ta phải tránh xa dịp tội. Việc Chúa Giêsu nói cái gì trở nên dịp tội thì hãy lo cất đi, chấp nhận mất một bộ phận mà tránh được hỏa ngục. Ở đây không hiểu theo nghĩa đen là phải chặt tay móc mắt, vì nếu thế thì không còn ai toàn vẹn vì bản năng yếu đuối của con người. Điều Chúa muốn nói ở đây chính là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nghĩa là phải cất đi và xa lánh những nguy cơ có thể đẩy chúng ta đến phạm tội, dù phải chấp nhận phần thiệt về mình, như lánh xa những ấn phẩm đen, không đến những nơi chốn không thích hợp, tránh dùng những thức uống làm mình mất kiểm soát…

“Ai nhìn phụ nữ mà thèm muốn…”

Có những đôi mắt là “cửa sổ của tâm hồn” nhưng cũng có “những đôi mắt in hình viên đạn”. Những viên đạn hận thù, ghen tương, trả đũa, những viên đạn thèm khát tình dục được ”bắn” vào người khác. Mà sở dĩ chúng ta mang những “đôi mắt in hình viên đạn” thèm muốn, bởi vì chính chúng ta đã mở tung “cửa sổ tâm hồn” cho những trang sách báo nhảm nhí, những cuốn phim với lắm hình ảnh bạo lực, đồi truỵ, và bao hình thức giải trí phóng túng khác… Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên án những ai chủ ý dùng con mắt của minh, để khơi gợi những ước muốn bất chính, hay nói cách khác, Ngài cảnh báo những tâm hồn chất đầy những ý muốn bệnh hoạn và dùng con mắt để thỏa mãn những ham muốn đen tối ấy (5 phút Lời Chúa).

Truyện: Tình yêu chung thuỷ

Nói đến sự chung thuỷ, người ta nhắc đến gương của một công chúa nước Thụy Điển. Khi chồng bị nhà vua giam tù chung thân, bà đã đến xin cho được ở tù với chồng. Nhà vua ngạc nhiên giải thích cho bà: bản án của chồng bà là án chung thân, hơn nữa chồng bà bị giam tù, nên bà được tự do tái hôn. Nghe thế, công chúa trả lời: “Tâu bệ hạ, dù chồng tôi có vô tội hay không, anh ấy vẫn mãi mãi là chồng tôi”. Nói xong, nàng chìa cho nhà vua xem chiếc nhẫn trên đó có khắc hàng chữ “Sola mors” (chỉ sự chết mới có thể phân rẽ).

Công chúa đã sống với chồng 17 năm, chỉ sau khi nhà vua băng hà, hai người mới được trả tự do.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu tiếp tục giải thích tinh thần mới trong khi giữ luật. Hôm nay Ngài bàn đến luật hôn nhân và khiết tịnh.

Điều quan trọng nằm trong con tim chứ không phải nơi những thể hiện bên ngoài. Do đó phải giữ trọn con tim. Ngài minh chứng cho người mình đã cùng cam kết, và bất cứ sự gì có thể đẩy mình vi phạm cam kết đó thì phải ngăn chặn từ gốc rễ: một cái nhìn, một ước muốn.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Phải thừa nhận rằng thứ văn minh thời nay không được sạch. Khi đề cập quá nhiều đến giới tính, xem ra nó đề cao giới tính, nhưng thực chất là hạ thấp giới tính vì nó khiến người ta không còn tôn trọng giới tính nữa, coi đó là một thú vui, một nhu cầu mà mình có thể thỏa mãn một cách dễ dàng. Sống trong bầu khí thiếu trong sáng đó, không nhiều thì ít tôi cũng bị lây nhiễm. Hôm nay tôi phải tự kiểm: tôi có tôn trọng giới tính của tôi không? Tôi có tôn trọng những người khác phái không? Tôi có cương quyết dứt khoát với các cám dỗ không?
  2. Ngoại tình là không chung tình. Bất cứ hình thức san sẻ nào, dù chỉ là một chút san sẻ, cũng là ngoại tình. Tôi đã hứa dành tình yêu của tôi cho ai? Tôi có san sẻ cho ai khác không? San sẻ như thế nào?
  3. Muốn chung tình thì phải từ bỏ.

“Tôi vất bỏ những cám dỗ ma quái trong đời cùng với nét phù du của chúng. Tôi sẽ vút lên khỏi đỉnh núi cao. Tôi tự do! Tôi tự do! (Xác quyết)

  1. Đức Hồng Y Roncalli (sau là Giáo Hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh nữ công tước mặc chiếc váy cực kỳ ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt cả bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:

– Tôi không biết phải cám ơn ngài như thế nào. Nhờ đâu tôi được ưu ái như thế?

 Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:

– Sau khi Eva ăn quả táo, bà mới nhận ra là mình thiếu quần áo. (Góp nhặt)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai vấn đề rất quan trọng trong nếp sống gia đình: ngoại tình và ly dị. Đây là hai vấn đề rất thời sự của xã hội hôm nay.

  1. Về vấn đề ngoại tình. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã làm cho người nghe phải kinh ngạc. Theo Lời Chúa dạy thì tư tưởng cũng quan trọng như hành động.Chúa Giêsu dạy rằng, một người bị xét xử không chỉ vì những việc họ đã làm mà còn cả vì những ước muốnhọ chưa thể hiện bằng hành động nữa. Như vậy, theo tiêu chuẩn của thế gian, một người không bao giờ phạm một điều cấm nào thì người đó là người tốt, còn theo tiêu chuẩn của Chúa Giêsu, thì chưa đủ. Theo Chúa, một người được coi là tốt khi người đó không những không làm mà ngay cả trong ước muốn người đó cũng không dám nữa. Đây là một ví dụ về tiêu chuẩn mới của Chúa Giêsu.

Luật pháp thiết định rằng: “Ngươi chớ phạm tội tà dâm “ (Xh 20,14).

Các giáo sư Do Thái cho tội này trọng đến nỗi can phạm có thể bị án tử hình (Lv 20,10).

Còn Chúa Giêsu lại dạy rằng: chẳng những hành động tà dâm bị cấm mà cả tư tưởng tà dâm cũng là phạm tội trước mặt Thiên Chúa.

  1. Vấn Đề Ly Dị

Ở đây, Chúa Giêsu muốn thắt chặt lại đời sống hôn nhân mà con người thường hay có thái độ buông lỏng. Trong Cựu Ước, luật Môisen đã cho làm tờ ly dị và trong xã hội hôm nay, ly dị hầu như đã trở thành một nạn dịch vì nó quá phổ biến. Lý do là vì người ta sống quá tự do. Lấy nhau quá dễ dàng thì bỏ nhau cũng dễ dàng.

Bài Tin Mừng hôm nay là một lời mời gọi người Kitô hữu phải chú ý đến việc giáo dục hôn nhân và gia đình kỹ càng hơn. Phải chú trọng đến đời sống đạo đức, nghĩ đến hạnh phúc kẻ khác cũng như của con cái hơn là sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn mình.

Một họa sĩ nọ, suốt đời mơ ước sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi một vị giáo sĩ:

– Xin ngài cho con biết điều gì đẹp nhất trần gian ?

Vị giáo sĩ liền trả lời:

– Tôi nghĩ rằng: Điều đẹp nhất trần gian là niềm tin, bởi vì niềm tin nâng cao giá trị con người. Ông có thể tìm thấy niềm tin bất cứ nơi nhà thờ nào có những người họp nhau để cử hành và chia sẻ cơm bánh cho nhau.

Nhà nghệ sĩ chưa thỏa mãn, tiếp tục cuộc điều tra, ông đặt ra một câu hỏi tương tự với một cô dâu. Cô dâu trả lời:

– Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi vì tình yêu làm cho đắng cay nên ngọt ngào, mang lại tiếng cười thay cho tiếng khóc, biến nghèo nàn thành giàu sang, làm cho điều bé nhỏ trở thành cao trọng. Cuộc sống sẽ nhàm chán nếu không có tình yêu.

Vẫn chưa thỏa mãn với điều mơ ước, nhà nghệ sĩ đến gặp một người lính chiến từ trận mạc trở về. Được vấn kiến, người lính chiến trả lời:

– Hòa bình là điều đẹp nhất trần gian, chiến tranh là điều bỉ ổi, ở đâu có hòa bình, ở đó có cái đẹp.

Sau khi nghe những lời phát biểu trên đây, nhà họa sĩ tự hỏi ? Làm sao có thể vẽ lại một lúc: Niềm tin, Tình yêu và Hòa bình. Về đến nhà, ông nhận ra niềm tin nơi ánh mắt con cái. Tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính niềm tin nơi con cái và tình yêu nơi người vợ làm cho tâm hồn ông tràn ngập hạnh phúc và an bình. Nhà nghệ sĩ chợt hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là: Mái ấm gia đình.

Mái ấm là mái nhà che mưa che nắng, là bốn vách che kín không để gió lùa vào, là chiếc thảm trên sàn nhà giữ cho khỏi giá băng, nhưng mái ấm gia đình không chỉ có thế mà còn hơn thế nữa. Đó là tiếng cười của em bé, tiếng hát của bà mẹ, sức mạnh của người cha. Đó là hơi ấm của những con tim biết yêu, là sự ân cần, là lòng chung thủy, là tình bằng hữu …Mái ấm gia đình là ngôi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ được học cho biết thế nào là điều ngay lẽ phải, thế nào là việc thiện, thế nào là lòng tử tế. Đó là nơi tuổi thơ tìm về khi đau khổ bệnh hoạn. Đó là nơi được chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền. Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương. Đó là nơi những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, vì là giá trị của mồ hôi và nước mắt. Mái ấm gia đình là nơi được Thiên Chúa luôn chúc phúc.

Lạy Chúa, dù xiêu vẹo dột nát, xin cho căn hộ gia đình chúng con luôn là một mái ấm đứng vững với niềm tín thác vào tình yêu của Chúa và được xây đắp không ngừng bằng tình yêu thương giữa mọi người chúng con. Amen.

 

 

 

THỨ BẢY TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 5, 33-37

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: “Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa”.

Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được.

Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra”.

 

Suy Niệm 1: Có thì nói có

Suy niệm:

Việc thề vẫn có trong các nền văn hóa nhân loại.

Người ta thề để người khác tin lời của mình hơn,

vì nếu không giữ lời thề sẽ bị các thần minh nguyền rủa.

Người Do thái từ xa xưa cũng đã có thói quen thề.

Thề là nại đến Thiên Chúa để làm chứng cho điều mình nói.

Hêrôđê Antipas đã thề hứa với cô bé con bà Hêrôđia (Mt 14, 7).

Lời thề của một người lãnh đạo như ông đã khiến ông bị kẹt.

Phêrô đã chối Thầy kèm theo những lời thề thốt (Mt 26, 72. 74),

vì ông sợ người ta không tin lời ông nói.

Đức Giêsu biết chuyện Luật Môsê cấm bội thề,

và phải giữ trọn điều đã hứa với Đức Chúa (c. 33).

Nhưng quan điểm của Ngài trong Bài Giảng trên núi là không thề gì cả.

Không cần thề để xin Đức Chúa làm chứng cho lời ta nói,

vì mọi lời ta nói, Ngài đều biết và làm chứng.

Vì những sơ xuất trong việc giữ lời thề

có thể làm Thánh Danh Đức Chúa bị xúc phạm, nên khi thề,

người Do thái thường thay Danh Chúa bằng một vật gì đó (Mt 23, 16-22).

Tương tự như ở Việt Nam, họ dùng trời hay đất để thề.

Họ cũng thề nhân danh Đền thờ Giêrusalem hay chính đầu của mình

Đối với Đức Giêsu, điều đó cũng chẳng làm nhẹ tội chút nào,

vì trời, đất, Đền Thờ, hay đầu của chúng ta cũng đều thuộc về Chúa.

Trời quan trọng vì là ngai của Thiên Chúa.

Đất quan trọng vì là bệ dưới chân Người.

Đền thờ quan trọng vì là thành của Đức Vua cao cả.

Đầu cũng chẳng thuộc quyền con người,

vì màu trắng hay đen của sợi tóc nằm ngoài tầm chi phối của họ (cc. 34-36).

Khi kêu gọi chúng ta đừng thề chi cả,

Đức Giêsu muốn lời nói của ta tự nó phải mang sức mạnh của sự thật,

tự nó chắc chắn, đáng được mọi người tin cậy.

Thánh Giacôbê đã nhắc lại giáo huấn của Đức Giêsu khi viết:

“Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không,

như thế anh em sẽ không bị xét xử” (Gc 5, 12).

Mọi thêm thắt đều do ác thần (c. 37).

Giáo hội sơ khai đã giữ lệnh truyền này một cách nghiêm túc.

Nhưng từ đầu thời Trung cổ, Giáo hội đã dùng các hình thức tuyên thệ.

Giáo sư trong các chủng viện vào đầu năm học, phải tuyên thệ

trung thành giảng dạy giáo lý chính thống của Giáo hội.

Các lời khấn của tu sĩ cũng là những lời thề hứa sống như Giêsu.

Dù sao chúng ta cũng là những con người mong manh, hay thay đổi.

Thề, hứa, khấn, tuyên thệ trọn đời, đều là những việc vượt sức con người.

Trung tín với điều mình đoan nguyện là bắt đầu đi vào vĩnh cửu.

Chỉ xin sự trung tín của Thiên Chúa nâng đỡ sự trung tín của chúng ta.

 

Cầu nguyện :

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi

mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên

để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang

để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường

để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai

để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề

để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.

  1. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ

 

SUY NIỆM 2: Đời sống mới

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Cuộc kiện toàn Lề Luật nhằm đưa đến kết quả tối ưu. Đó là sự sống. Sự sống mới trong Chúa. Vĩnh cửu. Từ bỏ sự sống mau qua của trần gian. Tại sao phải thể thốt? Đó là để đạt được trần gian. Trước hết là lòng tin. Thực ra khi phải thề thì niềm tin đã suy giảm rồi. Thường đạt được lòng tin là để được một mối lợi ở đời này. Chúa Giê-su dạy ta đừng thề thốt. Đừng tìm nương tựa nơi người đời. Đừng tìm lợi lộc đời này. Nhất là phải dùng lời thề. Hãy sống trong Chúa. Chúa là sự thật. Khi sống trong Chúa ta sống trong sự thật. Sự thật đơn sơ. Nguyên tuyền. Chúa là sự sống. Khi sống trong Chúa ta là đạt đến sự sống. Sự sống mới. Đời đời.

Chúa Giê-su đã làm gương cho ta. Người đã chết cho trần gian. Không màng một mối lợi nào nơi trần gian. Không tìm được uy tín nơi trần gian. Vì thế ta cũng phải đi theo con đường của Người. Chết cho trần gian. Để sống cho Thiên Chúa. “Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”. Sống cho Chúa ta được hoà giải với Chúa Cha. Được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Ta trở nên thụ tạo mới. “Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”. Ta được đổi mới vì Chúa đã chịu tội thay để ta được nên công chính. “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”. Vậy ta phải sống trong Chúa. Dứt bỏ lối sống cũ. Để từ nay không còn nhìn xem, phán đoán và cư xử theo xác thịt nữa. “Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người”. Ta sống sự sống mới (năm lẻ).

Ê-li-sa là người làm gương cho ta. Ông là người giầu có. Có nhiều ruộng. Có gia nhân. Có nhiều súc vật. Đang cầy ruộng với 12 cặp bò. Nhưng khi được Ê-li-a kêu gọi, ông đã giã từ đời sống cũ. Giã từ những giá trị trần gian. Quyết liệt. Khi giết bò. Chẻ cầy. Đốt làm lễ toàn thiêu dâng Chúa. Để giã từ trần gian. Từ nay sống cho Chúa. Nghèo nàn trong Chúa. Phụng sự Chúa. Sống trong Chúa. Ông sống sự sống mới. Trong ân sủng. Trong tương giao nghĩa thiết với Chúa. “Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về,bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông” (năm chẵn).

Xin cho con biết từ bỏ trần gian với những giá trị của nó. Để tìm sự sống mới trong Chúa. Trong sự thật. Trong tình bạn với Chúa.

 

SUY NIỆM 3: Có thì nói có

Trong một xã hội mà sự dối trá lừa đảo đã trở thành luật sống, thì sự trung thực quả là vàng. Phải chăng nhiều người Kitô hữu chúng ta lại không cho rằng trong hoàn cảnh hiện nay, giới răn thứ tám không còn ràng buộc nữa? Người người dối trá, tại sao tôi không dối trá, miễn là tôi không vi phạm đến quyền lợi người khác thì thôi!

Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ một luật trừ trong giới răn này: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ mà ra”. Nền tảng của giới răn này chính là phẩm giá của con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Ðấng chân thật, cho nên thuộc tính cơ bản nhất của con người cũng phải là chân thật. Thiên Chúa phán một lời liền có trời đất muôn vật, không có quãng cách giữa lời và hành động của Thiên Chúa. Người tôn trọng phẩm giá cao cả của minh đương nhiên cũng là người tôn trọng lời nói của mình, đó là đòi hỏi của bất cứ nền luân lý đạo đức nào.

Ðón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa về con người, người Kitô hữu phải ý thức hơn ai hết về phẩm giá cao trọng của mình. Phẩm giá ấy được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trung thực của họ. Bản sắc của người Kitô hữu có được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trong suốt của cuộc sống của họ. Niềm tin của người Kitô hữu có khả tín hay không là tùy họ có can đảm để lội ngược dòng giữa một xã hội mà dối trá đã trở thành luật sống.

Những vần thơ sau đây của thi sĩ Phùng Quán quả thật đáng cho chúng ta suy nghĩ:

Yêu ai cứ bảo rằng yêu

Ghét ai cứ bảo rằng ghét.

Dù ai ngon ngọt nuông chiều,

Cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao dọa giết,

Cũng không nói ghét thành yêu.

Chúa Giêsu đã sống cho đến cùng những lời Ngài rao giảng. Dù cái chết cũng không khóa được những lời sự thật của Ngài và cái chết của Ngài trên Thập giá cuối cùng cũng trở thành lời. Biết bao người đang chờ được nghe những lời chân thật của các Kitô hữu, không chỉ những lời thốt ra từ môi miệng, mà còn là những lời từ một cuộc sống ngay thẳng, thanh liêm.

Nguyện xin Chúa gìn giữ và ban cho chúng ta can đảm để làm chứng cho lời chân lý của Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Ai là người nói thật

Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. (Mt. 5, 33-34)

Mọi người đều dối trá

Mỗi ngày ta đều có được những kinh nghiệm sống tuy nhỏ bé nhưng rất có ý nghĩa. Chẳng hạn mấy đứa con chúng ta cãi lộn nhau. Đứa này bảo đứa kia đã gây sự trước. Đứa kia cũng nói lại như vậy. Đứa nào đúng? Một tin lớn đăng tải trên trang đầu của tờ báo. Hôm sau lại nói ngược lại. Tin nào đúng? Chính quyền tỉnh cho công bố những bảng thống kê. Mười ngày sau chính quyền liên bang lại đưa ra bảng thống kê của mình. Phải tin ai đây?

Trong xã hội ta hôm nay, những thông tin quả là phong phú, những phương pháp truy cứu lại rất khoa học, những bản điều tra thật tường tận, vậy mà chúng ta vẫn luôn phải tự hỏi rằng: “Ai đúng?” Ta thường xuyên liên hệ với những người mà ta tin là liêm chính và ngay thẳng. Ta tin cậy họ, thậm chí có thể yêu mến họ. Nhưng biết bao lần ta phải tự hỏi: “Không biết lần này ông ta có nói đúng sự thật cho mình không?”. Ta có cảm tưởng như chung quanh ta mọi người đều dối trá cả

Cho đến giờ, ta đã chỉ nói đến những người nói dối ta. Thiết tưởng cũng nên nhìn vào mình một chút. Ai trong ta, xưa rày chỉ nói sự thật? Chúng ta chắc cũng không lạ gì với những cách nói nửa vời, những câu trả lời lấp lửng, những kiểu thêm thắt, bịa điều đặt chuyện, nói quanh co điều ta nghĩ và biết, chung quy gọi là dối trá, lươn lẹo.

Hãy vun trồng sự thật

Chúa Giêsu yêu cầu ta vun trồng sự thật. Nói “có” khi phải nói “có”, nói “không” khi phải nói “không”. Nói “có” hay “không” dều phải rõ ràng dứt khoát. Đạt được như vậy, không phải là chuyện đơn giản. Ta thường phải khó chịu, đôi khi phải nhượng bộ nữa. Để biết nói sự thật, tâm hồn ta phải thật trong sáng, ngay thẳng và trong một vài trường hợp, phải có nhiều can đảm. Thế nhưng ta phải tập cho quen biết nói sự thật, và phải tập ngay từ bây giờ, bằng không sẽ chẳng bao giờ biết nói sự thật cả.

 

Suy Niệm 5: KHÔNG ĐƯỢC THỀ! (Mt 5, 33-37)

Có những lần chúng ta đã nghe thấy những câu thề thốt đáng sợ như: “Tôi thề có đất trời chứng dám, sự việc xảy ra đúng như vậy, nếu không thì cho tôi bị chết bất đắc kỳ tử”. Như vậy, theo quan niệm của con người, lời thề thông thường là nối liền với sự tự rủa bản thân mình để chứng thực điều quả quyết. Khi đã thề, đòi buộc người thề không được bội ước.

Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu lại dạy các môn đệ rằng: “Đừng thề chi cả […]. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.

Thực ra, thề có độc địa đến đâu, thì lời thề đó cũng khó có thể thành hiện thực. Như một lời nhắc nhở, Đức Giêsu cho biết, những lời thề đó là những điều phạm thánh, nếu cố tình vi phạm, không ăn năn hối cải sẽ bị Chúa phán xét nặng trong ngày diện kiến với Chúa.

Trên thực tế, con người ta có nhiều điều bất hảo. Thử hỏi có ai làm cho tóc hóa đen, hay kéo dài tuổi thọ của mình trên trần gian? Nếu điều đó cũng không làm được, thì nói chi đến những chuyện động địa như trong lời thề!

Hôm nay, Lời Chúa dạy cho chúng ta bài học về sự chân thật. “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.

Chúng ta không được phép thêm bớt để rồi làm cho người khác bất hạnh. Hãy sống thật với lòng mình thì sẽ được Chúa chúc phúc. Đừng sống kiểu: “Khẩu Phật, tâm xà”; hay: “Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý đến với mỗi người chúng con, để chúng con biết sống ngay thẳng, công tâm, hầu xứng đáng là con cái Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Con cái Chúa phải chân thật

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa là Đấng chân thật. Con cái Chúa cũng phải chân thật. Môi miệng chân thật là môi miệng con cái Chúa. Môi miệng dối gian là môi miệng Xa-tan.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa dạy con: đừng thề chi cả. Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là do ác quỷ mà ra. Nhưng trong thực tế, chúng con rất hay thề, không thề thì không ai tin. Tuy nhiên, con thấy những người có uy tín trong xã hội không cần thề mà người ta vẫn tin lời họ nói. Chúa đang dạy con sống uy tín, thẳng thắn, thật thà, xứng danh con cái Chúa. Chính cách sống ngay thẳng của con là bằng chứng cho môi miệng con chân thực.

Lạy Chúa, Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, Chúa đã sống thật, nói thật, cho dù sự thật đó dẫn Chúa đến thập giá. Chúa đả kích sự giả dối, Chúa vạch trần những thái độ giả hình, Chúa không thỏa hiệp với cách sống lươn lẹo của trần gian. Chúa nêu gương và dạy con phải chân thật.

Lạy Chúa, con hay bị cám dỗ sống gian dối. Gian dối có thể đưa đến cho con một mối lợi, gian dối có thể tránh cho con một hiểm họa, gian dối có thể làm cho người khác nể sợ con hơn. Nhưng khi sống gian dối, là một cách nào đó con đang bán mình cho Xa-tan, không còn là con cái Chúa nữa.

Xin giúp con luôn xác tín rằng: làm con cái Chúa là một mối lợi vĩnh cửu; làm con cái Chúa giúp con tránh được cái họa đời đời; và Chúa chỉ coi trọng con khi con biết sống chân thực. Amen.

Ghi nhớ : “Thầy bảo các con: đừng thề chi cả”.

 

Suy Niệm 7: Sống tín nghĩa, nói thật sống thật

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Có một người nông dân nghèo khó nhưng đạo đức. Đi đâu anh cũng mang theo trong người cuốn sách kinh. Nhưng một buổi chiều nọ, trên đường từ chợ về nhà, anh không còn thấy quyển sách kinh trong túi của mình nữa. Anh bối rối vô cùng vì đã đến giờ cầu kinh mà anh lại không nhớ bất cứ lời kinh nào cả.

Suy nghĩ mãi, cuối cùng người nông dân ngước mắt lên trời cầu nguyện mà không có quyển sách kinh trước mắt. Anh cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con đã phạm một điều thật đáng trách. Sáng nay con vội vã ra đi mà không mang theo quyển sách kinh. Mà trí nhớ của con tồi tàn, đến độ đã bao năm trời cầu kinh mà con không nhớ được một kinh nào cả. Xin cho phép con được làm như thế này: Con xin đọc chậm rãi mỗi lần năm mẫu tự. Và Chúa là Đấng quen thuộc những kinh đọc của con, xin Chúa hãy thêm các chữ khác vào. Và như thế các lời kinh của con được hoàn tất.

Nghe thế, Chúa liền nói với các thiên thần: “Trong tất cả những lời kinh mà ta nghe đọc hôm nay, đây là lời cầu nguyện đẹp nhất vì nó xuất phát từ một tấm lòng đơn sơ và chân thật” (Trích “Món quà giáng sinh”).

Suy niệm

Chúa Giêsu dạy sống thành tâm tín nghĩa, nói thật sống thật, không nên thề thốt, tuyệt đối không thề gian. Thề thốt mà bất tín thì cũng vô ích.

Ngày nay trong nhiều sự việc, hoàn cảnh, giá trị của lời nói chân thật không được đề cao, tạo nên sự bất tín trong đời sống xã hội và truyền thông.

Đức Giêsu đã xác định rõ phải nói thật, không được dối trá: “Có thì nói rằng có. Không thì nói rằng không, những điều gì thêm ra chính là ý của tà ma” (Mt 5,37). Chúng ta phải ăn, nói và sống chân thành vì chính Chúa là “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Người sống chân thành được ở bên Chúa: “… Ai được ở trong nhà Chúa. Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng. Bụng nghĩ sao nói vậy, lời nói chẳng vu oan” (Tv 14). Sách Cách Ngôn dạy lời chân thành mang giá trị vĩnh cửu: “Miệng lưỡi chân thành thì còn mãi, mồm mép dối trá chỉ kéo dài trong chốc lát” (Cn 12,19).

Khi giáo huấn chúng ta, tông đồ Giacôbê đã lặp lại giáo huấn tôn trọng sự thật của Thầy Giêsu: “Nếu có thì hãy nói rằng có, không thì hãy nói là không để khỏi ra án phạt” (Gc 5,12). Cho nên, thánh Phaolô nhấn mạnh phải đối xử chân thành với nhau vì mọi người đều là anh em và là chi thể của nhau trong cơ thể nhân loại: “Anh em hãy bỏ dối trá, anh em mỗi người hãy nói thật với người đồng loại vì chúng ta đều là chi thể của nhau” (Ep 4,25).

Sống trong sự thật, chúng ta sẽ được giải phóng, chính Đức Giêsu khẳng định: “Các ngươi sẽ biết sự thật và sự thật sẽ cho các ngươi được tự do” (Ga 8,32).

Ý lực sống: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37).

 

Suy Niệm 8: Chân thật trong lời nói (Mt 5,33-37)

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu đến kiện toàn Lề luật và lời các tiên tri nên Ngài dạy các môn đệ: Luật xưa cấm bội thề (lỗi lời thề), nghĩa là luật xưa cho phép thề nhưng một khi đã thề thì không được bỏ lời thề, mà phải làm đúng theo lời đã thề hứa. Còn Thầy, Thầy không cho thề thốt chi hết, mà phải luôn luôn thành thật: bụng nghĩ sao, miệng nói vậy, luôn luôn phải nói đúng sự thật, mọi lời giả dối, phỉnh gạt là do “ác quỷ” bầy vẽ bịa đặt, làm cớ cho người ta lỗi phạm lề luật và mất uy tín, không tin cậy nhau.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự lương thiện và chân thật trong lời nói cũng như những hành động của con người. Ngài cho chúng ta hiểu rằng Ngài chính là cội nguồn của chân lý và chân lý của Ngài giải thoát chúng ta khỏi các ảo tưởng và sự giả dối. Chính vì thế, Chúa Giêsu lên án những kẻ làm chứng dối và luôn cả những kẻ lấy danh Thiên Chúa mà thề nguyền. Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ các môn đệ rằng lời nói của các ông phải bắt rễ từ cội nguồn sự thật là Thiên Chúa, mà không cần tới một nghi thức, hay thủ tục rườm rà hay giả tạo nào của xã hội loài người đặt ra để bảo đảm cho lời chứng của mình.

Trong một xã hội mà sự dối trá lừa đảo đã trở thành luật sống, thì sự trung thực quả là vàng.

Phải chăng nhiều người Kitô hữu chúng ta lại không cho rằng trong hoàn cảnh hiện nay, giới răn thứ tám không còn ràng buộc nữa? Người người dối trá, tại sao tôi không dối trá, miễn là tôi không vi phạm đến quyền lợi người khác thì thôi!

Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ một luật trừ trong giới răn này: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỉ mà ra”. Nền tảng của giới răn này chính là phẩm giá của con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng chân thật, cho nên thuộc tính cơ bản nhất của con người cũng phải là chân thật. Thiên Chúa phán một lời liền có trời đất muôn vật, không có quãng cách giữa lời nói và hành động của Thiên Chúa. Người tôn trọng phẩm giá cao cả của mình đương nhiên cũng là người tôn trọng lời nói của mình, đó là đòi hỏi của bất cứ nền luân lý đạo đức nào (Mỗi ngày một tin vui).

“Có thì nói là có, không thì nói là không” (Mt 5,37)

Về vấn đề này, thánh tiến sĩ Tôma Aquinô đã ghi lại trong sổ tay một đoạn văn ngắn sau đây: “Thiên Chúa chính là một bậc thầy tuyệt hảo, Ngài đã để lại cho chúng ta 2 tác phẩm siêu việt, để chúng ta có thể được học hỏi một cách chu đáo. Đó chính là pho sách Tạo vật và pho sách Kinh thánh. Riêng với pho sách Tạo vật, thì có bao nhiêu tạo vật trong vũ trụ thì có bấy nhiêu chương sách tuyệt mỹ trong tác phẩm ấy. Cuốn sách khổng lồ này đã dạy cho chúng ta sự thật mà không pha trộn vào đó một chút giả dối nào cả. Vì thế, khi có người đến hỏi nhà hiền triết Aristote rằng, ông ta đã học được ở đâu mà có được những cơ sở lý luận, những tư tưởng trung thực và cao cả đẹp như vậy, thì ông ta đã trả lời: “Tôi đã học được từ chính các tạo vật quanh tôi, bởi vì các tạo vật thì không bao giờ biết nói dối”.

Thiên Chúa rất ghét sự gian trá, Ngài đã phạt thật nặng những người lừa đảo, thiếu thành thực. Sách Tông đồ Công vụ có thuật lại: Hồi ấy, có hai vợ chồng Anania và Saphira bán ruộng, lấy tiền dâng các tông đồ, nhưng lại lừa đảo thánh Phêrô, giữ lại một phần. Người chồng là Anania đưa tiền để dưới chân thánh Phêrô, và vì thiếu thành thực, nên thánh Phêrô đã nặng lời lên án hành vi giả trá của anh. Lập tức anh ngã lăn ra chết.

Ba giờ sau người vợ là Saphira đến gặp thánh nhân và khi thánh nhân hỏi: Tiền bán ruộng chỉ có bấy nhiêu sao? Saphira lừa dối thánh nhân trả lời là: “Chỉ có ngần ấy”, và Saphira cũng ngã lăn ra chết (x. Tđcv 5,1-11).

Truyện: Nhà hiền triết Xénophon với cái lưỡi

Nhiều người trong chúng ta thuộc lòng câu chuyện “Cái lưỡi” của Xénophon, sống vào thế kỷ thứ 6, Xénophon bị bắt làm nô lệ trong một nước láng giềng. Biết ông là người tài giỏi, vua trao cho ông nhiều việc. Một trong những việc quan trọng là thiết tiệc. Vua sai ông chọn một món ăn ngon nhất để đãi khách. Ông liền ra chợ mua toàn là lưỡi về nấu. Thực khách ăn và khen ngon.

Nhưng một lần, hai lần, ba lần, lần nào người đầu bếp cũng chỉ đãi toàn lưỡi. Ngạc nhiên, nhà vua cho tìm ông đến hỏi lý do. Người nổi tiếng là khôn ngoan mới giải thích: Còn gì quí hoá cho bằng lưỡi: lưỡi là máy khôn ngoan, nhờ lưỡi ta học biết điều khôn ngoan, nhờ lưỡi con người biết ca tụng lẫn nhau, nhờ lưỡi con người giao ước với nhau và dâng lời cảm tạ Thượng Đế, không gì cao quí cho bằng lưỡi.

Nhà vua lấy làm ưng ý về sự giải thích đó, và để thử lòng nhà hiền triết, vua sai ông nấu một món ăn dở nhất. Lại một lần nữa, Xénophon nấu toàn là lưỡi. Khi được vua chất vấn, ông giải thích: Tâu bệ hạ, còn gì xấu xa cho bằng cái lưỡi, dưới ánh mặt trời này còn gì xấu xa mà lưỡi không can dự vào: phản bội, bất công, gian dối, lừa đảo, trộm cắp, giết người, chiến tranh, tất cả đều do cái lưỡi: nó có thể làm sụp đổ cả Đế quốc, có thể huỷ hoại cả một dân tộc, đạp đổ cả một gia đình, còn gì xấu xa cho bằng cái lưỡi.

Ai trong chúng ta cũng hơn một lần hối tiếc vì những lời do miệng lưỡi chúng ta thốt ra. Và một lời lẽ xúc phạm đến người khác cũng là một xúc phạm đến Thiên Chúa. Một lời dối trá cũng là một lừa đảo người khác, đồng thời xúc phạm đến bản thân bởi vì đánh đổ hình ảnh của Thiên Chúa – Đấng chân thật.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Tiếp tục giải thích về sự công chính mới, hôm nay Chúa Giêsu dạy về sự trung thực trong lời nói:

Điều cốt yếu của lời nói là sự trung trực “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt là do sự dữ mà ra”. Một khi đã trung thực trong lời nói thì không cần thề nữa.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Thời nay, “nói” thay vì để thông đạt sự thật, đã trở thành phương tiện giúp đạt được điều người ta mong muốn: nói sao cũng được miễn đạt được mục đích thôi. Trong làm ăn, trong chính trị đã thế, mà buồn thay trong những cộng đoàn huynh đệ của Giáo Hội nhiều khi cũng thế.

“Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” vì trẻ con rất trung thực. Phải chăng người thời nay đã già cỗi quá rồi, đã đánh mất sự trung thực hồn nhiên của tuổi thơ  ? Bởi đó Chúa Giêsu nói “Ai không trở nên như trẻ thơ thì chẳng được vào Nước trời”.

  1. “Lỗi về sự trung thực không phải chỉ là nói dối, vu khống mà còn là nói lệch đi một chút (xuyên tạc), hứa mà không làm, hẹn mà không giữ đúng…
  2. Trung thực: người cha có hai con gái ở tuổi thanh xuân. Một cô rất đẹp và một cô kia có dáng vẻ bình thường. Ngày nọ, khi cả hai đang chuẩn bị tới trường, cô bé đẹp hơn nhìn vào gương, rồi phàn nàn với cha rằng gương này không phản chiếu hình ảnh trung thực của cô.

Thay vì giận dữ, ông bố khuyên con: “Ba muốn cả hai con nhìn vào gương đó mỗi ngày. Các con có được vẻ đẹp tự nhiên, phải tự nhắc mình đừng bao giờ làm mất đi vẻ đẹp của gương mặt bằng những hành động xấu. Và con là người không đẹp, con có thể che dấu sự thiếu vẻ đẹp đó bằng sự duyên dáng nơi những đức tính và các cư xử đẹp của con”. (Góp nhặt)

  1. “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.

Mỗi lần tôi xa nhà, mẹ tôi đều căn dặn: con phải sống thật thà với Chúa, với mọi người xung quanh và với chính mình. Mẹ ước mong cho tôi nên người có giá trị, luôn có lòng tự trọng và biết tôn trọng người khác. Để được như thế tôi không nên nghi ngờ, dối gian, mà phải sống trung thực đặc biệt trong lời nói. Chúa cũng dạy tôi như vậy “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.

Lời dặn của mẹ là lời dạy của Chúa còn đó. Nhưng tôi đã không đủ cam đảm để thực thi, để rồi lời dạy ấy như gió thoảng, chợt đến rồi vội đi.

Lạy Chúa, xin cho con biết làm chủ suy nghĩ và làm chủ miệng lưỡi con, vì thật thà là dấu chỉ của con cái Chúa, quanh co gian lận là sản phẩm của sa tan. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúng ta nghe Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về sự công chính mới. Hôm nay, Chúa dạy mọi người về sự trung thực trong lời nói:

Điều cốt yếu của lời nói là sự trung trực “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt là do sự dữ mà ra” (Mt 5,37).

  1. Vâng! Sự trung thực bao giờ cũng là điều hết sức quí giá. Thời nào cũng thế.

Ngày xưa, nước Lỗ có một cái đỉnh rất cao quí. Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang. Vua Tề bảo:

– Phải có Nhạc Chính Tử đem sang nói, ta mới tin!

Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến bảo đi. Nhạc Chính Tử hỏi:

– Sao không đưa cái đỉnh thật ?

– Ta quí nó lắm ?

 Vua Lỗ nói.

Nhạc Chính Tử thưa:

– Nhà vua quí cái đỉnh ấy thế nào, thì tôi cũng quí cái đức “tín” của tôi như thế!

Sau, vua Lỗ phải đưa cái đỉnh thật, Nhạc Chính Tử mới chịu đi.

Chúa rất ghét sự gian trá. Chúa đã phạt thật nặng những người lừa đảo, thiếu thành thực. Sách Tông Đồ Công Vụ (Cv 5,1-11) có thuật lại:

Hồi ấy có hai vợ chồng Anania và Saphira bán ruộng, lấy tiền dâng các tông đồ, nhưng lại lại lừa đảo thánh Phêrô, giữ lại một phần. Người chồng là Anania đưa tiền để dưới chân thánh Phêrô, và vì thiếu thành thực, nên thánh Phêrô đã nặng lời lên án hành vi giả trá của anh. Lập tức anh ngã lăn ra chết.

Ba giờ sau người vợ là Saphira đến gặp thánh nhân và khi thánh nhân hỏi: “Tiền bán ruộng chỉ có bấy nhiêu sao ?” Saphira lừa dối thánh nhân, trả lời là: “Chỉ có ngần ấy”. và Saphira cũng ngã lăn ra chết.

Chúng ta hãy cố gắng sống thành thực với nhau. Đồng thời chúng ta cũng phải nghĩ tới việc sống thành thực với Chúa.

  1. Lỗi về sự trung thực không phải chỉ là nói dối, vu không mà còn là nói lệch đi một chút(xuyên tạc), hứa mà không làmhẹn mà không giữ đúng.

Chúa bảo “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).

Thánh Tiến Sĩ của Giáo Hội là Thomas d’Aquin, dòng Đaminh, đã ghi lại trong sổ tay một đoạn văn ngắn sau đây:

“Thiên Chúa chính là một bậc Thầy tuyệt hảo, Ngài đã để lại cho chúng ta 2 tác phẩm siêu việt để chúng ta có thể được học hỏi một cách chu đáo. Đó chính là pho sách Tạo Vật và pho sách Kinh Thánh. Riêng với pho sách tạo vật, thì có bao nhiêu tạo vật trong vũ trụ thì cũng có bấy nhiêu chương sách tuyệt mỹ trong tác phẩm ấy. Cuốn sách khổng lồ này đã dạy cho chúng ta sự thật mà không pha trộn vào đó một chút giả dối nào cả. Vì thế, khi có người đến hỏi nhà hiền triết Aristote rằng, ông ta đã học được ở đâu mà có được những cơ sở lý luận, những tư tưởng trung thực và cao đẹp như vậy, thì ông ta đã trả lời: “Tôi đã học được từ chính các tạo vật quanh tôi, bởi vì các tạo vật thì không bao giờ biết nói dối!”

Người ta kể lại một câu chuyện về chuyến viếng thăm nhà tù của quận công Osola như sau:

Hôm ấy quận công Osola được dẫn đi thăm một nhà tù nổi dọc bờ sông. Các tù nhân được tự do trao đổi ý kiến cùng quận công. Ngài ân cần hỏi thăm xem vì những lý do gì mà họ bị giam giữ. Mỗi tù nhân được tự do trình bày về sự lầm lẫn của guồng máy công lý. Nhiều phạm nhân đã một mực không chịu nhận tội mình. Người thì than là anh ta phải bị phạt vào đó chỉ vì ông quan toà thích vậy, người khác nữa lại khăng khăng đổ tội cho lòng ganh tị của kẻ thù riêng. Nói chung, không ai đáng tội phải cầm tù tại đó cả. Cuối cùng có một tù nhân thưa.

– Thưa ngài quận công, tôi thật đáng hình phạt, vì tôi cần tiền, tôi đã ăn trộm và bị bắt.

Ngài quận công rất cảm động với lòng thành thật và khiêm nhường của tội nhân này. Giữa đoàn tù nhân xúm quanh, ngài nói lớn tiếng:

– Anh thật có tội, không xứng đáng ở chung với chúng tôi. Anh hãy rời khỏi nơi đây lập tức.

Ngay tức thì, ngài quận công tha bổng cho tù nhân khiêm tốn chân thành đó.

Để kết thúc, xin gửi anh chị em một trích đoạn của một bài thơ này. Bài thơ của nhà thơ Phùng Quân. Bài thơ có tên cũng rất hay: Lời Mẹ Dặn.

Con ơi! trước khi nhắm mắt,

Cha con dặn con

Suốt đời phải làm người chân thật.

Mẹ ơi! Chân thật là gì ?

Mẹ tôi hôn lên đôi mắt

Con ơi! một người chân thật:

Thấy vui, muốn cười, cứ cười.

Thấy buồn, muốn khóc, cứ khóc

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ báo ghét.

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi

Đứa bé mồ côi thành nhà văn.

Những lời mẹ dặn thuở lên năm

Vẫn nguyên vẹn mầu son chói đỏ

Người làm xiếc đi dây rất khó

Nhưng chưa khổ bằng nhà văn

Đi trọn đời trên con đường chân thật.