Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 14 Thường Niên – B
Lời Chúa: Ed 2, 2-5; 2Cr 12, 7-10; Mc 6, 1-6
MỤC LỤC
- Đức Kitô bị chối từ. 4
- Tiên tri ở quê hương mình. 6
- Thân phận người sứ giả. 8
- Không làm được phép lạ. 10
- Quê nhà bạc bẽo – ViKiNi 13
- Thiên Chúa luôn làm việc. 17
- Bụt nhà không thiêng – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 22
- Có tin mới thấy – Thiên Phúc. 26
- Cao ngạo là đánh mất tất cả. 29
- Thất bại trong sứ mạng. 33
- Ơn gọi làm ngôn sứ. 35
- Quê hương trái ngọt hay trái đắng. 40
- Sứ mạng làm ngôn sứ. 43
- Thèm khát. 60
- Đừng để lỡ cơ hội – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 62
- Những điều nghịch lý – Jean Yves Garneau. 65
- Đón tiếp Chúa trong sự tầm thường. 69
- Suy niệm của Charles E. Miller. 72
- Sự cứng lòng tin – Anmai, CSsR.. 75
- Đức Giêsu Kitô, Người là ai? – Anmai, CSsR.. 81
- Người con của Đức Maria – Achille Degeest. 87
- Đánh giá theo lý lịch. 90
- Chúa Nhật 14 Thường Niên. 94
- Đừng thèm khát – Gm. Arthur Tone. 96
- Suy niệm của Noel Quesson. 98
- Chúa hiện diện trong cuộc sống. 101
- Chúa Giêsu bị khước từ. 104
- Họ khước từ ngài – Lm. Giacôbê Tạ Chúc. 108
- ”Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” 111
- Thành kiến – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP. 114
- Trân trọng con người vì phẩm chất của họ. 118
- Dán nhãn – Huệ Minh. 122
- Cần xác định lại bậc thang giá trị 128
- SLC – Lắng nghe Lời Chúa. 131
- Thành kiến. 134
- SNLC/603 – Lòng tin. 137
- CSTM/160 – Ngạc nhiên. 139
- Thành kiến làm cản trở đức tin. 143
- Đức Giêsu không thể làm phép lạ. 147
- Bụt nhà vẫn thiêng. 152
- CSTM/172 – Thiên kiến. 155
- Bản hương khinh bỉ – Lm. Minh Vận, CMC.. 158
- Người lấy làm lạ vì họ không tin. 162
- Đức tin. 168
- Thì ra Chúa vẫn có ở đây. 172
- Chúa Giêsu trở về quê nhà. 178
- Thành kiến. 181
- Sống không thành kiến. 185
- Chối bỏ. 191
- Cái dằm. 194
- Chối bỏ. 196
- Phép lạ. 199
- Thành kiến – Lm Mark Link, SJ. 203
- Đừng để lỡ cơ hội gặp Chúa. 208
- Không có ngôn sứ nào được tôn vinh nơi quê hương. 214
- Sức mạnh trong yếu đuối. 218
- Họ cứng lòng khiến Chúa ngạc nhiên. 222
- Người đã không thể. 227
- Đức Giêsu về thăm Nagiarét – JKN. 230
- Chúa Giêsu bị khước từ. 237
- Đức Giêsu về thăm Nadarét 244
- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux. 251
- Chú giải của Noel Quesson. 255
- Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 262
- Chú giải của Fiches Dominicales. 264
- Chú giải của William Barclay. 272
- Dân Nadarét cứng lòng tin. 277
- Vấp ngã vì Chúa, tại sao?. 280
- Ngôn sứ ở giữa quê hương mình. 283
- Tin mới thấy được. 287
- Xua đuổi và khước từ. 291
- Suy niệm của Lm Jude Siciliano, OP. 298
- Sứ mạng Ngôn sứ – Sr Mai An Linh OP. 303
- Đôi cánh của đau khổ – Sr. Tố Nhung. 306
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Kitô bị những người đồng hương từ chối.
Sự từ chối này có những lý do riêng của nó. Đó là họ chỉ nhận thấy Đức Kitô là con bác thợ mộc Giuse, bà con lối xóm với họ. Hoặc có thể họ không muốn nhìn nhận Ngài như một tiên tri, luôn đòi hỏi mọi người phải sám hối theo ý Thiên Chúa.
Hẳn rằng ngày hôm nay những người tín hữu chúng ta không còn bị nhầm lẫn về Đức Kitô một Thiên Chúa làm người. Nhưng chúng ta vẫn có thể dửng dưng và từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống hôm nay.
Nếu những thân nhân của Đức Kitô ngày xưa đã vấp phải những yếu tố nhân loại của Ngài, để không nhận ra Ngài, thì đó cũng là những chướng ngại làm chúng ta không nhận ra Ngài ngày hôm nay, một Đức Kitô trong tha nhân.
Không ít người trong chúng ta đã từ chối những giá trị, những việc làm của anh em đồng loại, bởi vì họ là những con người không cùng một niềm tin, hoặc họ bị coi chỉ là những con người tầm thường, có chút lầm lỗi trong dĩ vãng.
Cách nhìn và đánh giá như thế sẽ là một cách sống xa lạ với Tin Mừng, sẽ là một cách sống xa lạ với với điều chính Đức Kitô đã rao giảng vì Ngài đã chỉ đám đông và trả lời: Những ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, thì họ chính là anh em, chị em và là mẹ tôi vậy. Những người dám hy sinh cho đồng loại, những người dám sống vì kẻ nghèo, đang là hình ảnh của Thiên Chúa mà mỗi người chúng ta không thể không nhìn nhận.
Cũng có thể ngày hôm nay, mỗi người trong chúng ta đang từ chối Đức Kitô khi xa lánh những đòi hỏi của Tin Mừng, được coi là những phiền nhiễu của Thiên Chúa. Một Tin Mừng kêu gọi phải yêu thương đồng loại như chính mình, phải hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Một Tin Mừng kêu gọi phải bán hết của cải, làm phúc bố thí rồi mới bước theo Ngài. Tóm lại, Đó là một Tin Mừng kêu gọi sống trong một con người mới.
Từ chối những đòi hỏi cốt yếu của Tin Mừng chỉ để sống với những hình thức những nghi lễ bên ngoài, chắc hẳn là sẽ êm ái hơn. Nhưng đó chỉ là sự êm ái của những kẻ không muốn bị liên luỵ bởi Tin Mừng, của những kẻ không nhìn nhận Đức Kitô. Ai trong chúng ta khẳng định được rằng là mình đã không từ chối Đức Kitô.
Câu hỏi ngày hôm nay đó là chúng ta hãy tra vấn lương tâm, hãy tìm hiểu cách sống của bàn thân, để xem chúng ta đã thực sự đón nhận hay là đã từ chối Đức Kitô.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ là một tiên tri như những tiên tri khác, mà Ngài chính là Con Thiên Chúa. Thế nhưng Ngài đã phải đụng đầu với sự cứng lòng tin của chính những kẻ đồng hương với Ngài. Theo tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng rao giảng Phúc Âm. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những điều từng được rao giảng tại đây. Khác đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những khám phá mới. Thế nhưng những câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để chiếu sang cho họ tới được với Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để trở về với lối lý luận thông thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về Ngài khi nói ra được Ngài là con ai, đã làm gì và ai là những người thân thích với Ngài. Họ đã trở về với những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời kêu gọi của thực tế trước mắt. Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng làm cho họ sửng sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với họ. Phúc Âm còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài đi rao giảng ở những làng xung quanh.
Thái độ của dân làng Nadarét cũng có thể là cơn cám dỗ của người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta có thể tự hào và tự mãn với những bài giáo lý, những hiểu biết về đạo, để rồi quay lung trước lời mời gọi của Chúa trong những sự kiện, những biến cố đang xảy ra chung quanh chúng ta. Nói cách khác, việc sống đạo của chúng ta hôm nay không thể đóng khung trong một số kiến thức có sẵn về Thiên Chúa, về ơn cứu độ, cũng như trong một số nghi lễ đã được quy định sẵn, trái lại phải được thể hiện qua việc lắng nghe, tìm kiếm ý định của Chúa trong lịch sử, trong chính lòng cuộc đời cá nhân và trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội. Vấn đề là chúng ta có thực sự thoát ra được những thành kiến, những quan niệm, những lối nhìn sẵn có để thực sự lắng nghe tiêng nói mới mẻ của Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện của thực tế hôm nay.
Sứ giả là người được chọn lựa và được sai đi để loan truyền Tin Mừng cho muôn dân, là người nói nhân danh Thiên Chúa.
Đức Kitô là vị Thiên Sai đến mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa và những ý định của Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ. Trong đời sống công khai, Ngài đã bị chống đối và khinh miệt, như lời thánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài.
Phải chăng đó cũng chính là sái số phận của người sứ giả, của người tông đồ, vì Chúa Giêsu cũng đã bảo: Môn đệ không trọng hơn Thầy, người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta cũng sẽ bắt bớ các con. Thực vậy, ngày hôm nay, Chúa Giêsu trở về Nadarét để rao giảng Tin Mừng, nhưng Ngài đã bị chính những người đồng hương chống đối, rồi trên khắp nẻo đường xứ Palestina, Ngài đã loan truyền Phúc Âm, đã chữa lành những tật bệnh đem lại mọi lợi ích cho con người, thế nhưng họ đã dám cho Ngài lấy quyền phép ma quỷ mà làm những việc đó. Ngài mạc khải Thiên Chúa là Cha và mình là Con, thì họ cho Ngài là kẻ phạm thượng, bị quỷ ám và điên khùng. Ngài đến đem bình an, chân lý và thiết lập nước Thiên Chúa thì bị mang tiếng là xách động là phản loạn. Họ bắt bớ và kết án Ngài tử hình trên thập giá. Sau cùng Ngài đã bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp.
Thân phận của người sứ giả là như thế và Chúa Giêsu cũng đã xác định cho các tông đồ: Các con sẽ phải đau khổ, khóc lóc, sẽ bị bắt bớ và điệu ra toà. Và như chúng ta thấy: Cuộc đời người sứ giả của Thiên Chúa phải gắn liền với thập giá và khổ đau, vì nơi thập giá, ơn cứu độ được biểu hiện qua sự chết và phục sinh của Đức Kitô. Bởi vì đau khổ là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá tới phục sinh và là điểm tựa cho người sứ giả để can đảm loan truyền lời Chúa.
Họ không sợ hãi vì có sức mạnh thần linh yểm trợ. Nơi thập giá, sức mạnh của Thiên Chúa thể hiện và sự yếu đuối của con người gặp được sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa. Thập giá giải hoà con người với Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ. Số phận của người môn đệ phải đồng hoá với số phận của Thầy chí thánh, bởi vì chính Chúa cũng đã ra điều kiện: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Người môn đệ không phải chỉ chết cho mình mà còn chết cho người khác. Đúng thế, thập giá họ vác chính là dấu chỉ họ chết cho thế gian. Họ sung sướng và hãnh diện vì được chịu khổ đau như thánh Phaolô đã viết: Phần tôi chẳng bao giờ tôi dám vênh vang, ngại trừ nơi thập giá Đức Kitô, Đấng đã đóng đinh thế gian cho tôi và tôi cho thế gian. Trong những giờ phút đen tối, họ nhìn vào thập giá Đức Kitô và tìm thấy ở đó một lý tưởng, một sức mạnh, một kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
Trước những hy sinh gian khổ chúng ta đã có thái độ nào: sẵn sàng chấp nhận chịu đóng đinh với Đức Kitô nghĩa là dám hy sinh, từ bỏ ý riêng để phục vụ ý Chúa hay không? Đức Kitô có phải là nguyên lý cứu độ hay đã trở nên cớ cho chúng ta vấp phạm.
Suy Niệm
Đức Giêsu giảng dạy ở hội đường tại quê nhà. Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên trước sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng.
Nếu họ chân thành tìm kiếm họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của người họ quá quen.
Tiếc thay người làng Nagiaréth đã không đủ vô tư. Họ bị ám ảnh bởi quá khứ của Ngài, và họ không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.
“Ông ta không phải là bác thợ sao?”
Một bác thợ sống bằng đôi tay như bao người. Một bác thợ trong làng, âm thầm và khiêm tốn, sống bao năm ở đây không một chút hào quang.
Họ cũng bị ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt: Bà Maria và các anh em, chị em của ông, tất cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường, như những người láng giềng gần gũi.
Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm.
Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Không chắc chúng ta đã khá hơn người làng Nagiaréth.
Hôm nay chúng ta vẫn có thể bị đóng khung trong một cái nhìn nào đó về Đức Kitô, khiến chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.
Có những người chúng ta rất quen, sống sát bên ta, nhưng chúng ta chẳng hiểu mấy về họ.
Những gì tôi biết về họ là đúng, nhưng không đủ.
Mỗi người là một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời.
Cần phải ra khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng để gặp được mầu nhiệm tha nhân, để thấy người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.
Chúng ta thường nói đến một Thiên Chúa toàn năng, nghĩa là Đấng làm được mọi sự. Nhưng Đức Giêsu tại Nagiaréth lại cho ta thấy hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối và bất lực.
Ngài bó tay trước sự cứng lòng của con người.
Đức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.
Thế mới hay con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, có thể dùng chính tự do Ngài ban để khước từ Ngài.
Phép lạ là quà tặng cần được đón nhận với lòng tin.
Phép lạ không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.
Có bao điều lạ lùng Thiên Chúa định làm cho đời ta, mà Ngài không làm được, vì không được làm.
Nên thánh là để cho Ngài yêu thương ta, để cho Ngài tự do hoạt động trong đời ta. Lúc đó đời ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa, và nhờ Ngài, ta có thể làm được những kỳ công.
Gợi Ý Chia Sẻ
Quá khứ của một người có thể làm chúng ta không thấy sự thật về người đó. Bạn có khi nào giống như người Nagiaréth không?
Có khi nào bạn thấy Thiên Chúa bị bó tay, chỉ vì bạn khăng khăng từ khước không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Dân làng Nagiaréth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabbat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa. Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Người khác thường. Gương mặt Người luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Người càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Người trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa, của lòng nhân ái Chúa Cha trên trời, của tình yêu. Ngài đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi chóng thế!
Ở Việt Nam, hồi năm 1945-1950, cũng có những ông canh điền, đầy tớ, mõ làng đi vắng hai ba tuần, trở về diễn thuyết rất hùng hồn. Bởi đâu các ông đã ăn nói thao thao bất tuyệt như vậy? Sau này, người ta mới biết các ông được đi huấn luyện học thuộc lòng mấy bài để về ra mắt dân làng, hô hào đấu tranh chống thực dân Pháp, chống bù nhìn Bảo Đại trói gà không nổi.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài mất trí, kinh sư chụp mũ Ngài nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngửa mặt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên.
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là con một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Còn Ngài, Ngài âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình” vì “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều xâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất mầu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt. Lòng nghĩ “cái nết đánh chết cái đẹp”, mắt vẫn liếc lia lịa người đẹp hơn chiêm ngắm tượng Chúa trên thập giá.
Khi Đức Hồng Y Roncalli (Rông ca li) được bầu làm Giáo hoàng Gioan 23, một Giám mục khóc cho Giáo hội sắp đến ngày tàn. Giáo Hội không còn ai lên lãnh đạo, phải bầu một ông già 77 tuổi về hưu lên đỡ vậy. Nhưng chỉ vài ngày sau, báo chí đã đưa những tin giật gân về ông già hồn nhiên, vui vẻ, đang lo canh tân ngôi giáo triều cổ kính, bệ vệ và chẳng bao lâu Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho Ngài tuyên bố họp Công Đồng Vatican 2, thực hiện cuộc canh tân vĩ đại cho Giáo Hội và cả thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
“Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga.5, 17). Đó là câu Đức Giêsu nói với người Do Thái khi họ tra vấn tại sao Ngài chữa bệnh vào ngày sabát, tức ngày nghỉ theo luật của người Do Thái. Thiên Chúa luôn làm việc: Ngài lôi kéo con người đến với Ngài. Ngài có thể dùng biến cố này biến cố kia, hoặc người này người kia, hoặc ngay cả những giới hạn của mỗi người để giúp con người đến gần Thiên Chúa.
- Vẫn có một tiên tri ở giữa họ
Tiên tri thường được nhiều người hiểu như người biết trước biến cố sẽ xảy ra. Một người như vậy, cho thấy người đó có quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng theo đúng nghĩa, tiên tri là ngôn sứ, người đại diện Thiên Chúa nói với dân chúng, người nói với dân chúng theo lệnh của Thiên Chúa. Tiên tri, là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và quan tâm đến dân Ngài.
Trong lịch sử Do Thái, Thiên Chúa luôn yêu thương và săn sóc dân. Người Do Thái đã nhận ra các thẩm phán, các vua, là những người được Thiên Chúa xức dầu, là những người thay Thiên Chúa dẫn dắt và chăn dắt dân. Môsê là người được Thiên Chúa chọn để dẫn dân ra khỏi Aicập (Xh.3, 9-10), Samson là thẩm phán được Thiên Chúa dùng để giải phóng dân khỏi cảnh đàn áp của người Philitinh (Tp.13-16), Samuel là thẩm phán được sai tới để chăn dắt dân.
Tiên tri là người biết nhìn lịch sử, nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc sống mà nhiều người khác không nhận ra. Cũng có tiên tri không muốn thi hành chức năng “nói nhân danh Thiên Chúa cho dân” vì vị tiên tri biết rằng, mình có loan báo, thì dân chúng và những người lãnh đạo dân cũng chẳng nghe; như vậy, rao giảng chẳng có ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy sự thù ghét và tai họa. Về điều này, tiên tri Yêrêmia là một điển hình. Lời Chúa trong sách tiên tri Êdêkiel hôm nay cho thấy, cho dù dân chúng có không nghe lời cảnh báo của Thiên Chúa qua tiên tri, thì ít nhất khi một tiên tri thi hành chức năng ngôn sứ của mình, cũng làm cho con người thời đại đó biết rằng, có một tiên tri đang hiện diện giữa họ: Thiên Chúa vẫn đang quan tâm và săn sóc lo lắng cho họ, cho dù họ có vâng nghe Thiên Chúa hay không.
- Dầu vậy Đức Giêsu cũng chữa một vài bệnh nhân
Đức Giêsu được dân chúng cho là một tiên tri, và là một tiên tri lớn (Mt.16, 14). Với người Do Thái, Môsê là một tiên tri lớn. Người Do Thái vẫn mong ước vị tiên tri lớn cỡ tầm mức Môsê xuất hiện; vì như xưa Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu qua Môsê, thì khi vị tiên tri lớn tầm cỡ của Môsê xuất hiện, Thiên Chúa cũng sẽ làm những điều trọng đại cho dân tộc Do Thái như ngày xưa Ngài đã làm.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân, đã phục sinh người chết, đã cho kể điếc được nghe người câm nói được kể què được đi. Ngài là một tiên tri, và là một tiên tri lớn. Chính Gioan tẩy giả cũng nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiên tri phải đến, vị tiên tri mà dân Do Thái hằng mong ước. Có thể đó là lý do tại sao Gioan lại sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến không?” Đã có lúc dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, vì họ nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân khỏi ách thống trị của người Roma (Ga. 6, 15).
Không có tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình. Người ta quá thành kiến về quá khứ hoặc thành phần giai cấp xã hội của vị ngôn sứ, nên không nhận ra sứ điệp hoặc sự can thiệp của Thiên Chúa qua họ. Khi Đức Giêsu trở về làng Nadarét, dân chúng đã không tiếp đón Ngài như một tiên tri, cho dù làng Nadarét là một làng nhỏ, và dân chúng nơi đó cũng không thông thái gì hơn những người ở thành thị khác ở đất nước Do Thái. Vì họ thiếu niềm tin, nên Đức Giêsu không thể làm những dấu lạ cả thể, Ngài phải ra đi. Tuy vây, “Ngài cũng đã làm một vài dấu lạ bằng cách đặt tay chữa lành một số người ốm đau bệnh tật”. Thiên Chúa vẫn luôn chứng tỏ sự hiện diện và quan tâm của Ngài đối với con người, cho dù con người có cố tình từ chối. Đức Giêsu là sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa cho con người, không chỉ đối với những người làng Nadarét, nhưng còn cả đối với tất cả người Do Thái thời đó, và còn cho tất cả con người của mọi thời đại sau nữa. Đức Giêsu là dấu chỉ và biểu tượng Thiên Chúa đang ở với con người.
III. Ơn Ta đủ cho con
Trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamát, Phaolô là nỗi kinh hoàng đối với Kitô hữu. Tuy nhiên một khi được ơn trở lại, Phaolô lại là dấu chỉ của Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn hoạt động và làm con người trở lại với Ngài. Cả cuộc đời còn lại, Phaolô hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Thiên Chúa đã làm những điều cả thể cho con người nơi Đức Giêsu Kitô. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi”. Với những người biết Phaolô, Phaolô là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn hoạt động nơi con người.
Với cá nhân Phaolô, “cái dằm” đâm vào xác thịt của Phaolô lại là điều Thiên Chúa dùng để làm Phaolô ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và làm Phaolô gần gũi với Thiên Chúa. “Đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt tôi, nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con”. Thiên Chúa không cất “cái dằm” khỏi Phaolô, nhưng Thiên Chúa hứa ban ơn để Phaolô vượt lên được: “Ơn Ta đủ cho con”.
Nhiều người cũng có cái dằm nơi xác thịt mình. Có lẽ những người này cũng có kinh nghiệm xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt mình. Nhiều người trong họ có kinh nghiệm “cái dằm” đó vẫn tồn tại cho dù họ đã thành khẩn kêu xin Chúa nhiều lần. Tuy nhiên, không biết những người này có ý thức được rằng: câu Thiên Chúa nói với Phaolô cũng là câu Thiên Chúa muốn nói với mỗi người không? “Ơn Ta đủ cho con”. Hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã khởi đầu những điều kỳ diệu nơi mỗi người, thì cũng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ hoàn thành những gì Ngài đã khởi đầu. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn đang hoạt động nơi mỗi người qua Thánh Thần của Ngài. Chỉ cần mỗi người tin tưởng và đặt tất cả hy vọng nơi Ngài mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Xin bạn kể một kinh nghiệm Thiên Chúa đã hoặc đang tác động trên bạn, nếu được.
- Với kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa là ai?
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
– Được gặp Võ Tề đại sư, chẳng bằng gặp Phật.
Dương phủ hỏi: Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược, là chính Đức Phật đó.
Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói:
“Tu đâu cho bằng tu nhà –
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.
Thế nhưng, thói đời thì vẫn thường: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần Chùa, gọi Bụt bằng anh”.
Người ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay, cái đẹp mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta. Có khi còn dửng dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng với những con người đang sống vì chúng ta.
Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình, lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.
Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét. Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.
Đó là cách cư xử bất công của con người ngày hôm qua cũng như hôm nay. Họ đánh giá nhau theo định kiến có sẵn trong đầu. Đôi khi còn bị ác cảm, yên trí về địa vị, gia tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh giá sai lệch và nông cạn về nhau. Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái nhìn khách quan sẽ dẫn đến những nhận định bất công và thiếu trung thực. Vì “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”. Người tốt hay xấu tùy thuộc vào cái nhìn của chúng ta. Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác lại được đánh giá là tốt. Có người ở nhà được coi là vô tích sự nhưng ở ngoài lại hoạt bát nhanh nhẹn. Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị khinh bỉ, xem thường.
Phải chăng Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta? Tại sao chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau? Tại sao chúng ta không có cái nhìn tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến làm đau lòng nhau? Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau khi còn đang sống bên nhau, đừng để thời gian trôi qua trong sự tiếc nuối xót xa…, vì mình đã không một lần đối xử tốt với những người thân yêu mà nay đã không còn. Amen.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng để rửa mắt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mắt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy các vị bô lão mới giải thích: Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Đức Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.
***
Với con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, những người đồng hương với Đức Giêsu đã không nhận ra khuôn mặt thật của Người. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng Cứu Thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là người đồng hương với Con Thiên Chúa.
Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến “các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình” (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi”.
– Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người.
– Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy hiện tại của Người không một chút hào quang.
– Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy nơi Người một bác thợ mộc rất mực âm thầm, khiêm tốn.
Chính vì không tin nên họ đã không thấy. Thấy đây là thấy toàn vẹn khuôn mặt của Thiên Chúa. Thấy đây là thấy Người bằng cái nhìn luôn đổi mới. Thấy đây là thấy với con mắt đức tin. Tác giả thư Do thái viết: “Đức tin là bảo đảm cho những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy” (Dt.11,1). James Woodbridge viết: “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người”.
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Người có thể làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Người đã không thể làm được phép lạ nào” tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Người.
Nếu Phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với Niềm tin; thì chính Niềm tin là ân huệ của Thiên Chúa chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần phải cầu nguyện để có Niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có niềm tin con người phải quì gối cầu xin”.
***
Lạy Chúa, còn bao nhiêu việc lạ lùng Chúa muốn làm cho đời chúng con, xin Chúa ban thêm Niềm tin cho chúng con, để nhờ đó Chúa được tự do thực hiện những kỳ công của Người. Xin giúp chúng con cũng biết gieo rắc Niềm tin Chúa trong lòng mọi người. Amen.
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Cao ngạo khiến con người đánh mất Thiên Chúa, đánh mất đồng loại và đánh mất chính mình.
Sự cao ngạo không bao giờ có lối dẫn người ta đến gặp Thiên Chúa. Đó là một nguyên tắc đã trở thành kinh nghiệm ngàn đời, không phải của riêng ai, nhưng là của cả nhân loại.
Cao ngạo làm người ta xa Chúa đã vậy, nó còn có thể giết chết sự sống con người. Tất nhiên không phải sự sống thể lý, nhưng là những giá trị thánh thiêng, những giá trị làm nên sự quý báu, làm nên ý nghĩa của cuộc đời, của mỗi người nói riêng và cả nhân loại nói chung. Chẳng hạn:
* Niềm tin (chưa phải là đức tin của người Kitô giáo). Đó có thể là lòng tin tưởng giữa người với người bị đánh mất. Đó cũng có thể là lòng tin giữa con người với đấng thượng đế nào đó mà con người đặt niềm tin vào, nay bị đánh mất bởi cao ngạo.
* Hay như đức tin của những anh chị em Kitô giáo. Đó là lòng tín thác tuyệt đối mà họ đặt nơi Thiên Chúa vô biên, Đấng luôn yêu thương và quang phòng săn sóc mọi loài, mọi người. Đức tin làm nên giá trị vĩnh cửu của đời người. Nhưng vì cao ngạo, con người có thể hoàn toàn đánh mất đức tin.
* Hay chí ít là những giá trị thường hằng của đời sống như: tình yêu, lòng khoan dung, sự tha thứ, thái độ siêu thoát đối với của cải, lòng tự chủ đối với bản năng quyền lực… cũng bị đánh mất do cao ngạo.
Đó là những giá trị làm nên những mối tương quan tương quan sâu đậm trong mỗi tâm hồn con người. Để gìn giữ những giá trị vô cùng ấy, ta cần loại trừ mọi thứ cao ngạo trong đời mình. Bởi mối nguy hiểm do cao ngạo là mối nguy hiểm lớn. Nó làm ta đánh mất Thiên Chúa, đánh mất cả đồng loại quanh ta.
Sự mất mát do cao ngạo, dù đã quá lớn, nó vẫn chưa dừng. Nó biến ta thành kẻ trơ trụi. Trơ trụi đến mức trần trụi: ta chỉ quay quắt với chính mình, cố thủ trong pháo đài của riêng mình. Những danh từ như lòng tin tưởng, bạn bè, người thân… chỉ còn là những khái niệm mơ hồ, xa xăm. Con người có bao giờ thành người trọn vẹn khi tự mình che chắn, bao bọc lấy mình. Vì không là người trọn vẹn, do đó, cao ngạo xô ta đánh mất chính mình.
Từ thuở tạo thiên lập địa, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể hiểu nổi. Được làm người hạnh phúc, tự do, và thấm đẫm tình yêu Thiên Chúa đã là một ân phúc tuyệt vời, vậy mà tổ tông đã không coi đó làm đủ, lại dám nuôi một giấc mộng tầm cỡ thiên đàng: đòi bằng Thiên Chúa, Đấng mà mình phải phát xuất từ đó. Tổ tông không ngờ giấc mộng của mình lại chính là ảo vọng và tội lỗi.
Bởi cao ngạo quá đỗi, tổ tông đã kéo theo những mất mát cũng lớn không kém: mất Thiên Chúa. Bằng chứng là tổ tông đã tìm cách trốn Thiên Chúa. Mất cả tương quan với đồng loại. Mới ngày nào Ađam còn reo to vui mừng khi được Eva làm bạn: “Đây xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nhưng sau khi phạm tội, tình nghĩa thắm thiết đã không còn. Nguyên tổ bắt đầu đổ lỗi cho nhau: “Người đàn bà Chúa ban cho con đã hại con”. Và trong tội, nguyên tổ đã đánh mất chính mình, trở thành những kẻ vong thân, sống trong lầm lũi, sợ hãi và tủi nhục.
Và hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho thấy người đương thời của Chúa Giêsu, cụ thể là chính đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả. “Người đã không làm phép lạ nào được”. Có Thiên Chúa ở với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người “qua các làng chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Mãi đến tận bây giờ, vì không nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa, sự cao ngạo quá mức ấy, đã làm cho người Dothái, là những đồng hương của Chúa Giêsu, đã qua hai mươi thế kỷ, vẫn cứ vuột mất ơn cứu độ, vẫn là những người mỏi mòn trông chờ Đấng Cứu Thế của lời hứa. Ngày xưa, vì cao ngạo, tổ tông đã thất bại thảm hại. Bây giờ, cũng vì cao ngạo, quê hương của người Dothái, cũng chính là quê hương của Chúa Giêsu, đã tự mình tách khỏi ơn cứu độ. Đó quả là một thất bại thảm hại còn lớn gấp ngàn lần thất bại của tổ tông.
Dấu vết thất bại ấy, đã để lại một tấm gương ngàn đời cho muôn thế hệ. Vậy mà bài học trong tội tổ tông và bài học từ những trang Tin Mừng, lắm khi cả tôi và bạn vẫn chưa thuộc. Sự cao ngạo của ta đã nhiều lần làm gãy đổ tương quan giữa ta với Thiên Chúa, giữa ta với nhau, và với chính ta. Có một cách để chữa trị lòng cao ngạo đó chính là tình thương. Sự cao ngạo của những người đồng hương của Chúa Giêsu, trước hết là một lối mòn của những kẻ không biết yêu thương. Chúng ta hãy dành tặng nhau lòng yêu thương. Có yêu, ta sẽ không còn đố kỵ, không còn kỳ thị, không còn chấp nhất, không còn định kiến, không thiển cận và cũng hết hẹp hòi. Tất cả những điều đó (đố kỵ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, thiển cận, hẹp hòi…) là con đẻ của cao ngạo. Bởi đó, tình thương sẽ giúp ta dẹp bỏ thói cao ngạo. Mọi người hãy yêu thương. Chỉ có tình yêu thương mới là giải pháp trọng vẹn hòng chữa trị cao ngạo.
Ca dao tục ngữ Việt nam có câu:
“Gần chùa gọi Bụt bằng anh
Thấy Bụt hiền lành bế Bụt đi chơi”
Đây là cái nhìn của nhiều người không biết trân trọng, không biết tin tưởng vào Đấng thiêng liêng đang ở kế bên mình. Những người đồng hương với Chúa Giêsu ngày xưa cũng có cái nhìn như thế đối với Người. Những lời giảng dạy và những phép lạ của Chúa Giêsu chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa. Người đến trần gian này để thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó sứ mạng của một Đức Kitô tôi tớ.
Đáng lẽ những người đồng hương với Chúa Giêsu là những trước tiên đón nhận và tin tưởng vào Người. Thế nhưng họ là những người này chính là những người đầu tiên làm cho sứ mạng của Chúa Giêsu bị thất bại.
“Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin ” (Mc 6, 5 – 6). Có thể Chúa Giêsu muốn ưu tiên đem Tin mừng cứu độ đến cho những người này. Dầu vậy những người này đã bị che phủ bởi quan niệm riêng tư của mình. Họ trông mong một Đấng Cứu Thế theo ý của họ. Do đó, một lần kia Chúa Giêsu đã nói: “Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống nh ư lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác,và nói: Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.
Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. (Mt 11, 16 – 19)
Ngày hôm nay sống giữa thế giới tiến bộ của khoa học kỉ thuật nhiều khi chúng ta còn nghi ngờ vào Chúa. Chúng ta chưa thật sự tích cực đón nhận Chúa qua những lời dạy của Chúa cũng như những chỉ dẫn của Giáo hội. Chúng ta muốn thờ một Thiên Chúa theo ý mình. Quả thật đó là một sai lầm hết sức to lớn.
Một trong 3 sứ mạng chúng ta lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội là sứ mạng tiên tri. Do vậy, có lắm lúc sống theo lời dạy của Chúa và của Giáo hội chúng ta bị người khác coi thường. Nhưng chúng ta hãy kiên nhẫn đừng nản lòng. Chính Chúa Giêsu cũng bị người ta từ chối mà Người vẫn kiên trì. Nhờ đó ơn cứu độ mới được tồn tại và phát triển mãi mãi.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương mình” (Mc 6,4).
Theo Điển Ngữ Đức Tin của Linh mục Hồng Phúc, danh từ tiên tri hay ngôn sứ có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp là chữ prophẻte, có nghĩa là nói nhân danh người khác. Tiên tri là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài. Họ chuyển đến cho dân những đòi hỏi có trong sách luật, lời cảnh cáo hay lời hứa cho dân.
Không ít lần Thánh Kinh đã nhắc đến cảnh dân Do thái bị lưu đày, sầu khổ, hoạn nạn, truân chuyên, và các ngôn sứ được phái tới để loan báo cho dân một niềm hy vọng hay niềm vui của sự cứu thoát. Tiên tri Êgiêkien, Isaiah, Giêrêmia đã loan báo về lòng thương xót cảm thông của Giavê đối với nỗi khổ của dân, và Ngài sẽ ra tay cứu thoát họ.
Thế nhưng không ít lần các tiên tri cũng vạch cho dân biết các nỗi thống khổ là do họ đã bỏ Thiên Chúa. Các ngài can đảm lên tiếng phê phán, cảnh cáo lối sống sai lạc, và báo trước một hình phạt sẽ sảy đến hoặc sẽ kéo dài nếu người ta không đổi mới cuộc đời.
Kết quả của lời cảnh báo thường sẽ là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2:5). Thậm chí, lắm khi mạng sống của vị ngôn sứ còn bị đe doạ, nhất là khi phải nói lời Chúa cho những vị có quyền lực trong dân.
Ai lại không biết trong một quốc gia phong kiến, vua là trên hết. Mọi uy quyền sức mạnh đều nằm trong tay vua. Đụng đến vua thì chẳng khác chi tự đưa mình vào hang cọp. Thế mà để chu toàn sứ mạng, các tiên tri đã không quản liều mình.
Thánh Kinh có ghi lại hình ảnh của một tiên tri Nathan đầy khôn ngoan, dám tố cáo tội ngoại tình, giết người, cướp vợ của vua Đavít; hay hình ảnh can đảm của tiên tri Elia, dám nói thẳng với hai vợ chồng vua Akhab việc họ đã giết Nabot và chiếm đoạt tài sản của ông cách bất công, nên Thiên Chúa sẽ giáng phạt tội ác của họ; hoặc dưới triều vua Yosya, tiên tri Sophonia đã trách cứ các tư tế và chỉ trích thói tục ngoại lai khi tôn sùng các thần giả.
Trước lời loan báo, cảnh tỉnh của tiên tri, “hoặc là họ nghe, hoặc là họ không nghe”- một là người ta sẽ lùi bước trước điều gian ác để sám hối canh tân hoặc chính các tiên tri sẽ phải chuốc hoạ khổ đau, như trường hợp của ngôn sứ Gioan Tiền hô khi dám lên tiếng phản đối hành động loạn luân của Hêrôđê.
Các tiên tri của Chúa không những dám đánh mất sự sống thân xác khi đụng đến những kẻ có thế lực và quyền hành trong dân, các ngài còn dám hy sinh cả an toàn tình cảm khi lên tiếng cảnh cáo răn đe dân chúng. Như tiên tri Giêrêmia, Amos, Giôna, Nahum, Mica, những vị dám lên án dân Do thái, dám thoá mạ bọn nhà giàu cướp bóc người nghèo, những kẻ cho vay vô lương tâm, những con buôn gian lận, những gia đình chia rẻ, các tư tế tham lam, hay các quan án hối lộ.
Giữa một xã hội vô luân, giữa một dân tộc bị tục hoá, giữa những con người đang chạy theo những điều vô đạo, vô phép, mà một mình dám đứng lên để mở ra một hướng đi mới, dạy dỗ một giáo lý mới nhân danh Chúa, tất khó tránh khỏi cảnh kẻ chê người ghét, kẻ phản đối người hận thù.
Đức Giêsu, vị tiên tri tối cao, cũng không được miễn trừ. Phúc âm nói rõ: khi trở về quê nhà Nazaret, Ngài vào hội đường để giảng dạy. Ngài rao truyền một giáo lý yêu thương “họ không nghe.” Hơn nữa họ còn “vấp phạm vì Người” (Mc 6:3b).
Tất nhiên sự vấp phạm này không chỉ là thái độ thiếu kính trọng đối với “anh thợ mộc con bà Maria” của những người hàng xóm, nhưng còn cả hành vi phủ nhận không tin của bà con thân cận (Ga 7:5). Chính Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Không tiên tri nào mà không bị khinh bỉ nơi quê quán, bà con, họ hàng nhà mình” (Mc 6:4).
Thế nhưng, dù bị ngược đãi khinh khi, dù phải đối diện với lòng chai dạ đá, Đức Giêsu vẫn không ngã lòng từ bỏ sứ vụ. Thánh kinh ghi nhận: lúc đám đông không tin phục thì Ngài đi đến với “một vài bệnh nhân;” khi thành này từ khước Tin Mừng thì Chúa Giêsu lại đi rao giảng cho “các làng chung quanh.” Đây phải là thái độ không thể thiếu được nơi các ngôn sứ, những người được mời gọi rao truyền Lời Chúa cho muôn dân.
Nói đến ngôn sứ xin đừng chỉ liên tưởng đến các vị tiên tri trong Cựu ước hay những đấng “bạo mồm bạo miệng” dám lên tiếng hăm doạ, kết án những kẻ sống đời nghịch luân, nghịch thường. Song, ngôn sứ chính là “tất cả những người Kitô hữu, nhờ phép rửa tội, được hiệp thân với Đức Kitô, kết thành dân của Chúa và do đó, họ tham dự theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ ngôn, và vương giả của Đức Kitô. Theo điều kiện của mỗi người, họ được kêu gọi thực hành sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế giới” (Giáo Luật số 204).
Như thế, ẩn sâu trong bản chất Kitô hữu của tôi là cả một chức năng ngôn sứ. Với chức năng đó, đời sống tôi phải đi đôi với việc loan báo chân lý, bảo vệ luân lý, bênh vực nhân lý nhân danh Thiên Chúa Hằng sống.
Nhưng thử hỏi mấy ai sẽ nghe lời tôi khi đời tôi là một phản chứng. Làm sao người ta nhận ra chân lý khi mà tôi cứ mãi sống trong gian dối, lọc lừa, tham lam. Ai có thể nghe tôi dạy dỗ về luân lý khi mà đời tôi đầy dẫy những thứ vô luân, rối vợ rối chồng, nghiện ngập đam mê. Và ai có thể đồng tình với tôi để bênh vực nhân phẩm đang khi tôi xúc phạm nhân phẩm, huỷ diệt thai nhi, cắt đứt tình người.
Như vậy, để đóng trọn vai trò ngôn sứ, đời tôi phải là một nỗ lực chứng tá liên lỉ. Nhưng tôi tự hỏi: ngay như cuộc đời toàn hảo của Chúa Cứu Thế cũng không được mọi người chấp nhận và bước theo, huống hồ là cuộc đời chứng tá của mình?
Nhưng tính chất cần có của đời ngôn sứ vẫn là không ngã lòng bỏ cuộc. Dù với khó khăn trắc trở của môi trường hay của lòng người, tôi vẫn cứ tiến tới. Trong niềm tin như Thánh Phaolô, tôi dám nói: “Ơn Chúa luôn đủ cho tôi. Vì chính trong sự yếu hèn của tôi mà quyền năng Thiên Chúa được tỏ bày” (2 Cr 12,9).
“Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Nghĩ về quê hương ai cũng dành cho quê hương mình những tình cảm thân thương gắn bó. Xa quê hương ai cũng mong ngày nào đó được quay trở về. Người ta có nhiều lý do để nghĩ về quê hương của mình. Nhớ quê hương vì nơi đó có nhiều kỷ niệm êm đềm của những ngày thơ ấu. Nhớ quê hương vì nơi đó có người yêu thương đang đợi chờ trông ngóng. Nhớ quê hương vì đó cũng là nơi an nghỉ của những người thân yêu nhất trong đời.
Nỗi nhớ nhung đã trở thành lý do mạnh mẽ để thúc giục con người dù đi xa đến đâu cũng mong quay về nhà. Với cuộc sống vội vã bon chen như ngày nay, dường như người ta không cố tìm chi kỷ niệm xưa cho mất thời giờ. Nhưng ít ra quê hương sẽ là nơi con người tìm được sự thanh thảng sau những ngày vất vả bôn ba. Nơi quê hương tạ tìm ra sự thông cảm chân thành trong cuộc sống. Ta tìm thấy sự thư thái an nhàn nơi những khuôn mặt thân quen. Đó là những khuôn mặt đã từng ủng hộ ta khi ta chưa là gì cả.
Dù quê hương có ở nơi sâu xa hay nghèo nàn thì trong ngăn kéo trí nhớ người ta không bao giờ quên. Quê hương đúng là “chùm khế ngọt” của mỗi con người. Nhìn về quê hương Nazaret của Chúa Giêsu thì hoàn toàn khác. Ngài trở về không được người thân ủng hộ, trái lại họ đã khinh bỉ Ngài và xúc phạm đến Ngài. Nazaret trong lòng Chúa Giêsu dù có đẹp đến đâu thì đó chỉ là tưởng tượng chứ không có trong thực tế. Do đâu quê hương vốn thân thương giờ trở nên chán ngán như vậy?
Lòng người còn ngăn cách
Người sống gần nhau nhưng lòng thì xa cách. Chắc chắn người làng Nazaret đã nghe biết nhiều những việc làm của Chúa Giêsu nhưng họ không chút tự hào. Họ không tự hào trái lại còn tỏ ra xem thường do cái nhìn thiên kiến của họ. Người thiên kiến luôn tìm cách dán nhãn hiệu cho người khác theo cách nghĩ của mình mà không dựa trên sự thật khách quan. Cái nhìn thiên kiến thường do thiếu hiểu biết nên phán đoán không chính xác; do thiếu khiêm tốn nên hay huênh hoang tự đắc tự cho mình là chân lý; do tầm nhìn hạn hẹp kiểu ếch ngồi đáy giếng nên coi trời bằng vung. Đây là lý do dễ làm người ta không thể đến với nhau. Sống chung quê hương là lý do không đủ mạnh để nối kết những người có khoảng cách quá xa về hiểu biết.
Sự đời còn phân tranh
Trong Tin Mừng không thấy có sự cạnh tranh nào giữa Chúa Giêsu và những kẻ đồng hương. Thế nhưng ta có thể đọc được những tranh chấp ngấm ngầm nơi họ. Một tác giả đã viết lý do duy nhất khiến người nào đó ghét bạn là vì họ muốn giống bạn thôi. Những người đồng hương như ngầm muốn mình cũng làm được như Chúa đã làm. Ông Giêsu nghèo nàn như thế mà làm được chuyện lạ, sao mình lại không? Ông Giêsu có xa lạ gì đâu giờ lại đứng ra giảng dạy, mình không làm hơn ông ấy sao? Ông Giêsu có là gì đâu sao lại được nhiều người tiếp rước? Quả thật, có quá nhiều sự cạnh tranh về khả năng, uy tín và tình cảm. Khi cạnh tranh mỗi người đều đeo mắt kín hận thù thì làm sao nhận ra người đối diện là bạn, là anh chi em hay là người đồng hương được. Đáng lẽ quê hương là điểm hẹn tình thương giờ đây đã trở thành bãi chiến trường của sự tranh chấp.
Cơ may bị bỏ lỡ
Bị người đồng hương chối từ nên không phép lạ cả thể nào xảy ra. Chúa Giêsu đã bỏ Nazaret đến các làng khác không hẹn ngày về. Một cơ hội lớn đã bỏ lỡ. Chúa đến luôn là ân ban cho mọi người. Ai chối từ đồng nghĩa với việc khước từ ân ban. Ta bỏ lỡ cơ hội khi không nghe tiếng than van của người bên cạnh; khi ta làm ngơ trước cảnh ngộ nghiệt ngã của một người. Ta bỏ lỡ khi không nghe tiếng Chúa cảnh báo để sám hối quay về qua nhắc nhở của bạn bè, qua khuyên bảo của bề trên, qua các tai nạn hay qua những lời phê phán của kẻ thù ghét ta. Hãy xem tất cả như là cơ may mà Chúa gửi đến từng ngày. Quê hương sẽ nên giàu đẹp khi con người biết tích góp nhiều điều tốt đẹp.
Quê hương Chúa Giêsu không là trái ngọt nhưng là trái đắng: trái đắng của khinh bỉ, trái đắng của chối từ, trái đắng của ganh ghét. Dẫu vậy Ngài không than van, giận dữ hay oán trách quê mình. Ngài vẫn hiện diện trong hiền lành và khiêm hạ để đón nhận thực tế. Chính thái độ đó sẽ làm bớt đi trái đắng mà góp thêm trái ngọt cho quê hương mình.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Có lẽ anh chị em ít khi ý thức rằng qua bí tích rửa tội và thêm sức, chúng ta được chia xẻ với Đức Giêsu sứ mạng làm ngôn sứ.
Hôm nay chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu sứ mạng ấy là thế nào, và hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn sứ mạng ấy.
- Gợi ý sám hối
Chúng ta chỉ lo sống đạo cho mình mà không ý thức sứ mạng ngôn sứ của chúng ta.
Chúng ta không dám nói về Chúa cho người khác.
Chúng ta không can đảm bênh vực sự thật và công bình.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Êd 2,2-5)
Ngôn sứ Êdêkien kể về ơn gọi của mình:
– Ông đã được chính Thiên Chúa kêu gọi
– Khi gọi ông làm ngôn sứ, Thiên Chúa ban “thần linh” cho ông.
– Sứ mạng của ông là chuyển sứ điệp của Chúa đến với con cái Israel.
– Nhưng đó là một sứ mạng khó khăn, bởi vì họ là một dân cứng lòng.
- Đáp ca (Tv 122)
Có thể coi Tv 122 này là những tâm tình của một người lãnh sứ mạng ngôn sứ:
– Ngôn sứ luôn nhìn lên Chúa là Đấng đã kêu gọi mình
– Trong những lúc khó khăn, ngôn sứ cảm thấy ê chề chán nản
– Nhưng ngôn sứ luôn trông cậy vào Chúa, xin Ngài cứu giúp.
- Tin Mừng (Mc 6,1-6)
Đức Giêsu trở về quê hương mình là Nadarét. Đến ngày Sabát, Ngài vào hội đường và giảng Thánh Kinh.
Ban đầu những người đồng hương rất ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan của Ngài và vì những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác.
Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài (chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường), họ không tin Ngài nữa.
Chính vì thái độ không tin ấy, nên ở Nadarét Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ.
- Bài đọc II (2 Cr 12,7-10)
Thánh Phaolô chân thành chia xẻ tâm sự của mình:
Bản thân ông rất yếu đuối. Ông cảm thấy như có một cái dằm luôn đâm vào da thịt mình. Các chuyên viên Thánh Kinh đang tìm hiểu “cái dằm” này là gì. Dù chúng ta chưa xác định cụ thể, nhưng có thể hiểu đó là ám chỉ đến những sự yếu đuối của Phaolô.
Chính vì ý thức yếu đuối như thế nên nhiều lần ông ngã lòng, xin Chúa cất khỏi cái dằm ấy.
Nhưng Chúa đã khích lệ ông: “Ơn Ta đủ cho con”
Cuối cùng ông tin tưởng và tiếp tục sứ mạng, “vì khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi mạnh mẽ”.
- Gợi ý giảng
* 1. Tiếng nói của những ngôn sứ
Tiếng nói của những ngôn sứ rất lạ thường, vì ngôn sứ không nói tiếng nói của loài người mà là tiếng nói của Thiên Chúa. Loài người thường “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, còn Thiên Chúa thì nói thẳng sự thật để dạy dỗ hoặc sửa lỗi. Mà “sự thật mất lòng” cho nên tiếng nói của Thiên Chúa nhiều khi chói tai.
Ngôn sứ nói tiếng nói của Thiên Chúa, nên nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét. Ngôn sứ Êdêkien thay mặt Chúa kêu gọi dân Do Thái hãy sám hối tội lỗi chứ đừng ỷ lại vào sự kiện họ có Đền thờ tại Giêrusalem và cũng đừng nương dựa vào thế lực ngoại bang. Những lời nói này đã khiến dân Do Thái kết ông tội phạm thánh và phản quốc. Và họ đã nhiều lần bách hại ông, ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Gioan Tẩy giả thị bị Hêrôđê chém đầu vì đã dám lên tiếng vạch tội loạn luân của vua. Rất nhiều ngôn sứ khác cũng không thoát khỏi lao đao lận đận do đã thay mặt Chúa nói lên những “sự thật mất lòng”.
Ngày nay có biết bao sự thật ê chề trong xã hội cũng như trong Giáo Hội. Thiên Chúa cần những ngôn sứ can đảm nói lên những điều đó. Nhưng buồn thay, đa số kitô hữu, thậm chí những cán bộ Tin Mừng và những tu sĩ, giáo sĩ đã chọn thái độ giả điếc làm ngơ và ngậm miệng. Chỉ vì muốn được yên thân. Như thế là không thi hành chức năng ngôn sứ của mình.
Ta có thể nói thẳng bằng những lời bộc trực, hoặc khéo léo hơn bằng lời lẽ từ tốn tế nhị, nhưng không bao giờ nên ngậm miệng không nói.
- Tiêu chuẩn Chúa chọn người
Khi chọn ai, Chúa theo những tiêu chuẩn rất lạ: không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc… Thánh Phaolô đã liệt kê 5 tiêu chuẩn Chúa theo:
– những cái yếu đuối,
– những cái ngu dại,
– những cái hèn mọn,
– những cái bị khinh thường
– và những cái hư không. (Sunday School Times).
- “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9)
Thiên Chúa luôn ban cho ta đầy đủ ơn Ngài:
– Khi gánh đời ta nặng hơn, Ngài ban thêm ơn
– Khi công việc ta cực nhọc hơn, Ngài ban thêm sức
– Khi Ngài gởi khổ sầu, Ngài cũng gia tăng lòng thương xót
– Khi Ngài gởi đến thử thách, Ngài cũng gởi đến bình an
– Lúc ta cảm thấy sức mình hầu như cạn kiệt thì đấy là lúc ơn Chúa thực sự tràn đầy. (Góp nhặt).
- Phép lạ
Bài Tin Mừng hôm nay đề cập về Phép lạ: Ở quê hương Nadarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nadarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem: phép lạ là gì? và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không?
Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên nữa. Thí dụ: trong khoa vật lý học, chúng ta biết có quy luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo quy luật tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.
Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.
Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này là: Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên: phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập những quy luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng quy luật tự nhiên mà Ngài đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).
Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì? Thường là Đức Tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẻ vững vàng – hoặc để mời gọi những người chứng kiến càng tin mạnh mẻ vững vàng hơn.
Trong các sách Tin Mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức Giêsu hỏi “Con có tin không?” Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thoả thích hiếu kỳ thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng thế: những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ một nghèo nàn tầm thường, nhưng mặt khác khi nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Đức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Đức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thoả mãn tính vụ lợi của họ.
Có những người rất nhẹ dạ dễ tin: chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.
Có những người rất hay cầu xin phép lạ: phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.
Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý: điều quan trọng nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là Đức Tin: phép lạ xảy ra là vì Đức Tin: hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẻ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.
– Ở Lộ Đức, ở Fatima, ở La Salette v.v…. khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo Hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo Hội mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo Hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì Đức Tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.
– Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể:: tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa… chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng… Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu., bệnh tật, buồn khổ… chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới là một đức tin vững mạnh.
- Có tin mới thấy
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng để rửa mắt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mắt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy các vị bô lão mới giải thích: Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Đức Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.
*
Với con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, những người đồng hương với Đức Giêsu đã không nhận ra khuôn mặt thật của Người. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng Cứu Thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là người đồng hương với Con Thiên Chúa.
Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến “các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình” (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi”.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy hiện tại của Người không một chút hào quang.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy nơi Người một bác thợ mộc rất mực âm thầm, khiêm tốn.
Chính vì không tin nên họ đã không thấy. Thấy đây là thấy toàn vẹn khuôn mặt của Thiên Chúa. Thấy đây là thấy Người bằng cái nhìn luôn đổi mới. Thấy đây là thấy với con mắt đức tin. Tác giả thư Do thái viết: “Đức tin là bảo đảm cho những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy” (Dt.11,1). James Woodbridge viết: “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người”.
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Người có thể làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Người đã không thể làm được phép lạ nào” tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Người.
Nếu Phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với Niềm tin; thì chính Niềm tin là ân huệ của Thiên Chúa chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần phải cầu nguyện để có Niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có niềm tin con người phải quì gối cầu xin”.
***
Lạy Chúa, còn bao nhiêu việc lạ lùng Chúa muốn làm cho đời chúng con, xin Chúa ban thêm Niềm tin cho chúng con, để nhờ đó Chúa được tự do thực hiện những kỳ công của Người. Xin giúp chúng con cũng biết gieo rắc Niềm tin Chúa trong lòng mọi người. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
- Mạnh và yếu
Câu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu được lời của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10)
Hai người nghèo đi từ thành phố này đến thành phố khác để xin ăn. Một người rất vạm vỡ khoẻ mạnh và không bao giờ đau yếu, còn người kia thì ốm tong teo và hầu như lúc nào cũng bị bệnh. Anh chàng khoẻ mạnh thường cười chê anh chàng ốm yếu khiến chàng này rất buồn, anh cầu xin Chúa trừng phạt anh kia.
Khi hai người đến thủ đô thì vừa gặp lúc trong triều đình có chuyện buồn, là hai vị quan thân cận nhất của nhà vua vừa mới chết. Một người là cận vệ của nhà vua, người khoẻ mạnh nhất nước; người kia là thái ý của nhà vua, người chữa bệnh giỏi nhất nước. Nhà vua sai người đi khắp nước để tìm hai người thay thế, và cuối cùng người ta cũng tìm được.
Nhưng trước khi bổ nhiệm hai người ấy vào chức vụ, nhà vua bảo họ hãy đưa ra bằng chứng về tài năng của mình. Người ứng cử vào chức cận vệ thưa: “Muôn tâu thánh thượng, hãy mang đến cho hạ thần người nào khoẻ mạnh và to lớn nhất. Thần sẽ giết chết hắn ngay lập tức chỉ bằng một cú đấm”. Người ứng cử vào chức thái y thưa: “Xin hãy mang đến cho hạ thần người nào ốm yếu bệnh tật nhất. Thần sẽ chữa người đó hết mọi thứ bệnh chỉ trong vòng một tuần lễ.”
Người ta lại đi tìm đối tượng cho hai ứng cử viên ấy thi thố tài năng. Và thật là bất ngờ, chính hai người ăn mày trên được chọn. Chỉ bằng một cú đấm, người ứng cử vào chức cận vệ đã giết chết người ăn mày to khoẻ. Và chỉ trong một tuần lễ, người ứng cử vào chức thái y đã chữa người ăn mày ốm yếu hết mọi thứ bệnh. Thế là sức mạnh của người ăn mày to khoẻ lại khiến anh phải chết, còn sự ốm yếu của người ăn mày bệnh tật lại giúp anh khoẻ mạnh!
Thánh Phaolô đã nói rất đúng: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”. Người ta thường không té ngã vì yếu, nhưng vì tưởng mình mạnh. Thánh Phaolô biết mình yếu, nhưng đồng thời Ngài cũng biết bù đắp sự yếu đuối của mình bằng sức mạnh vô địch của Chúa, “vì sức mạnh của Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối (của con người)”. (Viết theo Flor McCarthy)
- Dụ ngôn sống động về chung hiệp đại kết
Năm 1940 một thanh niên Tin Lành người Thụy Sĩ dừng xe đạp trước một ngôi làng hẻo lánh trong cảnh hoang tàn. Một bà cụ khẩn khoản nói với người thanh niên ấy: “Xin ở lại đây với chúng tôi vì anh thấy rõ chúng tôi sống trong cảnh cô lập.” Người thanh niên ấy nay được cả thế giới biết đến với danh xưng thân thương là Thầy Roger. Đối với thầy Roger, lời mời của bà cụ nói lên ý Chúa dành cho thầy. Khi ấy nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh, đất nước bị chia đôi, ranh giới giữa khu chiếm đóng và khu tự do xuyên qua làng Taizé. Thầy Roger đã kiếm cho mình một nơi ở và bắt đầu một đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nhưng hoàn cảnh đặt thầy trước những con người cụ thể bị Đức Quốc Xã truy lùng để tiêu diệt. Thầy đã đón tiếp và che giấu những người Do Thái đáng thương ấy. Một mình thầy đứng ra săn sóc an ủi những người nam và nữ chạy trốn quân đội Hít-le. Nhưng vì quân Đức Quốc Xã truy lùng đối tượng gắt gao nên thầy buộc phải trở về quê hương Thụy Sĩ. Năm 1944, thầy Roger trở lại Taizé, lần nầy với 3 đồng chí quyết tâm gầy dựng nên cộng đoàn tu sĩ đại kết rộng mở. Mục tiêu mà cộng đoàn này nhắm thể hiện là trở nên như “bài dụ ngôn sống động về một đời sống chung hiệp”. Cộng đoàn chủ tâm dâng lời cầu nguyện để góp phần làm cho các Giáo Hội Kitô được hòa giải. Hai chủ đích ở tâm điểm của sứ mạng theo thầy Roger là: Phải dám liều thân dấn mình vào việc giúp đỡ những người nghèo nhất và hoà giải với đức tin công giáo. Ngay từ ban đầu thầy Roger đã nối kết với Roma bằng những mối dây của niềm tin tưởng. Thầy đã kết thân với 3 vị Giáo Hoàng là Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II. Thầy nói: “Đức Gioan XXIII đã là cha linh hướng đích thực cho chúng tôi. Chính ngài đã ủng hộ để cộng đoàn Taizé mà ngài gọi là mùa xuân, được chào đời.”
Ngày nay cộng đoàn Taizé có cả trăm thành viên Công Giáo cũng như Tin Lành thuộc nhiều truyền thống khác nhau, đến từ hơn 25 quốc gia trên thế giới. Họ không nhận quà tặng nhưng tự mình lao động để góp phần nuôi sống cộng đoàn và chia sẻ với người khác. Họ cũng không nhận cho mình tài sản kế thừa nhưng chỉ nhận làm quà tặng cho người nghèo mà thôi. Kể từ những năm 50, cộng đoàn Taizé đã phái thành viên của mình đến sống nơi những môi trường nghèo trên thế giới. Riêng về nữ tu, có hội dòng thánh Anrê từng được thiết lập trong Giáo Hội Công Giáo đã 7 thế kỷ nay. Kể từ 1966, hội dòng này đã phái người đến ở một làng kế cận Taizé để tham gia việc đón tiếp khách từ thập phương.
Ảnh hưởng của Taizé về đại kết nhất là với người trẻ ở Âu Châu, thật là rõ nét. Để nâng đỡ người trẻ, cộng đoàn này đã khơi động một cuộc hành trình về tin tưởng lẫn nhau trên toàn cầu. Taizé không tổ chức người trẻ thành phong trào qui về Taizé, nhưng khuyến khích họ mang lại bình an, hoà giải, niềm tin tưởng lẫn nhau ngay nơi những thành phố, những đại học, những sở làm việc, những giáo xứ. Và như vậy, người trẻ được khuyến khích sống chung hiệp với mọi thế hệ. Về cuối mỗi năm dương lịch, Taizé có tổ chức một cuộc tập họp người trẻ tương đối lớn trong 5 ngày. Cuộc họp giới trẻ đại kết vào cuối năm 1994, thu hút hơn một trăm ngàn người trẻ từ nhiều nước tới họp tại Paris của nước Pháp.
Mỗi dịp tập họp như vậy, thầy Roger gửi đến tay người trẻ một bức thư được dịch ra trên 50 thứ tiếng. Nội dung thư đó bao gồm Lời Chúa như chất liệu để suy niệm suốt năm cho tới cuộc họp cuối năm tới. Thư đó vị sáng lập cộng đoàn Taizé thường viết từ một nơi nổi tiếng về mức sống nghèo của người dân như Calcutta, Chili, Haiti, Êtiôpi, Phi Luật Tân, Phi Châu….
Bởi đâu thầy Roger thực hiện được những việc có ý nghĩa thiêng liêng như vậy? Có lần thầy cắt nghĩa cho thấy thầy đã nhận sứ mạng góp phần hoà giải giữa các Kitô hữu từ nơi bà ngoại thầy. Ngoại của thầy đã từng trải qua hai cuộc chiến (1870 và 1914-1918) và đã từng dặn dò cháu Roger Schultz khi còn tấm bé rằng: “Cháu đừng trải qua những điều bà đã phải trải qua! Đừng chấp nhận nhìn cách bàng quan những điều bà đã mắt thấy tai nghe! Hãy góp phần chuẩn bị để Âu Châu được bình an nhờ biết sống hoà giải giữa các Kitô hữu.” Tuy là tín hữu Tin Lành, ngoại đã chọn đến nhà thờ Công Giáo để kín múc lấy sức mạnh hoà giải từ bí tích Thánh Thể. Thực ra ngoại không chỉ nói cũng không chỉ cầu nguyện, nhưng đã nêu gương sống động nhờ biết dấn thân tiếp đón những người già, phụ nữ và trẻ em, phải chạy giặc dưới làn bom đạn. Ngoại đã kiên trì làm việc thương người đó hầu như tới phút cuối cùng của đời ngoại.
Biến cố quyết định cho việc thầy Roger hiến dâng đời mình cho công cuộc hoà giải xảy ra khi thầy lên 17. Khi ấy thầy mắc bệnh lao phổi và nghiệm thấy cái chết không xa. Thầy đối diện với ý nghĩa cuộc đời và tự hỏi do đâu xảy ra đau khổ, hằn thù khiến các dân tộc sát hại nhau. Hỏi rằng có con đường nào giúp người này hiểu người kia để cùng nhau xây dựng hoà bình chăng? Điều trở nên minh nhiên nơi nội tâm thầy Roger là cần phải chữa trị trái tim con người. Thầy nghe tiếng nói thúc giục thầy rằng: “Nếu quả thật có con đường hoà giải đó thì tôi hãy bắt đầu dấn thân bước theo con đường đó đi.” Kể từ ngày thầy Roger nghe thấy lời thúc giục đó, thầy quyết tâm tận hiến cả cuộc đời để đạt cho được mục đích lý tưởng nầy để có được sự hoà giải và đại kết trong cộng đồng nhân loại. Nay thầy đã 84 tuổi và quyết định ấy càng thêm khởi sắc. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã về thăm quê hương, nhưng những người đồng hương ở Nazaret đã không tin Người mà còn muốn hại Người. Chúng ta là Kitô hữu mang tên của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
- Xin cho mọi người Kitô hữu trong Hội thánh còn yếu đức tin hoặc còn cứng lòng tin / được soi sáng và thông hiểu / để lớn lên trong đức tin và có thể truyền giáo cho mọi người.
- Xin cho mọi người trên thế giới còn đang chống đối hoặc dửng dưng với Thiên Chúa / đừng bắt buộc hoặc lôi kéo những người khác phải theo họ / nhưng biết tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người.
- Xin cho những người đang có những thành kiến hoặc thất vọng về Thiên Chúa / được gặp nhiều chứng nhân về sự thật và về tình yêu Thiên Chúa / để họ tìm ra ánh sáng và hy vọng.
- Xin cho các Kitô hữu trong họ đạo chúng ta đừng tự hào mình đã biết tất cả về Chúa / không muốn tìm hiểu học hỏi gì thêm / để chỉ khư khư giữ lấy những thành kiến sai lầm về Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa Kitô, chúng con là Kitô hữu mang tên của Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng hiểu biết Chúa đầy đủ hơn, để chúng con có thể giới thiệu Chúa cho mọi người thân cận, Chúa là Đấng hằng sống hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu Con Thiên Chúa đã chia xẻ cho chúng ta sứ mạng ngôn sứ của Ngài, một sứ mạng vừa cao cả vừa khó khăn. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và cũng là Cha chúng ta lời Kinh Lạy Cha, xin Cha giúp chúng ta can đảm thi hành sứ mạng của mình.
Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con can đảm đấu tranh chống lại sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về thi hành chức năng ngôn sứ của mình. Chúc anh em được bình an.
Có một lực sĩ, trong cuộc tranh tài quốc tế đã đoạt chức vô địch với tấm huy chương vàng. Các bạn bè hâm mộ anh, đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục anh. Điều đó đã làm cho một lực sĩ khác tỏ ra thèm khát. Anh này, ban đêm đã hì hục trong bóng tối để đào bới với hy vọng phá đổ tượng đài ấy. Trong lúc anh này đang cố gắng xô đẩy bức tượng, người ta nhận thấy bức tượng lắc lư trên chiếc đế, rồi bỗng dưng đổ nhào xuống trên đầu và đè chết anh lực sĩ thèm khát này.
Đó là một câu chuyện tiêu biểu cho tính thèm khát, một tính xấu đã từng thâm nhập vào tâm hồn nhiều người. Tính xấu này cũng đã có mặt qua đoạn Tin mừng hôm nay. Nhiều người bà con lối xóm tại Nagiarét, nơi Đức Kitô sinh trưởng đã tỏ ra bực bội tức tối vì Ngài được tôn kính và ca tụng do những lời Ngài nói và những việc lạ lùng Ngài làm. Họ từ chối không muốn nghe lời Ngài, không muốn tin vào Ngài, không muốn bước theo Ngài. Kết quả là Chúa Giêsu đã không làm được phép lạ nào ở chính quê hương bản quán của Ngài, chỉ vì họ cứng lòng tin.
Thèm khát và ghen tị thì rất gần gũi nhau… Thèm khát thì liên hệ tới cái người khác có. Còn ghen tị thì liên hệ tới sự chú ý và tình cảm người khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu sang hơn tôi, có nhà cao cửa rộng hơn tôi. Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được tôn trọng và được kính nể hơn tôi. Chúng ta cần phải lưu ý: nếu chỉ mơ ước có được một cái gì đó mà người khác đã có thì chưa phải là thèm khát. Mơ ước đó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó, sẽ làm cho chúng ta buồn phiền, bất mãn và khốn khổ.
Chúa đã qui định hai giới răn để kìm hãm lòng thèm khát của chúng ta. Điều răn thứ chín quy định: chớ muốn vợ chồng người và điều răn thứ mười: chớ tham của người. Và như thế, thèm khát là ham muốn một cách trái phép. Hầu hết các tội lỗi đều do sự ham muốn này gây nên, chẳng hạn: vì ham muốn tài sản của người khác mà mới nảy sinh những tội như ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian.
Sự ghen tị cũng vậy, vì nó mà nảy sinh ra nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian và những hành động mờ ám khác nữa. Sự ghen tị xấu xa nhất đã đem cái chết cho Đức Kitô Đấng cứu độ chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy lòng ghen tị đã làm mù quáng những kẻ mà đáng lẽ có thể tin theo Ngài. Vậy chúng ta có thái độ nào đối với lòng ghen tị. Khi người khác được thành công, được may mắn, được kính nể, chúng ta có biết cảm tạ Chúa cho họ hay không? Còn nếu như chúng ta bị người khác ghen tị, chúng ta có biết xin Chúa giúp họ chế ngự và sửa đổi lầm lỗi ấy hay không? Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ chống đối Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy xin Ngài giúp đỡ chúng ta biết vượt thắng sự thèm khát và lòng ghen tị nơi bản thân chúng ta, cũng như nơi những người chung quanh chúng ta.
Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.
Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.
Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.
Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
2) Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?
3) Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
Những điều nghịch lý: đó là những ý kiến hoặc thực tại ngược với những gì vẫn được người ta chấp nhận hoặc ngược với những gì phải có theo lẽ bình thường.
Trong những đoạn Kinh Thánh của Chúa nhật hôm nay ta có thể rút ra hai điều nghịch lý: Điều thứ nhất trích từ Tin Mừng; điều thứ hai từ thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Corintô. Chúng ta hãy bắt đầu với điều nghịch lý của Tin Mừng.
Bị người nhà của Ngài chối bỏ.
Sau một chuyến đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu trở về quên hương. Người ta chỉ nghe toàn tiếng vang thuận lợi về Ngài.
Ngài rao giảng như không bao giờ đã có ai rao giảng. Ngài làm phép lạ, Ngài chữa lành bệnh nhân. Vậy nên, nơi hội đường trong ngày Ngài trở về cứ tưởng người ta sẽ đón rước Ngài một cách long trọng. Thế mà không. Con cái của quê hương không được đón tiếp niềm nở. Người ta khó lòng tưởng tượng tượng đứa con trai bác thợ mộc và của bà Maria lại có thể là người đã được ca tụng như thế, liệu ông ta có làm được những gì mà người ta nói rằng ông ta đã làm ở nơi khác chăng? Thánh Marcô viết: “Và họ lấy làm chướng tai gai mắt về Ngài”.
Khi đọc bản văn Tin Mừng hôm nay liền nghĩ đến điều này, là rất thường người ta phải khó nhọc lắm mới có thể bắt chúng ta nhìn nhận tài năng –không phải của con cái hoặc những thành viên trong gia đình chúng ta- nhưng là của những người lối xóm, những người đồng hương với chúng ta. Sự nhỏ nhen này không phải là không có hậu quả tiêu cực, bởi vì chúng làm tổn thương người khác và ngăn cản những dự định tốt.
Khi đọc bài Tin Mừng này tôi cũng nghĩ đến cách mà chúng ta đón nhận (hoặc không đón nhận) và lắng nghe (hoặc không lắng nghe) những kẻ rất gần chúng ta, là chứng nhân của Thiên Chúa: Đứa bé này đặt câu hỏi cho chúng ta do bởi sự sốt sắng của nó; Người hàng xóm này nói về tôn giáo cho chúng ta, người thiếu niên này chống lại cái mà nó gọi là những giá trị giả tạo của chúng ta. Vị linh mục này, nhân danh Chúa Kitô, đặt lại vấn đề về những lối hành động và suy tư của chúng ta. Bởi vì chúng ta quen biết tất cả những người này (có lẽ quá!) bởi vì chúng ta biết những tật xấu và những yếu điểm của họ, nên chúng ta có khuynh hướng hạ giá chứng tá của họ.
“Một ngôn sứ chỉ bị chối bỏ nơi quê hương, bởi bà con và gia đình mình mà thôi”. Đó là điều khiến Chúa Giêsu đã nhận xét. Điều mà chúng ta thường thấy xẩy ra! Nếu chúng ta thuộc về số những kẻ không có quyền lên tiếng với bà con của mình, và không được đón tiếp ân cần trong chính nhà của mình, nơi giáo xứ, môi trường của mình… ta hãy cứ tỏ ra bình thản. Ta hãy tự nhủ rằng Chúa Giêsu đã bị đối xử như thế và môn đệ không thể hơn Thầy được.
Sức mạnh trong nỗi yếu đuối.
Nghịch lý thứ hai chính thánh Phaolô trình bày cho chúng ta khi người đặt trong miệng Thiên Chúa Lời này: “Quyền uy của Ta tỏ hiện tột mức trong sự yếu hèn”. Con người càng mạnh, càng tự hào và tự tin, càng cậy dựa vào những khả năng của mình thì quyền uy của Thiên Chúa càng ít được thể hiện nơi họ. Trái lại họ càng khiêm tốn, bé nhỏ, ý thức giới hạn của mình và hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa, lúc đó quyền năng của Thiên Chúa càng có thể được tỏ hiện nơi họ.
Nghịch lý thực sự, ngược với những gì chúng ta nghe nói mỗi ngày và những gì nhiều lần chính chúng ta tưởng nữa. Phải thông thái, giàu có, thống trị kẻ khác… mới thành công được ở đời. Đó là triết lý thông thường! Ngược hẳn với những gì Thiên Chúa nghĩ. Thiên Chúa ưa thích làm những điều lớn lao qua những kẻ bé mọn, nghèo nàn, yếu đuối, khiêm tốn, những kẻ không tôn mình lên, những kẻ xác tín rằng nếu mình có làm được điều gì lớn lao, thì đó không phải là nhờ sự cao cả của mình nhưng nhờ sự cao cả của Thiên Chúa được mặc khải nơi mình.
Đức Maria, một phụ nữ mà người ta không để ý đến. Nhưng có biết bao nhiêu điều tuyệt diệu Thiên Chúa đã làm nơi người và nhờ người! Thánh Phaolô, một con người kiêu hãnh và tự mãn đã bị thử thách và tổn thương nhiều nơi thân xác và đã trở thành một người khiêm tốn. Cũng nơi người và nhờ người nữa, Thiên Chúa đã làm những điều cao cả.
Bao giờ cũng thế. Những kẻ ốm đau, Thiên Chúa ưa thích làm việc qua họ. Những kẻ coi như không ra gì, lại chính là những kẻ Ngài rất thường chọn để thực hiện những dự tính đẹp đẽ nhất của Ngài.
Ta hãy kết thúc những suy tư này bằng một cái nhìn về bản thân chúng ta. Nếu chúng ta có khổ vì những yếu đuối, nhựng rụt rè, những nỗi lo sợ, những nỗi bất lực của chúng ta, chúng ta cũng đừng ngã lòng. Trái lại chúng ta hãy phục vụ Chúa hết mình và xin Ngài thực hiện cho chúng ta những gì mà biết bao lần Ngài đã thực hiện cho những người khác. Xin Ngài biểu lộ quyền năng của Ngài nơi nỗi yếu hèn của chúng ta.
(Suy niệm của Rev. Phanxicô M. Hưng Long, CMC)
Hôm nay, thánh sử Marcô thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu trở về quê quán của Ngài là làng Nazareth nhưng lại bị dân làng từ chối đón tiếp. Lý do của họ rất đơn giản. Chỉ vì họ quá quen Ngài.
Có lẽ nhiều người trong họ đã cùng lớn lên với Ngài, cùng chung tuổi trẻ với Ngài, và làm việc thờ phượng chung với Ngài nơi hội đường. Họ quen biết từ lời Ngài nói, việc Ngài làm, và tất cả hoàn cảnh gia đình của Ngài. Họ biết Ngài như một người thường, là con của Ông Giuse và Bà Maria cũng là những người thường.
Hôm nay bỗng dưng Chúa trở về quê, giảng dạy và làm những phép lạ mà từ xưa tới nay chưa có ai làm được. Họ sửng sốt và kinh ngạc về những lời nói việc làm của Chúa, nhưng vì quá quen hoàn cảnh gia đình của Chúa, vì nghĩ Chúa là người cùng làng, chẳng có gì hay, chẳng có gì khác hơn họ, nên họ đã không nhận ra được bàn tay Thiên Chúa ở giữa họ, không chấp nhận được Thiên Chúa ở trong Ngài, và không tin Ngài có thể đem Tin Mừng nước Chúa đến cho họ. Đã không thể nhận ra Ngài là Thiên Chúa, họ còn coi thường và khinh thị Ngài nữa.
Thái độ của dân làng Nagiarét đôi khi cũng là thái độ của mỗi người chúng ta. Nhiều khi quen việc gì hay người nào lâu, chúng ta dễ nhàm chán coi thường. Lẽ ra càng ở gần người nào lâu, chúng ta càng thêm lòng quí mến, kính trọng, mới đúng, nhưng oái ăm thay chúng ta lại dễ coi thường.
Cái nhược điểm lớn của chúng ta là vì quá quen thuộc nên nhiều khi chúng ta chỉ nhìn thấy khuyết điểm của nhau, những lỗi của nhau, thay vì nhìn thấy những sự tốt lành, những ơn cao cả mà mỗi người chúng ta có. “Gần chùa gọi bụt bằng anh” là vậy.
Tệ hơn nữa là nếu chúng ta lại có óc thành kiến. Sự thành kiến làm cho con người ra mù tối không nhận ra sự thật. Khi chúng ta đã yên trí người này người kia là thế này thế nọ rồi, chúng ta khó thoát khỏi sự coi thường hay khinh thị họ. Chúng ta đánh giá con người của họ thấp tháp và tầm thường. Cho dù họ làm gì, nói gì, chúng ta cũng không muốn nghe, không muốn chấp nhận. Dù họ có những ý kiến hay, việc làm tốt, chúng ta cũng có thể gạt qua và cắt nghĩa xấu cho họ.
Chuyện kể rằng, có một anh chàng bị mất búa, anh hồ nghi là anh hàng xóm lấy mất. Vì hồ nghi và yên trí nên từ đó anh nhìn tất cả những ngôn ngữ hành động của người hàng xóm là những ngôn ngữ hành động của kẻ trộm. Cũng may là anh tìm lại được búa sớm, nên người hàng xóm mới thoát khỏi tiếng mang tội ăn trộm. Quả thật, câu nói đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng đen thật là như thế.
Sự thành kiến làm cho chúng ta mù, chỉ nhìn những gì chúng ta muốn nhìn, do đó khó nhận ra sự thật. Người thành kiến kéo mành cửa sổ tâm trí xuống không cho ánh sáng chân lý chiếu vào. Vì thế, họ không thể lớn lên trong trí thức cũng như tinh thần.
Thành kiến làm hại chúng ta, làm cho tâm hồn và tâm trí chúng ta ra nhỏ mọn, vậy chúng ta hãy cố gắng đừng để nó len lỏi vào tâm trí chúng ta, hãy tống nó ra khỏi đời sống chúng ta kẻo nó ngăn cản chúng ta lớn lên trong sự liên đới với Chúa và với anh chị em chúng ta.
Nếu tiêu diệt được óc thành kiến chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện của Chúa trong cuộc đời, trong những biến cố nhỏ mọn quen thuộc của cuộc sống. Thật sự chúng ta không phải tìm Chúa ở đâu xa. Ngài hiện diện trong mọi người, mọi nơi, và mọi biến cố xảy đến với chúng ta. Ngài hiện diện qua sự tốt lành của những người thân, những người hàng xóm, những người chúng ta tiếp xúc hằng ngày.
Vậy, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta đừng coi thường, đừng từ chối sự hiện diện của Chúa được bày tỏ qua sự tốt lành của gia đình, hay bạn bè thân thuộc của chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng biết ơn và khen ngợi sự tốt lành chúng ta đang được hưởng. Thí dụ hãy cho người bạn đời của chúng ta một cử chỉ quí mến, những người đã nấu ăn cho chúng ta một lời khen tặng, những người hàng xóm đã thăm hỏi nói chuyện với chúng ta, hoặc những bạn bè thân thiết đã quan tâm, nâng đỡ, và dành cho chúng ta thời giờ quí báu một lời cám ơn chân thành.
Nếu chúng ta thực hiện những điều vừa nói trên là chúng ta đón tiếp Chúa Giêsu, đón tiếp sự hiện diện của Ngài trong những người quen, trong những biến cố rất quen thuộc của cuộc đời, để nhờ đó Ngài có thể thực hiện những sự lạ lùng nơi tâm hồn chúng ta.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng”)
CÓ PHẢI CHÚA GIÊSU TRONG GIÁO HỘI
THÌ QUÁ NHIỀU CHO CHÚNG TA KHÔNG?
Hầu hết dân chúng hay hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình nhất là những người trẻ, chúng rất ngưỡng mộ những ngôi sao thể thao, những tài tử hoặc những chính trị gia. Chúng rất kiêu hãnh khi từ nơi chúng đã sản xuất ra những nhân vật quan trọng như thế. Vì sao dân chúng của chính thành phố nơi sinh trưởng của Chúa Giêsu lại từ bỏ Người? Phúc Âm nói rằng họ thấy Người có quá nhiều tài năng đối với họ. Quá nhiều đó là gì? Điều đó có ý nghĩa là Ngài làm quá nhiều theo ý kiến của họ, theo cái nhìn của họ, Ngài là một người bình thường, một người thợ mộc, là con của bà Maria. Ai đã làm cho Người trở nên một tiên tri?
Rao giảng như một tiên tri đã làm phát sinh ra sự thù nghịch nơi dân thành phố quê hương của Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu là một nhân vật thể thao, một tài tử, một chính trị gia, có lẽ Ngài không bị đe doạ bởi dân chúng. Họ đã kiêu hãnh về Người. Nhưng còn một tiên tri thì sao? Một tiên tri thì có thể sẽ bị mọi người từ bỏ. Tiên tri có thể giới thiệu thách đố hoặc là lời khiển trách. Tiên tri thì tuyên bố chân lý. Những láng giềng của Chúa Giêsu thì sợ Ngài. Từ sự sợ hãi dẫn đến sự từ bỏ. Dân chúng ở Nazareth trở nên giống như tổ tiên của họ, khi Thiên Chúa đã gởi tiên tri Ezekien đến. Họ đã cau mặt và có trái tim chai đá. Điều đó thật xấu hổ biết bao. Khi mà Chúa Giêsu thật sự còn hơn là một tiên tri nữa, chính Con Thiên Chúa đang ở giữa họ. Chúng ta cũng sẽ quay trở lại chống Chúa Giêsu không?
Chân lý này là Chúa Giêsu vẫn ở lại giữa chúng ta. Ngài nói với chúng ta khi Thánh Kinh được đọc lên trong nghi thức phụng vụ và Ngài đã dạy dỗ chúng ta qua những giáo huấn của Giáo Hội. Những lúc đó chúng ta có sợ lắng nghe không? Chúng ta có sợ phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta không? Chúng ta có khuynh hướng tự phơi bày chính mình qua những điểm giáo huấn khó khăn bởi vì chúng ta chứng minh vật chất thì có thể gây ra tranh luận và quá phức tạp? Chúng ta có tìm thấy rằng chúng ta có cái nhìn thiển cận đối với giáo huấn của Giáo Hoàng, các Giám mục không?
Công đồng Vatican II cảnh cáo về sự phá thai là một tội không lời nào tả được, mà nhiều xứ sở trong chúng ta lại nói rằng quyền chọn lựa thì quan trọng hơn quyền được sống. Đức Giáo Hoàng đã cảnh cáo chúng ta chống lại văn hoá sự chết, bằng cách làm rõ ràng trong việc trợ giúp tự tử và làm cho chết êm dịu. Cùng với các Giám mục, Đức Thánh Cha đã nài xin hình phạt tử hình chỉ sử dụng trong những trường hợp bất đắc dĩ, khi xã hội không thể ngăn ngừa được phạm nhân có thể phạm tội trở lại, và một số những chính trị gia đã bỏ phiếu ủng hộ việc lên án tử hình. Nhiều người trong số những chính trị gia này thì muốn đổ lỗi cho những dân nhập cư, có tài liệu chứng minh hoặc không có giấy tờ, hoặc đổ lỗi cho kinh tế toàn cầu của chúng ta, nhưng quan điểm của người Công Giáo là tất cả mọi người đều phải được kính trọng như con cái Thiên Chúa, và tất cả những người thuộc về xứ sở này đều đang trên con đường hành hương về nhà Cha.
Một số người tự cho mình là đúng khi họ tỏ ý coi thường bất cứ ai nhận trợ cấp của xã hội, họ khinh bỉ những ai lây nhiễm bịnh HIV, họ kết án những người mắc vào bệnh say sưa chè chén, họ nhìn cách khinh bỉ những người dân tộc thiểu số, những người mà chỉ là một nhóm nhỏ trên đất nước của họ. Ngay cả một số những người Công Giáo cũng đã minh chứng rằng Giáo Hội không được dính líu đến chính trị và chỉ lưu tâm đến những công việc cứu rỗi các linh hồn. Họ đã có một suy nghĩ sai lầm, bởi suy nghĩ chúng ta đang sống trong hai thế giới, một thế giới tôn giáo và thế giới thế tục. Họ kết luận rằng tôn giáo thì không được xâm chiếm vào thế tục. Sự thật là chúng ta chỉ sống trong một thế giới, thế giới của Thiên Chúa. Có phải Giáo Hội thì quá lớn đối với chúng ta không? Điều đó không phải như thế nếu chúng ta nhớ rằng Chúa Giêsu thì không chết. Người vẫn đang sống, Người vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những lời Thánh Kinh, qua những giáo huấn khác của Giáo Hội.
Nhìn lại lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn ở bên con người và Thiên Chúa dùng đủ mọi cách để tiếp cận với con người. Khi thì nói gián tiếp, khi thì nói trực tiếp, khi thì dùng người này, khi thì dùng người kia. Những người nói Lời Thiên Chúa cho dân là các ngôn sứ của Chúa. Các ngôn sứ chuyển tải thông điệp của Thiên Chúa cho dân.
Vì lẽ con người thường đi ngược với Thiên Chúa, con người không muốn sống trong vòng tay che chở của Thiên Chúa nên đã đi nghịch lại với thánh ý của Thiên Chúa và con đường mà Thiên Chúa vạch ra nên biết bao nhiêu lần tương quan giữa con người và Thiên Chúa đổ vỡ. Thiên Chúa là đấng chậm bất bình và giàu lòng thương xót đã không nỡ bỏ con người, Thiên Chúa dùng các ngôn sứ để tiếp tục răn đe có, an ủi có, khích lệ có. Đáng tiếc thay bản tính con người ngỗ nghịch nên những lời mà các ngôn sứ nói ra thì có người được đón nhận, có người bị khước từ và thậm chí có người còn bị giết.
Một trong những ngôn sứ thời Cựu Ước đã nói Lời Thiên Chúa đó là ngôn sứ Êdêkien, Êdêkien ý thức rõ rệt mình đã được sai đến trong một thời khủng hoảng: lúc mà Israel phải suy nghĩ lại về số mạng mình. Israel đang bị xâu xé phân chia theo nhiều hướng: hãnh diện trong hiện tại, tủi hổ nghĩ đến thời xưa, tin cậy, và ngã lòng hối hận; hèn nhát mà cũng gan dạ, Êdêkien cũng như các ngôn sứ trong thời lưu đày đã đặt nền móng cho một nền tảng mới đó là lòng tin vào Thiên Chúa.
Đoạn sách mà chúng ta vừa nghe cho chúng ta biết sứ mạng mà Thiên Chúa gửi Ngài đến với dân: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại với Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này’. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng”. (Ed 2, 2-5). Rõ ràng chúng ta thấy sứ mạng của Êdêkien. Không chỉ mình Êdêkien nhưng nhiều và ngôn sứ cùng chung chịu số phận như Êdêkien.
Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô thuật lại không còn là xa lạ với chúng ta. Trang Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về hình ảnh Con Một Thiên Chúa. Các ngôn sứ nói, con người không chịu nghe, Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Ngài xuống để nói cho dân nhưng hình như dân cũng đâu có nghe. Hôm nay, Chúa Giêsu trở về quê hương, mang theo sứ điệp cứu độ nhưng đáng tiếc thay Ngài đã đụng đầu với sự cứng lòng tin của những người đồng hương quen thân.
Trình thuật này có thể qui chiếu tới bối cảnh nơi Mc 3, 20-35 ở đó Chúa Giêsu bị hiểu lầm và nghi ngờ, song cũng ở đó sứ điệp thần học về Đấng Thiên sai cứu độ được phác họa một cách hùng hồn. Cũng thế, thảm trạng cứng tin của dân làng Nadaret là một thứ mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin.
Để thấy rõ hơn ý nhắm thần học của Máccô, chúng ta thử lưu ý đến lược đồ câu chuyện của thánh ký:
+ Trước hết đó là thái độ kinh ngạc thán phục của những kẻ nghe lời giảng dạy và nghe biết các phép lạ (c. 2)
+ Vấn nạn về lý lịch của Chúa Giêsu (c. 3a)
+ Phản ứng cứng tin (c. 3b)
Đó là một thứ lược đồ về mầu nhiệm cứng tin, mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin (x. Lc 4,16-30; Ga 7,14-29). Nếu so sánh với bản văn Gioan chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa:
Mc 6,1-6a và Gioan 7,14t
Câu 2: Người lên tiếng giảng dạy trong Hội đường. Nhiều người ngạc nhiên mà rằng: BỞi đâu ông ấy được như thế? Và là gì vậy sự khôn ngoan ban xuống cho ông?
Câu 14: Chúa Giêsu lên đền thờ và giảng dạy. Người Do Thái bỡ ngỡ mà rằng: làm sao ông ấy đã chẳng theo học mà lại thông hay chữ nghĩa
Câu 3a: Ông ấy không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giosê, Giuđa, Simon đó sao? Các chị em của ông không ở giữa chúng ta sao?
Câu 27: Nhưng ông ấy, chúng ta đã biết tự đâu ra, còn Đức Kitô khi Người đến, thì nào ai biết được do lai của Người?
Câu 3b: Và họ vấp phạm vì Người
Câu 28: Chúa Giêsu hô lên: phải các ngươi biết Ta và rõ Ta từ đâu ra. Thế mà nào có phải tự Ta, Ta đã đến đâu. Nhưng Đấng đã sai Ta là Đấng chân thật, các ngươi lại không biết Ngài.
Như vậy, nghe lời giảng dạy, chứng kiến các phép lạ các kỳ công của Chúa Giêsu… điều đó chưa đủ. Người ta cần phải đạt đến một tầm mức cao hơn: tầm mức của đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai cứu độ.
So sánh với bản văn Luca 4,16-21, cách miêu tả của Máccô rất ngắn gọn. Chủ ý của thánh ký chỉ nhằm nêu lên sự kiện cứng tin của người dân quê nhà. Họ ngạc nhiên về những lời giảng giải kinh thánh đầy sự khôn ngoan của Người; họ nhắc đến quyền năng làm các phép lạ của Người (c. 2). Song, họ không tin Người.
Ông ấy chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giôse, Giuđa, Simon đó ư?Và các chị em của ông lại không ở giữa chúng ta đây sao? Và họ vấp phạm vì Người (c. 3)
Người quê nhà của Chúa Giêsu quả thực biết rõ lý lịch của Người. Họ quen biết anh em và chị em của Người. Những chàng dân quê như Giacôbê, Giôsê, Giuđa hay Simon, đâu có xa lạ gì với họ. Như vậy, ông Giêsu này không thể là một nhân vật khác thường. Và cũng chính vì thế mà Người trở thành một thứ viên đá vấp phạm cho họ: họ đã vấp phạm vì Người.
Thành ngữ eskandalizonto en autô được Giáo hội sơ khai sử dụng như thứ ngữ vựng chuyên môn ám chỉ tới sự sa bẫy của đức tin (x. Mc 4,17). Sự kiện này trở nên một lời cảnh giác cho Cộng đoàn tin Chúa: những ai nghĩ rằng họ biết Chúa Giêsu, họ phải coi chừng và duyệt xét lại đức tin của họ: có nhiều trở ngại và nguy cơ trong lãnh vực đức tin.
Chúa Giêsu đã vay mượn một châm ngôn quen thuộc để đáp lời lại các người đồng hương cứng tin “Ngôn sứ mà bị khinh thì chỉ có nơi quê quán”.
Trước hết câu châm ngôn này có thể gợi nhắc đến một thứ tâm lý xã hội: không ai nói tiên tri được trong quê nhà mình cũng như không có lương y nào chữa trị được những kẻ quen biết mình. Lời châm ngôn nói lên một kinh nghiệm sống khá chua chát. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đã từng gặp phải sự phản kháng bi đát nhất nơi quê hương họ: “Ấy anh em ngươi và gia đình cha ngươi, ngay chúng nó cũng đã phản ngươi… Đừng tin chúng khi chúng nói ngon ngọt với người. Phần tôi như con chiên dễ bảo ngưòi ta dẫn tới lò sát sinh, tôi vần không biết rằng chúng âm mưu hãm hại tôi”. (Gr 11,18t).
Chúa Giêsu, vị ngôn sứ sau cùng của Thiên Chúa cũng không thoát khỏi số phận đó. Và đây cũng là ý nhắm thần học của Máccô. Thái độ cứng tin của người dân làng Nadarét trở thành lời loan báo mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu. Nó sẽ là cớ vấp phạm cho những kẻ không tin song là dấu chỉ cứu độ cho kẻ tin theo.
Từ đó số phận ngôn sứ của Chúa Giêsu cũng vén mở cho chúng ta ơn gọi của người môn đệ Chúa. Chúa Giêsu đã thành lập một cộng đoàn mới, một gia đình mới (x. Mc 3,35) vượt lên trên tầm vóc “quê quán, bà con, gia đình” (c. 4b). Bởi vậy, kẻ tin theo Chúa sẽ không để cho những liên hệ hoặc những thảm trạng ở tầm vóc tự nhiên tạo nguy cơ cho đức tin của mình.
Do sự cứng tin, Chúa Giêsu không thể làm các phép lạ… Nhưng tại sao Người không thể tỏ bày quyền lực trước một thái độ cứng tin? Thực ra sự không thể liên kết với sự kiện thiếu đức tin: Người ngạc nhiên thấy họ cứng tin (c. 6a). Vì chưng, thánh ký Máccô không hề muốn miêu tả một mối tương quan tâm lý, như thể sự tin tưởng của bệnh nhân là điều kiện của sự chữa trị thành công. Nhãn quan thần học của Máccô nhằm đến chủ đề đức tin.
Nếu thiếu vắng đức tin, một phép lạ của Đấng Thiên sai cứu độ sẽ mất hết ý nghĩa cứu độ. Nó có nguy cơ dẫn tới quan niệm lệch lạc về quyền lực của Chúa Giêsu.
Ngược lại, chỉ có đức tin mới mở mắt cho người ta nhìn thấy quyền năng cứu độ của Người ngang qua các lời nói hay việc làm của Người.
Nguyện xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho con người mỏng dòn yếu đuối của chúng ta để chúng ta nhận ra quyền năng, tình thương của Chúa ngày mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta. Và cũng xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta cao rao lòng tin, cao rao quyền năng Chúa cho mọi người mà chúng ta chung sống, chúng ta gặp gỡ.
Từ thuở tạo thành, Thiên Chúa yêu con người và đã cho con người thay Ngài để cai quản vũ trụ tốt đẹp do chính tay Ngài tạo dựng. Ngài cho con người hưởng tất cả hạnh phúc của Ngài chỉ trừ một điều duy nhất là đừng sờ vào, đừng đụng vào cái cây ở giữa vườn mà Thánh Kinh ghi lại là “cây biết lành biết dữ”. Cái cây ấy là dấu chỉ, là lời mà Ngài đã dặn đi dặn lại cho con người nhưng rồi con người đã vi phạm, đã giơ tay ra hái nó. Và từ đó, con người đã đánh mất đi mối tình đẹp giữa Thiên Chúa và con người. Tưởng chừng với biết bao nhiêu kinh nghiệm của cuộc đời, của con người, con người sẽ trở về với Thiên Chúa nhưng không. Con người vẫn mãi mê với cái thế sự thăng trầm này để rồi không còn nhận ra Thiên Chúa nữa, hay có nhận ra thì cũng nhận ra với một hình ảnh dị dạng, hình ảnh bóp méo hay hình ảnh một Thiên Chúa do chính người đó tạo dựng chứ không còn là một Thiên Chúa tuyệt vời, một người Cha nhân hậu nữa.
Cứ đọc lại những trang Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy được một Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào. Dẫu cho rằng con người trắc trở, con người quay lưng với Thiên Chúa đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Bằng cách này hay cách khác, Thiên Chúa vẫn tiếp cận với con người qua những trung gian của Ngài như các ngôn sứ.
Thiên Chúa luôn hiện diện, luôn đồng hành với con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời nhưng liệu rằng con người có nhận ra sự hiện diện, sự đồng hành đó hay không? Đặc biệt, trong những biến cố đau thương bi đát của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta nghe tâm sự của Isaia:
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!
Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội? (Is 50, 5-9a)
Trong cái cảnh bi đát của cuộc đời, Isaia vẫn tin vào Chúa và bám chặt cuộc đời của mình vào Chúa. Hình ảnh người tôi tớ trong Isaia đó chính là hình ảnh Chúa Giêsu – Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu khổ hình, chịu chết… Dù rơi vào cái cảnh khốn cùng nhất của con người, nhục nhã, đau đớn bi đát nhất của con người nhưng Giêsu vẫn tin vào Thiên Chúa Cha, tin vào sự quan phòng của cha mình.
Thiên Chúa mãi mãi vẫn là thách thức của lòng tin của con người.
“Con ơi Thiên Chúa tốt lành,
Đất trời có Chúa định thành mới nên.
Trên trời mọi sự do Thiên,
Bên nhân bên quả gắn liền với nhau”.
Cụ Kh. đã nhìn Thiên Chúa từ câu hỏi về nguồn gốc vạn vật.
Hỡi im lặng thiêng liêng, ngập tràn, ứa vựa,
Ta lia gươm rạch ứa máu ngàn không,
Để muôn đời không có nữa, Mênh Mông
Vẫn ngăn cách Hồn Yêu cùng Đạo lý.
Nhưng đau đớn! Ta vấp mồ thế kỷ
Chết nơi đây vì xét nghĩa Không Cùng
Đem trí người suy đoán nỗi Mông Lung
Của Thiên Chúa vẫn muôn đời bí mật.
Đó là một đoạn trong bài “Thể Chất” của Hồ Dzếnh, gia nhập Kitô giáo khoảng năm 1940. Nhà thơ này đã cúi đầu trước sự huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người, Thiên Chúa vẫn chờ đợi sự đáp trả của con người về Ngài. Chúa Giêsu Kitô con Thiên Chúa làm người cũng chất vấn mỗi người chúng ta về lòng tin vào Thiên Chúa, về lòng tin vào Ngài.
Hôm nay, Chúa Giêsu thấy chất vấn các môn đệ cũng là chất vấn mỗi người chúng ta. Với mỗi người chúng ta, khi Chúa Giêsu hỏi chúng ta thì liệu rằng chúng ta có can đảm, có tin nhận và trả lời như Phêrô hay không hay là chúng ta cũng nói rằng Chúa Giêsu cũng chỉ là một ngôn sứ như Êlia, như Gioan Tẩy Giả…
Nhiều lần nhiều lúc trong đầu kitô hữu thì Giêsu Kitô như là Êlia hay Môsê thôi chứ chẳng hơn. Bi đát nhất của cuộc đời đó là người ta tự hoạ cho mình một Thiên Chúa, một Giêsu Kitô theo nét vẽ riêng của họ.
Trong tuần thường huấn nọ ở một nhà dòng kia. Vị thuyết giảng chia sẻ về hình ảnh của một Giêsu chịu đóng đinh, chịu đau khổ như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô cũng như các môn đệ trong Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Vị thuyết giảng trình bày về một Giêsu theo mô tả của Thánh Kinh và một Giêsu lịch sử.
Sau khi trình bày thì nhiều người cứ chất vấn đi chất vấn lại về Giêsu! Chất vấn đó là quyền tự do của con người nhưng khi đã là tu sĩ, linh mục thì không dừng ở chuyện chất vấn nữa mà là tin và hiểu thêm về diện mạo Chúa Giêsu. Chất vấn là vấn đề, là chuyện dành cho những người chưa tin. Tu sĩ, linh mục mà lại chất vấn đi chất vấn lại Giêsu thì nó làm sao ấy. Nếu như vậy thì niềm tin tu sĩ, linh mục ấy tuyên xưng nó làm sao ấy.
Mỗi người bắt gặp câu hỏi về Thiên Chúa một cách khác nhau. Câu hỏi có khi gay gắt, dồn dập, có khi dịu dàng êm nhẹ, có khi như ray rứt, có khi như ủi an. Có khi, thật lạ lùng, người ta đang đối đầu với câu hỏi về Thiên Chúa bằng cách chối phắt Ngài đi. Nhưng dù dưới hình thức này hay hình thức khác thì mỗi người đều bắt gặp câu hỏi ấy; vào một lúc nào đó trong đời, người ta như chợt thấy. Ai sẵn sàng đón nhận và ra công tìm kiếm thì thế nào cũng gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa không tiếc với ai cả, nhưng phải sẵn sàng đón nhận thì mới gặp được Ngài, còn nếu đã phủ nhận ngay từ đầu thì còn gặp thế nào được. Mở mắt ra và sẽ thấy. Mỗi người gặp được Ngài trong một cảnh ngộ khác nhau, vì mỗi người đã lên đường từ những khởi điểm khác nhau.
Đã hơn một lần, có người hỏi tôi rằng Chúa Giêsu là người da đen, da nâu hay da vàng? Chúa Giêsu sinh ra chính xác là ngày nào? Năm nào?
Tôi trả lời ngay là không cần biết là Giêsu có da đen, da nâu, da vàng hay da đỏ miễn làm sao khi mở quyển Almanack thì bạn sẽ thấy rõ ràng rằng có một Giêsu sinh làm người tại hang đá Belem và sống cái làng Nagiaret nhỏ bé. Chúa Giêsu đã hiện diện rồi trong lịch sử nhưng ai tin vào đó là Đấng nhân danh Chúa mà đến, là Ngôi Hai con Thiên Chúa làm người?
Về diện mạo, về hình ảnh của một Giêsu lịch sử hay một Giêsu ký ức cũng cần tìm hiểu, cần đào sâu để mở rộng kiến thức để trình bày lại cho những người chưa hiểu hay những người chưa tin. Vấn đề cần ở đây là làm sao ta cũng phải tuyên xưng lòng tin vào Giêsu Kitô như Phêrô giữa nhiều và nhiều người không tin ở thời Chúa Giêsu. Vấn đề đã rõ, giữa biết bao nhiêu người không tin, giữa nhiều sự chất vất nhưng Phêrô đã vượt qua chuyện không tin và Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của mình.
Thật sự ra mà nói không đơn giản để mà tuyên xưng được như Phêrô đâu. Có những lúc ta cũng mạnh mẽ tuyên xưng như Phêrô ấy nhưng có những lúc ta chối Chúa bây bẩy thôi.
Nếu chúng ta can đảm tuyên xưng một Giêsu là Đấng Kitô của đời mình như Phêrô thì chúng ta phải sống, phải thể hiện lòng tin ấy như Phêrô cách triệt để chứ không phải là nói suông. Lối sống của người có đức tin chúng ta vừa nghe Thánh Giacôbê mời gọi: Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin (Gc 2, 14-19)
Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô, đấng đang hiện diện trong cuộc đời ta, đang có đứng trước mặt ta ban thêm lòng tin cho chúng ta để ta cũng mạnh dạn tuyên xưng lòng tin ấy vào Giêsu Kitô như Phêrô tông đồ hôm nay vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm cho ta lòng mến để chúng ta diễn tả, chúng ta sống lòng tin ấy bằng đời sống thường nhật của chúng ta.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Hội đường là nơi hội họp của cộng đoàn Do thái. Đó không phải là Đền thờ với hàng tư tế chính thức thi hành một thừa tác vụ hy tế. Cộng đoàn tụ họp lại để cầu nguyện và nghe đọc sách thánh. Bất cứ người nam trưởng thành nào cũng có quyền phát biểu trước cộng đoàn. Vì thế, Đức Giêsu lên tiếng giữa hội đường Nazarét, không phải vì một đặc ân thánh nào cả, nhưng chỉ là 1 thành viên trong cộng đoàn. Rất nhanh các thính viên thoáng thấy rằng người nói với họ không phải là một người như những người khác. Mặc dầu họ đã biết Ngài, thấy Ngài sống nhiều năm tháng giữa họ và không có dấu hiệu gì bên ngoài cho thấy Ngài chuẩn bị ăn nói và hành động. Họ linh cảm một cái gì lạ thường.
Ở đây, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng tâm lý thông thường. Khi người ta có một hình ảnh nào về ai, họ không chấp nhận cho người ấy tỏ ra có những nét không phù hợp với hình ảnh này. Người ta tưởng biết một người nào đó, nhưng sự thật là họ xếp loại người ấy, họ dán cho người ấy một nhãn hiệu và đương nhiên người ta trở nên mù quáng đối với những gì không phù hợp với nhãn hiệu. Và họ vấp phạm vì Người. Dân chúng Do thái vấp phạm vì không nhận ra Đức Giêsu mà họ đã biết. Cho nên thay vì đón nhận các phần mầu nhiệm thoáng hiện ra, họ loại bỏ nó. Sự chối từ tiếp nhận làm tê liệt sự quảng đại của Đức Kitô. Ngài không thực thi quyền năng làm phép lạ được tại Nagiarét, ngoại trừ một vài việc lành cho một hai người bệnh.
1) ‘Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria sao?
‘Con bà Maria’ có nghĩa là lúc bấy giờ thánh Giuse đã chết. Và Đức Giêsu được nói đến như là người con độc nhất của bà góa Maria. Và người ta cũng biết danh xưng ‘anh em’ áp dụng cho: Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon, ám chỉ một sự liên hệ bà con gần xa nào đó mà thôi. Người ta đã đưa ra giả thuyết ‘người con của bà Maria’ để nói rằng Đức Maria – có thai trước lúc thành hôn với Giuse. Trong ngôn ngữ cảu thánh Marcô, điều này có thể là một xác quyết gián tiếp về việc sinh nở mầu nhiệm của Đức Giêsu, con của bà Maria theo xác thịt, chứ không phải của thánh Giuse.
Có cái gì ẩn núp sau câu hỏi của người Do thái? Đó là một sự khó khăn sẽ luôn luôn làm cản trở niềm tin cho đến tận thế: chính là mầu nhiệm TC tự mặc khải qua con người. Đây là điều làm khó chịu, bức rứt, gây giận dữ cho những đầu óc bướng bỉnh. Thái độ của dân làng Nagiarét từ chối chấp nhận Đấng họ nhận ra là sứ giả TC, loan báo sự khó khăn sẽ đến cho nhiều người là nhận ra trong con người của Đức Kitô, TC thật và đồng thời cũng là người thật.
2) Chúng ta hãy dừng lại ở từ ngữ: Con bà Maria.
Để một bên, ý nghĩa xác thực trong thánh Marcô, từ ngữ này gợi cho ta một thực tại sâu xa có tầm mức quan trọng về phương diện thần học và phong phú về phương diện tu đức. Những ai chọn con đường thẳng để đi đến gặp gỡ Đức Kitô: những người ấy phải nài xin Đức Trinh nữ Maria mặc khải Con Ngài cho họ. Nhận biết Đức Giêsu như là con của Đức Maria, tức là đón nhận Ngài, không như một niềm tin trừu tượng, nhưng như một ngôi vị nhân loại rất thực, kề cận và sát với chúng ta (nhất là nếu chúng ta tự trở nên bé mọn), một ngôi vị thần linh và thần linh hóa trong một bản tính nhân loại chung cho Ngài và cho chúng ta. Những người bạn thân thiết nhất của Đức Kitô biết rõ điều họ phải tùy thuộc vào sự trợ giúp của Đức Maria.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, cho Giáo Hội.
Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.
Đừng đánh giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng Nagiraret đã đánh giá Đức Giêsu Nagiarét: “Nagiarét mà có cái chi hay!”. Thế mà con người làng Nagiarét ấy là Đấng Cứu Thế môn dân trông đợi. Tin Mừng hôm nay kể lại: Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị Ngôn Sứ, một bậc thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường đọc Sách Thánh và công bố giáo lý của Ngài. Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc nhiên sững sốt. Họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vây nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. “Ông ta là ai?”. “Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng, con của bà Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Họ biết quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ chẳng nhìn nhận Ngài là ai khác hơn là “chú thợ mộc trong làng”.
Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực chứ! Còn ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành “chướng ngại cho họ tin vào Ngài”. Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp ngã chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ mạng thần linh bên trong của Chúa. Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài, Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu dốt, không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa. Cuộc chống đối này lên đến tột độ khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá dựng trên Núi Sọ. Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. “Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình, giữa họ hàng và trong nhà mình”. “Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại địa phương mình”. Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu: “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài” (Ga 1,11). Những người ruột thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng thật của Chúa Giêsu nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Câu chuyện này còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: dân ngoại đón nhận Tin Mừng, còn những con cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một kinh nghiệm sống động của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như chính Chúa Giêsu đã phải ngạc nhiên.
Người đồng hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai? Chính chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành anh em của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta. Nhưng hình như chúng ta lại biết Ngài quá rõ đến độ chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời kinh, các bải giảng. Người ta nói: “quen quá hoá nhàm”. Chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, ở những nơi khác. Chúng ta làm như thế Chúa Giêsu cũng chỉ là “một chú thợ mộc làng Nagiarét”, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất, không hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta. Đọc Tin Mừng của Ngài có khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú… nhưng chẳng thấy gì hơn. “Bụt nhà không thiêng” vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các Kitô hữu.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Kitô. Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét hay muốn đứng về phía Chúa Giêsu? Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành kiến. Thiên Chúa đã đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền tài và giàu sang hay chức quyền mà ở trong con người nghèo hèn. Điều này đã nên cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại mời gọi lòng tin của chúng ta có dám tin như thế không.
Ở đây, niềm tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường bên ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Ngôn Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngài đã nói thay Thiên Chúa để đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ. Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã nói lên tiếng nói cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản bội, chống đối Thiên Chúa. Cái chết thập giá của Con Thiên Chúa không phải là một thất bại, nhưng là một chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con người.
Cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn Sứ, qua chính Con Một Thiên Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng này chúng ta được đến với Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.
Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí họ ngạc nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người làm cho họ, họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?”. Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của con người. Chúng ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người khác?
Người dân Nagiarét nhớ lại nguồn gốc của Đức Giêsu. Người là con một bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người. Thật vậy, họ nói: “Ông ấy nghĩ mình là ai?” Họ cảm thấy mình đã nắm rõ về Người. Họ đặt ra giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho phép sự trưởng thành và phát triển.
Họ từ chối tin Người. Họ từ chối nhìn Người một cách nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ làm cho Người không thể làm gì cho họ, và như thế họ không hưởng được ơn ích từ cuộc viếng thăm của Người.
Đây là một sự thật quen thuộc nhưng đáng buồn – Ngôn sứ không được quê hương mình tôn trọng. Thường chúng ta không tôn trọng tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và rồi chúng ta cũng chịu thiệt thòi bởi chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt của họ.
Bị chối bỏ là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi bị những người thân chối bỏ. Đức Giêsu ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người bó tay!. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc đó nhưng Người không tức giận. Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức giận.
Chúng ta đều có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta muốn giúp đỡ một người nào đó nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bực bội và vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám dỗ nói rằng: “Vậy thì đừng hòng tôi giúp cho”. Chúng ta quyết định không giúp đỡ một ai nữa. Điều này làm người ta đau khổ.
Đức Giêsu đã không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú. Người đã làm điều nhỏ bé còn có thể làm được ở Nagiarét. Người chữa lành một vài bệnh nhân – Rồi người quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con có tấm lòng của Chúa khi đối xử với người khác dù họ làm cho chúng con không hài lòng.
Những người cổ Hy lạp thích thể thao, nhất là những cuộc thi chạy lẹ, thi sức mạnh và dai sức. Những cuộc tranh tài Olypic ngày nay phát sinh từ những ngày đó. Trong một cuộc tranh tài cổ xưa, một lực sĩ đoạt chức vô địch. Các bạn hâm mộ ông đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục. Điều đó làm cho một lực sĩ bạn thèm khát. Anh này, ban đêm trong bóng tối, gắng sức phá đổ tượng đài ấy. Anh tìm cách xô đẩy bức tượng được vài phân, bức tượng lắc lư vài cái trên đế, rồi đổ nhào trên đầu và đè chết anh lực sĩ.
Đó là câu chuyện thèm khát. Tính xấu này đã xâm nhập tâm hồn nhiều người. Chúng ta thấy tính xấu này trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trong làng xóm, nơi Đức Giêsu sinh trưởng, đã buồn bực vì Người được tôn kính và ca tụng. Do lời nói và việc làm lạ lùng của Người. Họ từ chối nghe lời người, từ chối tin vào Người, từ chối theo Người, kết quả là Đức Giêsu, không thể làm phép lạ ở đó.
Thèm khát và ghen tỵ gần gũi nhau. Thèm khát liên hệ tới cái người khác có. Ghen tỵ liên hệ tới sự chú ý và cảm tình người khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu hơn tôi, có xe láng hơn tôi, có nhà đủ tiện nghi hơn tôi? Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được để ý và kính nể. Chỉ mơ ước có một cái gì mà người khác đã có, không phải là thèm khát. Nó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó làm bạn buồn, bất mãn và khốn khổ.
Chúa cho chúng ta 2 giới răn đối lập lòng thèm khát. Giới răn thứ 9: “Ngươi chớ ham muốn vợ người khác”. Và giới răn thứ 10: “Ngươi đừng ham muốn của cải người khác”.
Thèm khát là ý muốn trái phép: ham muốn một người không phải là vợ (chồng) của bạn một cách trái phép là nguyên cớ của hàng triệu vụ ly dị trên đất Mỹ năm 1997. Tính thèm khát gây nên bao đau thương, bao đổ vỡ.
Hầu hết tội ác đều do sự ham muốn tài sản của người khác cách trái phép gây nên.
Sự ghen tỵ xấu xa lớn nhất đã đem đến cái chết cho Đấng đáng yêu mến của thời đại. Chúa chúng ta, Đấng cứu chuộc chúng ta, Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng hôm nay kể lại lòng ghen tỵ đã làm mù quáng những kẻ có thể tin theo Đức Kitô.
Chúng ta có thái độ gì đối với lòng ghen tỵ? Khi một người thành công, phát đạt, được kính nể? Chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho họ. Nếu bạn bị người ta ghen tỵ. Bạn hãy xin Chúa giúp cho họ chế ngự được lỗi lầm của họ. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho kẻ chống đối Người. Đức Kitô sẵn sàng giúp đỡ vì Người đã từng chịu những kẻ ghen ghét hành hạ. Xin Người giúp bạn vượt thắng tính xấu này nơi bạn và nơi người khác.
Xin Chúa chúc lành bạn.
CHÚA NGẠC NHIÊN VÌ HỌ THIẾU LÒNG TIN
Thánh Antôn, người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội, một hôm sau khi giảng về Bài Giảng Trên Núi, có một số giáo dân tới hỏi:
– Thưa cha, chúng con phải làm gì để nên trọn lành?
Thánh nhân trả lời:
– Tin Mừng đã dạy: “Ai tát vào má phải ngươi, hãy giơ má trái cho nó.”
Họ thưa:
– Chuyện này khó quá, chắc làm không nổi.
Thánh Antôn nói:
– Nếu không, ít ra cũng không được báo thù. Phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
Nhóm giáo dân thưa:
– Việc này vẫn quá khó, không thể để yên những người xúc phạm đến mình được.
Thánh Antôn nghe xong, quay bảo người môn đệ:
– Con hãy đi nấu cháo cho những người này ăn, vì họ quá yếu đuối, ta hãy cầu nguyện cho họ.
Là nhà giảng thuyết, là nhà truyền giáo, thế nào cũng có lần gặp thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng. Ngay Chúa Giêsu, nhà giảng thuyết đại tài mà cũng đã từng thất bại trước nhóm bà con xóm làng quen thuộc.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết từ Capharnaum Chúa trở về thăm quê nhà, giảng trong hội đường. Tại Capharnaum, Chúa đã làm nhiều phép lạ. Có nhiều phép lạ nghĩa là có nhiều người tin Chúa, người ta lũ lượt theo Chúa đến quên ăn quên ngủ. Việc này gây xôn xao khắp miền Galilê, và chắc chắn những người đồng hương của Chúa cũng đã nghe biết. Bây giờ Chúa trở về quê nhà với nhóm môn đệ, có lẽ ai cũng tưởng người anh em đồng hương hân hoan đón nhận. Nhưng tình hình biến chuyển khác hẳn. Khi nghe Chúa đọc và giải nghĩa Thánh kinh ở Hội đường, họ cũng nhận là có những điều hay, nhưng nghĩ tới gốc gác tầm thường của Chúa, họ cho Ngài là một người không đáng tin. Bởi không tin nên họ cũng không nhận được phép lạ nào.
Có thể nói Chúa thất bại nơi quê hương. Cũng vậy, Giáo Hội nhiều lúc đã thất bại. Có người nói: “Tôi tin Đức Kitô, nhưng không tin Giáo Hội”. Thực ra Giáo Hội lại chính là khía cạnh nhân tính của Đức Kitô. Giáo Hội gồm những con người: các giám mục, linh mục, giáo dân. Những con người đó chẳng những quá quen thuộc mà có khi còn bất toàn nữa. Nhiều người thời nay đã vấp ngã vì Giáo Hội, cũng như những người đồng hương của Chúa Giêsu đã từ chối, không tin nhận Ngài. Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng những lời than phiền: “Chúa Giêsu ngạc nhiên vì họ thiếu lòng tin”. Thực ra, Chúa đâu có ngạc nhiên vì Chúa đã dựng nên con người có tự do. Chúa quá rõ tâm địa những con người đó, có ngày họ sẽ nổi lên chống lại Chúa, sẽ làm theo ý họ chứ không theo ý Chúa. Nhưng một khi đã cho con người tự do thì Chúa không rút lại, Chúa tôn trọng tự do của con người dù chúng làm cho Chúa buồn lòng. Chính vì vậy, chúng ta thấy ân huệ đức tin thật là cao quí.
Lạy Chúa, chúng con tin Chúa đã nhập thể làm người để cứu chuộc chúng con. Xin ban ơn đức tin cho những người đã được nghe biết Tin Mừng để họ đón nhận Chúa và được Ngài cứu độ. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
Con người dễ có định kiến về tha nhân. Khi một vĩ nhân về quê hương, thông thường dân làng tìm đến vì tò mò hơn là vì kính nể. Nếu ai không có những suy nghĩ sâu xa thì sẽ không xem trọng vĩ nhân đó bao nhiêu, nhất là khi người đó xuất thân từ gia đình nghèo, không có địa vị gì ở quê hương. Chúa Giêsu trở về quê nhà cũng bị dân làng nhìn theo kiểu đó: Giêsu, con của ông thợ mộc Giuse chứ có gì hay đâu và họ không muốn thay đổi quan niệm về Người. Chúa Giêsu biết rõ tâm lý của họ, nên đã nói: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình (Lc 4,24). Tuy Chúa Giêsu về với tư cách là Messia loan báo Tin mừng cho dân làng mình nhưng chẳng mấy ai để ý đến tư cách đó, họ không muốn tìm hiểu thêm về vai trò và con người thật của Người và tự nhốt mình trong những định kiến. Họ chỉ nhìn thấy Ngài với những nét dạng của người đồng hương nghèo khó, học từ làng quê. Tuy họ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, nhưng những thành kiến đã chôn chặt họ không cho họ nghĩ xa hơn. Họ chỉ thắc mắc cách hời hợt: bởi đâu ông ta được như vậy như thể Chúa Giêsu ngẫu nhiên uyên bác mà thôi. Họ tò mò tìm đến với ý phủ nhận hơn là tin nhận!
Chúa Giêsu nhận thấy rõ thái độ của họ và người đã không làm phép lạ vì họ không có lòng tin, không có lòng thành tìm hiểu về sứ mạng của ngài. Ngày hôm nay, kitô hữu chúng ta biết về Chúa nhiều hơn, biết rõ hơn người Do thái xưa kia về lời giảng và thân phận của người. Tuy nhiên, chính chúng ta nhiều khi cũng chưa tỏ niềm tin của mình trước mặt mọi người. Nhiều lúc tôi cũng tự hỏi mình: có khi nào tôi có thái độ giống như người Do thái xưa đối với Chúa giêsu không. Cuộc sống tôn giáo với những nghi lễ thiêng liêng thánh thiện nhưng tôi không ý thức là mình đang được tiếp xúc với Chúa. Có lẽ vì lòng tin yếu kém hay lo lắng chuyện đời mà không nhận ra Chúa đang hiện diện với mình. Nếu tôi có lòng tin, tôi sẽ rất nghiêm trang, cung kính hết lòng khi khi tham dự thánh lễ, đặc biệt là khi rước Chúa và cầu nguyện vì biết Chúa hiện diện trong lời Kinh thánh và Bí tích Thánh thể, tôi sẽ nhận ra Chúa trong trong lương tâm của mình và trong những biến cố cuộc sống.
Xét lại chính mình, tôi biết Chúa đến cứu chuộc thế giới trong đó có tôi và bổn phận của tôi là nói về Chúa và làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống của mình nhưng tôi đã thực hiện bổn phận này như thế nào. Cuộc sống đạo chúng ta nhiều lúc còn bị động, không thua gì những người làng Nazaret bao nhiêu: cho là mình quen biết nên không nhận ra Chúa hiện diện với mình mà chỉ coi ngài như phàm nhân, chỉ hơn mình một chút mà thôi, không hăng hái thêm được bao nhiêu, không biến đổi nên tốt hơn, không vui mừng về tình thương của Chúa đối với mình.
Điều đáng lo ngại nhất cho loài người chúng ta hôm nay là đi tìm những cái trước mắt, không để thời giờ đến với Chúa và tìm hiểu thực hư, hàng quãng cáo nào gây ấn tượng thì mua. Các nhà sản xuất thi nhau kích thích nhu cầu của chúng ta để tăng thu nhập và chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều bởi xã hội hưởng thụ dễ dãi này. Dường như chúng ta không giờ thinh lặng để nghe tiếng Chúa thì thầm và suy nghĩ về chuyện đạo đức bao nhiêu, nhất là thế hệ trẻ dễ bị những phim ảnh hấp dẫn, chat, games cám dỗ nhiều: sau giờ học thì nhiều học sinh “nhào vô” những thứ vui chơi giải trí tiện lợi này, không dành thời gian cho việc thờ phượng Chúa như trước nữa!
Để thắng vượt chính mình và nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy năng đến với Chúa, xin Chúa mở lòng trí, mở đôi mắt đức tin để chúng ta sống đạo cho nên, và nhận biết trong những sự kiện lớn nhỏ đều có sự can thiệp của Chúa. Từ đó, chúng ta có đức tin ngày càng vững mạnh, vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống và giúp cho mọi người xung quanh cảm thấy hạnh phúc vì biết rằng Chúa yêu thương đang mời gọi con người cộng tác vào chương trình của Chúa và mai sau ban thưởng trên nước Ngài hiển trị.
Trước đây, trên một trang báo Tuổi Trẻ, người ta có đăng hình hai người nhạc sĩ già, hai cây cổ thụ của âm nhạc Việt Nam, đó là nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Trần Văn Khê. Nội dung bài báo nói lên ước mơ của nhạc sĩ Phạm Duy là được trở về lại quê hương Việt Nam, định cư trên mảnh đất thân yêu này và góp phần làm một điều gì đó cho quê hương đất nước, rồi bài báo ấy kết luận: ai đi xa xứ mà không ao ước được trở lại quê hương của mình. Nếu tâm tình của nhạc sĩ Phạm Duy là như vậy thì chẳng có gì là ngạc nhiên cả, bởi nó rất là con người, rất là nhân bản. Con người có nguồn cội, có quê hương, dù thế nào đi nữa thì con người cũng không thể quên được quê hương của mình.
Quê hương, hai tiếng thân thương và ngọt ngào, thế nhưng quê hương đôi khi cũng làm cho con tim của con người rỉ máu. Chúa Giêsu đã nhiều lần về quê, nhưng lần nào quê hương cũng để lại nơi Ngài một nỗi niềm chua xót, đến nổi Ngài phải đau đớn mà thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Họ khước từ Chúa Giêsu, có lẽ một phần bởi Chúa Giêsu không cùng quan điểm với họ, nhưng phần khác, vì họ không thể chấp nhận “con một ông thợ mộc lại có thể làm lớn”, vì họ nghĩ rằng “con vua thì lại làm vua, con sãi ở Chùa thì quét lá đa”. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã bị những người đồng hương của Ngài khước từ, chống đối mãnh liệt.
Từ kinh nghiệm của Chúa Giêsu khi trở về quê hương phải chăng cũng là kinh nghiệm của chúng ta khi sống trong một cộng đoàn họ đạo. Một cộng đoàn hiệp thông, một cộng đoàn yêu thương, những từ ngữ rất hay, rất đẹp và rất tình người. Thế nhưng, chẳng phải chúng ta cũng đã từng cảm nghiệm được rằng: Nơi cộng đoàn họ đạo, chúng ta tìm được sự cảm thông, tìm được sự lắng nghe, chia sẻ. Cộng đoàn họ đạo có thể là nơi người anh chị em của mình được chữa lành, nhưng cộng đoàn họ đạo cũng có thể làm cho vết thương của người anh chị em mình mãi rỉ máu.
Trong cuộc sống đời thường, có lẽ chúng ta cũng hiểu được những cái mất đáng thương hơn là đáng trách, có những lầm lỡ đáng tiếc hơn là đáng tội. Với những người lầm lỡ, cuộc đời đã lưu lại nơi tâm hồn họ quá nhiều những vết thương rồi, chúng ta đâu cần phải góp phần làm cho những vết thương trong họ thêm nhức nhối! Chỉ sự cứu vớt mới có khả năng chữa lành, chỉ sự đón nhận quảng đại mới mở ra cho người ta một con đường sống, một chân trời hy vọng. Cho nên, cộng đoàn họ đạo có thể vực dậy một người anh chị em của mình sa ngã, nhưng cộng đoàn họ đạo cũng có thể đẩy người anh chị em đang chao đảo xuống tận đáy vực sâu.
Và đồng thời, chuyện của những người đồng hương của Chúa Giêsu đã khước từ Ngài cũng là chuyện của cái nhìn. Sở dĩ, họ không công nhận Chúa Giêsu là ngôn sứ, là Đấng Cứu Thế, bởi họ đã có cái nhìn khép kín Chúa Giêsu trong những quan niệm của họ, họ không vượt qua được cái nhìn về quá khứ của Chúa Giêsu, về mối dây hàng xóm láng giềng. Và chính từ cái nhìn khép kín về Chúa Giêsu như vậy, cho dù Chúa Giêsu có đến với họ, họ cũng chẳng nhận được ơn nào của Ngài.
Cũng từ kinh nghiệm về cái nhìn khép kín của những người đồng hương với Chúa Giêsu, chẳng phải cũng là kinh nghiệm của chúng ta về cái nhìn khép kín của mình đối với người khác hay sao?
Trong thực tế của cuộc đời, khi nhìn về tha nhân, xem ra chúng ta vẫn hay khép kín người anh chị em của mình trong quá khứ hơn là mở ra với tương lai. Có phải biết bao nhiêu lần trong đời, chúng ta đã từng khóa chặt người anh chị em của mình trong cái quá khứ lỗi lầm, nhiều khi chỉ là một lỗi lầm nhỏ trong đời. Vậy mà chúng ta lấy lỗi lầm ấy bọc kín quá khứ của người anh chị em lại và cứ nhìn họ là nhìn vào lỗi lầm ấy mà phủ nhận, phán đoán và đánh giá chính con người của họ. Chúng ta cũng thường nghe nói: “Mỗi thánh nhân đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai”. Thế mà dường như chúng ta dễ dàng chấp nhận cái quá khứ không đẹp của một thánh nhân hơn là tin vào cái tương lai tươi sáng của một người tội nhân. Như vậy chẳng bất công lắm sao?
Chính từ những kinh nghiệm đó mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần phải có một cái nhìn lạc quan hơn để dám tin vào những giá trị tốt đẹp nơi cuộc đời, nơi con người. Cũng như câu ngạn ngữ: “Chẳng có hồng nào mà không có gai, nhưng trong bụi gai ấy lại có đóa hồng”. Giữa những lầm lỗi thiếu xót của con người thì vẫn luôn có những giá trị tốt đẹp nơi cuộc sống. Thực ra, làm người ai cũng được ban cho nhiều nét đẹp riêng. Có những nét đẹp bị bao bọc bởi cái vỏ bề ngoài sần sùi xấu xí. Để có thể nhìn ra giá trị thực ẩn đằng sau cái lớp vỏ ấy, chúng ta cần phải có một cặp mắt tinh tường và một con tim yêu chuộng cái đẹp. Thật vậy, công trình của người thợ mộc bao giờ cũng bắt đầu với những khúc gỗ sần sùi xấu xí. Nhìn bề ngoài, người ta dễ tưởng rằng chúng vô dụng, chỉ có vứt đi. Phải có cặp mắt tinh tường của người thợ, người ta mới nhận ra được giá trị thực của khúc gỗ. Cũng vậy, để có thể nhìn ra giá trị tốt của một con người đã có những sai lầm lỗi phạm. Chúng ta cần phải có cái nhìn của một con tim bao dung và tha thứ.
Qua Lời Chúa hôm nay, từ những kinh nghiệm của Chúa Giêsu bị khước từ khi trở về quê hương, tôi xin gợi lên một vài kinh nghiệm về đời sống cộng đoàn họ đạo, về cái nhìn của chúng ta đối với người khác, để mỗi người chúng ta sống lại, ý thức lại đời sống của mình, để có thể xây dựng đời sống cộng đoàn họ đạo của chúng ta ngày càng thật sự trở thành một cộng đoàn hiệp thông, một cộng đoàn yêu thương trong tình yêu của Chúa Giêsu. Amen.
Nhìn nhận một Đức Giêsu của lịch sử, người ta dễ dàng chấp nhận. Thế nhưng khi đối diện với một Giêsu của niềm tin, con người như rơi vào hòan cảnh lúng túng. Liệu Đức Giêsu thành Nazareth có phải là Đấng Messia không? Não trạng của dân Do Thái ngày xưa cũng chẳng khác gì con người trong thời đại ngày hôm nay. Mãi mãi Ngài vẫn là một ẩn số trong một phương trình hoặc có một nghiệm, nhiều nghiệm hay vô nghiệm. Con người không thể tự sức mình mà khám phá hết về Chúa Giêsu, chỉ khi nào họ biết khiêm nhường và biết nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu với tâm tình tin tưởng và lắng nghe, lúc đó họ mới có thể biết về Ngài.
Tiên tri Êdêkien sống vào khỏang năm 593-571 trước công nguyên, ông có kinh nghiệm về một dân tộc bội ước quên thề, trong thời lưu đày Babylon, Thiên Chúa sai ông đến với nhà Itrael, đến với một dân tộc ương nghạnh:”Người phán với tôi:”Con người hỡi, Ta sai ngươi đến với nhà It-ra-el, đến với những dân phiến lọan, đã từng dấy lọan chống lại Ta, chúng và cha ông chúng đã từng làm nghịch với Ta, cho đến mãi ngày hôm nay”(Ed 2, 3). Quả là bi đát cho số phận của các Tiên tri, họ luôn phải sống với những con người lọan tặc, và tâm trạng của các Tiên tri là khiếp sợ, vì bị chống đối, bị ruồng bỏ. Chúa Giêsu số phận của Ngài cũng chẳng khác gì với những Tiên tri trong thời cựu ước. Ngài trở về quê hương Nazareth, nơi sinh trưởng của mình. Nhưng lạ lùng thay, dân ở đây không tin vào Ngài. Một cuộc tranh luận xảy ra, Đức Giêsu thành Nazareth là ai? Do đâu mà Ngài có quyền năng trên bệnh tật, thiên nhiên và con người. Các phép lạ xảy ra một cách nhãn tiền. Lý luận mãi cũng không xong, sau cùng người ta quy về thân thế của Ngài:” Ông ta không phải bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuda và Simon sao?”( Mc 6,3). Như thế một cách có chủ ý, người ta phủ nhận một Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, điều này được chứng tỏ khi họ không đón nhận và tin vào Ngài. Chi tiết mà thánh Marcô ghi nhận là Ngài bị xem thường ở chính tại quê hương mình. Dân Do thái ngạc nhiên về những việc làm của Chúa Giêsu, nhưng tiếc thay họ vẫn cứng lòng. Chúa Giêsu cũng biết được điều này khi Ngài thốt lên:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính tại quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”(Mc 6, 4).Thiên Chúa đến với con người, nhưng con người vẫn không đón nhận và tin vào Ngài. Trái đất này là quê hương của Chúa, nhưng khi Chúa đến con người vẫn chối từ Ngài. Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng người ta vẫn khăng khăng khẳng định Ngài chỉ là con ông thợ mộc Giuse và Mẹ Maria là Mẹ Ngài.
Thế giới ngày nay cũng có vô số những con người không nhìn nhận Thiên Chúa có chủ quyền trên cuộc đời mình. Từ chỗ khước từ Thiên Chúa, họ cũng phủ nhận anh em mình. Vì không có niềm tin, con người sẵn sàng hành động theo bản năng của mình. Một khi sống và làm việc theo bản năng hạ đẳng con người không còn biết tôn trọng phẩm giá của mình và anh chị em xung quanh. Chúa Giêsu đến để kêu mời nhân lọai cộng tác với Ngài xây dựng một cuộc sống chan hòa tình yêu thương.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Ở đời trong mọi lãnh vực đâu có ai thích cùng mong muốn mình yếu đâu. Nhưng Thánh Phaolo lại có suy nghĩ khác: Khi tôi yếu là lúc tôi mạnh! ( 2Cr. 12, 10 ).
Vậy đâu là ý nghĩa cùng xác tín của Thánh Phaolô qua câu nói này?
Ai cũng muốn tỏ ra mình mạnh khoẻ thể xác, cũng như tinh thần. Ai cũng muốn tỏ cho người khác thấy mình thắng thế hơn trội, thế nào là sức mạnh thế nào là yếu thế.
Trong đời sống ta thấy mạnh đâu phải là bị khuất phục bị làm nhục, nhưng mạnh là người yếu bị bắt tù tội như một Tổng Thống Mandela bên Nam Phi Châu. Mạnh đâu phải là những đạo quân đi xâm chiếm thuộc địa như người Anh, nhưng mạnh là người dân yếu thế như một Mahatma Gandhi bên Ấn Độ.
Mạnh đâu phải là những người kỳ thị người khác với sức mạnh lấn lướt, nhưng mạnh là người yếu như Mục sư Martin Luther King. Mạnh đâu phải là những vua chúa thống trị với nhiều quyền hành, nhưng mạnh là những vĩ nhân yếu mềm như Thánh Phanxico Assisi, Mẹ Á Thánh Têrêxa.
Mạnh không phải là tảng khối đá cứng, nhưng mạnh là dòng nước yếu mềm. Mạnh không phải là lưỡi gươm thanh kiếm, nhưng là cây thập gía.
Mạnh không là những lời to tiếng đanh thép, nhưng là những lời nhỏ nhẹ từ tốn không làm người khác bị mất thể diện. Mạnh không phải là sự hận thù, nhưng là tình yêu. Mạnh cũng không là sự chết, nhưng là sự sống.
Thánh Phaolô do lòng xác tín đã đặt lại thang gía trị dựa trên thành tích, trên và dưới, mạnh và yếu, vốn gây ra lẫn lộn hoang mang không rõ ràng và cũng tương đối thôi. Người mạnh sức, mạnh miệng lấn át, người giầu có, nghĩ tưởng đó là thước đo gía trị đời sống con người.
Rất nhiều trường hợp trong đời sống, ai đó vượt qua mặt được người khác, cho rằng mình đã thắng, mình là người mạnh, đang khi người khác yếu thế sống âm thầm yên lặng. Nhưng cái gì cũng có diễn biến trong thời gian lịch sử của nó. Một thời gian sau, người nghĩ rằng mình mạnh đã chiến thắng lại trở thành người yếu thua thiệt về danh dự. Trong khi đó, người sống yếu thế yên lặng lại trở thành người mạnh được kính phục, vì sống cư xử là người có tư cách lễ phép tình người.
Chúa Giêsu người đã trở nên yếu thế trước tòa án xét xử bị kết án ở dinh quan tổng trấn Philato. Nhưng Người đã trở thành sức mạnh đức tin tinh thần ngay nơi chính gia đình quan Philato cùng cho muôn người qua sự chết trên thậy gía.
Thánh Phaolo trong cơn cùng quẫn cảm thấy yếu đuối khi phải chịu đựng đau khổ, đã than thở xin Chúa cho thoát khỏi cảnh này, và Chúa đã nói với Thánh nhân: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi” (2Cr. 12,9).
Trong cuộc sống làm người ở đời, ta không chỉ cần cơm ăn áo mặc, kiến thức học hành làm việc tốt thành công để trở thành người mạnh khoẻ. Nhưng còn cần đến ơn Chúa trợ giúp nhiều hơn nữa để có sức mạnh vượt qua những khó khăn thử thách, nhất là trong đời sống tinh thần, đời sống đức tin hôm nay và ngày mai.
Ông là ai vậy? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế? Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?
Phải, đúng lắm. Đó chính là Chúa Giêsu, con của ông Giuse và bà Maria, đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở Na-da-rét 30 năm rồi. Nhưng tại sao những người đồng hương lại ngạc nhiên và thắc mắc về Chúa như vậy? Bởi vì ít lâu nay họ đã nghe dư luận đồn thổi về những lời giảng dạy mới lạ, đầy uy quyền của Chúa, cũng như đã nghe dân chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở nơi này nơi kia…Đó là những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài về Na-da-rét, quê hương của Ngài. Nhưng những người đồng hương của Ngài không tin và không thể tin. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ đây có thể làm được những điều lạ lùng như thế, nhất là tin làm sao được ông Giêsu đây là Thiên Sai, Đấng Cứu Tinh, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả ngàn năm?
Dân làng Na-da-rét không thể nào chấp nhận một người mà họ đã quá biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn. Biết cả họ hàng chẳng danh giá gì. Biết rõ quá như thế thì làm sao người đó có thể là vị cứu tinh, là Đấng Cứu Thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc họ được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giàu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Chúa Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Chúa làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác. Trước thái độ ít cởi mở và hoài nghi của họ, vì họ không tin, nên Chúa không làm phép lạ được. Không phải vì Ngài không thể làm, bằng chứng là Ngài cũng có đặt tay chữa cho mấy người bệnh, nhưng chính vì họ không tin.
Dân làng Na-da-rét không tin Chúa Giêsu. Không tin là vì bụt nhà không thiêng, như có lần Chúa đã nói: “Chẳng ngôn sứ nào được danh tiếng nơi quê hương mình “; hoặc tệ hơn, như Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Tại sao dân làng Na-da-rét không tin? Họ không tin vì thành kiến. Họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi, có sẵn của họ. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Chúa mở ra cho họ. Họ cũng không thể chấp nhận Chúa Giêsu là hiện thân của nước trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đối với người Do thái đương thời, Chúa Giêsu đến quá ư bất ngờ và quá khác xa với quan niệm họ sẵn có về Đấng Cứu Thế. Họ không biết rằng đường lối của Thiên Chúa có thể khác xa với sự toan tính của loài người.
Qua đó chúng ta rút ra được một bài học thực tế: Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự in trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.
Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong”. Khổng Tử cũng xác nhận: “Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người tôi ghét chưa chắc đã xấu”. Phong dao cũng có câu: “Người xấu duyên lặn vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên rong ra ngoài”. Lặn vào thì còn lại, bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại, thành kiến đã làm cho dân làng Na-da-rét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn,và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Tagore (1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel về văn chương năm 1913, có tài làm thơ ngay khi còn nhỏ tuổi.
Lúc còn niên thiếu, thỉnh thoảng Tagore làm một vài bài thơ gửi đăng trên tờ báo do thân phụ của mình đảm trách phần biên tập. Khi thấy những bài thơ gửi đến ký tên con mình, người cha chẳng thèm đọc thơ mà quẳng ngay vào sọt rác vì cho rằng con mình còn nhỏ dại thì biết gì thi ca.
Khi hiểu rõ sự tình, Tagore chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi đăng báo, không ký tên thật của mình nữa mà lấy một bút hiệu khác rồi gửi lại cho toà báo.
Lần nầy, thân phụ của Tagore nhận thấy đây là những bài thơ có giá trị và cho đăng ngay lên báo mà không hề hay biết đó là những bài thơ của con trai mình, những bài thơ mà trước đây ông đã quẳng vào sọt rác.
Đúng là: “Bụt nhà không thiêng”, hay nói như Chúa Giêsu: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4).
Ngay cả Chúa Giêsu cũng phải chịu cùng một số phận đó.
Mặc dù danh tiếng Chúa Giêsu đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều người bệnh tật và nhờ những phép lạ Người làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giêsu, nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Người nữa.
Họ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3).
Bấy giờ Chúa Giêsu nêu lên một nhận định có phần chua xót: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”
Thế là Chúa Giêsu chẳng làm được phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc 6, 5) cho người đồng hương. Người rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giêsu theo lớp vỏ bên ngoài, dân làng Na-da-rét đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giêsu ưu ái dành cho họ.
Việc đánh giá Chúa Giêsu dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất của Người đã chứng tỏ cho thấy dân thành Na-da-rét đề cao giá trị vật chất mà xem nhẹ giá trị tinh thần.
Có giai thoại kể rằng một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya. Y tháo gỡ miếng giấy ghi giá bán của những mặt hàng có giá trị cao, đem dán vào những mặt hàng rẻ mạt, rồi gỡ miếng giấy ghi giá bán những mặt hàng rẻ mạt gắn vào những món hàng quý báu. Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần. Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên đã mua lầm một cách tai hại (ý tưởng của Frère Phong trong cuốn “mắm muối cho bữa ăn hằng ngày”)
Ngày nay, các giá trị của đời sống con người cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến nhiều người đua đòi chạy theo những điều phù phiếm mà rời xa những giá trị tinh thần và văn hoá cao đẹp.
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới trẻ ngày nay đua đòi ăn mặc hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu nết na và kỳ quái, và cho rằng có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp bên trong.
Trước thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người”
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta đừng theo vết dân thành Na-da-rét ngày xưa, đánh giá con người theo hình tướng bên ngoài, nhưng biết tôn trọng con người vì phẩm chất cao quý của họ và vì họ là chi thể của Chúa Giêsu và là hiện thân của Thiên Chúa.
Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.
Ta bắt gặp thời niên thiếu của chủ hãng Microsoft. Bill Gates chẳng biết học hành sao đó nhưng bị rớt vài môn còn các bạn thì đậu hết. Hẳn nhiên, các bạn của Bill rất coi thường vì học lực của Bill kém đến như thế.
Chắc có lẽ những người bạn học cùng thời với Bill vui vẻ dèm pha và chỉ trích cũng như trêu chọc với cái thành tích đó. Bill Gates bộc bạch: “Tôi rớt một vài môn cuối kì còn bạn tôi đậu hết. Hiện tại anh ấy là một kĩ sư của Microsoft còn tôi là chủ của Microsoft.”
Còn với cựu tổng thống Mỹ George W.Bush chưa bao giờ được đánh giá cao ở khả năng diễn đạt trước đám đông, nhưng ông cũng kịp thời ghi dấu ấn cho bản thân khi có một bài phát biểu khá sâu sắc và ý nghĩa lúc có mặt trong ngày lễ tốt nghiệp của các sinh viên trường đại học Southern Methodist.
Ông nói: “Đối với các bạn trẻ đã tốt nghiệp trong buổi lễ chiều nay với điểm số cao cùng học lực khá giỏi, tôi có lời khen, ‘Làm tốt lắm.’
Và tôi cũng dành lời khen này cho các bạn học sinh trung bình: Các bạn nữa, cũng đều có thể trở thành tổng thống.”
Với câu nói trên, cựu tổng thống Bush đang tự châm biếm bản thân khi chính ông cũng đã từng đạt được các điểm số rất lẹt đẹt khi còn học cao đẳng. Tuy vậy, cho đến ngày hôm nay – cựu tổng thống Hoa Kỳ lại là một trong những ví dụ kinh điển nhất về việc điểm số thời đi học sẽ không quyết định tương lai sau này của bạn, cũng như là minh chứng cho một cuộc sống luôn đầy ắp những khả năng vô hạn.
Và dù có thích Bush hay không, thì bạn vẫn không thể chối cãi rằng, những gì ông nói trong bài phát biểu trên đây là hoàn toàn chính xác. Trên thực tế, còn nhiều cái tên khác trong lịch sử các tổng thống Mỹ cũng đã từng học rất tệ như John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson và cha của Bush – cựu tổng thống George H.W Bush. Bên cạnh danh sách các nhà lãnh đạo “học dở” của cường quốc số một thế giới này, chúng ta còn có thể kể đến những doanh nhân thành công; những con người đã không để dư âm trường học ngăn cản công cuộc chinh phục đỉnh cao vinh quang của mình.
Những cái tên nổi bật nhất đầu tiên có thể kể đến là Steve Jobs khi ông chưa bao giờ học xong đại học – cũng giống như Bill Gates và Mark Zuckerberg. Các trường hợp tương tự như nữ tỉ phú trẻ tuổi nhất thế giới, Elizabeth Holmes, người vẫn đang là niềm cảm hứng cho cuộc cách mạng y học, cũng bỏ ngang đại học Stanford để theo đuổi ước mơ của mình. Theo sau có thể kể đến tỉ phú Richard Branson – người bị chứng khó đọc và đã bỏ học từ năm 15.
Ở đời, người ta vẫn thường hay dán nhãn cho nhau, nhìn nhau bằng ánh mắt khinh khi khi người khác thua kém mình, người khác không bằng mình.
Nảy giờ ta nghĩ chuyện ngoài đời, ta nói chuyện ngoài đời.
Ngay trong Giáo Hội cũng thế! Ngay thời Chúa Giêsu, người ta vẫn thường có thói quen dán nhãn cho một người nào đó mà như Chúa Giêsu lại chính là nạn nhân.
Hôm nay, trong trang Tin Mừng rất ngắn của Thánh Maccô ta bắt gặp: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 2-4)
Nhận định của dân hoàn toàn đúng chứ không sai! Thế nhưng, Thiên Chúa thường vẫn làm những chuyện mà con người xem ra là bất thường. Người ta đã dán cho Chúa Giêsu một cái nhãn bình thường và họ nhìn Ngài trong cái nhãn giới tầm thường của họ.
Những kiểu dán nhãn của họ có tính cách cố định. Dán nhãn đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Chúa Giêsu và người đồng hương. Chính những dán nhãn đó làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Chúa Giêsu không thích hợp với với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Chúa Giêsu không thể là Đấng cứu thế. Với sự dán nhãn, họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Do đó Chúa Giêsu nói với họ: Ngôn sứ có bị coi rẻ thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mc 6, 4).
Trang Tin Mừng hôm nay ghi lại: Người đã không thể làm phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6, 5). Sở dĩ Chúa Giêsu không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6, 6).
Ta có thể thầm trách đám đông trong Tin Mừng hôm nay vì họ đã khước từ Chúa, họ đã tẩy chay Chúa.
Tuy nhiên, trong cõi lặng của cuộc đời, ta có thể nhìn ra ta cũng giống như những người trong Tin Mừng hôm nay.
Nếu ta chỉ đi tìm Chúa nơi những người quyền cao chức trọng, hay ở những nơi nguy nga tráng lệ mà thôi, ta sẽ khó tìm thấy Chúa. Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bình thường mà ta thường gặp, cũng như những sự việc xẩy ra thường ngày. Ta khó nhận ra những dấu vết của Chúa nơi người khác cũng như sự việc ta gặp hằng ngày nếu ta để cho thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm đời sống tư tưởng của ta.
Thiên Chúa không những hiện diện ở những nơi tầm thường như phố nhỏ Nadarét, mà còn ở nơi dơ bẩn, hôi hám như trong máng cỏ Bêlem. Ta có thể tìm thấy Chúa nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ và tù đầy. Đó là điều Chúa nói trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu: Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn (Mt 25, 35).
Để có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Nếu ta để cho thành kiến về đạo giáo làm mù quáng, thì những thành kiến có thể làm cản lối Chúa vào nhà tâm hồn. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do và Chúa tôn trọng tự do của loài người. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ai theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.
Nếu ta để cho việc dán nhãn và tính ganh tị lấn át, ta sẽ không nhìn thấy những ưu điểm và khả thể nơi tha nhân. Nếu ta phán đoán lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ là ta để cho việc dán nhãn len lỏi vào óc phán đoán của ta.
Lời nói hay việc làm có giá trị thường mang tính chất khách quan chứ không tuỳ thuộc vào bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền hay gia cảnh của người nói hay làm. Nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác mà đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bầy tỏ lí do, thì có phải là quan niệm hẹp hòi chăng? Gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu, thì không phải là nhận xét nông cạn sao? Bỏ việc thờ phượng hay nghe lời giảng dậy ngày Chúa nhật chỉ vì thắc mắc về khả năng hoạt bát và trình độ học vấn của linh mục cử hành thánh lễ và rao giảng thì có phải là một quyết định không dựa trên đức tin chăng? Buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì có phải là hành động giận cá băm thớt không?
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta bớt đi chuyện dán nhãn cho người khác nhưng hãy nhìn họ như họ là sự hiện diện của Chúa trong đời ta thật. Có như thế, ta mới vững vàng bước đi trong niềm tin là Chúa luôn luôn ở với ta trong mọi nẻo đường đời.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya để tìm cách phá hoại.
Thấy trong cửa hàng có một bàn thờ bằng gỗ quý, chạm khắc rất mỹ thuật ghi giá bán 30 triệu đồng và một cái thùng rác ghi giá bán 10.000 đồng, người đột nhập gỡ miếng giấy ghi giá 30 triệu ở bàn thờ gắn vào thùng rác và gỡ miếng giấy ghi giá 10.000 đồng ở thùng rác dán vào bàn thờ. Thế là bàn thờ gỗ quý chạm khắc công phu chỉ có giá 10.000 đồng trong khi thùng rác hèn hạ được nâng giá trị lên đến 30 triệu đồng và y tiếp tục thực hiện như thế với những món hàng khác.
Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần.
Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên đã mua lầm một cách tai hại. (Dựa theo ý tưởng của Frère Phong trong cuốn “Mắm muối cho bữa cơm hằng ngày”)
Các giá trị của đời sống con người hôm nay cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến rất nhiều người tôn vinh tiền tài của cải mà xem thường luân thường đạo lý, đánh giá cao những gì phù phiếm bên ngoài mà coi rẻ phẩm chất cao đẹp của con người. Thế là những điều phù phiếm được lên ngôi trong khi những phẩm chất cao đẹp của con người bị đẩy xuống hạng thấp kém.
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô cho thấy người dân thành Na-da-rét cũng đánh giá Chúa Giêsu theo nhãn quan đó.
Mặc dù danh tiếng Chúa Giêsu đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân và nhờ những phép lạ Người làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giêsu, nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Người nữa.
Họ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3)
Bấy giờ Chúa Giêsu nêu lên một nhận định có phần chua xót: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”
Thế là Chúa Giêsu chẳng làm được phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc 6, 5) cho người đồng hương. Người rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giêsu theo lớp vỏ bên ngoài, dựa vào gia thế, nghề nghiệp… mà không dựa vào phẩm chất của Người nên dân làng Na-da-rét đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giêsu ưu ái dành cho họ. Cách đánh giá như thế khá phổ biến trong xã hội hôm nay.
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới trẻ ngày nay đua đòi ăn mặc hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu nết na và kỳ quái, và cho rằng có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp bên trong.
Trước thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người”
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta “gắn lại bảng giá cho đúng với giá trị thật của mỗi món hàng”, nghĩa là đặt lại bậc thang giá trị của con người sao cho thỏa đáng. Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.
Trước thái độ cứng lòng của dân làng Nagiarét, chúng ta cùng tìm hiểu và chia sẻ về việc lắng nghe lời Chúa.
Giữa giòng đời huyên náo và quay cuồng, đôi lúc chúng ta cảm thấy vọng lên từ thẳm sâu cõi lòng lời thì thầm sau đây:
– Hãy dừng lại. Đừng chạy nữa và đừng nói nữa. Hãy để ngoài tai những âm thanh ồn ào. Vì lòng yêu mến Chúa, hãy dành lấy một khoảnh khắc thinh lặng. Hãy lắng nghe tiếng nói từ trời cao, vang lên trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Thực vậy, hãy để ngoài tai những âm thanh ồn ào của thế gian, vì chúng chỉ nói với chúng ta những điều điên cuồng và dối trá, để rồi sẽ dẫn chúng ta tới chỗ diệt vong.
Thật là dại dột, nếu để cho cuộc đời vùi dập chúng ta như cánh hoa bị giòng nước cuốn trôi, vì nguy hiểm đang chờ sẵn. Hãy đề cao cảnh giác và hãy nhớ rằng tất cả những gì tốt đẹp đều xuất phát từ trời cao, đều do Chúa Cha, cội nguồn mọi ánh sáng, đổ xuống.
Chính Ngài đã ban cho chúng ta đời sống ơn sủng là như tấm áo cưới để được đón nhận vào quê hương nước trời. Chỉ mình Ngài mới có thể trao ban cho chúng ta một cuộc sống không bao giờ tàn úa.
Trong khi con người thì thay đổi và chóng qua như một làn khói tỏa, như một áng mây bay, thì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng trung thành, trước sau như một. Trời và đất sẽ qua đi nhưng lời Chúa sẽ chẳng bao giờ qua đi. Ngài không bao giờ quên mất niềm hạnh phúc vĩnh cửu, như là phần thưởng Ngài hứa ban cho những kẻ yêu mến và phụng thờ Ngài.
Ngay từ thuở đời đời, Ngài đã tạo dựng chúng ta, chọn lựa chúng ta và yêu thương chúng ta, mặc dù chúng ta chẳng có công trạng gì. Bởi đó hãy cảm tạ Ngài không ngớt.
Lời ban sự sống, đó là Tin Mừng, mà chúng ta được nghe ít nữa là trong ngày Chúa nhật. Vậy thì chúng ta đã đón nhận lời Chúa như thế nào? Chăm chú lắng nghe? Hay qua lần chiếu lượt, như một bổn phận phải làm cho xong.
Lời đem chân lý đó là Kinh Thánh. Có bao giờ chúng ta mở ra để đọc và suy nghĩ, hay là chúng ta sẽ thầm bảo rằng: làm gì có thời giờ cho những công việc phù phiếm ấy.
Mỗi ngày chúng ta có biết bao nhiêu thời giờ để làm lụng, để ăn uống, để ngủ nghỉ, để giải trí, để cắm đầu vào những cuốn chuyện nhảm nhí như thuốc độc giết hại tâm hồn. Nhưng lại không có lấy một chút hứng thú cho những việc đạo đức, cho những sự thiêng liêng.
Hãy cầu xin với Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn mỗi người, cho chúng ta biết yêu thích lắng nghe lời Chúa, để rồi sẽ ghi nhớ trong cõi lòng của mình, như lời thánh Phaolô khuyên nhủ:
– Hãy mau nghe nhưng chậm nói.
Đúng thế, hãy yêu thích lắng nghe lời Chúa, và lời Chúa sẽ dần dần uốn nắn sửa đổi chúng ta. Lời Chúa là ánh sáng đánh tan sương mù vây bủa cuộc đời. Lời Chúa là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động. Lời Chúa sẽ đánh động tâm can và là một thứ khí giới bảo đảm cho chúng ta trước mọi cơn cám dỗ của thù địch.
Hãy mau nghe nhưng chậm nói, vì nói nhiều thì thường là nói bậy. Ai kiểm soát được lời nói của mình thì đã xóa bỏ được rất nhiều tội lỗi và sai phạm.
Ước chi lời Chúa được lắng nghe, sẽ đọng lại nơi tâm hồn và trở nên khuôn mẫu cho đời sống người Kitô hữu chúng ta.
Sau một thời gian lấy nhau, vợ Mozart ham muốn những thứ khác trên đời, ân hận về sự chọn lựa của mình, nên quyết định li dị với ông. Khi ông nổi tiếng khắp thế giới, bà nói: “Lúc trước tôi chẳng thấy ông ta có gì nổi bật. Tôi chỉ thấy đó là một người nhỏ con.”
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Nhiều người chẳng thấy nơi Ngài có gì là xinh đẹp, đáng mến, nên họ thất vọng và loại trừ Ngài. Điều đau lòng là chính những người thân, những người hàng xóm loại trừ Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay giống như lời tiên tri báo trước về số phận những người đi rao giảng phúc âm “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Như bà vợ Mozart không thấy được những điều tốt đẹp nơi chồng mình vì bà ta chỉ nhìn thấy được vẻ bên ngoài mà thôi. Còn những người từ chối không tiếp đón Đức Giêsu vì họ bị những thành kiến che phủ.
Thành kiến thường được phát xuất từ lòng ganh tị, ghen ghét. Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến “các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình” (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi”. Chứ khi người ta thương nhau thì con mắt của họ không có chữ thành kiến đò. Ban đầu, Khi mới trở về quê hương người ta rất ấn tượng về Ngài, thậm chí ” Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên”. Phải chi họ cứ sống trong niềm cảm phục vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người đã ban tặng họ thì tốt biết mấy. Ngược lại, họ để thái độ của mình đi lệch hướng. Từ cảm phục thông thường người ta đi đến yêu thương, còn họ từ cảm phục lại đi đến thái độ ganh tị. Họ hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?”. câu hỏi này không phải là câu hỏi của sự thắc mắc, hiếu kỳ, mà là câu hỏi tràn đầy múi vị thành kiến nhằm hạ bệ người khác. Bản thân ta có là chi mà dám đặt giới hạn cho người khác Người dân làng Nagiarét mang nặng thành kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Làm họ không tin nên Đức Giêsu cũng không thể làm phép lạ nào ở đó. Thường chúng ta không chịu thừa nhận quà tặng và tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và chúng ta cũng chịu thiệt hại bởi vì chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt và quà tặng của họ. Chắc chắn Đức Giêsu rất thương mến những người thân thuộc, những người hàng xóm mình, Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người cũng chịu “bó tay”. Như thánh Augustinô đã từng nói “Khi Chúa dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi Ngài cứu chuộc con ngài cần sự đồng ý của con”. Nghĩa là khi cứu mình thì điều kiện đầu tiên Thiên Chúa cần chính là sự đồng ý của mình. Do đó, Thiên Chúa cũng không làm được việc gì cho chúng ta khi mà chúng ta không chịu tiếp nhận Ngài.
Lạy Chúa, Chỉ có yêu thương mới xoá bỏ được hận thù, xoá bỏ được thành kiến, xin cho chúng con biết nhìn anh em bằng cặp mắt tôn trọng, chấp nhận khác biệt nơi họ, xoá tan những thành kiến để ngày chúng con càng gần nhau và gần Chúa hơn. Amen.
Trong Kinh Thánh, có hai chữ “lòng thành tín” và “lòng thương xót” thường đi đôi với nhau để diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa Giavê đối với lời hứa và giao ước của Người.
Khi tôi tin vào lời của Thiên Chúa, là tôi đón nhận Lời với sự tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Người, bởi vì Người có quyền năng và muốn thực hiện lời đã hứa. Thiên Chúa là Đấng chân thật và đáng tin cậy. Nhờ đức tin, tôi phó thác bản thân cho Thiên Chúa là Đấng chân thật và đáng tin cậy. Đức tin là một cam kết dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, chỉ tìm kiếm sự an toàn bảo đảm trong ý muốn cứu độ của Thiên Chúa mà thôi.
Với quan niệm của Kinh Thánh về đức tin như vậy, chúng ta thấy dân làng Nagiarét không thể đặt niềm tin vào Đức Giêsu được, bởi vì họ thấy Chúa chỉ là một con người bình thường. Đức Giêsu chỉ là một người thợ mộc, con trai của bà Maria. Và họ tự hỏi: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan như vậy?” Dân chúng chỉ thấy được vẻ bề ngoài. Họ không có đức tin, là thứ bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Họ đã đặt Thiên Chúa vào một khuôn khổ theo quan niệm riêng của họ. Chúa Giêsu không sống, không hành động đúng với khuôn khổ đó, vì thế họ không nhìn thấy Thiên Chúa trong Đức Giêsu.
Ngày nay, có nhiều người đặt niềm tin của họ vào các thụ tạo hơn là đặt niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Một số người đặt sự an toàn của mình vào các chất gây nghiện, vào rượu mạnh. Một số khác lại đặt sự an ninh của mình vào súng đạn, vào các loại vũ khí. Một số khác dựa vào những thủ đoạn, vào tiền bạc và quyền lực. Giới thanh niên ngày nay sẵn sàng tiếp nhận các mốt thời trang và những xu hướng hiện đại mà không phân biệt những gì là phi nhân bản, và ngay cả những điều ma quái quỷ quyệt ẩn nấp trong đó. Trong khi đó, Thiên Chúa bị người ta đẩy ra khỏi nhiều khía cạnh trong đời sống. Như thế, liệu chúng ta có khác gì dân thành Nagiarét ngày xưa không? Trong lời truyền tin, sứ thần Gabriel đã gọi người con của Đức Maria là “Con của Đấng Tối Cao” và Con Thiên Chúa”. Ma quỷ cũng gọi Chúa Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Ở dưới chân thập giá, viên đại đội trưởng cũng tuyên xưng Chúa Giêsu: “Đích thật người này là Con Thiên Chúa”. Thánh Thôma cũng gọi Chúa Giêsu là: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Chính Chúa Cha cũng nói về Chúa Giêsu vào ngày Chúa chịu phép rửa tại sông Giocđan: “Đây là Con yêu quý của Ta”. Như thế, tôi còn có thể nghi ngờ như dân thành Nagiarét nữa chăng? Tôi vẫn còn do dự chưa dám đặt trọn vẹn niềm tin của tôi vào Chúa Giêsu hay sao?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của con. Con tín thác vào Chúa. Xin Chúa giúp con càng ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, nhất là cho con được dấn thân phụng sự Chúa trong suốt cả cuộc đời con.
Người ta thường nói “không nơi đâu đẹp bằng quê hương”, “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Khi nói những điều đó là người ta muốn minh chứng rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đây là xét về tình cảm cá nhân mỗi người dành cho quê hương, còn về chính quê hương, đối lại với cá nhân, tức là tình cảm của những người đồng hương dành cho cá nhân, thì phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: “Bụt nhà không thiêng”. Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài tại quê hương Nagiarét của Ngài.
Ngài trở về quê hương Nagiarét sau hơn một năm đi giảng dạy khắp nơi. Hôm ấy đúng vào ngày Sabat, mọi người đến hội đường để nghe đọc Kinh Thánh và nghe diễn giảng. Chúa Giêsu cũng vào đây để dự phụng vụ lời Chúa. Hôm nay, sau bài đọc, như luật cho phép, Ngài diễn giảng lời Chúa. Kết quả: dân chúng không nhận ra Ngài là ai và họ khinh khi Ngài, họ có thái độ hiểu lầm Ngài, hiểu lệch lạc về con người của Ngài. Bởi vì Ngài nói như một người có uy quyền, như bậc thầy nói với học trò, như một người muốn gây dựng cho mọi người lòng tín nhiệm nhau để tiến tới tin nhau. Điều Ngài dạy vượt mọi khuôn phép cổ truyền đến nỗi mọi người phải thắc mắc.
Nghĩa là trước những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và bác Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh phó mộc, mà sao có thể đảm nhận chương trình đại sự của Thiên Chúa được? Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân lý của Ngài.
Nói rõ hơn, dân làng Nagiarét đã ngạc nhiên về Chúa Giêsu khi thấy Ngài giảng dạy một cách khôn ngoan, thông thái và có thẩm quyền, nghĩa là họ vừa thán phục vừa kinh ngạc. Nhưng vì biết quá rõ về Chúa: thợ mộc, con thợ mộc, từ thán phục kinh ngạc họ chuyển sang thái độ bỡ ngỡ, nghĩa là kinh ngạc nhưng nghi ngờ. Càng nghĩ đến thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng Ngài, họ càng thấy khó chịu, nên họ có vẻ châm biếm khi gọi Ngài là thợ mộc. Một người như vậy mà có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư? Trăm lần không, ngàn lần không, và họ đã bị vấp phạm, có nghĩa là bị xúc động mạnh vì bị chạm tự ái. Họ không thể công nhận một người như thế làm ngôn sứ, làm Đấng Mêsia của họ, cho dù Ngài ăn nói giỏi hay làm được phép lạ cũng thế. Từ đó, sự hiện diện của Ngài khiến họ không thể chịu nổi.
Dân làng Nagiarét ngạc nhiên về Chúa, và Chúa cũng ngạc nhiên về họ, Ngài ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin, kiêu căng và cố chấp. Chính thái độ kiêu căng, cứng lòng đó đã làm tê liệt năng lực làm phép lạ của Chúa như Tin Mừng đã quả quyết: “Ngài không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ cứng lòng tin”.
Chúa Giêsu ngạc nhiên vì dân làng Nagiarét cứng lòng tin, ngày nay chắc Ngài vẫn còn phải ngạc nhiên hơn nữa vì sự cứng lòng tin của nhiều người Công giáo, vì dù sao người Công giáo cũng phải biết Chúa rõ hơn dân làng Nagiarét. Dân làng Nagiarét tưởng rằng họ biết rõ Chúa, nhưng kỳ thực họ biết rất hời hợt, thiển cận, chẳng hạn: ngay nơi sinh của Chúa họ cũng không biết, họ cứ tưởng Ngài sinh ra và lớn lên ở chính Nagiarét, một làng nhỏ bé, nghèo nàn. Nhiều người Công giáo cũng thế, đi đạo vì truyền thống gia đình, vì sinh ra trong gia đình Công giáo, giữ đạo vì thói quen, cho nên tưởng rằng biết Chúa, biết đạo lý, nhưng kỳ thực không biết gì hay biết không được bao nhiêu. Thế nên, mỗi người cần suy nghĩ: Chúa có ngạc nhiên về đức tin non yếu của chúng ta, về sự hiểu biết Chúa quá ít, hiểu biết về Kinh Thánh, giáo lý quá ít, và nhất là có phải Chúa rất ngạc nhiên về cách sống của chúng ta không?
Đàng khác, bài Tin Mừng hôm nay còn đặt ra cho chúng ta một điều nữa cần suy nghĩ, đó là từ chối hay đón nhận Chúa là thái độ hoàn toàn tự do của con người. Người ta có quyền chối bỏ cũng như có quyền chấp nhận. Thiên Chúa không áp đặt ai hay cố tình đưa ai vào một thế triệt buộc nào đó. Nhưng thời nào cái quyền tự do kia cũng là con dao hai lưỡi khiến phải đề phòng, người khôn ngoan bao giờ cũng dè dặt.
Giả như chúng ta thử đặt mình vào số những người có mặt trong hội đường Nagiarét hôm ấy để nghe Chúa, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Chúng ta có quyền trách dân làng Nagiarét quá vội vàng hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình, và còn tiếc nuối biết bao cơ may trong đời chúng ta đã đánh mất vì quan niệm hay cái nhìn hẹp hòi của chúng ta.
Nói rõ hơn, thái độ từ khước Chúa Giêsu một cách hấp tấp, hồ đồ, chỉ vì thành kiến của dân làng nagiarét. Thái độ đó nhắc nhở chúng ta kiểm điểm về cách chúng ta phán đoán và đánh giá trị người khác, chúng ta cũng đã nhiều lần phán đoán hay đánh giá người khác hoặc vội vàng, hấp tấp, hồ đồ, hoặc không trung thực vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh tị, đôi khi còn bài bác, dèm pha nữa. Chúng ta hãy kiểm điểm và sửa chữa lại tật xấu này để mối tương giao của chúng ta với mọi người được tốt đẹp hơn. Chúng ta hãy nhớ: người hay phán đoán, nhất là phán đoán hồ đồ, không sống được với ai, không chơi được với ai, và cũng không ai dám chơi với họ, họ bị mất niềm tin nơi mọi người.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa phán với loài người qua các ngôn sứ và các tổ phụ. Các ngôn sứ được Chúa sai đến thường bị bạc đãi và tẩy chay như ngôn sứ Êdêkien được: Sai đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại (Ed 2:3) Thiên Chúa. Cuối cùng Thiên Chúa sai chính Con Một Người đến mạc khải trực tiếp cho nhân loại về tình yêu và đường lối của Người
Thánh Phaolô cũng chịu chung một số phận như các ngôn sứ: Bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô (2Cr 12:10). Khi Đức Giêsu về thăm quê nhà như Phúc âm hôm nay thuật lại, Người gặp thái độ nghi ngờ và tẩy chay của người đồng hương. Dân chúng không phàn nàn vì lời Người giảng dạy có tính cách nông cạn. Trái lại họ phải sửng sốt về những lời giảng dạy sâu sắc của Người. Dân chúng cho rằng họ biết tất cả về gia cảnh, thân thế và sự nghiệp của Người. Họ biết Người là con bà Maria nội trợ, con nuôi ông thợ mộc Giuse, không được đi học trường đạo tạo giáo sĩ hay kinh sư. Thế thì tại sao Người lại có thể biết nhiều về Kinh thánh như vậy? Vì thế họ không chấp nhận Người.
Những thành kiến của họ có tính cách cố định. Thành kiến đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Đức Giêsu và người đồng hương. Chính những thành kiến đó làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Đức Giêsu không thích hợp với với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Đức Giêsu không thể là Đấng cứu thế. Thành kiến của họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Do đó Đức Giêsu nói với họ: Ngôn sứ có bị coi rẻ thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mc 6:4). Phúc âm hôm nay ghi lại: Người đã không thể làm phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6:5). Sở dĩ Đức Giêsu không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6:6).
Ta có thể thầm trách đám đông trong Phúc âm hôm nay đã tẩy chay Chúa. Tuy nhiên ta có thể mang tội giống như người trong Phúc âm hôm nay. Nếu ta chỉ đi tìm Chúa nơi những người quyền cao chức trọng, hay ở những nơi huy nga tráng lệ mà thôi, ta sẽ khó tìm thấy Chúa. Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bình thường mà ta thường gặp, cũng như những sự việc xẩy ra thường ngày. Ta khó nhận ra những dấu vết của Chúa nơi người khác cũng như sự việc ta gặp hằng ngày nếu ta để cho thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm đời sống tư tưởng của ta.
Thiên Chúa không những hiện diện ở những nơi tầm thường như phố nhỏ Nadarét, mà còn ở nơi dơ bẩn, hôi hám như trong máng cỏ Bêlem. Ta có thể tìm thấy Chúa nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ và tù đầy. Đó là điều Chúa nói trong Phúc âm thánh Mát-thêu: Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn (Mt 25:35). Để có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Nếu ta để cho thành kiến về đạo giáo làm mù quáng, thì những thành kiến có thể làm cản lối Chúa vào nhà tâm hồn. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do và Chúa tôn trọng tự do của loài người. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ai theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.
Nếu ta để cho thành kiến và tính ganh tị lấn át, ta sẽ không nhìn thấy những ưu điểm và khả thể nơi tha nhân. Nếu ta phán đoán lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ là ta để cho thành kiến len lỏi vào óc phán đoán của ta. Lời nói hay việc làm có giá trị thường mang tính chất khách quan chứ không tuỳ thuộc vào bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền hay gia cảnh của người nói hay làm. Nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác mà đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bầy tỏ lí do, thì có phải là quan niệm hẹp hòi chăng? Gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu, thì không phải là nhận xét nông cạn sao? Bỏ việc thờ phượng hay nghe lời giảng dậy ngày Chúa nhật chỉ vì thắc mắc về khả năng hoạt bát và trình độ học vấn của linh mục cử hành thánh lễ và rao giảng thì có phải là một quyết định không dựa trên đức tin chăng? Buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì có phải là hành động giận cá băm thớt không?
Hôm nay mỗi người cần cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta được ơn nhận lãnh đức tin. Ta cần cảm tạ Chúa cho cha mẹ và người đỡ đầu, đã gieo vãi hạt giống đức tin vào tâm hồn ta khi đưa ta đến giếng nước rửa tội. Ta cần cảm tạ Chúa cho những người đã nuôi dưỡng và nâng đỡ đời sống đức tin của ta để hôm nay ta có thể bầy tỏ đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng Chúa. Ta cũng xin Chúa ban cho mình biết mở rộng trí óc và tâm hồn đón nhận lời Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được mở rộng tâm hồn: Lậy Đức Giêsu, con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con được ơn nhận lãnh đức tin qua bí tích Rửa tội. Xin tha thứ những lần con để cho thành kiến vể đạo và người giảng đạo, làm cản trở đức tin vào Chúa. Xin cho con biết loại bỏ thành kiến sai lầm và ban cho con một tâm hồn rộng mở để con biết nhìn người và sự vật trong nét trung thực, dưới ánh sáng chân lí soi dẫn. Amen.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Nước Ethiopia Kitô giáo đã bị cắt đứt liên lạc với Kitô giáo Châu Âu do sa mạc, vị trí xa xôi và Hồi giáo. Chỉ tới giữa thế kỷ 15, Châu Âu mới biết được thật sự về nước này. Năm 1441, do kết quả đàm phán của Giáo Hoàng với Thượng phụ Copte ở Alexandria và cộng đồng người Ethiopia ở Giêrusalem, mà một phái đoàn Ethiopia được gửi đi tham dự công đồng Florence. Đầu thế kỷ 16, một nhóm thừa sai dòng Phan sinh được gởi từ Giêrusalem đi Ethiopia nhưng không thành công được bao nhiêu, khi mà Châu Âu đang trong thời kỳ Cải Cách đau đớn.
Đến thập niên đầu tiên của thế kỷ tiếp theo, mới có một tu sỹ Dòng Tên được gửi đến Ethiopia trong một phái đoàn, và đó là Pedro Paez. Ông đến vào năm 1607. Nhà thừa sai Tây ban nha này hết sức khoan dung đối với văn hóa Kitô giáo Ethiopia. Ông chấp nhận phụng vụ Ethiopia và đã thuyết phục thành công người Negus tuyên xưng hai bản tính của Đức Kitô, đồng thời hợp thức hóa sự hiệp nhất Giáo hội Ethiopia với Rôma. Ngày Sabát của người Dothái cũng bị bãi bỏ và hàng ngàn người Ethiopia chịu phép rửa, xưng tội và rước lễ từ tay các thừa sai.
Tất cả những thành tựu của Paez đã bị thiêu rụi bởi người kế nhiệm ông, thượng phụ Dòng Tên Bồ đào nha tên là Mendez. Ông này đến đây năm 1625 với tám thừa sai khác. Mendez là một người chủ trương Latinh-hóa không khoan nhượng. Ông không chỉ nhấn mạnh đến tiếng Latinh, mà cả lịch La-mã và chủ trương chỉ một lối hiệp thông Kytô hữu thôi. Thêm vào đó, ông còn ra lệnh rửa tội lại tất cả các tín hữu Ethiôpia, phong chức lại cho các linh mục, rửa lại các bàn thờ và đưa ra khỏi các nhà thờ thánh tích của các thánh Ethiôpia.
Kết quả của sự xúc phạm không thể tin được đối với văn hóa cổ xưa và nghi lễ của Giáo hội Ethiopia này, là họ lập tức quay lại với ly giáo và khôi phục lòng thù ghét cực độ đối với Rôma và tất cả những gì mà Rôma bảo vệ. Tiếp đó, các thừa sai Latinh bị thảm sát, và chỉ đến thế kỷ 19 các nhà thừa sai Công giáo mới nhận lại nghi tiết Ethiôpia và sau đó tiến hành truyền chức linh mục và giám mục. (Hoành Sơn, QM và DS, Ayward Shorter, Ba cuộc Hội Nhập Văn Hóa thất bại trong lịch sử)
Sự hẹp hòi, thiển cận, bất bao dung đã làm Đạo Công Giáo ở Ethiopia bị khủng hoảng hơn hai thế kỷ, chỉ vì thất bại hội nhập văn hóa. Trong Tin Mừng Chúa Nhật 14 thường niên hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại thất bại của Đức Giêsu, khi trở về quê hương Nazareth. Người đành chịu thúc thủ, không thể làm được phép lạ trước thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo và đố kỵ của người đồng hương.
Thiếu niềm Tin
Dù biết rằng, Đức Giêsu đã rao giảng và làm phép lạ nhiều nơi, nhưng người đồng hương Nazareth vẫn thiếu niềm tin vào Người. Vẫn cố chấp, thành kiến, nông cạn, chỉ vì “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Gia cô bê, Giôxét, Giuđa và Simon sao?”chỉ vì thân thế quá đỗi tầm thường, xuất thân từ gia đình lao động nghèo khó, chẳng có vai vế, đẳng cấp nào trong xã hội.
Thành kiến đóng khuôn người khác vào trong chuẩn mực thô thiển, bất di bất dịch, vào trong thân phận nhất định, bất biến và hạn hẹp. Trong khi bất cứ ai cũng đều dễ thay đổi, từ hình hài thân xác đến tâm hồn, từ trẻ dại đến trưởng thành và già đi, từ tâm hồn ngây thơ, biết suy nghĩ, chín chắn tốt lành, hay suy đồi, gian ác, biến đổi tốt xấu tùy môi trường, tùy nhận thức, tùy bản lĩnh và tùy theo xu hướng thế gian. Người thành kiến thì luôn cố chấp, luôn phủ nhận khía cạnh tích cực, phát triển hay tiến bộ của ai đó, chính vì thiếu niềm tin vào người đó.
Người đồng hương Nazareth không thể nhận ra Đức Giêsu là Đấng Messia, Đấng Thiên Chúa – Ở – Cùng, chỉ vì không tin Người, dù đã nghe vang dội danh tiếng rao giảng và làm phép lạ. Vì trở về quê hương, Người vẫn tiếp tục ẩn mình dưới thân phận bình dân, hem hễ, lam lũ và tầm thường vốn như trước đây, không hề ầm ĩ vinh quy kèn trống, chẳng quyền cao, chức trọng.
Thiếu lòng Cậy
Không chỉ thiếu niềm tin, họ còn thiếu cả lòng trông cậy vào Đức Giêsu, dù biết Người đã nổi danh như cồn khắp nơi. Khi chê bôi, dè bỉu, dèm pha, khinh miệt, rẻ rúng Đức Giêsu, họ vô tình phô ra tính kiêu ngạo, lòng tự cao tự đại. “Chị em của ông không phải là lối xóm với chúng ta sao?” Chỉ vì thói kiêu ngạo, họ trâng tráo thốt lên những lời bất nhã, khiến họ trở nên mù lòa, không thế nhận ra vị Ngôn Sứ vĩ đại, Đấng Cứu Chuộc duy nhất đến thế gian.
Thiếu lửa mến
Thay vì vui mừng nghênh tiếp, trọng thể đón rước Đức Giêsu về lại quê nhà, thì người đồng hương lại tỏ ra đố kỵ, ganh ghét, tỵ hiềm Người.“Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Những thắc mắc, những nghi vấn đó hoàn toàn hợp lý, nhưng không phản ảnh lòng ái mộ, khâm phục, mà chỉ phản ảnh sự ghen tương, nghi kỵ, khi thấy Người tài năng hơn họ. Chỉ vì thiếu hẳn lửa mến, họ chẳng chút gì mến yêu, phục tùng, thiện cảm với Đấng Ban Lời Hằng Sống.
“Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông.“ Con tim, tình cảm luôn gây ảnh hưởng lý trí, ứng xử, xã giao. Ganh ghét ai, thì làm sao nhận ra cái hay, cái tốt của người ấy, nếu có cũng bị xuyên tạc, đổi trắng ra đen. Người đồng hương Nazareth như thế hoàn toàn đố kỵ với Người, chẳng mến, chẳng cậy, cũng chẳng tin, khiến “Người đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.”
“Mỗi ngày con phải bớt tự ái, mà thêm bác ái. Mỗi ngày con bớt tự tin, mà tin thêm Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 56)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thiếu đức tin để nhìn thấy Chúa ở trong anh em, thiếu đức cậy để phó thác vào Chúa, thiếu đức mến để yêu Chúa thương người. Xin Chúa ban đổ tràn đầy ơn Tin Cậy Mến cho chúng con, để Chúa có thể làm phép lạ nơi chúng con, cảm hóa chúng con thay đổi nếp sống cũ, tái sinh trong ơn Cứu Độ của Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu chúng con sống khiêm nhường, nhân ái, bao dung, để tìm thấy Chúa đang ẩn náu nơi tha nhân, mà yêu thương, bác ái và phục vụ mọi người. Amen.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Claude Monet là học sĩ bậc thầy, cha đẻ của trường phái Ấn tượng, hiện vẫn là họa sĩ Pháp được thế giới biết đến nhiều nhất. Cảnh trí thiên nhiên trong các bức tranh của ông có sức ám ảnh, mê hoặc lạ. Nó được thể hiện, phản chiếu bởi một thứ màu sắc, ánh sáng đặc biệt bắt mắt. Danh họa Paul Cézanne không hề quá lời khi nhận xét: “Người ta không thể chỉ xem tranh của Monet bằng hai mắt vì Monet còn nhìn đời bằng một con mắt khác”.
Tuy nhiên, trong khi vị thế của tranh Monet trên thị trường tranh quốc tế ngày một lên cao, thì tại chính quê hương ông, giới nghiên cứu mỹ thuật lại không mấy “mặn mà” với tác phẩm của Monet. Có lẽ, đó chính là lý do để Giám đốc Bảo tàng d’Orsay, ông Guy Cogeval, đứng ra tổ chức tại Paris một cuộc triển lãm lớn về Monet (bắt đầu từ ngày 22/9/2010 tới ngày 24/1/2011) nhằm góp phần điều chỉnh thái độ “bụt chùa nhà không thiêng” của những người yêu nghệ thuật ở “kinh đô ánh sáng.”
Điều này chẳng có gì đáng lạ, vì ngay từ 21 thế kỷ trước, Chúa Giêsu đã phán: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi!” (Mc 6, 4)
1- Rẻ rúng vì quen thuộc
Mặc dù Chúa Giêsu đã đi rao giảng, làm phép lạ cứu chữa bao người, danh tiếng nổi như cồn, nhưng khi về quê nhà Nazareth, thì bị người đồng hương khinh thường, như tâm lý dân gian muôn kiếp, bụt nhà không thiêng. Họ không chấp nhận, vì biết quá rõ lai lịch, gốc gác, nghề nghiệp, địa vị xã hội của gia đình ông thợ mộc Giuse quá bình dị, tầm thường và nghèo nàn. “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải bà Maria; an hem của ông không phải là các ông Gia cô bê, Giô xếp, Simon và Giu đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mt 13, 55-56).
2- Rẻ rúng vì đố kỵ
Họ ganh tỵ vì thấy Người tài giỏi, danh tiếng qua việc giảng dạy và làm nhiều phép lạ. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 5, 2) Cái tâm lý con gà ganh nhau tiếng gáy được dịp phát triển vô tội vạ. Cái tâm lý đố kỵ với người có tài hơn mình, bởi tánh kiêu ngạo, bởi mặc cảm thua kém, bởi lòng bất khoan dung, bởi thiếu trưởng thành trong nhân cách và tâm tư, bởi thói hùa theo bầy đàn.
3- Rẻ rúng vì cố chấp, hẹp hòi
Dù “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người, “(Lc 4, 22), nhưng những người đồng hương Nazareth vẫn cố chấp, hẹp hòi, thành kiến và tỏ ra khinh thường, không chấp nhận Người. Giá như Người sênh sang áo gấm, vinh quy về làng, thì còn cơ may được chào đón. Đàng này, Người chẳng có đến cái gối, chẳng có nhà cửa, dinh thự, chẳng xe xua lụa là, tiền hô hậu ủng, chỉ có mấy môn đệ tầm thường tháp tùng, xuất thân thuyền chài khó nghèo. “Hẳn các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào? ( Lc, 4, 23)
Ngay như sau này, thánh nữ Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thật thánh thiện đến thế, mả các nữ tu sống đồng thời, cùng dòng, cùng tu viện, cũng còn chẳng biết nói gì về ngài, vì chẳng thấy chi khác thường nơi ngài, khi được người ta phỏng vấn, tìm hiểu về sinh thời của thánh nữ.
Lạy Chúa Giêsu, con cũng đang bưng tai, nhắm mắt, không hề nhận ra Chúa hiện diện chung quanh, từ tha nhân, từ các Bí Tích, Thánh Thể và Lời Chúa. Xin Chúa thương tình luôn mở lòng trí con, để nhận biết và nghe theo tiếng Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin mở lòng dạ con, để luôn cảm nhận có Chúa hiện diện trong từng giây phút đời sống con, để con có thể thánh hóa mọi sự, mọi biến cố trong đời theo Thánh ý Chúa. Amen.
Cổ học tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại khái như sau: Một người thợ mộc làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải làm, lúc cần đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa. Nhìn mặt nó đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp búa. Hỏi thì nó chối đúng là tâm địa gian manh. Được một lúc, ông lại thấy cái búa nằm khuất đâu đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ thương, khác với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia giáo, khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa.
Câu chuyện trên nói lên thiên kiến của con người. Thiên kiến là ý kiến mình có sẵn về một người hay một vấn đề. Người có thiên kiến xét người và vật theo suy nghĩ riêng chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung thực. Thiên kiến là mắt kính mầu. Vì đeo kính mầu nên ta thấy mọi vật đều nhuộm mầu của kính. Đeo kính mầu xanh, ta thấy mọi vật đều xanh. Đeo kính mầu hồng ta thấy mọi vật đều hồng. Hồng, xanh là ở mắt kính chứ không ở sự vật. Vì thế phán đoán của người có thiên kiến thường không chính xác.
Thiên kiến có nguồn gốc ở sự thiếu học hỏi. Vì không được học nên hiểu biết giới hạn. Thiếu hiểu biết nên phán đoán thiếu chính xác.
Thiên kiến cũng do đầu óc thiển cận, hẹp hòi. Tục ngữ có câu: “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”. Con ếch ngồi dưới đáy giếng chỉ nhìn thấy một mảnh trời vừa bằng miệng giếng, cho rằng trời chỉ có thế. Người có đầu óc thiển cận hẹp hòi cũng tưởng mọi chân lý đều chứa trong đầu óc của mình cả.
Thiên kiến thường do sự thiếu khiêm tốn. Sự thật mênh mông. Chẳng ai dám tự hào mình biết tất cả sự thật. Người khiêm tốn là người thấy rõ giới hạn của mình, nên cố gắng đi tìm sự thật. Chỉ những người thiếu khiêm tốn mới hay huênh hoang tự đắc và chủ quan.
Thiên kiến thường dẫn đến những hậu quả tai hại. Vì thiên kiến, vua quan triều Nguyễn đã không chấp thuận những kiến nghị đổi mới của Nguyễn Trường Tộ. Nên đã để đất nước chìm trong lạc hậu. Nếu nghe theo chương trình đổi mới, có lẽ đất nước ta đã tiến nhanh hơn Nhật Bản. Vì Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy vấn đề và đề nghị từ cuối thế kỷ 19, trong khi Nhật mới chỉ canh tân từ đầu thế kỷ 20.
Nếu trong đời sống xã hội thiên kiến đã đưa đến những hậu quả tai hại, thì trong đời sống thiêng liêng, thiên kiến cũng gây ra những thiệt hại không kém.
Người dân làng Nagiarét mang nặng thiên kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Vì thế, họ không tin. Vì họ không tin, nên Đức Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Người bỏ họ mà đi. Không bao giờ Người trở lại Nagiarét nữa. Thật là thiệt hại cho làng quê Nagiarét. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận ơn cứu chuộc. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ đến một lần trong đời. Rồi thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại. Thiên kiến đã làm hại họ.
Rất nhiều khi ta cũng mang nặng thiên kiến. Thiên kiến đối với anh em. Thiên kiến đối với Chúa. Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân làng Nagiarét, ta hãy tránh thiên kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết giáo lý của Chúa hơn. Nhất là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường để biết đón nhận Chúa, đón nhận thánh ý Chúa. Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta những chân lý nước trời đem lại hạnh phúc cho ta.
Ngày kia, có một anh chàng tên là Dương Bố, lúc ra khỏi nhà để đi thăm bạn bè, thì mặc bộ đồ trắng, nhưng dọc đường, chẳng may gặp cơn mưa to, áo quần bị ướt đẫm, anh ta phải ghé vào nhà người quen, mượn tạm được một bộ đồ đen mặc đỡ. Khi trời hết mưa, anh ta trở về nhà, thì bị con chó bông nhà anh ta, xổ ra sủa ầm ĩ, xông tới muốn đớp anh ta, vì coi anh ta như một người xa lạ, khiến anh ta nổi xung đùng đùng, bèn vớ lấy cây gậy toan đập chết con chó một trận nên thân. May nhờ người anh ruột từ trong nhà bất ngờ bước ra, biết được sự thể công việc, nên khuyên can, Dương Bố mới dừng tay không rượt theo để đập chết con chó nữa.
Dương Bố nổi giận với con chó, đó là một điều nông nổi chẳng nên làm, vì nó là loài vật đâu có trí khôn, làm sao nó biết phân biệt người nhà với khách lạ, khi anh ta đang mặc bộ đồ mầu trắng lại đổi ra mầu đen. Nó là con vật, chỉ có thể phân biệt được người này với kẻ kia, qua cách phục sức của họ bên ngoài: Người ra đi, mặc bộ đồ trắng là người quen, còn người trở về đổi bộ đồ đen chắc là người lạ, có thế thôi.
Còn loài người chúng ta mới đáng kết tội; bởi lẽ, chúng ta là loài có trí khôn, biết suy nghĩ, phân biệt phải trái, điều lành điều dữ, điều thiện điều ác, điều chính điều tà… Thế nhưng, thường thường người ta cũng chỉ biết đánh giá trị kẻ khác, theo dáng vẻ bên ngoài của họ, y như con chó không nhìn nhận ra chủ nó, khi ông thay bộ đồ trắng ra bộ đồ đen. Đó mới chính là điều đáng trách khiến chúng ta phải suy nghĩ.
- Nhãn quan hẹp hòi kiêu căng
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, những người đồng hương với Chúa, mặc dầu rất sửng sốt khi nghe Chúa giảng dạy những lời khôn ngoan, chứng kiến biết bao việc lạ lùng Chúa đã thực hiện; nhưng với tâm trí kiêu căng tự phụ, thấy ai hơn mình thì ghen tương. Đúng như người ta nói: “Trâu cọc ghét trâu ăn”. Lại thêm cái óc yên trí: “Bụt nhà không thiêng”. Nên họ đã dám mỉa mai phạm thượng tới Chúa khi nói: “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” Khi tường thuật lại sự kiện này, Thánh Sử Marcô đã phải kết luận rằng: “Họ đã vấp phạm vì Người”, để nói lên cái thực trạng cố chấp của họ.
Chúa Kitô đã thấu tỏ tâm tư của họ, nên Ngài đã công khai vạch trần cái tâm trạng chai đá cứng lòng tin của họ, bằng lời quả quyết: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình, họ hàng mình”.
- Sự thật của xã hội hôm nay
Thông thường trong đời sống hằng ngày của con người thời nay, cũng như người Do Thái thời Chúa Kitô, người ta thường mắc phải cái tật xấu này là hay xét đoán tha nhân theo trí óc hẹp hòi nông cạn của mình như lời Chúa đã nói: “Người ta chỉ xét đoán theo diện mạo bên ngoài, còn Thiên Chúa thì thấu suốt tận tâm can con người”. Hơn nữa, người ta lại còn bị cái ác cảm, yên trí về địa vị, dòng tộc, gia cảnh của người khác, để coi thường, để dèm pha, để hạ giá và coi khinh tha nhân. Mặc dầu đôi khi, không thể phủ nhận được những điều hay, điều tốt nơi những việc làm của tha nhân, thì họ lại tìm cách cắt nghĩa khác theo ý nghĩ vạy vò của họ, để mặc cho những việc làm của tha nhân một hình thức không mấy tốt đẹp. Chẳng hạn, khi thấy người này làm việc thiện giúp đỡ những người nghèo túng, thiếu thốn thì lại mỉa mai cho họ là người khoe khoang. Khi thấy kẻ khác được thành công, được may mắn thì lại chụp mũ cho là do mánh khóe mưu mô mà được như thế… Những trường hợp tương tự như vậy, chúng ta thường thấy nơi xã hội loài người chúng ta ngày nay. Thật là bất công, khi thấy kẻ khác hơn mình, được danh giá địa vị hơn mình, được thành công may mắn hơn mình, đã không chung vui chia sẻ chúc mừng, lại còn ghen tương, dèm pha, hạ giá, mỉa mai, bêu xấu và mặc cho họ một chủ ý bất lương.
III. Thái độ của con cái Chúa
Dân Do Thái đã từng được nghe những lời giáo huấn khôn ngoan, những giáo lý cao siêu phát ra từ môi miệng Chúa Kitô, giúp con người đạt được hạnh phúc, làm cho xã hội được lành mạnh, khiến người ta biết sống tương thân tương ái hòa thuận thương yêu nhau, đến làm cho họ phải sửng sốt bỡ ngỡ. Thế rồi, họ còn được chứng kiến bao nhiêu phép lạ Chúa làm để tỏ lòng thương yêu họ, làm cho bánh hóa nhiều nuôi sống họ lúc bị đói lả; chữa lành bao nhiêu người ốm đau bệnh tật, phục sinh kẻ đã chết, khu trừ ma quỉ… Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã thực hiện tỏ lòng yêu thương dân tộc, tỏ quyền năng cao cả của một Thiên Chúa, để cứu dân tộc Ngài tuyển chọn khỏi ách nô lệ Ai Cập… Nhưng họ vốn cứng lòng tin, vốn ương nghạnh chống đối không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai nhân loại đợi trông. Chính vì lòng kiêu căng cố chấp mà họ đã không nhận ra Chúa Cứu Thế, bởi cuộc sống khiêm nhu, tầm thường, nghèo nàn của Chúa đã không hợp với nhãn quan lầm lạc của họ. Vì theo quan niệm tự mãn, tự cao, tự đại, vinh sang oai hùng của dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, cần phải có một Chúa Cứu Thế uy hùng quyền năng cao cả, đến thống trị, trên Ngai Hoàng Đế Israel, bá chủ Thế giới.
Chính vì cái nhãn quan hẹp hòi nông cạn và quan niệm kiêu căng đó, mà họ đã chẳng khác gì như “Con chó” không nhận ra chủ, không nhận ra Chúa và bao nhiêu ơn phúc Chúa dành cho họ, là dân Ngài đã tuyển chọn.
Kết Luận
Chúng ta là con cái Chúa, đã được Chúa yêu thương tuyển chọn làm con, xin Chúa ban cho chúng ta được những ơn cần thiết sau đây:
- Biết nhận ra Chúa để tôn thờ Ngài xứng đáng, biết nhận ra các ơn Chúa ban để cảm tạ Ngài, hầu sống xứng đáng hơn địa vị làm con cái Thiên Chúa với biết bao ơn phúc Ngài ban.
- Học nơi Chúa bài học nhân từ, biết phán đoán cách khách quan và ngay lành cho tha nhân, nhìn nhận điều hay điều tốt của người khác, không chủ quan nông cạn, hẹp hòi xét đoán kết tội tha nhân theo nhãn quan bên ngoài và quan niệm vạy vò, ghen tương, độc đoán, kiêu căng của mình.
(Suy niệm của Lm. Phan Văn Lợi)
Trong thời gian rao giảng Tin mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế nhưng các tác giả Nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này, có lẽ vì các ông cho rằng thái độ khinh thường Đức Giêsu của đồng hương trong lần viếng thăm ấy đã tiêu biểu cho thái độ chối từ Người của dân Israen (đồng bào Người) và thái độ không tin Người đủ của bao kitô hữu (đồng thân thể với Người).
- Thái độ không tin của đồng hương Đức Giêsu
Phần đầu của cuộc viếng thăm này rất giống với những gì Máccô kể ra ở 1,21 (biến cố tại hội đường Caphácnaum): “Thiên hạ sửng sốt về lời Đức Giêsu giảng dạy”. Nhưng phần kết lại khác hẳn. Ở đây, “nơi quê quán Người”, khán thính giả nghe mà ngạc nhiên, nhưng rồi chẳng tin gì ráo! Do đâu vậy? “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do thái có một niềm tin phổ biến cho rằng Đấng Mêsia phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này, trong cuốn “Đối thoại với Tryphon”, thánh Giúttinô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng niềm tin này khi ghi lại ý kiến sau đây của nhiều học giả Do thái: “Nếu có kẻ nói rằng Đấng Mêsia đã đến, thì người ta đâu biết ai. Chỉ khi Người tỏ mình trong vinh quang, thiên hạ mới nhận ra Người”. Đó đúng là luận điệu của dân làng Nagiarét, mà cũng là luận điệu của dân thành Giêrusalem được Tin mừng Gioan ghi lại: “Ông ấy, chúng ta biết xuất thân từ đâu; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7,27), nghĩa là chẳng ai biết rõ nguồn gốc của Người. Đối với dân làng Nagiarét cũng thế, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì ai nấy biết rõ tông tích họ hàng của Người” (M.E. Boismard).
Thế nên, từ chỗ là niềm hãnh diện, Đức Giêsu đã thành một chướng ngại khiến đồng hương của mình vấp ngã. Họ trở nên điếc lác và mù quáng, do đó, đã không thể đón nhận các ân huệ của Người, nhất là ân huệ Tin mừng cứu rỗi. Thật ra, chẳng phải là họ không có lòng tin. Hằng tuần họ vẫn nhóm họp tại hội đường để thờ phượng Đức Giavê, Tạo Hóa và Chủ Tể lịch sử đấy chứ! Nhưng lòng tin mà Đức Giêsu đòi không chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa như Môsê đã truyền dạy, mà còn là lòng tin vào Người, Con Thiên Chúa hóa thân thành bác thợ mộc làng Nagiarét. Hơn nữa, lòng tin Người đòi hỏi chẳng phải là một mớ tín điều lề luật, song là sự đảo lộn cuộc sống, là bước theo Người trên đường thập giá, đường yêu thương.
- Thái độ không tin của môn đồ Đức Giêsu
Phần chúng ta, khi nghe được nhận xét ấy của Máccô (“Người lấy làm lạ vì họ không tin”) một nỗi sợ hãi có thể xâm chiếm chúng ta: tôi thì thế nào? Sợ như thế là có phúc, vì chúng ta sẽ chẳng bao giờ chú ý đủ tới tình trạng của đức tin chúng ta, vì việc sống một cái gì đó với Đức Giêsu hoàn toàn tùy thuộc sức mạnh của niềm tin tưởng vào Người. Mà đức tin là cái nhìn của chúng ta về Người, sự hiệp thông giữa chúng ta với Người, việc chúng ta nắm lấy Người, là phương thế để yêu Người ngày càng hơn và chẳng bao giờ “vì Người mà vấp ngã”.
Điều đã diễn ra tại Nagiarét có thể xảy tới với chúng ta. Câu ngạn ngữ Người nhắc lại cho đồng hương: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” cũng có thể nhắm chính các kitô hữu. Và đây là trọng điểm của trình thuật.
- Có lẽ Người ngạc nhiên về niềm tin của chúng ta, về cách chúng ta tin Người. Để tin vào Đức Giêsu, phải thường xuyên vượt quá tri thức chúng ta có về Người lúc này đây. Đối với chúng ta, Người chẳng phải là bác thợ mộc làng Nagiarét, chúng ta đã chẳng sống với Người trong ba mươi năm tuổi trẻ của Người, các phản ứng của dân làng Nagiarét đối với Người chẳng phải là vấn đề của chúng ta. Nhưng có lẽ chúng ta cũng đã sống với Người nhiều năm. Chúng ta đã biết Đức Giêsu của cha mẹ chúng ta, của cha xứ chúng ta, Đức Giêsu của cuốn giáo lý, của một phong trào Công giáo, Đức Giêsu của mọi sách báo ta đã đọc, thậm chí của các sách chống Người và chống đạo Người.
Thình lình, hay dần dần, chúng ta gặp cơn khủng hoảng kiểu dân làng Nagiarét. Đức Giêsu là ai đối với tôi khi tôi đau khổ hay khi tôi thấy sự đau khổ? Khi một tình yêu ngây ngất đem tôi xa khỏi Đấng tôi từng nói với: Chúa là tất cả của con? Khi một cuốn sách mạnh mẽ và gây bối rối làm lung lay các xác tín của tôi? Khi một mục tử, đại diện chính thức của Người, làm tôi ngỡ ngàng, bởi lẽ thay vì hy sinh cho đoàn chiên, vị ấy lại hy sinh đoàn chiên để xin xỏ xun xoe với quyền lực?
Người vẫn có thể là Đức Giêsu của đời tôi, nếu tôi học biết Người cách khác. Phải chăng Người đã quá ư là con người, hay quá ư là Thiên Chúa đối với tôi? Mầu nhiệm một kẻ vừa là người vừa là Chúa thật chẳng dễ chấp nhận và cảm nghiệm. Lắm kiểu không tin đã phát xuất từ cái mà thật ra là đá tảng của Kitô giáo này. Thành thử chớ dừng lại trong cuộc tìm kiếm của chúng ta. Đối với mỗi người, có một Đức Giêsu vô danh phải khám phá. Cơn khủng hoảng kiểu Nagiarét, đó là do chúng ta có các ý tưởng quá xưa cũ về Người. Phải học hỏi về Người không ngừng qua Thánh Kinh, qua giáo lý, qua lời giảng dạy của Giáo Hội, qua đời sống các kitô hữu chứng nhân.
- Có lẽ Người ngạc nhiên về cách chúng ta sống đức tin vào Người. Để tin vào Người, phải thường xuyên đổi mới và cụ thể hóa cách sống đức tin chúng ta đang có lúc này đây. Chúng ta tưởng mình biết Người, coi Người là thành phần cuộc sống chúng ta. So với những kẻ không tin thì chúng ta cùng làng với Người, đã luôn gặp gỡ Người. Sự thân mật với Người như thế làm chúng ta tự mãn, tự cho mình đã chu toàn bổn phận của một kẻ tin; hay ngược lại, sự thân mật ấy khiến chúng ta thỉnh thoảng mệt mỏi, việc đọc Tin mừng làm chúng ta chán ngán.
Vì chúng ta đã đọc cách đãng trí, uể oải, hay đọc mà chẳng mấy khi đem ra thực hiện. Hãy gỡ mình khỏi những cái nhìn lý thuyết về Đức Giêsu và về Kitô giáo. Hãy luôn tự vấn về sức sống của đức tin mình. Vì càng được đem sống, lòng tin càng giúp ta hiểu rõ về Đức Giêsu; và càng hiểu rõ, đức tin càng có nhiều sáng kiến thực hành cụ thể đích thực. Người lúc đó mới có thể là Đức Giêsu cho chúng ta. Nỗi thất vọng của Người ở Nagiarét phải động đến chúng ta thật sâu thẳm. Lạy Chúa, con không muốn làm Ngài thất vọng đến thế, thất vọng vì con chỉ biết tuyên xưng Chúa trên môi, qua những bài giảng thật hùng hồn, đang khi cuộc sống nơi con và quanh con chẳng được biến đổi.
Germaine Cousin (1579-1601) là một thiếu nữ quê mùa ở làng Pibrac, gần Toulouse, Pháp. Mẹ mất sớm, cô phải lớn lên trong hoàn cảnh bị cha ghét bỏ và dì ghẻ đối xử tàn tệ. Do không muốn Germaine chung đụng với con riêng của mình, bà bắt cô phải ngủ trong chuồng vật hoặc dưới gầm cầu thang, lúc nào cũng phải làm việc trong khi ăn uống rất kham khổ. Ngay khi chín tuổi, Germaine đã phải đi chăn cừu. Mặc những lao nhọc và bất công như thế, cô vẫn luôn vui vẻ chấp nhận. Cô cũng rất đạo đức và siêng năng tham dự Thánh Lễ. Mỗi sáng nghe chuông đổ, dù đang chăn cừu, cô cũng vội vã cắm cây gậy xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác đàn cừu cho các thiên thần chăm sóc · Germaine quá nghèo để có thể chia sẻ vật chất cho người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của cô luôn thể hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần đến cô, nhất là các trẻ em trong làng. Cô thường dạy cho chúng biết kính sợ Chúa · Sự thánh thiện của Germaine bắt đầu được dân làng chú ý. Nhưng điều này cũng chẳng thay đổi gì tình trạng của cô trong gia đình. Cô vẫn hay bị trừng phạt vì chia sẻ lương thực cho kẻ ăn xin. Có lần vào mùa đông, vì nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo, bà dì ghẻ đã giật ra nhưng chỉ thấy những bông hoa mùa hè thật đẹp. Gia đình bắt đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và mời cô vào sống ở trong nhà, nhưng Germaine xin được tiếp tục cuộc sống như trước. Năm cô 22 tuổi, người ta tìm thấy cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang. Cô được Đức Piô IX phong thánh năm 1849 và đặt làm quan thầy các thiếu nữ thôn quê.
Nghe Chúa Giêsu giảng dạy, dân làng Nagiarét đã bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài. Hơn nữa, họ còn ngạc nhiên về những phép lạ Ngài làm để rồi đưa ra câu hỏi:
– Bởi đâu Ngài được như thế?
Dầu vậy họ vẫn không tin và Phúc âm còn ghi lại: Họ đã vấp phạm đến Ngài. Sự kiện cứng lòng này đã khiến cho Chúa Giêsu phải sửng sốt. Vậy đâu là lý do tạo nên tình trạng đáng buồn ấy? Để trả lời cho câu hỏi trên, trước hết chúng ta phải xác định xem trong thực tế, chúng ta được đức tin như thế nào?
Phần đông các tôn giáo đều tin vào một Đấng tối cao và quan niệm đạo là một sự cố gắng của con người, để tìm tòi và vươn lên tới thế giới thiêng liêng.
Sở dĩ như vậy là vì sống trong một thế giới hữu hạn và đầy khuyết điểm, tự nhiên con người mong ước một thế giới vô biên và hoàn hảo.
Cảm thấy mình yếu đuối và tội lỗi, con người cố tìm một lối thoát, bằng cách tin vào một Đấng linh thiêng có thể cứu mình thoát khỏi vòng tội lỗi và đưa tới quê hương hạnh phúc.
Như thế là con người đã cậy dựa vào sức riêng của mình mình để tìm kiếm một Đấng siêu việt và một thế giới hạnh phúc.
Trong khi đó, quan điểm của Kitô giáo thì trái ngược hẳn.
Thực vậy, trong mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người, sự bắt đầu không phải là từ phía con người, nhưng là từ phía Thiên Chúa. Con người không thể tự mình vươn tới Thiên Chúa, nhưng chính là Thiên Chúa đã cúi xuông đến tận con người.
Kitô giáo không từ dưới mà đi lên, như các tôn giáo khác, nhưng đã từ trên đi xuống… Chính Thiên Chúa đã can thiệp vào đời sống con người, tỏ lộ cho con người biết ý định và chương trình cứu độ của Ngài. Nếu con người có thể đáp lại và tìm đến với Thiên Chúa, là vì chính Thiên Chúa đã tự ý lên tiếng kêu gọi và tìm đến với họ trước.
Do đó, muốn tìm thấy Thiên Chúa, con người không được dựa vào sức riêng của mình, nhưng phải dựa vào Chúa.
Như vậy đức tin là một ơn Chúa ban, vì đức tin trước khi là sự chấp nhận của con người thì đã là một lời kêu mời của Thiên Chúa. Nếu Ngài không kêu mời, con người chẳng biết gì như lời Đức Kitô đã nói:
– Không ai đến được với Ta mà không được Chúa Cha lôi kéo và không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Ta.
Như thế, đức tin là việc Chúa kêu gọi trước và con người đáp trả lại sau.
Vậy tại sao những người Nagiarét nghe Chúa giảng và nhìn Chúa làm phép lạ mà vẫn không tin?
Như trên chúng ta đã nói:
– Đức tin là một ơn Chúa ban.
Dầu vậy cũng đừng vội kết luận:
– Người không tin là vì không được Chúa ban.
Sở dĩ như thế vì đức tin còn là một sự cộng tác của chúng ta vào ơn Chúa, còn là sự chấp nhận và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Như vậy phải kết luận rằng:
– Những kẻ nghe lời Chúa giảng và chứng kiến những phép lạ Chúa làm mà không tin, vì họ không chấp nhận. Sở dĩ họ không chấp nhận vì họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những thành kiến hẹp hòi của họ.
Chẳng hạn vì tinh thần tôn giáo từ ngàn xưa, họ không thế nào chấp nhận Đức Kitô là hiện thân của nước trời, là phản ảnh của sự khôn ngoan Thiên Chúa.
Chẳng hạn vì thành kiến về Thiên Chúa và đường lối của Ngài, họ không thể chấp nhận sự hiện diện của Thiên Chúa nơi một con người đơn giản, khiêm tốn và nghèo khó, là Đức Kitô.
Họ mang sẵn trong đầu óc những ý nghĩ về Thiên Chúa, cho nên thay vì đón nhận sự tỏ lộ, sự mạc khải của Ngài, thì họ lại bắt Ngài phải trở nên giống những điều họ mường tượng.
Chính vì thế khi hình ảnh hoàn toàn của Chúa Cha là Đức Kitô ở trước mặt, họ đã không thể nhận ra.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta thường mang nhiều thành kiến về những phương tiện chúng ta tưởng rằng Chúa dùng để đến với chúng ta và đưa chúng ta về với Ngài.
Do đó, biết bao nhiêu ơn sủng đã bị đóng lại, biết bao nhiêu ân huệ đã trở thành vô ích chỉ vì chúng ta thiếu sẵn sàng đón nhận cái bất ngờ của Thiên Chúa.
Đường lối của Thiên Chúa thì khác với đường lối của chúng ta. Thế nhưng, đường lối ấy sẽ kéo chúng ta tới nguồn ơn cứu độ và tới hạnh phúc vĩnh cửu.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Sứ điệp phụng vụ hôm nay muốn nhấn mạnh với cộng đoàn chúng ta ý nghĩa nầy: nhịp sống cơ bản của cộng đoàn Giáo hội, của đời sống đích thực là kitô hữu đó chính là qui tụ nhau lại chung quanh Đức Kitô để lắng nghe Lời Ngài, để tái diễn Hiến Tế của Ngài, để gặp gỡ và chia sẻ chính Thân Mình Ngài. Chính vì thế, Lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta tự vấn thường xuyên về thái độ nghiêm túc hay không của chính mình khi đứng trước Lời Chúa và sự hiện diện của chính Chúa.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta…..
Giảng Lời Chúa:
- Sự kiện thường tình nhân loại: Chuộng cái lạ, thích cái mới…
Tâm lý của con người thường giống nhau điểm nầy; thích cái gì mới lạ, chuộng cái gì ở xa, quí cái gì ít gặp, ít thấy; và dĩ nhiên, hay có thái độ ngược lại; coi thường cái ở gần, coi rẽ cái thường gặp, thường thấy, thường đụng chạm trong cuộc sống.
Trong đời sống đức tin cũng không thoát khỏi cái lề thói không hay nầy. Thật vậy, người tín hữu thường hay chuộng hay kiếm tìm những hiện tượng lạ lùng, những biến cố mầu nhiệm hãn hữu, những phép lạ động trời…mà thường lãng quên, lãnh đạm đối với các mầu nhiệm trọng đại đang hiện diện nơi đây, lúc nầy.
Bằng chứng là năm vừa rồi, chỉ với vài vết nhăn trên bức tượng đá cẩm thạch Nữ Vương Hòa Bình trước Nhà Thờ Đức Bà Sài đã lôi kéo hàng vạn con người đổ về để chiêm ngưỡng, cầu nguyện, tôn kính…Trong khi đó, ở phía sau lưng tượng đá Đức Mẹ đó, có Nhà Tạm với Thánh Thể Chúa Kitô hiện diện từng ngày, từng giờ thì vẫn cứ leo lét chiếc đèn chầu với một ít ông già bà già lặng lẽ cầu nguyện…
Vì thế chúng ta cũng chẳng lấy làm lạ khi tại những nơi vào những ngày đại hội giới trẻ quốc tế, khi ĐGH hiện diện thì có hàng triệu người nô nức đón chào, tập họp để sau đó, cũng tại nơi nầy, có biết bao ngôi thánh đường trống không, hoang vắng, dầu cho nơi những thánh đường nầy có chính Đức Kitô đang hiện diện đầy ắp quyền năng và thân thương, Người mà vị giáo hoàng kia, cho dù thánh đến đâu, thông minh đến mấy, tài giõi dường nào, cũng chỉ là kẻ đại diện thấp hèn, bất xứng.
Tôi có thể đánh cá với anh chị em rằng: mai mốt, hay một ngày nào đó, có Đức Giáo Hoàng ở Rôma hay một Đức Hồng Y của Giáo triều sang thăm chính thức Việt nam tại Tuy Hòa nầy, thì chắc chắn có rất nhiều người bỏ công ăn việc làm, hy sinh mọi thứ để đi đón rước “Đấng Nhân Danh Chúa mà đến”…Nhưng ở đây, trong nhà thờ nầy, nơi Nhà tạm nầy, chính Con Thiên Chúa đang hiện diện trọn vẹn, đầy ắp…thì hỏi thử có được bao nhiêu người đến tôn thờ, cung chiêm bái kính?
- Sự kiện trong lịch sử cứu rỗi:
Thái độ xem ra đáng trách nầy Không chỉ có trong Giáo hội hôm nay, mà tận xa xăm vào thời sứ ngôn Ê-dê-ki-en, Dân ưu tuyển của Chúa, Ít-ra-en, cũng đã từng trãi nghiệm một thái độ đức tin thiếu nền tảng và thiếu trưởng thành, như chúng ta vừa nghe công bố qua một trích đoạn sách sứ ngôn Ê-dê-ki-en trong BĐ 1: “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá…chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng”.
Nhưng cụ thể nhất là câu chuyện về cuộc “hồi hương về làng” của chính Chúa Giêsu do Mác-cô kể lại: Khi nghe Chúa giảng dạy trong hội đường quê hương vào ngày sabat, dân Na-da-rét đã “khinh mạng dể duôi: “Ông Ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xết, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” và họ vấp ngã vì Người. Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở quê hương mình, hay giữa đám thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”…
- Những bài học cho đời sống đức tin hôm nay:
– Hãy trở nên nghèo, khiêm hạ để đón nhận Lời và sự hiện của Đức Kitô:
Như vậy, không thể gặp được một Đức Kitô, không thể tin được một Thiên Chúa khi con người mang theo trên mình cả “bộ giáp sắt” kiêu căng hợm hĩnh của mình. Hêrôđê, Philatô, các tư tế Do Thái, những đại gia tiền của, thế lực kếch xù…những hạng người đó không có trong hàng ngũ nhưng kẻ tin vào Đức Kitô Đấng Cứu Thế. Quan hệ với Ngài nếu có chỉ là để theo dõi, rình chờ cơ hội hãm hại, bắt bẻ trong lời nói việc làm, phê bình chỉ trích thái độ hành động và ứng xử…và nhất là để kết án, loại trừ.
Muốn đến với Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Đức Kitô để nhận được hồng ân, để “ăn mày phép lạ”, thì phải bước theo lộ trình của Tin Mừng. Đó chính là những con đường mà Đức Kitô đã vạch lối chỉ đường:
– Hãy trở nên như một em bé: “Nếu không trở nên như em sẽ không được vào nước trời”.
– Hãy khiêm hạ như mẹ Maria: “Nầy tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”
– Hãy trung thành gắn bó như Phêrô và các tông đồ: “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai. Thầy có những lời ban sự sống đời đời”.
– Hãy phó thác và để Lời dẫn đưa cho dù đói khát nơi hoang mạc như đám dân nghèo khố rách áo ôm nơi hoang mạc: “Ta thương đám dân nầy, vì họ bơ vơ tất tưởi như chiên không kẻ chăn”.
– Hãy quỳ xuống với những giọt nước mắt sám hối như những người tội lối hối cải; Người thu thuế, M.Mađalêna, Giakê, tên trộm…”Lạy Chúa xin thương xót con vì con là người tội lỗi”.
– Hãy tin tưởng phó thác đầy lòng trông cậy vững vàng như những người xấu số bạc mệnh: mù què đuôi điếc, bệnh hoạn tật nguyền…”Tôi chỉ đụng vào gấu áo của Người thôi”
Và hãy như Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay ý thức thân phận hèn yếu của chính mình:
“Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sĩ nhục hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”
Đón nhận Lời và sự hiện của Đức Kitô ở đâu:
– Không phải chỉ ở những đại lễ long trọng với âm thanh to, ánh sáng rạng rỡ, trang trí hoành tráng…mà trong mọi thánh lễ hàng ngày, nơi tòa giải tội giản đơn, nơi các buổi sáng âm thầm rửa tội cho các trẻ em và những buổi hoàng hôn cử hành bí tích xức dầu bệnh nhân cho những ông bà già yếu liệt…
– Không phải chỉ ở nơi những thánh điện, thánh đường nguy nga to lớn đồ sộ với các cuộc lễ đại trào với các chức sắc cao cấp của Giáo hội, nhưng cũng còn ở những mái tranh lá ọp ẹp của buôn làng dân tộc, những ngôi nhà nguyện xa xôi hẻo lánh của những thôn làng nghèo khổ của những anh chị em nông dân tay lấm chân bùn…
– Đó chính là sự hiện diện êm đềm, bình dị như đứa bé oa oa trong máng cỏ hang lừa thuở nào ở Bê Lem, như chàng thợ mộc ở mái tranh nghèo của Giuse và Maria thành Na-da-rét, của vị Thầy mệt mõi ngủ gà ngủ gậc trên chiếc thuyền tròng trành biển động của Phêrô, như người khách lạ trên đường Emmau sẵn sàng chén tạc chén thù với các môn sinh bên quán nhậu bên đường, hay như một tên tội đồ trần trường bị đóng đinh giữa hai người trộm cướp…
– Và sự hiện diện của Lời Chúa và của chính Chúa vẫn đang hiện diện nơi đây, trong Nhà Thờ nầy, trong nhà tạm nầy, trong những con người linh mục mõng dòn yếu đuối nầy, trong cộng đoàn còn mang bao dấu vết của bất toàn, khiếm khuyết nầy…
– Chính vì thế, điều quan trọng không phải cứ mãi miết đi tìm một hình tượng Giêsu vinh thắng khải hoàn uy nghi trên mây trời hay trong vương quyền chính trị hùng oai…mà hãy đến cúi đầu thờ lạy Chúa Giêsu ở đây trong hình bánh và hình rượu sắp sửa biến thành mình và máu để nuôi dưỡng và ở lại với chúng ta.
Tóm lại, nếu phép lạ đã không xảy ra nơi quê hương Na-da-rét vì nơi đó dân không đón nhận Lời và sự hiện diện của Đức Kitô với niềm tin khiêm hạ, thì ước gì hôm nay, sự kiện nầy sẽ không tái diễn ở đây, nơi quê hương Tuy Hòa nầy, với chúng ta khi chính nơi đây, giờ phút nầy, cũng chính Đức Kitô đó, cũng chính Thầy Giêsu Na-da-rét đó lại một lần nữa đang trở về công bố Lời Chúa cho ta và tái diễn hy tế cứu độ để đem ta vào hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta phải reo lên: “Thì ra Chúa vẫn có ở đây. Ôi! Chúng con thật có phúc vì đã tin”.
(Suy niệm của Lm Raniero Cantalamessa OFM – Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách)
Khi ấy Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Đến ngày Sabbát, người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự la thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacobê, Giuse, Giuda và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó, Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chũa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Chúa Giêsu trở về quê nhà
Từ rày đã trở nên bình dân và nổi tiếng vì những phép lạ và lời giảng dạy của Người, Chúa Giêsu một ngày kia trở về làng quê, Nadareth, và, như Người có thói quen làm, Người vào giảng trong hội đường. Nhưng lần này, không thấy có sự bày tỏ nhiệt tình nào, không có tiếng “hosanna!” nào. Thay vì nghe điều Người nói và phán đoán Người theo những lời nói của Người, dân chúng lại đưa ra những lời chỉ trích kỳ dị. Sao ông được khôn ngoan như vậy? Ông không học hành gì, chúng tôi biết rõ điều này; đó là bác thợ mộc, con bà Marie! “Và họ bị chướng tai gai mắt sâu sắc vì Người”, nghĩa là sự kiện biết rõ về Người lại là một ngăn trở để tin Người.
Chúa Giêsu bình luận cách chua cay: “Một tiên tri chỉ bị khinh bỉ ở quê hương mình, gia đình họ hàng mình”. Câu nói đó trở thành một câu ngạn ngữ dưới hình thức rút gọn: “Không ai làm tiên tri nơi quê mình”. Đoạn Tin Mừng này cũng đưa đến chúng ta một sự cảnh cáo mặc nhiên mà chúng ta có thể tóm tắt như vầy: ý tứ đừng phạm cũng một sự lầm lẫn như những người Nadareth! Chúa Giêsu trở về cách nào đó tại quê hương Người, mỗi khi Tin Mừng của Người đã được rao giảng tại những xứ, trong một thơi kỳ, nên cái nôi Kitô giáo.
Nước Italie, và phương Tây nói chung, đối với kitô giáo, là điều Nadareth đối với Chúa Giêsu: nơi Người đã được nuôi dưỡng. (kitô giáo sinh ra tại phương Đông nhưng đã lớn lên tại phương Tây, cũng như Chúa Giêsu sinh ra tại Belem nhưng được nuôi dưỡng tại Nadareth!) Những xứ đó ngày nay mắc phải cũng một nguy cơ như người dân Nadareth: không công nhận Chúa Giêsu. Bản hiến pháp tân châu Au hiệp nhất không phải là nơi duy nhất mà ngày nay Kitô giáo bị “xô đuổi” khỏi.
Đoạn Tin Mừng này dạy chúng ta một điều quan trọng. Chúa Giêsu để chúng ta tự do; người đề nghị, người không áp đặt những ân huệ của Người. Ngày đó, đối mặt với những kẻ đồng hương, Chúa Giêsu không đưa ra những ngăm đe hay những lời mắng nhiếc. Người đã không nói, bằng một bộ điệu khinh bỉ, điều mà người ta nói ông Scipion l’ Africain công bố khi bỏ thành Rome: “Hỡi quê hương bạc đãi, người sẽ không có bộ xương của tôi!” Chúa Giêsu chỉ ra đi âm thầm. Một ngày kia, người bị hất hủi trong một làng, các môn đệ đề nghị Người cho lửa từ trời xuống đốt làng đó, nhưng Chúa Giêsu quay đi và quở trách các ông (x. Lc 9, 54)
Ngày nay Người cũng làm như vậy. “Thiên Chúa nhút nhát “. Người tôn trọng sự tự do chúng ta nhiều hơn chúng ta tôn trọng sự tự do của nhau. Điều này tạo nên một trách nhiệm lớn. Thánh Augustin nói: “Tôi sợ Chúa Giêsu đi ngang qua” (Timeo Jesum Transeuntem) Trên thực tế Người có thể đi ngang qua mà tôi không biết, đi ngang qua khi tôi không sẵn sàng đón triếp Người.
Sự đi ngang qua của Người luôn là một sự đi ngang qua ban ân sủng. Marco nói, cách tổng hợp rằng một ngày sabbat, đến làng Nadareth, Chúa Giêsu “vào dạy trong hội đường” Nhưng Tin Mừng Luca cũng nói rõ điều Người dạy và điều người công bố, trong ngày sabbat này. Người đã công bố đến ” loan báoTin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” ( Lc 4, 18-19).
Điều Chúa Giêsu đã rao giảng trong hội đường Nadareth như vậy là năm ân xá kitô hữu đầu tiên trong lịch sử, “năm hồng ân” đầu tiên, mà tất cả những năm ân xá và những “năm thánh” chỉ là một sự ghi nhớ.
Ông ta là ai vậy? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế? Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?
Phải, đúng lắm. Đó chính là Chúa Giêsu, con của ông Giuse và bà Maria, đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở Nagiarét 30 năm trời.Nhưng tại sao những người đồng hương lại ngạc nhiên và thắc mắc về Chúa như vậy? Bởi vì ít lâu nay họ đã nghe dư luận đồn thổi về những lời giảng dạy mới lạ, đầy uy quyền của Chúa, cũng như đã nghe dân chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở nơi này nơi kia… Đó là những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài về Nagiarét, quê hương của Ngài. Nhưng những người đồng hương của Ngài không tin và không thể tin. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ đây có thể làm được những điều lạ lùng như thế, nhất là tin làm sao được ông Giêsu đây là Thiên sai, Đấng cứu tinh, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả ngàn năm?
Dân làng Nagiarét không thể nào chấp nhận một người mà họ đã quá biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn. Biết cả họ hàng chẳng danh giá gì. Biết rõ quá như thế thì làm sao người đó có thể là vị cứu tinh, là Đấng cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc họ được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giàu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Chúa Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Chúa làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác. Trước thái độ ít cởi mở và hoài nghi của họ, vì họ không tin, nên Chúa không làm phép lạ được. Không phải vì Ngài không thể làm, bằng chứng là Ngài cũng có đặt tay chữa cho mấy người bệnh, nhưng chính vì họ không tin.
Dân làng Nagiarét không tin Chúa Giêsu. Không tin là vì bụt nhà không thiêng, như có lần Chúa đã nói: “Chẳng ngôn sứ nào được danh tiếng nơi quê hương mình”, hoặc tệ hơn, như Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Tại sao dân làng Nagiarét không tin? Họ không tin vì thành kiến. Họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi, có sẵn của họ. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Chúa mở ra cho họ. Họ cũng không thể chấp nhận Chúa Giêsu là hiện thân của nước trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có ai ngờ Đấng cứu thế lại là một người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đối với người Do thái đương thời, Chúa Giêsu đến quá ư bất ngờ và quá khác xa với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế. Họ không biết rằng đường lối của Thiên Chúa có thể khác xa với sự toan tính của loài người.
Qua đó chúng ta rút ra được một bài học thực tế: Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.
Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong” không phải là nguyên tắc chính xác, nên chính Chúa Giêsu có lần khuyên chúng ta: “Đừng có xem mặt mà bắt hình dong”. Khổng Tử cũng xác nhận: “Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người tôi ghét chưa chắc đã xấu”. Phong dao cũng có câu: “Người xấu duyên lặn vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài”. Lặn vào thì còn lại, bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”,”Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại, thành kiến đã làm cho dân làng Nagiarét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng cứu tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
Người ta, ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nhưng tình cảm người đồng hương dành cho mình thì khác, đôi khi phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay là “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: “Bụt nhà không thiêng”. Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài tại quê hương Nagiareth của Ngài. Chúng ta hãy xem xét và sửa đổi quan niệm sai lệch để vui lòng tiến bước trong đường lối và ân sủng của Thiên Chúa.
Người ta thường dễ mắc phải sai lầm do thành kiến, do cái nhìn bề ngoài của mình nên dễ rơi vào lối suy nghĩ coi thường người khác “Bụt nhà không thiêng”. Điều này dẫn đến những lời nói, thái độ và hành động lệch lạc gây ảnh hưởng không tốt cho cuộc sống. Thật thế, Phúc âm hôm nay kể lại, Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiareth của mình, trong tư cách là một ngôn sứ, là một bậc thầy. Ngài trở về lần này có các môn đệ tháp tùng. Vào ngày Sabat, Ngài vào hội đường đọc sách Thánh và công bố giáo lý của mình. Dân làng ngạc nhiên. Họ bảo nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. (Mc 6, 2-3). Người dân làng Nagiareth ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, biết quá rõ về thân thế và lý lịch của Đức Giêsu, biết quá rõ họ hàng của Ngài nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và ông Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh “thợ mộc con”, mà sao có thể giỏi như thế? một người bình thường nếu không muốn nói là dân quê, dốt nát, nghèo hèn,…Càng nghĩ đến thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng Ngài, họ càng thấy khó chịu, nên họ có vẻ châm biếm khi gọi Ngài là thợ mộc. Một người như vậy mà có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư? Trăm lần không, ngàn lần không và họ đã bị vấp phạm, bị chạm tự ái. Họ không thể công nhận một người như thế làm ngôn sứ, làm Đấng Mêsia của họ, cho dù Ngài ăn nói giỏi hay làm được phép lạ cũng thế. Từ đó, sự hiện diện của Ngài khiến họ không thể chịu nổi. Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân lý của Ngài.
Cái nhìn thiên kiến làm cho họ lệch lạc. Theo họ, Đấng Thiên Sai, phải xuất thân từ dòng dõi Vua Chúa chẳng hạn như Vua Đavit, sống trong cung điện hay trong hàng tư tế chính hiệu hay phải là thuộc người có đầy quyền uy thế lực nổi tiếng. Thế nhưng rõ ràng trước mắt họ đây là một tên thợ mộc Giêsu “không có gì hay” chỉ là người thuộc giới nghèo hèn, không có lấy một tiếng tăm, không có địa vị gì trong xã hội cả, một người quá tầm thường! Như thế, từ lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội, tất cả rõ ràng như ban ngày. Họ quá biết về Ngài. Điều này đã trở thành chướng ngại cho họ tin Ngài là Đấng Thiên Sai. Vì thế, họ nhạo cười Ngài, không đón nhận Ngài, quay lưng lại với cả Thiên Chúa, Đấng sai Ngài đến, quay lưng lại với sứ mạng Cứu Thế mà Thiên Chúa uỷ thác. Do đó, một lần nữa người đồng hương đã chứng tỏ thái độ kiêu ngạo, phản loạn chống lại Thiên Chúa. Đầy cũng là hình ảnh biểu trưng cho con người thời đại.
Ở đây Thánh Marco cho thấy thái độ của dân làng Nagiareth đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của chủ nghĩa lý lịch như Ngài đã tuyên bố sau thái độ này: ” Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4). Những người đồng hương, bà con của Ngài đã không muốn trở thành bà con đích thật của Ngài nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vị Cứu Tinh.
Người Công Giáo nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta trở thành anh em của Chúa Giêsu trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Có thể, chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Phúc âm, trong Lời Ngài, trong quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội và các Bí tích. Rất có thể, chúng ta đã và đang đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, nơi khác. Khi đó, chúng ta làm như thể Chúa Giêsu cũng chỉ là bác thợ mộc làng Nagiareth không hơn không kém, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất. Phúc âm hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Giêsu Kitô. Đừng đánh giá người ta theo cái nhìn định kiến, theo cái nhìn lý lịch, càng không thể nhìn Đức Giêsu bằng con mắt giống như người Do Thái năm xưa. Thiên Chúa đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Nagiareth. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương và ơn cứu độ của ngài không phải ở bề ngoài, không ở giàu sang danh vọng, càng không giống theo kiểu lý lịch của con người nhưng ở trong người nghèo khổ, trong người bị bỏ rơi…
Ở đây niềm tin mời gọi chúng ta phải vượt qua dáng vẻ bề ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vị Cứu Tinh, là Đấng cứu chuộc nhân loại có một không hai trong thế giới. Với cuộc khổ nạn và phục sinh của mình, Chúa Giêsu Kitô đã nói lên tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa tình yêu đối với nhân loại, đối với mọi người, kể cả những kẻ chống đối, kẻ phản bội tình yêu Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không phải là một thất bại nhưng là một chiến thắng, chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự hèn yếu của con người
Chúng ta có quyền trách dân làng Nagiareth quá vội vàng hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình, và còn tiếc nuối biết bao cơ may trong đời chúng ta đã đánh mất vì quan niệm hay cái nhìn hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta kiểm điểm về cách chúng ta phán đoán và đánh giá trị người khác, chúng ta cũng đã nhiều lần phán đoán hay đánh giá người khác hoặc vội vàng, hấp tấp, hồ đồ, hoặc không trung thực vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh tị, đôi khi còn bài bác, dèm pha nữa. Chúng ta hãy kiểm điểm và sửa chữa lại tật xấu này để mối tương giao của chúng ta với mọi người được tốt đẹp hơn. Hơn nữa, thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Chẳng hạn, yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền. Chúng ta thường to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại, dân làng Nagiareth đã không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng cứu tinh. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về tha nhân, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của chúng con. Chúng con tin mạnh mẽ và hoàn toàn tín thác vào Chúa. Xin Chúa giúp chúng con can đảm loại bỏ thành kiến, loại bỏ quan niệm đánh giá và hành động theo cái nhìn bề ngoài để chúng con luôn nhìn nhận giá trị đúng mức những gì Chúa thương dành cho chúng con và để chúng con nhìn thấy những giá trị cao quý nơi tha nhân. Amen.
Đức Giêsu trở về quê hương, với những người dân mà Người đã lớn lên ở giữa họ. Bỗng chốc, họ thấy rõ ràng Người đã thay đổi. Khi rời bỏ Nagiarét, Người đã tìm thấy ơn gọi thật của Người (việc Người làm), và tặng vật của Người (sự giáo huấn và chữa lành bệnh) đã nở rộ. Giờ đây Người nổi tiếng là một thầy dạy và một người hay làm phép lạ.
Thông thường, người ta phải đi xa nhà và xa quê hương mình để được triển nở. Ở nhà người ta cảm thấy gò bó, vướng víu vì thiếu cơ hội, sự thách đố và thừa nhận.
Khi trở lại quê nhà, những người ở quê nhà không sẵn sàng chấp nhận điều đó. Họ muốn nhìn một người đi xa trở về như kẻ đã bỏ họ; họ cảm thấy yên tâm và chấp nhận người ấy. Người ấy không còn là một thách thức đối với họ.
Nếu người đi xa trở về ở tình trạng sa sút càng tốt. Thế là họ cảm thấy xót xa cho người ấy. Nhưng nếu người ấy trở về và trở thành một con người đã thay đổi, có lẽ họ cảm thấy bực bội và chối bỏ người ấy. Chính họ bị kẹt cứng trong những lề thói xưa cũ. Vì thế họ cảm thấy bực bội với một người trở về mà bản thân đã làm được một điều gì. Họ cố gắng cắt gọt người ấy theo kích thước riêng của họ.
Dẫu sao, Đức Giêsu đã trở về, và một cách thân tình muốn chia sẻ quà tặng của Người cho những người dân ở quê nhà. Nhưng thay vì Người được đón tiếp nồng hậu. Người thấy dân giám sát, dò xét và theo dõi Người.
Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường họ có thể thấy Người có một món quà đặc biệt – món quà của sự khôn ngoan. Lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí họ rất đỗi ngạc nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người đã ban tặng họ, họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?” Đó cũng là câu hỏi mà nhiều cha mẹ hỏi khi nghe con mình biểu lộ một điều làm họ ngạc nhiên. Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của con người. Chúng ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người khác?
Người dân Nagiarét nhớ lại nguồn gốc khiêm hạ của Đức Giêsu. Vậy thì, Người là ai ngoài một bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người. Thật vậy, họ đã nói: “Ông ấy nghĩ mình là ai?” Họ cảm thấy họ đã nắm rõ về Người. Họ đã đặt ra những giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho phép sự trưởng thành và phát triển.
Họ đã từ chối tin Người. Họ đã từ chối nhìn Người một cách nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ làm cho Người không thể làm gì cho họ, và như thế họ không hưởng được ơn ích từ cuộc viếng thăm của Người.
Đây là một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn – Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận. Thường chúng ta không chịu thừa nhận quà tặng và tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và chúng ta cũng chịu thiệt hại bởi vì chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt và quà tặng của họ.
Bị chối bỏ là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi bị những người thân chối bỏ. Đức Giêsu đã ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người cũng chịu bó tay. Bạn không thể giúp đỡ những người làm ngược lại ý nuốn của họ. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc đó nhưng Người không tức giận. Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức giận.
Chúng ta đều có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta đã muốn giúp đỡ một người nào đó nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bực bội và vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám dỗ nói rằng: “Thế đấy! Đừng hòng tôi giúp cho”. Chúng ta quyết định không giúp đỡ một ai nữa. Điều này làm người ta đau khổ.
Đức Giêsu đã không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú. Người đã làm điều nhỏ bé còn có thể làm được ở Nagiarét. Người đã chữa lành một vài bệnh nhân – Rồi người quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi khác.
Trong một giờ phút rất chân thành, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã ban cho ngài mọi thứ thị kiến và cho ngài cảm nhận rằng ngài đã đặt một chân vào thiên đàng. Nhưng ngài cũng nói rằng: “Một cái dằm đã đâm vào da thịt tôi” để nhắc ngài nhớ đến sự yếu đuối của mình và để gìn giữ ngài trong sự khiêm nhường.
Một cái dằm trong da thịt – đó là một hình ảnh sống sượng và mạnh mẽ. Chúng ta đều có kinh nghiệm bị dằm đâm vào bàn chân hoặc vào ngón tay. Và chúng ta đã quen thuộc với thành ngữ “Cái gai trước mắt”.
Hình ảnh gợi ra một điều sống sượng và đau đớn – nó liên tục quấy rầy làm người ta không quên được. Nó là một vật ở không đúng chỗ. Nó hết sức phiền hà và làm chúng ta tức giận. Nó có thể là vật rất nhỏ. Tuy nhỏ nhưng lại rất đau.
“Dằm” là hình ảnh của một vấn đề và có thể có nhiều hình thức: một bệnh tật, một điều hối tiếc, một gánh nặng, một nỗi đam mê, một sự cưỡng bách… Nó có thể là những người khó khăn mà chúng ta phải sống với họ. Thánh Phaolô không nói cái dằm của ông là gì. Có lẽ đó là một căn bệnh thể chất tái phát theo định kỳ.
Nhưng ông không nói ông tha thiết muốn thoát khỏi căn bệnh ấy. Nhiều lần ông cầu xin Thiên Chúa lay động cái dằm ấy. Nhưng Thiên Chúa đã không làm. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta không được chấp nhận cái dằm mà còn phải tìm cách thoát khỏi nó.
Tình cờ, Phaolô phải chấp nhận sự kiện cái dằm đã có ở đó. Nhưng Thiên Chúa bảo đảm với ông Người sẽ ban cho ông sức mạnh để đối phó với nó: “Ơn của Thầy đã đủ cho con”. Chúng ta cũng phải chấp nhận nếu cái dằm của chúng ta vẫn ở đó. Và những lời “Ơn của Thầy đã đủ cho con” cũng được nói với chúng ta, và cũng là một an ủi to lớn cho chúng ta Thiên Chúa hoạt động vì sự yếu đuối của con người và qua sự yếu đuối ấy.
Cuối cùng, Phaolô phải thừa nhận giá trị và thậm chí khoe mình về cái dằm ấy. Nó giữ ngài khiêm nhường. Nó cho ngài một kinh nghiệm yếu đuối và bất lực. Có nó ngài mới cảm nghiệm quyền năng của ân sủng Thiên Chúa. Chính khi trời êm, con thuyền của mình không đi đâu cả, người thủy thủ mới đánh giá đúng sức mạnh của gió.
Điều như thế cũng xảy đến với chúng ta. Chính trong sự yếu đuối của mình chúng ta mới cảm nghiệm quyền năng của Thiên Chúa. Trong bóng tối của chúng ta, chúng ta mới cảm nghiệm ánh sáng của Người. Trong tội lỗi của chúng ta, chúng ta mới cảm nghiệm lòng thương xót của Người. Nếu “cái dằm” làm chúng ta biết trông cậy nhiều hơn vào quyền năng của Thiên Chúa và gia tăng sự phó thác nơi Người, vậy nó trở nên một suối nguồn của sự trưởng thành và ân sủng cho chúng ta.
Một gánh xiếc đi lưu diễn đóng trại bên ngoài một ngôi làng. Một buổi tối nọ, không lâu trước giờ trình diễn, ngọn lửa bùng lên trong một chiếc lều. Ông giám đốc gánh xiếc sai một anh hề, lúc đó đã mặc trang phục cho buổi diễn đi vào làng kế cận để xin được giúp đỡ. Nếu ngọn lửa lan tràn qua cánh đồng chỉ còn những gốc rạ khô thì ngôi làng có nguy cơ bị hỏa hoạn.
Anh hề vội vã chạy vào làng. Anh xin người ta ra ngoài làng càng nhanh càng tốt để giúp đỡ dập tắt đám cháy. Nhưng không ai cho rằng anh nói nghiêm túc. Người ta nghĩ đó là một màn quảng cáo khéo léo của giám đốc gánh xiếc. Anh càng cố làm cho họ biết rằng thật sự có hỏa hoạn, thì họ càng cười anh. Sau cùng lửa đã lan đến ngôi làng và thiêu rụi.
Lý do chính mà dân làng không nghe lời cảnh báo là vì họ nhìn người đưa tin chỉ như một anh hề. Điều này làm cho họ hầu như không thể xem xét sự thật trong lời nói anh ta nói với họ.
Có một điều tương tự đã xảy ra với Đức Giêsu khi Người trở về quê hương Nagiarét. Người ta từ chối nghe lời Người. Họ biết rất nhiều về Người. Sứ điệp không gặp may vì người ta đã chối bỏ sứ giả. Thật vậy, họ cố gạt bỏ Người.
Người đã nói sự thật nào cho những người đồng hương để họ thấy đó như một lời đe dọa đến nỗi họ muốn giết chết Người? Người cho họ biết họ là dân được Thiên Chúa chọn. Thế nên người ta phải thấy họ có ít đức tin. Tuy nhiên Người nói với họ Người thấy dân ngoại còn có nhiều đức tin hơn họ. Người tiếp tục gợi ý dân ngoại sẽ chiếm chỗ của họ trong Nước Trời. Vì thế, họ muốn giết Người.
Một trong những dấu chỉ Thiên Chúa chăm sóc dân Người là Người hứa gởi đến cho họ những ngôn sứ để kêu gọi họ trở về với chính họ. Cho dù lời của các ngôn sứ thường là lời phê phán, lời ấy là lời biểu lộ tình yêu.
Thiên Chúa cũng làm thế đối với chúng ta. Người không bỏ mặc chúng ta trong bóng tối sai lầm hoặc làm điều sai trái. Người gởi các ngôn sứ đến với chúng ta, phần lớn ở gần chúng ta. Có thể là ai khác? Nhưng chúng ta cũng có thể chối bỏ các ngôn sứ, đặc biệt khi ngôn sứ mang đến một sứ điệp mà chúng ta không thích nghe. Sự thật mất lòng.
“Bạn làm việc quá vất vả. Bạn bỏ bê gia đình quá nhiều. Bạn không quan tâm đến đời sống trong gia đình và con cái bạn… Bạn làm hư hỏng con cái bạn… Bạn quá chú trọng về vật chất… Bạn uống rượu nhiều quá… Bạn có quá nhiều thành kiến… Bạn luôn đề cao bạn nhất… Bạn thờ phượng Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng…”
Nếu có ai nói với chúng ta một hoặc nhiều sự việc ấy, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Chúng ta không tấn công ông hay bà ngôn sứ đó hay sao? Sự thật là ít ai trong chúng ta ham thích sự thật. Chúng ta phải cầu nguyện để có can đảm lắng nghe sự thật cho dù có thể đau đớn và đến như cơn gió làm tan đi lòng kiêu ngạo của chúng ta. Sự thật như lời Đức Giêsu nói sẽ giải phóng chúng ta.
Người nào vì yêu thương chúng ta nói với chúng ta sự thật, biết rằng nói ra sẽ làm chúng ta mất lòng và đánh mất tình bạn, người ấy là một người bạn chân thành.
Chúng ta cũng phải cầu nguyện để có can đảm nói ra sự thật với người khác. Kéo một người về với chính lộ là một việc cao cả. Nhưng có một cách để làm việc đó. Đó là làm với tình yêu thương và sự quan tâm. Bí quyết là đồng thời phải có lòng trung thực và nhân hậu.
Bài Tin mừng hôm nay đề cập về phép lạ: Ở quê hương Nagiarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nagiarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem: phép lạ là gì? Và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không?
Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên nữa. Thí dụ: trong khoa vật lý học, chúng ta biết có qui luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo qui luật tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.
Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.
Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này là: Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên: phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài qui luật tự nhiên. Qui luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập những qui luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng qui luật tự nhiên mà Người đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).
Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì? Thường là đức tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẽ vững vàng – hoặc để mời gọi những người chứng kiến càng tin mạnh mẽ vững vàng hơn.
Trong các sách Tin mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức Giêsu hỏi “Con có tin không?” Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thỏa thích hiếu kỳ thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng thế: những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ mộc nghèo nàn, tầm thường, nhưng mặt khác khi nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Đức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Đức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thỏa mãn tính vụ lợi của họ.
Có những người rất nhẹ dạ dễ tin: chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.
Có những người rất hay cầu xin phép lạ: phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.
Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý: điều quan trọng nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là đức tin: phép lạ xảy ra là vì đức tin: hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẽ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.
– Ở Lộ Đức, ở Fatima, ở La Salette v.v… khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo hội mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì đức tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.
– Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể: tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa… chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng… Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu, bệnh tật, buồn khổ… chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới là một đức tin vững mạnh.
Bs. Charles Drew là anh cả trong năm người. Ông tốt nghiệp từ McGill ở Gia Nã Đại với bằng Bác Sĩ Y Khoa và Tiến Sĩ Phẫu Thuật.
Tại Đại Học Columbia ở Nữu Ước, ông tìm ra một phương cách để gìn giữ máu trong một thời gian dài, sử dụng trong việc tiếp máu.
Trong Thế Chiến II, ông là giám đốc của ngân hàng máu quốc gia, cung cấp máu cho các quân nhân.
Trong khả năng của mình, ông đã đặt nền tảng cho thủ tục lấy máu và dự trữ máu của Hồng Thập Tự. Thật cay đắng, ông là người da đen và vì thế ông không được phép hiến máu cho Ngân Hàng Máu Hồng Thập Tự.
Vào năm 1944, ông trở thành trưởng phòng nhân viên và giám đốc y tế tại bệnh viện Freedman tại Hoa Thịnh Đốn. Ông được rất nhiều giải thưởng và được nhiều người trong ngành y khoa nhìn nhận ông là một trong những y sĩ hàng đầu thế giới.
Vào năm 1950, ông bị tai nạn xe hơi trầm trọng và mất rất nhiều máu. Một bệnh viện kỳ thị chủng tộc ở Burlington, North Carolina, đã từ chối không tiếp máu cho ông. Ông từ trần trên quãng đường dài để đến một bệnh viện khác mà họ chấp nhận người da đen.
Và vì vậy điều xảy ra là vị bác sĩ trẻ tuổi, thông minh đã từ trần khi mới 45 tuổi – ở đỉnh cao sự nghiệp – chỉ vì một bệnh viện kỳ thị chủng tộc đã từ chối không cho ông được hưởng kết quả của chính sự khám phá của ông.
Câu chuyện thương tâm này đưa chúng ta về với bài Phúc Âm hôm nay.
Ở đây chúng ta thấy người dân không thể hiểu được Đức Giêsu, con của một bác thợ mộc, lại có được kiến thức và quyền năng lạ lùng như vậy.
Do đó, cũng vậy, người ta không hiểu được ở đâu Bs. Drew, con của người da đen, lại có được kiến thức và khả năng tài giỏi như vậy.
Đức Giêsu bị tẩy chay bởi chính người dân mà Người quý mến bất kể những việc lạ lùng mà Người đã thi hành.
Tương tự, Bs. Drew bị từ chối quyết liệt bất kể những thành quả đáng kể của ông.
Sau cùng, Đức Giêsu, là người chữa lành và cứu được nhiều người, lại bị mất mạng bởi chính những người mà Đức Giêsu đã chữa lành và cứu vớt.
Tương tự, Bs. Drew, người đã chữa trị và cứu được rất nhiều người, lại bị mất mạng vì những người mà ông đã chữa trị và cứu giúp.
Điều Thiên Chúa nói với ngôn sứ Ê-giê-kien trong bài đọc một hôm nay có thể là câu nói với Đức Giêsu và cả Bs. Drew:
Ta sai con đến với một dân mà nó từng phản nghịch Ta. Dù chúng có nghe con hay không, chúng sẽ biết là ở giữa họ có một ngôn sứ. Ez 2:3-5
Làm thế nào những câu chuyện của Đức Giêsu trong Phúc Âm hôm nay và của Bs. Drew có thể áp dụng vào đời sống chúng ta?
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi này khi Người cảnh cáo các môn đệ về những bách hại sắp đến mà nhiều môn đệ sẽ phải chịu. Người nói:
“Hãy nghe đây! Thầy sai anh em đi giống như chiên vào đám sói… [Nhiều người] sẽ ghét anh em bởi vì Thầy. Nhưng ai trung thành đến cùng sẽ được cứu…
“Học trò thì không trọng hơn thầy; nô lệ thì không cao hơn ông chủ. Vì vậy một học trò phải bị hy sinh để trở nên giống thầy của nó, và một nô lệ giống ông chủ của nó” Mt 10:16, 22, 24
Nói cách khác, Đức Giêsu nói rằng nếu người ta tẩy chay Người khi còn sống, chúng ta cũng sẽ đừng ngạc nhiên nếu người ta cũng từ khước chúng ta, môn đệ của Chúa, trong thời gian chúng ta sống.
Thí dụ, chúng ta đừng ngạc nhiên nếu người ta tẩy chay chúng ta vì chống đối việc giết hại mạng sống vô tội qua sự phá thai. Chúng ta đừng ngạc nhiêu nếu người ta tẩy chay chúng ta vì lên tiếng bảo vệ việc khai thác các trẻ vị thành niên.
Chúng ta đừng ngạc nhiên khi người ta tẩy chay chúng ta vì đứng lên bảo vệ những gì chúng ta tin là quyền lợi.
Chúng ta đừng ngạc nhiên ngay cả khi các Kitô Hữu khác từ khước chúng ta vì quốc tịch hay tình trạng kinh tế, xã hội của chúng ta.
Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi chính gia đình tẩy chay chúng ta. Đức Giêsu nói điều này sẽ xảy ra:
“Người ta sẽ nộp chính anh em mình để bị tử hình, và các người cha sẽ thi hành như vậy với con cái; ngược lại, con cái sẽ chống đối với cha mẹ.” Mt 10:21
Thí dụ, một cha mẹ có thể không muốn thật lòng tha thứ cho đứa con. Hoặc một đứa trẻ có thể từ chối không thật lòng tha thứ cho cha hay mẹ.
Khi sự khước từ này xảy ra, chúng ta bị cám dỗ bỏ cuộc. Chúng ta bị cám dỗ ngừng yêu thương. Chúng ta bị cám dỗ trở nên hận thù và hằn học.
Nếu điều này xảy ra, chúng ta không được khoán trắng cho cảm tưởng. Thay vào đó, chúng ta phải bắt chước Đức Giêsu, Người nói chúng ta phải tha thứ cho kẻ thù và “cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em.” Luke 6:28
Hãy nghĩ đến một thí dụ cụ thể. Vào năm 1861, Jefferson Davis, tổng thống của Liên Bang Hoa Kỳ, đang tìm kiếm ai đó để giữ chức vụ then chốt trong nội các. Do đó ông hỏi Tướng Robert E. Lee về một người nào đó tên là Whiting. Tướng Lee rất khen ngợi người này.
Một trong những sĩ quan của Tướng Lee mời ông ra ngoài và hỏi ông có biết về những nhận xét mà Whiting đã xúc phạm đến ông không. Tướng Lee trả lời, “Tôi hiểu rằng Tổng Thống muốn biết ý kiến của tôi về Whiting, chứ không phải ý kiến của Whiting về tôi.”
Tướng Lee đã không để sự cám dỗ làm chủ ông vì những tổn thương, thay vào đó ông đã nhìn đến sự thật và tình thương.
Nói tóm, các bài đọc hôm nay dậy chúng ta hai điều.
Thứ nhất, có khi người ta sẽ tẩy chay chúng ta, cũng như họ đã tẩy chay Đức Giêsu. Thứ hai, chúng ta không thể để sự tẩy chay này khiến chúng ta thù hận, cũng như Đức Giêsu không để sự khước từ khiến Người không còn yêu mến họ nữa.
Chúng ta hãy kết thúc bằng cách lắng nghe những lời của Đức Giêsu nói trong Bài Giảng Trên Núi:
“Phúc cho anh em khi bị người đời ghét bỏ, tẩy chay, sỉ nhục anh em, và nói đủ điều xấu xa cho anh em, tất cả chỉ vì Con Người! Hãy vui lên khi những điều đó xảy ra và hãy nhảy múa mừng rỡ, bởi vì phần thưởng lớn lao được dành cho anh em ở trên trời.” (Lc 6:22-23)
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi”.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.
SUY NIỆM
Bản văn Tin Mừng hôm nay tường thuật về việc Đức Giêsu bị những người ở quê hương mình khinh thường, và Người không thể thi ân giáng phúc cho họ.
Sau khi chữa lành cho người phụ nữ bị bệnh băng huyết và cứu sống con gái của một ông trưởng hội đường Do thái ở Ca-pha-na-um, Đức Giêsu rời khỏi nơi đó để về quê hương của Người là Na-da-rét.
Đến ngày sa-bát Người vào hội đường để giảng dạy. Những người họ hàng thân thuộc, bạn bè và hàng xóm rất ngạc nhiên về những lời lẽ khôn ngoan và đầy thuyết phục của Đức Giêsu; họ cũng đã nghe truyền tụng về những phép lạ Người làm ở nơi khác, nhưng họ không tin Người là Ngôn sứ của Thiên Chúa, vì họ biết rõ thân thế của Người. Những người này nói với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”
Đức Giêsu trở về Na-da-rét, Người muốn loan báo cho những người thân yêu của mình về ơn Cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện, nhưng Người thất vọng vì sự cứng lòng và thói tật xấu xa của họ, họ đánh giá người khác theo cảm tính và dáng vẻ bề ngoài. Do đó, họ đã tỏ thái độ lạnh nhạt, khinh thường và không tiếp đón Người.
Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Thực thi sứ vụ yêu thương, Đức Giêsu giảng dạy chân lý cứu độ và Người muốn thi ân giáng phúc cho mọi người nhất là những người đồng hương thân yêu và bằng hữu; nhưng Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó.
Phép lạ gắn liền với lòng tin, Đức Giêsu có làm phép lạ cũng là vì thương yêu và để củng cố đức tin cho người có bệnh tật cũng như cho những người chứng kiến dấu lạ, nhưng ở quê hương của Người, Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Sự cứng lòng và thái độ khinh thường của người Na-da-rét làm cho Đức Giêsu phải ngỡ ngàng.
Qua trình thuật Tin Mừng hôm nay Lời Chúa muốn nói với tôi: Thái độ của người Na-da-rét ngày xưa, hôm nay vẫn còn đang tái diễn khi con người lãnh đạm trước ơn soi sáng thúc dục sống công chính và yêu thương của Chúa Thánh Thần trong lương tâm, cũng như trước lời mời gọi hiệp nhất của Giáo hội. Bởi xu hướng hưởng thụ và quan niệm thực dụng người ta không còn chú ý đến tiếng lương tâm và xem thường những thực tại thiêng liêng, khước từ ân sủng Thiên Chúa ban cho qua Phụng vụ và các Bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh thể. Chính sự vô cảm về đàng thiêng liêng đã ngăn cản bàn tay yêu thương của Thiên Chúa khi Ngài thi ân giáng phúc. Nhiều người trong chúng ta có lẽ đã trách cứ những người đồng hương của Đức Giêsu về thái độ bất kính đối với Người; nhưng đặt mình trong bối cảnh lúc bấy giờ, thái độ của chúng ta sẽ như thế nào? Năm 2010, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô 16 ban hành Tông huấn Lời Chúa, ngài nhắc nhở mời gọi người tín hữu hãy yêu mến Kinh Thánh, siêng năng đọc và suy niệm theo phương pháp truyền thống của Hội Thánh là Lectio Divina để kín múc sự sống vĩnh cửu nơi Lời của Đức Giêsu. Thực tế, lời giáo huấn của Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô 16 đã được chúng ta đón nhận như thế nào? Mau mắn và kiên trì thực thi việc đọc KinhThánh vì đó là phương tiện gặp gỡ chính Người; hay quan niệm đây chỉ là quyển sách đạo đức hoặc phương pháp Lectio Divina có vẻ xa rời thực tế, vì thế lãnh đạm hoặc xem thường mà chẳng quan tâm đón nhận?. Đấy là câu trả lời về thái độ của con người chúng ta hôm nay đối với Đức Giêsu và lời rao giảng của Người.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay nhắc nhở tôi:
– Hãy quan tâm và tìm kiếm ân sủng của Thiên Chúa thông ban cho qua các phương tiện như Kinh Thánh, Phụng vụ, các bí tích và những việc đạo đức bình dân khác với lòng yêu mến chân thành.
– Hãy có một tấm lòng quảng đại, thân thiện để sẵn sàng đón tiếp sứ giả của Thiên Chúa; đó có thể là những người anh em nghèo túng, khốn cùng; có thể là những người có trách nhiệm hướng dẫn tôi; có thể là những người đang nhắc nhở tôi điều tốt lành – dù họ là ai, họ như thế nào.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn để nhận ra Chúa trong cuộc đời và chân thành đón tiếp Người cũng như yêu mến thực thi các huấn lệnh, để nhờ đó con có được diễm phúc sống thân tình với Người và hưởng nếm hạnh phúc Người hứa ban.
Trong cuốn sách tựa đề The Inner Game of Tennis (Cuộc Chiến Bên Trong Của Môn Tennis) Timothy Gallwey đã tả lại cái cảnh vào một đêm tối mùa đông khi ông đang lái xe trên con đường vắng lặng từ tiểu bang Maine đến tiểu bang New Hampshire
Bất chợt, chiếc xe Volkswagen ông đang lái gặp phải chỗ đường đóng đá nên đã trượt đi đâm vào đống tuyết ở bên lề đường. Cùng một lúc thì chiếc xe cũng bị chết máy. Gallwey đã cố gắng tìm đủ mọi cách để nổ máy xe lại nhưng không có kết quả gì.
Lúc đó, khí trời lạnh buốt tới âm 20 độ và ông chỉ có một chiếc áo lạnh thể thao đang mặc trên mình.
Gallwey mới chỉ có ra khỏi một thành phố độ khoảng chừng 20 phút. Trong 20 phút qua, ông không nhớ là đã nhìn thấy một chiếc xe nào cả. Ông cố gắng tìm xem có nhà nào ở ngoài đồng vắng hay có cột điện thoại nào không, nhưng ông không nhìn thấy một cái gì hết. Ông cũng không biết ông còn cách xa thành phố kế tiếp bao xa.
Gallwey liền xuống xe và chạy đi tìm người giúp. Khí lạnh đã xâm nhập vào cả người ông và dần dần ông cảm thấy đuối sức và ông không còn có thể nào chạy được nữa nhưng phải bước đi.
Sau khi đi bộ được hai phút thì hai cái tai lạnh ngắt và ông tưởng rằng chúng sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào. Lại một lần nữa, ông lại bắt đầu chạy, nhưng khí lạnh lại làm cho ông kiệt sức và ông lại phải bước bộ.
Bất chợt, trong tâm trí ông, ông tưởng tượng ra thân xác của ông sẽ nằm trên con đường này và nó bị đóng đá và bị tuyết bao phủ. Nghĩ đến đây, ông rùng mình lo sợ.
Sau đó một vài phút, Gallwey la lớn lên: “OK, nếu sự việc đã định, thì tôi xin sẵn sàng.” Sau đó, Gallwey không còn lo ngại gì đến số mạng của ông nữa, và ông lại bắt đầu chạy tiếp.
Sau một vài phút chạy bộ, nhìn lên bầu trời, Gallwey cảm thấy ngạc nhiên về vẻ đẹp của những ngôi sao lấp lánh và những cánh đồng xung quanh ông đều bao phủ tuyết trắng.
Ngoài sức tưởng tượng của ông, Gallwey đã chạy được 40 phút mà không cần nghỉ ngơi. Bất chợt, ông dừng lại bởi vì đằng xa xa, ông nhận ra một ánh đèn phát ra từ một nhà nông trại. Diệu kỳ thay, ông đã qua khỏi cơn thử thách đầy gian nguy này.
Sau cái kinh nghiệm khủng khiếp đó, Gallwey đã tự hỏi mình rằng đâu là nguồn gốc của sức mạnh đã giúp ông để có thể chạy được một quãng đường dài như thế. Rồi, ông nhớ lại rằng chính ông đã biết tự phó mặc đời mình theo thiên mệnh và qua đó, ông đã lãnh nhận được một sức mạnh giúp ông chạy một lèo 40 phút như thế.
Khi biết phó mặc sự sống của mình, Gallwey đã để cho một sự sống thần linh chiếm đoạt con người của ông. Phó mình trong tay Chúa định đoạt về mình, ông mở ra một lối cho một sức mạnh thần linh mà ông không bao giờ hay biết.
Kinh nghiệm của Gallwey giúp chúng ta hiểu được những điều bí nhiệm của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay.
Thiên Chúa nói với Phaolô, “Sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối.” Và Thánh nhân đã chân nhận, “Vì thế, tôi vui thỏa trong sự yếu hèn của tôi… khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.” Nhưng, Thánh Phaolô muốn nói gì, “khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ”?
Ngài có ý muốn nói rằng khi ngài nhận ra sự yếu đuối của mình, ngài biết cậy trông vào Chúa để xin trợ giúp. Khi nhận ra con người yếu đuối của mình, ngài biết mở mình ra và để cho ơn Chúa xuống và tăng sức cho ngài.
Nói một cách khác là nếu Thánh Phaolô đã không bao giờ cảm nghiệm được con người yếu đuối của mình thì ngài sẽ không bao giờ biết giơ tay ra để xin cứu giúp. Và ngài sẽ không bao giờ khám phá ra được sức mạnh tuyệt vời mà con người có thể khám phá: đó là Thiên Chúa.
Chỉ có những lúc như thế, con người mới nhận ra lý do tại sao Ngôi Hai lại xuống thế làm người. Ngài đến bởi vì Ngài biết rằng con người chúng ta bất toàn và cần sự trợ giúp của Ngài.
Vì thế, khi những gian nan thử thách đến trong cuộc sống, và chắc chắn chúng sẽ đến, chúng ta hãy vững tin và đừng thất vọng. Bởi vì chính những lúc đó, chúng ta sẽ khám phá ra được sự cần thiết của Chúa. Chúng ta sẽ biết mở lòng ra, việc mà chúng ta không bao giờ làm từ trước đến nay. Có như vậy, Thiên Chúa mới ngự vào tâm hồn chúng ta, và chúng ta sẽ cảm nghiệm được sứ mạnh của Ngài.
Đó chính là ý nghĩa sâu xa của lời Thánh Phaolô. Đó là Tin Mừng qua bài đọc hôm nay. Đó là mầu nhiệm mà chúng ta đang cùng nhau cử hành nơi đây.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bị hiểu lầm hay bị từ chối là những điều khiến người ta phiền lòng. Êdêkien, ngay cả Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người cũng không đứng ngoài qui luật thường tình ấy. Là ngôn sứ thì dù ở hội đường, hay trong gia đình, cũng sẽ gặp khó khăn và có thể bị ruồng bỏ là kinh nghiệm của Chúa Giêsu và Êdêkien. Êdêkien được Chúa chọn, gọi làm ngôn sứ cho dân đi lưu đầy cùng với ông: “Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng… Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn” (Ed 2, 4-5). Chúa Giêsu về hội đường giảng dạy cho người đông hương cũng phát buồn và thốt lên câu nói để đời: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình” (Mc 6, 4). Tại sao vậy?
Biết rõ
Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại sự lúng túng của dân thành Nagiarét trước Chúa Giêsu người đồng hương của họ đi xa trở về nơi hội đường. Vì họ đã quá biết gia thế của Chúa Giêsu, biết rõ nên họ không đánh giá đúng về Người.
Có lẽ đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu trở về Nagiarét, sau khi đi thi hành sứ mạng công khai. Nagiarét là cái nôi của thời thơ ấu, thời niên thiếu của Chúa Giêsu. Nơi ấy có gia đình, bà con, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, quê hương, bản quán, nên khi Chúa Giêsu trở về nhà họ biết ngay. Trong số họ có người đã từng thấy Chúa Giêsu được mẹ ẵm bế, như bao nhiêu trẻ em khác. Con cái họ và Chúa Giêsu đều học chung một lớp, cùng chơi và cười đùa với nhau. Cùng thảo luận những bài học về cái cửa, cái xà. Chúa Giêsu đã từng cầm cưa, bào, đục, và nhất là nói giọng nói miền quê Nagiarét trong suốt 20 năm trời.
Lần trở về này nhằm ngày Sabát, Chúa vào hội đường, dân làng đón tiếp Chúa rất vui vẻ. Tại đây, Chúa bắt đầu giảng dạy: “Nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy?” (Mc 6, 2). Nói xong bỗng nhiên thái độ của họ đổi hẳn vì những cái đã biết về Người. Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ “vấp phạm vì Người” (Mc 6, 3).
Đã nhiều năm qua, gia đình Chúa Giêsu đã để lại những ấn tượng tốt về Người. Trước sự ngạc nhiên và từ chối của dân thánh Nagiarét, cũng như sự thiếu lòng tin của họ, Chúa Giêsu đã buông lời thở dài: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình!” (Mc 6, 4). Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha Đấng tạo dựng thế gian nhưng thế gian đã không tiếp nhận Người.
Không được đánh giá đúng
Chúa Giêsu buồn vì thành kiến của đông hương về lý lịch của Chúa: cha mẹ, gia đình và nghề nghiệp: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 3). Họ không thể đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.
Ông là ai? Là câu hỏi được đặt ra trong toàn bộ Tin Mừng Marcô. (1, 24 và 25 – 1, 27 – 1, 34 – 4, 41 – 6, 14 và 15). Căn tính bí ẩn này là gì? Trên đường hành trình với các môn đệ từ Xêsarê đến Philiphê Chúa hỏi các ông “Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai? “
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật
Ngày hôm nay, Thiên Chúa cần có câu trả lời từ phía con người đang tìm kiếm ý nghĩa của Lời Chúa và bước vào cuộc đối thoại với Chúa. Người thợ mộc thành Gagiarét là Thiên Chúa thật và là Người thật, Người là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, là Lời Chân lý dẫn đến Sự Sống đời đời. Hãy biết nhận ra Chúa, đừng để Chúa đi qua. Mẹ Maria hòa mình vào đám đông để chiếm ngắm và lắng nghe người ta nói về con Mẹ: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria!” (Mc 6, 3) Con bà Maria và là Con Thiên Chúa, đó Bí Mật Tình Yêu của Thiên Chúa, Người bước vào đời sống công khai bằng con đường khiêm tốn và nghèo khó. Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin, và buồn vì họ không chấp nhận bất cứ sự gì đến từ Người. Nghĩa xác thực được thánh Marcô sử dụng ở đây theo tiếng Hy lạp, không phải Chúa Giêsu mong đợi người đồng hương tin vào Thiên Chúa, nhưng là mong đợi phần lớn những người Nagiarét: tin vào Người.
Tin Đức Giêsu là Thiên Chúa
Ngày hôm nay có người nói rằng: Nếu chúng ta sống vào thời các tông đồ, và chứng kiến Chúa Giêsu như họ, chắc chúng ta cũng giống họ”. Họ biết quê hương mình có người tên là Giêsu nhưng không biết người đang nói với họ là Chúa Giêsu, Chúa Cả trời đất…… Thực tế ngày hôm nay khác với ngày xa xưa ấy, vì nhiều người hạnh phúc hơn, tin tưởng vào những điều đã đã nghe và đã thấy.
Vì, quả thật, ở giữa những người ẫu trĩ có một người khiêm nhường; là Thiên Chúa thật đến dạy dỗ chúng dân. Người đến với những thu thuế và tội lỗi, đồng bàn ăn uống với họ (Mt 9,11); Vì thế, có người miệt thị nói rằng: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?” (Mc 6,3; Ga 6,42) Nhưng Chúa Giêsu vần là Thiên Chúa thật và là người thật, các vua chúa trần gian phải phụng thời Người … Người hoàn toàn là con người như chúng ta: ăn, uống, ngủ, nghỉ, đổ mồ hôi và mệt mỏi như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Người được gìn giữ khỏi hư nát và khỏi chết giữa muôn người. Giờ đây Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha (Mc 16,19), không gì có thể tách Người với Chúa Cha …
Thật là kỳ diệu, để có thể nhận biết và tin rằng một người thế là Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất và mọi sự trên trời dưới đất … Vì thế, hàng ngày chúng ta nghe Chúa Giêsu thông truyền thánh ý Chúa Cha qua các tác giả Tin Mừng, chúng ta phải vâng nghe, tuân giữ các giới răn của Người và tin vào Người.
Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Mc 6:1-6: 1Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2Đến ngày sabbát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.
Câu chuyện xảy ra ở nguyên quán của Chúa Giêsu (6:1-6a) kết thúc đoạn khá dài nói về những việc quyền năng Người đã làm ở Galilêa (3:7-6:6a). Ở nguyên quán dân chúng đã khước từ Người, nên Người đã không làm phép lạ tại đó. Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa Giêsu về quê quán với các môn đệ (6:1-2a); 2- Phản ứng của dân chúng tại đó (6:2b-3); 3- Thái độ của Người trước phản ứng của dân chúng (6:4-6a).
Về lại nguyên quán Nazaréth là sáng kiến riêng tư của Chúa Giêsu. Người “ra khỏi đó”, nghĩa là tách mình khỏi những hoạt động trước đó (4:1-5:43), và tìm đến những người bà con thân thuộc trước đây đã đến tìm Người, và Người đã để họ đứng bên ngoài (3:21.31-35). Như các lần trước, các môn đệ luôn đi với Người để chứng kiến và học hỏi những điều sẽ xảy ra (c. 1). Như lúc khởi đầu, Người vào hội đường ngày sabbát để giảng dạy (cc. 2; 1:21-22.27b; 11:18). Phản ứng đầu tiên của dân chúng trong cả hai trình thuật là họ đầy kinh ngạc bởi giáo huấn của Người. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa chúng là trong khi dân chúng ở buổi khởi đầu nhận ra quyền năng của Người trổi vượt mà họ không tìm thấy nơi các biệt phái, dân chúng ở nguyên quán của Người lại đặt vấn đề về bản chất và nguồn gốc của giáo huấn và những việc quyền năng của Người, dựa trên quan hệ dòng tộc trần thế của Người. Họ chỉ biết “Người nầy” là con của bà Maria, anh em của Giacôbê,…. Chừng ấy thôi và không biết gì hơn (cc. 2b-3). Chính sự giới hạn trong nhận thức về Người bằng đức tin đã đóng lòng họ lại trước con người và sứ mạng của Người (x. 7:15). Cũng với một thái độ ấy các thành phần trong hội đồng do thái đã hỏi Chúa Giêsu sau nầy: “Ông lấy quyền nào mà làm việc đó? hay ai đã ban cho ông quyền để làm việc đó?” (11:28; 3:22-23). Như thế, “họ vấp ngã về Người” nghĩa là họ không nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi giáo huấn và công việc Người; nên họ cũng không tin Người là Đấng được Thiên Chúa gởi đến.
Trước phản ứng thiếu lòng tin của dân chúng ở quê quán Người, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu không thể làm phép lạ nào cả (c. 5). Điều nầy xem ra trái nghịch với những điều quyền năng của Người vừa được tường thuật trong đoạn trước (4:1-5:43). Người có thể làm được tất cả nếu Người muốn (x. 1:40; 8:4; 9:22; 15:31). Tuy nhiên, có một điều Người không thể làm là áp đặt lòng tin của những người không muốn tin vào Người. Phép lạ chỉ được thực hiện để dẫn đến lòng tin; nên nếu không có đức tin, Người không thể làm phép lạ (x. 4:40; 5:34; 5:36). Thái độ của dân chúng ở nguyên quán của Chúa Giêsu tương tự thái độ của những người ở vùng Gêrasa (5:17).
Sau một loạt tường thuật những giáo huấn và những việc quyền năng Chúa Giêsu đã làm, sự không thành công ngay tại quê quán tạo nên một tương phản và gây ấn tượng mạnh, ngay cả cho Người, là rất khó chinh phục con người cho Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý:
- Đặt mình vào địa vị những người đồng hương với Đức Giêsu thời ấy, bạn sẽ nghĩ thế nào về Ngài? Bạn có nghĩ và hành xử như họ không? Tâm lý nào khiến họ nghĩ và hành xử như vậy?
- Tại sao Đức Giêsu lại không làm được nhiều phép lạ tại quê hương Ngài? Việc Ngài có làm được phép lạ hay không tùy thuộc vào Ngài hay vào họ? Điều đó khiến ta kết luận thế nào về phần rỗi và việc nên thánh của ta? Thiên Chúa có thể cứu rỗi hay làm ta nên thánh bất chấp sự cộng tác của ta không?
SUY TƯ GỢI Ý:
- Tâm lý người đời: trọng vọng lời nói của kẻ giàu có, quyền thế, có học vấn
Người ta thường dựa vào những tiêu chuẩn khôn ngoan kiểu loài người để phân định sự việc, điều đó có thể đúng khi áp dụng vào những việc của thế gian (làm ăn, ngoại giao, bon chen, tranh quyền đoạt lợi…). Nhưng nếu áp dụng sự khôn ngoan ấy vào những công việc của Thiên Chúa, vào đời sống tâm linh, vào việc sống đạo… thì thật là sai lầm. Người đồng hương với Đức Giêsu – cùng sinh trưởng tại làng Nagiarét – mắc phải sai lầm ấy. Họ khó có thể chấp nhận được một người nghèo, ít học, thuộc loại lao động tay chân như Đức Giêsu, lại có thể hiểu sâu xa về Thiên Chúa, lại có thể đưa ra những quan niệm mới về Thiên Chúa, về cách sống đạo, về đời sống tâm linh. Nếu có ai nói về Thiên Chúa khiến họ tin được, thì phải là người xuất thân từ trường lớp thần học và có bằng cấp như những kinh sư Do-thái (tức các tư tế, luật sĩ, Pharisêu).
Nhưng nếu dùng ánh sáng hiểu biết của các Kitô hữu ngày nay để nhìn về ngày xưa, ta thấy:
– Đức Giêsu tuy ít học (Ga 7,15), và biết bao người khác tuy ít học nhưng lại hiểu biết về Thiên Chúa sâu sắc hơn những người có học. Trong lịch sử các tôn giáo cũng có những trường hợp tương tự: chẳng hạn trong Phật giáo có trường hợp của Huệ Năng. Trong số học trò của Ngũ tổ, Huệ Năng là người ít học lại thuộc sắc dân mọi rợ (dân tộc ít người, kém văn minh), nhưng ông lại giác ngộ được chân lý sâu thẳm của đạo pháp. Còn Thần Tú, cũng là học trò của Ngũ tổ, vốn là một vị quan thâm nho của triều đình, học rất rộng biết rất nhiều, nhưng lại chẳng giác ngộ được chân lý.
– Các kinh sư hay thần học gia Do-thái xưa, tuy học rộng biết nhiều, nhưng họ chỉ là những người không biết gì khác hơn ngoài sách vở, ngoài những gì đã học ở trường lớp. Những suy tư của họ chỉ là những điều đã được người khác suy tư sẵn. Họ chẳng khác gì những kẻ “nhai lại bã mía», thấy người khác ăn mía khen ngọt, thì mình cũng lấy bã ấy nhai lại và cũng bắt chước khen ngọt. Trong đời sống tâm linh, họ chẳng phân biệt được cái nào là chính yếu và cái nào là phụ thuộc, cái nào là cốt tủy và cái nào là bì phu, cái nào là mục đích và cái nào là phương tiện, nên chẳng biết cái nào quan trọng hơn cái nào. Vì thế, cái không quan trọng thì họ lại đặt rất nặng, còn cái hết sức quan trọng thì họ lại coi rất nhẹ (x. Mt 15,20; 23,16.18). Họ chẳng thông minh, chẳng có tinh thần thích ứng và sáng tạo nào khi áp dụng luật của Thiên Chúa vào đời sống thực tế. Họ chỉ biết áp dụng lề luật một cách nô lệ, hình thức, thiếu hẳn công lý, tình yêu và sự chân thật vốn là cốt tủy của lề luật (x. Mt 23,23; 12,2; 12,10; Lc 6,7; 13,14; Ga 5,10.18; 9,16). Chính vì thế, Đức Giêsu đã gọi họ là “quân dẫn đường mù quáng!» (Mt 23,24), là “người mù lại dắt người mù» (Mt 15,14).
Như vậy, để xét giá trị một lời nói, một hành động, ta phải chủ yếu xét chính lời nói hay hành động ấy xem nó có hợp lý và đúng đắn hay không, chứ không nên chỉ đơn phương căn cứ vào tư cách của người nói điều ấy hay làm hành động ấy.
- Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay
Những người đồng hương với Đức Giêsu xưa khi nghe Ngài nói thì “nhiều người rất đỗi ngạc nhiên», họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?». Khi nhận xét như vậy, đáng lẽ họ phải nhận ra Ngài là một ngôn sứ của thời đại mới đúng. Nhưng khi nghĩ đến danh phận nghèo hèn của Ngài thì họ lại coi thường Ngài: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?». Thế là chỉ vì Ngài ít học, nghèo nàn, mà họ coi Ngài chẳng ra gì, mặc dù họ ngạc nhiên về chính những lời nói khôn ngoan và những phép lạ của Ngài. Và “họ vấp ngã vì Người».
Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay. Rất nhiều khi ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người điên, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Vì thế, nếu ta có tâm lý kiểu đời thường đó mà ở vào trường hợp của những người đồng hương với Đức Giêsu xưa, chắc chắn ta cũng đối xử với Ngài chẳng khác gì họ. Và chắc chắn ngày nay ta cũng sẽ đối xử với các ngôn sứ thời đại mình y như vậy. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Nếu ta hành xử như vậy thì ta chỉ là một người coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Một người như thế không bao giờ thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, dẫu họ có đọc kinh, dâng lễ hay rước lễ siêng năng tới đâu đi nữa. Hãy xem Đức Giêsu coi thường như thế nào những kẻ giàu có, học vấn mà không nghĩ đúng, hành động đúng cho dù người đời có trọng vọng họ tới đâu (x. Mt 23). Là Kitô hữu, chúng ta nên bắt chước Đức Giêsu hay bắt chước thói hành xử của người đời?
- Để thánh hóa ta, Thiên Chúa cũng phải tùy thuộc vào ta
Bài Tin Mừng cho biết: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó» vì họ không tin. Thì ra Đức Giêsu có thực hiện được phép lạ hay không, điều đó không chỉ tùy thuộc vào quyền năng linh thiêng của Ngài, mà còn tùy thuộc vào lòng tin của chính đối tượng phép lạ nữa. Đức Giêsu rất muốn ưu tiên rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ ở chính quê hương của Ngài, vì thông thường ai cũng yêu nơi chôn nhau cắt rốn hay nơi sinh trưởng của mình hơn những nơi khác. Nhưng vì những người đồng hương của Ngài không tin, nên Ngài không làm được việc ấy. Tương tự như vậy, Thiên Chúa muốn cứu rỗi ta, thánh hóa ta, muốn ta nên thánh, được thật sự bình an hạnh phúc, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để thực hiện điều ấy. Nhưng Ngài có thực hiện được điều ấy hay không còn tùy thuộc vào cả bản thân ta nữa, cho dù Ngài rất quyền năng. Vì thế, thánh Âu Tinh nói: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài». Nói tới đây tôi nghĩ đến câu thơ của Nguyễn Du trong truyện Kiều: “Có Trời mà cũng có ta», nghĩa là ta cũng đóng vai trò quan trọng, thậm chí có tính quyết định, trong công việc cứu rỗi và nên thánh của chính ta.
Trong việc cứu rỗi và nên thánh của ta, Thiên Chúa đã làm tất cả và luôn luôn sẵn sàng làm tất cả những gì Ngài có thể làm được để giúp ta. Phần còn lại rất nhỏ là sự cộng tác và nỗ lực của ta. Phần này Ngài không thể làm thay thế cho ta được. Cũng tương tự như cha mẹ có thể lo lắng đủ mọi thứ để con cái mình được ăn uống đầy đủ. Nhưng có điều cha mẹ không thể làm thay cho con cái mình được, đó là nhai và nuốt thức ăn vào bụng. Hay như cha mẹ có thể lo cho con đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng không thể nào học thay, nhớ thay, làm bài thay cho con được. Trong việc cứu rỗi hay nên thánh của ta, phận sự của ta là tin tưởng vào Thiên Chúa, ý thức sự hiện diện và hoạt động của Ngài ở trong ta, lắng nghe tiếng nói của Ngài ở trong ta và làm theo những điều Ngài chỉ dạy. Đó là những việc cần thiết ta phải làm, không ai làm thay cho ta được. Nếu ta quyết tâm thực hiện những điều ấy, thì việc cứu rỗi hay nên thánh của ta trở nên rất dễ dàng. Nếu ta không làm, thì Thiên Chúa dẫu có muốn cứu ta, muốn thánh hóa ta cách mấy Ngài cũng đành bó tay. Vậy ta hãy ráng làm hết sức phần của mình.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, quả thật uy quyền, danh vọng, sự sang trọng của những kẻ quyền thế, giàu có, nhiều bằng cấp làm con bị choáng ngợp, khiến con dễ dàng nhận những điều họ nói là đúng mà không cần suy xét gì cả. Nhiều khi chỉ cần suy xét một chút xíu là con có thể nhận ra ngay sự sai trái trong lời nói của họ, mà con lại không chịu suy xét. Còn những kẻ nghèo nàn, nhỏ bé, yếu đuối, ít học mà phát biểu điều gì, thì con tiên thiên bỏ ngoài tai, chẳng cần biết đúng hay sai. Vì thế, nếu con là một người đồng hương với Đức Giêsu xưa, chắc chắn con cũng sẽ coi thường Ngài, chỉ vì thấy Ngài nghèo hèn, thất học. Xin Cha giúp con sửa sai cách hành xử này.
MINH HỌA LỜI CHÚA
- Ngôn sứ bị rẻ rúng
Chúa GIêsu nói: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc.6,4).
Thế vận hội phát xuất từ những môn chơi của Hy lạp diễn ra trên vùng thảo nguyên Olympia vào năm 716 trước công nguyên. Những thị trấn cổ thường tỏ lòng kính trọng những người chiến thắng bằng việc dựng lên những tượng đài danh dự. Có câu chuyện Hy lạp kể về một thị trấn có truyền thống kính trọng vị anh hùng ở địa phương mình. Đối thủ của vị anh hùng ganh tỵ đến nỗi một đêm đập phá và xô đổ bức tượng. Bức tượng đổ xuống và đè anh ta chết.
Câu chuyện nói lên thảm kịch của lòng ghen tỵ dẫn đến “gậy ông đập lưng ông”. Sự lây nhiễm của ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến các tiên tri thường không được kính trọng ở quê hương mình.
Ghen tỵ là nhân tố đã ảnh hưởng thế nào đến cuộc sống và công việc của tôi? Tôi có thể làm gì giảm đi ảnh hưởng của nó?
“Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính. Còn người ganh tỵ nhìn bằng kính hiển vi” (E.C.Mckenzie) (Trích “Viễn tượng 2000”).
- Có tin mới thấy
Tại một vùng ở Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Mỗi sáng sớm Chúa nhật Phục sinh hằng năm, họ thức dậy chạy ra giếng nước, rửa mặt bằng nước lạnh.
Nhiều người trẻ không biết tại sao phải rửa mặt ngoài giếng, vì nhà nào cũng có vòi nước. Các bô lão giải thích:
– Đó là cách cầu nguyện bằng hành động, xin Chúa ban cho đôi mắt đức tin mới, để được thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện diện giữa họ.
***
Với con mắt thành kiến, hẹp hỏi thiển cận, những kẻ đồng hương với Chúa Giêsu không nhận ra Người là ngôn sứ, là Đấng Cứu Thế.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ: Chính thành kiến và lòng ganh tỵ là nguyên nhân khiến “các ngôn sứ bị rẻ rúng” E.C. Mc Kenzie có nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính. Còn kẻ ganh tỵ nhìn bằng kính hiển vi”.
Người đồng hương của Chúa Giêsu không tin Người vì họ chỉ nhìn quá khứ của Người là một thợ mộc nghèo nàn. Vì không tin nên họ không thấy, không nhận ra Người là Đấng Cứu Chuộc họ. Do đó Người không thực hiện được phép lạ nào giúp họ. Họ đã bỏ mất một cơ hội ngàn vàng.
Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Người làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người trở nên bất lực trước những kẻ thiếu lòng tin, vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt.11,1-2) và James Woodbridge viết: “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Ngài, là sức mạnh giúp ta tận hiến cho Ngài”.
“Nếu phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với niềm tin, thì chính niềm tin là ân huệ của Ngài chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần cầu nguyện để có niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có lòng tin, con người phải quỳ gối cầu xin” (Theo “Như Thầy đã yêu”).
- Những kẻ bị khước từ
Một cuộc bách hại tôn giáo xảy ra tại Sudan thuộc Châu Phi năm 1960. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Paride Taban lánh nạn sang Uranda. Trong thời gian ở đây, anh tu học làm Linh mục. Sau khi được thụ phong Linh mục Taban trở lại quê nhà, vì tình hình bắt đạo đã lắng dịu. Ngài được bề trên giao coi giáo xứ Palotaka, nhưng giáo dân không tin ngài thực sự là Linh mục. Vì từ trước đến nay chưa có Linh mục người da đen. Hơn nữa vì Linh mục Taban thuộc bộ lạc Madi cũng nghèo khổ như họ. Nhất là từ khi ngài giới thiệu cho họ những đổi thay của Công đông Vatican II, khiến họ càng nghi ngờ ngài là Linh mục giả. Nhưng ngài vẫn không buồn cũng chẳng nản. Ngài vẫn kiên nhẫn phục vụ họ, giúp đỡ họ. lo lắng cho họ. Sau cùng. Giáo dân cả xứ đạo Palotaka chẳng những tin tưởng chấp nhận mà còn hết lòng quý mến Ngài.
***
Câu chuyện Linh mục Taban là một minh họa thật rõ cho việc Chúa Giêsu bị người đồng hương khinh thường trong Tin mừng hôm nay. Họ kháo láo với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria… chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Nói thế cũng có nghĩa là ông ta nghèo nàm dốt nát, không thể chấp nhận là ngôn sứ của Thiên Chúa.
Chính vì thế mà họ từ khước Người, không tin Người là Đấng Thiên Chúa sai đến cứu giúp họ. Bởi thế, Chúa Giêsu không làm được phép lạ nào cho họ.
Nhưng rồi Chúa Giêsu có bỏ họ không? Không. Người vẫn thương họ. Dù bị khước từ, Người không ngừng ban phát tình yêu của Người cho họ. Chẳng những cho họ mà thôi, mà cho toàn thể nhân loại. Và kết quả là ngày nay đã có nhiều người tin nhận Người là Đấng Cứu Thế của họ.
Phải chăng đó là bài học Chúa Giêsu muốn gởi cho những kẻ đang làm môn đệ của Người?… (Theo “Sunday Homilies”).
- Người thân từ khước
Đệ nhị thế chiến chấm dứt, một người lính trẻ biên thư về cho cha mẹ, báo tin ngày anh trở về.
– Thưa cha mẹ, con có người bạn đồng hành bị tàn phế. Chiến tranh đã cướp mất của anh một chân.
Người cha hồi âm:
– Con cứ mời bạn con về ở với chúng ta, vì xưởng của cha cũng sử dụng được người còn đủ hai tay.
Nhận được thư, anh lính trẻ biên thư cho cha cậu biết thêm:
– Thưa cha, anh bạn con chẳng những mất một chân mà cả hai tay nữa.
Người cha trả lời:
– Con ơi! Cha không thể nhận một người như thế.
Thế là người lính trẻ đó không trở về với cha mẹ được, vì chính anh là người tàn phế đó!…
***
“Chúa Giêsu đã đến nhà Người, nhưng người trong nhà không tiếp đón Người”.
Không phải người dưng kẻ lạ từ chối, nhưng chính là Người đồng hương đã khước từ Chúa Giêsu và cả chúng ta là con cái Người, môn đệ Người. Không còn đau xót nào bằng!…
Người lính trẻ trong câu chuyện trên nói lên nỗi đau xót đó của Đức Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật lại Người về Nadarét quê hương của Người. Người giảng dạy họ, đem Tin mừng cứu rỗi cho họ, định làm nhiều phép lạ giúp họ, nhưng họ không chấp nhận Người, khước từ Người, không nghe Lời Người.
Từ hơn 2000 năm qua, Chúa Giêsu còn tiếp tục bị khước từ, qua các sứ giả của Người, qua những con người nghèo khổ bệnh tật.
Chúng ta có khước từ Người không? Có lần nào chúng ta xua đuổi Người không?… (Theo “Tất cả là hồng ân”).
- Sẵn sàng tiếp nhận
Cậu David bỏ nhà đi bụi đời. Thời gian sau, cậu thấy khổ quá, nên viết thư về cha mẹ, xin tha cho cậu trở về:
– Thưa cha mẹ, vài ngày nữa con có dịp đi ngang nhà cha mẹ. Nếu cha mẹ bằng lòng nhận con trở lại, xin cha mẹ cột miếng vải trắng lên cây nhãn trước sân nhà.
Đúng như lời đã hẹn, hai ngày sau cậu lên xe trở về. Ngồi trên xe, đầu óc cậu cứ băn khoăn lo lắng, không biết cha mẹ cậu có cho trở về không? Cha mẹ có cột miếng cải trắng lên cây nhãn trước nhà chưa?… Càng gần đến nhà, trái tim cậu càng đập mạnh hồi hộp.
Lúc gần đến nhà, cậu không dám nhìn tới trước mặt, vì sợ không thấy miếng vải trắng cột trên cây nhãn thì khổ thân. Cậu nhờ người ngồi bên cạnh:
– Thưa ông, xin thương giúp cháu một việc: khi đến khúc quẹo trước đây, ông làm ơn nhìn phái tay phải, xem có miếng vải trắng nào cột trên cây nhãn không?
Lúc xe vừa quẹo, cậu liền hỏi:
– Thưa ông, ông có thấy miếng vải trắng nào không?
– Cậu ơi! Cành nhãn nào cũng có miếng vải trắng cả.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu về quê quán của Người, nhưng không được người đồng hương tin nhận, mà còn khinh chê từ khước. Ngược lại câu chuyện trên đây nói đến lòng Chúa đối với con người. Con người từ bỏ chối từ Chúa. Chúa vẫn thương họ, sẵn sàng tiếp nhận họ.
Dụ ngôn người cha nhân hậu với đứa con hoang đàng cũng như dụ ngôn đồng bạc bị mất và con chiên lạc là những dụ ngôn tuyệt hảo về lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa thương yêu chúng ta bằng một tình Cha vô cùng rộng lớn sâu đậm. Tình yêu ấy được thể hiện bằng muôn vàn cách thế khác nhau. Đặc biệt nhất là bằng sự tha thứ, tha thứ không điều kiện, tha thứ luôn mãi. Dù tội lỗi chúng ta có nặng nề đến đâu, nhiều đến bao nhiêu, Người cũng sẵn sàng tha thứ, miễn là chúng ta thành tâm sám hối, quay trở về với Người”
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả Máccô cho thấy Đức Giêsu hành động với uy quyền trước toàn dân (1,16–3,12). Nhưng sau đó, những trở ngại đã xuất hiện: thân nhân Người đi bắt Người về, vì cho rằng Người đã mất trí (3,21); các kinh sư thì nói rằng Người bị quỷ vương Bêendêbun ám và dùng quyền của nó mà trừ quỷ (3,22); bằng kiểu diễn tả bóng bảy, Người đã nói đến sự cứng lòng của dân Israel (4,11-12); trận bão trên biển không nhận chìm được con thuyền của Người, là một hình ảnh cho hiểu là sứ vụ của Người sẽ gặp nhiều khó khăn (4,35t), nhưng vẫn đứng vững; yêu cầu của dân Ghêrasa cũng ở trong chiều hướng ấy (5,17). Bài tường thuật chuyến về thăm Nadarét cũng nói đến thái độ không tin của người dân Nadarét, khiến họ không chấp nhận Đức Giêsu (6,1-6). Như thế, truyện này tóm tắt một vài đề tài đã được triển khai trong các phân đoạn trước: tư cách môn đệ và lòng tin, Đức Giêsu là thầy và là vị làm phép lạ, sự hiểu lầm và sự loại trừ Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành bốn phần:
1) Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (cc.1-2a);
2) Các thính giả vấp phạm về Người (cc. 2b-3);
3) Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (cc. 4-6a);
4) Đức Giêsu tiếp tục ra đi (c. 6b).
3.- Vài điểm chú giải
– quê quán của Người (1): Đây là Nadarét thuộc miền Galilê (1,9), cách hồ Ghênêsarét khoảng 30 cs về phía tây. Vào thời đó, Nadarét chỉ là một làng nhỏ, không quan trọng gì (x. Ga 1,46). Trong Cựu Ước, làng này không bao giờ được nói đến. Vì làng ở độ cao 300-400m trên mặt biển, người ta có thể nhận ra làng từ xa.
– có các môn đệ đi theo (1): Khi nói đến các môn đệ, tác giả Máccô luôn luôn đưa vào đề tài “đi theo” (sequela) (x. 2,15; 10,32; 15,41).
– bắt đầu giảng dạy (2): Ta nhớ lại đoạn 1,21-28 giới thiệu Đức Giêsu là thầy và là người chữa bệnh. Phản ứng đầu tiên trước sự khôn ngoan và những việc lẫy lừng của Người là sự ngạc nhiên. Từ đó, câu hỏi đặt ra “Bởi đâu ông ta được như thế?” mang tính mỉa mai: trong khi những người đồng hương gắng tìm cho ra danh tánh của con người Giêsu, thì quyền lực của Người lại bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
– nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên (2): Phản ứng này thường xảy ra trước lời giảng dạy (1,22; 11,18), một phép lạ (7,37) hoặc một câu nói lạ lùng của Đức Giêsu (10,26). Tác giả nhắc đến phản ứng này với nhận định về sự khôn ngoan của Đức Giêsu để cho thấy Người vừa ban một mạc khải, nhưng dân chúng không tin.
– bác thợ (3): Từ Hy Lạp tektôn (La-tinh faber) có lẽ phản ánh từ A-ram naggârâ có thể là một người thợ đóng đồ mộc hoặc là một người thợ xây dựng. Những người thợ ấy thường đi đây đó. Phải chăng Đức Giêsu cũng đã đi đây đó, ít sống tại Nadarét? Bản văn dùng mạo tự xác định ho cho hiểu rằng dân Nadarét đã quen gọi Đức Giêsu như thế.
– con bà Maria (3): Phải chăng câu này cho phép giả thiết là Giuse đã qua đời? Trong ngữ cảnh ở đây, không có gì bảo đảm là kiểu gọi này có ý nói là Giuse đã chết cả. Chúng ta ghi nhận là trong TM Máccô, Giuse không bao giờ được nêu tên. Dù sao, “con bà Maria” đã trở thành tên gọi của Đức Giêsu. Hoặc tên này được dùng để sỉ nhục, bởi vì người Do Thái được gọi bằng tên của người cha, hoặc để mỉa mai vì muốn ám chỉ đến một cuộc chào đời bất hợp pháp (con hoang). Nếu trường hợp sau là đúng, thì lời sỉ nhục này lại là một khẳng định về cuộc sinh hạ trinh khiết. Để ủng hộ cho cách giải thích này, người ta nêu ra câu hỏi của dân Nadarét về nguồn gốc của Đức Giêsu và sự kiện Mc tránh nhắc đến người cha.
– ngôn sứ có bị rẻ rúng (4): Có lẽ đây là một câu tục ngữ phát xuất từ Do Thái giáo nhằm diễn tả kinh nghiệm của các nhà du thuyết Do Thái. Ta có những câu Hy Lạp tương tự: “Các triết gia khó sống tại quê hương” (Điônê Crisostômô; x. Epittêtô…). Nhưng ở đây Mc mở rộng câu ngạn ngữ mà áp dụng cho cả gia đình dòng họ; như thế là nối dài chiều hướng của sự cố được kể ở 3,20t.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (1-2a)
Đức Giêsu đã rời nhà và vùng ông Gia-ia ở để về quê, tức là Nadarét. Nhân dịp cử hành phụng tự tại hội đường vào ngày sa-bát, Người đã giảng một bài. Đó là việc Người vẫn thường làm (x. 1,21.39).
* Các thính giả vấp phạm về Người (2b-3)
Phản ứng của các thính giả chứng tỏ Đức Giêsu vừa ban một mạc khải. Họ đã nêu ra năm câu hỏi: ba câu liên hệ đến hoạt động của Đức Giêsu (bản thân; giáo lý; các phép lạ) và hai câu liên hệ đến gia đình dòng họ của Người. Chỉ đức tin mới nhận biết nguồn gốc đích thực của Đức Giêsu. Người là Con Thiên Chúa. Đối với những người đồng hương, sự hiểu biết về môi trường sinh sống của Đức Giêsu là biến thành một trở ngại không thể vượt qua. Họ từ khước Đức Giêsu và không chấp nhận giáo huấn của Người. Sự vấp phạm đó chính là sự cứng lòng tin của họ.
* Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (4-6a)
Đức Giêsu xác định lập trường bằng một câu ngạn ngữ. Câu này vừa giúp Người biện minh cho mình vừa giảm nhẹ tầm mức của các sự kiện. Các môn đệ (theo Mc, các ông lúc nào cũng đi theo Người) phải học lấy bài học kinh nghiệm này: không bao giờ được để cho nỗi thất vọng vì bị từ khước đánh ngã mình. Con Thiên Chúa bị mọi người kể cả gia đình, hiểu lầm, và bị bỏ cô đơn trong thế gian này. Sự kiện Người không thể làm được phép lạ nào ở quê hương cho thấy tương quan giữa phép lạ và đức tin. Điều này không có nghĩa là quyền lực của Đức Giêsu bị hạn chế nhưng có nghĩa là khi ơn cứu độ được ban tặng trong phép lạ bị từ chối, thì không thể xảy ra phép lạ được. Nếu Đức Giêsu làm khác là Người không trung thành với sứ mạng của Người. Lời ghi thêm “Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” nhằm làm giảm nhẹ nét tiêu cực nơi những gì được nói trước. Nhưng c. 6a kết luận vẫn ghi nhận sự cứng lòng tin và sự ngạc nhiên của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu tiếp tục ra đi (6b)
Tuy nhiên, thất bại này vẫn không làm Đức Giêsu chán nản chùn bước. Người tiếp tục ra đi như Người đã nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (1,38).
+ Kết luận
Đức Giêsu trở lại quê hương Nadarét. Người vào hội đường để giảng dạy, tức là thi hành sứ mạng ngôn sứ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dù đã biết các phép lạ Đức Giêsu làm và nay vừa nghe Người giảng, dân làng Nadarét lại chỉ coi Người như là “bác thợ, con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn” (c. 3a) mà thôi. TM Mc cho thấy liên hệ huyết thống cũng như tình đồng hương không giúp người ta nhận biết Đức Giêsu trong chân tính của Người. Muốn khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu, người ta phải để cho chính Người dẫn dắt và giáo huấn ngày qua ngày.
5.- Gợi ý suy niệm
- Vấn đề trọng tâm của bản văn là đức tin. Đức tin giúp con người có sự khiêm tốn và sẵn sàng lắng nghe giáo huấn của Thiên Chúa và của các vị sứ giả của Người. Cũng chính đức tin giúp người ta nhận biết các việc kỳ diệu Thiên Chúa đã và vẫn đang làm trong thế giới, để ban ơn cứu độ cho mọi người. Tại nơi nào con người khép kín lại với Thiên Chúa, khi Người đang ngỏ với họ trong phép lạ, thì phép lạ trở thành chuyện phi lý. Cũng như quyền lực của Người là ơn cứu độ cho chúng ta, thì sự cứng lòng tin của chúng ta là sự bất lực của Người. Điều đó đã được chứng thực tại cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với dân làng Nadarét: họ đã ngạc nhiên về những gì Đức Giêsu nói, và thế là để vuột mất ý nghĩa của các lời Người loan báo.
- Sự từ khước ở Nadarét vẫn tồn tại. Con người hôm nay, những người Nadarét mới, vẫn đang thấy Đức Giêsu là một cớ gây ngạc nhiên và vấp ngã. Do sự từ khước của con người hôm nay, hoạt động cứu thế của Thiên Chúa như bị tắc nghẽn. Bị giam hãm trong các định kiến, họ không hiểu được cốt lõi tinh túy của sứ điệp, cũng không tạo cơ hội cho các việc kỳ diệu có thể xảy ra hay cho ơn Chúa có thể đến được với chính họ và người khác. Từ đây, chúng ta có thể đi đến một nhận định: cộng đoàn Kitô hữu có hai trách nhiệm, bởi vì phải vừa biết nhận ra các ngôn sứ được Thiên Chúa cho xuất hiện giữa các thành viên của mình, vừa phải hỗ và làm gia tăng ơn Chúa mà sự hiện diện của họ mang lại. Ý thức này đòi hỏi cộng đoàn phải trở thành một tập thể sẵn sàng, trong tư thế cầu nguyện, có cái nhìn khôn ngoan, để nhận ra các dấu chỉ của Thiên Chúa. Tất cả các điều này không đơn giản: trong đời sống mỗi ngày, chúng ta ghi nhận rằng cộng đoàn chúng ta đang bước đi giữa hai đe dọa: một bên, cộng đoàn có thể rơi vào một thứ hứng khởi dễ dãi mà chạy theo bất cứ một chủ trương đổi mới nào, để rồi cuối cùng bị lạc hướng và bị phân tán; một bên, cộng đoàn dễ bị thu hút bởi xu hướng bất động và sự cứng ngắc do bám vào một vài điều xác tín nào đó.
- Người môn đệ của Đức Giêsu không được nản chí khi gặp thất bại hay chống đối. Nhiệm vụ của họ là cứ ra đi để rao giảng Lời Chúa, để làm chứng, không nên bận tâm (và nặng lòng) với kết quả. Họ cần phải nhìn vào Thầy Giêsu mà dấn thân. Như Đức Giêsu, họ cứ quảng đại làm việc, “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2). Niềm vui họ sẽ nhận được khơng phải do kết quả kiểm chứng được, nhưng là do biết rằng họ đã kiên trì thực hiện những điều Thiên Chúa muốn.
- Thành kiến là một tật xấu nằm sâu trong tâm khảm con người. Chính tật xấu này làm cho khả năng đón nhận và loan truyền Lời Chúa bị giới hạn lại. Các Kitô hữu cần học lấy bài học của thánh Phaolô: “vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,6). Đấy là khả năng nhận ra sự thiện hảo tại bất cứ nơi nào nó xuất hiện, và sẵn sàng nêu lên.
CHÚA GIÊSU Ở NAGIARÉT (6,1-6).
Chúa Giêsu trở lại làng xưa (c.1). Hình như kể từ khi bắt đầu sứ mệnh công khai, tức là sau khi được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho (1,9), Ngài chưa trở về nơi này. Caphanaum trở nên điểm Ngài lui tới thường xuyên trong khi Ngài đi giảng đạo đó đây (2,1). Tuy nhiên Nagiarét nơi Ngài đang trở về, lại là mảnh đất Ngài đã trải qua tuổi thơ ấu và thời thanh xuân. Gia đình và bạn bè thân cận của Ngài hiện đang sinh sống nơi đó. Các sự cố xảy ra trước đây đã tạo nên giữa Ngài và họ một sự xa cách nào đó. Và điều gì lại sắp xảy ra ở đây? Chúa Giêsu vẫn không thay đổi gì về những thói quen của Ngài (c.2a). Ngày Sabbat, Ngài vẫn đến hội đường rao giảng. Đám người đồng hương hồ hởi tiếp đón Ngài. Tuy nhiên họ lại thắc mắc về đứa con đồng hương của mình: Do đâu mà anh chàng này giảng dạy khôn khéo, và làm được nhiều phép lạ như vậy? (c.2b). Lẽ ra họ phải khởi sự tin vào Ngài, thì từ ngạc nhiên thán phục họ lại bỗng trở nên thù nghịch công khai với Ngài (c.3). Vị tiên tri ngày hôm nay đã trở thành vấn đề đối với họ!
Quá khứ và nguồn gốc của Ngài vẫn còn nằm rõ trong ký ức họ. Họ biết Ngài quá rõ đến nỗi không thể nào quên được hình ảnh quen thuộc họ đã có về Ngài. Ở đây Maccô rất thích thú khi cung cấp cho độc giả một nét tướng mạo của Chúa Giêsu theo lối nhìn của thân nhân Ngài. Ngài chỉ là một anh thợ mộc trong làng. Sẵn đây chúng ta cần ghi nhận vào thời Chúa Giêsu, nghề mộc không chỉ liên quan đến vật liệu bằng gỗ, mà chỉ chung mọi thứ vật liệu, và thợ mộc cũng có thể xây nhà được. Ngoài nghề nghiệp xưa kia của Ngài, người ta còn biết rõ cả thân quyến Ngài. Ngài là “con trai bà Maria”. Đây là nơi duy nhất trong Tin Mừng này Mẹ Chúa Giêsu được gọi bằng tên Maria. Tên cha của Chúa Giêsu không thấy nhắc đến. Có thể cắt nghĩa sự yên lặng này là khi Maccô soạn cuốn Tin Mừng, Giáo Hội sơ khai đã tin vào việc Chúa Giêsu được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh (Mt 1,18-20 và Lc 1,30-35). Còn về anh chị em họ, kể cả họ hàng xa nữa (x. 3,32). Thực sự Giacôbê và Giuse là con của một bà Maria khác chứ không phải Maria Mẹ Chúa Giêsu (15,40).
Dưới mắt dân làng Nagiarét, danh tiếng người đồng hương của họ không dựa trên nền tảng vững chắc “gia phong gia thế” đã khiến cho họ cảm thấy khó chịu (c.4), chướng tai gai mắt. Maccô nêu rõ sự thù nghịch bất ngờ của đám thân nhân Chúa Giêsu đối với Ngài. Trước đây Maccô cũng đã từng nêu ra phản ứng khó chịu của thân quyến Chúa Giêsu (3,20-21). Đây hẳn là vấn đề chủ chốt phủ lên toàn thể cuốn Tin Mừng: Vậy Ông Giêsu Nagiarét này là ai? Và ở đây người ta thấy rõ những đồng hương của Chúa Giêsu đã muốn giản lược chân dung Ngài vào vị trí một người dân làng cũ của họ như trước khi Ngài ra đi thi hành sứ vụ.
Trước sự va chạm này, Chúa Giêsu đã phản ứng lại. Ngài trưng dẫn một câu phương ngôn (c.4). Câu cách ngôn phổ biến hiện nay bắt nguồn từ phương ngôn ấy. “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”. Đây là một chân lý trường cửu: Hễ ai tiến bộ trước thời đại, trước lân bang mình thì sẽ bị khinh miệt. Và sự tiếp đón tẻ lạnh của dân làng đối với Chúa Giêsu đã gây ra một hậu quả thoạt nhìn ai cũng sẽ ngạc nhiên, là Chúa Giêsu không thể thi thố quyền phép trị bệnh của Ngài ở ngay làng cũ của mình (c.5a). Phải chăng quyền năng Ngài tùy thuộc vào thái độ của loài người? Dầu sao chính Maccô đã cố gắng dung hòa sự tùy thuộc này. Ông ghi nhận Chúa Giêsu cũng có chữa lành vài bệnh nhân ở Nagiarét (c.5b). Tuy nhiên ông nêu rõ cảm nghĩ của Chúa Giêsu trước sự cứng lòng của đám người đồng hương: “Người lấy làm lạ vì họ không chịu tin” (c.6a).
Trong Tin Mừng Maccô, không còn chỗ nào nêu rõ mối tương giao Chúa Giêsu đặt ra giữa đức tin và các phép lạ Chúa làm cho bằng trình thuật này. Người ta bỗng nhớ lại những lời Chúa Giêsu quở trách các môn đệ thiếu đức tin trong trình thuật truyền cho bão tố yên lặng (4,40). Chính vì đám dân ngoại ở Giêrasa không tin nên Đấng Cứu Thế cũng chẳng lưu lại với họ được lâu (5,17). Chính sự hồ nghi của đám người đang than khóc ở nhà ông Giairô đã khiến Chúa Giêsu đuổi họ ra ngoài (5,39-40).
Mặc cho sự cố xảy ra ở Nagiarét, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục sứ mệnh của Ngài ở các làng lân cận (c.6b), Giai đoạn thứ hai của Tin Mừng đã hoàn tất (3,7-6,6). Giai đoạn này đã nêu bật chủ đề nền tảng của Tin Mừng: Dù là nam nữ, quần chúng, môn đệ hay bà con Chúa Giêsu, mọi người đều tự đặt cho mình câu hỏi “gai góc” về thân thế sâu xa của Ngài. Ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của tất cả mọi kẻ Chúa Giêsu gặp gỡ, đối với câu hỏi then chốt nêu trên. Cuối cùng thì khi nào và do ai Chúa Giêsu sẽ được nhìn nhận một cách đích thực? Chúng ta cần phải tiếp tục theo dõi bản văn…
Đức Giêsu ra khỏi đó và trở về quê nhà, có các môn đệ đi theo. Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Nagiarét, làng quê, xứ sở của Người.
Sinh tại Bêlem, vì một cuộc kiểm tra dân số Chúa Giêsu đã trải qua thời thơ ấu và niên thiếu tại Nagiarét, nơi xa xôi cách trở giao thông. Ở đó có lẽ chỉ có khoảng 150 gia đình. Người ta sống rất đơn giản, trồng ô liu và nho, cùng với một ít lúa đại mạch và lúa mì. Mỗi gia đình có một vài con dê. Hằng ngày, mỗi người tự làm bánh mì cho mình tại nhà. Ngày thứ bảy, tất cả đều đến hội đường để cầu nguyện. Nơi Đức Giêsu, tất cả đều phản ảnh gốc gác của Người, là một nông dân, một người sống bằng đất đai một người “của quê hương”.
Tin Mừng hoàn toàn mô tả cuộc sống đồng quê, một tường thuật do những người “nông dân” ghi lại, nói về một “nông dân” sống gia những người “nông dân” và đã diễn tả ý nghĩ của mình bằng nhượng ẩn dụ của “nông dân”. Như vậy đâu là đặc tính của một người thợ mộc trong kiểu sống này? Làm bàn ghế, giường, cửa? Tại sao vậy? Mỗi người tự làm những thứ ấy. Người ta ngồi ăn dưới đất, ngủ trên chiếu trải dưới đất. Anh thợ mộc Giêsu, một nông dân trong số những nông dân khác; có thể có một vài sự khéo léo đặc biệt học nơi ông Giuse, một người “sửa chữa” tầm thường, có thể làm hay chữa những cái ách hay những chiếc cày bằng gỗ. Giêsu, một con người không có gì khác biệt với người khác. Tôi hãy suy niệm về điều này.
Đến ngày Sabát, Người vào giảng dạy trong hội trường.
Về điểm này cũng thế, Đức Giêsu cũng như mọi người. Chúng ta đừng lầm lẫn. Đức Giêsu không phải là người cử hành nghi lễ. Người không đóng vai trò tư tế. Người chỉ là một trong những tín hữu đi dự lễ. Trong dân Israel bất cứ một người nam trưởng thành nào, kể từ tuổi thành nhân (12 tuổi) đã là “tư tế”, thuộc về “dòng giống tư tế”, đều có quyền đọc Thánh Kinh và chú giải Thánh Kinh. Đấy là việc Đức Giêsu đã làm ngày hôm đó, khi Người rời chỗ ngồi để lên “đọc” và “diễn giảng”. Thánh Maccô không cho chúng ta biết đề tài của bài giảng hôm đó là đề tài nào.
Đa số thính giả rất ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”
Danh tiếng của Đức Giêsu đã về đến làng của Người. Nhưng thay vì hãnh diện, những người đồng hương của Người lại bất bình. Tất cả những điều đó không phù hợp với những gì họ biết về Người. Họ biết rõ Người hơn ai hết. Họ đã thấy Người lớn lên, họ đã cùng đi đến trường học với Người. Người không có quyền trở thành “một người khác” hơn là những gì họ biết về Người.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng tự giới hạn mình trong một hiểu biết nào đó, từ chối tiến xa hơn, không chịu khám phá những điều mới mẻ. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự bảo thủ, khỏi những tư tướng cũ mòn, khỏi sự đóng khung về trí tuệ và tâm linh. Xin đẩy chúng con ra khỏi những tập quán thích tiện nghi, khỏi thế giới quá bình lặng của chúng con.
Ông ta không phải là bác thợ con bà Maria, và anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Gioan, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?
Tin Mừng của Thánh Maccô rất cụ thể, đến nỗi chúng ta cảm thấy rất gần với Đức Giêsu trong đời thường. Chúng ta hiểu rất rõ những suy nghĩ tầm thường của những nông dân trong một xóm nhỏ hẻo lánh miền quê. Đó là cuộc sống thôn dã: Chân trời dường như dừng lại ở những cánh đồi vây quanh làng. Và người ta kể ra nhiều tên, một danh sách anh chị em bà con. Theo cách thức của phương Đông, người ta gọi họ là “anh em”, không kể họ bên ngoại, vì truyền thống không dành chỗ đứng cho người phụ nữ. Người này là ai mà dám phá đổ những tục lệ của chúng ta, hủy bỏ tổ chức của thế giới nhỏ bé này, nơi đó người ta xác định con người theo một hộ tịch cứng nhắc, những tương quan xã hội được ấn định một lần thay cho tất cả. Cuối cùng, mỗi người phải ở tại vị trí của mình, đóng trong vai trò của mình, không được thay đổi đột ngột.
Và đó là chướng ngại làm cho họ không tin vào Người.
Ba Tin Mừng nhất lãm Matthêu, Luca và Maccô đã kể lại cho chúng ta “sự thất bại” của Đức Giêsu. Người đã sống những biến cố đau thương. Đức Giêsu bị chối từ. Ngày nay, nhiều người vẫn có cùng một thái độ như người dân Nagiarét lúc bấy giờ. Nhiều người nói “Tin Chúa”, đồng ý; Nhưng tin Giáo Hội, thì không. Vâng, Giáo Hội, cũng như Chúa, có một khía cạnh con người, rất nhân bản. Các giám mục, linh mục, Kitô hữu, là những người mà người ta biết quá! Ngày nay cũng như ngày xưa, nhiều người “bất bình” với Giáo Hội, cũng như người ta đã bất bình với Đức Giêsu. (Đó là đúng nghĩa chữ Hy Lạp ‘éscandali Zonto’). Giáo Hội gây bất bình! Tin Mừng ghi lại, Đức Giêsu cũng đã gây bất bình sâu xa.
Trang Tin Mừng này là một thử thách nghiêm trọng đối với lý tưởng của chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận sự không hoàn hảo của Giáo Hội. Đó là thực tế của việc nhập thể: Thiên Chúa ở trong làng, Thiên Chúa ở góc đường, Thiên Chúa tập đọc ở nhà trường, Thiên Chúa là anh em của một người nào đó.
Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.
Đức Giêsu bị “khinh miệt” nhất trong nhóm thân nhân của Người. Người ta đã hiểu lầm về Người. Thái độ quá thân quen có thể che khuất đi tính chất thâm sâu của những liên hệ. Giản lược Đức Giêsu trong nhiều kích nhân loại đó là khinh miệt Người. Sự gần gũi đích thực với Đức Giêsu không phải là một sự gần gũi thể lý, vật chất. Và chúng ta cũng có thể quan niệm sai lầm về ‘dấu chỉ’ như khi nghĩ rằng: chỉ cần làm những cử chỉ bên ngoài là đương nhiên thuộc về “gia đình” của Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết, điều làm nên “gia đình” thực sự của Người, không phải là những liên hệ huyết thống, mà chính là đức tin – “Kẻ nào làm theo ý Thiên Chúa, đó là anh em Thầy, chị em Thầy và là Mẹ Thầy” (Mc 3,35). Đức Giêsu đã tự tạo cho mình một gia đình mới: Đó là những người nghe Chúa và đem ra thực hành.
Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ.
Đây là một sự mạc khải lạ kỳ, làm đảo lộn những khuôn khổ sẵn có của chúng ta. Một sự chữa lành, dù là bằng cách đặt tay, không thể là một phép lạ được. Đức Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh, nhưng đó không thuộc loại những phép lạ. Như thế, muốn nói lên điều gì? Phải có đức tin mới có phép lạ thực sự. Một sự chữa lành không đưa đến việc đón nhận Đức Giêsu trong đức tin, không phải là một phép lạ thật, vì thiếu ý nghĩa cốt yếu của nó.
Điều này có thể chứng minh cho chúng ta rằng: Phép lạ không đủ để ban đức tin. Những người ở Nagiarét nói: Bởi đâu tay ông làm được những phép lạ phi thường trong những làng lân cận?” – Hoạt động của Đức Giêsu không rõ ràng, cả những phép lạ vĩ đại nhất cũng không đủ để làm cho chúng ta hiểu mầu nhiệm của bản thân Người. Và chúng ta tiếp tục xin Chúa can thiệp để chứng minh “Người là ai”. Tuy nhiên, chúng ta đã được khuyến cáo: “Người ta có thể nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Mc 4,12) và “mặc dù Đức Giêsu đã làm những dấu lạ rất lớn trước mắt họ, họ đã không tin Người” (Ga 12,37) Điều đó cho chúng ta hiểu, tại sao một số Kitô hữu nghi ngờ những phép lạ, và Giáo Hội phải thận trọng thế nào, khác với những hạng người “buôn thần b án thánh”.
Người lấy làm lạ vì họ không chịu tin.
Sự khước từ đức tin dường như là một đặc điểm trong suốt giai đoạn hai của tác vụ Đức Giêsu. Giờ đây Đức Giêsu đối diện với hiện tượng không tin. Đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng rằng đó là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới ngày nay, như thể chỉ có những thời đại trước mới là thời đại của đức tin. Vẫn thường xảy ra là người ta lên án Giáo Hội: “Người ta không còn dạy tôn giáo nữa, người ta không dạy giáo lý nữa”. Vì thế khi Đức Giêsu đích thân giảng dạy trong làng của Người, là nơi thanh sạch và dành riêng cho Người cư ngụ, thế mà Người cũng không khơi dậy được đức tin. Ngày nay, biết bao bậc cha mẹ đứng trước một hiện tướng như thế, trước con cái của họ. Chính Đức Giêsu, dù là Đấng chí thánh cũng đã gặp những người không tin trong thân nhân của Người. Sự bất lực của Đức Giêsu trước thái độ không tin của những người đồng hương, biểu lộ sự hoàn toàn tôn trọng tự do của con người: Đây là hình ảnh biểu lộ thái độ tôn trọng của Thiên Chúa đối với tự do mà Người đã tạo ra. Sự bất lực bí nhiệm “thần thiêng” này, phải làm chúng ta suy nghĩ sâu xa: Đức tin của chúng ta có thể không vững phắc như chúng ta tưởng, Đức tin là một thực tại mỏng giòn và thường bị đe dọa.
Rồi Đức Giêsu đi khắp các làng mà giảng dạy.
Ở đây tôi nhận được bài học quý giá cho những thất bại của tôi. Đứng trước thất bại chua cay mà Đức Giêsu đã gặp tại Nagiarét, thay vì chịu thua, Người lại lên đường tiếp tục. Người lấy làm ngạc nhiên vì sự cứng lòng của họ. Thánh Maccô ghi lại vắn tắt như thế? Thật khó mà đón nhận thất bại, và chân thành rút ra từ đó những hệ quả tích cực, nếu không chịu ngã thua.
Ba bài đọc Chúa nhật hôm nay đến với chúng ta về một thứ “linh đạo của thất bại” Chúa ra lệnh cho ngôn sứ Êgiêkiel (2,15) phải đứng vững đương đầu với một dân tộc đang khước từ sứ điệp của Người. Còn Thánh Phaolô (2Cr 22,7-10) ngài thú nhận đã bị một “mũi dằm đâm vào thịt”, một thất bại mà Ngài đã không chiến thắng được. Trước một nỗ lực hoán cải mà không tiến bộ, hay trước một tình huống đau thương nào đó chúng ta có vượt thắng được sự chán nản không?
ĐỨC GIÊSU TẠI NAGIARÉT
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Phẩm chức thiên sai của Chúa Giêsu không phải là điều dễ chấp nhận đối với những ai đã biết thời thơ ấu của Người, và nhất là đã cùng chia sẻ niềm tin Do thái về nguồn gốc bí ẩn của Đấng thiên sai: “Chẳng ai biết Người ở đâu mà đến” (x. Ga 7,27). Các kẻ đồng hương với Chúa Giêsu đã có thái độ khinh miệt Người. Những gì thiên hạ nói về Người và những gì họ chứng kiến chẳng có giá trị gì đối với họ cả: họ biết cha mẹ Người mà, tầm thường lắm. Họ từ chối không tin Người. Thái độ của họ cũng là thái độ của chúng ta, của bao nhiêu người chỉ phớt qua Tin mừng mà không suy gẫm và đem ra thực hiện, chỉ tìm hiểu Tin mừng với bao định kiến, bao ý đồ tối đen, bao đam mê bất chính.
2) Những người Nagiarét đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong các thành kiến hẹp hòi, vụ lợi và trần tục của họ, vì thế họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ của Ngài. Thí dụ nhân danh tinh thần tôn giáo sẵn có, họ không thể nào chấp nhận Chúa Giêsu là hiện thân Nước Trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thành kiến về Thiên Chúa và đường lối Ngài, họ không thể chấp nhận rằng Thiên Chúa có thể hiện thân nơi con người đơn giản, khiêm tốn là Giêsu. Thiên Chúa bất ngờ và không thể ngờ của tổ tiên họ, Thiên Chúa của những hành tinh dài đằng đẵng và tôi luyện trong đêm tối cùng thử thách, Thiên Chúa mà càng biết Ngài thì càng phải đi tìm Ngài và không bao giờ nắm được Ngài, họ đã thay thế bằng một hình ảnh khác. Nên đến khi hình ảnh hoàn toàn của Chúa Cha ở trước mắt họ, thì họ không thể nhận ra. Ta cũng vậy. Ta thường có nhiều thành kiến tiên thiên về những đường lối mà ta tưởng Thiên Chúa phải dùng để đến với ta và đưa ta đến với Ngài. Chúng ta quên rằng đường lối của Thiên Chúa khác với đường lối của ta và tư tưởng của ta khác tư tưởng của Ngài. Bao nhiêu con đường ân sủng đã đóng lại, bao nhiêu ân huệ đã phải vô ích, chỉ vì ta không cởi mở đón nhận cái bất ngờ của Thiên Chúa.
3) Tính cách khiêm tốn, kỳ lạ, bất ngờ của các phương thế Thiên Chúa sử dụng là: Giáo Hội thánh thiện mà lại có những tội nhân, Giáo Hội siêu việt mà lại được quản lý bởi các thừa tác viên yếu đuối, thực tại ân sủng cao quý mà lại tiềm ẩn trong các dấu chỉ đơn sơ, hữu hình, chân lý sự sống, chân lý ngàn đời mà lại tỏ hiện trong các điều xem ra khó chấp nhận. Vượt qua được những thử thách đức tin đó, ta mới khám phá ra con người đích thực của Giêsu Nagiarét và của Giáo Hội Người.
4) Chúa Giêsu đã không thể làm phép lạ vì người Nagiarét thiếu niềm tin. Thiên Chúa không ép buộc ai phải nhận lấy ân huệ của Ngài, chẳng cưỡng bức con người phải để Ngài cứu rỗi hay ân thưởng Thiên đàng cho kẻ không muốn. Vì yêu thương và tôn trọng, Ngài để con người tự do chọn lấy Ngài, chọn thiên đàng, chọn hạnh phúc. Và cuộc sống hôm nay của ta không gì khác hơn là một cuộc tập chọn lựa Thiên Chúa.
“BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Dân làng Nagiarét ngạc nhiên mà không tin
Trong thời gian rao giảng Tin Mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế nhưng Tin Mừng nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này mà thôi, bởi lẽ đối với các ngài, thái độ rẻ rúng của dân làng Nagiarét đối với Đức Giêsu trong lần viếng thăm ấy, đã mang ý nghĩa tiêu biểu cho thái độ chối từ của dân Do Thái mà Người đã phải hứng chịu.
Phần đầu của buổi viếng thăm này rất giống với những gì Maccô kể ra ở 1,21: thiên hạ đều sửng sốt về lời giảng dạy của Đức Giêsu. Nhưng phần kết thúc của hai bài tường thuật lại khác nhau hoàn toàn. Ở đây, nơi quê quán của Người, những người nghe cảm phục, rồi lại mau chóng thay lòng đổi dạ, không tin Chúa, tiên vàn họ đều là những người cùng làng xóm với Người. M.E. Boismard tự hỏi: Làm sao giải thích sự thay đổi tình hình như vậy? Ông gợi ý: “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến như sau: Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Tryphon, thánh Giúttinô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng lại nếm tin này khi kể lại ý kiện sau đây của những học giả Do Thái: “Nếu có người nói rằng Đấng Mêsia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay ngài là Đấng Mêsia” (Dial. 110,1).
Đó đúng là luận điệu của những người làng Nagiarét; mà cũng là luận điệu của cư dân Giêrusalem được Tin Mừng Gioan tường thuật: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi, còn Đấng Kitô khi Người đến, thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả”, nghĩa là không ai biết rõ nguồn gốc của Người (Ga 7,27). Đối với những dân làng Nagiarét cũng vậy, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì người ta biết rõ Người, biết cả tông chi họ hàng của Người nữa” (Jésus, un homme de Nagiareth, Cerf, 1996, trang 84).
– Cụ thể là họ biết rõ nghề nghiệp của Người: “Ông ta không phải là bác thợ mộc sao?” (thời ấy nghề thợ mộc không chỉ chuyên lo về mộc, mà cũng còn lo cả việc xây cất nhà cửa nữa).
– Họ biết rõ bà thân mẫu của Người: “Ông ta không phải là con bà Maria sao?”
– Họ biết bà con họ hàng của Người: “Ông ta không phải là anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con cùng xóm với chúng ta sao?”.
Thế nên, làm sao mà họ nhận biết được Người là vị ngôn sứ, Đấng được Thiên Chúa sai đến để nói nhân danh Chúa? Họ ‘hoàn toàn vấp ngã’ (sát nghĩa là bị xì-căng-đan) vì Người”. Đức Giêsu người đồng hương của họ, mà trước đây họ lấy làm vui sướng đón tiếp, thì giờ đây lại trở nên một chướng ngại vật khiến họ vấp ngã.
- Đức Giêsu “ngạc nhiên” vì họ cứng lòng tin và đành bó tay.
– Con người mà, các môn đệ đã từng thấy truyền lệnh cho sóng yên bể lặng (Tin Mừng Chúa Nhật 12), xua đuổi quỷ dữ (phép lạ chữa người bị quỷ ám ở Ghêrasa 5,1-20), cho người đàn bà mang bệnh bất trị được khỏi và đem cô gái con ông Giairô ra khỏi giấc ngủ ngàn thu, thì nay bỗng trở thành kẻ bất lực, vô phương, ‘ngạc nhiên’ vì những người đồng hương của mình cứng lòng tin. Maccô chẳng e ngại khi phải viết lời này: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó? Không phải là vấn đề thiếu yếu tố tâm lý cần thiết cho sự lành bệnh, mà chính là tại thiếu lòng tin, vì có tin thì “phép lạ” mới có được ý nghĩa đích thực. Nên Đức Giêsu đành phải mượn ý câu ngạn ngữ “Bụt nhà không thiêng” mà kết luận rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.
– Nhưng không gì có thể ngăn chặn được tính năng động của Lời. Thái độ chối từ của người làng Nagiarét, cũng như sự ngạc nhiên thúc thủ của Đức Giêsu, đều đã loan báo tấn bi kịch về cuộc khổ nạn và sự thất bại tỏ tường của Thập giá; mà còn mở ra việc Đức Giêsu khai trương đi rao giảng cho ‘các làng chung quanh’ loan báo trước chiến thắng phục sinh và công việc truyền giáo cho các dân ngoại.
– Đây là đoạn bản lề phân chia Tin Mừng Maccô thành hai phần rõ rệt.
+ Một giai đoạn đang hoàn thành. Trong suốt giai đoạn này vấn đề nhân tính của Đức Giêsu không ngừng được vang lên như một điệp khúc: “Vậy người này là ai?”.
– Về phía các môn đệ, vấn đề luôn mở ra: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Các môn đệ đã khởi sự đi vào gia đình đích thực của Đức Giêsu, gia đình của những người thực hành ý muốn của Thiên Chúa (3,31-35). Rồi đây sau cơn hốt hoảng của Ngày Thứ Sáu Thánh, các ông sẽ có thể tuyên xưng Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, chết, sống lại là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rôma nơi Maccô 1 5,39).
Về phía dân làng Nagiarét, vấn đề được khép lại: “ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao? Câu hỏi đó đã là điềm báo trước con đường bi thảm của hiện tượng này: thái độ chối từ Chúa.
+ Một giai đoạn mới đang mở ra. Giai đoạn đó sẽ đưa ta đi từ việc tham gia công việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai (Tin Mừng Chúa nhật tới) để rồi cùng tuyên xưng lòng tin với Phêrô (8,26).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) “Đức Giêsu đối mặt với thái độ không tin”
(Cahiers-Evangile, số 1/2 trang 53).
Câu chuyện Đức Giêsu đến Nagiarét (6,1-6) xoay quanh vấn đề không tin và tạo nên bức tranh tương phản với chuyện xảy ra trước đây.
“Đức Giêsu lấy làm lạ vì họ không tin” (6,6). Một sự kiện thật là tương phản với loạt phép lạ xảy ra trước đây, và chứng tỏ rằng để nhận ra được Đức Giêsu có quyền làm cho kẻ chết sống lại, người ta phải có một lòng tin đến thế nào.
Tới Nagiarét, nơi quê quán của Người lúc này Đức Giêsu phải đối mặt với thái độ không tin của con người. “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Việc Người không thể làm được phép lạ ở đây có liên quan tới thái độ không tin của những người trong cuộc chứ không phải do yếu tố tâm lý nơi người bệnh vốn cũng là điều kiện cho người ấy được khỏi. Không có bối cảnh của lòng tin, phép lạ chẳng còn ý nghĩa gì, và sẽ không thể nói đến phép lạ.
Đức Giêsu đã phải sửng sốt vì thái độ không tin này. Ta hãy xem Người đã tỏ thái độ thế nào với các môn đệ khi gặp bão táp: “Sao nhát thế”. Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (4,40). Người ta không có lòng tin là điều Chúa không hiểu nổi, thì ngược lại, khi thấy một lòng tin mạnh như thế, ngoài Israel, Người tỏ ra rất ngạc nhiên như Matthêu và Luca ghi nhận (Mt 8,10, Lc 7,9) Còn trong trường hợp này, Đức Giêsu đang ở quê nhà, giữa đám bà con họ hàng. Người đã nói với họ rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mình mà thôi” (6,4). Chỉ có mình Máccô, nhấn mạnh và xác định rõ là “giữa đám bà con thân thuộc”. Tại Nagiarét, người ta lại thấy có sự phân biệt trong liên hệ “ai là mẹ tôi” đã diễn tả trước đây (3,20-35). Ở đây sự thu hẹp (về liên hệ) còn rõ nét hơn. Bởi lẽ có lần Chúa đã xác định gia đình mới của Người là những ai nghe Lời Chúa, những kẻ mà trong một buổi gặp gỡ trước đây được mô tả là ngồi chung quanh Chúa. Lúc này Đức Giêsu và các môn đệ Người lại giữ khoảng cách với những người đứng ở ngoài, những người không thuận với Người.
Trước đây có lời chép rằng: “Ai nghe Lời Chúa, người ấy là bà con thân thuộc với Tôi” (3,35). Còn ở đây, Người muốn tỏ cho thấy rằng ai tin, người ấy là bà con thân thuộc của Người. Nghe lời Chúa và tin vào Người là hai mặt luôn kết hợp hài hòa và bổ túc lẫn nhau.
2) “Ta biết người ấy quá mà”
(Đức Cha L.Daloz trong “Qui don est-it?”, Desclée de Brouwer, trang 37-38).
“Nếu lòng tin tạo khả năng đón nhận ơn cứu độ Chúa mang đến, thì sự thiếu lòng tin dựng lên hàng rào ngăn cản. Ở Nagiarét, Đức Giêsu không thể làm được một phép lạ nào, dù là đang ở tại quê nhà, giữa đám bà con thân thuộc của mình. Ở giữa đám bà con, mà Người phải “lấy làm lạ vì họ không tin”. Đức Giêsu lấy làm lạ. Còn họ khi được nghe lời Người giảng dạy ở hội đường thì “rất đỗi ngạc nhiên”. Đôi bên ngạc nhiên nhau, một thứ không hiểu nhau. Ở đây sự gần gũi với Đức Giêsu lại nên như bức màn che giấu mầu nhiệm về bản thân Người. Người đang có mặt ở đây, rõ ràng là người đồng hương của ta. Người ta biết Người rành rọt: biết nghề nghiệp của Người, biết bà mẹ và các anh chị em của Người. Họ biết tất cả, mà cái cốt yếu thì lại không biết. Bác thợ mộc Giêsu, người Nagiarét đã phải kín đáo lắm, bình dị lắm, phải y hệt như mọi người, “chẳng có dấu hiệu gì đặc biệt. Bởi đâu ông ta được như thế”. Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?”. Như vậy, Đức Giêsu đã tỏ ra hoàn toàn là người, hoàn toàn là một người Nagiarét, nên ở quê hương mình, người ta không thể công nhận được rằng ngoài những điều mà tới nay ai nấy vốn đã có thể biết, Người còn có gì hơn nữa. Từ bé đến nay, việc ta quen lui tới với Chúa, với nhiều cách thế để được nghe nói về Người phải chăng đôi khi cũng là bức màn che giấu đi cái cốt yếu? Người môn đệ đích thực của Chúa lúc nào cũng phải mới để có khả năng đón nhận. Người ấy biết rằng Đức Giêsu không chỉ như mình hiểu biết. Người ta không thể đóng khung hạn định được Người. Người luôn vượt khỏi tầm tay của ta và vượt xa điều ta hiểu biết về Người. Ta có hiểu biết Người ở đời này, thì cũng như biết qua tấm gương mù mờ thôi. Khi nói về Đức Giêsu, phải chăng ta hay đưa ra những thông tin về Người, những thông tin có thể tạo ảo tưởng là ta biết đủ rồi mà không mời gọi ta tiến thêm lên, hay là ta cố gắng đi sâu vào sự gặp gỡ với chính bản thân và huyền nhiệm của Người?”
3) “Chỉ có tin với tin”
(G.Bessière, trong “Dieu si proche. Năm B”, DDB, trang 120-121).
Thật cũng lạ: Đức Giêsu lấy làm lạ vì những đồng hương của Người lại thiếu lòng tin. Vậy mà những người đồng hương của Người thảy đều là kẻ tin Thiên Chúa, một Thiên Chúa cứng rắn, thảy đều đã từng hội họp với nhau ở hội đường. Họ đều là những kẻ có lòng tin từ đầu đến chân, như tục ngữ nói. Lòng trí họ không một dấu vết do dự hay ngờ vực nào. Họ tôn thờ Chúa là Đấng tạo dựng vạn vật và điều khiển dòng lịch sử. Thời đó, đâu đã có những người vô thần hay những kẻ không tin như ngày nay!.
Họ có lòng tin không? Tất nhiên có. Nhưng lòng tin Đức Giêsu đòi hỏi người ta ở đây, không phải chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa, theo kiểu cha truyền con nối, mà chính là tin vào Người bác thợ mộc của làng. Liệu một bác thợ mộc mà người ta biết rõ cha mẹ và tất cả bà con của ông, lại có thể đòi hỏi người ta phải tin vào mình như tin vào Thiên Chúa chăng? Nè, còn hơn thế nữa kìa, lòng tin mà con người ấy muốn, không phải là một mớ những điều phải tin, nhưng là sự đảo lộn cuộc sống: “Ai liều mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Người còn nói: phải đi theo Người, phải cho đi và hiến thân, phải yêu mến cả kẻ thù, phải vác thập giá mình… Nào, chúng ta hãy lật ngửa các con bài (quyết định). Chúng ta đây là những kẻ tin; chúng ta đây “có” (than ôi!) lòng tin, mà có thật là ta đang vạch đường đời ta đi trong niềm tin như Đức Giêsu đã đề ra không? Xin đừng trả lời quá gấp”.
KHÔNG ĐƯỢC TÔN TRỌNG NƠI QUÊ HƯƠNG
Khi trở về Nagiarét Chúa Giêsu đã tự đặt mình vào một trường hợp chịu thử thách nghiêm trọng. Ngài đang trở về thành phố quê hương, chưa có ai chỉ trích Ngài nghiêm khắc cho bằng những người từng quen biết Ngài từ thời thơ ấu. Ngài không hề có ý trở về quê quán cách riêng tư, chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân thuộc cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình, nghĩa là Ngài về quê với tư cách một Rabbi. Các Rabbi vẫn đi đây đi đó trong xứ với nhóm môn đệ của họ. Với tư cách Rabbi, Ngài đã trở về cùng với các môn đệ.
Ngài vào hội đường và dạy dỗ. Người ta không hào hứng tiếp nhận lời giáo huấn của Ngài, trái lại còn tỏ vẻ thù địch. “Họ vấp ngã vì Người”. Họ tức giận vì một người xuất thân từ một bối cảnh xã hội như Chúa Giêsu, lại nói năng và hành động như vậy. Sự quá quen thân thường làm phát sinh thù ghét sai lầm. Họ không chịu nghe những gì Ngài nói, vì hai lý do:
1/ Họ bảo nhau “Ông này không phải bác thợ sao?”.
Từ dùng chỉ thợ mộc là tekton. Tekton có nghĩa là một thợ làm đồ gỗ, nhưng không chỉ đơn giản là một thợ làm đồ gỗ mà thôi, nó còn có nghĩa là một nghệ nhân, một người làm nghề thủ công tinh xảo. Homer đề cập đến tekton như người đóng tàu, cất nhà, xây đền đài. Đời xưa và cả ngày nay nữa, tại nhiều nơi, trong một thị trấn nhỏ hay làng mạc, người ta có thể tìm ra một người thợ thủ công có thể làm bất cứ việc gì, từ việc đóng chuồng gà đến việc cất nhà, người ấy có thể xây tường dặm vá mái nhà, sửa khung cửa. Đó là thợ thủ công với ít dụng cụ hoặc chỉ tay không, với một số tối thiểu công cụ thô sơ nhất, có thể làm được bất cứ việc gì. Chúa Giêsu là người như thế, sở dĩ người làng Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu vì Ngài là một công nhân, một người thợ. Ngài là một người bình thường, một thường dân, một con người chất phác.
Một trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân là Will Crooks. Ông sinh ra trong một gia đình rất nghèo, ký ức đầu tiên ông ghi nhận là hình ảnh mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa ăn sau. Ông bắt đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là năm hào. Ông trở thành một tay thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ. Ông tham gia việc chính trị ở ngay thị xã và trở thành chủ tịch đầu tiên của phong trào Lao động thị xã Luân Đôn. Nhiều người rất bất mãn khi Will Crooks thành chủ tịch tại Poplar. Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu ông “Người ta bầu Will Crooks làm chủ tịch á, anh ta chỉ là dân thợ tầm thường mà thôi”. Một người trong đám đông, chính là Will Crooks, đã quay lại bỏ nón ra và nói: “Hoàn toàn đúng, thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động”.
Dân chúng ở Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu chỉ vì Ngài là một công nhân tầm thường, với chúng ta thì đó là vinh quang của Ngài, vì nó có nghĩa khi Con Thiên Chúa xuống thế gian, Ngài không hề đòi hỏi một miễn trừ nào. Ngài bằng lòng nhận lấy cuộc đời tầm thường với tất cả những công việc tầm thường. Những may rủi về gia thế, giàu nghèo và phổ hệ chẳng có gì quan trọng đối với nhan cách cả. Chúng ta cần cảnh giác đối với sự cám dỗ đánh gía một người căn cứ vào bề ngoài, vào những cái tạm thời nay còn mai mất, chứ không căn cứ vào giá trị nội tại nơi chính người ấy.
2/ Họ nói “Không phải đây là con bà Maria hay sao?
Không phải chúng ta đều biết rõ anh em ông ta sao?” Sự kiện họ gọi Chúa Giêsu là con bà Maria cho chúng ta biết có lẽ Giuse đã qua đời. Từ đó, chúng ta hiểu được một trong nhiều điều bí ẩn của đời sống Chúa Giêsu. Ngài chết lúc chỉ được ba mươi ba tuổi, nhưng Ngài không lìa bỏ Nagiarét trước năm ba mươi tuổi (Lc 3,23). Tại sao Ngài lại trì hoãn lâu đến thế? Tại sao Ngài vẫn nán lại Nagiarét trong khi cả thế gian đang chờ đợi cứu rỗi? Có phải vì Giuse đã chết sớm và Chúa Giêsu phải đảm nhiệm việc nuôi dưỡng mẹ? Ngài vốn trung tín ngay trong những việc nhỏ nhặt, cho nên cuối cùng Thiên Chúa giao cho Ngài làm rất nhiều việc.
Nhưng dân chúng Nagiarét lại khinh dể Ngài vì họ biết rõ gia đình Ngài. Thomas Campell là một nhà thơ lớn. Cha ông lại chẳng biết gì về thi ca. Khi Thomas xuất bản tập thơ đầu tay, với tên tác giả là Thomas, ông gửi một tập tặng cha mình. Ông cụ cầm tập thơ lên xem. Thật ra ông chỉ nhìn vào bìa sách chứ chẳng đọc gì trong nội dung. Ông cụ kinh ngạc tự nhủ “có ai nghĩ được nó có thể làm một cuốn sách như vậy nhỉ”. Nhiều khi sự thân thuộc đáng lẽ phải tạo ra một sự tôn trọng mỗi ngày càng gia tăng, nó lại tạo ra sự coi thường, xem nhẹ hơn. Lắm khi chỉ vì chúng ta sống quá gần gũi với một người nào đó nên không thấy được chỗ cao thượng, vì đại của người ấy.
Kết quả của mọi việc vừa kể là Chúa Giêsu không thể làm nhiều phép lạ tại Nagiarét. Môi trường không thích hợp, có nhiều điều chỉ thực hiện được trong hoàn cảnh thích hợp.
1/ Ngày nay vẫn thế, nếu một người không chịu để chữa bệnh thì không thể lành bệnh được.
Margot Asquith kể lại cái chết của Neville Chamberlain. Mọi người đều biết chính sách của Neville đã khiến ông ta rất đau lòng. Margot đến gặp và nói với bác sĩ của ông ta là Lord Horder “Ông chẳng có khả năng của một bác sĩ, Chamberlain chỉ lớn hơn Churchill vài tuổi và phải nói là ông ta khỏe mạnh lắm, ông có quý mến ông ấy không?”. Lord Horder đáp “Tôi rất quý mến ông ta, tôi thích tất cả những con người khó thương ấy, tôi đã gặp nhiều người như thế rồi. Ông ta bị chứng rụt rè. Ông ta không muốn sống, khi một người nào đã nói thế, chẳng có bác sĩ nào có thể cứu nổi người ấy”. Chúng ta có thể gọi đó là đức tin, là ý chí muốn tồn tại, nhưng nếu không có nó chẳng một ai có thể sống được.
2/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, không còn có thể giảng dạy gì được, các nhà thờ của chúng ta khác hẳn nếu tín hữu nhớ rằng chính họ phải giảng hơn phân nửa bài giảng.
Trong một bầu không khí chờ đợi, khao khát thì chỉ cần một ít cố gắng, ngọn lửa cũng có thể cháy bùng lên. Nhưng trong bầu không khí lạnh lùng chỉ để chê bai, chỉ trích hoặc với thái độ hờ hững, dửng dưng, thì những lời nói dù được đầy tràn Thánh Thần, vẫn cứ từ trời rơi xuống đất và bị chết cứng.
3/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, thì không thể có sự hòa giải.
Nếu người ta chỉ họp lại để từ chối thù ghét nhau, thì họ vẫn cứ thù ghét nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để cảm thông nhau thì họ vẫn hiểu lầm nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để không thấy gì khác hơn là quan điểm riêng của chính mình, họ sẽ chẳng còn thấy ai khác nữa. Nhưng nếu mọi người đến với nhau bằng tình yêu của Chúa Giêsu để tìm cách thương yêu nhau, thì dù những kẻ vốn cách xa nhau hơn hết, vẫn có thể hiệp nhất trong Chúa.
Chúng ta vốn được giao phó trọng trách, hoặc tiếp tay, hoặc ngăn trở công việc của Chúa. Chúng ta có thể mở rộng cửa cho Ngài, hoặc đóng nó lại truớc mặt Ngài.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao?” (Mc 6,3).
- CÂU CHUYỆN: Tình thương chinh phục lòng người
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng thuộc Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Ta-ban đã bỏ nhà chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong Linh Mục. Khi tình hình ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ mệnh linh mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như chính ngài đã thuật lại sự kiện ấy như sau: “Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh nói cái gì vậy? Anh mà là Linh mục ư? Thật là khó tin!”.
Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một Linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các Linh mục thừa sai da trắng đến chăm sóc và chia sẻ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên chẳng có gì để phân phát như các linh mục da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ Thánh lễ theo đường hướng Công đồng Va-ti-can II. Giáo dân đã xầm xì với nhau: “Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng La tinh. Chắc ông ta không rành tiếng La tinh nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là Linh mục thật hay giả?”. Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả để phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.
- SUY NIỆM:
– Câu chuyện về Linh mục Ta-ban giúp chúng ta hiểu lý do tại sao Đức Giêsu bị dân làng Na-da-rét không tin Người là Đấng Thiên Sai, dù thán phục tài giảng đạo và quyền năng chữa bệnh của Người. Là do họ vấp phạm là vì gia thế hèn kém của Người. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? (x Mc 6,2-3). Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) luôn thù ghét Ki-tô giáo và nhiều lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau: “Giêsu Đấng sáng lập của các người chỉ là một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường! Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bẻ, phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế!”
– Đức Giêsu phán: “Trò không hơn Thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như Thầy, tớ được như chủ đã là khá lắm rồi!”. Ngày nay chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi bị người đời chống đối do chúng ta không chấp nhận phá thai, ly dị, hay khi ta chống lại những bất công mà các phụ nữ và trẻ em đang phải chịu đựng. Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi có những Ki-tô hữu phản đối chúng ta vì chúng ta khác họ về chủng tộc, tiếng nói, quốc gia hay về tình trạng kinh tế. Cuối cùng, chúng ta cũng đừng ngạc nhiên nếu đôi khi ta bị những người thân ruột thịt chống lại ta, vì chúng ta đã tin Đức Giêsu, như Người đã báo trước: “Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai và con trai chống lại cha, Mẹ chống lại con gái và con gái chống lại mẹ; Mẹ chồng chống lại nàng dâu và nàng dâu chống lại mẹ chồng” (Lc 12,53). Trong mọi trường hợp, chúng ta cần vững lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Người sẽ không để chúng ta phải chịu đựng quá sức chúng ta.
- THẢO LUẬN: Trong cuộc sống, các tín hữu cần có cách ứng xử thế nào trước thái độ nghi ngờ, khinh thường hay những lời nói khiếm nhã khích bác của những kẻ thù ghét chống lại Chúa Giêsu và Hội thánh của Người?
- NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chấp nhận thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương và bà con họ hàng. Nhiều lần chúng con cũng đành phải thất bại khi bị người lương từ chối nói chuyện về Chúa và có khi họ còn thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh… Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải trên bước đường sống và rao giảng Tin Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công được người lắng nghe cũng như lúc bị từ chối xua đuổi. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn vì biết rằng: Thất bại là mẹ thành công, và chính Chúa xưa cũng đã từng chịu thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương.
(Suy niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb)
Khi đánh giá và nhận định về một ai đó, dường như có một quan niệm “bất thành văn” đã, đang và sẽ còn tồn tại trong tâm trí con người. Đó là nhìn họ ở dáng vẻ bên ngoài hay lưu ý đến bảng khai lý lịch, thân thế và sự nghiệp hơn là nhìn ra bản chất bên trong của họ. Quan niệm “thâm căn cố đế” này, bằng nhiều cách, đi sâu vào trong từng quốc gia, từng phong tục tập quán của mỗi dân tộc và không buông tha bất cứ người nào. Nạn nhân tiêu biểu hứng chịu “búa rìu dư luận” này không ai khác chính là Chúa Giêsu – người đến từ Thiên Chúa để mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Sau thời gian miệt mài rao giảng ở Caphácnaum và quanh biển hồ Galilê, Chúa Giêsu trở về Nazarét- quê hương dấu yêu. Những tưởng sự hiện diện cũng như những lời rao giảng trong Hội đường Dothái của Người sẽ được người thân cũng như dân làng Nazarét đón nhận hay ít nữa cũng có điều gì đó tự hào về người con của dân làng. Nhưng không. Mặc dù lời giảng dạy của Chúa Giêsu khiến không ít người ngạc nhiên nhưng điều đó không đủ khiến họ thay đổi cách nhìn về nhân thân của Người. Lý do hết sức đơn giản là họ biết quá rõ nguồn gốc xuất thân của Người. Hãy xem cách họ đặt vấn đề cũng đủ hiểu đối với họ, Chúa Giêsu chẳng có gì đặc biệt. “Bởi đâu ông ta được như thế?… Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”.
Thế đấy. Chính vì họ nhìn Chúa Giêsu là một con người hết sứ bình thường, một con người cụ thể bằng xương bằng thịt đã từng chung sống quanh họ; công việc của Người cũng hết sức tầm thường, quanh năm suốt tháng lam lũ với nghề mộc – một nghề thời đó không chỉ làm ra các vật dụng bằng gỗ mà còn có thể xây nhà và làm ra các vật dụng từ các vật liệu khác nữa. Thế mà giờ đây, sau một thời gian rời xa quê làng, cái ông thợ mộc này lại làm được những điều “quái lạ”, thật chẳng thể nào tin được!
Từ cách nhìn nhận và đánh giá thiển cận ấy, thay vì hãnh diện, người dân Nazarét lại vấp ngã vì Người. Họ vấp ngã vì Người, bởi gia thế của Chúa Giêsu không sáng giá; Họ vấp ngã vì Người, bởi trước mắt họ, Chúa Giêsu chỉ là một người phàm không hơn không kém; Họ vấp ngã vì Người, bởi gia đình ông thợ mộc này nghèo nàn quá, tầm thường quá từ lý lịch xuất thân cho đến nghề nghiệp cũng như địa vị xã hội; Họ vấp ngã vì Người, bởi, dù không nói như các Kinh sư rằng Chúa Giêsu “dựa vào thế quỷ vương” để làm những việc “quái dị”, nhưng chính thái độ khinh thường ra mặt cũng đủ nâng họ lên ngang hàng với mấy ông Kinh sư của họ. Cũng từ những lý do đó mà sau này không chỉ dân làng Nazarét mà còn nhiều người khác nữa đã quay lưng lại với Chúa Giêsu, cùng với sự kiêu ngạo và nổi loạn để rồi cuối cùng kéo bè kéo phái đóng đinh Người vào thập giá.
Dân làng Nazarét đã không nhìn ra sứ mệnh thần linh vẫn âm thầm tiềm ẩn bên trong con người Chúa Giêsu. Có thể nói chính vì quá chú trọng hình thức bên ngoài, chú trọng đến gia thế, địa vị xã hội, chú trọng đến bảng kê khai lý lịch,… đã làm cho tâm hồn của họ trở nên chai cứng, trở nên chướng ngại vật không dễ gì vượt qua để tìm đến chân lý vẹn toàn. Còn chúng ta thì sao, những Kytô hữu của thời đại hôm nay? Rất có thể chúng ta cũng đang đánh giá và nhìn nhận Chúa Giêsu và Tin mừng của Người qua lăng kính do chúng ta dựng nên. Rất có thể chúng ta đang tìm một điều gì đó hấp dẫn hơn nằm bên ngoài Chúa Kytô, nên ngoài Tin mừng bởi cho rằng Chúa Kytô và Tin mừng của Người trải qua hơn hai ngàn năm nên chẳng có gì mới mẻ và thật là nhàm chán. Đây là lúc chúng ta cần phải nhìn lại thái độ và lập trường của mình đối với Chúa Kytô cũng như Tin mừng của Người để từ đó thay đổi cách nhìn, cách đánh giá hầu có thể mang đến cho chúng ta sự bình an và ơn cứu rỗi.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa đã đến thế gian mặc lấy thân phận yếu hèn như chúng con, sống cuộc đời đạm bạc và lam lũ kiếp người để chia sẻ cuộc đời khốn khó của chúng con và cuối cùng đã dùng cái chết để mang lại ơn tha tội và cứu rỗi cho chúng con. Xin cho chúng con được biết nhìn ra Chúa trong thân phận kiếp người ấy để không ngừng yêu mến, quý trọng và nhìn ra những giá trị cao quý nơi anh em đồng loại.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Đề tài bất trung, thất tín, phản nghịch không phải là đề tài mới mẻ trong Cựu Ước, trong Thánh Kinh. Nhưng đây là một câu chuyện thường gặp trong Kinh Thánh. ” Người nhà đã không nhận ra Ngài, đã không đón nhận Ngài” không là chuyện bất thường trong Tin Mừng của Chúa Giêsu. Bài đọc I của ngôn sứ Ézékien hôm nay đã có những ngôn từ nói về con cái Israen như:” dân nổi loạn, phản nghịch, lỗi giao ước, bọn phản loạn vv…”. Con cái Israen phải trải qua thử thách, đen tối vì họ bất tín, thất trung và phản bội, nhưng họ vẫn luôn hy vọng: Chúa là Đấng yêu thương và trung tín đến muôn muôn đời. Thiên Chúa đã gửi đến cho con cái Israen vị ngôn sứ này. Tin Mừng Mc 6, 1-6 chỉ ra rằng Chúa Giêsu không những là vị ngôn sứ như các vị ngôn sứ khác mà là chính Con Thiên Chúa làm người cũng đã phải đương đầu với những kẻ đồng quê hương với Ngài.
Chúa Giêsu khi trở về Nagiarét với thánh cả Giuse và Mẹ Maria, Ngài đã sống một cuộc sống rất bình thường như mọi người dân làng lúc đó. Chúa Giêsu đã lớn lên, đã hưởng thụ một nền giáo dục trong gia đình một cách tuyệt hảo nhất: Ngài đã từng uống từng lời Mẹ Maria dậy bảo,Ngài đã tuân theo sự chỉ bảo của thánh cả Giuse.Cuộc đời của Chúa Giêsu chỉ kéo dài có 33 năm: 30 năm, Ngài đã sống đời ẩn dật nơi gia đình, nơi quê hương Nagiarét. Hẳn cuộc sống của Chúa Giêsu bình dị, bình thường và hết sức người trong những năm tháng ẩn dật làm nghề thợ mộc. Cái bình thường không làm Chúa Giêsu uổng phí quãng đời trần thế, mà đây là giai đoạn giúp Chúa Giêsu sống kiếp người cách trọn vẹn nhất của Ngài. Ngài sống đơn giản, bình dị đến nỗi dân làng Nagiarét không nhận ra Ngài:” Ông ấy không phải bác thợ mộc, con bà Maria sao? “. Sự đơn giản, bình dị khiến gây cho nhiều người nên cớ vấp phạm vì Ngài. Tới tuổi trưởng thành khi đến hội đường, mọi người Do Thái đều có quyền phát biểu ý kiến khi tham gia phụng vụ. Chúa Giêsu đã nại vào quyền này khi Ngài tới hội đường và rao giảng Tin Mừng. Lời loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu hẳn có nhiều điều mới lạ, khác với những điều dân làng thường nghe trong hội đường trong các giờ hội họp phụng vụ. Khác đến độ những người trong hội đường ngày hôm đó đã nhận ra và hết sức ngạc nhiên, bỡ ngỡ, khâm phục. Những người đồng hương với Chúa Giêsu hẳn đã chứng kiến những phép lạ, những lời nói đáng giá của Chúa Giêsu và hẳn họ cũng đã một cách nào đó được lay động để khám phá ra những gì mới mẻ nơi Chúa Giêsu. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những tia sáng lóe lên, rồi vụt tắt vì những người đồng hương với Chúa Giêsu lại trở về với những lý luận tầm thường, những nhận xét theo ý họ, nếu không nói được là những lý luận cùn, lý luận thiển cận, hẹp hòi, ích kỷ. Họ đã không nhận ra cái thực tế đáng lẽ họ đã được hưởng. Họ đã đóng cửa lòng lại, đóng con tim lại để tự tách mình ra khỏi nước trời đang đến với họ. Chúa Giêsu thấy lòng chai dạ đá của họ, nên Ngài đã chẳng làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng nước trời ở giữa họ và Ngài đã bỏ họ, đi giảng dậy, rao giảng ở những làng, những nơi khác. Phản ứng của những người đồng hương của Chúa Giêsu về những lời rao giảng của Ngài trong hội đường và những năm tháng sống ẩn dật tại gia đình ở làng quê Nagiarét xác quyết cho nhân loại hay Chúa đề cao đời sống gia đình. Chúa không sống như một siêu nhân, như một người không thực tế. Cuộc sống bình dị của Chúa như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình đời thường mang lại cho cuộc sống nhân loại một ý nghĩa, một giá trị cao sâu, tuyệt vời. Đời sống của Chúa mời gọi mọi người nhìn vào đời sống của mình.
Phản ứng của những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu cũng có thể là những cám dỗ, những thử thách của nhân loại hôm nay,muôn thuở. Người Kitô hữu vẫn có thể tự mãn với danh hiệu Kitô của mình. Người Kitô hữu có thể tự hào, tự mãn vì mình đã học giáo lý, đã đọc Tin Mừng, đã đi lễ, đã đọc kinh, nhưng đời sống lại không phù hợp, không đi đúng với Tin Mừng. Lời Chúa rao giảng luôn đi đôi với việc làm. Chúa Giêsu đã không nói suông, nói lý thuyết, nói ngoài môi miệng, nhưng Ngài đã luôn nói và làm. Chúa nói:” Hãy yêu thương nhau”, Ngài đã thực hiện điều đómột cách tận căn. Ngài đã yêu và yêu cho đến cùng, Ngài đã yêu, đã hy sinh chính cả mạng sống mình vì người mình yêu: “Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình vì người mình yêu “( Ga 15, 13 ). Người Kitô hữu được mời gọi lắng nghe và đem thực hành lời Chúa trong đời sống. Những biến cố, những sự việc xẩy ra trong cuộc đời, trong xã hội, trên thế giới được Chúa mời gọi con người hãy biết nhìn chúng với ánh sáng Tin Mừng của Ngài. Giáo Hội và con người được Chúa trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô. Nên, rao giảng không chỉ đóng khung trong những kiến thức có sẵn mà còn phải lắng nghe, đào sâu và loan báo chính Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin thánh hoá cuộc sống mỗi ngày của chúng con, để chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa vì Chúa đã ban cho chúng con sống sung mãn ơn Chúa mọi giây, mọi phút, xin cho chúng con trở nên những nhân chứng tình yêu đích thực của Chúa trước mặt mọi người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Chúa nhật thứ mười bốn năm B xoay quanh một vấn đề hết sức tế nhị và phức tạp: Sứ vụ của ngôn sứ không được ưu đãi nơi quê hương của mình. Vấn nạn được đặt ra nhân việc Chúa Giêsu giảng dậy tại Hội Đường nơi quê hương Nagiarét:” Ngài không phải là con bác thợ mộc Giuse, con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Đức Giêsu trả lời câu hỏi ấy:” Không một ngôn sứ nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình” ( Mc 6, 4 ).
Tin Mừng của thánh Maccô 6, 1-6 dậy cho dân Chúa bài học đích đáng. Người biết Chúa thường thờ ơ, lãnh đạm:” Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Đó là thái độ của những người không có lòng chân thật, thường bám víu vào những gì mình có và một khi cảm thấy đầy đủ, hoặc sự thật đầy đủ hoặc chỉ có trong ảo tưởng thì họ đâm ra coi thường tất cả, mặc dầu bản chất họ không được như vậy. Điều ấy, hợp với đoạn Tin Mừng sáng nay, khi mọi người được sống gần Chúa, được nghe những lời khôn ngoan giảng dậy của Ngài, người ta lại đâm ra nghi ngờ về sự chân thật của Ngài và từ thái độ hồ nghi đó, con người đặt vấn đề về Ngài, xem Ngài như một người thường thức, một con người xuất thân từ cha mẹ cũng không có thế giá gì. Chúa Giêsu nói rất rõ về thái độ cứng tin của con người, những người đã được sống gần gũi Chúa, được tiếp xúc với ơn cứu độ của Chúa và được nghe những lời chân thật, quí báu của Ngài. Tại sao họ lại đặt vấn nạn về Ngài giữa lúc họ được nghe lời cứu rỗi của Ngài. Ở đây chúng ta có thể đặt hai vấn nạn: một là con người cố bịt tai, nhắm mắt không chịu nhìn Đấng Cứu Thế. Hai là con người cứng lòng không chịu mở rộng tấm lòng để nhận ơn cứu rỗi của Chúa Kitô. Do đó, Đức Giêsu đã phải thốt lên:” Ngôn sứ mà có bị khinh thì chỉ có ở nơi quê quán, nơi bà con, nơi nhà mình mà thôi” ( Mc 6, 4 ). Ngài có thể làm được nhiều điều tốt đẹp để làm vinh danh Cha Ngài nơi quê hương của Ngài, nhưng Ngài đã không thể làm được gì, ngoài việc đặt tay chữa lành vài người đau ốm”( Mc 6, 5 ). Đoạn Tin Mừng này làm sáng tỏ vấn đề ngôn sứ Êdêkiên nói tới ở đoạn 2, 2-5. Ngôn sứ lãnh lời của Thiên Chúa truyền đạt cho dân, nhưng dân phản loạn không chịu nhìn nhận vị sứ giả của Thiên Chúa, không nhìn nhận uy quyền của Đấng được sai đi. Thái độ của dân trong đoạn này cũng là thái độ đóng kín, bịt mắt không chịu mở lòng, mở đôi mắt để thấy rõ vị sứ giả của Thiên Chúa sống giữa họ và phục vụ Tin Mừng cho họ. Maccô 6, 1-6 và ngôn sứ Êdêkiên 2, 2-5 dẫn ta tới sự kiện:” Tin và Phó thác”. Phaolô trong thư thứ hai gửi tín hữu Corintô 12, 7-10 đã thú nhận sự yếu hèn của thân xác và xin Chúa cất khỏi sự cám dỗ của xác thịt Ngài, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận sự yếu hèn của Ngài như thử thách của lòng tin:” Ơn Ta là đủ cho Ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối”( 2Co 12, 10 ). Các bài đọc đưa ta tới một kết luận chung: Phó thác và tin tưởng cậy trông vào Chúa, chắc chắn sẽ được Ngài gia ân giáng phúc và cho con người đứng vững trong lịch sử cứu độ của mình.
Đức Giêsu đã dậy cho dân Chúa, cho mọi người một bài học thích đáng: Không được đóng kín lòng, nhưng phải mở tung tâm hồn để lãnh nhận ơn huệ của Thiên Chúa. Con người sống ở đâu, ở hoàn cảnh nào, trong tình huống nào, lòng tin vẫn là nguồn sống cho họ. Thiếu lòng tin con người sẽ khô cằn và chết. Lòng tin sẽ giúp con người can đảm để sống, giúp họ vươn tiến và bước đi trong bình an. Ích kỷ, tị hiềm, ghen tương sẽ không xây đắp được gì. Chỉ có lòng tin, sự quảng đại, bao dung mới xây nên được sự bình an. Sống trong một thế giới vắng bóng Thiên chúa, xa dần sự thật và ánh sáng. Lòng tin sẽ là đèn pha dọi chiếu để con người nhìn ra thực trạng sống và nhìn ra cùng đích để bước tới. Thực trạng và cùng đích là Chúa Kitô. Đức Kitô là Tình yêu. Tình yêu là nguồn sống của con người. Nơi nào có sự thật, chân lý và tình người, nơi đó có Thiên Chúa ngự trị. Nơi đâu tình yêu nhường chỗ cho hận thù, ghen tương và đố kỵ, nơi đó vắng bóng Thiên Chúa. Tình thương thì xây dựng. Hận thù thì hủy diệt. Tình thương sẽ giúp con người ngồi gần nhau hơn để nói lên sự tin tưởng, tín thác và nâng đỡ nhau. Đức Kitô không đòi hỏi con người điều gì cả ngoài tình thương họ phải đáp trả. Sở dĩ con người không nhận ra Ngài vì họ thiếu tình thương, thiếu lòng tin và phó thác. Đức Kitô vẫn ở đó, vẫn ở bên ta nhưng có người đã nhận ra Ngài, có người chưa nhận ra Ngài và có người không muốn nhìn nhận Ngài như những người ở làng quê Nagiarét xưa.
Woodbridge đã viết một câu thật chí lý:” Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng biết nhìn thấy Chúa ở khắp nơi.
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano, OP – Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)
Các bài đọc hôm nay giới thiệu ba vị tiên tri cùng chung một số phận. Đó là Ezekiel, Thánh Phaolô và Chúa Giêsu. Ba vị đều bị xua đuổi, khước từ, tại chính quê hương mình. Lý do đơn giản chỉ vì sứ điệp mà các vị rao giảng cho họ. Ezekiel sống giữa những người Do thái lưu đầy tại Babylon. Thánh Phaolô bênh vực chức vị và sứ vụ của mình chống lại những kẻ tự xưng là chính thống, nghi ngờ tính hợp pháp của Ngài. Ngài chịu “khổ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì danh Đức Kytô”. Chúa Giêsu thì đang ở làng Nazarét cùng với các môn đệ. Cả ba đều gặp sự chống đối quyết liệt của các thính gỉa ương ngạnh trong chính dân tộc mình. Nhưng các vị lại cảm nhận rõ sứ điệp mình rao giảng là từ Thiên Chúa . Chẳng hạn tiên tri Ezekiel nói: “Thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Đức Chúa phán với tôi và làm cho chân tôi đứng vững, tôi đã nghe tiếng Người nói với tôi….” Hiện thời ông đang sống giữa một dân tộc bại trận, bị phát lưu sang đất lạ. Nhưng Thiên Chúa có một sứ điệp gởi đến dân Ngài và Ezekiel phải truyền đạt. Chính Thiên Chúa đã thúc đẩy ông chu toàn nhiệm vụ “Ngài làm cho chân tôi đứng vững”.
Ở phép rửa bên sông Giođan, Chúa Giêsu cũng lãnh nhận một công tác tương tự: “Vừa lên khỏi nước Người liền thấy các tầng trời xé ra và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc l,l0) Cả hai Chúa Giêsu và tiên tri Ezekiel, đều phải rao giảng sự thật cho dân tộc mình, cảnh cáo về lối sống và những sai lầm họ đã lựa chọn. Sứ điệp đó khó nghe và dễ mất lòng, cho nên gặp nhiều chống đối. Các sứ giả tiên tri khác đều ở trong những hoàn cảnh tương tự, bị bách hại và bị giết chết. Riêng Chúa Giêsu còn mạnh mẽ tố cáo các nhân vật đồng thời xây dựng đền đài lộng lẫy, tưởng niệm các tiên tri mà tổ tiên họ đã giết hại.
Trong hầu hết các trường hợp Kinh thánh, sứ giả được Thiên Chúa lựa chọn đều thuộc tầng lớp dân dã, rao giảng cho quần chúng bình dân. Thí dụ như bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu rao giảng cho dân làng Ngài. Họ biết rõ cội nguồn của Ngài. Ngài đã từng sống giữa họ, thuộc về giai cấp thấp hèn trong làng, họ chẳng lạ chi nhà cửa, cha mẹ, họ hàng của Ngài. Bề ngoài Ngài chẳng có dáng dấp gì đặc biệt, tầm thường như mọi người, làm nghề thợ mộc, láng giềng với họ. Cho nên họ rất đỗi ngạc nhiên. Làm sao thượng đế tối cao và thánh thiện lại có thể truyền đạt ý muốn qua một người tầm thường như thế? Bây giờ chúng ta có thể đặt câu hỏi tương tự về những biến cố, sự vật, sứ giả đời thường hiện nay! Có thể là Thiên Chúa sử dụng chúng ta để mưu ích cho giáo dân trong giáo xứ? Có thể là Thiên Chúa nói với chúng ta qua thân nhân, bà con chòm xóm? Kinh nghiệm cho hay khi lớn tuổi hoặc về già, nhiều người vẫn còn nhớ lại thời niên thiếu của mình, nhất là những lời dạy bảo hoặc gương lành của ông bà cha mẹ và lấy đó làm kim chỉ nam hướng dẫn mình suy nghĩ và hành động: “Mẹ tôi hồi ấy thường nói với tôi như thế này, thế nọ” … “Cha tôi hiền và tốt bụng với láng giềng. Người yêu tôi lắm, khi tôi còn nhỏ….”
Đúng là cũng chính Đấng Thiên Chúa , xưa kia đã phán bảo dân Do thái lưu đầy qua tiên tri Ezekiel, thì nay cũng đang nói với chúng ta trong cuộc tha hương lữ thứ riêng mỗi người, qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay. Vậy thì chúng ta đang bị đầy ải ở những nơi đâu? Lưu vong như thế nào? Thưa, đó là những lúc chúng ta cảm thấy mình không còn ở “quê hương chân thật” nữa. Bất hạnh vì nghĩ tai họa xẩy đến, những biến cố không có lợi, như bệnh tật yếu đuối, khổ đau. Chúng ta nghiệm ra khi mình không được yên ổn, trái lại đang bị đầy đọa trong trí khôn, thân xác. Những tương quan tồi tệ với người chung quanh, xa lạ về văn hóa ngôn ngữ, không đồng bộ với hàng xóm láng giềng trong các sinh hoạt thường nhật, khát khao mảnh đất quê hương như Thiên Chúa đã hứa, chán ngấy những tin tức chiến tranh, tiêu diệt chủng tộc, nghèo đói, bất công, áp bức, chia rẽ, kỳ thị… Những cuộc tha hương hay vong thân này và còn nhiều nữa khiến chúng ta bồn chồn lo lắng, khi nghe các bài đọc. Đúng thế, chúng ta đang sống kiếp lưu đầy như dân Do thái xưa, chúng ta chưa phải đã định cư trên đất hứa, chưa cảm thấy như ở quê hương chân thật. Tuy nhiên, một ngày nào đó, chúng ta sẽ được ở đất hứa với Thiên Chúa và mọi sự sẽ tốt đẹp. Ngay lúc này chúng ta còn phải vật lộn, trong những cố gắng nho nhỏ, để chống lại điều dữ, phát huy điều lành, phục hồi sự ngay chính cho cá nhân và hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta biết rằng công việc như thế chẳng hề có tận cùng trên chốn lưu đầy này.
Tiên tri Ezekiel và Chúa Giêsu cũng đã thi hành sứ vụ như vậy, các Ngài là thành phần của quần chúng mà các Ngài phải rao giảng, để sửa lại những đường lối, não trạng sai lầm, những suy nghĩ lệch lạc. Các Ngài thúc dục họ thực hiện những đổi thay cần thiết trong cuộc sống riêng tư và công cộng. Các Ngài đã gặp nhiều chống đối từ phía lãnh đạo xã hội và tôn giáo. Mặt khác, các Ngài cũng được sai đến để yên ủi khuyến khích các nạn nhân. Những người bị thiệt thòi trong cán cân công lý. Họ được nghe các tiên tri đoan hứa: Một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ chấn chỉnh mọi sự. Rứt khoát là như vậy. Thiên hạ sẽ sống trong an lạc và công lý. Đối với những ai bị áp bức, các Ngài tuyên bố Thiên Chúa đã lưu ý đến tình trạng khốn khổ của họ. Ngài sẽ ra tay báo oán ác nhân và sửa chữa những nỗi bất công. Đối với những linh hồn can đảm, dám xả thân vì chính nghĩa, đòi hỏi công bằng xã hội, các ngôn sứ đem lời khuyến khích của Thượng đế, để họ tiến xa hơn trong công việc lành thánh.
Người làng của Chúa Giêsu không phủ nhận các việc làm lạ lùng, sự khôn ngoan thông tuệ của Ngài. Nhưng họ không có khả năng nhìn thâu qua các công việc cụ thể, cảm giác được. Họ không chấp nhận sứ điệp của Ngài bởi chẳng nhìn thấy nó đến từ Thiên Chúa. Làm thế nào, một con người bình thường, hàng xóm thường ngày của họ, lại có thể rao giảng những điều cao siêu nhân danh Thượng đế? Hơn nữa, ông lại có thể giải thoát khỏi tội lỗi? Và khai mở một tương lai hoàn toàn mới? Họ có thể ngạc nhiên về những gì mình xem và nghe thấy. Nhưng vâng theo và thay đổi nếp sống thì không. Thật đáng tiếc! Nếu như họ tin vào sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, chắc chắn họ đã được Lời Chúa hướng dẫn và khích lệ. Nếu họ hiểu được các phép lạ của Chúa Giêsu, họ đã có thể cảm nghiệm cánh tay quyền phép của Thiên Chúa . Sau khi Chúa Giêsu chịu chết họ đã hãnh diện treo trên cổng làng mình tấm bảng ghi nhớ: “Đức Giêsu Kytô đã sinh ra và lớn lên tại đây” hoặc có lẽ họ đã lấy tên Ngài đặt cho một quảng trường hoặc hội quán thể thao nào đó. Nhưng bất hạnh, họ đã để lỡ cơ hội, không nhận ra bàn tay Thiên Chúa với tới họ qua vị tiên tri qúi danh là Giêsu. Đúng như lời các ngôn sứ xưa: “Không một tiên tri nào được tôn trọng nơi quê hương mình”.
Như vậy chúng ta có thể lượng định dân làng Nazarét đồng hương, đồng thời với Chúa Giêsu đã lây nhiễm thái độ của những kẻ yếm thế, thất vọng, không còn tin tưởng, cậy trông Thiên Chúa hành động trong cuộc đời mình. Cản trở đường lối Thiên Chúa trong các biến cố sinh hoạt thường ngày, do những tập tục tự mình tạo nên. Họ không thấy Chúa Giêsu là Đấng thiên sai cha ông họ mong đợi.
Nếu như chúng ta cũng theo não trạng Do thái, chờ đợi một Thiên Chúa oai hùng, phán với dân Ngài qua tiếng sấm, tiếng sét, ánh chớp chói lòa, thì chúng ta phải đợi chờ lâu lắm, chẳng biết đến bao giờ. Lại nữa, nếu chúng ta cũng theo não trạng Do thái chờ đợi một ai đó vạch ra con đường tương lai chắc chắn, phân biệt rõ ràng điều dữ phải tránh, điều lành phải làm, để rồi vững bụng biết mình đang đi trên đường chính nẻo ngay, thì chúng ta có lẽ phải đợi chờ đến ngàn năm, vạn kiếp thiên thu.
Phải, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta làm tiên tri và chúng ta cũng chỉ là những con người bình thường. Nếu như Ngài sai chúng ta làm ngôn sứ trong chính quê hương mình, thì Ngài sẽ kiện cường chúng ta, công nhận, dậy bảo và nuôi dưỡng chúng ta. Đúng thật, hôm nay Ngài thực hiện điều đó nơi mỗi người chúng ta. Công việc phải làm là lắng nghe Lời Ngài trong buổi phụng vụ này. Bởi lẽ trong các bài đọc chúng ta sẽ được nghe Chúa Thánh thần nhắc nhớ chúng ta đang sống kiếp lưu đầy. Chính Ngài làm cho “đôi chân vững vàng” và sai gởi chúng ta đi loan báo cho anh em đồng bào, đúng như khi xưa Thần khí đã sai phái Ezekiel, Thánh Phaolô và Chúa Giêsu rao giảng cho dân tộc Do thái. Chúng ta cũng cần suy gẫm lại bánh rượu, trên bàn thờ hôm nay, chúng chỉ là những hoa mầu dân dã, nhưng lại là của ăn thức uống cần thiết cho các sứ giả thời nay. Vì sao? Có nhiều lý do, và một trong các lý do đó là ban sức mạnh cho mỗi người trong những cuộc lữ thứ cá nhân: đau khổ bệnh tật, nghèo đói hoạn nạn… Sống trong tình huống lưu đầy với bao lo lắng trần gian, chúng ta không có nhiều cơ hội hồi tưởng: Trái đất này không phải là quê hương vĩnh cửu. Quê hương vĩnh viễn phải là nước trời. Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay chỉ là bữa ăn của những kẻ tha hương. Nó giúp chúng ta mạnh sức và tập trung tư tưởng, ý chí vào đường lối Thiên Chúa. Nó nuôi dưỡng hy vọng vào quê hương chân thật, cho hưởng trước những ngọt ngào vui thỏa của quê hương đó và mạnh dạn làm chứng cho thế gian biết: Có một nơi gọi là thiên quốc, nhân loại phải nỗ lực tiến về, không loại trừ một ai! Xin Chúa cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, tránh được thái độ vô tín của dân làng Nagiazet, mau mắn tin vào Chúa Giêsu và xứ vụ của Ngài. Ngõ hầu Ngài có thể thực hiện nhiều dấu lạ giữa chúng ta, nhờ đó cộng đoàn giáo xứ nhanh chóng tiến triển trong đức tin. Amen.
Lắng nghe Lời Chúa để trở nên người phục vụ nhỏ bé của anh em.
LẮNG NGHE LỜI CHÚA ĐỂ TRỞ NÊN NGƯỜI PHỤC VỤ NHỎ BÉ CỦA ANH EM
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất về ơn gọi làm ngôn sứ của Ê-dê-ki-en, chúng ta muốn nói ngay “tiếp theo”, và rồi qua các bài sách khác hy vọng sẽ nghe được nghe những điều có ý nghĩa hơn cho đời sống của chúng ta. Nghĩ kỹ lại chúng ta không được thị kiến nào cả. Nay nghe tiếng nói của Thiên Chúa gọi chúng ta làm ngôn sứ. Ngay cả khi chúng ta cảm thấy được gọi nói với một người nào, hay hành động về một vấn đề gì, lời gọi ông Ê-dê-ki-en có thể làm chúng ta dừng lại. Thiên Chúa sai ông Ê-dê-ki-en đến với một dân tộc “phiến loạn lòng trơ tráo, mặt chai đá”. Chừng ấy cũng đủ làm một phàm nhân trả lời “thôi quên chuyện đó đi”.
Nhưng chúng ta không nên vội tiến tới. Thật ra ông Ê-dê-ki-en được Thiên Chúa giao cho một trách nhiệm khó khăn, và ông ta là một phàm nhân như tất cả chúng ta.Ông ta sợ hải, và ai lại không sợ chứ? Chổ này là đoạn thứ hai phần đầu của sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Sách bắt đầu với: trời mở ra với thị kiến thần linh, có gió bão thổi đến, có đám mây lớn và lửa rập rờn, hào quang vang cả xung quanh, và từ giữa như thể kim ngân long lanh từ lửa. Và từ giữa có gì giống tựa bốn sinh vật giống tựa người ta. Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh. Các sinh vật đi trên bánh xe dưới đát. Có gì như kim ngân long lanh coi dường như lửa làm vòng xung quanh. Đó là hình dáng của cái gì giống tựa vinh quang Đức Chúa (Ed 1: 28). Rồi thần linh Thiên Chúa vào trong ông ta để đỡ ông ta “Đứng dậy”.
Thiên Chúa có lời phán cho dân chúng, và chọn con người như chúng ta nói lên lời đó. Các ngôn sứ không tự do nghĩ trách nhiệm của họ là gì, nhưng họ là những người Thiên Chúa sai đi. Và đó la tất cả điều khác biệt. Thiên Chúa chọn người; Thiên Chúa bảo chúng ta “đứng dậy đi”; Thiên Chúa cho sứ mạng phải nói gì; Thiên Chúa chọn sứ mạng sẽ như thế nào v.v… Trong tay Thiên Chúa là tất cả: sứ mạng, ngôn sứ, và dân chúng.
Thiên Chúa chọn ông Ê-dê-ki-en nói lời an ủi cho dân Israel đang bị tù đày và thất bại. Thiên Chúa hứa sẽ làm cho họ phấn khởi lên (Ed 36). Thiên Chúa sẽ làm cho núi non, gò mỗng, lòng suối, xương khô trong thung lũng sẽ sống lại và trở nên một dân tộc mới (Ed:37). Đây là bắt đâu trách nhiệm của Ê-dê-ki-en, và ông ta cảm thấy không đủ sức. Ông ta chưa được có thị kiến về việc Thiễn Chúa sẽ làm gì cho dân chúng. Thiên Chúa làm sao thức tỉnh dân chúng trong tù đày và đem họ trở về quê quán của họ? Chỉ có Thiên Chúa mới biết, và mới làm được. Và đó mới là điểm chính: Thiên Chúa nắm giử tất cả. Nhưng, Thiên Chúa cần người thường dân muốn đáp lại lời gọi của Ngài – và đây là bổn phận của chúng ta.
Thiên Chúa có thể đem dân chúng ra khỏi thất bại. Chúng ta có biết một cộng đoàn nào, hay một nhóm người nào trong xã hội đã bị thất bại, chán nãn không? Chúng ta có được gởi đến với họ để nói lời an ủi phấn khởi họ, và hành động theo lời nói của chúng ta hay không? Có thể chúng ta, những Ê-dê-ki-en, không được gởi đến với một cộng đoàn nhưng đến với từng cá nhân. Hãy nhìn xung quanh chúng ta, trong gia đình, nơi sở làm, bạn bè, hàng xóm, hay người nào trong viện dưỡng lão. Chúng ta sẽ nói gì với họ? Chúng ta sẽ làm gì cho họ? Đến bây giờ chúng ta chưa biết được. Nhủng, qua phép rửa tội, chúng ta tất cả được gọi làm ngôn sứ để nói lời an ủi, và thử thách của Thiên Chúa cho những ai cần đến.
Chúng ta sẽ làm gì? Việc đầu tiên bài sách nói với chúng ta là: “như Thiên Chúa đã bảo tôi…” Việc đầu tiên làm ngôn sứ là nghe lời Thiên Chúa. Chúng ta cũng như ông Ê-dê-ki-en sẽ được Thiên Chúa mời gọi, “Và Chúa Thánh Thần ngự trong tôi và đặt trên đôi chân của tôi.” đó là Thiên Chúa đã chọn chúng tôi và được giao một sứ vụ cho chúng tôi, như một người lắng nghe Lời Chúa phán.
Bài sách Ê-dê-ki-en đưa đến bài phúc âm. Cũng như các ngôn sứ khác, ông Ê-dê-ki-en cho thấy những yếu điểm của người phàm. Hình dáng và lịch sử của người đó có thể làm mất tín nhiệm như chúng ta thấy trong kinh nghiệm ông Ê-dê-ki-en là Thiên Chúa có thể làm nhiều điều vinh quang qua người phàm.
Trong xóm làng của Chúa Giêsu, Ngài chỉ là một “người phàm”. Chúa Giêsu đã sinh ra như tẩt cả chúng ta, qua một hài nhi yếu ớt và cần phải được nuôi dưỡng. Lúc Chúa Giêsu là hài nhi, Ngài cần phải có người săn sóc. Phúc âm không phải là thần thoại Hy lạp nói về các chúa của họ sinh ra khôn lớn và ra lệnh ngay. Không, Chúa Giêsu sinh ra như tất cả người phàm, yếu ớt và cần phải có người nuôi dưỡng săn sóc.
Trước đoạn phúc âm đọc ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ như; khi Ngài chịu phép rửa có tiếng từ trời phán xuống “Con là Con yêu dấu của Cha. Cha rất hài lòng về con”. Sau khi Chúa Giêsu bị quỷ dữ cám dỗ trong hoang địa, Ngài gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài chửa người bị quỷ ám trong hội đường, và ngủỏ#i bại liệt ỏ# Capharnaum; Ngài trừ quỷ ám một người sống trong nghĩa địa ở Ghê ra sa; Ngài cứu con gái ông hội trưởng hội đường đã chết được sống lại; Ngài chửa người phụ nữ bị băng huyết v.v… Chúng ta vẫn còn trong phần đầu phúc âm thánh Mác cô, nhưng Chúa Giê su đã làm nhiều việc lạ lùng, chúng ta đã nghe Ngài nói là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
Tất cả những việc làm lớn lao đó ngừng ngay khi Ngài trở về quê quán Ngài. Các bạn bè và bà con trong gia đình có đó. Nhưng họ không chấp nhận Ngài. Ngài chỉ là một người thường như họ và như chúng ta. Có thể bà con trong họ hàng muốn có một người có nhiều sức mạnh hơn để cứu thoát họ khỏi ách nô lệ đàn áp của đế quốc La mã, và khỏi cảnh nghèo nàn. Trước kia Chúa Giêsu đã giúp những người cần được giúp đở, nhưng vì sao Ngài lại không tỏ sức mạnh hơn để giúp bà con họ hàng? Thật sự họ chỉ cần thế thôi
Người dân muốn những dấu hiệu mạnh mẽ của Thiên Chúa đến họ với một cánh tay thần lực để giải cứu họ. Nhưng khi Chúa Giêsu nói với họ về dấu chỉ Triều Đại Thiên Chúa khởi sự nhỏ bé như hạt cải “loại hạt giống nhỏ nhất trong các thứ hạt”, thì làm sao Thiên Chúa tỏ sức mạnh quyền uy trong hạt cải được? Và vì thế họ thất vọng nên chống đối Ngài.
Chúng ta cũng có thể có thái độ đó nếu chúng ta mong đợi Thiên Chúa tỏ mình trong các việc làm hùng hậu rềnh rang. Trái lại, Chúa Giêsu đã bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa qua quyền uy khác: quyền uy để giúp người khác chứ không phải giúp chúng ta. Một quyền uy dịu dàng, không ép buộc người khác phải làm theo ý mình một quyền uy cảm thông và nhẹ nhàng khi người khác mong đợi sức mạnh.
Đáng lý dùng quyền uy để đánh tan kẻ thù của Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu chấp nhận đau khổ và sự chết. Ngài phó thác mọi sự trong bàn tay Thiên Chúa, và tha thứ cho kẻ thù, ban cho họ một đời sống mới, đời sống mà thế gian không nhận ra vì là đời sống bình thường của những người bình thường như chúng ta. Chúng ta chấp nhận sự yếu đuối và sự thiếu sót của chúng ta, Nhưng chúng ta chấp nhận thần linh Thiên Chúa và Lời Thiên Chúa nói để nâng đở chúng ta và giúp chúng ta “đứng dậy”.
Lời Chúa xuyên suốt trong ba bài đọc Chúa Nhật 14 QN. hôm nay, Mẹ Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về sứ mạng Ngôn Sứ của mỗi người, nên ngay bài đọc I trích sách (Ez.2,2-5) cho chúng ta thấy Ngôn Sứ Ezêkiel được mời gọi chuyển sứ điệp của Chúa cho dân Israel, một dân cứng đầu cứng cổ, quảb là một sứ mạng thật khó khăn nhưng ngôn sứ luôn trông cậy Chúa (Tv.122). Và chính Thánh Phaolô trong bài đọc II ( 2Cor.7-10) cũng tự bộc bạch rằng: bản thân rất yếu đuối, đôi khi muốn ngã lòng, nhưng Chúa khích lệ “ơn Ta đủ cho con” nên Thánh nhân tin tưởng và tiếp tục sứ mạng. Sau cùng Chúa Giêsu cũng gặp thử thách trong sứ mạng ngôn sứ, họ không tin vào Chúa Giêsu cũng chỉ vì thấy nguồn gốc của Người quá tầm thường (Mc.6,1-6)
Là một ngôn sứ thì phải nói Lời Thiên Chúa, mà Lời Chúa thì luôn nói thẳng nói thật ” sự thật hay mất lòng” cho nên người nghe không muốn tiếp nhận, nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét, như ngôn sứ Ezêkiel kêu gọi người ta sám hối tội lỗi ” bàn thờ các ngươi sẽ bị tàn phá..các thành trì sẽ nên hoang tàn đổ nát”(Ez.6,4), lời nói này khiến họ kết án ông và nhiều lần bách hại ông. Thánh Gioan Baotixita vị ngôn sứ lớn nhất thời Cựu ước cũng bị Hêrôdê chém đầu vì đã dám lên tiếng vạch tội loạn luân của vua, còn rất nhiều ngôn sứ khác cũng không thoát khỏi lao đao lận đận do đã thay mặt Chúa nói lên những sự thật mất lòng ấy.
Và Chúa Giêsu vị ngôn sứ trên mọi ngôn sứ cũng rơi vào tình trạng đau thương đó, với con mắt thiển cận, hẹp hòi, họ không chấp nhận Chúa Giêsu vì Người vạch tội họ, nhất là Biệt Phái giả hình, luật sĩ, thượng tế, họ tìm cách tẩy chay Chúa Giêsu, cả những người đồng hương của Chúa, họ không tin Chúa Giêsu vì họ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người, không hào quang danh giá mà chỉ là bác thợ mộc âm thầm khiêm tốn. Dù là con Thiên Chúa Người cũng phải bó tay trước sự cứng lòng của con người, Người trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin.
Chúng ta những người Kitô hữu đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, nên cũng tham dự vào chứ vụ ngôn sứ, chúng ta cũng phải can đảm lên tiếng nói lời Thiên Chúa cho xã hội đầy bất bất công, một xã hội đang tự hủy diệt mình bằng những phương tiện tối tân của khoa học, để rồi giết hại lẫn nhau bằng chiến tranh, bằng những hóa chất trong thực phẩm, bằng những phá thai và ma túy. Chúng ta có dám lên tiếng không hay giả điếc ngó lơ, chỉ muốn yên thân? Nếu như thế là chúng ta đã không thi hành chứ năng ngôn sứ của mình. Chúng ta hãy thẳng thắn bằng lời bộc trực hoặc bằng lời lẽ từ tốn tế nhị nhưng không bao giờ được ngậm miệng không nói. Đừng sợ trước những khó khăn, những bất trắc. Nên nhớ rằng “ơn Ta đủ cho con”, gánh nặng đời ta nặng nề Chúa sẽ thêm ơn, gặp thử thách Người sẽ gửi bình an, gặp đau khổ Người sẽ gia tăng lòng thương xót, và khi thấy sức tàn lực cạn thì ơn Chúa sẽ tràn đầy.
Lạy Chúa, xin trợ giúp chúng con để dù chúng con có phải lâm vào hoàn cảnh bị hiểu lầm, thua thiệt, chống đối vì đã dám nói Lời Chúa, chúng con vẫn không nản chí thất vọng, nhưng luôn trung thành với đức tin đã lãnh nhận và thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình.
Thánh Phaolô được Chúa ban cho nhiều tài năng, được thấy nhiều điềm thiêng dấu lạ, nhưng ông đã phải chịu nhiều đau khổ. Ông xin Chúa cất đi những đau khổ. Chúa phán: “Ơn của Ta đã đủ cho con, vì sức mạnh của Ta biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Và Phaolô đã tâm sự: “Giờ đây tôi cảm thấy vui sướng khi bị sỉ nhục, hoạn nạn bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô…”
Esther, một thiếu nữ mù, tâm sự: “Con có nhiều mộng ước, từ khi bị mù con phải bỏ tất cả… Nhưng bất hạnh biến thành hồng phúc… Trước đó con sống không có Thiên Chúa, giờ đây nhờ đau khổ, con học biết Ngài, con tìm thấy Ngài, và con không thể sống không có Ngài… Trước đó niềm vui của con chợt đến chợt đi và không bao giờ con tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn của hạnh phúc; giờ đây niềm hạnh phúc của con mãnh liệt, tràn đầy, sâu kín và thường xuyên… Lòng con rực sáng, hay nói đúng hơn, Chúa Giêsu rực sáng trong lòng con, mối hiệp thông giữa con và Thiên Chúa trở nên mãnh liệt… Chúa cất mất nơi con vài hạnh phúc tạm bợ để ban cho con chính Ngài… Trước đó có nhiều lúc con ngồi yên, không biết phải làm gì, giờ đây con cầu nguyện… Và khi con mở lòng ra, không qui về mình mà qui về chính Thiên Chúa, Chúa có thể xuất hiện. Lòng con cảm nghiệm cách mãnh liệt Chúa đang có mặt… Khi con đặt mọi sự trong tay Chúa, con cảm thấy gánh nặng biến mất… Khi cầu nguyện con yêu mến Ngài và bày tỏ cùng Ngài mọi sự… Căn phòng nhỏ bé của con biến thành nhà nguyện để con sống thân mật với Chúa và Mẹ Maria, và con cầu nguyện cho mọi người… Con nhìn mọi người cách khác, và con yêu mến tất cả…” (*)
Đau khổ là một phần quan trọng trong hành trình làm người tiến đến gặp gỡ Chúa và chuyển biến tâm hồn con người thành con Chúa… Đau khổ không bao giờ do Thiên Chúa. Chúa là Tình Yêu. Sau khi tạo dựng vũ trụ và con người, Chúa phán: “Rất tốt đẹp”… Nhưng ma quỷ đã đến gieo cỏ lùng vào vũ trụ và vào lòng người, và con người có tự do chọn lựa Thiên Chúa hay không… Nhưng Chúa dùng đau khổ biến thành hồng ân để con người tiến đến một niềm hạnh phúc đích thực và sâu sa hơn… Niềm đau khổ sau cùng là sự chết đã trở thành đôi cánh nhiệm mầu để con người bay vào thiên đàng…
Đứng trước đau khổ con người có nhiều cách nhìn: sợ hãi, chạy trốn, hoặc phản ứng, hoặc biến thành cơ hội để nên thánh… Thánh Faustina viết: “Giữa những gian truân và nghịch cảnh cam go nhất, tôi không đánh mất bình an nội tâm hoặc sự quân bình bên ngoài, tôi im lặng và cầu nguyện. Sự nhẫn nại sẽ đem lại sức mạnh cho linh hồn…”
Mỗi đau khổ xảy đến là một cơ hội ta chạy đến Cha đầy lòng thương xót và khôn ngoan, Ngài sẽ dạy ta yêu mến đau khổ. Ta sẽ nhìn đau khổ như Đức Giêsu Con yêu dấu của Ngài, như các thánh… Thánh Ignatius thành Antioch đã vui sướng trong cuộc tử đạo của Ngài: “Tôi nghe lời Chúa vang vọng, như dòng nước hằng sống chảy tràn trong hồn tôi: ‘Hãy đến hưởng niềm vui của Cha người’.”
Đời sống là một hành trình về nhà Cha. Khi gặp đau khổ, hay trong tuổi già, là lúc cần quay hướng sống về đời vĩnh cữu: Con người được tạo dựng để sống không phải để chết. Và sự sống tràn đầy là sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Hãy phó thác mọi sự và sự sống sau cùng trong tay Ngài, và để Ngài giúp ta thánh hoá đau khổ và trong hành trình cuối cùng về nhà Cha…
——————————————
(*) Tóm tắt và phỏng theo bài dịch “Đức Tin Của Một Thiếu Nữ Mù” của Sr. Minh Nguyệt, TTDM số 314, tháng 2- 2004.