Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 12 Mùa Thường Niên

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 12 Mùa Thường Niên

THỨ HAI TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN.

 

THỨ HAI TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt 7, 1-5

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy.

Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy.

Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: “Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh”, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi”.

SUY NIỆM 1: Lấy xà ra khỏi mắt

Suy niệm:

Mỗi ngày chúng ta đưa ra biết bao nhận xét về người khác.

Thầy cô phải nhận xét về học trò, cấp trên phải nhận xét về thuộc hạ.

Việc lượng giá về từng cá nhân thường rất cần thiết và hữu ích.

Trong đời sống tu trì, vẫn có chuyện anh em sửa lỗi cho nhau.

Nói chung, sống thì phải đưa ra những phán đoán về người khác.

Nhưng làm sao để phán đoán ấy không trở nên một xét đoán lệch lạc?

Đức Giêsu dạy ta biết cách xét đoán qua bài Tin Mừng hôm nay.

“Anh em đừng xét đoán”: thật ra Đức Giêsu không cấm mọi thứ xét đoán.

Ngài còn dạy các môn đệ biết cách phân biệt ngôn sứ giả và thật (Mt 7,15),

phân biệt người xứng đáng và người không xứng đáng (Mt 10, 11),

biết cách đề phòng thói xấu của nhóm Xađốc và Pharisêu (Mt 16, 6).

Đức Giêsu chỉ đòi các tín hữu sống trong cộng đoàn huynh đệ

phải tránh lối xét đoán thiếu bao dung, khắc nghiệt,

mà quên chính mình cũng có những lỗi lầm lớn hơn nhiều.

“Anh em xét đoán thế nào, thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (c. 2).

Ngài muốn ta nhẹ tay và nhân từ khi cần phải xét đoán người anh em.

Vì cái đấu ta dùng để đong cho họ, Thiên Chúa sẽ dùng để đong cho ta.

Đấu đong đi càng lớn, đấu đong lại càng đầy.

Chỉ cần thay đổi cái đấu ta vẫn quen dùng, là cuộc đời của ta thay đổi.

Đức Giêsu dùng một hình ảnh liên quan đến nghề mộc của Ngài,

để nói về chuyện người đạo đức giả.

Đó là hình ảnh bụi mùn cưa trong mắt người khác và cái xà trong mắt mình.

Một cái thì thật bé, một cái thì to đến độ khó lòng ở trong mắt được.

Hình ảnh phóng đại này hẳn làm ai cũng phải buồn cười.

Tôi thấy lỗi bé nơi anh em, nhưng lại không để ý tới lỗi lớn nơi tôi.

Tôi hăng hái xin được lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em,

nhưng lại rất khoan dung với cái xà trong mắt mình.

Đức Giêsu hóm hỉnh khuyên chúng ta nên lấy xà ra khỏi mắt trước đã,

rồi mới thấy tỏ tường để lấy hạt bụi mùn cưa khỏi mắt anh em.

Điều khó vẫn là thấy được cái xà trong mắt mình.

Lẽ ra tôi phải thấy ngay vì nó quá lộ liễu, ai cũng thấy.

Nhưng nó khó thấy, vì tôi không muốn thấy cái xấu của mình.

Càng có quyền, có chức, có uy tín, có tuổi tác và kinh nghiệm,

càng khó chấp nhận nếp nhăn nơi khuôn mặt mình.

Giá mà tôi thấy được cái xà nơi mắt tôi,

chắc tôi đã không dám đòi lấy hạt bụi nơi mắt người khác,

hay nếu có được ai nhờ lấy đi nữa,

thì cũng chỉ lấy một cách khiêm hạ, nhẹ nhàng.

Trong bài hát “Chúa Hòa Bình” của Phạm Duy có câu:

“Nếu có ai lầm lỡ, rồi sinh ra khắt khe…”

Chỉ mong chúng ta, nhờ thấy mình lầm lỡ và đã được Chúa thứ tha,

nên sinh ra dễ cảm thông với lỗi lầm người khác.

Cầu nguyện:

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: Xét đoán

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ai cũng thích xét đoán. Nhưng thường sai lầm. Có hai sai lầm cơ bản. Sai lầm vì chủ quan. Không xét mình nhưng luôn xét người. Xét mình thì nặng thành nhẹ. Xét người lại nhẹ thành nặng. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ‘Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn’. trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?”. Sai lầm khác nguy hiểm hơn. Đó là quên Thiên Chúa mới có quyền xét đoán. Vì Thiên Chúa là chủ. Không chỉ xét đoán bâng quơ. Nhưng ấn định số phận đời đời của ta. “Anh đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”. Nhưng Thiên Chúa rất công bằng và nhân hậu. Người xét đoán ta theo cách ta xét đoán anh em. “Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em”. Chính ta tự tạo thước đo và bàn cân cho mình. Nên hãy cẩn thận.

Tổ phụ Áp-ra-ham không xét đoán ai. Và cũng chẳng coi trọng xét đoán của người đời. Chỉ quan tâm đến Thiên Chúa. Nhất nhất thi hành mệnh lệnh của Chúa không sai chạy. Vững tin vào Lời Chúa hứa. Dù trải qua những giây phút thật khó khăn. Vẫn tin cả khi không còn gì để tin. Luôn để Chúa làm chủ đời mình. Luôn cư xử hoà nhã tốt lành với đồng loại. Vì thế ông được chúc phúc. Và muôn dân cũng nhờ ông mà được chúc phúc. “Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”. Nhờ trung tín với Chúa, Áp-ra-ham trở thành chuẩn mực. Phúc cho ai chúc phúc cho ông. Thiệt cho ai nguyền rủa ông (năm lẻ).

Ít-ra-en, đặc biệt vào thời vua Hô-sê thì không được như thế. Nên bị thua vào tay Át-sua. Và bị lưu đầy. Vì phản bội Chúa. “Sự việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, là Đấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác”.

Chúa làm chủ lịch sử. Làm chủ thế giới. Làm chủ vận mệnh bản thân ta và dân tộc ta. Chúa mới có quyền phán xét. Và phán xét mới quyết định số phận. Hiểu biết như thế ta sẽ không còn e ngại những bậc quyền cao chức trọng. Sẽ biết kính sợ Thiên Chúa. Vì Chúa sẽ phán xét ta. Nhưng ta cũng tin tưởng. Vì Người phán xét ta theo cách ta đoán xét người khác. Sẽ khoan dung với ta. Nếu ta biết khoan dung với anh em.

 

SUY NIỆM 3: Một phương thế tốt để tự biết mình

Khi Chúa Giêsu bảo đừng xét đoán đó là một lệnh truyền khắt khe, có nghĩa: đừng bao giờ xét đoán không tốt cho kẻ khác, đừng kết án ai. Sự xét đoán này là công việc của một mình Thiên Chúa. Không ai được thay thế cho Thiên Chúa. Hơn nữa mỗi người phải xác tín rằng mình không được quyền lưu ý kẻ khác về tội của họ, vì ai nấy đều là kẻ có tội.

Chúng ta hãy đưa ra đây một nhận xét của khoa tâm lý cổ điển để làm sáng tỏ câu: người ta sẽ đong cho các ngươi đấu nào mà các ngươi đã đong cho họ. Lời nói này của Chúa vượt quá sự khôn ngoan của các giáo sĩ Do thái thời Ngài; chính họ cũng đã nói những điều tương tự. Người ta thấy trên kia lệnh truyền đặc biệt của Chúa là không được ‘đong đấu’ nào cả. Nhưng ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: kẻ khác sẽ ‘đong đấu’ cho chúng ta, xét đoán chúng ta về tật xấu này nọ mà chúng ta có, và họ xem thấy nhưng chúng ta lại là những người duy nhất không trông thấy. Thật vậy, đặc tính của khuynh hướng xét đoán kẻ khác là làm cho con người hóa ra mù quáng về mình. Người ta biết rằng: tật xấu nào ta ghét nơi kẻ khác, tật xấu đó đáng ghét, vì người ta cũng có nơi mình. Kẻ xét đoán không ý thức rằng người khác cũng sẽ xét đoán lại họ căn cứ trên việc xét đoán họ làm. Người khác thấy điều mà chính họ không thấy. Người ta cũng có thể lật ngược lời của Chúa và quả quyết như sau: hãy tự xét đoán mình theo cách thức mình xét đoán kẻ khác.

Việc cấm xét đoán kẻ khác và việc kêu mời hãy tự xét mình, hãy lấy cái xà nơi mắt mình, quả là chính yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Tại sao? Bởi vì khi ta xét đoán ai, ta tự tách lìa khỏi họ. Và tất cả chiều hướng của Phúc Âm là dẫn đến việc hợp nhất và thông hiệp. Hơn nữa, xét đoán là tự cướp đoạt cho mình cái thuộc về Chúa, điều này không chính trực.

Có những trường hợp người ta bị bó buộc phải phê phán về một người nào. Đó là vấn đề khác. Dầu sao đi nữa, sự phê phán này phải được lồng trong sự kính trọng và tình yêu.

Tôi có nghĩ tới cách tìm hiểu mình, căn cứ vào cái mà tôi chán ghét nơi kẻ khác không?

 

SUY NIỆM 4: Ðừng xét đoán

Augustin Goden trong khi còn là sinh viên trường nghệ thuật ở Paris đã nổi tiếng về tài điêu khắc. Có một người đàn bà giàu, nhưng chẳng biết gì về nghệ thuật đến nhờ Goden thiết kế một bức tượng để đặt ở giữa vườn nhà bà. Người đàn bà đến xem bức tượng nhằm lúc ông đang tiếp khách. Sau khi người đàn bà ra về, nhóm bạn hữu ra xưởng vẽ thấy Goden đang nhảy múa cuồng loạn trước bức tượng. Ðược hỏi tại sao, Goden trả lời: “Bởi vì người đàn bà không đồng ý về bức tượng, nên tôi vui mừng, vì biết rằng tác phẩm của tôi có giá trị”.

Mỗi lần chấm thi một bộ môn nào đó, người ta thường mời những người chuyên môn về bộ môn ấy cho biết nhận xét. Phải biết rõ vấn đề, con người mới hy vọng có được nhận xét xác đáng, nếu không chỉ là những lời bâng quơ, thiên lệch. Chúa Giêsu đã không muốn những kẻ theo Ngài vấp phải sai lầm này. Tự bản thân, con người chưa hiểu được mình, vì con người có phần tinh thần ẩn khuất đằng sau thể xác. Những gì được phô diễn bên ngoài mới chỉ là hình thức. Không thiếu những trường hợp cái hình thức bên ngoài được dựng nên để che dấu cái sự thật bên trong, hoặc những tín hiệu gửi đi chỉ được đón nhận một cách sai lạc, do thành kiến và ác ý.

Bởi thế, con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.

Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Zakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải; Mađalêna dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu.

Ước chi lời cầu nguyện của thánh Augustinô: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con” cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết mình để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử các đại lượng với chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Cái xà và cọng rác

“Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. Sao anh thấy cái rác trong măt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình lại không để ý tới?” (Mt. 7, 1-3)

Không có những tiêu chuẩn

Chúa phán: “Đừng xét đoán”. Câu nói vắn gọn và rõ ràng. Câu nói có tính truyền lệnh. Câu nói không dành phần cho một tranh cãi nào hết. Ta không được xét đoán tha nhân về mặt luân lý. Định đọat ai tốt ai xấu không phải là việc của ta. Chuyện đó không liên hệ tới ta.

Lý do để biện minh rất đơn giản. Chúng ta không có được những tiêu chuẩn lẽ rá phải có để xét đoán. Chúng ta chỉ có những tiêu chuẩn yếu kém và ở mức thấp. Chỉ vì khi nói rằng: “Người này xấu. Điều anh đã làm là xấu”, ta chỉ có thể nói được cái bề ngoài mà thôi. Xét cho cùng, ta không biết rõ thật sự. Ta không thể nhìn thấy từ bên trong, nơi nội tâm con người. Ta không thể biết tại sao người ấy làm điều xấu; người ấy có làm điều xấu thật sự hay không, ta cũng chẳng biết được. Trước hết phải khẳng định rằng sự xấu tiềm ẩn trong lòng người. Và tim người ta rung động phập phồng điều gì, ta đâu có biết được. Chỉ mình Thiên Chúa biết được mà thôi. Thế nên chỉ mình Chúa mới có quyền xét đoán. Còn chúng ta thì không.

Trước khi xét đoán

Mặc dầu Chúa bảo ta “Đừng xét đoán”, Chúa biết rõ ta vẫn cứ xét đoán. Ta hay xét đoán người khác. Điều xấu có ở nơi người khác như cái gai đâm thẳng vào mắt ta và kích thích ta. Thế nên Chúa nói thêm: “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.

Ta chẳng mấy tin vào chuyện cái xà ở trong mắt ta và cái rác ở trong mắt người anh em. Mà ta lại tin điều ngược lại. Ta đâu đến nỗi xấu như vậy. Không kể một vài điều ngoại lệ, người khác vốn xấu hơn ta. Đúng là ta thường có suy nghĩ như vậy đó.

Chúa Giêsu nghĩ gì về điều ta suy nghĩ ấy? Người chỉ đơn giản nghĩ rằng cách ta suy nghĩ như vậy là dấu chứng tỏ rõ ràng rằng chính trong mắt ta đang có cái xà đấy.

SUY NIỆM 6: KHÔN NGOAN KHI SỬA LỖI (Mt 7, 1-5)

Ở một đền thờ Hy lạp, ngay lối cổng vào, có khắc câu: “Hãy tự biết mình”. Tại sao lại có câu nói đó? Thưa, bởi vì biết mình là một điều khó, nhưng nếu khó mà không làm được thì làm sao biết được người khác? Không biết mình thì không thể tồn tại theo hướng tích cực, mà nếu có tồn tại thì cũng trở thành trò cười cho thiên hạ, bởi vì nhiều khi: “Ngôn hành bất tất”.

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho thấy tác hại của việc kiêu ngạo, háo danh nên không biết mình. Vì không biết, nên đâu thấy nơi mình có khuyết điểm, lỗi lầm trầm trọng, vì thế mới thích “lên mặt dạy đời”.

Trong thực tế, có rất nhiều người hăng say, vội vã sửa lỗi cho anh em, dù là lỗi nhỏ, nhưng thực tế, lỗi mình thì lớn hơn rất nhiều mà không thấy hay cố tình che lấp để như một ngụy biện nhằm khẳng định mình là người đạo đức hơn người.

Đức Giêsu không có ý cấm chúng ta sửa lỗi cho anh em, bởi vì sửa lỗi cho anh em bằng việc nêu gương sáng và chân tình thì đây là đức ái. Tuy nhiên, vì hiềm khích thì lại trở thành gương mù và phản tác dụng.

Vì thế, nguyên tắc hữu lý và đạt tình chính là bao dung với tha nhân, và nghiêm khắc với chính mình. Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình. Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu, theo Lời Chúa dạy hôm nay, chắc có lẽ chúng con sẽ bị xét đoán thật nhiều vì lối sống thiếu bác ái khi hay xét đoán anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con luôn biết thưa với Chúa: xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để yêu mến Chúa. Biết con để sống khiêm tốn. Chỉ khi nào chúng con biết sống như thế, chúng con mới yêu thương anh chị em cách thật lòng. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Bác ái là không xét đoán

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Một trong những đòi hỏi của lòng bác ái là đừng bao giờ xét đoán và lên án anh em mình. Hơn nữa, ta xét đoán anh em thế nào, thì Thiên Chúa cũng xét đoán ta như vậy.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bản tính tự nhiên của con người là muốn hơn người khác, nên khi thấy ai hơn mình, thì tìm đủ mọi cách để hạ họ xuống: vạch trần những khuyết điểm hay thổi phồng những lỗi lầm của họ.

Lạy Chúa, bản tính tự nhiên đó cũng tồn tại trong con. Con vẫn nhìn anh em sống chung quanh con bằng một cái nhìn dò xét đầy nghi ngờ. Con đã đóng khung anh em con trong một cái nhìn đầy thành kiến và ghen ghét. Vì quá chủ quan, nên con không thấy cái xà trong mắt con, mà chỉ nhìn thấy cái rác trong mắt anh em. Con đã đeo một cái bị gồm những tật xấu của con ở đàng sau lưng, nên không thấy được những lỗi lầm to lớn của mình, nhưng lại dễ trông thấy những khuyết điểm nhỏ bé của người anh em. Con luôn dễ dãi với chính mình mà lại khắt khe với người khác.

Lạy Chúa, khi nhìn một sự việc, người ta có nhiều đoán xét khác nhau. Nếu tâm hồn con rộng lượng, con sẽ nhìn người khác với ánh mắt cảm thông. Nếu tâm hồn con xấu xa, con sẽ dễ kết án người khác cách bất công.

Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết sáng suốt nhận ra những lỗi lầm của mình. Xin ban cho con một tình yêu bao dung để con không bao giờ vạch lá tìm sâu hoặc phê bình người khác một cách ác ý. Xin cho con biết tha thứ để được Chúa thứ tha. Và xin cho con một tâm hồn quảng đại để luôn nghĩ tốt về người khác. Amen.

Ghi nhớ: “Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã”.

Suy Niệm 7: Lấy được cái đà trong mắt mình

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đang đi dạo, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một người ngồi trên ghế cuốc vườn. Tôi nghĩ: “Quá lười biếng!”. Nhưng đột nhiên tôi thấy đôi nạng dựa ở ghế của anh. Anh làm việc dù bị tật nguyền.

Bài học tôi học được về sự phán đoán nông nổi vẫn khắc ghi trong tôi cho đến hôm nay: Thánh giá của người khác đôi khi là do cái nhìn hạn hẹp của ta.

Suy niệm

Chúa Giêsu phán: “…đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thế nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7,1-2). Như thế, khi phải phán xét, chúng ta xét đoán trong bao dung thương mến như Ngài. Vì chúng ta sẽ “được” hay “bị” Thiên Chúa xét xử, đều do chính cách xét đoán của chúng ta đối với người khác: Quảng đại vị tha hay hẹp hòi ích kỷ, khoan dung độ lượng hay “bới lông tìm vết”, “chẻ sợi tóc làm tư” khi xét đoán người khác.

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường có khuynh hướng nhìn thấy lầm lỗi của tha nhân mà không biết nhận ra những khuyết điểm của mình. Có những khuyết điểm của bản thân mình rất lớn, công khai gây gương mù, gương xấu cho anh chị em. Thiên Chúa – Ðấng thấu suốt mọi sự, Ngài mời gọi chúng ta phải sáng suốt và khôn ngoan khi sửa lỗi cho anh chị em: Hãy nhìn vào bản thân mình trước như Chúa nhấn mạnh: “Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình đi”, cái đà được hình thành từ bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý trong suốt chiều dài lịch sử của cá nhân. Lấy được cái đà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật. Chúa muốn chúng ta phải nhận ra khuyết điểm của mình và sửa đổi.

Sửa đổi bản thân là lấy được cái đà trong mắt mình. Không có cái đà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ…

Thật thế, khi sửa đổi chính mình, ý thức được sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác mang niềm tin yêu, hy vọng cho các hối nhân. Chính Chúa đã và sẽ đối xử đại lượng với chúng ta.

Ý lực sống:

“Có một sáng suốt đáng buồn, khi chỉ nhìn thấy những điều xấu nơi người khác. Cũng có một xét đoán đầy yêu thương, khi đã nhìn thấy những điểm sáng tốt đẹp, ngay từ nơi bóng tối những điều không tốt đẹp của người anh em mình” (Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận).

Suy Niệm 8: Đừng xét đoán người khác (Mt 7,1-5)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: anh em không được xét đoán lên án kẻ khác, vì việc đó thuộc quyền của Thiên Chúa. Anh em xét đoán kẻ khác thế nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Sao anh em thấy cọng rác nhỏ trong con mắt kẻ khác, còn cái xà trong mắt anh em, mà anh em không thấy, nghĩa là lỗi lầm nhỏ mọn của người khác thì anh em thấy rõ rồi phê bình lên án đủ thứ, còn tội nặng nề của anh em, anh em lại không chịu thấy, không chịu nhận, không lo sửa chữa. Hãy lo từ bỏ sửa chữa tội lỗi của anh em trước đã rồi anh em mới giúp được kẻ khác chừa bỏ lỗi lầm của họ.

Xénophon, nhà hiền triết Hy lạp sống vào giữa thế kỷ thứ 5 TCN đã nói như sau: “Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị: một cái đằng trước, một cái đằng sau. Cái bị đằng sau chứa đựng tất cả những cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đằng trước thì đầy rẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác”.

Khuynh hướng tự nhiên của con người là dễ dàng kết án người khác, nhưng lại tỏ ra dễ dãi với mình. Chúa Giêsu đến để chỉnh đốn khuynh hướng lệch lạc ấy. Ngài mời con người hoán cải, nghĩa là quay trở lại với mình, nhìn thẳng vào thực chất của mình, để từ những yếu đuối, bất toàn của mình để dễ dàng thông cảm và tha thứ cho người khác hơn. Đó là nội dung những lời khuyên của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.

Dân gian có câu:

Chân mình thì lấm lê mê,

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

Hay: Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê (Việc mình thì quáng, việc người thì sáng).

Chúa Giêsu vạch rõ tính cách của nhiều người trong chúng ta thường thì không thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại soi mói dò xét cái lỗi của người khác mà lắm khi cái lỗi của chúng ta còn lớn gấp trăm lần cái lỗi của tha nhân.

“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?” Cái lỗi nhỏ như cái rác của tha nhân thì mình dễ nhìn thấy, nhưng cái lỗi lớn như xà nhà của mình thì lại không thấy. Chúng ta dễ dàng kết án cái lỗi nhỏ nhặt của tha nhân, nhưng lại không ý thức về những tội tầy đình của bản thân…

Con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.

Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Giakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải, Madalena đã dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu (Mỗi ngày một tin vui).

Tóm lại, như lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng đong bằng đấu ấy cho anh em” (Mt 7,1-2), nghĩa là khi chúng ta dùng lăng kính chủ quan của mình để xét cho anh em thế nào, thì chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa thể ấy. Vậy nên, nếu khi xét đoán, chúng ta cần biết nhìn lại chính mình, nhất là trong lời xét đoán về anh em có thực sự khách quan hay không, có thực sự vì yêu thương anh em và vì sự thật hay không.

Truyện: Biểu diễn trồng táo

Tại một xứ Hồi giáo, có một người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ, vì đã ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin nhà vua:

– Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không được truyền lại cho hậu thế.

Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:

– Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không thể trồng được.

Nhà vua vẫn chiều lòng tên ăn trộm, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:

– Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần nhận thấy không đủ điều kiện để trồng hạt táo này.

Nhà vua đưa mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.

Không tìm được ai, nhà vua mới định cầm hạt táo đến bỏ vào lỗ. Nhưng ông cũng chợt nhớ ra lúc con nhỏ ông đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha.

Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:

– Tâu bệ hạ, các ngài là những người quyền thế cao trọng, không thiếu thốn gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn hạ thần, một con người khốn khổ, chỉ vì lỡ lấy thức ăn của người khác cho đỡ đói, thế mà các ngài đã kết án treo cổ hạ thần.

Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xang trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Hôm nay Chúa Giêsu dạy về sự xét đoán:

  1. Thiên Chúa sẽ xét đoán chúng ta tùy theo cách chúng ta xét đoán người khác. Trong những câu sau đây ta phải luôn hiểu ngầm chữ Thiên Chúa:

– “Các con đừng xét đoán để khỏi bị (Thiên Chúa) xét đoán.”

– “Các con xét đoán thế nào thì cũng bị (Thiên Chúa) đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong cho người ta thì (Thiên Chúa) cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy.”

  1. Thay vì xét đoán người khác, mỗi người hãy lo xét đoán chính mình: “Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi. Hãy lấy cái đà trong mắt ngươi ra trước đã.”

Suy gẫm

  1. Tại sao tôi thích xét đoán người khác?

– Lý do “có vẻ chính đáng” là tôi yêu thích sự thiện, do đó khi thấy người khác không thiện thì tôi lên án.

– Nhưng ngoài lý do “có vẻ chính đáng” ấy ra, còn nhiều lý do không chính đáng chút nào mà khoa tâm lý có thể vạch trần ra:

a/ do cái tính ác nằm sẵn trong người tôi thích “hạ” kẻ khác và ngầm sung sướng một cách vô ý thức khi người khác bị “hạ”;

b/ Đó là một cạnh tranh kiểu tiểu nhân: hạ người khác để nâng tôi lên. Khi tôi nói rằng người đó không tốt thì một cách gián tiếp tôi nói rằng tôi tốt.

  1. Đức Giám mục Fulton Sheen đưa ra một tiêu chuẩn như thế này: tôi thường xét đoán người khác về nhiều khuyết điểm gì, đó là dấu tôi có chính khuyết điểm đó.
  2. “Phê và tự phê” đó là một khẩu hiệu rất hay vì nó nhắc ta không nên chỉ làm một việc là phê người khác, nhưng phải làm thêm việc phê phán chính mình nữa. Tuy nhiên khẩu hiệu này vẫn chưa hay bằng giáo huấn của Chúa Giêsu: Ngài dạy tự phê trước rồi sau đó mới phê người ta.
  3. Một hôm satan thích chí vô cùng vì đã phát minh ra được một cái gương vô cùng kỳ diệu: Bất cứ điều gì trong gương ấy cũng bị đảo lộn. Khuôn mặt kiều diễm nhất nhìn vào tấm gương cũng xấu xí, ghê rợn. Satan nghĩ có thể đưa tấm gương lên thiên đàng để chia rẽ Thiên Chúa và các thiên thần.

Satan liền đội tấm gương lên đầu và bay thẳng lên trời. Dọc đường hắn nhìn vào tấm gương và càng thích thú khi thấy gương mặt xấu xí của hắn nay càng xấu xí hơn. Nhưng càng bay tới thiên đàng thì hắn càng thấy gương mặt hắn xấu thê thảm. Cứ thế chưa tới cửa thiên đàng thì hắn không chịu vẻ thô bạo xấu xí của hắn nữa. Tay hắn run lẩy bẩy và đánh rơi tấm gương xuống trần gian. Tấm gương vỡ tan từng mảnh và lan tràn khắp trên mặt đất. Đó là khởi đầu đại họa cho con người: từng hạt cát nhỏ bám vào mắt ai thì nằm mãi ở đó, và người đó chỉ thấy cái xấu trên thế gian này thôi.

Câu chuyện trên muốn nói rằng: nhìn thấy cái xấu nơi người khác không phải là điều tự nhiên của con người, đó là một cái nhìn của quỷ.

Nơi mỗi người vẻ đẹp của Thiên Chúa vẫn còn chiếu sáng. Chính cái nhìn này mới là nền tảng cho đức ái Kitô giáo.

  1. Sở dĩ ta nên tránh việc phê phán và nghĩ xấu cho người là vì đoán xét của ta thường sai lạc, ít khi ta phê phán người khác một cách khách quan, mà thường phê phán theo cảm tính và ý nghĩ chủ quan của ta. Câu chuyện sau đây trong sách Liệt Tử vừa nghe thì thấy rất tầm thường nhưng nó chứa đựng một chân lý sâu xa về sự phê phán chủ quan của ta.

Có người đánh mất cái búa. ngờ cho đứa con nhà láng giếng lấy trộm.

Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa, nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, cử động, không một tí gì, là không rõ ra đứa ăn trộm búa cả.

Được một lúc, người ấy tìm thấy chiếc búa trong hố thì hôm sau trông thấy con người láng giềng: ngôn ngữ, cử chỉ, lại không còn một tí gì giống đứa ăn trộm búa nữa.

Câu chuyện này được viết ra hằng ngàn năm trước đây, vừa nghe thì có vẻ nhạt nhẽo vô duyên, nhưng đọc kỹ thì thấy nó phản ứng thật trung thực tâm lý của đa số con người đã sống từ ngàn năm trước cũng như hiện đang sống bây giờ. Sở dĩ phán đoán của chúng ta sai lạc là vì lý trí của ta thường bị chi phối bởi trăm ngàn yếu tố: như tiền bạc, danh vọng, lợi, hại, yêu, ghét, thân, sợ…

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy về sự xét đoán:

Thiên Chúa sẽ xét đoán chúng ta tùy theo cách chúng ta xét đoán người khác.

– “Các con đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán” (Mt 7,1).

– “Các con xét đoán thế nào thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (Mt 7,2).

Tại sao tôi thích xét đoán người khác?

– Lý do “có vẻ chính đáng” là tôi yêu thích sự thiện, do đó khi thấy người khác không thiện thì tôi lên án.

– Nhưng ngoài lý do “có vẻ chính đáng” ấy ra, còn lý do không chính đáng chút nào mà khoa tâm lý có thể vạch trần ra: Đó là cái tính ác nằm sẵn trong người tôi, làm cho tôi thích “hạ” kẻ khác và cảm thấy sung sướng một cách vô ý thức khi người khác bị “hạ”;

Một hôm, Satan thích chí vô cùng vì đã phát minh ra được một cái gương cực kỳ kỳ diệu: Bất cứ điều gì trong gương ấy cũng bị đảo lộn. Khuôn mặt kiều diễm nhất nào nhìn vào tấm gương cũng trở thành xấu xí, ghê tợn. Satan nghĩ, có thể đưa tấm gương lên Thiên Đàng để chia rẽ Thiên Chúa và các thiên thần. Satan liền đội tấm gương lên đầu và bay thẳng lên trời. Dọc đường hắn nhìn vào tấm gương và càng thích thú hơn khi thấy gương mặt xấu xí của hắn nay càng xấu xí hơn. Càng bay tới gần Thiên Đàng thì khuôn mặt của hắn càng xấu xa thê thảm. Và cứ như thế, chưa tới cửa Thiên Đàng mà hắn đã không còn chịu được cái vẻ thô bạo xấu xí của hắn. Thế rồi, tay hắn run lên lẩy bẩy và đánh rơi tấm gương xuống trần gian. Tấm gương vỡ ra từng mảnh, nát ra như những hạt cát và tung bay tràn lan trên khắp mặt địa cầu. Từ đó trở đi, hễ hạt cát nhỏ đó bám vào được mắt ai thì cứ nằm lỳ mãi ở đó, khiến người ấy chỉ còn thấy toàn là những cái xấu trên thế gian này mà không thấy được điều gì tốt đẹp khác. Đại họa cho con người khởi đầu từ đó.

Câu chuyện trên muốn nói rằng: nhìn thấy cái xấu nơi người khác không phải là điều tự nhiên của con người. Tổ tiên chúng ta thường nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Như vậy, mọi cái xấu, cái ác đều là do ma quỷ mà ra. Bởi vậy, chúng ta hãy coi chừng!

Đức Giám Mục Fulton Sheen nói: “Tôi thường xét đoán người khác về khuyết điểm gì, thì đó là dấu chính tôi có khuyết điểm đó”.

  1. Thay vì xét đoán người khác, mỗi người hãy tự lo xét đoán chính mình: “Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái xà trong mắt ngươi. Hãy lấy cái xà trong mắt ngươi ra trước đã” (Mt 7,3).

Chúa bảo, trước khi xét đoán thì hãy tự xét mình trước đã: Hãy lấy cái xà trong mắt ngươi ra trước đã. Hãy tự phê trước rồi sau đó mới phê sau. Tốt hơn là đừng xét đoán.

Trong kho tàng truyện các thánh tu hành, có câu chuyện rất hay của ẩn sĩ Macariô. Ngài qua đời năm 300 ở Ai Cập.

Macariô sống ẩn dật 30 năm trong phòng mình. Suốt trong thời gian đó, có một vị linh mục vẫn đến cử hành thánh lễ trong phòng của Ngài. Để cám dỗ và quấy rầy vị tu hành này, ma quỷ xúi giục một người kia đến gặp vị ẩn sĩ Macariô và nói:

– Vị linh mục đến làm lễ mỗi ngày đó chính là một kẻ tội lỗi vì thế không nên cho ông ấy cử hành thánh lễ nữa.

Ẩn sĩ Macariô đáp lại:

– Hỡi con, Kinh Thánh dạy rằng: “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Nếu linh mục ấy là người tội lỗi, thì Chúa sẽ tha thứ cho cha ấy”.

Sau khi nói như vậy, ẩn sĩ Macariô bắt đầu cầu nguyện và đã giải thoát cho người kia khỏi bị quỷ ám.

Khi vị linh mục đến làm lễ, cha ấy vẫn được tiếp đón vui vẻ như thường. Và Thiên Chúa thấy lòng nhân hậu của ẩn sĩ Macariô nên muốn khích lệ ngài bằng một dấu hiệu. Khi vị linh mục tiến lên bàn thờ, thì Macariô thấy một thiên thần từ trời xuống và đặt tay lên đầu vị linh mục và vị này biến thành một cột lửa trước lễ vật thánh.

Trong khi ẩn sĩ Macariô còn ngây ngất trước thị kiến này, thì ngài nghe có tiếng nói:

– Hỡi con người, tại sao ngươi lại ngạc nhiên ngỡ ngàng. Nếu một vua chúa trên trần gian này còn không cho phép thần dân mình xuất hiện trước mặt mình với quần áo nhơ bẩn, thì làm sao quyền năng của Thiên Chúa lại chấp nhận cho người cử hành Mầu Nhiệm Thánh mà ô uế trước vinh quang trời cao. Ngươi đáng được chứng kiến sự kiện này vì ngươi đã không chỉ trích vị linh mục.

Viện phụ Pineng, trong truyện các thánh tu hành, cũng đã trả lời cho một đan sĩ hỏi ngài xem có cần phải che tội cho người anh em mình không? Ngài đáp:

– Chính trong lúc chúng ta che tội cho người anh em chúng ta, thì Chúa cũng che tội cho chúng ta như vậy.

Mẹ Têrêsa bảo: “Đức Giêsu khuyến khích ta đừng xét đoán ai. Cố đừng xét đoán người khác. Nếu bạn xét đoán người khác thì bạn không thể nào yêu họ được”.

THỨ BA TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt. 7, 6. 12-14

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Đừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.

“Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.

“Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy”.

SUY NIỆM 1: Cửa hẹp và đường chật

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay gồm những câu rời rạc.

Câu đầu tiên là một câu khó hiểu đối với chúng ta ngày nay (c.6),

tuy có thể rất dễ hiểu đối với những người trực tiếp nghe Đức Giêsu.

“Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai chớ liệng cho heo…”

Heo là con vật nhơ uế, chó thường được dùng để chỉ dân ngoại.

Vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai,

sách Điđakhê coi của thánh ở đây là Mình Thánh Chúa,

từ đó xác định rằng chỉ tín hữu mới được rước lễ (9, 5).

Tuy nhiên, có thể hiểu của thánh hay ngọc trai là Tin Mừng Nước Trời.

Tin Mừng này có thể được đón nhận hay bị từ chối một cách thô bạo.

Không hẳn chỉ dân ngoại mới có người từ chối và chà đạp viên ngọc quý.

Cả người Do thái cũng có kẻ bách hại những ai rao giảng (Mt 10, 17).

Thái độ của người môn đệ là không dừng lại, nản lòng khi bị chối từ.

nhưng là tiếp tục mang sứ điệp ấy đến cho người khác.

Câu 12 thường được coi là khuôn vàng thước ngọc.

Nó xuất hiện trong nhiều tôn giáo và văn hóa từ xưa.

“Làm cho người khác mọi điều mình muốn họ làm cho mình.”

Đây là một thái độ tích cực đòi chúng ta một chút tưởng tượng.

Tôi thử nghĩ xem mình muốn gì nơi người khác.

Cảm thông, bao dung, yêu mến, kính nể, trung thành, nâng đỡ…

Rồi tôi tìm cách trao cho họ những điều tốt lành mà tôi ước mong,

vì giữa con người với nhau, vẫn có chung những khát vọng.

Trong một thế giới mà người ta chỉ tìm làm điều tốt cho nhau,

thì thế giới đó là địa đàng, nơi sự dữ không còn đất đứng.

Như thế người Kitô hữu không chỉ yêu anh chị em trong cộng đoàn,

yêu người thân cận như chính mình (Mt 22, 39),

mà còn yêu mọi người đau khổ cơ nhỡ (Mt 25, 31-46),

thậm chí yêu cả kẻ thù (Mt 5, 44).

Cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn yêu bằng hành động tích cực:

“chính anh em hãy làm cho người ta” (c. 12).

Người ta ở đây là mọi người, vượt quá mọi thứ biên giới.

Con đường mà Đức Giêsu đã đi là con đường hẹp, khó đi.

Nó hẹp vì nó là con đường tình yêu, mà yêu thì không dễ.

Ít ai tìm thấy con đường này, mà cũng ít người muốn đi (c. 14).

Chúng ta được mời chọn đi con đường Giêsu,

con đường tình yêu đòi hy sinh mạng sống,

con đường đòi ra khỏi mình để sống cho và sống với tha nhân.

Và chúng ta tin mình sẽ gặp được hạnh phúc.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,

nếu Hội Thánh được ví như một thân thể

gồm nhiều chi thể khác nhau,

thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu

một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.

Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.

Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.

Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,

thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,

các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…

Lạy Chúa Giêsu,

cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,

ơn gọi của con chính là tình yêu.

Con đã tìm thấy

chỗ đứng của con trong Hội Thánh:

nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,

và như thế con sẽ là tất cả,

vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.

Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,

mọi ước mơ của con được thực hiện. Amen.

(dựa theo lời của thánh Têrêxa)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: Vào cửa hẹp

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đó là phải vào qua cửa hẹp.

Cửa hẹp là chế ngự được thú tính. “Đừng quăng của thánh cho chó; đừng liệng ngọc trai cho heo”. Trong ta có của thánh và ngọc quí. Đó là đức tin, là ơn thánh, là tước hiệu con cái Chúa. Quí giá vì quyết định hạnh phúc đời đời. Vì thế phải bảo vệ trân trọng bằng bất cứ giá nào. Bằng cả mạng sống ta. Nhưng trong ta cũng có những con thú. Thú dữ như chó. Thú dơ bẩn như heo. Nếu ta không kềm chế, thả lỏng những con thú này. Chúng sẽ chà đạp hết những gì cao quí trong con người ta rồi quay lại cắn xé ta tan nát. Chế ngự thú tính là bắt mình đi vào cửa hẹp, không cho thú tính tự do tung tác. Như thế mới bảo vệ được ơn thánh và ngọc quí trong ta.

Cửa hẹp là biết quan tâm đến tha nhân sống chung quanh ta. Quan tâm để phục vụ: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta”. Đó là yêu người như mình. Khi muốn làm vui lòng tha nhân, phải từ bỏ mình. Phải chịu hẹp một chút. Đó là vào cửa hẹp yêu thương. Cửa hẹp này sẽ mở rộng cánh cửa tâm hồn của ta và của tha nhân.

Như Áp-ra-ham biết giữ những giá trị tinh thần cao quí. Giá trị đó là đức tin vào Chúa một cách tuyệt đối. Giá trị đó cũng là tình gia tộc. Phải phân chia nơi ở để gìn giữ hòa khí. Trong phân chia, Áp-ra-ham đã đi vào cửa hẹp là nhường nhịn. Dành cho Lót quyền ưu tiên chọn lựa. Dù Lót là phận dưới. Lại chỉ là người ăn theo lời hứa. Lót đã chọn thành Xô-đô-ma là một thành phố giầu sang thịnh vượng. Vừa dễ làm ăn vừa vui tươi. Còn Áp-ra-ham theo lời hứa đã chọn hướng ngược lại, vào sa mạc cắm lều dưới rặng sồi Măm-rê. Ông đã giữ được của thánh và ngọc quý. Ông được Chúa thưởng công gấp bội (năm lẻ).

Như Khít-ki-gia. Không cậy dựa vào sức mạnh của nhân loại. Cũng không hèn nhát hàng phục. Nhưng phó thác cho Chúa. Trước sức hung hãn của Át-sua. Giống như chó dữ. Và như heo dơ bẩn. Muốn cắn xé đức tin của ông. Muốn chà đạp sự linh thiêng của Chúa. Khít-ki-gia đi vào cửa hẹp. Lên Đền Thờ tỏ bày với Chúa. Và ông đã được Chúa cứu thoát khỏi ách xâm lược của Át-sua. “Chính đêm ấy, thiên sứ của Đức Chúa ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua. Vua Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê” (năm chẵn).

Đường rộng thênh thang muôn lối nhưng dẫn đến diệt vong. Xin Chúa cho con biết đi vào đường hẹp, chỉ có một lối duy nhất của Chúa dẫn đến sự sống.

 

SUY NIỆM 3: Hãy qua cửa hẹp

Một cuốn phim Mỹ với nội dung như sau: Có đôi vợ chồng trẻ mới thành hôn đưa nhau đi nghỉ cuối tuần tại Las Vegas, một thành phố cờ bạc nổi tiếng nhất nước Mỹ. Ðang lúc thuận thời vận, hai người chia sẻ cho nhau ước muốn có được một căn nhà. Một nhà tỷ phú tình cờ theo dõi câu chuyện của đôi vợ chồng trẻ. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng cho họ một triệu Mỹ kim. Chỉ sau một đêm họ có thể trở thành triệu phú. Nghĩ thế, họ ra phòng luật sư để ký giao kèo. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỷ phú, người chồng cũng bắt đầu nghĩ lại, viễn ảnh mất vợ bỗng làm anh lo sợ. Thế nhưng đã quá muộn, sau một đêm để có được tất cả cũng chính là lúc họ mất nhau để rồi đi đến tan vỡ.

Câu chuyện phim trên đây có thể là một dụ ngôn cho chúng ta hiểu được giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: con đường dễ dãi là con đường dẫn đến hư mất, đó là định luật chung của cuộc sống. “Hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường rộng đưa đến diệt vong”. Thái độ hững hờ không thể đi đôi với những đòi hỏi của Tin Mừng; cuộc sống dễ dãi, buông thả không có chỗ đứng trong nếp sống của những người theo Chúa. Ðã một thời cùng ăn, cùng uống, cùng nghe giảng dạy, chưa phải là giấy thông hành để vào Nước Trời: “Ai nghe những lời Ta dạy mà không đem ra thực hành, thì ví được như người ngu xây nhà trên cát”. Nếu viện lý do mình là con dòng cháu giống, cũng chưa phải là lý do để được thâu nhận vào Nước Trời.

Trong lúc huấn đức cho đồ đệ, một người mới nhập viện lên tiếng hỏi vị Thiền sư:

– Thưa Thầy, con quyết chí tu cho đắc đạo dễ hay khó?

Thiên sư trả lời:

– Không dễ cũng không khó.

Người đồ đệ ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao lại không dễ cũng không khó? Con thật không hiểu, xin thầy giải thích.

Thiền sư dõng dạc trả lời:

– Vì tu đắc đạo không ở đó.

Người đồ đệ càng sửng sốt hơn:

– Con không thể nào hiểu được. Vậy làm sao để đạt đích?

Thiền sư trả lời:

– Vì đường tu không khoảng cách. Khi con ngưng bước là lúc con tới đích.

Xin Chúa cho chúng ta thực thi những gì Chúa đòi hỏi. Xin cho chúng ta luôn đi sát Chúa và hướng thẳng tới đích cao vời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Cửa hẹp

“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng là đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua cửa đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt. 7, 13-14)

Những cánh cửa khép kín

Ta nghĩ đến cái gì khi nghe Phúc âm nói về cửa hẹp? Có lẽ ta cho đó là chuyện chẳng có gì đáng “tếu”, đáng phấn khởi cả. Trong đầu óc ta, đó là những tiếng gợi nên cảnh nhiệm nhặt, khổ chế, những điều răn, thập giá và đau khổ. Trong tất cả những điều này, chẳng có gì làm cho ta ham sống cả. Một phần nào đó cũng giống như muốn qua cửa hẹp, thì trước tiên là phải lo đóng chặt các cửa chung quanh, phải bận tâm nhiều đến những điều cấm đoán, phải thường xuyên ở thế phòng thủ, phải luôn luôn canh chừng để khỏi rơi xuống hố sâu vực thẳm.

Như vậy thiết tưởng cửa hẹp là một cái vòng xiềng cổ, là cái áo bó chặt vào người, là con đường khúc khuỷu gập ghềnh chẳng có nhiều ánh sáng, niềm vui sống và tự do.

Những cánh cửa mở rộng

Nghĩ tưởng như vậy đúng là không biết đánh giá cao điều Chúa Giêsu đề nghị cho ta. Để tỏ ra công bằng đối với Chúa, khĩ nghĩ đến cửa hẹp, thiết tưởng ta phải nghĩ nhiều đến những cánh cửa rộng mở hơn là những cánh cửa khép kín. Chúa Giêsu chẳng phải là con người dập tắt niềm vui, sự sống và tự do. Và chính cửa hẹp Chúa nói đến ở đây, sẽ đưa ta tới đó.

Nếu Chúa Giêsu có mời gọi ta sống nhiệm nhặt khắc khổ, chính là để nếp sống ấy đưa ta tới nguồn vui. Chúng ta sẽ phải đau khổ, nếu Chúa không giấu ta điều đó, chính là để nói với ta rằng hạnh phúc đang chờ ta ở cuối đoạn đường. Nếu Người thúc ép ta vác thập giá mình, chính la để dẫn ta đến sự sống.

Thế nên cửa hẹp được gọi là tình yêu thương, sự hiến thân, đức công bình, sự tha thứ lỗi lầm, lòng quảng đại, nhân từ, dịu hiền. Cửa hẹp này mở rất rộng rãi hướng về một thế giới tuyệt vời; thế giới chan hòa tự do và hoan lạc này chỉ mình Thiên Chúa mới có thể vun trồng ở thâm sâu của lòng ta.

SUY NIỆM 5: KHUÔN VÀNG THƯỚC NGỌC (Mt 7, 6. 12-14)

“Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta”.

Đây là khuôn vàng thước ngọc để ta thi hành đức ái theo thánh ý Chúa.

Thật vậy, chẳng ai muốn điều xấu đến với mình bao giờ. Vì thế, không có lẽ gì lại mong muốn điều xấu đến với anh chị em mình. Chỉ có ai nuôi lòng hận thù, hay vì ích kỷ thì mới làm điều bất chính cho tha nhân và muốn điều tốt cho riêng mình mà thôi.

Hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra kim chỉ nam cho các môn đệ và cũng cho mỗi người chúng ta là: hãy muốn và làm điều tốt cho tha nhân trước khi thi hành điều tốt cho chính mình. Phải quên đi bản thân để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân trước. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh của anh chị em và hãy đối xử với họ như chính mình muốn được đối xử khi ở địa vị của họ.

Lời Chúa hôm nay không chỉ kêu mời chúng ta “hãy làm cho người khác những điều mình muốn họ làm cho mình” mà Ngài muốn chúng ta đi xa hơn nữa là hãy cư xử với tha nhân tốt hơn là họ đáng được cư xử. Không chỉ “yêu tha nhân như chính mình” mà hãy “yêu tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Đó là yêu vô điều kiện, yêu đến mức hy sinh cả mạng sống.

Khi yêu như thế, ấy là lúc chúng ta đang đi trên con đường hẹp, con đường của hy sinh, từ bỏ, của yêu thương, quảng đại và vô vị lợi. Sẵn sàng từ bỏ con đường thênh thang là con đường của kiêu ngạo, ích kỷ, nhỏ nhen, trục lợi cho cá nhân mình.

Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay vạch ra cho chúng con con đường về trời. Con đường đó là hy sinh, yêu thương và bác ái vô vị lợi.

Xin cho chúng con biết chọn con đường hẹp ấy để tiến bước trên hành trình sứ vụ của chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Cửa hẹp và đường chật

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Điều ta muốn người khác làm cho mình thì ta hãy làm cho họ. Đó là cửa hẹp và đường chật mà ta phải đi vào để gặp được sự sống.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn sống hạnh phúc viên mãn vì Chúa hoàn toàn sống cho Chúa Cha và cho chúng con. Chúa Cha cũng hạnh phúc viên mãn vì hoàn toàn trao ban chính mình cho Chúa và cho chúng con. Chúa cho con hiểu rằng hạnh phúc hệ tại cuộc sống quên mình và biết sống vì người khác.

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng muốn coi mình là trung tâm, ai cũng muốn sống cho mình, ai cũng muốn người khác hy sinh cho mình, mà chẳng bao giờ muốn sống cho người khác và hy sinh cho người khác. Chính vì thế nhân loại chẳng bao giờ gặp được hạnh phúc đích thực và lâu bền.

Chúa dạy con phải biết làm cho người khác điều mà con muốn họ làm cho con. Xin Chúa giúp con đi bước trước. Xin Chúa dạy con biết yêu mến và an ủi người khác hơn là mong được họ yêu mến và an ủi, biết giúp đỡ quan tâm và tế nhị với họ hơn là được họ giúp đỡ, quan tâm. Con mong được người khác tha thứ cảm thông, thì xin Chúa giúp con biết quảng đại tha thứ và cảm thông trước. Và sau đó Chúa sẽ cho con nhận lại tất cả.

Lạy Chúa, hạnh phúc của con là làm sao cho người khác được hạnh phúc. Con sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc khi chỉ biết chờ đợi người khác hầu hạ khen tụng con, nhưng trái lại hạnh phúc sẽ bắt đầu khi con biết sống cho người khác. Điều này ngược với tính ích kỷ của con. Xin Chúa giúp con biết hy sinh đi vào cửa hẹp và con đường chật như chính Chúa đã dạy và làm gương cho con. Amen.

Ghi nhớ: “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta”.

Suy Niệm 7: Phấn đấu qua cửa hẹp

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Có một khách bộ hành phải đi qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi đáp ngay: “Tôi không biết”.

Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo: “Này ông ơi, ông đi độ 15 phút nữa thì tới nơi đó”. Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu: “Tại sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết?”. Bác tiều phu thông cảm đáp: “Lúc ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được”.

Suy niệm

Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài với ba ý khác nhau:

“Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai chớ liệng cho heo”… Người Do Thái coi heo là con vật nhơ uế, chó thường được dùng để chỉ dân ngoại. Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh của thánh hay ngọc trai để nói về Tin Mừng nước Trời. Tin Mừng có thể được đón nhận hay bị từ chối một cách thô bạo từ dân ngoại. Ngay cả nơi người Do Thái cũng có kẻ bách hại những ai rao giảng (x. Mt 10,17). Sách Điđakhê vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai, nhấn mạnh thêm coi của thánh ở đây là Mình Thánh Chúa, từ đó xác định rằng chỉ tín hữu mới được rước lễ.

Đức Giêsu đưa ra khuôn vàng thước ngọc về bổn phận của người tin vào Ngài: Luôn làm những điều tích cực, điều tốt cho anh em với tất cả lòng quảng đại và yêu mến. Cựu ước dạy: “Đừng làm cho người khác những điều chính mình không thích” (Tb 4,16). Giáo huấn của Chúa Giêsu mang tính cách tích cực hơn: “Hãy làm cho người ta trước”. Muốn người khác giúp đỡ, thì chính mình cũng phải giúp đỡ cho người khác.

Qua hình ảnh con đường hẹp, cửa hẹp. Ðức Giêsu dạy ta cần phải luôn cố gắng, phấn đấu hết sức để được vào nước Chúa. Ngài nói phải phấn đấu bước qua: “Hãy đi qua cửa hẹp”. Ngài nhấn mạnh: “Cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7,14). Qua cửa hẹp, phải cố gắng, phải chiến đấu không ngừng để về quê Trời. Cho nên, Tin Mừng nói đến hình ảnh: “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được nước Trời” (Mt 11,12; Lc 16,16).

Xin cho chúng ta luôn gìn giữ ơn thánh được trao ban qua Lời Chúa và Thánh Thể, đó là sức mạnh để chúng ta cùng nhau đi trên con đường mà Đức Giêsu đã đi – con đường hẹp, khó đi – con đường tình yêu đòi hy sinh mạng sống – con đường đòi ra khỏi mình để sống cho và sống với tha nhân.

Ý lực sống:

“Các con hãy vào qua cửa hẹp… cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp” (Mt 7,13-14)

Suy Niệm 8: Khuôn vàng thước ngọc (Mt 7,6.12-14)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu đưa ra khuôn vàng thước ngọc về bổn phận của mọi người đối với tha nhân. Sự độc đáo nơi nguyên tắc của Ngài: không chỉ không làm những điều tiêu cực, mà còn phải làm những điều tích cực, điều tốt cho anh em, nghĩa là sống bác ái, cho đi với tất cả với lòng quảng đại và yêu mến.

Qua hình ảnh con đường hẹp, cửa hẹp, Chúa Giêsu dạy ta phải khước từ những quyến rũ bất chính của cuộc sống để được vào Nước trời. Muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải phấn đấu với chính mình và đi trên con đường Ngài đã đi, đó là con đường khổ giá.

Chớ phạm thánh: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé anh em”. Với lời dạy này Chúa Giêsu, trước hết, được hiểu là Bí tích không thể phát bừa bãi cho kẻ không tin và không có ý ngay lành. Lời này cũng là một sự nhắc nhở cho chúng ta sự cẩn trọng đối với đồ thánh, nơi thánh và tất cả những gì liên quan tới phụng tự. Vì những gì dành cho việc phụng thờ Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh thì cần được trân trọng và gìn giữ. Đặc biệt, mọi Kitô hữu luôn ý thức mình đã được hiến thánh khi chịu các Bí tích, thì hãy luôn giữ mình trong sạch để xứng đáng là nơi thánh cho Thiên Chúa ngự, và xứng đáng đến tham dự cử hành các mầu nhiệm thánh trong đạo (Hiền Lâm).

Khuôn vàng thước ngọc. Trước Chúa Giêsu, sách Tôbia cũng đã viết: “Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15). Khổng Tử cũng trả lời cho một đệ tử: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì con không muốn thì đừng làm cho người ta. Triết gia Aristote cũng dạy: “Đừng làm lại những điều người khác làm cho ngươi nổi giận”.

Tuy nhiên, các hiền nhân xưa chỉ nói theo mặt tiêu cực. Còn Chúa Giêsu khuyên bảo theo cách tích cực: “Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì chính các ngươi hãy làm cho họ trước”. Đó là khuôn vàng thước ngọc của Kitô giáo và là “kim chỉ nam” cho những ai theo Chúa. Thật vậy, đừng làm điều ác mà thôi thì chưa đủ, nhưng chỉ khi nào mọi người bắt tay làm điều thiện, làm điều mình muốn người khác làm cho mình, lúc đó xã hội mời hy vọng tốt đẹp được (Hiền Lâm).

Phải đi qua cửa hẹp. Có những con đường chẳng ai muốn đi, bởi vì nó chật hẹp, đầy chông gai. Bởi vì thường người ta muốn đi trên những con đường thênh thang, êm ái, muốn hưởng thụ một cuộc sống đầy tiện nghi, thoải mái. Biết bao nhiêu phát minh khoa học kỹ thuật đều nhằm thỏa mãn khát vọng đó. Thế mà Chúa Giêsu giới thiệu với chúng ta con đường hẹp, con đường ít người muốn đi: “Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 6,14).

Cửa hẹp và đường chật chẳng ai thích đi, trừ phi họ được Thiên Chúa dẫn vào. Thời Xuất hành, nếu dân Israel không trải qua cảnh cùng cực bên Ai cập, làm sao họ chịu vào sa mạc để tìm về Đất hứa? Kể cả Chúa Giêsu, Ngài cũng từng được Thần khí dẫn vào sa mạc để chịu thử thách (Mt 4,1), Ngài cũng xin Chúa Cha cất cho Ngài khỏi chén đắng (Mt 26,42) (5 phút Lời Chúa).

Phải cộng tác với Chúa. Để có được những thiện hảo đời này hẳn nhiên không thể thiếu sự cố gắng nỗ lực. Cũng vậy để có hạnh phúc vĩnh cửu thì sự nỗ lực hoàn thiện bằng đời sống đạo đức càng phải trổi vượt hơn gấp bội. Thật thế, Thiên Chúa chuẩn bị cho ta ơn cứu độ, dọn sẵn cho ta Nước trời, nhưng Thiên Chúa muốn con người cộng tác để đạt cùng đích ấy, như thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa dựng nên ta Ngài không cần ta, nhưng để cứu chuộc ta Ngài cần ta cộng tác”.

Dĩ nhiên để đạt tới ơn cứu độ và hưởng Nước trời không phải chỉ do sức riêng chúng ta tự nỗ lực, nhưng cần đến sự trợ giúp của Ơn Chúa (khác với tự thân nỗ lực giải thoát trong Phật giáo). Việc đi qua cửa hẹp chính là sự hy sinh mỗi ngày, vừa dành thời gian cho Chúa để được trợ lực, vừa thực hành sống đạo đức và bác ái giữa đời.

Truyện: Trên bước đường chông gai

Năm 1796, chiến tranh giữa Pháp và liên minh Ý-Áo, Đại tướng Bonaparte của Pháp đã đưa quân đội đến một địa điểm, có cây cầu bắc qua trận tuyến của địch.

Khi trận chiến đã đến hồi quyết định, Bonaparte hô quân tiến qua cầu, nhưng không một ai qua! Bonaparte xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn, chân bước qua cầu, miệng hô to:

– Ai yêu tổ quốc thì theo ta.

Lịch sử kể lại rằng, lúc đó trên cầu người ta chỉ thấy có mình ông với lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của địch quân. Rất may sau đó có cậu bé 13 tuổi đánh trống thúc quân, hai tay đập mạnh vào trống, chân bước qua cầu theo đại tướng, quân sĩ thấy vậy liền tràn qua cầu. Bonaparte toàn thắng và chấm dứt chiến tranh.

8 năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon, trở lại chỗ cũ, có lễ nghi nghinh tiếp rất long trọng. Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi hiện ở trong quân đoàn tại đó. Hỏi đến Vidal thì cậu đã xin nghỉ phép để về đưa đám tang mẹ. Napoléon bãi bỏ tất cả nghi lễ quân đội, đi thẳng đến làng của Vidal, theo sau đám tang đến tận huyệt, đọc bài điếu văn rồi đi bộ cùng Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp:

– Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên con đường đau khổ, con cho ta theo con, cho có bạn!

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Đoạn Tin Mừng này gồm 3 giáo huấn:

  1. “Đừng lấy của Thánh mà vất cho chó, đừng vất ngọc trai trước mặt heo.” Nhóm CGKPV giải thích như sau: “Chúa muốn nói rằng không được trình bày những điều cao siêu thánh thiện cho những kẻ không đủ khả năng tiếp thu, mục đích là tôn trọng sự linh thánh và tránh không để cho người ta xúc phạm.”
  2. “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con thì chính các con hãy làm cho người ta như thế.”
  3. “Các con hãy vào Nước trời bằng cửa hẹp.”

Suy gẫm

  1. “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con thì chính các con hãy làm cho người ta như thế.” Chuyện có thật sau đây minh họa rất tốt cho lời khuyên này:

Một hôm, một người phụ nữ đến thăm một người bạn và tình cờ đọc được một câu rất ngông dán trên tủ lạnh nhà người ấy: “Hãy thực thi sự tử tế một cách càn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa.” Bà chép câu này đem về nhà dán ở nhà mình và quyết làm theo. Chồng bà, một giáo viên, thấy câu đó cũng thích và đem chép lên bảng trong lớp học. Một học sinh cũng thấy hay nên chép về cho cha mình. Ông này là biên tập viên của một nhật báo địa phương nên ông lại đưa lên báo. Chẳng mấy chốc, câu nói như vết dầu loang đã lan rộng nhiêu nơi tại nước Mỹ và đã thúc đẩy được nhiều cử chỉ đẹp rất “vô nghĩa.”

Thí dụ tại Chicago, một buổi sáng có một thiếu nữ tự động đến từng nhà của những người hàng xóm và cào tuyết trước gara đậu xe giúp họ; tại Saint Louis, một người đàn ông bình thường rất cau có nhưng một hôm ông ra đường bị một chiếc xe khác quệt trầy xe ông, ông thò đầu ra khỏi xe, mỉm cười nói “không có gì đâu”; tại San Francisco, một người đàn ông dừng xe để đóng thuế qua cầu San Francisco chẳng những cho xe mình mà còn cho cả dãy xe phía sau.

  1. Cửa mở diễn tả một sự đón tiếp, một sự chờ đợi sẵn sàng tiếp rước. Ngược lại cửa đóng là để ngăn chặn sự qua lại, để bảo vệ hoặc để biểu lộ một sự từ chối. Như thế dù cửa nào cũng là dẫn tới đích điểm. Chữ cửa là để nói lên một sự cẩn thận lựa chọn, nhất là cửa hẹp. Cửa hẹp hay đường hẹp cũng cùng một ý nghĩa.

Chúng ta đã từng bước đi trên những bờ ruộng hẹp lối, hay len lỏi giữa những con đường mòn của triền núi để kiếm củi bứt tranh… thì đủ biết rằng đi lại giữa những chỗ hẹp đó khó khăn đến như thế nào. Chúng ta phải cố giữ thăng bằng thế nào để khỏi vướng, khỏi té xuống ruộng xuống mương, hay phải len lỏi thế nào để khỏi vướng mắc chà chuôm gai góc.

Giữ luật Chúa cũng giống như đi trên những con đường hẹp hay nép mình qua cánh cửa hẹp đó. Khi chúng ta phải cố gắng làm cho người khác điều mà chúng ta muốn người ta làm cho mình thì đó là chúng ta đi vào qua cửa hẹp. Chúng ta phải từ bỏ nhiều chuyện, không thể mang hành trang cồng kềnh khi đi vào cửa hẹp được. Chúng ta phải tự chủ để chấp nhận hy sinh gian khổ. Ở đời có những con đường hẹp mà sở dĩ chúng ta đi trên đó vì chúng ta sẽ được an vui hoàn toàn. Chính mục đích ấy khiến ta chấp nhận và phấn khởi đi trên con đường hẹp.”Hãy vào cửa hẹp” (c.13): đó là một lời mời gọi. Đúng hơn là một mệnh lệnh, một chỉ thị.

Thường thì chúng ta nghĩ ngay đến chuyện theo Chúa là được lời lãi, lợi lộc và thoả mãn sung sướng. Mà thật sự có như thế vì Chúa hứa ban không thể sai lầm được. Tuy nhiên, không nhất thiết rằng chúng ta phải trải qua những ngày nơi dương thế trong hạnh phúc hoàn toàn đâu. Khi chúng ta nói về Chúa cho anh em, chúng ta thường khuyên họ “Cứ tin Chúa đi, sẽ được lời lãi gấp trăm… được phúc lộc.” Được lắm, nhưng chúng ta quên nói cho họ hay rằng tin Chúa theo Chúa là phải chấp nhận gian khổ, là đi vào đường hẹp và cửa hẹp trước khi đạt tới vinh quang Nước trời.

Thánh Phaolô bảo “Phải trải qua bao nhiêu nỗi gian truân mới được vào Nước trời… phải chạy đua. Chúa Giêsu bảo “Phải dùng sức mạnh” (Mt 11, 12). Người xưa đã có lần đến xin theo Chúa. Chúa cảnh cáo trước “Phải bán hết mọi sự…” Và “theo Chúa thì không chỗ tựa gối đầu” (Lc 9, 50). Vậy muốn theo Chúa là sống như Chúa. Chúa bảo phải đi qua cửa hẹp. Tám cửa bát phúc, nghĩa là phải nghèo, phải khiêm hạ, mục nát như hạt giống, phải khóc, phải chịu sỉ nhục. Đó là cửa hẹp. Cửa hẹp của Chúa là phải hoán cải, có đức tin, phải thức tỉnh kẻo cửa đóng lại. Đó, Chúa bảo đi vào những cửa hẹp đó mới đi tới một nơi vĩnh phúc được. Ở đời này, con đường rộng rãi sung sướng dễ đi đến chỗ tai nạn như xa lộ… chứ còn đường khúc khuỷu ổ gà, người ta lại cẩn thận nhiều. Chính vì vậy mà con đường hẹp lại là an toàn.

Vì thế, đừng nhìn vào con đường rộng, con đường hạnh phúc tạm bợ, để mê lầm hạnh phúc. Đường rộng có nhiều người đi (c.13). Điều này nói cho chúng ta hay việc gì nhiều người làm chưa hẳn là đúng, là phải ngay đâu. Nhiều người đau không có nghĩa là mình cũng đau.

Chúa nói “Ta là đường” (Ga 14, 6). Chúng ta có đi trên đường của Ngài không? Cuối đường của Ngài là đường hẹp dẫn tới vinh quang ngày mai.

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Đoạn Tin Mừng này gồm 3 giáo huấn:

  1. “Đừng lấy của thánh mà vất cho chó” (Mt 7,6).

Một vị linh mục đang chăm chú đọc sách, trước mặt ngài là một chàng thanh niên tự xưng là vô thần. Anh ta quan sát từng cử chỉ của vị linh mục và mở đầu cuộc tấn công bằng những lời này:

– Tôi không tin bất cứ những gì mà linh mục các ông rao giảng. Các ông có biết là các ông đang bán thuốc phiện ru ngủ quần chúng không?

Bị xúc phạm như thế, nhưng vị linh mục không để lộ bất cứ phản ứng nào. Ngài nhìn người thanh niên với tất cả thông cảm và nói:

– Anh có tin Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật không?

Người thanh niên trả lời như một cái máy:

– Không, thế giới tự nó mà có, vật chất tự biến hóa thành vạn vật.

Vị linh mục mỉm cười hỏi tiếp:

– Anh bạn trẻ, anh là người có học, chắc chắn anh đã có dịp đọc một vài quyển sách đứng đắn về hiện tượng tôn giáo.

Người thanh niên lắc đầu quả quyết:

– Tôi đã và sẽ không bao giờ đọc những thứ sách vô bổ ấy.

Vị linh mục hỏi tiếp

-Thế anh có đọc Kinh Thánh?

Người thanh niên lại được dịp cho Kinh Thánh chỉ là những chuyện nhảm nhí.

Vị linh mục vẫn tỏ ra thản nhiên trước thái độ gây hấn của người thanh niên. Ngài gợi thêm:

– Chắc anh cũng đồng ý rằng, từ 2.000 năm qua, lịch sử của nhân loại đã chịu ảnh hưởng sâu rộng của một người có tên là Giêsu.

Người thanh niên phản đối.

– Anh có bao giờ suy nghĩ về những vấn đề tôn giáo và luân lý trong cuộc sống không?

Người thanh niên la lớn

– Mất giờ vô ích.

Với ánh mắt vừa buồn bã vừa trìu mến, vị linh mục nhìn người thanh niên hồi lâu rồi chậm rãi nói:

– Anh bạn trẻ! Anh không có vẻ gì là người vô thần cả, mà chỉ là người sống hời hợt nông cạn và thiếu hiểu biết mà thôi.

Vâng, sống với những con người như thế quả là không đem lại cho đời mình một ích lợi gì. Chúa bảo chúng ta đừng mất giờ cho những con người như thế.

  1. “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con thì chính các con hãy làm cho người ta như thế” (Mt 7,12).

Một hôm, một phụ nữ đến thăm nhà một người bạn và tình cờ đọc được một câu rất ngông dán trên tủ lạnh của nhà người ấy: “Hãy thực thi sự tử tế một cách càn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa”. Bà chép câu này đem về dán ở nhà mình và quyết làm theo. Chồng bà, một giáo viên, thấy câu đó cũng thích và đem chép lên bảng trong lớp học. Một học sinh cũng thấy hay nên chép về cho cha mình. Ông này là biên tập viên của một nhật báo địa phương nên ông lại đưa lên báo. Chẳng mấy chốc, câu nói như vết dầu loang đã lan rộng ra nhiều nơi tại Mỹ và đã thúc đẩy được nhiều cử chỉ đẹp rất “vô nghĩa”. Thí dụ tại Chicago, một buổi sáng có một thiếu niên tự động đến từng nhà của những người hàng xóm và cào tuyết trước gara đậu xe; tại Saint Louis, một người đàn ông bình thường rất cau có, nhưng một hôm ông ra đường bị một chiếc xe khác quệt trầy xe ông, ông thò đầu ra khỏi xe, mỉm cười nói “Không có gì đâu”; tại San Francisco, một người đàn bà dừng xe để đóng thuế qua cầu San Francisco, chẳng những cho xe mình mà còn cho một dãy xe phía sau nữa. (Chờ đợi Chúa)

Vâng, nếu mỗi người chúng ta biết làm cho nhau những điều mà chúng ta muốn người khác làm cho mình, thì thế giới này sẽ biến thành một Thiên Đàng cho mọi người kể cả chúng ta.

  1. “Hãy qua cửa hẹp mà vào. Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”. (Mt 7,13-14)

Chúng ta hãy suy gẫm một vài sự kiện đã xảy ra ngay trong cuộc sống của chúng ta:

Albert Einstein đến năm lên 4 tuổi mới biết nói, và phải đến năm 7 tuổi mới biết đọc. Thầy giáo đã từng nhận xét về ông như sau: “Chậm phát triển, khó gần, luôn có những ước mơ ngớ ngẩn”. Ông từng bị đuổi học và bị từ chối nhận vào trường Bách khoa Zurich, vậy mà ông đã trở thành một nhà bác học nổi tiếng nhất thế giới chưa ai sánh kịp ông.

Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: “Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!”

– Henry Ford nói: “Thất bại chính là cơ hội để bạn khởi đầu lần nữa một cách hoàn hảo hơn”.

Con đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy. Thử hỏi con đường vinh quang Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào. Con đường hẹp chính là cái giá để trả cho vinh quang thiên quốc của chúng ta.

THỨ TƯ TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt 7, 15-20

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé.

Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao?

Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng”.

SUY NIỆM 1: Cứ xem quả thì biết họ

Suy niệm:

Thời nào Hội Thánh cũng có những ngôn sứ giả.

Họ mang dáng dấp là người của Chúa, người nói lời Chúa.

Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo.

Đức Giêsu dạy ta phải coi chừng họ (c. 15).

Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc để nói lên mối nguy cơ này.

Các ngôn sứ giả đội lốt chiên tốt lành mà đến với dân Chúa.

Nhưng thực chất họ là sói dữ tham mồi.

Cái khó là nhận ra bộ mặt thật của họ để không bị đánh lừa.

Không nhận ra họ là sói, chúng ta có thể dễ làm mồi cho họ.

Đức Giêsu dùng một hình ảnh khác

để chỉ cho ta cách phân biệt chiên với sói: hình ảnh quả và cây.

Cây nào sinh quả ấy: đó là một nguyên tắc bất biến.

“Có ai hái được nho ở bụi gai, hay hái vả trên cây găng không?” (c. 16).

Hẳn là không rồi.

Cây tốt ắt sinh quả tốt, cây bị sâu ắt sinh quả chẳng ra gì (c. 17).

Hơn nữa, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng định:

cây tốt không thể sinh quả xấu,

và cây xấu không thể sinh quả tốt được (c. 18).

Chính vì thế cứ nhìn quả thì biết cây.

Cứ nhìn những công việc do một người làm,

ta sẽ biết người ấy là ai (cc. 16. 20).

Những môn đệ đích thực của Đức Giêsu hẳn sẽ sinh quả tốt,

đó là sống công chính như giáo huấn của Bài Giảng trên núi.

Còn những ngôn sứ giả bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ.

Chuyện ngôn sứ giả đã có từ xưa trong Cựu ước.

Ở Côrintô, thánh Phaolô đã phải vất vả đối đầu

với những kẻ mà ngài gọi là tông đồ giả, đội lốt tông đồ của Đức Kitô.

Ngài còn thêm: “Lạ gì đâu!

Vì chính Xatan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11, 13-14).

Như thế các tín hữu phải cảnh giác để phân biệt chân và giả,

đặc biệt trong thời Hội Thánh gặp khủng hoảng khó khăn.

Họ phải tỉnh táo để khỏi bị dáng vẻ bên ngoài hay lý luận mê hoặc.

Điều cần lưu tâm là đời sống công chính của vị ngôn sứ.

Trong thư gửi tín hữu Galata, thánh Phaolô cho chúng ta một tiêu chuẩn

để nhận ra hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí (5, 22).

Đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín…

Những điều ngược lại, ngài gọi là những hành động của xác thịt,

như hận thù, bất hòa, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái… (5, 20).

Sống trong một thế giới phẳng và đa nguyên, người Kitô hữu hôm nay

chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và nhanh chóng,

bởi nhiều nguồn thông tin, đến từ nhiều người.

Những tiêu chuẩn của Đức Giêsu hay của thánh Phaolô vẫn còn giá trị.

Nhưng chúng ta cần có thời gian để phân định quả xấu, quả tốt.

Và cũng cần có thời gian để nhận ra đâu là sói, đâu là chiên.

Cầu nguyện:

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,

xin cho con trở nên mù lòa

vì ánh sáng chói chang của Chúa,

để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,

ánh sáng phá tan bóng tối trong con

và đòi buộc con phải hoán cải.

Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối

chỉ vì chút tự ái cỏn con.

Xin cho con khiêm tốn

để đón nhận những tia sáng nhỏ

mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.

Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý

để Chân lý cho con được tự do.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy Niệm 2: Cây tốt sinh quả tốt

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi thời gian. Khi cây chưa ra quả chưa phân biệt được tốt xấu. Có những cây cành lá um tùm nhưng lại không có quả như cây vả bị Chúa chúc dữ. Có những cây khẳng khiu nhưng lại sinh hoa thơm trái ngọt. Vì thế phải kiên nhẫn. Kiên nhẫn chờ đợi và kiên nhẫn vun trồng. Khi ta xét đoán người hãy biết chờ đợi cho đến thời đến buổi, đừng sớm xét đoán. Khi ta xét mình ta hãy biết kiên nhẫn để không nản lòng nhưng vẫn luôn vươn lên dù những yếu đuối khiếm khuyết. Sẽ có ngày Chúa cho sinh hoa quả tốt lành.

Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi đức tin kiên vững như tổ phụ Áp-ra-ham. Ra đi khi tuổi đã cao nhưng vẫn tin lời Chúa hứa. Chưa thấy đất chẩy sữa và mật nhưng vẫn tiến bước trong sa mạc. Chưa thấy con cháu nối dõi, đã phải chọn gia nhân làm người thừa kế theo thói thế gian nhưng vẫn tin vào lời Chúa hứa. Và quả thật Chúa đã giữ lời hứa cho Áp-ra-ham thành tổ phụ những người tin ngày càng đông đúc và kéo dài cho đến tận thế. Đức tin kiên vững là một cây tốt sinh hoa trái xum xuê, như cây trồng bên bờ suối, cho hoa trái quanh năm và cây không bao giờ tàn úa (năm lẻ).

Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi sự trung thành với giao ước. Đã ký kết giao ước rồi Chúa luôn trung thành. Lời Chúa hứa là một thân cây có khi gai góc, có khi khẳng khiu, có khi èo uột tưởng chừng tàn lụi trong mùa đông lạnh giá. Đó là những thử thách từ hoàn cảnh khó khăn, từ những vấp ngã của con người, từ những thế lực trần gian luôn nhũng nhiễu quấy phá. Nhưng rồi đến thời điểm Chúa định, một mùa xuân bừng dậy, cây lời hứa đơm hoa kết trái phúc lộc man vàn. Chỉ cần con người kiên tâm, trung thành vượt qua mùa đông lạnh giá, Chúa trung thành chờ đón tôi trung vào mùa xuân vĩnh cửu.

Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi can đảm dấn thân ký kết giao ước như vua Khít-ki-gia. Biết Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống và sức mạnh. Biết tổ tiên đã sai lỗi khi phế bỏ giao ước nên đã đi vào tiêu vong. Vua thống hối và lập tức ký kết giao ước với Thiên Chúa. Đó chính là vun trồng cây tốt. Đó chính là trồng cây trên đất tốt. Đó chính là chọn mặt gửi vàng (năm chẵn).

Xin cho con biết phân biệt cây tốt với cây xấu. Xin cho con đừng trở thành cây xấu sống giả dối. Chỉ có hình thức bề ngoài đẹp đẽ nhưng linh hồn xấu xa. Chỉ có lời nói đẹp đẽ nhưng ý hướng đen tối. Xin cho con trở thành cây tốt. Sống chân thật. Nói lời chân thật. Để sẽ có hoa trái là hạnh phúc đích thật.

 

Suy Niệm 3: Xem quả biết cây

Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Ðộ là cha Anthony de Mello có kể câu truyện ngụ ngôn:

Một vị giáo sĩ nọ đến gặp một tiên tri và xin ngài cầu nguyện cho một đôi vợ chồng trẻ: họ là những người rất mực đạo đức, nhưng không có con. Nghe thế vị tiên tri trả lời: “Ta rất lấy làm tiếc, Chúa không muốn cho họ có con”.

Thế nhưng, 5 năm sau, vị giáo sĩ trở lại thăm đôi vợ chồng trẻ, lần này ông nghe thấy tiếng trẻ con cười đùa trong nhà. Người chồng giải thích rằng cách đây 5 năm, có một người hành khất lang thang trước nhà họ, người chồng mời người hành khất vào nhà, cho ăn uống và mặc quần áo mới cho. Trước khi từ giã, người hành khất đã chúc lành cho đôi vợ chồng trẻ và Chúa đã ban cho họ được hai đứa con.

Vị giáo sĩ trở lại gặp vị tiên tri để xin một lời giải thích. Vị tiên tri mỉm cười trả lời: “Ta chỉ có thể nói rằng có một vị thánh đã đến thăm đôi vợ chồng trẻ này, và nhờ lời chúc phúc của ngài, họ đã có được hai đứa con; các thánh có cách thay đổi chương trình của Thiên Chúa”.

Một cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động người khác. Ðó có thể là ý tưởng nổi bật trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến trái tốt từ cây tốt. Qua kiểu nói này, hẳn Chúa Giêsu muốn nói đến những thể hiện đích thực của lòng tin: một đức tin chân thật luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Chính Ngài đã nói: “Không phải những ai đã nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi”. Thánh Giacôbê đã lấy lại giáo huấn này khi ngài viết: “Ðức tin không có việc làm là đức tin chết tận gốc rễ”.

Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước thói giả hình. Bao lâu giữa niềm tin và cuộc sống còn có khoảng cách, thì bấy lâu chúng ta vẫn còn là những kẻ giả hình; trên cây đức tin của chúng ta chỉ có những quả xấu; cuộc sống chỉ còn là những phản từ, hay nói theo ngôn ngữ quen thuộc: chúng ta làm ố danh sự đạo. Thánh Phaolô đã nhắn nhủ tín hữu Côrintô: Những người rước Mình Thánh Chúa mà vẫn tiếp tục sống trong chia rẽ và kỳ thị, là những người sống trong mâu thuẫn không thể chấp nhận được, và họ rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng. Bí tích Thánh Thể không thể tách rời khỏi giới răn yêu thương: người ta không thể rước Mình Thánh Chúa mà đồng thời lại sống xa lạ với anh em đang bị đói khát, đau yếu, tù đày. Từ việc rước lễ phải nẩy sinh trong chúng ta sức mạnh của niềm tin yêu khiến chúng ta cởi mở với tha nhân, có lòng từ bi đối với những người sống trong túng thiếu và quẫn bách.

Ước gì chúng ta luôn biết thể hiện đức tin của chúng ta bằng những hành động cụ thể. Ước gì hoa trái của đức tin chúng ta trở thành của ăn có sức nuôi dưỡng bồi bổ đối với những người xung quanh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Biết tin vào ai?

“Anh em hãy coi chừng những ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt, thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.” (Mt. 7, 15-17)

Những tiếng chào mời khắp nơi

Thời nay càng không thiếu những người nói hay nói khéo. Người ta gặp họ nhan nhản ở trong các nhà thờ. Nhưng họ cũng có mặt đông đảo ở những nơi công cộng, trên vô tuyến, trên truyền hình. Những kẻ ba hoa này thích được người ta coi mình là những thày dạy đời, những nhà tiên tri. Mỗi người đều có những ngón nghề riêng để nói hay về hạnh phúc. Vấn đề là họ không nói chung cùng một tiếng nói. Kẻ nói trắng, người nói đen.

Mỗi ngày, những người công dân bình thường đều bị chới với vì những làn sóng thông tin, sứ điệp ùa tràn từ mọi phía. Những Kitô hữu cũng được người ta mời chào đón nhận những lý thuyết mới lạ và chạy theo những con đường rất trái ngược nhau. Phải tin ai đây? Phải coi chừng ai? Có cách nào để biết được ai là tiên tri thật, ai không phải?

Cây tốt, trái tốt

Có một cách rất đơn sơ mà không sợ sai lầm. Đó là đừng để cho những lời nói hay nói khéo kia mê hoặc mình và phải xét xem đâu là hậu ý. Đó là để mắt kỹ coi xem những nhà “giảng thuyết” ấy sống điều họ giảng như thế nào. Ta còn phải kiểm chứng cụ thể để biết những lý thuyết hay ho kia gây được những hiệu quả thực tiễn nào

Cây tốt thì sinh trái tốt. Ý tưởng tốt chỉ có thể dẫn tới những hành vi tốt. Tiên tri thật thì giúp con người sống hạnh phúc hơn, hiệp nhất hơn, phát triển hơn. Nếu thực hành điều họ dạy chỉ làm ta chia rẽ, dẫn đến hận thù thay vì yêu thương, gieo rắc bạo lực và ương ngạnh thay vì hiền từ và hiểu biết, thì rõ ràng là chúng ta phải xem xét lại những vị tiên tri giả này. Cứ xem hoa trái của họ thì biết được ai là tiên tri tốt, ai là tiên tri giả. Không có gì đơn giản hơn vậy.

SUY NIỆM 5: HÃY TRỞ NÊN “QUẢ TỐT” (Mt 7, 15-20)

Nhiều người tỏ ra bị sốc khi nghe câu tuyên bố của Đức Giêsu: “… cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt”. Thật ra, trong thực tế, vẫn có nhiều người “gần mực mà không đen”, hay “gần đèn mà chẳng rạng”!

Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu nói ở đây đó là hãy biết cách nhận định khôn ngoan chứ không phải xét đoán hời hợt hay mang sẵn lòng hận thù hoặc tính kiêu ngạo. Nhận định tức là căn cứ vào kết quả để biết con người một cách khách quan. Tiêu chuẩn là: “Xem quả biết cây”.

“Cây” ở đây chính là mình, còn “hoa, lá, cành” chính là những việc đạo đức như: dâng lễ, kinh sách, cầu nguyện, tham gia các hội đoàn và những việc lành khác…. Còn “quả” ở đây chính là gương sáng, hy sinh, yêu thương, tha thứ…, tức là từ bi – bác ái, yêu Chúa hết lòng và thương yêu anh chị em cách chân thành.

Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người trong chúng ta lại có quá nhiều “hoa, lá, cành”, mà “quả” thì không có, hay có nhưng lại bị “sâu”. Tức là hăng say làm việc chỉ vì ham danh, huênh hoang, tự phụ, ích kỷ nên không thể sinh ra “quả” tốt được. Những người đó họ làm mọi việc vì thực dụng cá nhân, không vì yêu mến Chúa và tha nhân, nên họ chẳng khác gì chiếc phèng la kêu inh ỏi, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.

Thánh Phaolô cũng khuyên dạy tín hữu thành Corintô như sau: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng, giả như tôi được ơn tiên tri như tôi có đem hết tài sản mà bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng có ơn ích gì cho tôi” (x. 1 Cr 13,1-3). Vì thế: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi”.

Muốn làm được điều đó, chúng ta phải trở nên những tiên tri thật của lòng mến, chứ đừng trở nên tiên tri giả của tham sân si. Hãy trở nên con chiên hiền lành của Chúa chứ đừng trở nên sói dữ. Không được mang danh và hình ảnh của chiên, nhưng thực ra chỉ là mặt chiên, mà là dạ sói!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn gắn chặt cuộc đời của chúng con vào Chúa, để như một sự tác sinh, chúng con được trở nên giống Chúa, hầu trở nên những hoa trái tốt như lòng Chúa mong ước. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 6: Đề phòng những tiên tri giả

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Chúa Giêsu bảo các môn đệ phải coi chừng tiên tri giả: bề ngoài thì họ giả bộ hiền lành như con chiên, nhưng thật sự họ ác ôn như sói dữ. Muốn biết họ thật giả, cần phải xem cách sống họ có phù hợp với giáo huấn của Chúa không? Vì cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu. Cũng vậy, người tốt thì lời nói việc làm của họ cũng tốt, còn kẻ bê tha thì lời nói việc làm của họ cũng bê bối. Vì lòng đầy tràn thì sẽ thố lộ ra bên ngoài bằng lời nói, việc làm và đời sống hằng ngày.
  2. Lời Chúa hôm nay dạy cách nhận định khách quan. Nhưng trước hết ta cần lưu ý  rằng lời dạy này không mâu thuẫn với lời dạy hôm thứ hai là đừng đoán xét người khác.. Đoán xét là chỉ mới thấy một số hiện tượng đã vội kết luận và kết án. Còn nhận định khách quan là căn cứ vào kết quả để biết con người. Đoán xét dễ chủ quan, còn nhận định thì phải khách quan. Đoán xét đưa đến việc lên án người khác, còn nhận định chỉ để rút ra suy nghĩ và chọn lựa cho chính mình. Trong cuộc sống, ta không nên đoán xét nhưng phải khôn ngoan nhận định cách khách quan.

Nhận định khách quan dựa trên tiêu chuẩn “Xem quả biết cây” (Carôlô).

  1. Tiên tri theo đúng nghĩa là người nói thay Thiên Chúa, là người chỉ nói những gì Thiên Chúa truyền, và đôi khi biến cả đời mình thành sứ điệp của Thiên Chúa. Đó là trường hợp của Giêrêmia khi ông khoác vào người một cái ách và đi giữa phố chợ để gây ý thức nơi dân Israel về cái ách tội lỗi đang đè nặng trên họ. Đó cũng là trường hợp của Hôsê khi ông cưới một cô gái điếm để tố cáo sự bất trung của dân chúng.

Tiên tri giả là người nhân danh Thiên Chúa để nói những gì không phải là của Chúa và có cuộc sống không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Chúa Giêsu đã so sánh tiên tri giả với một thứ cây xấu, cây xấu chỉ có thể sinh trái xấu, và người ta có thể xem quả để biết cây.

  1. Để phân định ai là tiên tri giả, ai là tiên tri thật, chúng ta hãy dựa vào tiêu chuẩn này: Có tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa như đức tin tông truyền từ các Tông đồ dạy không?  Càng ngày càng xuất hiện nhan nhản những kẻ xưng mình là “thị nhân”, là “con gái yêu”, là tiên tri thật”, là “được Chúa sai đi” rồi tự cho mình được “mạc khải” nhưng thực tế lại rao truyền điều đi ngược lại với đức tin tông truyền mà Chúa Giêsu giao cho các Tông đồ truyền lại cho Giáo hội. Chẳng hạn, trong những năm gần đây có cái gọi là “sứ điệp từ trời” của một phụ nữ tự xưng là “con gái yêu” của Chúa, rao truyền những điều nghịch đức tin, dựa theo những con số tượng trưng trong Thánh Kinh rồi giải thích theo nghĩa đen, lên án Giáo hội trong công đồng Vatican II, bất phục và không tin vào sự kế vị hợp pháp của Đức Thánh Cha… Như thế, chính cái gọi là sứ điệp ấy tự mâu thuẫn với lời Chúa dạy (Hiền Lâm).
  2. Người Kitô hữu nhờ phép rửa cũng tham dự vào chức vụ tiên tri của Đức Kitô. Một cách nào đó, qua ngôn từ và hành động, cuộc sống của họ cũng phải là một sứ điệp của Thiên Chúa cho những người chung quanh. Nếu cuộc sống người Kitô hữu không đủ sức là một sứ điệp của Thiên Chúa, thì hẳn người đó cũng có thể bị coi là một tiên tri giả. Như vậy, tiên tri giả hay Kitô hữu giả là người thiếu sự thống nhất hòa hợp giữa niềm tin và cuộc sống. Người Kitô hữu giả là người mang danh hiệu Kitô, nhưng lại không sống những cam kết của mình. Đó là người chỉ đóng khung niềm tin của mình trong bốn bức tường nhà thờ, mà không thể hiện niềm tin ấy trong cuộc sống hằng ngày qua những gặp gỡ với tha nhân. Đó là người không muốn sống như Đức Kitô, nhưng chỉ buông theo con người cũ của những xu hướng tội lỗi (Mỗi ngày một tin vui).
  3. Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bầy một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.

Về vấn đề này, cha ông chúng ta đã có kinh nghiệm và thường nói:

Mua cá thì phải xem mang,

Mua bầu xem cuống, mới toan khỏi lầm.

Con người muốn biết thâm tâm,

Nhìn vào công việc, chẳng lầm mảy may.

  1. Truyện: Xem quả biết cây.

Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước, xa gần ai ai cũng biết tiếng. Vua Trang Vương thấy thế vời lại hỏi:

– Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?

Người xem tướng thưa rằng:

– Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem “bạn người ta” mà biết được người ta hay hoặc dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy họ chơi với những người bạn hiếu, đễ, huấn, cần, biết giữ phép nước thì thần đoán người ấy là người hay, thân tất một ngày vẻ vang, nhà tất một ngày thịnh vượng.

Như thần xem cho quan lại, mà thấy chơi với những người bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một lợi ích.

Nếu thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần thì có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc lỗi có nhiều người can ngăn thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trị yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục. Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay hay dở.

Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ liền kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở cường thịnh nhất đời Chiên Quốc.

Chúng ta tự hỏi xem bạn bè chung quanh chúng ta là những người như thế nào? Từ đó mà chúng ta biết mình là ai?

Suy Niệm 5: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Xem quả thì biết cây. Định luật đó được Chúa Giêsu áp dụng cho hành vi của con người. Việc làm tốt cho thấy người tốt, việc làm xấu biểu lộ một con người xấu. Thưởng phạt sẽ tùy đó mà định đoạt.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước mặt Chúa, mọi hành vi của con đều được phơi bày một cách trung thực, hoặc đó là một việc tốt, hoặc đó là một việc xấu. Các việc làm của con đều biểu lộ con người thật của con. Qua ví dụ về cây vả, Chúa muốn con trở nên người tốt, sống tốt, sống ngay lành, để hoa quả cuộc đời con là những trái ngon, quả ngọt.

Với kinh nghiệm thông thường về trồng cây, con biết rằng muốn có trái ngon, quả ngọt, người làm vườn phải tốn bao công sức để phun thuốc, cuốc xới, bón phân, tưới tắm. Cũng vậy, để cho cuộc đời con được tốt đẹp, con cũng cần rất nhiều công chăm sóc. Là một học sinh, con sẽ phải hy sinh các thú giải trí để chăm chú vào việc học tập. Là người công nhân, con sẽ phải thể hiện tốt vai trò và trách nhiệm của bậc mình. Là người Kitô hữu, con sẽ phải sống tốt ơn gọi của mình theo tinh thần phúc âm.

Lạy Chúa, tất cả những điều ấy, sao con thấy nặng nề, khó khăn, cực nhọc, và có lúc con đã đặt ra câu hỏi: “Tại sao lại phải phấn đấu như vậy?”. Lời Chúa hôm nay đã đem lại cho con câu trả lời: “Muốn có quả tốt, đòi hỏi cây phải tốt; không thể có quả tốt nơi cây xấu được!”

Xin Chúa cho con biết xác tín vào Lời Chúa dạy để đời con không ngừng sống tốt trước mặt Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng”.

Suy Niệm 6: Nhận định khách quan

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Lời Chúa hôm nay dạy cách nhận định khách quan. Nhưng trước hết ta cần lưu ý rằng lời dạy này không mâu thuẫn với lời dạy hôm thứ hai là đừng xét đoán người khác. Đoán xét là chỉ mới thấy một số hiện tượng đã vội kết luận và lên án. Còn nhận định khách quan là căn cứ vào kết quả để biết con người. Đoán xét dễ chủ quan, còn nhận định thì phải khách quan. Đoán xét đưa đến việc lên án người khác, còn nhận định dễ đưa tới suy nghĩ và chọn lựa cho chính mình. Trong cuộc sống ta không nên xét đoán nhưng phải khôn ngoan nhận định một cách khách quan.

Nhận định khách quan dựa trên tiêu chuẩn “Xem quả biết cây.”

Suy gẫm

  1. Hãy xem “cây” đạo đức của chính bản thân mình. Hoa lá cành là những việc dự lễ, đọc kinh, cầu nguyện, lời tôi nói và dạy người khác. Còn “quả” là lòng yêu mến chân thành đối với Thiên Chúa và tha nhân thể hiện qua việc bác ái, là cách ứng xử của tôi trong những lúc khó khăn, là cách tôi lựa chọn. Phải chăng tôi là một cây hoa lá cành rất xum xuê mà “quả” thì không có được bao nhiêu.
  2. Ta hãy nhớ bài ca bác ái của Thánh Phaolô: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng, giả như tôi được ơn tiên tri như tôi có đem hết tài sản mà bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng có ơn ích gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3).
  3. “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong họ là sói dữ tham mồi” (Mt 7, 15).

Hồi lãnh nhận Bí tích rửa tội để trở thành người Kitô hữu, tôi được tham dự vào chức vụ: Tư tế, Vương Giả và Ngôn Sứ của Đức Kitô.

Một khi mang trong mình chức vụ Ngôn Sứ, tôi phải truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa cho những người chung quanh qua lời nói, hành động và cuộc sống của tôi.

Lắm lúc tôi chỉ là một tiên tri giả. Đó là lúc tôi không hòa hợp được niềm tin vào cuộc sống; mang danh Kitô nhưng không sống theo những cam kết của mình; đóng khung niềm tin của mình trong bốn bức tường Nhà thờ thay vì thể hiện niềm tin ấy qua những tiếp xúc hằng ngày với tha nhân.

Giờ đây, Lạy Chúa, xin giúp chúng con trở thành những ngôn sứ đích thực của Chúa, luôn biết nói những điều Chúa truyền dạy và sống những điều đó.

  1. Một cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động người khác. Đó có thể là ý tưởng nổi bật trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến trái tốt từ cây tốt. Qua kiểu nói này, hẳn Chúa Giêsu muốn nói đến những thể hiện đích thực của lòng tin: một đức tin chân thật luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Chính Ngài đã nói: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi.” Thánh Giacôbê đã lấy lại giáo huấn này khi Ngài viết “Đức tin không việc làm là đức tin chết tận gốc rễ.”

Chúa Giêsu đã tỏ ra cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên, nhưng bên trong là lòng dạ của sói dữ; họ trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước thói giả hình. Bao lâu giữa niềm tin và cuộc sống còn có khoảng cách, thì bấy lâu chúng ta vẫn còn là những kẻ giả hình: trên cây đức tin của chúng ta chỉ có những quả xấu; cuộc sống chỉ còn là những phản từ, hay nói theo ngôn ngữ quen thuộc; chúng ta làm ố danh sự đạo.

Thánh Phaolô đã nhắn nhủ tín hữu Côrintô: những người rước Mình Thánh Chúa mà vẫn tiếp tục sống trong chia rẽ và kỳ thị là những người sống trong mâu thuẫn không thể chấp nhận được, và họ rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng. Bí tích Thánh Thể không thể tách rời khỏi giới răn yêu thương: người ta không thể rước Mình Thánh Chúa mà đồng thời sống xa lạ với anh em đang bị đói khát, đau yếu, tù đày. Từ việc rước lễ phải nẩy sinh trong chúng ta sức mạnh của niềm tin với những người sống trong túng thiếu và quẫn bách.

Ước gì chúng ta luôn biết thể hiện đức tin của chúng ta bằng những hành động cụ thể. Ước gì hoa trái của đức tin chúng ta trở thành của ăn có sức nuôi dưỡng bồi bổ đối với những người xung quanh.

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta về cách nhận định khách quan. Trước hết, ta cần lưu ý lời dạy này không mâu thuẫn với lời dạy hôm thứ hai là đừng xét đoán người khác. 

Xét đoán là chỉ mới thấy một số hiện tượng đã vội kết luận và lên án. Còn nhận định khách quan là căn cứ vào kết quả để biết nguyên nhân.. 

Xét đoán thì dễ chủ quan, còn nhận định thì khách quan. 

Xét đoán thường dễ đưa chúng ta đến việc lên ánngười khác, còn nhận định thì giúp chúng ta suy nghĩ và lựa chọn ra những bài học sống cho chính mình. Trong cuộc sống, ta không nên xét đoán nhưng phải khôn ngoan nhận định một cách khách quan.

Nhận định khách quan dựa trên tiêu chuẩn “Xem quả để biết cây”.

Cha Ông chúng ta thường nói:

 “Mua cá thì phải xem mang,

Mua bầu xem cuống, mới toan khỏi lầm.

Con người muốn biết thâm tâm,

Nhìn vào công việc, chẳng lầm mảy may”

Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước, xa gần ai ai cũng biết tiếng. Vua Trang Vương thấy thế vời lại hỏi: 

– Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?

Người xem tướng thưa rằng: 

– Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem bạn người tamà biết được người ta hay hoặc dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy họ chơi với những người bạn hiếu, đễ, huấn, cẩn, biết giữ phép nước thì thần đoán người dân ấylà người hay, thân tất một ngày vẻ vang, nhà tất một ngày thịnh vượng. 

Như thần xem cho quan lại, mà thấy chơi với những người bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một lợi  ích. 

Như thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần thì có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc lỗi có nhiều người can ngăn thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trị yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục. Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay hoặc dở. 

Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ liền kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở thành cường thịnh nhất đời Chiến Quốc. 

Chúng ta tự hỏi xem bạn bè chung quanh chúng ta là những người  như thế nào? Từ đó mà chúng ta biết mình là ai? 

  1. Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Độ là cha Anthony de Mello có kể câu chuyện dụ ngôn: Hai vợ chồng kia lấy nhau đã nhiều năm mà không được một đứa con nào cho vui cửa vui nhà. Năm ấy có một vị tư tế đến thăm, ông này đã được họ giúp đỡ nhiều lần. Sau khi đã cho vị tư tế ăn uống no nê, hai vợ chồng đã xin với ông: 

– Khi ngài lên Đền thờ, làm ơn cầu nguyện với thần cho vợ chồng tôi có được đứa con. 

Sau đó, vị tư tế lên đền thờ. Ông cầu nguyện cho vị ân nhân như sau: 

– Tâu lạy Thần Linh, vợ chồng người đó rất tử tế với con, xin ngài thương xót họ và cho họ có con để cho vui cửa vui nhà. 

Vị thần trả lời một cách nghiêm nghị và dứt khoát: 

– Theo như số phận đã định, thì gia đình đó không bao giờ có con.  

Năm năm sau, vị tư tế đó lại lên đường đi hành hương một lần nữa và cũng dừng lại ở gia đình ấy. Thấy có hai đứa bé đang nô đùa trước cổng nhà, ông hỏi:

– Con ai vậy? 

Và người cha đáp: 

– Con chúng tôi đấy.

Thấy vị tư tế bỡ ngỡ, người đàn ông nói: 

– Năm năm trước, khi ngài từ biệt chúng tôi thì có một vị nổi tiếng thánh thiện đã đến làng này, chúng tôi đón tiếp ông, ông đã chúc lành cho hai vợ chồng chúng tôi và những đứa bé này là kết quả của sự chúc lành đó. 

Nghe thế vị tư tế hối hả lên Đền thờ và trách vị thần: 

– Tại sao ngài đã bảo tôi là số họ không con, mà bây giờ họ có hai đứa? 

Vị thần nghe xong thì cười và nói: 

– Có lẽ một thánh nhân nào đã làm như thế, các thánh nhân có thể làm thay đổi số mệnh người đời.

Mẹ Têrêsa nói: “Hãy cố gắng làm sao để cho ân sủng Chúa tác động trong linh hồn chúng ta, bằng cách chấp nhận tất cả những gì Ngài trao ban cho và dâng cho Ngài tất cả những gì Ngài muốn lấy đi. Sự thánh thiện đích thực hệ tại ở chỗ thi hành Thánh Ý của Thiên Chúa với nụ cười trên môi”.

 Vâng, cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác. Một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động mọi người. Chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện, tốt lành để đem lại những hoa trái tốt đẹp cho gia đình chúng ta, cho giáo xứ chúng ta. Trái tốt sinh từ cây tốt; cây tốt sinh trái tốt là lẽ đương nhiên.

 Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên những nhân chứng cho tình yêu Chúa. Amen.

THỨ NĂM TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt 7, 21-29

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không phải tất cả những ai nói với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa”, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: “Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: “Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta”.

“Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn”.

Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.

SUY NIỆM 1: Xây trên nền đá

Suy niệm:

Nếu ai trong cộng đoàn các Kitô hữu chúng ta

có khả năng nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là dùng quyền năng của Ngài,

để nói tiên tri, để trừ quỷ hay làm nhiều phép lạ (c. 22),

chắc chúng ta sẽ tin ngay người đó là môn đệ đích thực của Đức Giêsu.

Người đó dĩ nhiên phải là người tốt lành, thánh thiện, đáng tin,

vì chỉ ai là người của Chúa mới làm được những điều lạ lùng đó.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng vội kết luận.

Làm được những điều Chúa đã làm như trừ quỷ hay chữa bệnh

chưa chắc chắn đã là người môn đệ chân chính.

Những kết quả hoành tráng trên vẫn chưa đủ để biết cây (Mt 7, 16).

Cả những ai thưa với Thầy Giêsu: Lạy Chúa! lạy Chúa!

cũng không hẳn sẽ được vào Nước Trời (c. 21).

Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn quan trọng khác để nhận định.

Đó là chính cuộc sống của người môn đệ đó.

“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời…” (c. 21).

Ý muốn ấy được giải thích và diễn tả qua “những lời Thầy nói đây” (c. 24).

Vậy tiêu chuẩn chắc chắn để nhận ra người môn đệ thật

đó là xem người đó có sống đúng tinh thần của Đức Giêsu không,

có làm điều Ngài dạy qua Bài Giảng trên núi không.

“Những kẻ làm điều gian ác” ở đây là những người đã nghe và không làm.

Ngay cả những kẻ ấy cũng có thể làm được những điều kỳ diệu,

khiến chúng ta bị ngây ngất, say mê và ngộ nhận.

Nhưng vào ngày phán xét, mọi sự sẽ bị phanh phui.

Chúa sẽ nói với họ: “Ta không biết các ngươi. Xéo đi khỏi Ta” (c. 23).

Nước Trời không dành cho những ai bất tuân phục Ý Chúa.

Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa Cha,

nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung kính đón nhận

bằng cách sống trọn vẹn Ý Cha như một người con thảo hiền.

Không có thái độ này, thì quà có đó mà vẫn không đến tay.

Chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu quá nhiều, nhưng thực hành lại chưa đủ.

Chính vì thế khi mưa đổ xuống, gió giật, nước dâng,

ngôi nhà đời chúng ta sụp đổ dễ dàng.

Vấn đề không phải do cuồng phong và lũ lụt,

mà do nền móng của ngôi nhà, nền đá hay nền cát.

Sau một cơn bão, có những tòa nhà cổ vẫn đứng vững hiên ngang,

trong khi những ngôi nhà mới xây lại sụp đổ.

Cơn bão nói cho ta về chất lượng thật của ngôi nhà.

Có bao nhiêu cơn bão mà ngôi nhà mỗi người vẫn phải gánh chịu mỗi năm?

Có lẽ ta nên chọn một câu Tin Mừng làm nền đá cho ngôi nhà đời mình.

Và xây cả đời mình trên việc sống câu Tin Mừng ấy.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy Niệm 2: Xây nhà trên đá

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thật đáng ngạc nhiên. Và đáng sợ hãi. Những người đã từng “nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ”. Nhưng Chúa nói với họ: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”. Chúa không biết họ. Vì họ không từ Chúa mà đến. Chúa không sai họ. Họ làm điều gian ác. Vì làm do lòng kiêu ngạo, phô trương. Vì bản thân. Không phải vì Chúa. Họ không tuân giữ Lời Chúa. Họ là những ngôi nhà xây trên cát. “Ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”.

Khi lên ngôi vua, Giơ-hô-gia-khin đã từ bỏ Lời Chúa. “Vua đã làm điều dữ trái mắt Đức Chúa hệt như vua cha”. Vì thế mà triều đại nhà vua mau chóng tàn lụi. Na-bu-cô-đô-nô-xo tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Phá huỷ đền thờ. Và các đồ thờ bằng vàng. “Vua đày Giơ-hô-gia-khin sang Ba-by-lon; vua đày mẹ vua này, các cung phi, các thái giám và phú hào trong xứ, sang Ba-by-lon. Tất cả những người có thế giá, bảy ngàn người, thợ rèn và thợ làm khoá, một ngàn người, và tất cả các binh lính” (năm chẵn). Đó là xây nhà trên cát. Sụp đổ tan tành.

Áp-ra-ham xây nhà trên đá. Vì ông luôn tuân giữ Lời Chúa. Chúa hứa cho ông một dòng dõi đông đúc. Nhưng 80 tuổi vẫn chưa có con. Ông toan chọn người quản gia làm người thừa kế. Nhưng Chúa không đồng ý. Bà Xa-rai thấy mình không có con đề nghị ông đi lại với nàng hầu A-ga của bà. A-ga có thai. Khinh thường bà chủ. Nên bà hành hạ. Đến độ A-ga phải bỏ trốn. Nàng sinh con. Nhưng Chúa không đồng ý cho Ít-ma-en thừa kế. Phải chính là con ruột của Áp-ra-ham mới được. Áp-ra-ham vẫn tin tưởng vào Chúa. Và cuối cùng lời Chúa hứa được thực hiện. Bà Xa-ra đã sinh ra I-sa-ác. Đó mới thật là dòng dõi của Áp-ra-ham. Đó là Chúa thực hiện lời hứa. Nhờ Áp ra-ham kiên trì tin tưởng vào Lời Chúa Hứa. Ông thực hành Lời Chúa. Ông trở thành ngôi nhà xây trên đá tảng vững bền. Lời Chúa hứa với ông đã được thực hiện (năm lẻ).

Xin cho con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Để khi khó khăn thử thách xảy đến, con vẫn vững vàng. Như nhà xây trên đá.

 

Suy Niệm 3: Thực thi ý Chúa

Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lần phát biểu: Tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa nở trên môi, tôi liền nói với họ: “Các chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi”.

Mẹ Têrêsa quả đã sống cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng công việc mà Mẹ và các nữ tu của Mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội, mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống và rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan. Do đó, thật mâu thuẫn khi Tin Mừng được sống với bộ mặt ủ rũ, khi Tin Mừng được loan báo với cung giọng buồn thảm.

Tin Mừng phải được thể hiện trước tiên qua cuộc sống của người rao giảng Tin Mừng, đó là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu bật những đòi hỏi ấy qua dụ ngôn hai ngôi nhà: ngôi nhà xây trên đá thì vững chắc, dù mưa sa bão táp cũng không thể làm lay chuyển, đó là hình ảnh người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, họ không chỉ lắng nghe lời Ngài, mà còn đem áp dụng vào cuộc sống. Ngôi nhà xây trên cát, đó là hình ảnh của những người nghe lời Chúa, nhưng không đem ra thực hành.

Tin Mừng vốn không chỉ được lắng nghe cho vui tai, mà là để được thực thi; chân lý không chỉ được hiểu biết suông, mà để được thực thi; bác ái không chỉ trên môi miệng, nhưng phải được thực thi bằng những việc làm cụ thể. Tựu trung đây cũng là sự nối dài và đòi hỏi của mầu nhiệm Nhập Thể trong đời sống đức tin. Thiên Chúa Nhập Thể làm người không chỉ là một chân lý trừu tượng, Ngài đã trở thành con người bằng xương bằng thịt; Ngài không phải là khách bàng quan đứng ngắm nhìn lịch sử nhân loại, Ngài đã nhập cuộc làm một với nhân loại, Ngài không rao giảng Thập giá như một lý thuyết suông. Ngài đã thực sự vác lấy Thập giá và đón nhận mọi khổ đau của con người. Do đó, tuyên xưng Thiên Chúa Nhập Thể làm người không phải chỉ là tuyên xưng một chân lý, mà thiết yếu là đi vào con đường Nhập Thể của Ngài.

Không thể có Kitô giáo và niềm tin Kitô mà không có dấn thân; không thể là môn đệ Chúa Kitô mà không đi lại con đường của Ngài; không thể rao giảng Tin Mừng bằng những lời nói suông; không thể sống niềm tin Kitô mà không mỗi ngày cố gắng nên hoàn thiện như Cha trên trời. Chúng ta vốn thán phục những người làm nhiều, hơn là những kẻ nói nhiều. Nói mà không làm là kẻ dối trá, nói một đàng nhưng làm một nẻo là kẻ lừa gạt. Tất cả rồi cũng qua đi, chân lý chỉ thực sự chiếu tỏ bằng cuộc sống trung thực mà thôi.

Nguyện xin Chúa gia tăng ý thức ấy nơi chúng ta. Xin cho niềm tin chúng ta tuyên xưng trên môi miệng được diễn đạt một cách sống động qua cuộc sống mỗi ngày. Xin cho đức ái luôn chiếu tỏa bằng những hành động cụ thể, để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Những người không thực hành đạo

“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt. 7, 21)

Để xứng đáng là một Kitô hữu đích thực, tin vào những điều Hội thánh dạy, không đủ. Đọc Phúc âm, cảm mến giáo huấn của Chúa, và tâm trí, ngay cả tự thâm tâm, vẫn thiết tha trìu mến Phúc âm và lời Chúa dạy, vẫn không đủ. Phải hơn thế nữa: thực hành điều mình tin, tức là đưa đạo vào cuộc sống, đó mới là điều căn bản. Thế mà có nhiều Kitô hữu vẫn vỗ ngực nói rằng mình tin Chúa, nhưng họ lại không sống đạo như vậy. Họ là những người không thực hành đạo.

Những người giữ đạo ngày Chủ nhật

Khi chúng tôi nói những người không sống đạo, chúng tôi nghĩ ngay đến những người không đi lễ ngày chủ nhật. Cách họ giữ đạo như vậy, rõ ràng là có vấn đè. Quả là điều bất thường, khi đã đi theo một Giáo hội, mà lại không hề tham dự một buổi hội họp nào của Giáo hội ấy. Nhưng trong số những người không đi lễ ngày chủ nhật này, còn có nhiều người vẫn thực hành đạo trong đời sống, và thực hành tốt. Họ yêu mến những người thân cận. Họ vẫn cầu nguyện Chúa; khi phải lựa chọn việc phải làm, thái độ phải cư xử, họ thường lấy Phúc âm để soi sáng cho những lựa chọn của mình, và đôi khi họ làm còn nhiều hơn và tốt hơn cả những người vốn thấy có mặt đều đặn ở nhà thờ.

Còn những người khác

Những người đến nhà thờ ngày chủ nhật, người ta gọi họ là những người còn giữ đạo. Đúng. Nhưng điều đáng nói ở đây là họ chỉ tới để dự lễ mà thôi. Chỉ có thế thôi. Ở bên ngoài nhà thờ, họ cũng chỉ hoàn toàn là những người không sống đạo vậy.

Những Kitô hữu đi lễ ngày chủ nhật mà không thực hành Phúc âm thì cùng chính là những người không sống đạo mà còn tệ hơn. Mỗi ngày chủ nhật, họ có kêu cầu Chúa “Lạy Chúa, lạy Chúa”, cũng sẽ vô ích thôi. Chúa sẽ không nhân từ với họ. Người sẽ nói với chính họ rằng: “Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!”.

Chúng ta vẫn thường đi lễ. Tốt lắm. Nhưng ta có phải là những người sống đạo thực sự không?

SUY NIỆM 5: NGƯỜI KHÔN XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ (Mt 7, 21-29)

Xem lại CN 9 TN A, thứ Năm tuần 1 MV.

Gần cầu Bình Triệu, quận Thủ Đức – Sài gòn, nơi ven sông có một căn nhà biệt thự rất đẹp. Người người nhìn thấy đã trầm trồ, khen ngợi công trình tuyệt mỹ này. Hai tháng sau, người dân thấy lạ kỳ đến ngỡ ngàng vì không còn thấy nó đâu nữa! Hóa ra, trong hai tháng vừa qua, căn nhà mà người ta đã từng thích thú, giờ đây, nó đã bị nước cuốn trôi ra xa bờ khoảng 15m. Phải chăng ngôi nhà này móng không vững, hay ở dưới đã có dòng nước xoáy ngầm lớn làm cho đất bị sụt?

Hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người xây nhà. Nếu người xây nhà khôn ngoan, kinh nghiệm thì sẽ xây nhà mình trên nền đá, còn nếu thiếu khôn ngoan và hiểu biết thì sẽ xây nhà trên những thứ tạm bợ. Tiếp theo, Ngài đưa ra hình ảnh của những trận mưa lớn và nước dâng. Hậu quả là những ai xây nhà trên nền đá sẽ vững vàng, còn xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành.

Hình ảnh của người xây nhà trên đá chính là hình ảnh của những người trung thành với giáo huấn của Chúa và tuân theo. Họ gắn bó ngôi nhà cuộc đời của họ trên nền tảng Lời Chúa, gắn bó trong Chúa, nên không có gì và không ai có thể phá đổ được họ.

Còn hình ảnh những người xây nhà trên cát, chính là những người làm việc đạo đức vì hình thức, chiếu lệ, chứ không dựa trên nền tảng Lời Chúa, vì thế họ là những người thất bại tan tành. Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng nói về những hạng người giả hình này như sau: “Ðường Hy vọng dài thăm thẳm, Con đừng làm ‘Thánh lâm thời’: Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (ÐHV. 44).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết gắn bó cuộc đời của mình trên nền tảng Lời Chúa chứ không phải thuần túy qua công việc của Chúa. Như thế, chúng con sẽ đứng vững ngay cả khi thử thách dồn dập đến với chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Kéo dài lời cầu nguyện vào trong cuộc sống

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Muốn vào Nước Trời phải biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong cuộc sống hàng ngày. Đó mới là người khôn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chẳng ai dại dột chọn bãi cát để xây nhà. Tuy thế, nhiều khi con lại dại dột nghe Lời Chúa mà chẳng thực thi. Người khôn khi xây nhà biết đặt đá làm nền để căn nhà vững vàng, an toàn và bền lâu. Khôn ngoan là thế: tốn tiền nhưng không tốn tiền vô ích; nghe Lời Chúa nhưng không nghe vô ích, biết thực thi Lời Chúa dạy.

Lạy Chúa, hằng ngày Chúa ban cho con những vật liệu thiêng liêng là Lời Chúa. Xin thêm ơn khôn ngoan cho con, đừng để những vật liệu quý giá đó trở nên vô ích, đừng để lòng thương của Chúa nên phí phạm nơi con, đừng để công lao nghe Lời Chúa nên uổng công.

Chúa dạy con: “Không phải cứ thưa: lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời”. Con hiểu rằng dù đọc kinh cho dài, nghe lời Chúa hằng ngày, mà con chẳng thương nhau: cứ cãi lộn, cứ trộm cắp, cứ đổ vạ cáo gian, cứ nói xấu nhau…, thì chưa có gì để bảo đảm cho con được vào Nước Trời. Xin Chúa giúp con biết kéo dài lời cầu nguyện vào trong cuộc sống, và biết áp dụng luật Tin Mừng vào cách ăn nết ở của con.

Nước Trời là nơi Chúa tình yêu ngự trị và là nơi quy tụ những người biết sống yêu thương. Xin cho con biết luyện tập yêu thương mọi ngày để con nên người đầy tớ khôn ngoan, đáng được vào dự hội yêu thương thiên đàng. Amen.

Ghi nhớ: “Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát”.

Suy Niệm 7: Đức Kitô là đá tảng vững vàng

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đầu tháng 5/2009, cơn bão Nargis đổ bộ vào châu thổ Irrawaddy của Miến Điện (Myanma) với những cơn lốc xoáy làm nước dâng lên sau bão với mức 3,5 m. Nước tràn vào khu vực đồng bằng làm cho hàng triệu ngôi nhà sụp đổ và gây ra cái chết cho 78.000 người.

Theo Đài BBC, ngày 19/5/2009, ý kiến của các chuyên gia cho rằng: Châu thổ Irrawaddy của Miến Điện có nhiều nét tương đồng với đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá dễ bị thiệt hại nặng nề trong trường hợp các cơn bão mạnh cấp 14 đổ bộ vào, châu thổ rộng lớn này đa số là nhà cửa sơ sài, tạm bợ với những mái tranh, vách đất, không có nhiều các công trình kiên cố như đổ móng, cột bê tông…

Suy niệm

Chúng ta muốn xây nhà thì phải có nền móng, cột bê tông để nhà thêm vững chắc, trước phong ba bão tố, lụt lội có thể trụ vững… Cho nên, ông bà ta có dạy: “Nhà có nền ắt phải vững” (Tục ngữ).

Lời khuyên của cha ông về nhà xây trên nền vững đưa chúng ta về với bối cảnh Tin Mừng Mt 7,21-27: “Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát”. Nhà ở đây tượng trưng cho cuộc đời, tượng trưng cho ý nghĩa nơi nương thân cả cuộc sống trong Chúa. Nếu như ngôi nhà vật chất cần được xây dựng trên nền móng bê tông bền vững như đá tảng để có thể đứng vững trước phong ba, bão tố, lũ lụt…, thì cuộc sống nhân sinh cũng phải được xây dựng trên nền móng đá vững chắc, nền móng đó là niềm tin, tin vào chính Thiên Chúa. Tin tưởng vào Ngài là lắng nghe lời Ngài và đem ra thực hành như Chúa Giêsu đã dạy: “Ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá” (Mt 7,24-25). Nghe Lời Thầy đem ra thực hành là tạo nền móng vững chắc cho cuộc sống, vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Phúc cho ai nghe lời Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,28).

Tin Mừng nhắc nhớ chúng ta hãy tìm lại Đức Kitô là nơi nương náu, là nền móng để chúng ta xây cuộc đời như Thánh Vịnh đã cất tiếng ca nguyện: “Xin Chúa trở thành núi đá cho con trú ẩn” (Tv 30,3b). Xây nhà của kiếp nhân sinh trên đá là khi nghe và sống Lời Chúa, chúng ta hãnh diện xác tín vào Đức Kitô – Đá tảng. Với niềm tin mà chúng ta sống khởi sắc vui tươi. Dựa trên chính Đức Kitô không thể hoài nghi là tiến bước hy vọng trong cuộc đời, không hề thất vọng trước những chờ đợi nơi Thiên Chúa.

Xây cuộc sống của kiếp nhân sinh trên Đá tảng đó là đứng vững trong đức tin. Tất cả những hoài nghi, ngập ngừng của niềm tin đặt vững vàng trên Đá tảng – Đức Kitô – “Người là đá tảng vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân” (Tv 62,8). Chính vì thế, chúng ta đặt nền móng đời của kiếp nhân sinh nơi Đức Kitô như thánh Phaolô đã dạy: “Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Ðức Giêsu Kitô” (1Cr 3,11).

Ý lực sống: “Duy Người là Đá tảng, là ơn cứu độ của tôi,

là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng”. (Tv 62,3.7)

Suy Niệm 8: Phải thực hành Lời Chúa (Mt 7,21-27)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Tất cả lời giảng dạy và dụ ngôn hôm nay nhấn mạnh đến tiêu chuẩn của một người môn đệ đích thực… không phải cần một niềm tin trên lý thuyết, trên môi miệng… nhưng điều cần thiết nhất là phải thi hành ý của Thiên Chúa, sống theo lời Chúa Giêsu dạy. Chúng ta không thể nói rằng mình tin yêu Chúa, mà cuộc sống của chúng ta lại không theo giáo huấn của Người. Mỗi tín hữu cần xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu là ánh sáng Lời Người là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến sự sống vĩnh cửu. Ngoài Chúa Giêsu, không ai có thể cho chúng ta sự sống đích thực.

Bài Tin mừng hôm nay nói lên điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa không hệ tại ở việc tuyên xưng hay kêu cầu danh Chúa ngoài môi miệng, mà là việc thực thi ý Chúa. Thực thi ý Chúa nghĩa là đem những lời Chúa dạy trong Tin mừng ra thực hành trong đời sống. Và ai thực hành Lời Chúa thì có nền tảng vững chắc trong đức tin và lòng yêu mến.

Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người xây nhà. Nếu người xây nhà mà khôn ngoan, kinh nghiệm thì sẽ xây nhà mình trên đá, còn nếu thiếu khôn ngoan và hiểu biết thì sẽ xây nhà trên những thứ tạm bợ. Tiếp theo, Ngài đưa ra hình ảnh của những trận mưa lớn và nước dâng. Hậu quả là những ai xây nhà trên nền đá sẽ vững vàng, còn ai xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành.

Hình ảnh của người xây nhà trên đá chính là hình ảnh của những người trung thành với giáo huấn của Chúa và tuân theo. Họ gắn bó ngôi nhà cuộc đời của họ trên nền tảng Lời Chúa, gắn bó trong Chúa, nên không có gì và không ai có thể phá đổ được họ.

Còn hình ảnh những người xây nhà trên cát, chính là những người làm việc đạo đức, chiếu lệ, chứ không dựa trên nền tảng Lời Chúa, vì thế, họ là những người thất bại tan tành. Đức Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận cũng nói về những hạng người giả hình này như sau: ”Đường Hy vọng dài thăm thẳm, Con đừng làm “thánh lâm thời”: Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (Đường Hy vọng, 44).

Căn nhà bền vững, chắc chắn trước thời tiết khắc nghiệt qua năm tháng là nhờ được xây trên một nền móng vững chắc. Thời Chúa Giêsu, cái nền móng ấy thường được xây bằng đá tảng. Chúa Giêsu dùng hình ảnh đời thường quen thuộc ấy để áp dụng trong đời sống đức tin. Với Ngài, nền móng đá tảng cho cuộc đời cá nhân, gia đình, cộng đoàn, xã hội là nghe và thực hành Lời Chúa: thi hành ý muốn của Chúa Cha, qua lời giảng dạy của Chúa Con. Thiếu việc thực hành Lời Chúa, chúng ta đang xây dựng ngôi nhà cuộc đời mình trên cát, không nền móng: ngôi nhà ấy sẽ nhanh chóng sụp đổ trước khó khăn, thử thách. Các gia đình ngày nay có nhìn nhận và giải quyết mọi vấn đề của mình dưới ánh sáng Lời Chúa, mới có thể bền vững trước những khó khăn, thách đố (5 phút Lời Chúa).

Người Kitô hữu phải sống theo căn tính của mình là “Sống đạo”. Sống đạo rất cần sự thể hiện ra thực tế, nhưng không ít những người tự cho mình “giữ đạo tại tâm”, không còn tham gia các hoạt động sinh hoạt Công giáo, không tham dự các bí tích, nhất là Thánh lễ, bỏ xưng tội rước lễ lâu năm… hành động ngược lại với giáo huấn của Chúa và Hội thánh. Đặc biệt, vì lo bon chen cuộc sống hằng ngày, chúng ta quên mất sự hiện diện của Chúa, bỏ bê các việc đạo đức.

Điều mà chúng thường gặp phải đó là “ngôn hành bất nhất”, nói mà không làm, hoặc làm nửa vời cho qua lần chiếu lệ. Nói lời Chúa thì hay mà sống thì chẳng ra gì. Điều này được Chúa ví như xây nhà trên cát, nghĩa là không có móng, là mất gốc, mất căn bản của niềm tin, vì không bám sâu vào Lời Chúa, gặp khi thử thách xảy đến sẽ buông xuôi ngã lòng…

“Lạy Chúa, lạy Chúa”, đó là công thức cầu nguyện, đọc kinh. Chúa khẳng định rằng ngay cả việc đọc kinh cầu nguyện cũng chưa đủ để đưa tôi vào Nước trời; có một việc quan trọng hơn, thậm chí quan trọng nhất, đó là thực hành ý Chúa Cha. Muốn được thế cần phải nghe Lời Chúa và vâng theo những lời Chúa chỉ dạy.

Truyện: Phải biết vâng lời

Cách đây ít lâu, có một thuỷ thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh, bị nghiêm phạt vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt nặng đến độ dư luận dân chúng cho rằng quá khắt khe. Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong ngành hải quân đã trả lời rằng: Theo quan điểm ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng, ông cho rằng kỷ luật là biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng lệnh khống thắc mắc, và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh này.

Ông kể lại một kinh nghiệm khi cẩu chiếc tàu rất nặng đang bị biển động. Chiếc tàu hư được cặp vào tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng: “Xuống!” Tức khắc đoàn thuỷ thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chết ngay tại chỗ, nhưng thuỷ thủ đoàn đã vâng lệnh nên tất cả thoát hiểm. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Quả thật, vâng lời đã cứu mạng.

Suy Niệm 9: Thực hành những điều đã nghe

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Từ thứ Hai tuần 9 Thường Niên đến hôm nay, chúng ta lần lượt đọc bài giảng trên núi trong đó Chúa Giêsu công bố hiến chương Nước trời, rồi dạy cho những người muốn làm công dân Nước trời biết cần phải có những đức tính và những điều kiện nào. Bài Phúc Âm hôm nay là phần kết của bài giảng trên núi ấy. Trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nhắc lại một điều quan trọng cơ bản: phải đem ra thực hành những điều đã nghe:

“Không phải tất cả những ai nói với Thầy: ‘Lạy Chúa, Lạy Chúa’, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời”.

Kẻ nghe và thực hành thì giống như người xây nhà trên đá vững chắc, kẻ chỉ nghe mà không thực hành thì giống như người xây nhà trên cát.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. “Lạy Chúa, Lạy Chúa” đó là công thức cầu nguyện, đọc kinh. Chúa Giêsu khẳng địng rằng ngay cả việc đọc kinh cầu nguyện cũng chưa đủ để tôi được vào Nước trời; có một việc quan trọng hơn, thậm chí qua trọng nhất đó là thực hành ý Chúa Cha trên trời.

Hằng ngày tôi lấy làm thỏa mãn khi đã tham dự đầy đủ các giờ đọc kinh cầu nguyện.

Nay trong lúc tôi đọc kinh, cầu nguyện tôi cũng không quan tâm tìm hiểu xem ý Chúa muốn tôi làm gì.

  1. Một tu sĩ nọ sáng nào cũng thức dậy sớm để đọc kinh cầu nguyện. Nhưng một hôm ông ngủ quên. Satan đã đánh thức ông dậy và nhắc ông đọc kinh cầu nguyện. Ông ngạc nhiên hỏi lý do, Satan chỉ mỉm cười không đáp. Sau cùng ông Nhân Danh Chúa bảo Satan phải nói thật. Và Satan đã nói thật như sau:

Những ngày ông có đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông cảm thấy tự mãn và do đó không đề phòng, nên tôi dễ cám dỗ ông hơn. Còn nếu ngày nào ông quên đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông sẽ thấy ông còn thiếu sót nên trong ngày ông cố gắng sống tốt theo ý Chúa hơn, lúc đó tôi khó mà cám dỗ ông được. (Góp nhặt)

  1. Người đã đọc kinh cầu nguyện nhiều nhưng không làm theo ý Chúa thì cũng giống như xây nhà trên cát. Khi gặp hoàn cảnh thử thách khó khăn, tòa nhà đạo đức của người đó sẽ bị sụp đổ tan tành.
  2. “Ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá”. (Mt 7,24)

Bầu khí ồn ào của nhà bên cạnh tôi làm tôi chú ý:

“Mẹ nói hoài sao con không nghe, bây giờ phải ráng chịu. Thật đúng là cá không ăn muối cá ươn”.

Lát sau, tôi mới hiểu cô bé nhà bên mới thi rớt vì ham chơi, đua đòi với chúng bạn nên cô đã không nghe lời mẹ khuyên bảo, hay có nghe nhưng rồi đâu cũng vào đấy, chứng nào tật đó.

Cũng như cô bé này, tôi nghe Lời Chúa mỗi ngày nhưng tôi chẳng có để tâm thi hành.

Xin Thánh Thần Chúa xuống trên con, dạy con biết lắng nghe Lời Chúa, nhận ra Thánh ý Ngài và cố thi hành trong đời sống con. (Hosanna)

THỨ SÁU TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt 8, 1-4

Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người.

Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: “Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch”.

Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: “Ta muốn. Anh hãy lành bệnh”.

Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi.

Chúa Giêsu phán bảo anh ta: “Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết”.

 

SUY NIỆM 1: Nếu Ngài muốn

Suy niệm:

Sau Bài Giảng trên núi thì đây là phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu

trong chuỗi mười phép lạ ở chương 8 và 9 của Tin Mừng Mátthêu.

Người phong chẳng rõ từ đâu đã dám lại gần Đức Giêsu,

dù lẽ ra anh không được phép làm như thế (Lv 13, 45-46).

Ai đã nói cho anh về Ngài, ai đã dạy anh bái lạy và khấn xin?

‘Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch” (c. 2).

Một lời cầu xin mẫu mực đáng chúng ta suy nghĩ.

“Nếu Ngài muốn”: anh đặt ý muốn của Đức Giêsu lên trên ý muốn của anh.

Dù rất muốn được khỏi, nhưng anh vẫn để Ngài tự do làm theo ý của Ngài.

Chữ “nếu” thật đơn sơ, nhưng nói lên sự phó thác trọn vẹn của anh

cho ý muốn tốt lành của Đức Giêsu.

Ngài được tự do muốn hay không muốn, làm hay không làm.

Đức Giêsu không thấy mình bị áp lực phải chiều theo ý muốn của anh.

Sau này trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng dùng chữ “nếu”

khi nài xin Cha cất chén đắng cho mình.

“Lạy Cha, nếu có thể được…” (Mt 26, 39. 42).

Nhưng trong trường hợp này, Cha đã không cất chén Khổ nạn của con.

“Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”

Anh tin vào quyền năng phi thường từ nơi Ngài,

quyền năng có thể làm cho những nhơ uế trên người anh biến mất,

và da thịt anh phút chốc được lành sạch.

Khi con người tin vào Thiên Chúa như một đứa con thơ phó thác,

Thiên Chúa sẽ chọn cho con người điều tốt nhất.

Thái độ phó thác, tuy có vẻ liều lĩnh, vì Thiên Chúa có thể nói không,

nhưng thật ra lại rất khôn ngoan, vì biết mình sẽ được điều tốt hơn cả.

“Tôi muốn, anh hãy được sạch” (c. 3).

Đức Giêsu được tự do để muốn, thoải mái để bày tỏ lòng quảng đại.

Ngài chẳng những chữa lành bằng ý muốn được nói ra lời,

Ngài còn làm một điều không cần thiết và bị cấm (Lv 5, 3),

đó là đưa tay đụng đến người phong.

Cả tình yêu của Ngài diễn tả qua cái đụng nhẹ đó.

Da thịt của Ngài chạm vào da thịt không lành lặn của anh.

Ngài không bị nhiễm uế, trái lại Ngài làm cho anh được sạch.

Rõ ràng người phong ở rất gần Đức Giêsu và không làm Ngài kinh tởm.

Đức Giêsu muốn anh trở về với đời sống bình thường,

hội nhập trở lại với Đền thờ, gia đình và xã hội.

Vì thế Ngài sai anh đi trình diện với các tư tế và dâng của lễ (c. 4).

Dù không là người phong, nhưng ai trong chúng ta tránh được ô nhơ?

Ai trong chúng ta lại không có lần xin Chúa tẩy mình cho sạch?

Thân xác người phong bị tàn phá và làm cho dị dạng, đáng sợ.

Chỉ mong tâm hồn chúng ta tránh được bệnh phong.          

Cầu nguyện:

Lạy Chúa

in ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách:

những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu lời Chúa

những kẻ khát không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,

công bằng và tình thương

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương,

những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng còn trong tinh thần nữa,

bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“Điều mà ngươi làm

cho người bé mọn nhất trong anh em

là làm cho chính ta.”  (Mẹ Têrêxa Calcutta)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy Niệm 2: Tôi muốn

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người “mắc bệnh phong tiến lại, bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Bệnh phong là bệnh nan y thời ấy. Không ai có thể chữa lành. Bệnh phong giống như người chết. Vì bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người bệnh phong này có đức tin mãnh liệt. Chỉ có Chúa mới có thể chữa ông. Chúa Giê-su “giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”. Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Chúa dựng nên sự sống. Không dựng nên sự chết. Chúa muốn sự sống cho con người. Chúa giơ tay đụng vào người bệnh. Bàn tay yêu thương đụng đến chỗ đau yếu nhất. Ngón tay thần linh ban sự sống. Như ngón tay Thiên Chúa chạm vào ngón tay A-đam. Thiên Chúa ban sự sống. Kỳ diệu hơn nữa. Thiên Chúa trả lại sự sống.

Thiên Chúa muốn sự sống. Nên đã tuyển chọn Ít-ra-en. Nhưng các vua chúa lại phản bội. Làm điều dữ trước mặt Chúa. Nên đi vào con đường sự chết. Xít-ki-gia-hu cũng đi vào đường tội lỗi như vua cha. Nên dẫn đến cái chết. Cái chết của một dân tộc. Tất cả phải đi lưu đày. Chỉ còn “lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và canh tác”. Vua chết dần mòn vì “vua Ba-by-lon đâm mù mắt vua Xít-ki-gia-hu, lấy hai dây xích đồng xiềng vua lại và điệu về Ba-by-lon”. Chết cả dòng họ. Tuyệt tự. “Chúng cắt cổ những người con của vua Xít-ki-gia-hu trước mắt vua cha”. Không còn sự sống (năm chẵn).

Áp-ra-ham thờ phượng Chúa nên Chúa ban sự sống qua dòng dõi trường tồn. Ông đã nản lòng. Vì chín mươi chín tuổi mà chưa có con. Ông muốn người quản gia thừa kế. Chúa không đồng ý. Ông muốn đứa con của nữ tỳ thừa kế. “Ước chi Ít-ma-en được sống trước nhan Ngài”. Chúa cũng không chịu. Vì Chúa sẽ ban cho ông người con chính ông sinh ra. “Không đâu! Chính Xa-ra, vợ ngươi, sắp sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác. Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó; đây sẽ là giao ước vĩnh cửu cho dòng dõi nó sau này” (năm lẻ).

Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Chúa muốn ta được sống. Và sống đời đời. Nhưng sự sống chỉ có ở trong Chúa. Hãy ở lại trong Chúa. Bằng tuân giữ Lời Chúa. Như tổ phụ Áp-ra-ham. Ta sẽ ở trong sự sống. Sự sống yêu thương. Sự sống sung mãn. Sự sống trường cửu.

Suy Niệm 3: Chữa người phong cùi

Cho đến thế kỷ 20, bệnh phong cùi vẫn còn là một huyền thoại đối với con người. Một bác sĩ làm việc tại một trại Y khoa bên Ấn Ðộ đã tình cờ khám phá ra rằng người mắc bệnh phong cùi không cảm thấy đau đớn trong những tế bào đã bị vi trùng xâm nhập. Ngày nọ, ông không thể mở được cửa phòng, ông mới trao chìa khóa cho cô bé 12 tuổi. Ông không ngờ nó đã vặn chìa khóa một cách dễ dàng. Xem xét những ngón tay của nó, ông nhận thấy chìa khóa đã làm mất đi một mảng thịt trong lòng bàn tay và chạm đến xương, thế mà nó không cảm thấy đau đớn.

Nhờ khám phá này, viên bác sĩ đã giúp cho những người phong cùi biết cách đề phòng để tránh gây thương tích cho thân thể của họ. Ông đã giải phẫu những giây thần kinh của bàn tay và dạy họ cách điều khiển các cơ bắp của bàn tay. Ông cũng giải phẫu mũi của bệnh nhân để mang lại cho họ một gương mặt dễ coi hơn. Ngoài ra, ông cũng khám phá ra rằng những người mắc bệnh phong cùi dễ bị mù mắt, lý do vì họ không còn cảm nhận được đau đớn khi những chất dơ bẩn xâm nhập vào mắt, nhờ đó ông cũng giúp họ lo vệ sinh mắt một cách chu đáo hơn. Với những khám phá này, ông đã đánh đổ được huyền thoại cho rằng phong cùi là căn bệnh bất trị.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Ngài về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối với tội lỗi của con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi, Chúa Giêsu muốn nói rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật cho con người.

Sứ điệp ấy của Chúa Giêsu, trải qua các thế hệ, đã có biết bao nhiêu người chuyển đạt và thực thi cho những người phong cùi trên khắp thế giới. Những bàn tay săn sóc, những lời nói an ủi, và nhất là sự hiện diện chia sẻ bên cạnh các người phong cùi. Tất cả những cử chỉ ấy là để khẳng định với những người phong cùi rằng Thiên Chúa yêu thương họ.

Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm được rằng những đau đớn thân xác không xâu xé và đè bẹp con người cho bằng nỗi cô đơn và bị bỏ rơi. Bệnh phong cùi là tột điểm của nỗi cô đơn mà con người có thể rơi vào. Tựu trung, cô đơn cũng đồng nghĩa với vắng bóng tình yêu.

Không có cơ hội hoặc không đủ can đảm để phục vụ những người phong cùi, thì ít ra chúng ta xin Chúa cho chúng ta có thể mang lại sứ điệp yêu thương của Chúa đến mọi người, nhất là những ai đang sống trong cô đơn thử thách.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Xin làm cho con được sạch!

Khi Đức Giêsu ở tên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa một người bị phong hủi tiến lại, bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mt. 8, 1-2)

Những lời nguyện đẹp

Thời ấy những người mắc bệnh phong hủi ý thức rất rõ về thân phận hẩm hiu của mình. Người phong hủi mắc một chứng bệnh nguy hiểm, nên không ai dám đụng chạm đến người họ. Phải mang chứng bệnh khốn khổ này, nên người phong hủi buộc phải sống biệt cư bên ngoài cộng đồng xã hội, điều này còn khiến họ phải đau xót và khổ tâm hơn. Bởi vậy lời người phong hủi ấy khẩn cầu Chúa Giêsu phải là lời cầu xin rất tha thiết và chân thành, phát ra tự đáy lòng anh. Lời ấy phải là một tiếng kêu van thật, một lời cầu nguyện thật.

Biết bao lần chúng ta cũng thưa với Chúa những lời nguyện xin tương tự như của người phong hủi. “Lạy Chúa, xin làm cho chúng con được sạch. Xin rửa chúng con sạch vết nhơ tội lỗi. Xin tha thứ cho chúng con. Xin cho chúng con được ơn sám hối. Xin thay đổi lòng chúng con.”. Chúng ta có biết bao những mẫu kinh thân quen như vậy. Phụng vụ còn không ngừng đặt trên môi miệng ta những lời kinh ấy để ta nói lên, để ta ca hát nữa.

Phải là những lời nguyện chân thành

Khi ngỏ lời với Chúa như vậy, lòng ta có hoàn toàn tha thiết và chân thành không? Đó có phải là những tiếng van xin phát ra tự lòng ta không? Ta có thật sự xác tín rằng mình cần được chữa lành, cần được thanh tẩy, cần được ơn sám hối?

Để cho mình mượn những mẫu kinh đẹp đẽ kia, cứ lặp đi lặp lại những lời của người khác mà không làm cho chúng thành lời của mình, thiết tưởng quá dễ dàng. Giả vờ hay có vẻ đóng kịch phần nào, cũng quá dễ thôi. Cầu nguyện liến thoắng như con vẹt, như cái máy, mà không đặt tâm trạng của mình vào đó, cũng là quá dễ dàng. Nên chăng đôi khi thà yên lặng còn hơn là nói đi nói lại những lời mà ta chỉ mới tin một nửa? Chúa không muốn nghe những lời không phát xuất từ nội tâm ta, những lời trống rỗng. Để gặp gỡ Chúa, ta không cần phải nhiều lời, không cần cả những lời hay ý đẹp. Mà phải có những lời thiết tha, những lời chân thực. Có thế thôi.

SUY NIỆM 5: LẠY NGÀI, XIN CHO TÔI ĐƯỢC SẠCH (Mt 8, 1-4)

Có một câu chuyện thật ấn tượng về một linh mục đã trọng tuổi thuộc dòng Phanxicô. Chuyện là thế này: ngài là một linh mục rất thương người, vì thế, sau lễ truyền chức linh mục cho ngài, có một người sẵn sàng tài trợ mọi mặt để tổ chức thánh lễ tạ ơn tại quê hương cho thật “hoành tráng”. Tuy nhiên, ngài đã từ chối, và không quên ngỏ lời xin toàn bộ số tiền đó để xây nhà, khoan giếng, thuốc thang cho anh chị em bị phong cùi mà ngài đã biết đến họ cách đó vài năm trong một khu rừng sâu thẳm không một bóng người qua lại.

Tại sao họ lại có một cuộc sống khổ đến vậy? Thưa! Chỉ vì bị kỳ thị và sợ liên lụy cũng như sợ bị lây nhiễm, nên người ta đã đẩy anh chị em đó vào trong một thế giới riêng, tách biệt khỏi xã hội bên ngoài.

Hôm nay, Đức Giêsu đã chữa lành cho người phong cùi vì anh ta có lòng tin: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Tưởng cũng nên nhắc thêm: bệnh phong hủi, vào thời ấy, là một thứ bệnh ghê tởm, không có thuốc chữa mà tác hại của nó lại quá lớn và mức độ lây lan nhanh. Ai mắc thứ bệnh đó là đã cầm trong tay án tử.

Bệnh thể xác rất đau đớn, nhưng có lẽ không đau đớn cho bằng tinh thần. Người bị bệnh phong hủi bị ruồng bỏ, bệnh nhân muốn đi lại phải hô to mình bị ô uế để người khác biết mà tránh xa. Họ bị bỏ rơi ngay từ những người thân, xóm làng, xã hội và ngay cả tôn giáo thời bấy giờ.

Tuy nhiên, hình ảnh hiền từ và cử chỉ giơ tay chạm vào anh ta của Đức Giêsu hôm nay đã làm cho người phong hủi thêm niềm hy vọng, cậy trông và ấm lòng. Vì thế, anh ta đã can đảm tiến lại gần Đức Giêsu, mặc cho mọi lời dèm pha, khinh khi, nhục mạ. Anh ta tin và đi đến với Đức Giêsu. Còn Đức Giêsu đã giơ tay và chạm vào anh ta, khiếm anh ta được sạch.

Hành động này của Đức Giêsu đã xóa tan đi biết bao ngăn cách, đã trả lại cho anh một chỗ đứng trong xã hội, đã phục hồi nhân phẩm cho anh trong cuộc sống còn lại.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, một mặt biết noi gương người phong cùi, can đảm, tin tưởng và bỏ qua mọi rào cản để đến với Chúa là mối lợi tuyệt đối và duy nhất của cuộc đời. Mặt khác, cũng mời gọi chúng ta hãy suy nghĩ đến bệnh cùi tâm linh của chúng ta là những ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và ham danh, trục lợi… Đồng thời, như một lời mời gọi hãy bước theo Đức Giêsu trên con đường yêu thương, xóa bỏ ngăn cách do kỳ thị …

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tin tưởng vào tình thương của Chúa. Biết yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa, nhất là những người thấp cổ, bé họng, khổ đau, nghèo đói chung quanh chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Chúa Giêsu chữa lành người phong hủi

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Khi chữa lành người phong hủi, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài có quyền chữa lành mọi bệnh tật và giải thoát người ta khỏi tội lỗi. Ta hãy tin tưởng và kêu cầu Chúa cứu chữa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đối với chúng con, bệnh tật là một nỗi sợ. Đau đớn trên thân xác do bệnh tật gây ra thường kéo theo những khổ đau tâm hồn. Bệnh tật làm cho con thấy sự sống của thân xác mỏng manh biết bao, cuộc đời này ngắn ngủi mau qua biết bao.

Lạy Chúa, qua việc Chúa chữa lành người phong hủi, con hiểu rằng Chúa muốn con sống hạnh phúc, sống khoẻ mạnh. Ngày nay, tuy Chúa không hiện ra để làm phép lạ chữa bệnh, nhưng Chúa vẫn âm thầm hiện diện và giúp cho ngành y khoa tiến bộ, để qua đó Chúa chữa lành bệnh tật cho chúng con. Con xin tạ ơn Chúa vô cùng.

Chúa ơi, trên thế giới này có bao người mắc phải những thứ bệnh ngặt nghèo, tiền mất mà bệnh tật vẫn mang. Cũng có nhiều người quá nghèo, không đủ tiền chữa bệnh. Cuộc sống của họ lây lất khổ đau. Con nguyện xin Chúa cho họ gặp được những người có lòng tốt giúp đỡ. Con cũng nguyện xin cho các bác sĩ, y tá, là những người trực tiếp phục vụ bệnh nhân, xin cho họ có tinh thần phục vụ vô vị lợi để xoa dịu nỗi đau của nhân loại. Và con nguyện xin Chúa chữa lành những người đau ốm trong gia đình con. Xin cho chúng con được sống mạnh khoẻ an vui.

Lạy Chúa Giêsu là Chúa của con, con xin phó thác trọn vẹn đời con trong tay Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch”.

Suy Niệm 7: Chúa chữa lành người phong

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Bệnh phong cùi là một loại bệnh do vi trùng lây nhiễm nghiêm trọng. Đây là một trong các căn bệnh cổ xưa của nhân loại khiến cho con người rất sợ hãi và khinh rẻ những người bị bệnh. Mãi vào năm 1873, bác sĩ Hansen khám phá ra vi trùng phong cùi, vì thế mà người ta đặt tên là vi trùng Hansen. Bệnh phong có thể bắt đầu bằng những mụn nhỏ và lở loét, những chỗ ung lở thì có mùi tanh hôi. Ở trên mặt thì lông mày rụng hết, mặt lộ ra, thanh quản bị lở, giọng nói trở nên khàn đặc, hơi thở khò khè… Vi trùng Hansen hủy hoại các dây thần kinh chung quanh nhiều phần trong cơ thể đặc biệt là chân tay, khiến cho chúng mất cảm giác, rồi gặm nhấm từ từ khiến cho chúng bị biến dạng rữa nát và rơi rụng. Trung bình bệnh này phát triển trong 9 năm, cuối cùng điên loạn, hôn mê và chết. Hiện nay bệnh phong cùi có thể chữa trị hữu hiệu bằng những loại y dược đặc trị.

Tuy nhiên y khoa vẫn chưa có thuốc chủng ngừa chống bệnh phong, nhưng kiểm soát bằng cách chặn bệnh và chữa sớm. Hiện nay trên thế giới đã có khoảng 15 đến 20 triệu người bệnh phong cùi.

Ở Việt Nam có 21 trại phong, số bệnh nhân phong cùi tiềm tàng có khoảng từ 120.000 đến 150.000.

Suy niệm

Với bệnh phong cùi, dân Do Thái từ xa xưa cho tới gần đây (khi chữa trị được bệnh phong) tin rằng chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống hay chính Ngài ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như Môisê (x. Ds 12,9-14; Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (x. 2V 5,9-14). Vì vậy người ta còn có thể chờ đợi Đấng Mêssia (x. Mt 11,5) có thể đến cứu chữa căn bệnh khủng khiếp này.

Cho nên, người phong cùi trong Tin Mừng nghe danh tiếng Đức Giêsu là Đấng Mêssia thay vì tránh xa như Luật quy định, anh lại gần và khẩn xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Anh cùi có một niềm tin tưởng phi thường vào Chúa Giêsu khi anh ta gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn chỉ có nơi Đấng đến từ Thiên Chúa. Trông chờ Đấng có quyền năng từ Thiên Chúa và Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa: Chỉ cần Người muốn điều ấy được thực hiện.

Trước lời cầu xin của anh phong hủi, Ðức Giêsu không thể làm ngơ vì nỗi khao khát được sạch của anh. Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta – người cùi, Luật cũng đã cấm như thế. Ngài không sợ mình bị lây nhơ… Ngài phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm khi Ngài đụng chạm đến người phong hủi, Ngài muốn phá bỏ bức rào ngăn cách giữa người bệnh và người lành bằng tấm lòng bao dung trong yêu thương.

Khi lành bệnh, bệnh nhân được giới thiệu đến các thầy tư tế để được chứng nhận lành bệnh và gia nhập lại vào xã hội, như mọi người khác và không bị mọi người xa tránh nữa…

Bệnh phong cùi cho đến hôm nay vẫn bị người đời cô lập phải sống tách biệt khỏi xã hội. Các nhà tu đức học và linh hướng luôn coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng, cũng khiến con người bị cô lập hoá về đời sống thiêng liêng. Tội làm cắt lìa khỏi Thiên Chúa, sự cắt lìa này làm họ trở nên như một cành nho khô héo lìa cây nho, như một bàn tay đứt lìa khỏi cơ thể, làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người anh chị em. Vì sự cắt lìa này con người không thể nhận được sự sống thiêng liêng của Thiên Chúa. Thân phận của người sống trong tội còn tệ hơn cả thân phận người phong hủi.

Như người bệnh phong trong Tin Mừng hôm nay nhận biết rất rõ tình trạng bệnh tình của mình, khao khát được lành sạch và tìm đến với Chúa Giêsu – Đấng Mêssia mà anh tin là Đấng mang quyền năng và xin được tẩy sạch, chúng ta cũng chạy đến với Đức Kitô xin thanh tẩy chúng ta khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi vốn làm chúng ta phong cùi về tinh thần thiêng liêng… qua bí tích giải tội.

Ý lực sống:

“Con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.

 Con tự nhủ: Nào ta đi thú tội với Chúa, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con”. (Tv 32,5)

Suy Niệm 8: Chúa chữa người phong cùi (Mt 8,1-4)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Trước lời cầu xin của anh phong cùi, Chúa Giêsu không thể làm ngơ vì nỗi khao khát được sạch của anh. Người đã đụng chạm đến anh và chữa lành mà không sợ mình bị nhiễm uế theo quan niệm người Do thái thời bấy giờ. Điều đó chứng tỏ Chúa Giêsu có quyền giải thoát con người khỏi tội lỗi. “Sạch” ở đây không chỉ có nghĩa là khoẻ về phần xác, mà còn được hiểu là sự đổi mới trong tâm hồn nữa.

Trong những chuyến đi diễn thuyết để kêu gọi giúp đỡ những người phong cùi trên khắp thế giới, vị đại ân nhân của họ là Raoul Folereau thường kể câu truyện như sau: Tại một thị trấn nọ, có một người đàn ông được mọi người yêu mến bỗng ngã bệnh. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ nghi ngờ ông bị bệnh phong cùi. Từ đó, người ta không còn thấy ông ra đường nữa, và ngay cả trong nhà, ông cũng không còn được đi lại tự do nữa. Gia đình ông đã giam ông trên giường, khung trời còn lại của ông chính là tấm mùng. Một ngày nọ, người đàn ông trốn ra khỏi nhà, nhưng đã bị bắt lại. Và rồi một lần nữa, ông đã trốn thoát được, không phải để được sống tự do, mà là để tự vẫn. Người ta đưa xác ông đến giảo nghiệm, và kết quả cho thấy ông không hề mắc bệnh phong cùi.

Kể lại câu truyện trên đây, Raoul Folereau muốn nêu bật nỗi khổ tâm của những người mắc bệnh phong cùi. Nỗi đau đớn trong thể xác có lẽ chỉ là một phần nhỏ so với sự ruồng bỏ, mà xã hội ở bất cứ thời đại nào cũng dành cho người phong cùi.

Hôm nay, Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người bị bệnh phong cùi vì anh có lòng tin. Anh tiến lại bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Bệnh phong là bệnh nan y thời ấy. Không ai có thể chữa lành. Bệnh phong giống như người chết, vì bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người bệnh phong này có đức tin mãnh liệt. Chỉ có Chúa mới có thể chữa ông. Chúa Giêsu giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”. Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Chúa dựng nên sự sống, không dựng nên sự chết. Chúa muốn sự sống cho con người. Chúa giơ tay đụng vào người bệnh. Bàn tay yêu thương đụng đến chỗ đau yếu nhất. Ngón tay thần linh ban sự sống. Như ngón tay Thiên Chúa chạm vào ngón tay Adong. Thiên Chúa ban sự sống. Kỳ diệu hơn nữa, Thiên Chúa trả lại sự sống (ĐC Ngô Quang Kiệt).

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Ngài về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do thái lúc đó, bệnh tật là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối với tội lỗi của con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thể xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi, Chúa Giêsu muốn nói rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật cho con người (Mỗi ngày một tin vui).

‘‘Người giơ tay đụng vào anh” (Mt 8,3)

Hình ảnh hiền từ và cử chỉ giơ tay chạm vào anh của Chúa Giêsu hôm nay đã làm cho người phong cùi thêm niềm hy vọng, cậy trông và ấm lòng. Vì thế, anh ta đã can đảm tiến lại gần Chúa Giêsu, mặc cho mọi lời dèm pha, khinh khi, nhục mạ. Anh ta tin và đi đến với Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu đã giơ tay và chạm vào anh ta, khiến anh ta được sạch.

Hành động này của Chúa Giêsu đã xoá tan đi biết bao ngăn cách, đã trả lại cho anh một chỗ đứng trong xã hội, đã phục hồi nhân phẩm cho anh trong cuộc sống còn lại.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, một mặt biết noi gương người phung cùi, can đảm, tin tưởng và bỏ qua mọi rào cản, để đến với Chúa là mối lợi tuyệt đối và duy nhất của cuộc đời. Mặt khác, cũng mời gọi chúng ta hãy suy nghĩ đến bệnh cùi tâm linh của chúng ta là những ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và ham danh, trục lợi… Đồng thời, như một lời mời gọi hãy bước theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương, xóa bỏ ngăn cách do kỳ thị…

Truyện: Tôi muốn cho chị được hạnh phúc

Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa Calcutta đến khu nhà của những người hấp hối do chính Mẹ thiết lập, để tạo điều kiện cho những người nghèo khổ tìm được cái chết xứng với nhân phẩm con người. Buổi tối hôm đó, người ta đưa đến một người đàn bà đói khát và bệnh tật. Mẹ đã đến thăm và săn sóc người đàn bà này với tất cả sự ưu ái, dịu hiền. Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào nói với Mẹ:

– Thưa bà, tại sao bà săn sóc tôi như thế?

Mẹ Têrêsa trả lời:

– Bởi vì tôi muốn cho chị được hạnh phúc.

Trên khuôn mặt mà bóng tử thần đang chập chờn cướp lấy sự sống, đôi mắt người thiếu phụ bỗng sáng lên niềm vui. Người thiếu phụ cố gắng thì thào:

– Bà hãy lặp lại lần nữa đi.

Với tất cả âu yếm, Mẹ Têrêsa mỉm cười trả lời:

– Vâng, tôi muốn cho chị được hạnh phúc.

Như một điệp khúc không bao giờ ngừng, người thiếu phụ tiếp tục nói:

– Một lần nữa, xin bà hãy lặp lại điều đó một lần nữa.

Và người đàn bà khốn khổ nắm lấy tay Mẹ Têrêsa đặt trên ngực minh, như muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình người, hơi ấm của niềm hạnh phúc mà chỉ có một tâm hồn quảng đại mới có thể ban phát.

Suy Niệm 9: Phép lạ chữa một người cùi

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu làm phép lạ chữa một người cùi.

Thời đó, cùi bị coi là chứng bệnh nan y. Nhưng Chúa Giêsu đã chữa người này một cách rất dễ dàng: “Ta muốn anh hãy lành bệnh. Tức thì anh ta liền khỏi bệnh cùi”

Người ta coi người cùi là hạng người ô uế, kẻ nào chạm tới người cùi cũng bị lây ô uế. Nhưng Chúa Giêsu đã dám đưa tay chạm tới người cùi này.

Đã giúp thì giúp cho trót. Chúa Giêsu chẳng những chạm tới anh ta mà còn làm cho anh ta hết bệnh. Ngài còn nhắc anh đi trình diện tư tế và dâng lễ vật để được xác nhận mình khỏi bệnh.

“Hãy đi trình diện tư tế để minh chứng cho họ biết”.

Biết gì? a/ biết nạn nhân đã khỏi bệnh cùi; b/ Chúa Giêsu cũng nhắn một sứ điệp đến các tư tế: nếu họ nhớ tới những lời các ngôn sứ thì khi thấy người cùi này được Ngài chữa khỏi bệnh thì họ sẽ biết Ngài chính là Đấng Messia.

  1. Suy gẫm (…nẩy mầm)
  2. “Đám đông dân chúng đi theo Ngài”: Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh gọi giai đoạn này là “Mùa xuân Galilê”, Chúa Giêsu được người ta ngưỡng mộ và đi theo rất đông. Nhưng chẳng bao lâu Ngài sẽ tới “Mùa Thu” rồi “Mùa đông Giê-ru-sa-lem”, người ta lần lượt bỏ Chúa, thậm chí quay trở lại chống Ngài và đòi Ngài phải chết. Tình cảm hay cảm xúc chỉ là lửa rơm, bạo phát bạo tàn. Chỉ có đức tin mới trung kiên bền vững.

Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa tình cảm và cảm xúc sốt sắng của con hôm nay. Con cám ơn Chúa đã an ủi con bằng những cảm xúc êm dịu này. Nhưng con xin Chúa biến những cảm xúc này thành đức tin, để giả như sau này có lúc nào đó con không còn cảm thấy sốt sắng nữa thì con vẫn một niềm trung kiên với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.

  1. Ngày nay bệnh cùi không còn là một chứng nan y bất trị. Nhưng vẫn còn nhiều loại “người cùi” kiểu khác bị người ta ghê tởm tránh xa, chẳng hạn những người dơ dáy, hôi hám, những người mang cá tính bị người khác ghét bỏ, những người lỡ mang tai tiếng khiến người ta không dám tiếp xúc vì bị sợ vạ lây vì đã dám “giơ tay chạm đến” người cùi. Xin Chúa cũng giúp con có cam đảm “giơ tay ra” đối với những người ấy.
  2. “Kìa một người phong hủi tiến lạy, bái lạy Ngài và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. (Mt8, 2)

– Chán đi lễ.

– Ác cảm với mọi người.

– Lầm lì, cau có.

– Lắng nghe anh em ư? Không!

– Rộng lòng thương người nghèo ư? Không!

– Học hành ư? Học để làm gì chứ?

– Tội lỗi đầy mình ư? Không quan trọng!

Diện mạo của cái “thằng tôi” đấy! tôi buông thả. Tôi lún sâu vào tội lỗi. Mọi người xa lánh tôi, sợ tôi. Tôi đã trờ thành người phong hủi thật sự.

Những kẻ phong hủi xưa kia đã chạy đến với Chúa. Lạy Chúa, xin cứu chữa con. (Hosanna)

Suy Niệm 10: Người mắc bệnh phong cùi

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Hôm nay, Chúa Giêsu làm phép lạ chữa một người mắc bệnh phong cùi.

Trong những chuyến đi diễn thuyết để kêu gọi giúp đỡ những người phong cùi trên khắp thế giới, vị đại ân nhân của họ là Raoul Folereau thường kể câu chuyện như sau: Tại một thị trấn nọ, có một người đàn ông được mọi người yêu mến bỗng ngã bệnh. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ nghi ngờ… vâng chỉ nghi ngờ thôi…nghi ngờ ông mắc bệnh phong cùi. Và là kể từ đó người ta không còn thấy ông ra đường nữa. Ngay cả ở trong nhà, ông cũng không còn được tự do đi lại. Gia đình ông đã giam ông trên giường. Khung trời còn lại của ông chính là tấm mùng. Nhưng một ngày nọ, người đàn ông này đã trốn ra khỏi nhà. Không may ông bị bắt lại. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau đó một lần nữa, ông lại trốn và lần này thì ông trốn thoát. Ông trốn không phải để được sống tự do, mà là để tự vẫn. Sau khi ông chết, người ta đưa xác ông đi giảo nghiệm, và kết quả cho thấy ông không hề mắc bệnh phong cùi!

Kể lại câu chuyện trên đây, ông Raoul Folereau muốn nêu bật nỗi khổ tâm của những người mắc bệnh phong cùi. Nỗi đau đớn trong thể xác có lẽ chỉ là một phần nhỏ so với sự ruồng bỏ, mà xã hội ở bất cứ thời đại nào cũng dành cho họ.

  1. Vâng, bệnh phong cùi làm cho người mắc bệnh trở thành một người tuy còn sống nhưng kể như đã chết. Không phải ai cũng được khỏi nhờ phép lạ.

Tuy nhiên, cũng có những con người, dầu mắc bệnh này nhưng cũng rất can đảm. Xin lấy một thí dụ:

Chị Véronique, một người Pháp, 55 năm bị mắc bệnh phong Hansen, 20 năm bị mù lòa.

Dưới đây là một trong những lời nguyện của chị được ghi lại theo tạp chí Prier, xuất bản năm 1979.

Lạy Chúa,

Chúa đã đến và đã xin con tất cả, và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả.

Xưa kia, con ưa thích đọc sách, và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con.

Ngày trước, con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con.

Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay.

Bởi con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con,

Ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con.

Thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào,

Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa.

Chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.

Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem:

Cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến mức độ nào.

Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn!

Vâng, lạy Chúa! Muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn.

Bởi vì, nếu đêm nay, Chúa truyền cho con phải ra đi vĩnh biệt cõi thế,

con cũng sẽ chẳng tiếc hận gì.

Đời con đã được quá ư đầy tràn những điều diệu kỳ tột độ:

Đó là con đã được sống đắm mình trong Tình Yêu,

Đã được Chúa lấp đầy chan chứa bằng Tình Yêu

Vượt quá cả những gì con tim con hằng mong ước.

Ôi lạy Chúa là Cha của con, Cha đã đối xử quá tốt với bé gái Véronique của Cha.

Và chiều nay, ôi Tình Yêu của con!

con xin dâng lời nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người phong cùi trên mặt đất.

Xin Cha thương một cách đặc biệt, cả đến những người bị bệnh “cùi tâm hồn”

đang đè bẹp hủy hoại,

Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy.

Và chiều nay trong âm thầm, con xin tận hiến đời con cho họ,

bởi vì họ cũng là những người anh chị em con.

Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin dâng Cha

căn bệnh phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia

đừng bao giờ biết đến nữa,

Cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh “cùi tâm hồn”.

Con là bé gái thân thương của Cha,

Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã tàn phế của con để dẫn con đi,

Như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của mình.

Cha hãy ôm con vào lòng, như người cha ấp ủ đứa con cưng

trong vòng tay của mình.

Cha hãy nhận chìm con thật sâu xuống tận đáy trái tim Cha,

Cho con được ở đấy

cùng với mọi người thân yêu của con,

Bây giờ và cho đến mãi muôn đời… Amen.

(Véronique)

Vâng! Thật hết sức can đảm. Cuộc sống đã trở thành một chứng nhân cho tình yêu. Khó mà tìm được một con người dám sống như vậy trong xã hội hôm nay. Phải nói rằng việc đón nhận những đau khổ với một nụ cười là một việc hết sức quí hiếm mà chúng ta có thể gặp. Chỉ có những tâm hồn biết hiến dâng trọn vẹn mới có thể sống được như thế. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta được can đảm đón nhận tất cả những gì Chúa gửi đến với con tim tràn đầy yêu mến, để chúng ta hiểu được lời mà thánh tông đồ đã nói: “Tất cả đều là hồng ân”. Amen.

THỨ BẢY TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt 8, 5-17

Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: “Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!” Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: “Tôi sẽ đến chữa nó”. Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!”.

Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: “Ông cứ về, ông được như ông đã tin”. Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.

Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài. Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: “Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta”.

SUY NIỆM 1: Từ phương đông phương Tây

Suy niệm:

Đức Giêsu mới chữa cho một người phong bằng một tiếp xúc gần,

nay Ngài lại chữa lành cho một người bị đau liệt ở xa.

Người được khỏi chính là đầy tớ thân tín của viên đại đội trưởng.

Con người sống gắn bó với nhau bằng những mối dây.

Viên đại đội trưởng là chủ, nhưng ông cảm được nỗi đau của anh đầy tớ:

“Đầy tớ của tôi bị liệt nằm ở nhà, đau đớn kinh khủng” (c. 6).

Người đầy tớ được khỏi là nhờ tình thương của chủ đối với anh,

chính ông đã đi gặp Đức Giêsu và xin Ngài chữa cho anh đầy tớ (c. 5).

Và chính lòng tin của ông đối với Đức Giêsu đã khiến anh được khỏi (c. 10).

Những điều tốt lành của Thiên Chúa vẫn đến với ta qua người khác.

Khi Đức Giêsu nghe lời kêu xin, thì Ngài sẵn sàng lên đường ngay (c. 7),

dù biết rằng nhà của viên đại đội trưởng là nhà dân ngoại, bị coi là ô uế.

Có thể vì sợ Ngài bị ô uế mà ông ta đã can ngăn bằng câu nói nổi tiếng:

“Tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời,

đầy tớ tôi sẽ được khỏi bệnh” (c. 8).

Ông ý thức về sự bất xứng của mình, của căn nhà mình ở.

Và ông xác tín vào sức mạnh của việc “Ngài chỉ nói một lời.”

Viên đại đội trưởng nhận mình là người có quyền.

Uy quyền của ông nằm trong lời ông ra lệnh cho cấp dưới (c. 9).

Ông tin lời của Đức Giêsu cũng có uy quyền như vậy.

Chỉ một lời ra lệnh của Ngài cũng đủ đẩy lui bệnh tật và thần dữ.

Đức Giêsu ngây ngất trước lòng tin của viên sĩ quan dân ngoại,

một lòng tin vừa mạnh mẽ, vừa khiêm tốn.

Một lòng tin như thế, Ngài chưa từng gặp nơi dân Ítraen (c. 10).

Đức Giêsu nghĩ đến ngày cánh chung, quanh bàn tiệc Nước Trời,

có bao người đến từ muôn phương, những kẻ không phải là người Do thái.

Họ làm nên một cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài.

Họ vui sướng được ngồi bên các tổ phụ và những người Ítraen chân chính.

Đức Giêsu cho thấy dòng lịch sử đang đi vào ngã rẽ quan trọng.

Ơn cứu độ phổ quát do Ngài đem lại được mở ra cho mọi người.

Chỉ ai cố tình chối từ Tin Mừng Nước Trời mới bị loại (c. 12).

Đức Giêsu không chỉ rao giảng Nước Trời bằng lời.

Ngài còn chứng minh Nước Trời đã đến bằng bao việc tốt lành, kỳ diệu.

Lời Ngài giảng cũng là lời chữa cho người phong, cho tên đầy tớ.

“Ngài nói một lời là trừ được các thần dữ” (c. 16).

Lời uy quyền khi giảng cũng là lời uy quyền khi chữa bệnh.

Nhưng Đức Giêsu cũng đụng chạm đến nỗi đau của con người.

Ngài đụng đến người phong, và đụng đến bàn tay mẹ vợ ông Phêrô (c. 15).

Hôm nay, Giáo Hội vẫn cần những người rao giảng như Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa

và dạy con bước đi

ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.

Xin truyền cho con sức mạnh của Người.

Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con

tìm lại được sức trẻ

để gieo trồng hàng ngàn cây xanh

cho một thế giới mới

Ước gì mồ hôi con

pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.

Ước gì máu con

hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ

để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn

vì bất công và ích kỷ.

Chúc tụng Chúa là Cha,

đã dẫn con đi đến cùng,

đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung

với tràn trề bình an và niềm vui. Amen. (ĐHY Roger Etchegaray)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy Niệm 2: Từ phương Đông phương Tây

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Áp-ra-ham là người công chính. Từ nhân loại tội lỗi Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ra-ham để lập ra một dân riêng. Chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế giáng trần. Áp-ra-ham là vị Tổ phụ mẫu mực. Ngài có tấm lòng rộng mở đón nhận Lời Chúa. Ngài có tấm lòng trung tín luôn vâng theo ý Chúa. Cuộc đời ngài hoàn toàn dâng hiến cho thánh ý Thiên Chúa. Hãy xem cách ngài đón tiếp Thiên Chúa đến viếng thăm. Làm tất cả mọi sự vì Thiên Chúa. Tuyệt đối tin vào Lời Hứa. Dù đã trăm tuổi mà vẫn chưa có con. Nhưng vẫn tin vào Lời Chúa. “Tại sao Xa-ra lại cười và nói: ‘Có thật tôi già thế này mà còn sinh đẻ được chăng?’ Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức Đức Chúa? Vào độ này sang năm, ta sẽ trở lại thăm người, và Xa-ra sẽ có một con trai”. Ông đã trở thành Tổ phụ lớn lao và gương mẫu (năm chẵn).

Tiếc rằng đến thời sau dòng dõi huyết tộc của ông không còn giữ được đức tin và lòng trung tín với Thiên Chúa. Vì họ đã nghe những tiên tri giả mà phạm sai lầm. Rơi vào ảo tưởng. Nên bị Thiên Chúa trừng phạt. “Mọi nơi cư ngụ của Gia-cóp, Đức Chúa huỷ diệt chẳng chút xót thương; nổi trận lôi đình. Người triệt hạ đồn luỹ của thiếu nữ Giu-đa….Ngôn sứ của ngươi tỏ cho ngươi thấy toàn điều hư ảo, toàn chuyện khói mây, còn lỗi lầm ngươi, chúng không vạch rõ để đảo ngược số phận của người”. Tiên tri kêu gọi họ sám hối, cầu xin để được Thiên Chúa tha tội: “Trước nhan Chúa hãy trút niềm tâm sự, giơ tay hướng về Người mà cầu cho sinh mạng của đoàn con đang lịm dần vì đói” (năm chẵn).

Đến khi Chúa Giê-su đi rao giảng, cũng kêu gọi sám hối. Nhưng dân chẳng tin. Trái lại có những người ngoại đạo tin. Như ông đại đội trưởng quân đội Rô-ma hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Lại có lòng khiêm tốn sâu xa: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh”. Chúa Giê-su đã ngạc nhiên và khen ngợi ông: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương ddoong phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗi tối tăm bên ngoài”. Như thế dòng dõi Áp-ra-ham có hai. Về huyết thống thì yếu lòng tin nên bị loại bỏ. Về đức tin. Bất cứ ai tin sẽ được gọi là con cháu Áp-ra-ham. Sẽ được vào dự tiệc Nước Trời.

Tinh thần quý hơn thể xác. Đức tin quý hơn huyết thống. Như Chúa Giê-su từng nói: “Ai nghe và tuân giữ Lời Chúa. Đó là anh em, chị em và là Mẹ Ta” (Lc 8,21). Xin cho con được thuộc về dòng dõi những kẻ tin. Để trở thành thân nhân của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Tuyên xưng niềm tin

Tin Mừng hôm nay thuật lại câu truyện lòng tin của viên bách quản Rôma, một lòng tin đã khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên. Nếu Chúa Giêsu đã khen lòng tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết khi bà nghĩ rằng chỉ cần đụng vào gấu áo Ngài cũng đủ để được khỏi, thì lòng tin của viên bách quản này còn mạnh hơn nhiều: Ông tin rằng Chúa Giêsu chỉ cần nói một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giêsu đã thốt lên: “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế”.

Lời tuyên xưng của viên bách quản là kết quả hiểu biết đúng đắn về bản thân và quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Ðể có sự hiểu biết đúng đắn cần phải có thái độ khiêm nhường và thành thật. Vì con người là một tinh thần kết hợp với thể xác: thể xác bị ràng buộc bởi các điều kiện không gian và thời gian, còn tinh thần chẳng bị một ràng buộc nào; thể xác đang nằm sát đất, nhưng tinh thần có thể vươn tới trời cao; thể xác đang ở hiện tại, nhưng tinh thần có thể lùi lại quá khứ hoặc hướng tới tương lai rất xa.

Óc tưởng tượng đưa con người viễn du khắp nơi, cả những vùng không tưởng. Óc tưởng tượng vẽ ra cho con người muôn vàn hình ảnh, mà nếu không khiêm nhường trong hiểu biết, con người sẽ bám víu mãi vào đó. Khiêm nhường đem tinh thần con người trở về với thân xác hạn hẹp yếu đuối; khiêm nhường chỉ cho con người thấy thực tại của thân phận làm người, đó là hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa; tất cả những gì con người có đều là do Thiên Chúa ban. Nhận thức được chân lý này, nên niềm tin của viên bách quản được Chúa Giêsu khen thưởng, và Giáo Hội đã mượn lời tuyên xưng này để hằng ngày trong Thánh Lễ, người tín hữu có thể dâng lên Chúa tâm tình khiêm tốn, bất xứng của mình.

Ước gì lời Chúa hôm nay là một nhắc nhở chúng ta trong công việc hằng ngày, giúp chúng ta vững tin và nhận ra mọi ơn lành đến từ Chúa và dâng lời cảm tạ Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Chúa Giêsu ngạc nhiên

Khi Đức Giêsu vào thành Ca-phát-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.” Người nói “Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi khỏi bệnh.” (Mt. 8, 5-8)

Lòng tin của người ngoại giáo

Chúng ta hay có thói quen rất chú tâm đến những lời Chúa phán cùng những việc Chúa làm. Còn những tình cảm, những xúc động, những gì rung động trong con tim Người thường ít nhiều không được để ý đến. Có lẽ cũng vì các thánh sử dẫu sao cũng khá kín đáo về vấn đề này.

Trích đoạn Phúc âm chúng ta đọc lại sáng nay, nói rõ ràng rằng Chúa Giêsu đã ngạc nhiên, sửng sốt. Ta đừng vội vã và bỏ qua chi tiết có tính rất mạc khải này.

Điều gì đã khiến Chúa Giêsu có tâm tình ngạc nhiên như vậy? Không phải chỉ vì sự kiện là viên đại đội trưởng người Rôma này bộc lộ một lòng tin đầy kính trọng, thật sâu xa và khiêm tốn đối với Người mà thôi, nhưng còn bởi tại ông ta là một người ngoại giáo. Qua tai nghe mắt thấy, Chúa Giêsu chưa hề gặp một người dân It-ra-en nào bộc lộ được một lòng tin như ông này. Ông là một người ngoại, có nghĩa là một người đã không được giáo dục theo văn hóa và tín ngưỡng Do thái, một người không biết đến Kinh thánh, và tất nhiên không biết có Đức Gia-vê là Thiên Chúa chân thật. Chính ông ta là một con người như thế mà lại đã thẳng thắn bộc lộ lòng tin vào Đức Giêsu là một người Do thái!

Chúa Giêsu phải sững sờ và ngạc nhiên là vì thế.

Biết cảm phục

Có nhiều điều tốt và đẹp nơi những người không cùng niềm tin, không cùng giáo dục, không cùng tập quán với ta. Ta có biết nhận ra điều ấy không? Nhiều người tuy không phải là Kitô hữu, mà vẫn sống lòng tin vào Chúa, một lòng tin mạnh và chân thành hơn của ta. Dó không phải là động cơ thúc đẩy ta ngạc nhiên và cảm phục sao?

Chúa Giêsu đã có ý thức về tâm tình ngỡ ngàng cảm phục. Người đã biết cảm phục những gì là đẹp, là tốt, là thiện. Người đã tìm được những cái đó ở bất cứ nơi nào, nơi bất cứ con người nào; người ấy là ai và ở đâu, không thành vấn đề đối với Người. Ta phải bắt chước Người về điểm này cũng như về nhiều điều khác.

SUY NIỆM 5: ƠN CỨU ĐỘ DÀNH CHO MỌI NGƯỜI (Mt 8, 5-17)

Câu nói của Đức Giêsu hôm nay đã làm cho không biết bao nhiêu người sững sờ, chưng hửng: “… nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.

Đây là nỗi băn khoăn, lo lắng, thắc mắc của bao nhiêu người, đặc biệt dân Dothái thời đó.

Thật vậy: “… những người không do lỗi của mình mà không biết đến Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và nhờ ơn sủng của Ngài mà hành động để làm trọn thánh ý Ngài theo như lương tâm của họ mặc khải và truyền dạy cho họ, thì những người này có thể đạt tới ơn cứu độ muôn đời” (x. SGLGHCG, số 847; LG, số 16; DS 3866-3872).

Còn: “Những ai đã biết rằng Giáo Hội Công Giáo, được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giêsu-Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong đó thì không thể được cứu rỗi” (x. LG, số 14; SGLGHCG, số 846).

Như vậy, điều quan trọng là muốn được cứu hay không? Nếu muốn được hưởng ơn cứu độ của Chúa thì:

Trước tiên, “hãy phấn đấu qua cửa hẹp mà vào”. Cửa hẹp là những gian nan thử thách, dù gặp khổ cực đến đâu vẫn phải quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy. Phải chịu rèn luyện mới được gặt hái những hoa trái; phải “có công mài sắt mới có ngày nên kim”; phải chịu “lửa thử vàng, gian nan thử đức”.

Thứ hai, hãy vào cho kịp thời: “Một khi chủ đã đứng dậy và khóa cửa lại mà anh còn đứng ngoài… thì chỉ còn ở đó, khóc lóc nghiến răng thôi”. Nước trời không dành cho những người khô khan lười biếng, thờ ơ, chểnh mảng, say sưa, ăn chơi, gian ác hay nước đến chân mới nhảy. Những người như thế, họ sẽ lãnh nhận lời than trách nặng nề của Đức Giêsu như xưa Ngài đã nói với dân chúng thời của Ngài: “Hỡi quân gian ác, đi cho khuất mắt Ta”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết làm theo ý Chúa muốn để được vào Nước Trời, chính là vào qua cửa hẹp và vào kịp thời để không bị loại ra ngoài. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Viên sĩ quan đầy lòng xác tín

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa đỡ nâng con người. “Những tật nguyền của chúng ta chính Ngài lãnh nhận. Ngài mang lấy những bệnh hoạn của chúng ta”. Hãy tin vào Chúa và trao phó những khốn khó của chúng ta cho Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm nhận được sức mạnh và hậu quả của tội lỗi ảnh hưởng nơi bản thân con. Tội lỗi dẫn đến bao thảm họa. Nó gây ra bao nỗi đau khổ đắng cay. Con biết Chúa đã dựng nên con và hằng yêu thương con, Chúa không thể hờ hững trước những thất bại khốn khó của con. Chúa là tình thương, chính Chúa đã cúi xuống với con để nâng con dậy. Chúa muốn cất đi những gánh nặng của phận người đang khốn khổ do tội lỗi gây ra.

Tuy thế, con cũng hiểu rằng, dù Chúa muốn nâng đỡ con, nhưng nếu con không tin và không phó dâng những khốn khổ của con trong tay Chúa, Chúa cũng đành bó tay chẳng cứu được con. Sự trao gởi đó đòi con phải có một lòng tin tuyệt đối vào Chúa.

Viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay, dù là một người lương dân nhưng đầy lòng xác tín, ông đã thưa với Chúa một lời khiến Chúa vui và ngạc nhiên: “Chỉ cần Chúa phán một lời thì đầy tớ nhà tôi sẽ khỏi”. Nhờ lòng tin, ông đã được như ý ông xin. Cũng chính nhờ lòng tin ấy, ông sẽ được đón nhận vào Nước Trời.

Lạy Chúa, đời con với bao lo toan, bao thương đau, bao ưu phiền, bao vất vả, con xin phó dâng trong tay Chúa. Con quyết chứng tỏ lòng tin Chúa bằng cách quyết tâm giữ luật Chúa, quyết tâm sống lương thiện ngay chính trong những lúc gian nan. Con tin Chúa cũng sẽ nói với con: “Con về đi, con sẽ được như con đã tin”. Amen.

Ghi nhớ: “Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời”.

Suy Niệm 7: Niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một cuộc nghiên cứu tại một trường đại học ở Hoa Kỳ thực hiện nơi 2800 người già cũng chứng minh rằng con số những người không bao giờ đến nhà thờ bị nhồi máu cơ tim cao gấp hai lần so với những người đi lễ hàng tuần. Bác sĩ Haberth, Giáo sư phụ khảo thuộc trường đại học y khoa ở Hoa Kỳ ghi nhận rằng: Từ 60 đến 90% những lần viếng thăm bác sĩ đều liên quan đến những chứng mất ngủ, huyết áp cao và bệnh tim, ông khẳng định rằng: Lời cầu nguyện thường xuyên có sức mạnh ngăn chặn lại nhịp tim và nhịp thở cũng như huyết áp.

Suy niệm

Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẩy, người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên”. Trên quan điểm của Archimède, văn hào Kierkegaard đã giải thích thêm: “Điểm tựa ấy chính là đức tin, tin vào Thiên Chúa có thể làm được mọi chuyện”.

Viên bách quản là người ngoại đạo mà ông tỏ ra khiêm tốn và tin tưởng cầu xin Ðức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ đang bệnh nặng. Ông không dám đòi hỏi Chúa đến tận nơi, khi khiêm tốn nhận ra mình bất xứng và không dám rước Ngài vào nhà mình chỉ “xin Thầy phán một lời”. Trước niềm tin mạnh mẽ và khiêm tốn của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu tỏ ra hài lòng và thán phục niềm tin mạnh mẽ của một người ngoại giáo: Một niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt!.

Phép lạ đã xảy ra như lòng ông mong ước… Chính lời tuyên xưng của ông: “Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh…”, lời nói đó đã được Giáo hội mượn và tuyên xưng trong cộng đoàn phụng vụ khi chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thể: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.

Tại gia đình của Phêrô, Chúa cũng chữa lành cho bà nhạc gia ông đang sốt được khoẻ. Các bệnh nhân người bị quỷ ám cũng được người chữa khỏi để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: “Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta”.

Xin Chúa cho chúng ta đức tin chân thành mạnh mẽ… chúng ta cần phải không ngừng van xin: “Xin thêm lòng tin cho chúng con”. Chính vì với sức mạnh của niềm tin, chúng ta sống tâm tình phục vụ với hết cả tâm hồn, tất cả sức lực được thúc đẩy của lòng tin.

Ý lực sống”

“Ai có đức tin thì làm được mọi việc… Dù đức tin chỉ bằng hạt cải…” (x. Lc 17,5-6).

Suy Niệm 8: Chúa chữa lành người đầy tớ của viên đại đội trưởng (Mt 8,5-17)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu đến thành Capharnaum, thì một viên sĩ quan ngoại giáo đến van xin Ngài chữa cho đầy tớ ông bị bại liệt đau khổ. Ngài hứa sẽ đến cứu chữa, nhưng ông quá khiêm tốn, không dám rước Chúa về nhà, chỉ xin Chúa phán một lời cho đầy tớ ông lành bệnh. Chúa thấy ông ta có lòng tin và khiêm tốn như thế thì ngạc nhiên và hết lời khen ngợi. Ngài bảo viên sĩ quan: ông cứ về, ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay lúc đó đầy tớ ông được khỏi bệnh.

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện lòng tin của viên sĩ quan đại đội trưởng Rôma, một lòng tin đã khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên. Nếu Chúa Giêsu đã khen lòng tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết khi bà nghĩ rằng chỉ cần đụng vào gấu áo Ngài cũng đủ để được khỏi, thì lòng tin của viên đại đội trưởng này còn mạnh hơn nhiều. Ông tin rằng Chúa Giêsu chỉ cần nói một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giêsu đã thốt lên: “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế”.

Viên đại đội tưởng này, tuy là người ngoại, nhưng ông đã có một niềm tin mạnh khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên.

Đối với chúng ta ngày nay, cần phải hiểu rõ hơn thế nào là niềm tin và đức tin. Sách Giáo lý Công giáo viết: “Đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, được trao ban cho tất cả những ai cầu xin với lòng khiêm hạ; đó là nhân đức siêu nhiên cần thiết để được cứu độ. Hành vi đức tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành động của lý trí con người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Ngoài ra, đức tin còn có đặc tính chắc chắn, vì được đặt nền tảng trên Lời Chúa; đức tin có đặc tính năng động “nhờ Đức ái” (Gl 5,6); đức tin luôn tăng triển, đặc biệt nhờ lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Trong hiện tại, đức tin cho chúng ta nếm trước niềm vui trên trời (số 28).

Ngoài niềm tin mạnh mẽ và sâu sắc, viên sĩ quan này còn có một sự khiêm tốn thẳm sâu trước mặt Chúa. Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người đầy tớ hôm nay có quyền lực đại diện cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cản Chúa Giêsu truyền đạo.

Thế nhưng, ông nhận ra con người Chúa Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, nên ông đã cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh”.

Ngoài đức tin và lòng khiêm tốn, vị sĩ quan này còn có lòng thương người, bằng chứng là ông không xin gì cho ông mà lại xin cho người đầy tớ của ông được khỏi bệnh. Tin mừng còn cho thấy một bên là hình ảnh của con người đau khổ bệnh tật, một bên là tình yêu cứu chữa của Chúa Giêsu. Sợi dây nối kết con người khốn khổ với Chúa Giêsu chính là lòng tin của con người. Chúa Giêsu đã làm phép lạ chữa lành người đầy tớ của viên đại đội trưởng là do lòng tin của ông. Lòng tin của người này cần thiết để cho người khác được cứu chữa.

Ngày nay, Chúa Giêsu cũng cần lòng tin của chúng ta, để cứu chữa những người đau khổ chung quanh chúng ta. Lòng tin ấy được thể hiện bằng những cử chỉ cụ thể, những sự hiện diện để giúp đỡ ủi an. Lòng tin ấy cũng chính là một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Tin ở tình yêu Thiên Chúa ngay giữa những lúc ốm đau thử thách là thái độ cơ bản nhất của người Kitô hữu. Thiên Chúa yêu thương con người, tình yêu ấy vượt mọi suy nghĩ, mọi giới hạn của ngôn ngữ loài người, đó phải là sứ điệp mà người Kitô hữu mang lại cho người khác (Mỗi ngày một tin vui).

Truyện: Nỗ lực rồi cậy trông

Nữ thủ tướng Margaret Hilda Thatcher sinh ra tại một thị trấn nhỏ của Anh. Từ nhỏ, bố của Margaret đã giáo dục cô rất nghiêm khắc. Ông thường xuyên nói với cô những câu như: “Cho dù làm bất cứ việc gì cũng phải tranh làm đầu tiên, tuyệt đối không được đứng sau người khác. Cho dù ngồi xe bus cũng phải ngồi hàng ghế đầu. Hơn nữa, tuyệt đối không được phép nói: “Khó quá” hay “Con không làm được”.

Quả thực đối với cô bé Margaret, yêu cầu như vậy là quá nghiêm khắc. Nhưng có điều cũng chính vì sự giáo dục nghiêm khắc của bố như vậy nên Margaret đã hình thành thái độ học tập tích cực. Mỗi khi làm chuyện gì, Margaret luôn mang trong mình niềm tin tất thắng, hơn nữa sẽ cố gắng hết sức để thực hiện mục tiêu của mình. Cô đã dùng hành động thực tế để chứng minh mình phải ”vĩnh viễn ngồi ở ghế hàng đầu”.

Hồi Margaret học đại học, nhà trường đề ra kế hoạch dạy tiếng Latinh trong vòng năm năm. Kết quả chỉ trong một học kỳ, Margaret đã học xong hết, hơn nữa thành tích thì lại rất cao. Cô đã xuất sắc đứng đầu. Margaret không chỉ có thành tích xuất sắc mà còn tích cực tham gia thể thao, ca hát, diễn thuyết và những hoạt động khác của trường. Cô đã trở thành học sinh ưu tú của trường. Giảng viên đại học của Margaret đã từng nói: “Margaret là học sinh xuất sắc nhất của trường chúng tôi từ khi thành lập đến nay. Cô bé lúc nào cũng tự tin, luôn làm tốt mọi chuyện”. Cô đã có một niềm tin mạnh vào cuộc sống và tương lai của mình.

Về sau, Thatcher trở thành một nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử nước Anh, trở thành ngôi sao sáng chói trên vũ đài chính trị Châu Âu.

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu chữa lành mọi kẻ ốm đau

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Bài Tin Mừng hôm nay lại tường thuật 3 phép lạ nữa:

Phép lạ thứ nhất Chúa Giêsu làm: chữa một người cùi; là chữa một chứng bệnh bị coi là nan y, để chữa một người bị khai trừ trở về hội nhập với cộng đoàn xã hội.

Đối tượng của phép lạ thứ hai là một người ngoại đạo, cũng là một người bị xã hội Do Thái khai trừ.

Đối tượng của phép lạ thứ ba là nhạc mẫu của ông Thánh Phêrô, một phụ nữ, cũng thuộc hạng bị xã hội Do Thái coi khinh.

Sau đó Chúa Giêsu chữa rất nhiều người bị quỷ ám và mắc nhiều chứng bệnh khác nhau, để làm ứng nghiệm lời tiên tri Isaia về Đấng Messia Tôi Tớ “Ngài đã gánh lấy tất cả bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta.”

Suy gẫm

  1. Chúa Giêsu không loại trừ ai. Trái lại ai càng bị loại trừ thì Chúa Giêsu lại càng ưu ái với những người đó và giúp họ trở về với cộng đoàn yêu thương.

Xét mình kỹ, tôi thấy mình có phần giống Chúa nhưng cũng có phần khác Chúa. Giống Chúa ở chỗ tôi có cố gắng yêu thương giúp đỡ những người tội lỗi, bệnh tật, nghèo nàn mà tôi gặp ở bên ngoài cộng đoàn mà tôi đang sống. Nhưng khác Chúa ở chỗ là tôi loại trừ một số anh em đang cùng tôi chung sống trong cộng đoàn. Xin Chúa giúp con sống yêu thương đối với hết mọi người, và xin Chúa nhắc con nhớ “Bác ái phải bắt đầu từ những người gần mình nhất.”

  1. Viên đại đội trưởng này tuy là người ngoại nhưng đã dạy tôi một cách cầu nguyện rất đẹp:

Ông không xin gì cho mình cả mà xin cho người khác. Mà người khác đó chỉ là một tên đầy tớ của ông.

Thường những lời cầu nguyện của tôi chỉ luẩn quẩn quanh những cái tôi của bản thân mình và một ít của người thân mình.

Thực ra ông cũng chẳng xin gì nữa. Ông chỉ kể cho Chúa nghe hoàn cảnh của ông, rồi để tùy Chúa định liệu. Ông lại còn nói mình không xứng đáng. Ngược lại, nhiều khi tôi xin Chúa mà như ra giá cho Ngài.

  1. Cha Charler de Foucauld cũng cầu xin Chúa rất nhiều. Nhưng Cha luôn kết thúc bằng câu Chúa đã nói ở Vườn Cây Dầu “Nhưng xin đừng theo ý con mà hãy theo ý Chúa.” Một cách cầu xin vừa đơn sơ ở chỗ muốn gì cứ thành thật bày tỏ, nhưng cũng vừa phó thác.
  2. Khi bị rơi vào hoàn cảnh đau thương, tôi thường ngã lòng không muốn cầu nguyện nữa. Như thế là tôi đã quên rằng Chúa là Đấng “Gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, mang lấy những nỗi đau của chúng ta.” Tôi đã quên lời mời gọi ưu ái của Ngài “Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho anh em được nghỉ ngơi bồi dưỡng.”

Suy Niệm 10: Niềm tin mạnh mẽ

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Viên đại đội trưởng này trong bài Tin Mừng hôm nay tuy là người ngoại, nhưng ông đã có một niềm tin mạnh khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên.

Sách Giáo Lý Công Giáo viết: “Đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, được trao ban cho tất cả những ai cầu xin với lòng khiêm hạ; đó là nhân đức siêu nhiên cần thiết để được cứu độ. Hành vi đức tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành động của lý trí con người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Ngoài ra, đức tin còn có đặc tính chắc chắn, vì được đặt nền tảng trên Lời Chúa; đức tin có đặc tính năng động “nhờ Đức ái” (Gl 5,6); đức tin luôn tăng triển, đặc biệt nhờ lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Trong hiện tại, đức tin cho chúng ta nếm trước niềm vui trên trời. (Số 28)

Niềm tin của viên đại đội trưởng là niềm tin mạnh. Vậy thế nào là niềm tin yếu?

Có một người kia đi biển, tình cờ gặp một trận cuồng phong bão táp. Trận cuồng phong bão tố này đã làm ông sợ đến nỗi muốn ngất đi. Giữa lúc đó thì mắt ông lại thấy như Chúa Giêsu đang đi trên mặt biển tiến về phía ông. Nhớ lại câu chuyện trong Tin Mừng thuở xưa, lúc các tông đồ của Chúa cũng gặp hoàn cảnh tương tự như vậy, ông kêu to: “Lạy Chúa, nếu thật là Ngài, xin hãy cho tôi cũng đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Đức Giêsu bảo:

– Hãy lại đây.

Nghe thế, ông vội mặc chiếc áo an toàn và mang phao cứu hộ theo, ông nhảy xuống nước tiến về phía Đức Giêsu bất chấp sóng to gió cả.

Đức Giêsu mỉm cười đưa tay đón lấy ông và hỏi:

– Tại sao con nghi ngờ Lời Ta nói, hỡi kẻ kém lòng tin.

Nghĩ mình bị Chúa trách oan, ông vội vã cãi lại.

– Đâu có, con có nghi ngờ Lời Chúa nói bao giờ đâu.

Chúa lắc đầu hỏi:

– Thế tại sao con lại mặc chiếc áo an toàn và mang phao cứu hộ trước khi con tiến về phía Ta?

Nhìn hai vật vô ích trên mình, ông gãi đầu thưa:

– Cái này…, những cái này con mang theo chỉ để phòng hờ!

Xin Chúa ban thêm niềm tin cho chúng ta để chúng ta luôn biết sống theo những Lời Người truyền đạt cho chúng ta hôm nay và mãi mãi.

  1. Còn đâu là niềm tin mạnh?

Ông đại đội trưởng hôm nay được Chúa khen là có niềm tin mạnh. Nếu Chúa Giêsu đã khen lòng tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết khi bà nghĩ rằng, chỉ cần đụng vào gấu áo Ngài cũng đủ để được khỏi, thì lòng tin của đại đội trưởng này còn mạnh hơn nhiều: Ông tin rằng, Chúa Giêsu chỉ cần nói một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giêsu đã nói lên: “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế” (Mt 8,10).

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta nói và tuyên xưng thì rất dễ, nhưng thực tế trong cuộc sống đức tin của chúng ta quả còn rất nhiều điều phải đặt lại vấn đề.

Ngày quân đội Liên Xô tràn vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ dáng vẻ hung hãn đầy tự đắc của kẻ chiến thắng đã đến gặp vị mục sư.

Viên sĩ quan chỉ vào cây Thánh Giá treo trên tường và nói:

– Ông biết không? Cái đó là sự dối trá do các mục sư bày ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, giúp cho những kẻ giàu dễ dàng kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bấy giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với tôi rằng, ông không hề bao giờ tin ông Giêsu là con Thiên Chúa.

Vị mục sư cười và trả lời:

– Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.

Viên sĩ quan quát lớn:

– Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!

Nói thế rồi anh ta rút súng ra chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:

– Nếu ông không nhận rằng, đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông!

Vị mục sư điềm tĩnh trả lại:

– Tôi không thể nói như vậy, vì không đúng. Đức Giêsu thật là con Thiên Chúa.

Nghe thế, viên sĩ quan liền buông khẩu súng rơi xuống sàn nhà, rồi chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư, vừa khóc vừa nói:

– Đúng thế, đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng, có người dám chết vì đức tin, cho tới khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng, vẫn có người dám chết cho Đức Kitô. Chính ngài đã củng cố Đức Tin cho tôi!

Lạy Chúa Giêsu,

có những ngày con cảm thấy

đời sống thật nặng nề;

có những lúc con muốn buông trôi,

để mặc cho dòng đời đưa đẩy;

có những khoảng thời gian dài,

con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.

Xin cho con ánh sáng của Chúa

để con biết lối mà đi.

Xin cho con tấm bánh của Chúa

để con có sức mà dấn bước.

Xin cho con Lời của Chúa

để con vững một niềm tin. Amen.