Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 2 Thường Niên C
Lời Chúa: Is 62,1-5; 1Cr 12,4-11; Ga 2,1-11
MỤC LỤC
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 4
- Họ hết rượu rồi 10
- Họ hết rượu rồi 13
- Mời Chúa đến nhà. 17
- Chúa nhật 2 Thường niên. 20
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 23
- Phép lạ. 32
- Tiệc cưới Cana. 34
- Để cho tình mặn nồng. 37
- Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa. 42
- Dấu lạ đầu tiên. 46
- Phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu. 49
- Rượu ân sủng. 53
- Ngài là ai?. 57
- Người bảo gì cứ làm theo. 60
- Hôn ước giữa Thiên Chúa với loài người 64
- Hãy mời Chúa vào nhà. 76
- Niềm vui trong thời Đấng Thiên Sai 80
- Tiệc cưới Cana. 83
- Tiệc cưới Cana. 88
- Ân sủng. 92
- Hôn nhân không có hôn thú. 97
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 105
- Cuộc sống luôn cần sự quan tâm.. 108
- Có Mẹ đồng hành. 113
- Rượu hết – Rượu đầy. 117
- Tiệc cưới Cana. 123
- Ý nghĩa phép lạ Cana. 126
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 132
- Biến đổi kỳ diệu. 135
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 138
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 142
- Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo. 145
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 149
- Gia đình có Mẹ. 153
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 157
- Vị khách quyền năng. 159
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 162
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 165
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 167
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 170
- Hãy mời Chúa vào nhà. 173
- Giêsu, niềm vui mới 177
- Cana. 181
- Tiệc cưới Cana. 186
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 199
- Nước hằng sống. 206
- Ngày thứ Ba. 208
- Dấu chỉ tiệc cưới Cana. 211
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 216
- Bình an, êm xuôi là ơn Chúa. 219
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 222
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 225
- Hãy mời Chúa đến nhà bạn. 228
- Năm đức tin, sống điều Chúa dạy. 231
- Khi lửa tắt, bình khô rượu. 234
- Biến đổi 239
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 241
- Vị khách. 247
- Hạnh phúc mong manh. 249
- Chúa Giêsu thay đổi tất cả. 252
- Hôn Phu Giáo Hội 255
- Chuyện bất ngờ. 257
- Thiên Chúa sẽ lấp đầy. 260
- Tiệc cưới 263
- Tình yêu với chai rượu Cana. 266
- Chúa nhật 2 Thường niên. 270
- Có Mẹ chở che. 273
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 276
- Có Chúa, niềm vui sẽ trọn vẹn. 279
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 284
- Cảm thông. 286
- Chúa nhật 2 thường niên. 291
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 294
- Tiệc cưới Cana. 307
- Rượu ngon sẽ không thiếu. 333
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 336
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 343
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 351
- Niềm vui lớn. 359
- Chúa Nhật 2 Thường Niên. 362
- Tiệc cưới tại Cana. 366
- Nhờ Mẹ đến với Chúa. 370
1.Chúa Nhật 2 Thường Niên
Đức Thánh Cha Phanxicô
Tình yêu Thiên Chúa tỏ bày nơi dấu lạ tiệc cưới Cana
Vaticannews.va/vn – Vào trưa Chúa Nhật, ngày 16/01/2022, tại cửa sổ Dinh Tông Tòa, Đức Thánh Cha đã cùng đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha có bài huấn dụ ngắn với các tín hữu. Trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha mời gọi suy tư về dấu lạ tiệc cưới Cana. Một dấu lạ tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa.
Mở đầu bài huấn dụ, ĐTC nói:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Tin Mừng Phụng vụ hôm nay thuật lại diễn biến tiệc cưới Cana, nơi Chúa Giêsu biến nước thành rượu trong ngày vui của đôi tân hôn. Và có thể kết luận thế này: “Đây là sự khởi đầu các dấu lạ của Chúa Giêsu; Người đã bày tỏ vinh quang và các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2,11). Chúng ta lưu ý rằng thánh sử Gioan không nói về một phép lạ, nghĩa là, một biến cố quyền năng và phi thường tạo ra sự kinh ngạc. Ông viết rằng một dấu lạ / dấu chỉ xảy ra ở Cana và nó làm khơi dậy đức tin của các môn đệ. Sau đó, chúng ta có thể tự hỏi: theo Tin Mừng, “một dấu lạ” là gì?
Một dấu lạ là dấu vết cho thấy tình yêu của Thiên Chúa, vốn là điều không tạo nên sự chú ý đến sức mạnh của cử chỉ, nhưng hướng đến tình yêu đã khởi phát nó. Nó dạy chúng ta một điều gì đó về tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu luôn gần gũi, dịu dàng và đầy lòng trắc ẩn. Dấu lạ đầu tiên xảy ra khi một đôi tân hôn đang gặp rắc rối trong ngày quan trọng nhất của cuộc đời. Giữa bữa tiệc, một điều thiết yếu, là rượu, đã bị thiếu và niềm vui có nguy cơ bị dập tắt giữa những lời chỉ trích và không hài lòng của khách mời. Làm thế nào mà tiệc cưới tiếp tục diễn ra mà chỉ toàn là nước! Thật là tệ, đôi tân hôn sẽ trông rất tệ!
Chính Đức Mẹ đã nhận ra được vấn đề và kín đáo báo cho Chúa Giêsu, và Người đã can thiệp một cách lặng lẽ, hầu như không để lộ ra. Mọi việc diễn ra trong bí mật, “nơi hậu trường”: Chúa Giêsu bảo các gia nhân đổ đầy nước vào các chum để trở thành rượu. Đây là cách Thiên Chúa hành động, với sự gần gũi và kín đáo. Các môn đệ của Chúa Giêsu nhận ra được điều này: họ thấy rằng nhờ Người mà tiệc cưới càng trở nên đẹp đẽ hơn. Và họ cũng nhìn thấy cách thức hành động, cung cách phục vụ của Chúa Giêsu trong sự ẩn mình – đó là chính Chúa Giêsu, Người giúp đỡ chúng ta, phục vụ chúng ta trong sự ẩn mình, trong khoảng khắc đấy – và rồi rất nhiều lời khen về rượu ngon dành cho tân lang. Thế nên, hạt mầm đức tin bắt đầu phát triển trong họ, tức là họ tin rằng Thiên Chúa, tình yêu của Thiên Chúa, đang hiện diện nơi Chúa Giêsu.
Thật tốt khi nghĩ rằng dấu lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu thực hiện không phải là một sự chữa lành phi thường hay một điều kỳ diệu trong đền thờ Giê-ru-sa-lem, mà là một cử chỉ đáp ứng nhu cầu đơn giản và cụ thể của những người bình thường, một cử chỉ ngay trong nhà, một phép lạ; chúng ta có thể nói như vậy, “đi kiễng chân”, kín đáo, thinh lặng. Người sẵn sàng giúp đỡ và nâng đỡ chúng ta. Và sau đó, nếu chúng ta chú ý đến những “dấu lạ” này, thì chúng ta sẽ được tình yêu của Người chinh phục và chúng ta trở thành môn đệ của Người.
Nhưng có một điểm đặc biệt khác nơi dấu lạ Cana. Nói chung, rượu được đưa ra cho đến cuối bữa tiệc là loại kém ngon, vì đó là loại đã được pha nhiều nước. Thậm chí ngày nay, người ta cũng làm như vậy, người ta không thể phân biệt rõ đâu là rượu ngon và đâu là rượu pha nước. Ngược lại, Chúa Giêsu làm cho bữa tiệc kết thúc với loại rượu ngon nhất. Điều này cho chúng ta thấy một cách biểu tượng rằng Thiên Chúa muốn điều tốt nhất cho chúng ta, Người muốn chúng ta hạnh phúc. Nó không đặt ra giới hạn và không yêu cầu chúng ta về lợi ích. Trong dấu lạ của Chúa Giêsu, không có chỗ cho những động cơ khác để đưa ra yêu sách đối với đôi tân hôn. Không, niềm vui mà Chúa Giêsu để lại trong trái tim là niềm vui tràn đầy và nhưng không. Nó không phải là niềm vui pha nước!
Vì vậy, tôi đề nghị một bài tập có thể giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Hôm nay chúng ta hãy thử lục lại ký ức để tìm kiếm những dấu lạ mà Chúa đã thực hiện trong cuộc đời tôi. Mỗi người hãy nói: trong đời tôi, Chúa đã thực hiện dấu lạ nào? Chúng gợi lên điều gì về sự hiện diện của Người? Những dấu lạ được thực hiện để cho chúng ta thấy rằng Người yêu thương chúng ta; khoảnh khắc khó khăn mà Chúa đã giúp tôi cảm nghiệm được tình yêu của Người… Và chúng ta hãy tự hỏi: qua những dấu lạ nào, kín đáo và ân cần, Người đã làm cho tôi cảm nhận được sự dịu dàng của Người? Khi tôi cảm thấy Chúa gần gũi hơn, khi nào tôi cảm thấy sự dịu dàng, lòng trắc ẩn của Người? Mỗi người trong chúng ta trong lịch sử đời mình đều có những khoảnh khắc này. Chúng ta hãy khám phá ra những dấu lạ đó, ghi nhớ chúng. Làm thế nào tôi khám phá ra sự gần gũi của Người và một niềm vui lớn vẫn còn trong lòng tôi thế nào? Chúng ta hãy hồi tưởng lại những khoảnh khắc mà chúng ta đã cảm nghiệm sự hiện diện của Người và sự chuyển cầu của Mẹ Maria. Xin Mẹ, như ở Cana, Mẹ luôn để ý, giúp chúng ta biết trân trọng những dấu lạ của Chúa trong cuộc đời chúng ta.
—————————–
Ngày 20/01/2019 – QUA CHÚA GIÊSU, THIÊN CHÚA ĐÃ KẾT HÔN VỚI NHÂN LOẠI
Phép lạ tại tiệc cưới Cana mặc khải tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Chúa Giêsu chính là vị hôn phu đích thực của Giáo hội. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã kết hôn với nhân loại. Chúa Giêsu hiện diện tại tiệc cưới Cana chính là tin vui cho con người. Người chia sẻ số phận của con người. Người tái lập lại giao ước tình yêu đã bị con người phản bội.
Đó là ý tưởng ĐTC Phanxicô đã chia sẻ về ý nghĩa của bài Tin mừng Chúa nhật thứ 2 mùa quanh năm, trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 20.01. ĐTC mời gọi các tín hữu hãy ghi nhớ lời Mẹ Maria : “Bất cứ điều gì Chúa yêu cầu, hãy làm theo!”. ĐTC bắt đầu bài huấn dụ như sau:
Phép lạ Cana mặc khải tình yêu của Thiên Chúa
Chúa nhật tuần trước, với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta đã bắt đầu hành trình phụng vụ mùa thường niên: trong thời gian này chúng ta theo Chúa Giêsu trong cuộc đời công khai, trong sứ vụ mà Chúa Cha đã sai Người đến thế gian để thực hiện. Trong Tin mừng hôm nay (x. Ga, 2,1-11), chúng ta đọc thấy trình thuật kể lại phép lạ đầu tiên trong các phép lạ của Chúa Giêsu.
Thiên Chúa đã kết hôn với nhân loại
ĐTC giải thích ý nghĩa của dấu chỉ đầu tiên trong số các dấu chỉ lạ lùng được thực hiện tại Cana, vùng Galilea, trong một tiệc cưới. Không phải tình cờ mà khởi đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu lại được đặt trong bối cảnh của một lễ cưới, bởi vì qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã kết hôn với nhân loại: đây là tin vui, ngay cả khi những người mời Chúa chưa biết rằng Con Thiên Chúa đang ngồi cùng bàn với họ và Người là chàng rể đích thực. Trên thực tế, tất cả mầu nhiệm về phép lạ ở Cana nằm ở sự hiện diện của Chúa Giêsu, chàng rể thần linh, Đấng bắt đầu tỏ mình ra. Chúa Giêsu tỏ mình ra như vị hôn phu của dân Thiên Chúa, đã được các ngôn sứ loan báo và bày tỏ cho chúng ta sự sâu thẳm của mối tương quan liên kết chúng ta với Người: đó là một Giao ước mới của tình yêu.
Luật Môse trở thành điều mang niềm vui
Trong bối cảnh của Giao ước, chúng ta hiểu trọn vẹn ý nghĩa biểu tượng của rượu, thứ là trọng tâm của phép lạ này. Chính lúc tiệc cưới đang diễn ra nửa chừng thì rượu lại hết, Mẹ Maria, như một người mẹ, nhận ra điều này và ngay lập tức đến nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (c.3). Các sách Thánh kinh, đặc biệt là các sách ngôn sứ, xác định rượu như yếu tố đặc trưng của bữa tiệc của Đấng Cứu Thế (x. Am9,13-14; Ge 2,24; Is 25,6), khi Đấng Cứu Thế đến. Nước cần thiết để sống nhưng rượu diễn tả sự tràn đầy của bữa tiệc và niềm vui của ngày lễ. Khi biến nước trong các bình được dùng “cho việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái” (c.6) thành rượu, Chúa Giêsu thực hiện một dấu chỉ hùng hồn: biến đổi Luật Môsê trong Tin mừng thành điều mang niềm vui.
“Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”
ĐTC mời gọi các tín hữu vâng theo lời dạy của Mẹ Maria, ngài nói: Những lời của Mẹ Maria nói với gia nhân trở thành triều thiên của tiệc cưới Cana: “Người bảo gi các anh cứ việc làm theo” (v.5). Ngày hôm nay, Mẹ Maria cũng nói với tất cả chúng ta: “Bất cứ điều gì Người nói với các con, hãy làm theo”. Những lời này là gia sản quý giá mà Mẹ của chúng ta để lại cho chúng ta. Và thực tế là, tại Cana, các gia nhân đã vâng lời Mẹ. “Chúa Giêsu nói với họ: Hãy đổ đầy nước vào chum đi. Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: ‘Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc. Họ liền đem cho ông” (cc 7-8). Thật vậy, trong tiệc cưới này, một Giao ước mới được lập ra và sứ mạng mới được giao phó cho các tôi tớ của Chúa, nghĩa là cho toàn thể Giáo hội: “Bất cứ điều gì Người yêu cầu, các con hãy làm theo”.
Phục vụ Thiên Chúa nghĩa là lắng nghe và thực hành lời Người
Phục vụ Thiên Chúa nghĩa là lắng nghe và thực hành lời Người. Đó là lệnh truyền đơn giản và thiết yếu của Mẹ Chúa Giêsu, đó là chương trình sống của Kitô hữu. Tôi muốn nhấn mạnh đến một kinh nghiệm mà chắc chắn nhiều người chúng ta đã gặp trong cuộc sống. Khi chúng ta ở trong những tình cảnh khó khăn, khi các khó khăn xảy đến mà chúng ta không biết cách giải quyết, khi chúng ta cảm thấy lo lắng đau khổ, khi chúng ta thiếu niềm vui, chúng ta đến với Mẹ Maria và nói: “Con không có rượu, rượu hết rồi: Mẹ hãy nhìn xem con đang thế nào đây; hãy nhìn vào trái tim con, hãy nhìn tâm hồn con.” Hãy nói với Mẹ. Và Mẹ sẽ đến với Chúa Giêsu và nói: “Con hãy nhìn người này: không còn rượu”. Và rồi Mẹ sẽ trở lại và nói với chúng ta: “Bất cứ điều gì Người nói với các con, hãy làm theo”. Đối với mỗi người chúng ta, kín múc nước từ bình nghĩa là dựa vào Lời Chúa và các bí tích để cảm nghiệm ân sủng của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Từ đó, cả chúng ta, như người quản tiệc đã nếm thử nước đã hóa thành rượu, chúng ta có thể thốt lên: “Còn Chúa, Chúa đã giữ phần rượu ngon lại cho đến bây giờ” (c. 10). Chúa Giêsu luôn làm chúng ta ngạc nhiên. Chúng ta hãy thưa với Mẹ để Mẹ nói với Chúa Con và Người sẽ làm chúng ta ngạc nhiên.
Cuối cùng, ĐTC cầu xin Đức Trinh nữ rất thánh Maria giúp chúng ta theo lời mời của Mẹ: “Bất cứ điều gì Người nói với các con, hãy làm theo” để chúng ta có thể hoàn toàn cởi mở với Chúa Giêsu, bằng cách nhận ra trong cuộc sống mọi ngày những dấu chỉ sự hiện diện sống động của Người.
2. Họ hết rượu rồi
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Đức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Đám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần. Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu. Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Ngài đã biến nước thành rượu. Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.
Tin Mừng Gioan hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa.
Những dấu lạ vén mở con người Đức Giêsu.
Làm bánh hóa nhiều cho thấy Đức Giêsu là Bánh thật. Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Đức Giêsu là Ánh Sáng. Hoàn sinh Ladarô cho thấy Đức Giêsu là sự Sống Lại.
Dấu lạ ở tiệc cưới Cana cũng cho ta biết Ngài.
Thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo, Đức Giêsu biến nó thành rượu ngon, một lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi.
Ngài biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước. Như thế Ngài đã mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ.
Đức Giêsu cho thấy mình chính là Đấng Mêsia. Ngài đến để thiết lập một trật tự mới dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.
Cựu Ước không làm con người mãn nguyện. Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh.
Đức Giêsu đã dự tiệc cưới ở Cana. Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người. Ngài muốn chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ.
Đừng để Đức Giêsu đứng ngoài hạnh phúc của bạn. Đừng coi Ngài là người ganh ghét với niềm vui bạn có.
Nếu bạn nghe lời Ngài, đổ nước đầy các chum rỗng, bạn sẽ gặp được hạnh phúc vững bền.
Dấu lạ Cana chủ yếu cho ta thấy Đức Giêsu là ai, nhưng Đức Maria cũng có một vai trò đáng kể.
Mẹ hiện diện trong tiệc cưới như thân mẫu Đức Giêsu.
Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể.
“Họ hết rượu rồi”: Mẹ chỉ nói với Con như vậy. Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài xin kín đáo. Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ. “Người bảo gì, các anh hãy làm.”
Quả thật Đức Giêsu có bảo và các gia nhân có làm, nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện. Qua sự đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này, đức tin của các môn đệ được củng cố và lớn lên.
Hôm nay Mẹ vẫn nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi!
Niềm vui chợt tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan vỡ… Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối.
“Người bảo gì, các con hãy làm”: Đó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ chúng ta hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc ngay từ đời này. Theo bạn, thế nào là một con người hạnh phúc? Hạnh phúc đích thực dựa trên những yếu tố nào?
Đâu là những điều đe dọa hạnh phúc bình thường của một người?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
3. Họ hết rượu rồi
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa mến chuộng dân Người. Không những Người sinh xuống thế làm người để ở với chúng ta, Người còn chia sẻ với chúng ta trong mọi niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống hằng ngày. Đó là niềm an ủi và hi vọng của chúng ta. Như hôm nay, Người và Mẹ Người cùng đến dự tiệc cưới.
Tiệc cưới Cana hết rượu phải đối mặt với thất bại và bất hạnh. Nhìn vào tình hình thế giới đầu năm nay ta thấy không khác gì một đám cưới hết rượu. Ta cũng đang đối mặt với thất bại và bất hạnh. Không dám nói với Chúa vì tình hình tồi tệ này là hậu quả của việc ta đã không vâng nghe Lời Chúa, không thực hành Lời Chúa. Ta chỉ còn biết nhờ Đức Mẹ đệ đạt lên Chúa tình trạng thiếu thốn của ta, giống như Người đã đệ đạt nỗi thiếu thốn của đám cưới Cana.
Thưa Mẹ, chúng con đã hết rượu. Thế giới hôm nay đã hết rượu tự do dân chủ. Chúng con chỉ còn thứ nước lã nhạt phèo những lời hứa hẹn suông. Thế giới hôm nay đã cạn hết rượu tài nguyên phong phú. Trái đất chỉ còn là thứ nước lã khô cằn. Rừng cây bị đốn ngả nghiêng. Khoáng sản bị khai thác đến tận cùng. Cả đến bầu khí quyển cũng bị thương tổn nặng nề. Thế giới đã hết rượu hoà bình. Chiến tranh nối tiếp chiến tranh. Chiến tranh nóng dẫn đến chiến tranh lạnh, mở sang chiến tranh khủng bố và miên man với chiến tranh kinh tế. Thương trường trở thành chiến trường khốc liệt. Thiên hạ đã quá chén uống cạn nguồn tài chính nên thế giới hôm nay phải đối mặt với đói nghèo.
Đất nước chúng con đang thiếu rượu. Những người cầm quyền đã uống quá chén quyền lực nên tự do dân chủ chỉ còn là nước lã hứa hẹn nhạt thếch. Những nhóm lợi ích quá chén tham lam nên đa phần dân chúng phải uống thứ nước lã nghèo khổ, túng thiếu. Xã hội chẳng còn một giọt rượu đạo đức, chỉ còn thứ nước lã giả dối, cá nhân, ích kỷ và hưởng thụ.
Cả đời sống tu trì của chúng con cũng đang thiếu rượu trầm trọng. Chúng con không tích trữ đủ rượu lý tưởng nên vào đời tu, thay vì tìm Chúa, chúng con lại biến Chúa thành phương tiện để tìm những thứ khác. Chúng con thiếu rượu yêu mến nên cuộc sống tu trì trở nên bế tắc, giờ kinh giờ lễ trở nên gánh nặng thay vì niềm vui. Thiếu thứ rượu quên mình vì Chúa nên chúng con quên Chúa vì mình. Đã cạn rượu tu đức nên thay vì vào tu viện để tìm quên mình nhưng không biết từ lúc nào chúng con chỉ biết đòi hỏi. Rượu bác ái huynh đệ chưa đủ dùng mà chúng con lại quá chén nên thay vì xây dựng chúng con lại tàn phá cộng đoàn, thay vì nâng đỡ anh em, chúng con lại xét nét bắt bẻ nhau, thay vì quan tâm để giúp nhau thăng tiến, chúng con lại lườm nguýt chành choẹ nhau. Đi tu để thuộc trọn vẹn về Chúa, nhưng hình như chúng con đang thuộc về thế gian. Đi tu để chiến đấu với Ác thần nhưng hình như chúng con đang tùng phục nó. Chúng con đã hết rượu xin Mẹ cầu khẩn Chúa cho chúng con.
Chắc chắn Đức Mẹ sẽ nói với Chúa. Nhưng Đức Mẹ vẫn quay lại dặn dò chúng ta: “Người bảo gì, các con cứ việc làm theo”. Sau cùng, Đức Mẹ đưa ta trở lại cốt lõi của vấn đề, đó là trở về với Chúa, phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa ta mới giải quyết được bế tắc của thế giới, của xã hội, của cộng đoàn và của chính bản thân ta.
Hãy xem Chúa bảo ta làm gì. Thật lạ lùng, Chúa bảo các gia nhân múc nước đổ đầy các chum đựng nước rửa chân tay. Sao thế nhỉ?
Múc nước là công việc tầm thường nhất. Qua đó, Chúa muốn bảo chúng ta đừng lo toan những chuyện đội đá vá trời, hãy làm những việc tầm thường nhất, những việc ai cũng chê bỏ, những việc bổn phận hằng ngày. Rượu là bữa tiệc lớn. Nước lã là công việc tầm thường hằng ngày đến chán ngấy. Thế nhưng Chúa bảo chúng ta muốn có rượu ngon ngày lễ trọng, hãy làm những công việc tầm thường, nhàm chán hằng ngày, những việc âm thầm chẳng ai biết đến.
Múc nước là công việc vô ích nhất. Vì tiệc đã gần tàn, người ta đã rửa chân rửa tay từ khi mới vào. Chúa muốn ta làm những việc xem ra vô ích vì Chúa chỉ muốn một điều là ta vâng lời. Vâng lời trọng hơn của lễ. Ý Chúa mới là quan trọng. Công việc chỉ là ta thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Chính thánh ý đem lại niềm vui và hạnh phúc.
Múc nước là việc phục vụ khiêm nhường nhất. Dùng để rửa chân tay cho khách. Chúa muốn chúng ta biết quan tâm đến người khác trong những điều nhỏ nhặt nhất. Trong bài Sách Thánh, Thánh Gioan buộc ta phải cầu nguyện cho người anh em lầm lỗi: “Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin, và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy”. Như thế, chúng ta không chỉ xin rượu cho bản thân mà còn phải xin rượu cho nhau nữa. Và Thánh Gioan khích lệ ta cầu xin, hãy “mạnh dạn cầu xin vì Chúa sẽ nhậm lời khi ta xin điều hợp ý Chúa”.
Múc nước là việc làm không thể thiếu trong bữa tiệc. Nước rửa chẳng có giá trị gì nhưng lại không thể thiếu. Những việc tầm thường ta làm không đáng kể, nhưng góp phần xây dựng cộng đoàn và xây dựng chính bản thân mình khi ta làm vì Chúa, vì anh em. Khi ta làm mọi việc tầm thường theo ý Chúa, Chúa sẽ làm cho những tầm thường, nhạt nhẽo trở thành thứ rượu ngon cho thế giới, cho cộng đoàn và cho bản thân ta.
Lạy Chúa, xin ban cho thế giới rượu mới bình an và thịnh vượng. Xin ban cho quê hương Việt Nam rượu ngon tự do, dân chủ và hạnh phúc. Xin ban cho Giáo hội Việt Nam rượu đức tin, hiệp nhất và phát triển. Xin ban cho Đan viện chúng con rượu mới thinh lặng cầu nguyện và huynh đệ bác ái. Xin ban cho mỗi người chúng con rượu mới sốt sắng, yêu mến và chỉ tìm một mình Chúa là hạnh phúc đích thực của chúng con. Amen.
4. Mời Chúa đến nhà
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại càng khó lắm.
Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.
Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã đến ở giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người. Thiên Chúa còn trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một Thiên Chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình than, Thiên Chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỷ. Và việc Thiên Chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày đầu tiên chung sống.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.
Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong gia đình.
Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì những khuyết điểm không tránh được của mọi người.
Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.
Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia nhân: “Người bảo gì thì phải làm theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.
Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy làm theo Lời Chúa. Đọc Phúc Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình. Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống gia đình trong suốt năm mới này.
Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể đích thật là Đức Kitô sẽ cho ta nếm thử rượu tuyệt ngon trên thiên đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con. Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
- Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình chưa?
- Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi hiểm nguy, thử thách, thất bại?
5. Chúa nhật 2 Thường niên
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
“CHIÊM NGƯỠNG VINH QUANG VÀ TIN VÀO CHÚA”
Phụng vụ Công giáo nối liền ba sự kiện trong Tân ước với nhau và “đọc” thấy ở đó cùng một thông điệp: Thiên Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài cho nhân loại. Ba sự kiện ấy là việc Chúa Giêsu tỏ mình cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông; Chúa Giêsu chịu phép rửa trong dòng nước sông Giođan; Chúa Giêsu làm dấu lạ đầu tiên tại Cana. Cả ba đều được diễn tả như những cuộc “thần hiện”, tức là việc Thiên Chúa hiển linh cho con người thấy vinh quang của Ngài, để nhờ đó mà tin vào Ngài. Trong trình thuật về dấu lạ tại Canna mà chúng ta vừa nghe, Thánh Gioan hôm nay cũng kết luận: “Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người” (câu 11).
Thực ra, trọn vẹn cuộc đời dương thế của Đức Giêsu là một cuộc “hiển linh”, bởi vì Người đã trút bỏ vinh quang và địa vị cao sang để mặc lấy thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Tuy vậy, qua những sự kiện vừa nhắc đến trên đây, Chúa chứng minh thân phận thiên linh của Người. Thân phận ấy được “ẩn giấu” trong cuộc đời dương thế. Những phép lạ mà Chúa đã làm không nhằm mục đích tạo ấn tượng và đáp ứng trí tò mò của con người, nhưng để khẳng định vai trò thiên sai của Người và để dân chúng tin vào Người.
Trở lại với dấu lạ ở Cana, tác giả Gioan muốn khẳng định với chúng ta: Qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thực hiện một cuộc sáng tạo mới. Với Chúa Giêsu, lịch sử đã sang trang. Đây cũng là khởi đầu của kế hoạch mới mà Thiên Chúa muốn thực hiện vì tình yêu mến dành cho con người. Thiên Chúa từ nay không còn xa vời đối với con người, nhưng trở nên gần gũi với họ. Thời Thiên sai được khai mở, nồng ấm và vui tươi như rượu mới, thay thế nước lã vô vị đã trở nên lỗi thời. Đức Giêsu hiện diện ở một đám cưới là một hình ảnh rất mới lạ mà một cách diễn tả “táo bạo” về Thiên Chúa. Giáo lý Kitô giáo nhận ra qua sự hiện diện này một Thiên Chúa dấn thân nơi mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, đồng thời chúc lành và thánh hóa tình yêu hôn nhân. Nếu trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa muốn giới thiệu hình ảnh Người hòa mình vào dòng người đang chờ đợi xin Ông Gioan làm phép rửa, thì trình thuật tiệc cưới Cana lại muốn diễn tả một Thiên Chúa “vào đời” để gần gũi cảm thông với con người. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người hiện diện giữa nhân loại như chàng rể. Nhân loại đón chờ Người như chờ đón chàng rể của hôn lễ (x. Dụ ngôn mười trinh nữ, Mt 25,1-13). Hình ảnh tiệc cưới cũng được dùng trong Cựu ước để diễn tả niềm vui của dân tộc Do Thái vì có Chúa hiện diện (Bài đọc I). Đây cũng là viễn cảnh tương lai, khi lịch sử nhân loại đến hồi kết thúc, nhường chỗ cho trời mới đất mới, được diễn tả như tiệc cưới của Chiên Con, lúc đó, vinh quang Chúa sẽ bao trùm tất cả, niềm hân hoan sẽ tràn ngập vũ trụ (x. Kh 19,1-7).
Ở đây ta thấy vai trò của Đức Trinh nữ Maria. Mẹ cũng được mời tham dự đám cưới. Vai trò của Mẹ, vừa mang tính tế nhị của một người phụ nữ, vừa tỏ bày quyền thế đối với Đức Giêsu. Là một người tinh tế, Mẹ nhận ra nỗi lo của chủ tiệc; như một người quyền thế, Mẹ chỉ nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi!”. Đây vừa là một lời van xin, vừa là một mệnh lệnh. Chức năng trung gian của Mẹ được thể hiện một cách rất rõ ràng: Mẹ vừa nói với Chúa Giêsu về sự kiện xảy ra; Mẹ vừa dặn dò những người giúp việc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo!”. Phép lạ đã xảy đến do quyền năng của Thiên Chúa, nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ, và do sự vâng lời của con người.
Chúng ta đã được nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Đó là lời khẳng định của Thánh Gioan Tông đồ trong lễ Giáng Sinh (x. Ga 1,14). Việc chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa phải giúp chúng ta tin vào người. Có người sẽ phản ứng: chúng tôi có thấy gì đâu, ngoài hình hài một trẻ sơ sinh đặt trong máng cỏ ở hang đá Giáng sinh!. Vâng, các nhà đạo sĩ cũng thấy như chúng ta, nhưng họ đã thờ lạy và tôn nhận Hài nhi là Vua của các vua và là Chúa của các chúa. Sau này, Đấng Phục sinh khẳng định với Tông đồ Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà có lòng tin” (x. Ga 20,29).
Thiên Chúa vẫn đang tỏ bày vinh quang của Ngài bằng nhiều cách thế khác nhau. Vũ trụ là cuốn sách kể lại với chúng ta về vinh quang Thiên Chúa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Ngài làm” (Tv 18,2). Ngay giữa cộng đoàn đức tin, Chúa cũng đã san sẻ vinh quang của Ngài cho các tín hữu, nhờ đó họ có thể đón nhận những khả năng khác nhau để cùng loan truyền Danh Chúa. Thánh Phaolô đã liệt kê các ơn của Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan, Thông minh. Chữa bệnh, Làm phép lạ, Ơn tiên tri, Ơn ngôn ngữ (Bài đọc II). Dù được ơn gì và dù ở địa vị nào, tất cả những ơn ban trên đây đều nhằm phục vụ Giáo Hội là thân thể của Đức Kitô, để rồi vinh quang của Người tiếp tục tỏ hiện.
“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo“. Ngày hôm nay, Đức Maria vẫn đang khuyên chúng ta như thế. Thực hành Lời Chúa dạy là phương thế giúp chúng ta nên thánh, nhờ đó mà Chúa thực hiện những điều lạ lùng giữa cuộc sống chúng ta.
6. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.)
Thứ hai thì ngắm:
“Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana”
1 – Phép lạ đầu tiên
Theo thánh sử Gioan, phép lạ nước hóa thành rượu là phép lạ đầu tiên. Vì thế, phép lạ này mang ý nghĩa đặc biệt. Tương tự như dụ ngôn “Người Gieo Giống”, đó là dụ ngôn đầu tiên liên quan đến các dụ ngôn, đến lời của Đức Giêsu, đến sứ mạng của Người và diễn tả tất cả các mầu nhiệm lớn của đức tin: sáng tạo, lịch sử cứu độ, Nhập Thể, Thánh Thể và Vượt Qua.
(1) Vì là phép lạ đầu tiên, nên có thể nói, phép lạ nước hóa thành rượu là “phép lạ mẹ”, phép lạ của các phép lạ. Vì phép lạ này định hướng cho mọi phép lạ, và cho chính sứ mạng của Đức Giê-su; vì thế, Ngài đã hành động, cho dù có vẻ như chưa đến “Giờ của Ngài”. Đó là phục vụ sự sống, như chính Người tuyên bố: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Thế mà, sự sống được lưu truyền qua hôn nhân: tất cả chúng ta đều là “hoa trái” của bí tích và đời sống hôn nhân Chúa ban cho cha mẹ!
(2) Hơn nữa, con người không chỉ sống bằng lương thực, vốn vừa là của ăn vừa là hình ảnh diễn tả mọi phương tiện để sống, sinh hoạt…, nhưng còn sống bằng tương quan nữa, tương quan tình bạn, tình yêu, đón nhận, bao dung, chia sẻ, hiệp thông. Thế mà, rượu ngon cưu mang cả hai chiều kích này.
ĐỨC KI-TÔ đến để phục vụ
cho SỰ SỐNG của con người
Thể lý
chữa bệnh, hồi sinh, cho ăn…
|
Tương quan
Tha tội, kêu gọi, qui tụ, mời gọi tha thứ, đón nhận, yêu thương…
|
BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Thật vậy, theo khuôn mẫu của bí tích Thánh Thể, phép lạ này hướng tới chiều kích căn bản của sự sống là tương quan, nhưng lại không bỏ qua những phương tiện cụ thể tạo nên tương quan, đó là “rượu ngon”. Vì thế, sau này, các phép lạ chữa bệnh luôn hướng tới ơn tha tội, nghĩa là phục hồi tương quan với Chúa, với mình và với nhau.
(3) Trong tiệc cưới Cana, Đức Giê-su đã bày tỏ Ngài mới là “Tân Lang”, nghĩa là người đã mang lại rượu ngon dư tràn trong tiệc cưới. Sau này, Ngài sẽ thực sự trở thành “Tân Lang” mới và đích thật, ban cho chúng ta “rượu tuyệt hảo” là chính Máu của Ngài, để cho con người được sống và sống dồi dào (x. Ga 10, 10).
* * *
Như thế, tất cả các phép lạ đều hướng về “dấu lạ chữa lành” của Thập Giá, vì đó dấu lạ chữa lành và phục hồi sự sống của con người cách triệt để, và sức khỏe, thân thể lành lặn, ăn uống chỉ là tạm thời và là dấu chỉ của ơn chữa lành viên mãn.
2 – “Có tiệc cưới tại Cana”
- Khung cảnh tiệc cưới
Trình thật Tin Mừng kể lại tiệc cưới diễn ra vào “ngày thứ ba”; và trước đó, Đức Giêsu đã bắt đầu thu nhận các môn đệ. Chính vì thế, họ có mặt cùng với Đức Giêsu tại tiệc cưới.
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. (c. 1-2)
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm tiệc cưới. Nếu không phải tiệc cưới của chính mình, thì tiệc cưới của người khác! Nhất là của những người thân yêu hay của những người bạn, mà chúng ta có cơ hội tham dự, thậm chí đóng góp! Cho dù là tiệc cưới của người khác, nhưng cũng đủ, để chúng ta dễ dàng hình dung ra khung cảnh và có thể chiêm ngắm, hoặc áp dụng ngũ quan: nhìn, nghe, ngửi, nếm và đụng.
Vậy, chúng ta hãy nhìn ngắm khung cảnh đám cưới, ghi nhận và cố gắng đi vào ý nghĩa của đám cưới, theo gương của Đức Maria, Mẹ của chúng ta: “ghi nhớ mọi biến cố và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), “giữ lại mọi biến cố trong lòng” (Lc 2, 51). Đặc biệt, chúng ta cần nhận ra tầm quan trọng của đám cưới đối với đời người, gia đình, xã hội và Giáo Hội nữa. Ngoài ra, trong lịch sử cứu độ, đám cưới còn là những bước ngoặt quyết định: đám cưới nguyên thủy giữa Ông Bà Tổ Adam và Eva; sau đó là các biến cố hôn nhân vào thời các tổ phụ khởi đi từ tổ phụ Abraham, như bản gia phả trình bày cho chúng ta (x. Mt 1, 1-17). Ngoài ra, đám cưới và đời sống hôn nhân là hình ảnh diễn tả cách đặc biệt:
* Tình yêu. Hai người chọn nhau và được ban cho nhau.
* Hạnh phúc. Trong tiệc cưới, người ta thường chúc cho đôi tân hôn “trăm năm hạnh phúc”[1].
* Lưu truyền sự sống. Hôn nhân được Thiên Chúa chuẩn nhận và trao ban sứ mạng lưu truyền sự sống, vốn là hình ảnh của sáng tạo và của sáng tạo mới với ân huệ sự sống viên mãn. Và cùng với sự sống, các phong tục tập quán văn hóa và tôn giáo được lưu truyền cách bền vững. Vì thế, Đức Giê-su hay dùng hình ảnh tiệc cưới trong các dụ ngôn nói về Nước Trời.
- “Họ hết rượu rồi”
Khi chiêm ngắm tiệc cưới, chúng ta hãy chú ý đặc biệt đến Đức Maria, và nhóm Đức Giêsu và các môn đệ. Trước hết, chúng ta cùng hiện diện với Đức Maria và đi vào tâm tư của Mẹ: Mẹ đã hiện diện ra sao trong đám cưới, để có thể biết được sự cố hết rượu giữa chừng và tại sao mẹ lại đi nói với Đức Giêsu:
Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi Họ hết rượu rồi!”
Dường như các ngài đến đến từ hai “thiệp mời” khác nhau. Giống như ở Việt Nam, trong tiệc cưới, có những vị khách vừa đến dự tiệc, nhưng vừa phụ việc nữa, chẳng hạn người thân, bạn bè, hàng xóm; và có những khách mời chỉ đến dự tiệc rồi về. Giả định này giúp chúng ta hiểu hai phản ứng khác nhau, một của Đức Mẹ và một của Đức Giê-su. Trong tiệc cưới, Đức Maria đã hiện diện không như khách, nhưng như thành viên đóng góp vào biến cố niềm vui, chính vì thế Mẹ biết rõ tình trạng thiếu rượu; và có lẽ chúng ta đã có kinh nghiệm dự đám cưới như Đức Maria.
Hết rượu là mất vui, là đụng chạm đến ý nghĩa của đám cưới. Thật vậy, ở Palestine và những dân tộc quanh biển Địa Trung Hải, rượu không chỉ cần cho bữa tiệc, nhưng còn tượng trưng cho niềm vui gặp gỡ. Để hiểu sự nghiêm trọng của sự cố hết rượu trong tiệc cưới, chúng ta có thể nhớ lại những bữa ăn đãi khách trong gia đình chúng ta: giữa chừng thì hết rượu hay hết bia! Trước sự cố này, Đức Giêsu có vẻ giữ khoảng cách, khi nói:
Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?
Giờ của tôi chưa đến.
Lời nói này làm chúng ta nhớ lại lời nói Người thưa với cha mẹ đã phải “cực khổ” tìm kiếm Người, ở Đền Thờ, lúc Đức Giêsu mười hai tuổi: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49). Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi “suy đi nghĩ lại” và nhận ra rằng, cả hai lời nói đều mang nặng ý nghĩa: Đức Maria phản ứng như người Mẹ hiền từ và như người hàng xóm tốt bụng, còn Đức Giêsu thì sống cho giờ của Người, nghĩa là cho kế hoạch của Chúa Cha.
Tuy vậy, mẹ vẫn tin tưởng nơi Đức Giêsu. Giờ của Ngài chưa tới, nhưng Mẹ tin rằng, Người có thể “chỉnh giờ” lại. Hay một cách sâu xa hơn, Đức Mẹ còn hiểu rõ hơn cả Đức Giê-su về ý muốn của Chúa Cha ; theo Mẹ, “Giờ” của Đức Giê-su, con của Mẹ, đã đến rồi, đã đến lúc phải hành động rồi và hành động từ đây, từ biến cố đám cưới hết rượu giữa chừng; vì biến cố tuy hạn hẹp, nhưng tượng trưng cho sự sống và Đức Giê-su đến là để phục vụ cho sự sống, để làm cho con người được sống và sống dồi dào. Hơn nữa, rượu ngon còn diễn ra cách con của Mẹ phục vụ cho sự sống, như Người sẽ nói:
Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
(Mt 20, 28)
3- Sáu chum nước và rượu ngon
Quả thực, Đức Giêsu đã hành động: vừa đáp lại lời cầu bầu của Đức Maria để cứu bữa tiệc, vừa mở rộng ý nghĩa của hành động này. Sáu chum nước lớn, vốn dùng để thanh tẩy, theo Luật cũ và đức công chính cũ, Ngài sẽ làm cho trở nên viên mãn khi làm cho chúng trở thành rượu, tượng trưng cho ơn tha thứ, hòa giải và niềm vui, cho đức công chính của Đức Giê-su, mà Thiên Chúa trao ban nhưng không cho loài người và cho mỗi người chúng ta. Tiến trình biến đổi ra sao, không ai biết, nhưng người quản tiệc công khai xác nhận hoa trái, đó là rượu ngon. Sự hiện diện và quyền năng của Chúa cũng vậy, thật kín đáo và mầu nhiệm, chúng ta chỉ nhận ra kết quả lạ lùng trong lịch sử và cuộc đời chúng ta mà thôi, như lời Thánh Vịnh diễn tả: “Đường của Chúa băng qua biển rộng, lối của Người rẽ nước mênh mông, mà chẳng ai nhận thấy vết chân Người!” (Tv 77, 20)
Hình ảnh nước biến thành rượu do quyền năng của Đức Giêsu và sự can thiệp của Đức Maria rất phù hợp với con người và cuộc đời của chúng ta: chúng ta cũng nhặt nhẽo như nước rô-bi-nê! Từ nước lạt lẽo, thành rượu, rượu ngon tràn trề, từ bất xứng (vì thế cần được thanh tẩy bằng dấu chỉ nước) sang phục hồi phẩm cách trọn vẹn (trường hợp người con hoang đàng trở về), từ lo sợ sang niềm vui tràn trề. Hình ảnh “đổ đầy tới miệng” diễn tả sự trọn vẹn và dư tràn. Thực vậy, cuộc đời chúng ta, hành trình theo Chúa của chúng ta trong ơn gọi, có thể ví như một niềm vui đứt đoạn ; một hành trình lạt lẽo: xin Mẹ quan tâm phù hộ, cầu bầu và xin Chúa hành động để ban niềm vui và làm cho thơm ngon như rượu mới của tiệc cưới Cana.
Như thế, Đức Giêsu không chỉ đáp ứng, nhưng còn đáp ứng quá sự chờ đợi, cả về số lượng lẫn chất lượng, để hướng chúng ta về ơn huệ sự sống viên mãn Ngài sẽ trao ban. Đó là dấu chỉ của ân sủng thần linh, tương tư như dấu chỉ bánh hóa nhiều. Thật vậy, thánh sử Gioan kể lại:
Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
(c. 11)
Phép lạ nhỏ bé, nhưng lại bày bỏ “Vinh Quang” của Đức Giê-su, nghĩa là bày tỏ căn tính Con Thiên Chúa và Ngôi Lời Thiên Chúa của Người. Xin cho chúng ta cũng nhận ra dấu lạ “nước hóa rượu”, Chúa thực hiện nơi cuộc đời chúng ta, khi ban cho chúng ta đức tin và mời gọi chúng ta đi theo Người trong đời sống hôn nhân hay đời sống thánh hiến, để làm chứng về lòng thương xót và “vinh quang” của Người.
Lời trách của ông quản tiệc đối với tân lang: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” (c. 10) cho phép chúng ta nhận ra rằng, lúc này Đức Giêsu mới là “Tân Lang” thật, trong mức độ chính Người ban rượu ngon dư tràn. Thực vậy, Đức Giêsu mới là Tân Lang của một tiệc cưới mới, niềm vui mới, sự sống mới (nơi không còn dựng vợ gả chồng) và tương quan mới (vì nghe và sống Lời Thiên Chúa).
* * *
Chúng ta cũng cần chú ý, Đức Maria vẫn không rời Đức Giêsu trong thời gian sứ vụ công khai của Ngài (c. 2 và 12). Các Tin Mừng hầu như không nói gì về Đức Maria trong cuộc đời công khai, nhưng rõ ràng Đức Maria đi theo Đức Giêsu. Ở đây và một vài dịp khác, và nhất là dưới chân Thập Giá (bài Tin Mừng ngày lễ Đức Mẹ sầu bi, ngày 15 tháng 09), khi mà các môn đệ bỏ trốn hết.
Nhưng tương quan giữa hai Mẹ Con từ từ được biến đổi cách sâu xa, như chính Đức Giê-su sẽ tuyên bố: “Mẹ tôi và anh chị em của tôi là những người lắng nghe và sống Lời Chúa”. Điều này thật ra đã được chuần bị từ từ, và biến cố lúc Đức Giêsu mười hai tuổi cho thấy điều đó. Giống như trong đời sống dâng hiến, “từ bỏ” gia đình, không có nghĩa là không còn tương quan với gia đình và những người thân yêu, nhưng để cho Lời Chúa tái tạo thành tương quan mới của Nước Trời. Vậy, khi chiêm ngắm Đức Giê-su trong đời sống công khai, chúng ta đừng quên chiêm ngắm cách Đức Maria đi theo Đức Giêsu, như Người Mẹ hiền, như “Nữ Tỳ hèn mọn”, như “Người Môn Đệ”, như Người Thân Yêu trong Gia Đình mới Nước Trời.
Người bảo gì các anh cứ làm theo.
Đây là lời nói cuối cùng của Đức Maria, không chỉ dành cho những người phục vụ tiệc cưới, nhưng còn cho người môn đệ của Đức Giê-su, nam cũng như nữ, thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay, vì đó còn là “Mầu Nhiệm Sự Sáng” thứ hai. Chúng ta hãy suy niệm thật lâu lời này, để hiểu Đức Maria, hiểu tương quan của Đức Maria trong quá khứ và tương lai với Đức Giê-su. Lời này của Mẹ giống với lời của Chúa Cha trong biến cố Biến hình:
“Hãy nghe lời Ngài”.
—————-
[1] Đúng là trong thực tế cuộc sống, hình ảnh đôi vợ chồng là hình ảnh hiển nhiên nhất của hạnh phúc con người. Vì thế, vào dịp đám cưới, người thân thuộc và bạn bè thường cầu chúc cho đôi tân hôn: trăm năm hạnh phúc, con đàn cháu đống, răng long đầu bạc… Ngược lại, vào ngày truyên khấn, các tu sĩ nam nữ thường nhận được những lời cầu chúc, đồng thời cũng là những lời khuyên: can đảm hi sinh, bền đỗ chịu đựng, kiên trì vác thập giá, chịu thương chịu khó, nhẫn nhục chịu đựng, hãm mình khổ chế, ăn chay đền tội… Ngoài ra, theo ngôn ngữ Kinh Thánh, hôn nhân còn là hình ảnh của Giao Ước giữa Thiên Chúa với con người, giữa Đức Kitô và Giáo Hội.
Tuy nhiên, hôn nhân không phải là hình ảnh có tính quyết định của Nước Trời. Hình ảnh quyết định của Nước Trời là tình “huynh đệ” giữa mọi người trong Đức Giêsu Kitô, và theo khuôn mẫu của Người trong “Gia Đình Mới”, là tương quan thân thuộc bởi Lời Chúa, mà Đời Thánh Hiến sống và làm chứng. Hình ảnh mà ngay bây giờ thật đáng giá và thật cao quí để chúng ta dâng hiến cả cuộc đời để đón nhận với tâm tình cảm mến và ca tụng. Đó thực sự là một niềm vui và một hạnh phúc được kinh nghiệm ngay ở đời này và loan báo niềm vui và hạnh phúc viên mãn đời sau. Nếu hiểu như vậy, phải chăng chúng ta nên thay đổi lời cầu chúc dành cho những người sống đời dâng hiến?
7. Phép lạ
Đoạn Tin Mừng vừa nghe không nói rõ là tiệc cưới của ai, nhưng chắc chắn là của một người trong họ hàng thân thiết với Chúa, vì người ta thấy có sự hiện diện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ.
Theo tục lệ của người Do Thái, thì đám cưới thường kéo dài tới 7 ngày. Dĩ nhiên khách được mời không bắt buộc phải ở lại dự tiệc suốt 7 ngày. nhưng số người ở lại cho tới hồi kết thúc có lẽ không ít, nên xảy ra nạn thiếu rượu. Thiếu rượu nửa chừng trong một tiệc cưới quả là một tai hoạ. Danh dự của đôi tân hôn có thể bị thương tổn. Như thế, chúng ta có thể tưởng tượng ra nỗi lo âu và cảnh chạy đôn chạy đáo của nhà đám. Đức Maria, mẹ của Chúa Giêsu, với sự nhạy cảm và tinh tế của một người phụ nữ, hẳn đã nhận ra được những sự lục đục diễn ra ở hậu trường của tiệc cưới và hiểu được nỗi khốn quẫn của nhà đám. Dù sao thì Mẹ Maria đã là người đầu tiên lên tiếng về tình trạng này: họ không còn rượu nữa.
Một nhận định vô tư về tình hình hay còn hàm chứa một lời cầu xin? Có thể đây chỉ là một lời tỏ bày, báo động với Chúa Giêsu về nỗi quẫn bách của nhà đám, không nhất thiết Mẹ Maria phải xin một phép lạ. Điều quan trọng hơn ở đây là Mẹ Maria đã đặt Chúa Giêsu trước tình trạng quẫn bách của con người. Nhưng người đọc không thể không sửng sốt trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Này bà, đối với tôi và bà, nào có việc gì. Một câu trả lời xem ra có vẻ cứng cỏi và xa vắng. Các nhà chú giải cắt nghĩa rằng trong một số trường hợp, câu nói này khá thông thường trong các giới Do Thái, và trong ngôn ngữ Hy Lạp, thì có nghĩa là: việc gì đến bà. Câu trả lời cua Chúa Giêsu ngụ ý cho thấy hai người, Người và mẹ Người không ở trên cùng một bình diện. Hành động của Người sẽ vượt lên trên rất xa điều Mẹ Maria có thể nghĩ đến. Tiếng bà dùng ở đây để chỉ Mẹ Maria không hề có nghĩa bất kính, mà chỉ là một kiểu xưng hô theo tập tục của của người Hy Lạp.
Như thế giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria có một sự khác biệt trong tầm nhìn. Đối với Chúa Giêsu phép lạ này bày tỏ vinh quang của Người được thực hiện là theo ý định của Cha Người. Sau cùng phép lạ đã xảy ra, cơn khốn quẫn của nhà đám được giải quyết một cách dư dật quá lòng mong muốn, sáu chum nước lã, mỗi chum chứa hai hoặc ba thùng, biến thành một loại rượu ngon. Nước lã biến thành rượu ngon. Thế nhưng nếu lưu ý chúng ta sẽ thấy, phép lạ đã không diễn ra chỉ bằng một lời phán, nhưng đã khởi sự từ việc nhận ra sự khốn quẫn của người khác, từ công lao khó nhọc của các gia nhân gánh đầy mấy chum nước.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận, dù là trong phép lạ, thì sự tham gia cộng tác của con người cũng vẫn là điều cần thiết.
8. Tiệc cưới Cana
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhật trong lịch sử nhân loại, đó là đám cưới Alexandre Đại Đế với Công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định lấy một người châu Á, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim, nhưng ông còn muốn biểu lộ ý chí thống nhất các dân tộc từ đông sang tây. Ông đã hy vọng được một người con nối dõi hai dòng máu đông tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu. Đám cưới được cử hành trong bảy ngày bảy đêm, nơi nơi đều có yến tiệc. Để tăng thêm long trọng, Alexandre cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế Vận Hội được khai sinh từ đó (Lẽ Sống, 1991 tr. 133)
Nhân loại từ xưa đến nay, không có tiệc mừng nào vui mừng lớn lao ăn sâu vào lòng các dân tộc bằng tiệc cưới. Tại sao vậy?
Thưa, vì tiệc cưới chúc mừng một công trình tốt đẹp nhất của loài người, một công trình của tình yêu. Tình yêu là nền tảng tác tạo sinh tồn của loài người. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, con người đã được tạo dựng và được ban cho một quà tặng làm gia nghiệp khổng lồ là cả một vũ trụ mênh mông, chất đầy muôn loài muôn vật rực rỡ muôn màu, lừng hương thơm ngát. Cũng nhờ tình yêu đậm đà trong mình, con người biểu lộ ý chí thống nhất nên một và dâng hiến cho nhau một niềm hạnh phúc dồi dào hơn bất cứ hạnh phúc nào trên trần gian này. Hạnh phúc kết hợp đó càng được bền vững dài lâu nhờ sinh thành con cái bởi chính thịt máu mình, một quà tặng tuyệt vời hơn bất cứ tặng phẩm nào khác. Đó là công trình tốt đẹp nhất mà Thiên Chúa đã thiết lập, đến nỗi nhiều lần Đức Giêsu đã ví nước trời giống như tiệc cưới Hoàng Tử.
Chính vì thế, toàn bộ gia đình thân mẫu Đức Giêsu, Đức Giêsu và các môn đệ đã đến dự tiệc cưới Cana. Cũng chính vì thế, khi thấy thiếu rượu, Đức Mẹ đã vội vã xin con mình cứu giúp, không cần phải để tới lúc quản tiệc và chàng rể kêu van.
Sáu trăm lít nước lã đầy sáu chum đá đã được biến thành rượu ngon tuyệt hảo là một quà tặng đầu tay của Chúa Con ban tặng cho đôi tân hôn, mở màn khai mạc công trình cứu thế. Cũng thế, vũ trụ phong phú được sáng tạo là quà tặng đầu tay của Chúa Cha ban cho đôi tân hôn đầu tiên của nhân loại, đã mở màn cho một cuộc sống hạnh phúc trong cảnh địa đàng. Tại sao món quà sáng tạo và cứu thế được Thiên Chúa ban tặng trước nhất cho đôi tân hôn?
Thưa tân hôn như gốc rễ của cây nhân loại. Cành lá tươi tốt xum xuê, hoa trái thơm tho, ngọt ngào là nhờ gốc rễ hút chất bổ dưỡng dồi dào. Cành lá, hoa trái đèo đẹt, héo tàn là tại gốc rễ hút những chất chua phèn, cằn cỗi. Hôn nhân hấp thụ những nguồn trần tục, dòng dõi bị ô nhiễm bệnh hoạn. Hôn nhân hấp thụ nguồn suối hoan lạc chân thiện mỹ tràn ra từ Thiên Chúa, dòng dõi tốt đẹp, hạnh phúc.
Ban đầu, Thiên Chúa đã đặt hôn nhân là yếu tố cơ bản cho việc tiếp tục phát triển và bảo tồn công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Tiếc thay cho đôi vợ chồng đầu tiên đã làm hỏng quà tặng quý báu của Thiên Chúa. Các đôi kế tiếp không còn rượu ngon nữa. Cuộc sống loài người như tiệc cưới hết rượu. Mọi món đều nhạt nhẽo, ôi ỉu. Nguồn vui đã mất. Thiên Chúa đã xa vắng.
Nay tân hôn Cana, Con Thiên Chúa đã đến. Nguồn vui sống lại cho loài người. Mọi món đều đậm đà hương vị.
Không phải hương vị rượu ngon, mà là hương vị tình yêu muôn thuở của Thiên Chúa, như tiên tri Isaia đã diễn tả: “Chẳng ai còn réo tên ngươi: “Đồ chồng bỏ. Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “phận hẩm duyên ôi”. Nhưng ngươi được mệnh danh: “Ái khanh lòng ta hỡi”, và xứ sở ngươi: “cô gái có chồng, vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và Người kết hôn cùng xứ sở ngươi”. Như chàng thanh niên lấy nàng trinh nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về” (Bài I). Đấng tác tạo đây chính là Con Thiên Chúa mà nhờ Người muôn vật được tạo thành (Ga. 1,3). Ngươi đây chính là Hội Thánh mà thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy… thánh thiện, tinh tuyền” (Eph. 5, 25-27). Đức Kitô hiện diện trong tiệc cưới Cana chính là để mở màn cho một cuộc hôn nhân muôn thuở giữa Đức Giêsu và Hội Thánh. Người không chỉ tặng cho Hội Thánh thứ nước lã, mà là thứ nước chảy từ Trái Tim Người để thanh tẩy, thánh hóa Hội Thánh, không phải thứ rượu nho thơm ngon, mà chính Máu châu báu Con Thiên Chúa làm cho Hội Thánh nên thánh thiện tinh tuyền, không phải thứ tình yêu dâng hiến hạnh phúc loài người, mà là tình yêu dâng hiến hạnh phúc muôn thuở của Thiên Chúa làm cho Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy.
Hội Thánh muốn được trở nên cô dâu lộng lẫy, thì Hội Thánh phải mời Đức Mẹ đến dự cuộc sống của mình. Mẹ sẽ cầu cứu cho Hội Thánh được thứ rượu ngon mãi mãi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã cầu xin Chúa ban quà tặng chan chứa niềm vui cho tiệc cưới Cana. Xin Mẹ đoái thương cầu bầu cùng Chúa cho mọi đôi hôn nhân biết đón nhận những quà tặng sáng tạo và cứu độ của Chúa để làm cho đời sống gia đình họ được ấm no hạnh phúc trong tình yêu nồng nàn và hấp thụ nguồn suối hoan lạc chân thiện mỹ chảy ra từ Thánh Tâm Chúa.
9. Để cho tình mặn nồng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Trăm năm hạnh phúc là lời chúc không thể thiếu trong các tiệc cưới. Tình duyên mãi sắt son và mặn nồng là điều ai cũng ước mong khi bước vào đời sống hôn nhân – gia đình. Nói về chữ tình thì có lẽ tình hôn nhân đứng hàng đầu so với các thứ tình nhân loại khác như tình mẫu tử, phụ tử, bằng hữu… Đức Bênêđictô XVI đã nhận định: “Tình yêu này, tình yêu giữa người nam và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly và mở ra cho con người một lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được, có vẻ là kiểu mẫu của tình yêu; bên cạnh tình yêu này, thoạt nhìn mọi hình thức khác của tình yêu hầu như mờ nhạt đi” (TĐ Thiên Chúa Là Tình Yêu số 2).
Tình yêu hôn nhân được đề cao không nguyên chỉ vì người ta thoáng nhận ra nét đẹp là sự hết lòng và tính vô cầu nơi tình yêu này mà còn thấy được tầm quan trọng của nó là làm nên gia đình vốn là tế bào của xã hội. Quả thật lịch sử minh chứng rằng ở đâu mà tình yêu hôn nhân bị hạ giá thì ở đó đời sống xã hội dễ bị xuống cấp, bất ổn và nền đạo đức dễ bị băng hoại. Thánh Tông đồ dân ngoại đã dùng tình yêu đôi lứa làm dấu chỉ cho tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh. Nhiều Ngôn sứ như Hôsê, Isaia cũng dùng hình ảnh tình yêu hôn nhân để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo người sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).
Con Thiên Chúa đã làm người, chào đời trong một mái gia đình. Khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng và trong lần đầu tiên thể hiện quyền năng, Chúa Giêsu đã cứu giúp một đôi tân hôn khỏi bẽ mặt trước quan khách trong một tiệc cưới. Qua bài tường thuật của tin mừng thánh Luca về phép lạ hóa nước thành rượu ngon của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana chúng ta có thể rút ra đôi điều nhận định về đời sống hôn nhân gia đình:
– Luôn có đó nhiều sự kiện hay biến cố dù không mong vẫn cứ đến, dù chẳng muốn vẫn cứ xảy ra. Đã tổ chức tiệc cưới thì việc chuẩn bị rượu cách đủ đầy và có dư là điều như tất yếu. Với người Do Thái thời bấy giờ thì đây là chuyện hẳn nhiên, vì theo phong tục tập quán thì tiệc cưới có thể kéo dài từ ba đến bảy ngày. Tiệc cưới tại Cana có thể nói là đám tiệc không nhỏ. Chúng ta có thể luận suy điều này vì có người quản tiệc và số lượng chum nước dùng cho việc thanh tẩy (sáu chum nước, mỗi chum khoảng tử 80 dến 120 lit nước). Tiệc lớn, ắt gia đình phải khá giả. Nhà khá giả thì chuyện chuẩn bị rượu cho khách không phải là chuyện quá sức và dĩ nhiên ít khi bị xao lãng. Thế mà tiệc chưa tàn thì rượu đã hết!
Từng hỏi nhiều đôi hôn nhân chung sống từ muời, hai muơi năm trở lên rằng các bạn đã bất hòa với nhau bao nhiêu lần, thì được câu trả lời là đếm không hết. Lại hỏi tần suất những lần mà những chuyện không như ý lớn nhỏ xảy ra là bao nhiêu, thì được trả lời là khoảng trên dưới một tuần một lần. Quả thật khi đã chung sống, chung mâm, chung nhà, chung… thì khó tránh được sự “chung đụng” do nhiều nguyên nhân khách quan hay chủ quan từ phía này hoặc phía kia. Nhìn nhận hiện thực cuộc sống để rồi chủ động tìm cách giải quyết, khắc phục, nghĩa là để duy trì và phát triển sự mặn nồng của tình yêu.
– Ngoài nỗ lực của bản thân người trong cuộc là đôi bạn thì rất cần đến sự giúp đỡ của người thân và cả những người hữu quan miễn là họ vốn có tầm lòng và sự bén nhạy với các tình huống. Tấm lòng và sự nhạy bén của Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana thì chúng ta đã rõ. Không kể Chúa Giêsu, có lẽ khách dự tiệc hôm ấy đang ở cao trào của tiệc vui vì tình trạng “ngà ngà say”, nên dường như chẳng có ai phát hiện sự cố thiếu rượu. Với tấm lòng nhạy bén, Mẹ Maria đã nhận ra sự cố này để rồi đến xin Chúa Giêsu ra tay can thiệp, cứu giúp.
“Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng“. Sự thường người ngoài cuộc thì dễ có sự bình tâm để nhìn nhận vấn đề hơn. Tuy nhiên người ở ngoài này phải có cái tâm, cái tình và cái nhìn cách nào đó như tình người trong cuộc, nghĩa là xem như chuyện của mình. Để cho tình yêu hôn nhân vững vàng trước những sóng gió bễ đời, thì sự góp phần của mẹ cha, ông bà, thân bằng quyến thuộc là điều đáng trân trọng và đáng cầu mong. Xin đừng quên vai trò thiết yếu và hữu hiệu của người Mẹ đã nhận nhân loại chúng ta làm con khi Người đứng dưới chân thập giá năm nào (x.Ga 19,26-27). Đến với Mẹ thì chắc chắn chúng ta sẽ được Mẹ dẫn đến với Giêsu, Con của Mẹ là Đấng mà không có sự gì là không thể làm được.
– Đã yêu thì không chờ cơ hội cũng chẳng đợi đến thời đến buổi. Dù chưa đến giờ bày tỏ vinh quang, nhưng vì yêu thương Chúa Giêsu đã ra tay giáng phúc cho đôi tân hôn hôm ấy. Dù đã cùng với các môn đệ lánh riêng một nơi để nghỉ ngơi thế mà trước đoàn lũ dân chúng đông đảo như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu đã tiếp tục giảng dạy họ nhiều điều (x. Mc 6,30-34). Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải làm ngay hôm nay những gì ở trong tầm tay. Thiên Chúa là Tình Yêu và với Người thì mọi sự đều là hiện tại. Đã yêu hay sẽ yêu thì chưa hẳn là yêu. Động từ yêu cần phải luôn ở trong thì hiện tại.
– Sự kiện Chúa Giêsu làm cho sáu chum nước tức là khoảng sáu đến bảy trăm lít nước lã hóa thành rượu ngon hảo hạng khiến chúng ta nhận ra một quy luật của tình yêu đó là phải nhiều và mặn nồng hơn mãi. Có lẽ nhiều đôi bạn như chưa nhận thức đủ quy luật này. Tương tự như sự học, chuyện tình yêu như con thuyền đi dòng nước ngược. Không tiến thì ắt lùi.
– Để mặn nồng trong tình yêu thì lời căn dặn của Mẹ Maria quả là rất đáng lắng nghe và tuân giữ: “Người bảo gì thì hãy làm theo”. Thực thi lời Chúa dạy là điều tất yếu, nếu muốn vẹn chữ tình. Xin chớ dong dài luận lý trước mệnh lệnh Chúa truyền nếu chúng ta đã tin nhận Người là Đấng toàn tri và nhân hậu vô cùng. Vẫn có đó nhiều lứa đôi than vãn rằng con cầu xin mãi mà Chúa chưa ban cho gia đình ấm êm, thuận hòa. Trong nhiều lý do thì thường có lý do này là họ vẫn mãi cố chấp biện minh cho mình mà không thực thi điều Chúa phán trong lương tâm hay qua sự hướng dẫn của các mục tử hay qua sự khuyên bảo của những người khôn ngoan và đầy thiện ý.
– “Hãy đổ nước đầy các chum!” Đây là nước dùng cho việc thanh tẩy theo tục lệ của người Do Thái thời bấy giờ. Tập tục lúc bấy giờ, khi dùng bữa người Do Thái không ngồi trên ghế mà nằm nghiêng giữa sàn nhà. Vì thế việc rửa chân tay không chỉ mang tính lễ nghi thanh tẩy theo truyền thống mà còn để giữ vệ sinh cho sàn nhà, nơi các thực khách nằm mà dùng bữa. Để giữ sự mặn nồng tình yêu thì Chúa Giêsu lại ra lệnh làm một việc của sự thanh tẩy. Điều này nhắc nhớ chúng ta sự thật này: những bất hòa, bất ổn trong tình yêu hôn nhân gia đình thường có nguyên nhân là lỗi hay tội của ai đó hay của cả đôi bên. Thanh tẩy tâm hồn là điều cần thực hiện liên lĩ. Thanh tẩy không nguyên chỉ để cho tâm hồn mình trong sáng, tinh sạch mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu thương.
Tu thân -Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ. Cái nhìn của người xưa vẫn chưa hề lỗi vậy.
10. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)
Thời nay, đài truyền hình làm chương trình “chìa khóa thành công” hướng người trẻ khám phá và phát triển những khả năng của bản thân, hầu thành công trên đường đời.
Sáng kiến của đài truyền hình thật đáng trân trọng. Tuy nhiên, đối với người tín hữu, mọi hoạt động của cuộc sống con người phải bắt đầu từ việc sống lời Chúa.
Trình thuật Tin Mừng tiệc cưới Ca-na (Ga 2, 1-11) sẽ soi sáng điều này.
- TIỆC CƯỚI
Rất tự nhiên, để sống đời hôn nhân, đôi nam nữ chính thức tuyên bố cho mọi người biết về sự chung sống của họ nơi bữa ăn mà người đời thường quen gọi là tiệc cưới.
Ngày hôn lễ, đôi tân hôn hạnh phúc tràn ngập; khách dự tiệc, họ hàng thân hữu hân hoan chúc tụng… và mong ước cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc, vẹn nghĩa thủy chung… Tại tiệc cứơi Ca-na, Đức Ma-ri-a, Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự để chia sẻ niềm vui với nhà cưới.
Ngày cưới, khởi đầu cuộc sống hôn nhân, mọi người và nhất là đôi tân hôn mong ước mọi sự diễn ra tốt đẹp, bởi đầu có xuôi thì đuôi mới lọt.
Vậy mà, tại tiệc cưới Ca-na, đang khi mọi người vui say hào hứng, thì nào có ai biết, nhà cưới lại đứng trước nguy cơ tắc trách. Hết rượu!
Ai đã phát hiện ra điều này? Mẹ Ma-ri- a.
Với tất cả tấm lòng nhậy cảm của một người mẹ lo toan chăm sóc trong gia đình, Mẹ đã sớm phát hiện ra nguy cơ lúng túng của nhà cưới và nói với Đức Giê-su con của Mẹ: “họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3).
Bây giờ, xử lý giải pháp này ra sao? Mẹ dặn: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5).
- CHÚA GIÊSU LÀ LỜI THIÊN CHÚA
Bằng lời quyền năng: “đổ nước vào các chum” (Ga 2, 7) Đức Giê-su đã cứu nguy cho nhà cưới một bàn thua trông thấy. Dấu lạ đã xảy ra, nước lã đã hóa rượu ngon, nhà cưới đã thoát hiểm, niềm vui tiếp tục dâng cao.
Từ dấu lạ đầu tiên tại Ca-na, các môn đệ đã nhận ra vinh quang của Thiên Chúa và “tin vào Người” (Ga 2, 11) và sau này xác tín mạnh mẽ: chỉ nơi Chúa Giê-su ” mới có những lời mang lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Thì ra, sau khi tội nguyên tổ ập xuống trên con cháu, cuộc sống của con người không hoàn toàn tuyệt mỹ. Dầu người ta có mong ước mọi chuyện tốt đẹp nhưng sự tắc trách vẫn luôn rình rập và tai họa có thể ấp đến bất cứ lúc nào.
Đến nay, trong Chúa Giê-su, không chỉ mọi khó khăn trong sinh hoạt thường ngày của đời người sẽ được giải gỡ, mà sâu xa hơn, nơi Người, Thiên Chúa thông đạt thiện ý nhiệm mầu (Dt 1, 1) “Thiên ý này là kế hoạch yêu thương. Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô” (Ep 1, 9).
Lắng nghe lời Chúa Giê-su, người ta biết được Thiên Chúa là Cha, biết Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, biết được sự sống đời đời “sự sống đời đời là được nhận biết Cha Thiên Chúa duy nhất chân thật và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (Ga 17, 3).
Qua nhiều cách, Chúa vẫn đang ban lời của Người cho nhân loại để giải thoát con người mọi bế tắc, giúp họ tìm lại nguồn hạnh phúc, hướng dẫn họ tìm được giải pháp để thành công. Nhờ vậy, họ không còn phải đi trong bóng tối mà bước đi trong ánh sáng. Lời Chúa tiếp tục vang lên nơi Hội Thánh.
III. LỜI CHÚA NƠI HỘI THÁNH
Trước khi về trời Chúa Giê-su đã ban cho Hội Thánh nhiệm vụ công bố lời Người. (Mt 28, 18-20).
Hội Thánh không thể quên dấu lạ nước lã hóa rượu ngon ở tiệc cưới Ca-na được gợi lên từ sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a, từ tình yêu tuyệt đối của Đức Giê-su.
Dầu là người mẹ của Con Thiên Chúa quyền năng những Mẹ Ma-ri-a chưa hề xin cho bản thân hay cho Thánh Gia một dấu lạ nào. Có chăng, Mẹ chỉ âm thầm hy sinh và suy gẫm những kỷ niệm Chúa ban cho gia đình (x. Lc 2, 19). Vậy mà, nơi tiệc cưới Ca-na, vì hạnh phúc của nhà cưới, Mẹ Ma-ri-a đã lên tiếng khẩn cầu Chúa “họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3).
Rõ ràng chính tình yêu và lòng quảng đại và sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a đến đồng loại đã làm nên sự biến đổi diệu kỳ: nước lã được biến đổi thành rượu hảo hạng. Trong ân sủng và tình thương, mọi bế tắc sẽ được giải gỡ, những khó khăn sẽ không còn, mọi lo lắng sẽ thành niềm vui và hoan lạc.
Nối tiếp sứ vụ của Chúa, và gương sáng của Mẹ Ma-ri-a, Hội Thánh sẽ mang trọng trách không ngừng loan báo lời Chúa cho muôn người, thể hiện qua những sinh hoạt của Hội Thánh (cụ thể nơi những thành phần như: Đức Giáo Hoàng – các Đức Giám Mục nhất là Đức Giám Mục giáo phận – các linh mục – giáo dân – các vị thừa sai khắp nơi…) bằng lời rao giảng, bằng sự quan tâm trách nhiệm dấn thân, bằng tình yêu và bằng chính mạng sống của mình.
Đứợc Chúa Thánh Thần hướng dẫn (x Ga 14, 17), Hội Thánh xác tín mọi ơn ban đều là quà tặng của Chúa Thánh Thần “có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12, 4) được ban cho nhiều người khác nhau không phải để mưu ích cho cá nhân mà là ” vì ích chung” (1Cr 12, 7).
Từ đó, Hội Thánh vững vàng tin tưởng chính Chúa Thánh Thần sẽ nhắc cho người tín hữu nhớ việc làm và lời dạy của Chúa Giê-su (Ga 14, 26). Trời đất dẫu qua đi nhưng lời Chúa thì sẽ tồn tại mãi (x.Mt 24, 35).
KẾT
Thành công là mong ước chính đáng của mọi người. Cách riêng thành công của người tín hữu được xây trên nền tảng lời Thiên Chúa, trong sự nguyện cầu của Mẹ Ma-ri-a.
Thế nên, người tín hữu tôn thờ Chúa Giê-su và tin tưởng Người chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1, 1. 14), ban lời sự sống vĩnh cửu cho con người (x. Ga 6, 68).
Với tâm hồn vui mừng, tạ ơn, người tín hữu đón nhận Lời Chúa là ngọn đèn, là ánh sáng soi sáng chỉ đường (Tv 118), biến đổi thành họ thành những người con đích thực của Chúa, hầu lãnh nhận “phúc trường sinh bất tử” (2Tm 1, 10).
11. Dấu lạ đầu tiên
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Kitô hữu ngày nay dễ dàng biết rằng Đức Giêsu có thể làm phép lạ hóa nước thành rượu thượng hảo hạng, vì Ngài là Thiên Chúa nhập thể; tuy nhiên những người đồng dự tiệc với Đức Giêsu không hiểu được như vậy. Vì vậy, biến cố Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này đã tác động mạnh mẽ trên những người biết sự việc này. Qua dấu lạ này, người ta và các môn đệ của Đức Giêsu nhận ra Ngài là một con người rất đặc biệt, Ngài là người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến.
“Vạn sự khởi đầu nan”. Đức Giêsu bắt đầu sự nghiệp bằng việc rao giảng. Không biết Ngài rao giảng có thành công hơn những thầy dạy khác trong dân Do Thái không? Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu theo sự thỉnh cầu của Đức Mẹ. Tin Mừng Gioan cho thấy Đức Maria là người đầu tiên hy vọng vào Đức Giêsu, tin vào Đức Giêsu! Người ta tin vào Đức Giêsu sau khi thấy dấu lạ Ngài làm, còn Đức Maria tin vào Đức Giêsu trước cả khi Đức Giêsu làm phép lạ. Đức Maria cũng là người biết Đức Giêsu hơn ai khác: Mẹ dám ngỏ lời nhắc nhở Đức Giêsu: “họ hết rượu rồi”.
Đức Maria rất tế nhị, Mẹ biết điều làm cho đôi tân hôn bối rối và không biết giải quyết làm sao. Mẹ biết nếu Đức Giêsu biết điều này, Đức Giêsu có thể làm một cái gì đó cho họ; và Mẹ đã không thất vọng. Qua sự kiện này, chúng ta thấy Đức Mẹ hiểu Đức Giêsu đến độ nào! “Ngài nói sao, các anh cứ làm như vậy”. Đức Giêsu đã can thiệp như Mẹ tiên đoán. Thật là đúng khi các Kitô hữu tôn Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp, vì ngày xưa Mẹ đã biết, và đã tế nhị can thiệp với Thiên Chúa cho con người, thì nay Mẹ cũng vẫn làm như vậy.
“Qua dấu lạ này, các môn đệ đã tin vào Ngài” (Ga.2, 11). Các môn đệ của Đức Giêsu tin Đức Giêsu là ai? Chắc chắn không phải các môn đệ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể vì lúc đó mầu nhiệm cao siêu này chưa được con người nhận rõ. Có lẽ các môn đệ tin Đức Giêsu là Người từ Thiên Chúa, Người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến để yêu thương và giúp đỡ dân. Cho dù người ta có biết có ý thức hay không, Đức Giêsu vẫn là Thiên Chúa nhập thể. Thế nhưng, điều này các môn đệ chưa ý thức, chưa biết được vào thời điểm đó. Đức Giêsu cũng là người phải khơi dậy và củng cố đức tin của các môn đệ đối với Ngài. Sau này Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?…. Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?” (Mt.16, 16).
Đức tin của các môn đệ đối với Đức Giêsu mỗi ngày một lớn dần, nhưng không phải là đồng đều đối với tất cả mọi người. Một số môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy nhiều điều khó nghe, đã bỏ Đức Giêsu không theo Ngài nữa: “Lời này chướng quá, ai nghe cho nổi……Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Đức Giêsu nữa” (Ga.6, 60.66). Khủng hoảng đức tin vào Đức Giêsu lên tột đỉnh với biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, nhưng với biến cố Phục Sinh và những lần hiện ra cho các tông đồ, các môn đệ Đức Giêsu tin vào Đức Giêsu mãnh liệt hơn, và biết Ngài là ai rõ ràng hơn sau biến cố Phục Sinh.
Với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra chân tướng của Đức Giêsu: Người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa. Cũng với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra Thánh Thần là ai, sau khi đã nhận ra Đức Giêsu là ai, sau khi nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với họ (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13). Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa; Ngài biến đổi lòng người, Ngài giúp con người tin vào Đức Giêsu.
Theo thánh Phaolô, Thánh Thần làm sinh động Hội Thánh qua những ân sủng của Ngài. Tất cả những gì hay tốt con người có, đặc biệt những gì con người đang phục vụ Giáo Hội, đều đến từ Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để giảng dậy, ban ơn quảng đại để phục vụ anh chị em mình, ban đặc sủng để chữa bệnh. Thánh Thần ở nơi cung lòng mỗi người (Ga.14, 16; 1Cor.3, 16-17).
Thánh Thần đổi mới mọi sự, đổi mới vận mạng một dân thành: thành Yêrusalem không còn bị ruồng bỏ nữa, nhưng được yêu vì. Cũng chính Thánh Thần biến đổi lòng dạ con người, đưa dẫn con người trở về với Thiên Chúa, đưa con người trở về với anh chị em mình. Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn con người, thánh hóa con người, làm cho con người trở nên dễ yêu dễ thương, trở nên xinh đẹp trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is.62, 5).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bạn có cảm nghiệm những gì xảy tới cho những anh em sống xung quanh, liên hệ mật thiết với bạn, và bạn đã xin Thiên Chúa can thiệp không? Xin chia sẻ nếu bạn có điều này.
- Chỉ với phép lạ biến nước thành bánh, đã đủ cho người ta kết luận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể chưa? Tại sao?
- Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ.
12. Phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ.)
“Họ hết rượu rồi.” (Ga 2,3)
Quý vị thân mến,
Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu làm rất nhiều phép lạ mà các Thánh sử đã kể lại. Những phép lạ ấy không chỉ thể hiện uy quyền của Con Thiên Chúa đến từ trời cao, nhưng còn thể hiện lòng thương xót vô bờ của thầy Giêsu dành cho nhân loại. Chúng ta vẫn biết phép lạ là việc Thiên Chúa làm, có thể nhận biết bằng giác quan, như dấu chỉ của sự hiện diện và ý hướng cứu độ của Ngài. Trong Chúa Nhật 2 thường niên hôm nay, độc giả sẽ ngạc nhiên khi thấy phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm lại liên quan đến một đám cưới của người Do Thái. Chỉ có thánh Gioan “quay lại” cảnh phép lạ này tại Cana, gần Nadarét, miền Galilê. (Ga 2,1–11).
Sau khi chọn gọi các môn đệ đầu tiên (trong đó có Na–tha–na–en)[1], Đức Giêsu cùng với các ông đến miền Cana để tham dự một đám cưới. Cũng như Nadarét, làng Cana chẳng giàu có gì. Tại sao họ lại được mời? Có thể gia đình cô dâu chú rể có họ hàng với Đức Mẹ, nên các môn đệ cũng đi “ăn ké”. Hoặc Na–tha–na–en là người Cana nên có liên hệ với đám cưới này, rồi họ mời ông và những người khác trong nhóm của ông. Lý do thứ ba có thể gia chủ mời cả Đức Mẹ, Đức Giêsu và các môn đệ đến dự tiệc cưới. Càng đông, càng vui! Dẫu sao, trong tiệc cưới ngày hôm ấy có Maria, Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Dĩ nhiên rượu là thứ không thể thiếu trong một bữa tiệc, nhất là tiệc mừng ngày thành hôn.[2] Thời đó người ta thường dùng rượu nho để nâng ly chúc mừng cô dâu chú rể. Tuy nhiên đám cưới này đang rơi vào thế kẹt vì thiếu rượu. Chạy đâu đi mua hoặc đi mượn bây giờ! Với số lượng thực khách đông đảo, chắc hẳn đôi tân hôn không thể làm gì khác ngoài lời xin lỗi hết rượu.
Trong lúc ấy, chính Mẹ Maria đã nhận ra lo lắng “trăm mối tơ vò” của gia chủ. Mẹ nhạy cảm nhận ra nhu cầu cấp thiết của đôi tân hôn. Có thể Mẹ là người trong dòng họ gia đình, nên Mẹ sớm nhận ra vấn đề ấy. Biết sao bây giờ? Mẹ cũng chẳng làm gì khác hơn là than thở với Giêsu, con của Mẹ: “Họ hết rượu rồi?” Hẳn là Mẹ không yêu cầu Giêsu làm một phép lạ, bởi từ trước tới giờ Mẹ chưa từng thấy con của mình làm dấu lạ hay phép lạ nào. Thôi thì Mẹ chia sẻ lo lắng với Giêsu để chia vơi nỗi lo cùng đôi tân hôn.
Mẹ và các môn đệ ngạc nhiên về câu trả lời của Thầy: “Hỡi người nữ, cái gì cho con và cho bà.” (dịch sát nghĩa). Thầy gọi Mẹ Maria trong đại từ “người phụ nữ” để cho thấy kiểu nói của người Do Thái thời ấy: Thầy từ chối can thiệp vào trường hợp này, vì chưa đúng lúc. (Giống như ngày xưa vua Đa–vít trả lời bà Xơ–ru–gia: “Chuyện của ta can gì đến các người, hỡi các con bà Xơ–ru–gia.” (2 Sm 16,10.) Thôi thì Thầy đã từ chối làm chuyện phi thường lúc này. Biết sao được?!
Mẹ bước ra gặp các gia nhân dặn họ nếu Thầy bảo gì các ông cứ làm theo. Hóa ra Mẹ vẫn còn hy vọng từ người con của mình. Đừng quên chính Chúa Giêsu “nhờ sự tin tưởng của cha mẹ mà Ngài lớn lên trong tự do và học cách bước đi với tất cả những người khác.” (Tông Huấn Đức Kitô Sống, số 29).
Nhìn quanh đám tiệc, chú ý đến cô dâu chú rể, Đức Giêsu chắc hẳn thương cho đôi tân hôn. Thầy cũng sợ niềm vui của họ không trọn vẹn nên bảo các gia nhân đổ nước vào chum. Ở đó có sáu cái chum, mỗi chum chứa độ 80–120 lít nước. Thế là họ đổ đầy nước đến miệng chum. Khi hoàn tất nhiệm vụ, Đức Giêsu bảo họ múc đem cho quản tiệc. Ông ta nếm thử nước đã hóa thành rượu thì ngạc nhiên khôn cùng. Ở đâu ra thứ rượu ngon như thế này! Ông còn trách tân lang tại sao không thết đãi rượu ngon trước.
Từ giây phút đó, đám cưới thêm vui vì có rượu ngon hảo hạng, đôi tân hôn thêm hạnh phúc vì có Thầy Giêsu làm dấu lạ đầu tiên trong tiệc cưới của mình. Chúc mừng đôi bạn! Từ ngày hôm đó, phép lạ này luôn nổi tiếng trong những đám cưới của người Kitô giáo. Nổi tiếng vì đôi bạn được Chúa Giêsu thánh hóa. Ngài nâng ly rượu mừng, chúc phúc cho mối tình của đôi bạn. Qua đó, Thiên Chúa kết hợp họ “thành một xương một thịt.” Ngài ban ơn thiêng để kết nối đôi bạn trọn đời bên nhau. Ngài thánh hóa gia đình mới để trong đời sống, họ luôn “dắt dìu nhau trên đường tình, dìu nhau trên con đường mến yêu.”
Nếu có dịp đi Đất Thánh, người ta thường thăm lại ngôi nhà đặc biệt ở tại Cana. Nơi đây còn lưu giữ biết bao kỷ niệm của lần Đức Giêsu làm phép là đầu tiên. Người ta còn chứng kiến các chum rượu cũ sờn với thời gian được đặt dưới tầng hầm nhà thờ. Các đoàn hành hương thường dâng thánh lễ cho các đôi vợ chồng để nhớ lại biến cố ngày xưa với ước mong: Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu vợ chồng.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng nhận thấy nét đẹp và tầm quan trọng của đời sống hôn nhân. Tiếc rằng thời đại hôm nay, cuộc sống gia đình đang phải đối diện với quá nhiều khủng hoảng. Trong gia đình, không phải lúc nào đôi bạn cũng hạnh phúc như ngày thành hôn, không êm đẹp như cái thuở ban đầu. Bởi đó, kiến tạo một gia đình hạnh phúc đòi hỏi rất nhiều tình yêu và ơn sủng. Cần tình yêu để duyên tình của đôi tân hôn mãi nở hoa, cần Thiên Chúa để Người ban ân sủng cho họ trong cuộc sống lứa đôi. Được như thế, chắc hẳn Chúa Giêsu không chỉ làm phép lạ đầu tiên tại Cana, nhưng mỗi ngày, Người vẫn hằng trao ban nhiều phép lạ trong đời sống gia đình.
Hẳn rằng đôi bạn nào cũng muốn mời Chúa đến dự tiệc cưới. Trong ngày thành hôn, Chúa chúc phúc và ban ơn lành cho đôi tân hôn. Để từ đó về sau, đôi bạn bước vào đời sống gia đình luôn có Chúa ở cùng. Nhờ đó tình yêu của họ luôn thắm mãi tình ban đầu.
“Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa đến chung chia cuộc sống với họ. Ước mong mỗi đám cưới luôn có phép lạ xảy ra, vì có Chúa Giêsu hiện diện. Nhờ đó cuộc sống gia đình của chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc dài lâu.” Amen.
———————-
[1] Thánh Bartolomeo – trong Phúc Âm đôi khi còn được gọi là Nathanael – là một trong mười hai tông đồ. Ngài quê ở thành Cana xứ Galilê.
[2] Hôn nhân trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu: khi hôn ước được ký, việc đính hôn sẽ diễn ra. Sau đó khoảng 1 năm, hai người sẽ làm đám cưới, lễ thành hôn. Sau lễ cưới, dĩ nhiên là tới tiệc cưới thường diễn ra bên nhà trai, kéo dài cả tuần lễ.
13. Rượu ân sủng
Đời sống càng khó khăn thì cuộc sống càng lo âu. Mọi lo âu đều nhằm vào việc giải toả những vướng mắc cho cuộc sống. Chúng ta lo lắng về sức khoẻ của mình, về cha mẹ, con cái, bạn bè, về công việc và về những thứ cần chi tiêu…Người chủ tiệc cưới Cana trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có những nỗi lo lắng như thế. Ông ta lo lắng vì tiệc cưới mới tới ngày thứ ba mà rượu đã cạn, trong khi đó tiệc cưới tổ chức tới một tuần. Trong truyền thống của người Do thái ngày xưa, tiếp khách là nhiệm vụ thiêng liêng. Vì vậy, nếu thiếu thức ăn, nước uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho gia đình chủ tiệc.
“Họ hết rượu rồi!” Đức Mẹ thấy trước nỗi khổ tâm của gia đình chủ tiệc. Một câu nói tế nhị, không đòi hỏi hay van xin gì mà chỉ trình bày cho Đức Giêsu nỗi băn khoăn của họ. Họ sắp xấu hổ mà báo tin cho khách mời dự tiệc là rượu đã cạn. Ai sẽ tiếp giúp họ? Ai có thể duy trì ngày vui nhất đời họ nếu không phải là Con Mẹ? Qua nỗi lo lắng của Mẹ. Đức Giêsu nhìn thấy dân Do thái đang khắc khoải mong chờ Đấng Cứu Thế giải phóng họ. Nhưng họ chỉ quan tâm đến vật chất, và những hình thức bề ngoài…ĐG đã cố gắng đưa những người tiếp xúc với Ngài đến một trật tự khác, nhưng thường thì không mấy ai hiểu Ngài? Tại sao? Vì Ngài là một con người siêu việt từ trời cao xuống hay là rượu niềm tin của họ đã cạn?
“Họ hết rượu rồi” Đây chính là nét đặc sắc của đức ái, vào bàn ăn, hãy nghĩ đến người bên cạnh hơn là chính mình; người nghèo lúc nào cũng có bên cạnh, xã hội nào cũng có người nghèo, không nghèo vật chất cũng nghèo tinh thần. Người nghèo hiện diện như một hồng ân của Thiên Chúa, người nghèo hiện diện như một lời mời gọi con người rời khỏi cái vỏ ích kỷ của mình mà trao ban chia sẻ, và người nghèo mời gọi chúng ta trao ban, vì có trao ban chúng ta mới cảm nhận được câu nói thật sâu sắc của Đức Mẹ: “Họ hết rượu rồi”. Đức Giêsu coi lời nói nầy như là tiếng thở than của người Mẹ nhân loại đang đau khổ vì những đứa con tội lỗi. Lời cầu nguyện của chúng ta có bao giờ hướng đến một nhân loại đang oằn oại khổ đau như Mẹ không? Bao kẻ bệnh tật, mồ côi, hoạn nạn, lỡ làng, bị thử thách… đang mong chờ lời cầu nguyện của chúng ta. Đức Giêsu đã chấp nhận lời đề nghị của Mẹ, mà nếu Đức Giêsu chấp nhận lời đề nghị của Mẹ thì tôi nghĩ Đức Giêsu trả lời một câu rất dễ thương “Xin Mẹ đừng lo, Mẹ không hiểu việc đang xảy ra đâu; hãy để đó cho Con, Con sẽ có cách thu xếp cho”. Quả thế sáu cái chum mà Đức Giêsu bảo gia nhân đổ đầy nước đã biến thành rượu. Đối với người Do thái, số bảy là con số tròn đầy. Vậy con số sáu là con số chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn. Sáu cái chum nước tiêu biểu cho những cái bất toàn của tập quán và lối sống đạo dân Do thái. Đức Giêsu đã đến để kiện toàn những cái bất toàn của lề luật, thay vào đó bằng thứ rượu mới của ân sủng… Cụ thể chúng ta thấy mỗi cái chum có thể chứa 80-120 lít. Đức Giêsu đã khiến nước lã trong sáu cái chum biến thành rượu ngon, tất cả khoảng 500-700 lít rượu. Sự kiện này chúng ta cũng đừng hiểu theo nghĩa đen. Vấn đề là khi ân sủng của Chúa đã đến với mọi người thì ân sủng ấy có đủ để cung cấp cho tất cả.
“Đổ đầy tới miệng”. Trong đời sống, chúng ta cũng muốn đổ đầy những tiện nghi vật chất như: Một căn nhà sang trọng, một chiếc xe Nouvo, một chiếc di động Nokia đời mới… để sống hợp với nếp sống văn minh, để sống cho ra người có văn hoá, để sống xứng với phẩm giá con người. Điều đó xem ra không có gì ngược lại với Tin Mừng, xem ra cũng là một ước mơ chính đáng và bình thường. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng quên ước mơ sắm cho mình một bình rượu (không phải là OX, Napoleon, Martin…) nhưng là rượu ân sủng, uống rượu nầy chúng ta sẽ được đức tin, sức mạnh và tình yêu trong Đức Giêsu.
Chi tiết: “Họ hết rượu rồi” so sánh với chi tiết: “đổ đầy tới miệng” cho thấy rằng; những gì chúng ta đã hết, đã cạn thì hãy để cho Chúa đổ đầy miễn là chúng ta có một tâm hồn đơn sơ trong sạch để mau mắn nhận lãnh ơn Ngài.
Chuyện kể rằng:
Có một bà lão đạo đức, nhưng nghèo đến nỗi không có đủ tiền mua gạo ăn. Hôm nọ, đói quá không làm gì nổi, bà chỉ còn cách quỳ gối giữa nhà, hết lòng tha thiết van nài cùng Chúa: “Lạy Chúa! Xin giúp con có gạo nấu cơm ăn chiều nay, nếu không, chắc con chết mất. Xin Chúa thương con ” Lúc đó, một người vô thần tình cờ đi ngang, anh ta giở một trò để tiêu khiển niềm tin của bà. Anh chạy lẹ ra tiệm tạp hoá gần đó, mua một ký gạo, rồi trở về ném túi gạo qua lỗ vách lá, rơi bịch trước mặt bà. Bà lão vô cùng mừng rỡ và hết sức ngỡ ngàng, đến nỗi quên cả đói khát vừa hô to: “Cám ơn Chúa, con cám ơn Chúa.”
Bà vừa chạy vừa khoe với lối xóm là Chúa đã nhận lời bà cầu xin. Thấy bà già đã trúng kế mình, anh chàng vô thần cười chế nhạo, và nói rõ là anh ta vừa ra tiệm tạp hoá mua túi gạo, rồi ném qua lỗ vách cho bà. Nhưng bà lão đáp:
” Có thể là anh mang gạo đến cho tôi nhưng tôi bảo đảm là lời tôi cầu nguyện đã được Chúa nhận lời. Tôi cầu xin chiều nay có gạo nấu cơm, và Chúa đã ban cho tôi y như lời tôi cầu. Tạ ơn Chúa, cám ơn anh. “
Bà lão đã hết gạo, bà đã xin gạo và được gạo, bà tạ ơn Chúa và nhận ra đó là ơn huệ Chúa ban, cho dù gạo đó đến từ một âm mưu đen tối. Nhưng ai âm mưu thế nào không cần biết, chỉ biết tạ ơn Chúa vì đó là ơn lành Chúa ban.
Còn chúng ta, nếu chúng ta chưa có gì trong đời sống cầu nguyện, thì hãy bắt đầu ngay hôm nay. Nếu lòng chúng ta chưa đầy trong đời sống bác ái, thì hãy bước đi đến với người nghèo khổ hoạn nạn, hãy chia sẽ những nụ cười, những cái bắt tay, những lời hỏi thăm… Nếu chúng ta đang lo lắng về những thứ cần chi tiêu trong cuộc sống, thì chỉ có một điều đáng lo là phần rỗi linh hồn. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ, bàn tiệc Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa là lương thực không thể thiếu trong đời sống đức tin… bất cứ lúc nào, khi Chúa bước vào một đời sống, thì đời sống ấy nhận được một phẩm chất mới, giống như nước lã biến thành rượu ngon vậy. Những sầu muộn lắng lo sẽ được giải toả. Lúc đó chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin là tâm tình tạ ơn. Amen.
14. Ngài là ai?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Đức Giêsu sống một thời gian dài ở Nadarét, như một người bình thường, một người thợ làm vất vả mới có đủ lương thực sống. Sau ba mươi năm trời, nghe tin Gioan làm phép rửa thống hối tại sông Giordan, Đức Giêsu được thúc đẩy để đi chịu phép rửa, rồi Ngài được Thánh Thần dẫn vào sa mạc để ăn chay cầu nguyện, Ngài thấy sứ mạng và bắt đầu ra đi rao giảng, thu tập các môn đồ. Hôm nay Tin Mừng cho thấy Ngài xuất hiện ở tiệc cưới Cana.
Đức Maria tin vào Con mình
Đức Maria cảm thông với đôi tân hôn và những người trong gia đình: nếu hết rượu giữa chừng, người ta sẽ đàm tiếu, và gia đình nghèo này làm sao vượt qua được? Đức Maria nói với Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi”. Tại sao Đức Mẹ lại nói với Đức Giêsu? Như thể Đức Mẹ hiểu phản ứng của Đức Giêsu trước những hoàn cảnh như vậy!
Hãy đặt mình vào trường hợp những người ở bên Đức Giêsu và Đức Mẹ lúc đó: họ hiểu gì? Có lẽ họ chẳng hiểu gì! Có thể có người nghĩ: “bà này vô duyên! Họ hết rượu thì kệ họ, con bà làm gì được!” Và Đức Giêsu đã trả lời Đức Mẹ như vậy: “Việc đó có liên quan gì đến bà và tôi?”. Tuy vậy, Đức Mẹ vẫn nói với những người giúp việc: “Ngài nói sao cứ làm như vậy”. Đức Maria hiểu Đức Giêsu hơn bất cứ ai, dường như Đức Mẹ biết Đức Giêsu sẽ làm một cái gì đó để cứu gỡ cặp hôn nhân và gia đình trong cảnh khốn cùng này. Quá tuyệt thái độ của hai người hiểu nhau ở đây.
Đức Giêsu đã làm điều Ngài đã làm. Phải chăng vì Đức Mẹ, hay cứ bình thường Ngài phản ứng như vậy? Có thể không vì Đức Mẹ, nhưng Đức Mẹ biết Đức Giêsu sẽ phản ứng trước hoàn cảnh như vậy: Ngài vẫn động lòng trước nỗi khổ của con người.
Các môn đồ tin vào Đức Giêsu
Những người giúp việc biết nước đã biến thành rượu. Người chủ tiệc không biết rượu từ đâu có, nhưng các người giúp việc thì biết. Chắc là những người giúp việc ngạc nhiên và thán phục Đức Giêsu.
Ngài là người của Thiên Chúa, vì đã làm được việc phi thường. Các môn đồ đã tin vào Ngài. Ở vào thời điểm này, chưa có ai biết Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì người Do Thái tin Thiên Chúa là Đấng duy nhất, họ chưa biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị. Thiên Chúa là Ba Ngôi chỉ được mặc khải nhờ Đức Giêsu sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết mà thôi.
Niềm tin và sự hiểu biết của các tông đồ mỗi ngày mỗi tăng, và cũng có những khủng hoảng như khi Đức Giêsu mặc khải “mình Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống”. Một số môn đồ bỏ đi vì thấy lời của Đức Giêsu chói tai quá (Ga.6, 60.67). Cuộc khủng hoảng cao độ nhất là biến cố Đức Giêsu bị giết trên thập giá. Sau khi Đức Giêsu sống lại, nhờ ơn của Thánh Thần các tông đồ đã nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể.
Hồng ân và đặc sủng đều do Thánh Thần
Thánh Phaolô cho biết, tất cả đều do Thánh Thần, ngay cả hồng ân đức tin: “không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà lại không do Thánh Thần” (1Cor.12, 3).
Tất cả đều từ Thiên Chúa mà đến, đều do một Chúa, đều nhờ Thánh Thần. Ơn phục vụ, ơn khôn ngoan, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định các thần, ơn ngôn ngữ, ơn giải thích, v.v… tất cả đều từ Thiên Chúa, đều do Thánh Thần mà có.
Ơn sủng Thiên Chúa đang bao trùm chúng ta. Chúng ta hiện hữu, ăn uống, nghỉ ngơi, làm việc, sức khỏe, học hành, hiểu biết, v.v…. tất cả đều bởi Thiên Chúa, đều do Thánh Thần. Chúng ta đang sống trong tình yêu. Hãy nhận biết điều đó, để hạnh phúc và cảm tạ Thiên Chúa.
Chính nhờ Đức Giêsu mà chúng ta có tất cả. Đức Giêsu là qùa tặng qúy nhất mà Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta, thì Ngài còn gì với chúng ta nữa! Thiên Chúa là quà tặng qúy nhất mà mỗi người chúng ta có, và không ai có thể tước mất được. Tạ ơn Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Bạn có kinh nghiệm về hai người hiểu nhau không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm đó nếu có thể được.
- Bạn có kinh nghiệm (tin) Thiên Chúa yêu bạn, và sẽ làm điều tốt nhất cho bạn không? Bạn có kinh nghiệm “muốn gì Thiên Chúa cũng chiều” bạn không? Xin chia sẻ nếu có thể được.
- Điều gì quý nhất với bạn? Bạn hay cầu nguyện để được điều gì nhất? Bạn có hay cầu nguyện xin Chúa ban cho bạn điều bạn cho là qúy nhất không? Nếu không thì tại sao?
- Bạn có kinh nghiệm “khủng hoảng đức tin” không? Làm sao bạn vượt qua được?
15. Người bảo gì cứ làm theo
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Những tiệc cưới thường giống nhau: người ta ăn uống vui chơi, mừng cho đôi tân hôn; Nhưng tiệc cưới tại Cana này không giống những tiệc cưới khác vì có sự hiện diện của hai khách mời đặc biệt là Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Trong các tác giả Phúc Âm, chỉ có thánh Gioan tường thuật hết sức tỉ mỉ diễn biến của tiệc vui này. Đức Mẹ được mời dự tiệc, có lẽ là bà con. Trong xã hội Do Thái, người nữ chỉ đóng vai phụ thuộc. Có thể Đức Mẹ chỉ ở trong nhà bếp giúp những việc linh tinh. Đương nhiên Chúa Giêsu cũng được mời và kèm theo, có những môn đệ đầu tiên của Ngài, trong đó có Gioan.
Đám cưới Do Thái thời bấy giờ kéo dài bảy hay tám ngày. Những ngày đầu, bạn bè, bà con gần xa đến chung vui. Họ mang lễ vật đến thường là bò, chiên, dê, bánh mì, rượu nho v.v… Nhà đám lấy đó mà đãi khách, không tốn phí bao nhiêu. Ngày thứ bảy mới là chánh lễ. Có lẽ Chúa Giêsu và các môn đệ đến vào ngày cuối cùng.
Nửa chừng, Đức Mẹ đến nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi”.
Tại sao một tiệc cưới lớn như thế lại hết rượu? Đãi khách suốt bảy ngày làm sao không sơ sót? Người ta uống rượu nho như ngày nay chúng ta uống bia. Phải dự trù sáu trăm lít mới đủ. Nhưng nhà này là một nhà khá giả, vì thánh Gioan ghi nhận, trước cửa có sáu chum đá để cho khách rửa chân, sao có thể xảy ra vấn đề thiếu sót như thế? Chúng ta hiểu những bữa tiệc cưới bao giờ cũng rầm rộ, công việc đủ thứ, không ai có thể kiểm soát tất cả, mặc dù có ông quản tiệc. Và chính điều này đã khiến cho Đức Mẹ can thiệp.
Chúa Giêsu trả lời bằng một câu khó hiểu đối với chúng ta: “Thưa Bà, việc này can gì đến Bà can gì đến con? Giờ con chưa đến”. Tại sao thưa bà mà không thưa mẹ? Đối với người Do Thái, từ bà phải hiểu như một tước vị trang trọng. Nhà vua, đứng trước triều thần không bao giờ gọi hoàng thái hậu là mẹ, mà luôn gọi bằng bà. Khi thưa như thế, Chúa Giêsu đã nhìn Mẹ Maria như một Đấng có uy quyền, chứ không chỉ là mẹ riêng của mình.
“Việc này can gì đến Bà, can gì đến con? Giờ con chưa tới”. Câu trả lời xem ra như một cách từ chối khá rõ rệt, nhưng tại sao Đức Mẹ lại bảo gia nhân làm theo sự hướng dẫn của Ngài?
Ở đây, chúng ta nhận thấy uy quyền của Đức Mẹ trên Chúa Giêsu. Khi tìm được Chúa Giêsu trong Đền thờ lúc mười hai tuổi, chính Đức Mẹ trách Ngài chứ không phải thánh Giuse. Điều này cho thấy thực quyền của Đức Mẹ. Trong việc thiếu rượu này, chúng ta càng thấy rõ hơn uy quyền của Mẹ. Giờ con chưa đến, nghĩa là Ngài chỉ làm theo ý Chúa Cha, và giờ đó, theo những nhà chú giải Kinh Thánh, là giờ Ngài phải chịu treo trên thập giá, sống lại và lên trời vinh hiển. Giờ con chưa đến, nghĩa là Cha chưa quyết định, nhưng Mẹ muốn thì con vâng lời. Cha có quyền, Mẹ cũng có quyền. Trong cách xưng hô “thưa Bà” của Chúa Giêsu đặt Đức Mẹ vào một địa vị cao cả hơn. Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, nhưng bắt đầu từ nay Mẹ sẽ lãnh nhận một nhiệm vụ quan trọng hơn. Nơi đây Chúa Giêsu tiên báo vai trò tương lai của Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Lúc ấy Ngài cũng gọi Mẹ bằng tiếng Bà trang trọng: “Thưa Bà, Này là con Bà…” Mẹ được giao phó trách nhiệm làm mẹ của đoàn con đông đúc của Ngài thay thế cho Evà là “mẹ chúng sinh”.
Chúng ta có thể tin vào Mẹ Maria, và chúng ta sẽ không bao giờ thất vọng. Chúng ta có một bà mẹ tuyệt vời như thế, tại sao chúng ta không tin vào Mẹ, không yêu mến Mẹ?
Sau khi trả lời, Chúa Giêsu bước theo Mẹ và bảo gia nhân đổ đầy nước trong sáu chum đá để nước rửa chân cho khách. Họ đổ đầy đến miệng. Ngài bảo đem cho ông quản tiệc nếm thử. Ông này nếm xong, ngạc nhiên vì rượu quá ngon. Ông gọi chàng rể đến và quở trách vì đã để rượu ngon đến giờ cuối mới đem ra. Như thế, Chúa Giêsu đã tặng cho nhà đám gần sáu trăm lít rượu hảo hạng. Thánh Gioan chú thích: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và đã tỏ vinh quang của Người”. Kết quả đầu tiên là “các môn đệ đã tin vào Người”.
Phép lạ này chứng tỏ vinh quang của Chúa Giêsu. Đó là vinh quang của Người Con Một “đầy ân sủng và chân lý”. Vinh quang đây không như vinh quang trần thế mà là hồng ân cứu độ. Chúng ta nhận lãnh ơn này đến ơn khác từ sự sung mãn của Ngài.
Chúa Giêsu tặng cho đám cưới một số rượu nhiều như thế để chứng tỏ rằng Ngài là sự sung mãn tuyệt vời. Chúng ta thiếu rượu chăng? Cuộc đời chúng ta tàn héo trong đau khổ hay yếu đuối? Ngài sẽ mang lại niềm vui.
Trong phép lạ nước hóa thành rượu ngon này, chúng ta cũng nhìn thấy một ý nghĩa sâu xa hơn. Ông quản tiệc bảo chàng rể sao lại để rượu ngon đến giờ này có nghĩa là rượu mới ngon hơn rượu cũ. Thánh Gioan muốn cho thấy rằng, Chúa Giêsu đã đến, thời Cựu Ước đã chấm dứt. Ngài khai sáng thời đại của ân sủng. Chúng ta không còn sống dưới ách Lề Luật nữa, chúng ta sống trong tình yêu của Cha trên trời.
Đến dự tiệc cưới, chứng tỏ Chúa Giêsu sống hòa mình với mọi người, chia sẻ niềm vui nỗi khổ của con người, Ngài không tách biệt trong một sự uy nghi biệt lập. Nhưng Ngài đến đâu, niềm vui sẽ tràn đầy. Ngài mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc sống của Ngài. Ngài sẽ đãi chúng ta một của ăn tuyệt vời là chính Thịt Máu Ngài. Đây mới là bữa tiệc sung mãn tràn trề.
Hôm nay, Ngài cho chúng ta rượu nho hảo hạng, ngày nào đó, Ngài sẽ cho chúng ta uống chính Máu Ngài, và “niềm vui của chúng ta sẽ trọn vẹn”.
Hôm nay, Ngài là Khách mời đến dự tiệc cưới của chúng ta, ngày mai, Ngài sẽ mời chúng ta vào tiệc cưới của Ngài, Ngài sẽ là tân lang và chúng ta sẽ là cô dâu đáng yêu của Ngài.
Ngài là Tình Yêu. Ngài thánh hóa tình yêu của con người. Tình yêu nào không có Ngài sẽ không thể trọn vẹn. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy “sống trong tình yêu của Ngài”.
16. Hôn ước giữa Thiên Chúa với loài người
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
CHÚA GIÊSU HÓA NƯỚC THÀNH RƯỢU
(Ga 2,1-11)
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ nghe Thiên Chúa ngỏ lời “tỏ tình” với loài người chúng ta. Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa phán: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào.
- Gợi ý sám hối
Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng đáp lại, chúng con yêu thương Chúa quá ít.
Vì yêu thương chúng con nhiều, nên Chúa hy sinh rất nhiều cho chúng con, thậm chí Chúa đã chịu nạn chịu chết vì chúng con. Phần chúng con vì yêu thương Chúa ít nên chúng con ít khi chịu hy sinh vì Chúa.
Yêu thương là cho đi. Chúa yêu thương chúng con vô cùng nên đã ban cho chúng con vộ vàn ơn sủng. Còn chúng con thì chẳng có gì để dâng cho Chúa.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Is 62,1-5)
Bài thơ này của Đệ Tam Isaia được sáng tác sau khi dân Do Thái được thoát cảnh lưu đày, hồi hương về cố quốc.
Khi nhìn ngược về quá khứ, tác giả hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng khi nhìn vào hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa: dù dân đã phản bội nhưng Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng: “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
- Đáp ca (Tv 95)
Thánh vịnh 95 là tâm tình của người ý thức tình thương Thiên Chúa: vui mừng, ca tụng và loan báo “Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa đã làm”.
- Tin Mừng (Ga 2,1-12)
Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là “dấu chỉ đầu tiên” qua đó Chúa Giêsu “bày tỏ vinh quang của Ngài” để cho “các môn đệ tin vào Ngài” (câu 11). Chúa bày tỏ những gì?
- Trước hết Ngài cho thấy Ngài là Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Thánh Kinh thường dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Trong đám cưới ở Cana, lẽ ra chú rể phải cung cấp đủ rượu cho khách dự tiệc, và như thế bữa tiệc mới vui mừng trọn vẹn. Thế nhưng chú rể ấy đã không chu toàn. Kẻ cung cấp rượu và làm cho bữa tiệc vui mừng trọn vẹn lại chính là Chúa Giêsu.
- Ngài còn cho thấy Ngài đến để thiết lập một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng đã quá lỗi thời của người Do Thái: bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của đạo cũ. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của người ta. Nghĩa là tín ngưỡng mới mà Chúa Giêsu thiết lập vượt xa tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài.
- Bài tường thuật cũng nói tới “giờ” (Chúa Giêsu nói với Đức Maria: “Giờ con chưa đến”). “Giờ” là lúc Chúa Giêsu được vinh quang khi chịu chết trên Thập giá để tuôn ơn cứu độ cho loài người. Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới “giờ” ấy, nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
- Vinh quang Chúa đã được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, kẻ đã tế nhị thấy hoàn cảnh khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Chúa Giêsu can thiệp.
- Bài đọc II (1 Cr 12,4-11) (Chủ đề phụ)
Có nhiều chia rẻ, đố kỵ và tranh chấp trong giáo đoàn Côrintô: người có tài thì khinh chê kẻ khác, kẻ bất tài thì đố kỵ, những kẻ có tài lại ganh ghét nhau.
Thánh Phaolô nhắc cho họ nhớ: (1) tất cả mọi tài năng đều là do Chúa Thánh Thần ban; (2) mà ơn Chúa Thánh Thần ban thì khác nhau nơi mỗi người; (3) và tất cả những ơn ban đó đều nhằm phục vụ lợi ích chung của Giáo Hội.
- Gợi ý giảng
* 1. Tình yêu của Chúa
Trong các thứ tình yêu, tình yêu nào nồng nàn tha thiết nhất? Thưa là tình cha mẹ dành cho con cái, và tình vợ chồng đối với nhau. Nếu so sánh hai thứ tình đó với nhau thì tình yêu hôn nhân chắc là mạnh hơn. Bởi đó sách Sáng thế đã viết “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình” (St 2,24). Chúa Giêsu cũng đồng ý như thế nên đã trích dẫn lại câu ấy khi tranh luận với các người biệt phái (Mt 19,5). Cũng vì lý do đó nên khi muốn tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa.
Trong tình yêu vợ chồng, điều gì đáng quý nhất? Thưa đó là sự hy sinh cho nhau và chung thuỷ với nhau. Hy sinh cho nhau nhiều chừng nào thì đó là bằng chứng yêu thương nhau nhiều chừng ấy. Dù gặp phải bao sóng gió, dù những khuyết điểm lỗi lầm thường xuyên đe dọa, nhưng vợ chồng vẫn yêu thương nhau đến chết, đó mới là tình yêu chân thật vững bền.
Thế nhưng, trong một trăm đôi vợ chồng, có bao nhiêu đôi hy sinh và chung thuỷ được như thế.
Rốt cuộc, dù con người được nếm vị ngọt của nhiều loại tình yêu, nhưng rất nhiều lần cũng phải thất vọng với những tình yêu nhân loại, cho dù đó là tình vợ chồng tha thiết nhất.
Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là tình yêu chân thật và cao cả nhất: vì yêu thương chúng ta, Chúa Cha đã hy sinh ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta; vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hy sinh đến nỗi chịu chết vì chúng ta: “Không có tình yêu nào cao trọng bằng tình yêu của người dám thí mạng vì người mình yêu”. Mặt khác, dù loài người luôn phản bội, Thiên Chúa vẫn tha thứ và vẫn cứ yêu. Loài người đã nhiều lần bỏ Chúa, nhưng Chúa không bao giờ bỏ loài người.
Con người là một sinh vật yêu thương: con người cần yêu thương và cần được yêu thương. Chúng ta hãy tìm đến tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ chẳng phải thất vọng bao giờ.
* 2. Phép lạ ở Cana
Thời nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình: số người lập gia đình rồi li dị càng ngày càng nhiều; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết sống chung suốt đời.
Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn: Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mõi, không ngừng nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.
Ở Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế: khi người ta thiếu rượu, Ngài đã làm cho có rượu dồi dào; và rượu ấy Ngài đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin Ngài. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin?
* 3. Ý nghĩa sâu xa của phép lạ hóa nước thành rượu
Tin Mừng theo Thánh Gioan thường có ý nghĩa rất sâu xa. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng này, tuy nói về một đám cưới nhưng ý nghĩa không chỉ gói gọn trong đời sống hôn nhân mà bao trùm cả đời sống mọi người; tuy nói về nước hóa thành rượu nhưng chỉ đến tất cả những thứ mà quyền năng Chúa Giêsu có thể biến đổi.
Việc Chúa Giêsu hóa nước thành rượu được Thánh Gioan gọi là “dấu chỉ” và còn là “dấu chỉ đầu tiên để bày tỏ vinh quang của Ngài”. Dấu chỉ là cái gì đó trước mắt chỉ tới cái khác. Cái trước mắt ở Cana là nước thành rượu. Cái khác mà nước thành rượu chỉ tới là gì? Thưa là điều được ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc I: đó là ngày mà Thiên Chúa biến đổi cuộc sống con người thành hoan lạc như tiệc cưới: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
Chúa Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Naim, Ngài đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi con mình sống lại. Ở Giêricô, Ngài đã biến đổi cõi lòng héo úa vì ích kỷ của ông Dakêu thành một tâm hồn tươi tốt quãng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, Ngài vẫn tiếp tục biến đổi người trộm lành đang tuyệt vọng thành người khách mời đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Ngài đã biến đổi sự chết thành sự sống.
Nếu đời bạn đang tẻ nhạt như nước lã. Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ biến đổi cho nước lã ấy thành rượu ngon tuyệt vời.
* 4. Hạnh phúc mong manh
Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.
Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
***
Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động: Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.
Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về “Tiệc cưới Cana”. Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của người.
Theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến “ngày thứ ba” thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhạy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.
Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt: “Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Qua câu này Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ cũng không hiểu rõ chữ “Giờ” tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ, Mẹ mong Con làm một điều gì đó: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.
Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy “Giờ” tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để “Các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11).
Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.
Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành 700 lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.
Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa: “Họ hết rượu rồi”.
Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.
Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.
Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu ước thành rượu ngon của Tân ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho chúng con một hạnh phúc vững bền.
Xin Mẹ Maria luôn là đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen. (TP)
* 5. Đức Maria, gương mẫu của sứ vụ
Tin Mừng thánh Gioan chỉ nhắc tới Đức Maria có hai lần: một lần ở Cana lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, và một lần dưới chân thập giá lúc Ngài hoàn thành sứ vụ. Hai lần ở đầu và cuối, ngụ ý bao hàm tất cả. Các Tin Mừng nhất lãm nói rõ hơn về điều này.
Trong biến cố Truyền tin, khi được hỏi có muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế hay không, Người đã bỏ ý riêng sang một bên để quảng đại “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là sẵn sàng gác sang một bên những chương trình riêng của mình, để đáp lại lời Chúa mời hợp tác trong chương trình của Ngài.
Trong biến cố Thăm viếng, khi vừa hay tin người chị họ của mình đã mang thai 6 tháng và đang cần người giúp đỡ, Đức Maria đã vội vã đến nơi. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến: thấy nhu cầu, và mau mắn phục vụ.
Trong biến cố Cana, Đức Mẹ thoáng nhận ra vẻ bối rối của nhà chủ, Người hiểu ngay là họ thiếu rượu, và Người đã xin Con giúp đỡ. Sứ vụ đôi khi cần phải tế nhị: nhận ra điều người ta đang cần, nhưng ý thức rằng bản thân mình không làm gì được, nên giới thiệu cho kẻ có khả năng giúp đỡ.
Trên đồi Golgotha, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn con yêu dấu đang hấp hối, rất đau lòng nhưng chỉ biết lặng thinh. Sứ vụ có khi còn có nghĩa là chấp nhận bất lực không làm gì được, chỉ biết phó thác.
Tất cả chúng ta đều được Chúa trao sứ vụ: sứ vụ đối với gia đình, sứ vụ với Giáo Hội, sứ vụ với xã hội, sứ vụ với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nhìn gương Đức Mẹ và bắt chước Người. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
a/ Con sâu trong tảng đá
Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên: “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.” (Trích “Món quà giáng sinh”)
b/ Cái nhìn của bậc thánh nhân
Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ: từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chỉ Thiên Chúa mới có thể đem lại cho con người niềm vui chân thật và hạnh phúc trọn vẹn. Tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh là đại gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi thành viên trong đại gia đình này / không chân thành yêu thương và quảng đại nâng đỡ nhau.
- Trên thế giới ngày nay / tình trạng đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình đang gia tăng đến mức báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn được hạnh phúc và bình an.
- Gia đình tốt thì xã hội và Giáo hội mới tốt được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình Kitô hữu / luôn quan tâm giáo dục đức tin và nhân bản cho con cái của mình.
- Một trong những điều kiện hết sức quan trọng / đem lại hạnh phúc lâu dài cho đời sống hôn nhân và gia đình / đó là cần tìm hiểu kỹ lưỡng và chuẩn bị chu đáo trước khi kết hôn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho giới trẻ của giáo xứ chúng ta / biết tích cực tham gia các khóa dự bị hôn nhân / trước khi cử hành bí tích Hôn phối.
Chủ tế: Lạy Chúa, nếu không có Chúa ban ơn giúp sức, chúng con không thể làm được việc gì thành công. Vậy xin thương ban ơn trợ giúp để mọi việc làm của chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Chúng con cầu xin.
- Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hóa thành rượu, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria. Giờ đây, chúng ta cũng hãy nhờ Đức Mẹ chuyển cầu và kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, dâng lên Chúa Cha những lời nguyện chân thành của chúng ta.
– Trước kinh Đây Chiên Thiên Chúa: Rượu ở tiệc cưới Cana là hình bóng của Bàn Tiệc Thánh mà chúng ta sắp được tham dự. Chúng ta hãy cảm tạ lòng nhân lành Chúa vì hồng ân này.
VII. Giải tán
Chúng ta đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa qua Thánh lễ vừa tham dự. Giờ đây tuy Thánh lễ sắp kết thúc nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống trong tình yêu của Ngài, nhất là hãy trở thành dấu chỉ tình yêu ấy trước mặt mọi người.
17. Hãy mời Chúa vào nhà
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Ga 2: 1-11 Qua việc tỏ vinh quang trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ đầu tiên, và một cách tiệm tiến, Ngài đi từ tiệc cưới tự nhiên, tức là tiệc cưới Cana để dẫn con người đến tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Cách đây ít lâu, có một bài báo thú vị của một phụ nữ kể lại việc trang hoàng nhà cửa của gia đình bà. Mọi công việc trang trí đều được vợ chồng tâm đồng ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người trang trí nội thất treo bức hình Chúa Giêsu kích thước khoảng: 40 x 50cm vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang lúc tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe theo ý kiến của chồng.
Giờ đây bà nói rằng bà rất vui vì đã nghe theo ý chồng, vì bà nghĩ rằng bức hình Chúa Giêsu đã gây được ảnh hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa nữa. Chẳng hạn ngày nọ có người khách lạ sau khi chăm chú nhìn vào bức hình liền nói với bà: “Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức hình đó không nhìn vào bà đâu, Ngài nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!” Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức hình cũng thốt lên: “Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình an”. Tuy nhiên, – người phụ nữ nói thêm – ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên các bạn bè khách khứa của tôi là mỗi khi nhìn tấm hình Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn được nâng lên cao.
Cuối cùng, người phụ nữ nói rằng, có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà tâm sự: “Theo thiển ý của tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước nữa”.
Thưa anh chị em,
Đôi tân hôn trẻ trong Tin Mừng hôm nay hẳn đồng ý với người phụ nữ trên. Họ đã mời Chúa Giêsu vào nhà họ và Ngài đã làm phép lạ đầu tiên ở đó khi họ thiếu rượu. Nhờ phép lạ nước lã hóa thành rượu ngon, Chúa Giêsu đã cứu vãn tình thế lúng túng của nhà đám và đem lại niềm vui tràn đầy cho mọi người.
Thực tế mà nói, mỗi cặp vợ chồng thường thiếu một cái gì đó vào một lúc nào đó trong đời sống hôn nhân gia đình: thiếu kiên nhẫn, thiếu hiểu nhau, thiếu thông cảm… và đôi khi thiếu ngay cả tình yêu, như giữa bữa tiệc thiếu rượu vậy. Bạn hết tiền, bạn không có việc làm, bạn thiếu sức khỏe… bạn hãy mời Chúa Giêsu đến, như đôi tân hôn ở Cana, bạn sẽ được giúp đỡ những gì bạn cần để hôn nhân bạn hạnh phúc hơn. Bạn phải làm phần của bạn: bạn phải làm việc nhiều hơn, hy sinh nhiều hơn, suy tính nhiều hơn. Giả sử hôn nhân của bạn điêu đứng vì thiếu kiên nhẫn, bạn hãy bàn hỏi, lập kế hoạch để bạn có thể kiên nhẫn làm sao và khi nào? Rồi – đây là điều quan trọng – bạn hãy xin Chúa Giêsu giúp bạn kiên nhẫn. Bạn thiếu hụt tài chánh ư? Bạn lập kế hoạch làm sổ chi tiêu. Rồi – đây là điều quan trọng nhất – bạn xin Chúa Giêsu giúp bạn đủ chi tiêu.
Sự sai lầm của các cặp vợ chồng là đã không xin Chúa giúp giải quyết vần đề. Đức Cha Tihamer Toth đã hỏi các bạn trẻ: “Các bạn có biết cái tội đầu tiên mà đôi bạn Công giáo đã phạm không? Và Ngài đã trả lời: Đó là khi làm đám cưới, các bạn đã mời tất cả, nào là bà con, bạn hữu, phụ dâu, phụ rễ, cả thợ trang điểm, thợ may, mời luôn dàn nhạc, mời hết chỉ trừ Chúa Giêsu là không có trong danh sách được mời. Đó là cái tội đầu tiên của đôi tân hôn. Và cái tội đầu tiên nầy là khởi điểm của một cuộc phiêu lưu dẫn đôi bạn trẻ vào một con đường vô định, một con đường đầy bóng tối…”
Một em bé gái mới lên năm, vừa cùng mẹ đọc kinh trước khi ăn cơm. Mẹ em thường ứng khẩu những lời cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, xin hãy nên vị khách quý của bữa cơm hôm nay”. Bà cầu nguyện chưa xong, thì bỗng em bé nhìn mẹ và nói: “Nhưng thưa mẹ, con không muốn Chúa Giêsu làm người khách của chúng ta”. Bà mẹ hoảng hốt hỏi lại: “Tại sao lại thế?” Em bé trả lời: “Vâng, thưa mẹ, là người khách, Chúa chỉ đến một vài lần thôi. Con muốn Chúa Giêsu đến đây và ở lại luôn mãi với chúng ta” (Knight).
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu phải có mặt trong đám cưới của anh chị em. Chúa Giêsu phải là một phần tử của gia đình anh chị em. Ngài sẵn sàng giúp đỡ. Ngài đang chờ anh chị em xin Ngài, như Đức Maria đã làm tại Cana. Tốt nhất anh chị em hãy cầu xin qua Đức Maria những gì anh chị em cần trong đời sống hôn nhân, gia đình của anh chị em. Như vậy sẽ không có gì thiếu nữa.
Giáo dân Châu Âu xưa kia có một câu tục ngữ như thế nầy: “Nếu bạn đi du lịch bằng đường bộ, bạn hãy đọc một kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi du lịch bằng đường biển, bạn hãy đọc hai kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi cưới vợ, lấy chồng, bạn hãy đọc một trăm kinh Kính Mừng”. Phải, đời sống hôn nhân gia đình đâu phải chỉ là một chuyến du lịch mà là cả một cuộc hành trình đến mãn đời. Không có sự hiện diện của Chúa, không có Đức Mẹ, vợ chồng khó lòng trung thành với nhau trọn tình vẹn nghĩa thủy chung được, nhất là những khi thiếu rượu nồng của tình yêu.
Thiên Chúa nhập thể đã làm đám cưới với nhân loại, vì yêu thương nhân loại, để nhân loại bắt tay nhau. Động cơ của hợp nhất, đầu mối của hạnh phúc lứa đôi là tình thương yêu. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù, chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Đã là bất bình thường thì mọi người phải tìm cách giàn xếp để cùng nhau trở lại tình trạng bình thường là yêu thương nhau, hiệp nhất với nhau. Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong đời sống hôn nhân và gia đình, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của tình yêu. Chúa Giêsu phải luôn có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách, thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến thăm và chúc phúc cho gia đình chúng con. Xin chúc lành cho cánh cửa nhà chúng con. Ước chi những cánh cửa nầy luôn biết mở ra cho kẻ tha phương và người hiu quạnh. Xin chúc lành cho phòng ốc gia đình chúng con, để chúng tràn đầy sự hiện diện của Chúa. Và trên hết, xin Chúa hãy chúc lành cho mỗi người trong gia đình chúng con, để tâm trí chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, đôi tay luôn biết rộng mở cho những kẻ nghèo khó, và trái tim luôn luôn biết hướng về Chúa. Amen.
18. Niềm vui trong thời Đấng Thiên Sai
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Minh Chánh)
1/ Con người sống trên trần gian ngoài cơm áo gạo tiền, danh vọng địa vị, vậy còn có điều gì làm thoả mãn cho cuộc sống nữa hay không? Chắc chắn là có. Bởi những cái mau qua của trần thế không bao giờ đem đến hạnh phúc thật cho con người. Điều mang đến hạnh phúc đích thực cho con người là chính Chúa. Vì thế Chúa chính là nguồn vui của con người, như lời Thánh Vịnh đã nói: “Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con.” (Tv 43.4) Vì Chúa là sự hoan lạc, cho nên nơi đâu có sự hiện diện của Chúa, thì nơi đó niềm vui cùng với hạnh phúc sẽ dâng trào.
2/ Trang Tin mừng trong thánh lễ hôm nay sẽ là bằng chứng nói lên niềm vui bắt nguồn từ Thiên Chúa:
Trong khung cảnh tiệc cưới tại Cana, ta thấy Chúa Giêsu đã đem niềm vui đến cho gia đình chủ hôn và những người dự tiệc rất nhiều: Trước hết bằng sự hiện diện trong tiệc cưới để chia vui với gia đình chủ hôn, thì Chúa Giêsu đã làm tăng thêm niềm vui cho gia đình này. Thứ đến, niềm vui ấy còn được nhân rộng hơn, không những cho gia đình chủ hôn, mà còn cho Mẹ Maria, các Tông đồ và những thực khách dự tiệc, khi Chúa đã làm dấu lạ hoá nước thành rượi ngon, để nối dài niềm vui cho hết mọi thành phần đang tham dự bữa tiệc hôm nay. Chắc chắn những ai tham dự bữa tiệc có một không hai này, họ rất cảm phục và vui sướng trước việc tốt lành mà Thiên Chúa đã thực hiên cho họ.
3/ Việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu đó là biển hiện thời của Đấng Thiên Sai:
Trong thời hạnh phúc ấy: nước mắt sẽ thay cho tiếng cười, tang chế đau khổ sẽ biến thành niềm vui, mọi người sẽ được Thiên Chúa tiếp đãi bữa tiệc trong Vương quốc của Ngài. Vì thế thật ý nghĩa khi Tiên tri Isaia đã báo trước thời của Đấng Thiên Sai như sau:” Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon….. trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân,và tấm màn trùm lên muôn nước.”(Is 25.6)
4/ Hình ảnh muôn dân được Thiên Chúa quy tụ trên Núi thánh để tiếp đãi bữa tiệc, hay là hình ảnh tiệc cưới tại Cana sau khi Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon, đó là dấu chỉ báo trước”Giờ” Đức Giêsu sẽ đến sau này. “Giờ” Đức Giêsu đến là “Giờ” gì? Đó không phải là giờ Chúa tiếp tục đãi dân chúng bữa tiệc với thịt béo và rược ngon. Và đó cũng không phải là lúc Chúa Giêsu lại làm dấu lạ hoá nước thành rượu ngon nữa. Nhưng “Giờ’ Chúa Giêsu đến đó là thời gian để Chúa quyết định hoàn tất chương trình cứu độ Chúa Cha đã trao phó. “Giờ” đó chính là lúc Chúa phải đổ máu để rửa sạch tội lỗi con người. “Giờ” đó chính là lúc Chúa phải hy sinh để cứu sống con người.
Nếu như trong nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, máu các con dê, bò được rẩy lên mình những người nhiễm uế để họ được thanh tẩy, thì trong giờ hy sinh của Đức Giêsu, Máu Chúa được đổ ra sẽ mạng lại hiệu lực cho muôn người rất nhiều. Vì nhờ Máu hy sinh của Chúa, nhiều người sẽ được thanh tẩy lương tâm đen tối, nhờ đó “nhiều người được tha tội”.
Nếu như dấu lạ hoá nước thành rượu Chúa đã làm tại tiệc cưới Cana đem lại rất nhiều niềm vui cho nhiều người, thì trong “Giờ” hy sinh của Đức Giêsu, Máu Chúa được đổ ra đem lại niềm vui trọn vẹn đích thực cho hết mọi người. Niềm vui trọn vẹn đích thực đó là niềm vui vì được Chúa Cứu Độ, được ơn Cứu Độ. Vì thế, chén rượu mà Đức Giêsu cầm trên tay để chúc tụng Thiên Chúa trong bữa tiệc Vượt Qua trước lúc Chúa chịu chết, đó chình là chén Máu Chúa đổ ra để cứu độ con người. Chén Máu đó là chén Máu của niềm vui, chén Máu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
5/ Ngày hôm nay khi mỗi lần chúng ta đến dâng thánh lễ, đó cũng là thơì gian chúng ta đang chứng kiến “Giờ” hy sinh của Đức Giêsu. Giờ hy sinh của Chúa trong thánh lễ không phải là thời gian của quá khứ, nhưng là “Giờ” hiện tại; “Giờ” thánh hoá chúng ta; “Giờ’ đem đến hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta.
Vậy khi đang sống trong môi trường quá ồn ào, bởi vì người ta đang chạy đua với nhau để tìm kiếm:ảnh hưởng, tiền bạc, lợi nhuận, danh vọng, địa vị, thú vui…… Sống trong môi trường như thế, là người Công giáo chúng ta còn cảm thấy “Giờ” của Chúa còn cần thiết cho cuộc sống nữa hay không? Nếu cảm thấy “Giờ” của Chúa không còn cần thiết, thì đó là sự sai lầm và nguy hiểm nghiêm trọng cho đời sống chúng ta. Chính cái sai lầm và nguy hiểm ấy, nó sẽ lôi kéo chúng ta ra khỏi Bàn tiệc hạnh phúc mai sau trong Vương quốc Thiên Chúa. Còn một khi chúng ta tin rằng “Giờ’của Chúa luôn cần thiết cho cuộc sống, luôn luôn đem lại giá trị cho con người đó là niềm vui hạnh phúc mai sau, thì chúng ta hãy cùng tham dự vào “Giờ” hồng phúc này. Phải gắn liền đời sống với “Giờ” Vượt qua của Chúa hằng ngày trong Thánh lễ, vì “Giờ” Vượt qua của Chúa đó là “Giờ” thánh, “Giờ” biến đổi chúng ta để được nên một vơí Ngài.
Khi ý thức tầm quan trọng “Giờ” cứu độ của Đức Giêsu; mỗi người chúng ta trong cuộc sống hãy “bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa niềm vui của lòng ta”. Đến bàn thờ Thiên Chúa để được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, để “nâng chén mừng ơn cứu độ” mà Chúa ban cho chúng ta. Vì hôm qua, hôm nay và mãi mãi: chỉ có Chúa chính là niềm vui đích thực của đời ta. Amen.
19. Tiệc cưới Cana
(Suy niệm của Lm. Damien, OFM.)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đề cập đến ba vấn đề, và tất cả đều liên hệ đến tình yêu:
– Con Thiên Chúa nhập cuộc
– Trong tình yêu, người thứ ba là thừa?
– Phép lạ tại Cana, vì người nghèo.
Con Thiên Chúa nhập cuộc.
Chúa Giêsu làm người, một con người trọn vẹn và bình thường như bao nhiêu người khác: cũng lao động, cũng lên Giêrusalem dự lễ như mọi người Do thái khác, cũng đi dự đám cưới của bà con hay của xóm giềng. Chúa sống bình thường đến nỗi không ai nhận ra Chúa, cứ tưởng Ngài cũng chỉ là một con người bình thường và tầm thường như bao con người khác ở cái xứ Galilê nghèo khổ ấy. Ngài đã nhập cuộc một cách trọn vẹn, sống hòa đồng với mọi người giữa một xóm nghèo.
Hôm nay Ngài đi dự đám cưới ở Cana, chắc là đám cưới của một người bà con thân thuộc gì đây, vì cả Đức Mẹ và các môn đệ cũng đi dự. Khi một linh mục hay một Giám mục đi dự một đám cưới, chẳng qua là vì tình nghĩa, chứ không phải vì thích ăn uống. Ở đây Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài đến dự đám cưới nầy cũng vì tình nghĩa,vì thương yêu,vì đây có lẽ là một đám cưới nhà nghèo, thiếu rượu nửa chừng! Một đám cưới ở cái xứ Galilê nghèo khổ nầy.
Đọc Phúc Am, thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu được người nầy người nọ mời đi ăn, nhất là Ngài thường hay đồng bàn với người tội lỗi và bọn thu thuế, những con người nghèo về mặt xã hội. Ngài có vẻ thân tình với những lớp người ấy, cho nên người Biệt Phái và Luật sĩ mới chê trách người. Từ đó, chúng ta thấy Ngài cũng có mục đích khi ăn uống ở nhà nầy nhà nọ: “Người bệnh mới cần đến thầy thuốc”; ‘người tội lỗi mới cần cứu vớt’. Hôm nay cũng thế, Ngài đến dự tiệc cưới cũng vì để tỏ tình liên đới với người nghèo.
Trong tình yêu, người thứ ba là thừa?
Trong một vở kịch nói, một thanh niên cùng với một người bạn trai đến chỗ hẹn với cô bồ của mình. Khi người con gái đến, chào hỏi nhau xong, người bạn trai bảo:”Trong tình yêu, người thứ ba là thừa”,nói xong, anh ta bỏ hai người lại, ra đi. Và hai người kia cảm thấy anh nói thế là đúng, nên nhìn nhau mỉm cười, Thầm cám ơn anh bạn tế nhị.
Trong tình yêu nam nữ là thế, nhưng trong hôn nhân công giáo, câu đó có đúng không? Trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, câu đó không luôn luôn đúng, bởi vì trong đám tiệc hôm nay cũng như trong cuộc đời của cặp tân hôn nầy, nếu không có Chúa hiện diện thì không xong rồi: đám cưới gì mà nửa chừng lại hết rượu? Hạnh phúc gia đình gặp xui xẻo ngay từ đầu.
Trong tình yêu gia đình, không chỉ có hai người yêu nhau là có thể tạo hạnh phúc lâu bền cho nhau được. Phải có Chúa hiện diện trong tình yêu ấy. Chuá đã kết hợp họ với nhau để sống hạnh phúc, nhưng hạnh phúc ấy thật mong manh, phải có Chúa giữ gìn, ban ơn và che chở họ. Những người đã lập gia đình lâu năm, trải qua kinh nghiệm những khó khăn của đời sống hôn nhân, đều cảm nghiệm được rằng sự hiện diện của Chúa trong tình yêu, trong đời sống gia đình là rất cần thiết. Những gia đình gặp nhiều khó khăn, những cặp bỏ nhau dễ dàng là vì những gia đình ấy thường thiếu đi sự hiện diên của Chúa trong gia đình họ.
Các môn đệ tin Người.
Bài tin Mừng nầy kết thúc bằng câu: “Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên nầy tại Cana xứ Galilê, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.”Theo Gioan, phép lạ đầu tiên nầy là để tỏ vinh quang Chúa, cũng cố niềm tin cho các môn đệ. Chúa đã tỏ mình ra khi ba vua đến thờ lạy, khi Chúa chịu phép rửa, tầng trời mở ra, có tiếng Chuá Cha phán và có Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Ngài, khi Chúa biến hình trên núi Taborê, nay Chuá lại tỏ mình ra bằng một phép lạ nhãn tiền:biến nước thành rượu. Đó là những sự kiện có tính hiển linh, Chúa tỏ mình ra là Thiên Chúa quyền năng.
Suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay, tôi thấy Chúa rất gần gũi tôi, nhất là những lúc tôi hay gia đình tôi gặp những chuyện không may hay nghèo khổ thiếu thốn -như đám cưới của đôi tân hết rượu nửa chừng- vì Chúa đã nhập cuộc và hiện diện với tôi trong cuộc sống. Hạnh phúc của tôi và của gia đình tôi tùy thuộc vào việc tôi có biết mời Chúa đến sống trong tôi và gia đình tôi hay không. Va khi có Chuá trong cuộc sống, Chuá luôn luôn sẵn sàng tỏ mình ra với tôi, can thiệp đúng lúc bằng cách nầy hay cách khác, biến những thử thách đau khổ thành niềm vui trong đời.
Thiên Chuá không ở xa.
Ngày xưa có những người đi hành hương từ những nơi rất xa xôi, đến Giêrusalem, đi hết tháng nầy qua tháng khác vừa đi vừa hành khất kiếm ăn dọc đường. Có một người hành hương nọ lên đường, lương thực đem đi đã hết từ lâu rồi, áo quần lem luốc. Ông ta phải đi qua một trường học, nhằm lúc học sinh tan trường. Thấy ông ăn mặc thô hèn,đám học sinh hú nhau: Ê, có một thằng điên anh em ơi! Chúng đuổi theo đằng sau và lấy đất liêng ông.
Ông nhủ thầm: lạy Chúa, con đói gần chết, đã không thương thì chớ, chúng còn chọc ghẹo con, bảo con là điên khùng. Chuá ở đâu, sao cứ làm thinh hoài vậy! Ông đi một quảng nữa gặp một cánh rừng, bụng đói cồn cào, bước đi hết nổi, ông bèn ngồi dưới một gốc cây và thầm thưa với Chúa: Chắc con chết mất Chúa ơi! Sao Chúa không sai một người nào đến cứu con với. Vừa nói xong thì nghe một tiếng đệt, ông quay lại thấy một trái xoài rụng, ông lượm và nhai ngấu nghiến. Mấy con quạ trên cây lại làm rụng hai trái nữa. Ăn hết ba trái xoài và uống một ngụm nước suối, thấy khỏe hẳn lên, ông lại lên đường. Đi hết cánh rừng, ông gặp một con chó. Con chó nhìn ông một lúc rồi vẩy đuôi cúi đầu đi về phía ông. Ông làm quen, xoa đầu nó và biết có chó tức là có nhà gần đâu đây.
Ông theo con chó và đến một căn nhà, gặp một người đàn ông. Sau vài câu chào hỏi, biết ông là khách hành hương, chủ nhà mời ông vào, vì gia đình nầy là người công giáo. Sau bữa cơm chiều, chủ nhà gọi đứa con út là bé Tom đặt ngồi trên bắp vế ông và nói chuyện với khách. Vừa nói chuyện vừa thọc léc và nhéo tai bé Tom, bé Tom vừa cười vừa la lên chí chóe. Chủ nhà nhìn khách cười và nói: “Khi người ta thương nhau thì người ta tự do muốn cư xử với nhau sao cũng được. Và thường thương ai, người ta lại thích làm khổ người mình yêu thương. Nói xong ông lại thọc léc thằng bé làm nó dẫy dụa và la lên. Va khi nghe người khách kể những gì ông gặp trên đường và nỗi thất vọng của ông ta, chủ nhà bảo: “Anh đừng buồn khi người ta cho anh là khùng là điên. Anh đi tìm Chúa tức là anh yêu Chúa. Vì thế Người được tự do gọi anh là khùng là điên: thằng điên của Ta. Đó là cách Chuá tỏ tình với anh đó, ông bạn ạ.
Chúa cũng đã từng tỏ tình với tôi như vậy đó. Anh bảo Chuá bỏ rơi anh ư? Không đâu, Chúa cho các thiên thần đến cứu giúp anh mà anh không biết đó thôi: các chú quạ, chú chó nhà tôi là những thiên thần đã giúp anh đó. Con Thiên Chuá đã mặc lấy xác phàm thì tại sao thiên thần lại không đội lốt con quạ, con chó hay trái cây được, phải không anh?”-Người khách chong tai nghe và trố mắt nhìn chủ nhà, rồi nói: “Cám ơn anh thật nhiều! Anh đã mở mắt cho tôi thấy sự hiện diện của Chuá trong đời.”-Chính Chuá là Đấng chúng ta phải cám ơn. Tôi chỉ là một nông dân thất học mà thôi.-Sau một đêm ngủ ngon, người bộ hành lại lên đường. Chú chó vẩy cái đuôi như chào ông, ông chào lại: “Xin cám ơn chú cẩu thiên thần của tôi”!
20. Tiệc cưới Cana
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 2: 1-11 Thánh sử Gioan thuật lại cách thức Chúa Giêsu Kitô, ngay từ khi khởi đầu sứ vụ của mình, Ngài đã thực hiện phép lạ đầu tiên theo yêu cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Ngài, tại một tiệc cưới ở ngôi làng Cana nhỏ bé miền Galilêa.
- Tìm Hiểu Lời Chúa: Ga: 1-12
Thánh sử Gioan thuật lại cách thức Chúa Giêsu Kitô, ngay từ khi khởi đầu sứ vụ của mình, Ngài đã thực hiện phép lạ đầu tiên theo yêu cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Ngài, tại một tiệc cưới ở ngôi làng Cana nhỏ bé miền Galilêa
Cana thuộc Galilêa, trên con đường tới Nagiarét gần hồ Tibêria. Người ta tổ chức ở đây một tiệc cưới. Đức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ đầu tiên được mời tham dự.
Chính Đức Maria nhận ra trong bữa ăn đã thiếu rượu. Ước muốn tránh cho đôi vợ chồng khỏi ngượng ngùng, Mẹ đã can thiệp với Đức Giêsu, và Đức Giêsu đã hóa nước thành rượu ngon.
Sự tinh tế nhậy bén của Đức Maria, hiệu quả sự can thiệp của Mẹ, sự quan phòng ân cần của Thiên Chúa đến từng chi tiếp trong cuộc sống chúng ta, phẩm gía của hôn nhân, việc làm nổi bật những niềm vui nho nhỏ trong cuộc đời, tất cả đều là những bài học gợi lên từ câu chuyện tiệc cưới Cana thú vị này.
Gợi Ý Suy Niệm
- Tiệc cưới Cana bài học về sự cao cả của hôn nhân: Thể chế hôn nhân trong xã hội ngày nay đang phải trải qua một cuộc khủng hoảng trần trọng bởi sự ly dị ngày càng gia tăng và bởi sự tự do luyến ái chung sống khkông cần hôn nhân. Với bối cảnh đó, Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tái khám phá giá trị, ý nghĩa thiêng liêng cao quí của đời sống hôn nhân qua việc Đức Giêsu là phép lạ tại tiệc cưới Cana. Việc tham dự tiệc cưới và làm phép lạ tại đó cho thấy Đức Giêsu đã muốn làm nổi bật giá trị thiêng liêng cao quí của đời sống hôn nhân. Thánh Phaolô giải thích giá trị hôn nhân nảy sinh từ việc hôn nhân là hình ảnh diễn tả rõ ràng sự kết hiệp nhiệm màu giữa Đức Giêsu và Giáo Hội của Người. Hôn nhân đã được Đức Giêsu nâng lên thành bí tích nên đã trở nên phương thế hữu hiệu, phổ quát để mọi người nên thánh. Việc Người tham dự tiệc cưới cho thấy Ngừơi đã muốn chúc lành cho đời sống hôn nhân và không coi thường hay hạ giá trị của đời sống này so với các đời sống tu trì hay tận hiến. Ngày nay, các gia đình công giáo cũng đã và đang đướng trước nguy cơ của cuộc kkhủng hoảng, mỗi gia đình, mỗi thành viên trong gia đình và cả những bạn sắp bước vào đời sống gia đình cần phải dựa vào Tin mừng, vào giáo huấn của Giáo Hội để khám phá những giá trị thiêng liêng cao quí của đời sống hôn nhân và bí tích này.
- Tiệc cưới Cana bài học về tình yêu của Đức Kitô dành cho Giáo Hội: Bài đọc I Isaia an ủi dân chúng hãy vui lên vì Thiên Chúa yêu thương họ như người chồng yêu thương vợ mình. Như người chồng mừng vui vì vợ, Thiên Chúa cũng vui mừng vì dân chúa. Trong Kinh Thánh hình ảnh tân lang, tân mương, tình yêu vợ chồng thường được sử dụng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người; tình yêu của Đức Kitô dành cho Giáo Hội. Với tiệc cưới Cana cũng cho thấy điều đó, Đức Giêsu hiện diện để yêu thương, để chúc phúc cho gia chủ thế nào thì Người cũng yêu thương và lo lắng quan tâm cho Giáo Hội của Người như vậy. Giáo Hội chính là hiền thê của Đức Giêsu Kitô. Người đã hiến mình vì người mình yêu trên đồi Canvê và ngày nay trên khắp các bàn thờ của Giáo Hội Người lại tiếp tục sự dâng hiến tình yêu này để trang trải tình mình đến với mọi người qua mọi thời. Sống trong Giáo Hội, thao thức cùng Giáo Hội, đồng hành cùng Giáo Hội chính là đón nhận được tình yêu của Đức Kitô. Không ai có thể tách rời khỏi Giáo Hội mà tìm kiếm được tình yêu của Đức Kitô.
- Tiệc cưới Cana bài học về trách nhiệm cá nhân của mỗi người đối với anh em chung quanh: Đức Maria đã tinh tế nhận ra sự thiếu rượu trong tiệc cứơi và đã can thiệp hiệu quả. Theo lẽ thường tình chẳng ai trách cứ được Đức Mẹ hay Đức Giêsu nếu các Ngài không can thiệp vào việc này. Thế nhưng, với tình yêu thì chắc hẳn không bao giờ các Ngài lại khoanh tay ngồi yên cả, phải đứng lên can thiệp. Mỗi người Kitô hữu cũng thế, lưu chuyển trong mình dòng máu yêu thương của Đức Giêsu thì phải có sự tinh tế, nhanh nhạy trong việc quan tâm đến người. Đó không chỉ là một đức tính mà còn là một trách nhiệm. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô nói về các đặc sủng mà mỗi người được nhận lãnh. Các đặc sủng này chính là để mỗi nguời biết quan tâm chăm sóc cho nhau và cùng nhau xây dựng cộng đoàn, nhờ đó, mà mang lại tình yêu, hạnh phúc và niềm vui cho nhau. Ngày hôm nay, mỗi Kitô hữu đã làm gì, đã sống như thế nào trong mối tương quan với người khác? Sống để đón nhận và đòi hỏi người khác hay sống quảng đại, sống vì người khác; cho đi hay là nhận lãnh?
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, qua tiệc cưới Cana cho thấy ct luôn yêu thương và chăm sóc mọi người trong mọi biến cố. Tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
- Giáo Hội được Đức Giêsu yêu thương và chăm sóc như người chồng hết lòng yêu thương vợ mình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các phẩn trật trong Giáo Hội là những vị đại diện của Đức Kitô luôn sống và thực thi trách nhiệm của mình trong tinh thần đức ái mục tử.
- Ngày nay biết bao gia đình đang lâm vào cảnh đổ vỡ bất hòa giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các gia đình luôn được Chúa yêu thương thánh hóa để mọi người trong gia đình nhất là con cái và trẻ em được hưởng một đời sống an vui hạnh phúc, một nền giáo dục tốt đẹp và một tương lai bảo đảm.
- Đức Maria đã tinh tế, nhậy bén trong việc quan tâm phục vụ nguời khác. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn được Chúa ban ơn hướng dẫn để biết noi gương Đức Maria mà yêu thương quan tâm, chăm lo cho nhau.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu Kitô, theo lời yêu cầu của Đức Maria, Chúa đã hóa nước thành rượu để xua đi nỗi buồn, mang lại niềm vui cho đôi tân hôn. Xin đổ xuống trên những anh chị em sầu khổ rượu của lòng thương sót Chúa. Xin biến đổi tâm hồn chai cứng của chúng con thành con tim biết yêu thương trước những đau khổ, nghèo đói, bất hạnh của anh chị em chung quanh. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
21. Ân sủng
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Tất cả là hồng ân. Hồng ân, ân sủng, đặc ân, đặc sủng, quà tặng, tài năng, ân lộc, ân phúc, phúc lộc, thiên tài, an lạc và hạnh phúc đều là những món qùa được trao ban. Người ta thường nói “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Trải qua bao đời, cha ông của chúng ta đã nghiệm ra rằng con người không thể làm chủ toàn diện đời mình. Trước hết, mỗi người đón nhận hồng ân sự sống để được hiện hữu. Mỗi thụ tạo lãnh nhận một kho tàng mầu nhiệm một cách nhưng không. Người hữu thần tin tưởng vào Thượng Đế, Đấng đã tạo dựng và quan phòng vạn vật muôn loài trong trật tự. Người vô thần cắt đứt nguồn gốc sáng tạo và chỉ chú tâm vào nỗ lực của con người hiện tại. Có người nghĩ rằng với khả năng và nỗ lực tu tâm và tu thân, con người có thể quyết định hoàn toàn số mệnh của mình. Là người trí tuệ, chúng ta nên mở rộng tâm trí để học hỏi và trau dồi kiến thức thêm. Quan sát sự sống muôn loài và vũ trụ vạn vật bao la, điều quan trọng là chúng ta hãy khiêm tốn chấp nhận thân phận yếu đuối, mỏng giòn và rất giới hạn của mình.
Phần Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật 2 Thường Niên giúp chúng ta có một xác tín về ân sủng thiêng liêng. Thiên Chúa sáng tạo, dẫn dắt điều khiển sự vận hành của vũ trụ và sự sống của muôn loài. Con người là tạo vật cao quý mà Thiên Chúa đã tác tạo. Mỗi một con người được tựu thai là một tạo vật hoàn toàn mới và duy nhất. Mọi khả năng tiềm tàng về di truyền đã được in ghi trong từng tế bào của mỗi sự sống. Thượng Đế cho con người có ý chí, lý trí, ước muốn, tự do và khả năng để phát triển tới đỉnh cao. Con người có thể dùng khả năng và nỗ lực quyết tâm tu tâm và tu thân để trở nên con người hữu dụng và trọn hảo. Tiên tri Isaia đã diễn tả: “Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Thiên Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.” (Is 62,3) Đấng Tạo Hoá trao ban cho mỗi loài có khả năng truyền sinh giống nòi theo cách thế riêng biệt. Sự sinh sôi nảy nở và tăng triển thêm nhiều sẽ làm tăng vẻ huy hoàng của vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa đã chúc phúc cho mọi loài được tốt đẹp.
Chúng ta thử suy về nguồn sự sống trong con người cụ thể. Trước khi được hiện hữu, chúng ta chỉ là không. Đã có một khoảnh khắc mỗi người được bắt đầu hiện hữu. Mầu nhiệm sự sống khởi đầu từ sự kết hợp giữa mầm sống từ cha và mẹ. Ôi thật bé nhỏ và nhiệm mầu! Chỉ trong tế bào tí ti đó đã ẩn tàng mọi sự. Sự sống đó không chỉ bắt đầu từ cha và mẹ nhưng nó được nối dài từ thuở tạo dựng. Mầm sống đó được truyền sinh qua vô lượng kiếp. Sự sống phát sinh ra sự sống. Vậy sự sống trong chúng ta đã được truyền sinh qua sự sống của muôn thế hệ cha ông. Cha mẹ cộng tác với Tạo Hoá sáng tạo sự sống nơi mỗi con người một cách đặc thù và riêng biệt. Mỗi cá nhân đều có Deoxyribonucleic acid (DNA) khác nhau và dấu chỉ tay cũng khác biệt. Thật lạ lùng!
Người khôn ngoan và trí tuệ là đừng từ chối điều gì mà mình chưa được học hiểu. Vì càng tìm hiểu và học hỏi, chúng ta càng hiện hữu thêm. Chúng ta biết rằng cả kho tàng kiến thức của loài người góp lại cũng chẳng thấm vào đâu so với sự diễn tiến, hiện hữu và sinh tồn của vũ trụ. Nhiều người có trí khôn hiểu biết còn nông cạn, chưa thấu hiểu được lòng người và cũng chẳng thông suốt thế thái nhân tình, nhưng lại phán quyết nhiều điều vô căn cớ. Có người lại mạnh miệng lên tiếng phủ nhận sự hiện hữu của Đấng tác thành mọi sự. Khi không muốn qui phục, người ta chỉ việc đơn giản chối bỏ uy quyền của Thượng Đế và nói rằng mọi sự hiện hữu là tự nhiên mà có. Họ nghĩ rằng những người hữu thần tin vào thượng đế là thiếu trí tuệ và chưa giác ngộ. Đối với họ, thần thánh chỉ như là bánh vẽ hù doạ những người sơ khai và âu trĩ. Có lẽ chính họ còn đang ngồi trong bóng tối của vô minh.
Qua Kinh Thánh mạc khải và quan sát ngắm nhìn sự vạn vần trong vũ trụ, con người nhận ra nguyên nhân cội rễ của muôn loài. Đó chính là nguyên lý nhân quả. Trông quả thì biết cây. Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế. Người đã dùng mọi hình thức cụ thể để tỏ bày sự quan tâm chăm sóc, khế ước yêu thương ràng buộc và sự trung tín trong giao ước. Là Kitô hữu, chúng ta tin và tôn thờ một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương. Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh đôi trai tài gái sắc để diễn tả tình yêu sống động của Đấng Tác Tạo: “Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.” (Is 62,5)
Thánh Phaolô phân tích một cách khá rõ ràng về những đặc sủng mà mỗi người được lãnh nhận: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.” (1 Cr 12,4) Quan sát cuộc sống trong bất cứ một nhóm người, một hội, môt tổ chức hay một sinh hoạt chung nào cũng đều có con người có khả năng khác nhau. Mỗi người đều nhận lãnh khả năng để sinh lợi. Thần khí ban cho mỗi người một cách: Người nói tiên tri, kẻ giảng dạy, người được ơn chữa bệnh, kẻ làm phép lạ và người được ơn nói nhiều thứ tiếng… Như trong dụ ngôn về nén bạc, mỗi người đều nhận số vốn khác nhau: Có kẻ nhận 5 nén bạc, người 2 nén và người 1 nén tuỳ theo khả năng. Khả năng, thời gian và tài lực là nguồn vốn của mỗi cá nhân. Điều quan trọng là mỗi người biết dùng tài năng ân sủng của mình để sinh hoa kết trái. Khả năng như hạt giống được trao, chúng ta phải biết gieo vãi, vun trồng và chăm sóc thì khả năng mới phát triển.
Mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư nhưng không thể tách rời. Sống là sống chung, sống cùng và sống với người khác, sự liên đới hỗ tương giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” (1 Cr 12,7) Không ai nhận ân sủng cho riêng mình nhưng đều vì ích lợi chung. Cuộc sống rất đa dạng. Lịch sử loài người phát triển từng bước liên tục và nối dài. Tất cả thành quả của chất xám tri thức đã đặt nền tảng phát minh trong mọi thời. Nhờ trí khôn, con người đã tìm ra được một số những nguyên nhân ẩn tàng trong thiên nhiên. Mỗi sự phát minh mới đều đặt nền tảng trên các định luật đã có trước. Sứ mệnh của con người là phục vụ lẫn nhau trong khả năng của mình. Con người có muôn trùng khả năng chuyên môn và công việc khác nhau để phục vụ công ích. Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng tin vào một Thiên Chúa: “Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.” (1 Cr 12,5)
Chúa Giêsu đầy quyền năng trong ý tưởng, lời nói và việc làm. Chúa đã hiện hữu từ đời đời có uy quyền sáng tạo và biến đổi cả tinh thần lẫn vật chất. Tại tiệc cưới Cana, qua lời khẩn nài của Mẹ Maria, Chúa Giêsu là làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu. Thánh Gioan đã viết: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana, miền Galilê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.” (Ga 2,11) Với sự cộng tác của con người, Chúa đã tỏ quyền năng và vinh quang của Ngài. Ngài không khoe khoang hô lớn nhưng chỉ hành động âm thầm qua những việc rất bình thường của gia nhân: Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng (Ga 2,7). Chỉ có các gia nhân biết sự việc đã xảy ra cũng giống như các mục đồng nhận diện ra Chúa nơi máng cỏ Belem.
Chúng ta hãy đến cùng Đức Maria, Mẹ là Đấng cầu bầu có thần thế trước tôn nhan Thiên Chúa. Mẹ sẽ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nghe lời của Thân Mẫu Chúa nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2,5). Lạy Chúa, Chúa đã biến nước thành rượu ngon, xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con nên khí cụ bình an của Chúa.
22. Hôn nhân không có hôn thú
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Ðức Giêsu và các bạn hữu của Người đi tham dự một “Ðám cưới nhà quê” ở Cana. Người ta ăn uống vui chơi suốt cả tuần lễ. Mọi người trong xóm đều có mặt. Và qua bài tường trình của Tin Mừng, người ta cũng biết được là khách khứa đã uống khá nhiều rượu! Vì đây là dịp tốt hiếm hoi của một thôn xóm nghèo nàn hẻo lánh: Hai người bạn trẻ nam-nữ đã quyết định thành lập gia đình riêng, đã muốn cùng nhau tự định đoạt lấy cuộc sống của mình, và một cách công khai trước sự chứng giám của mọi người, nhất là với sự chúc lành của Thiên Chúa. Vì thế cần phải ăn mừng, cần phải ca hát nhảy múa!
Nhưng tình hình ngày nay trên khắp thế giới nói chung và tại Âu Châu, nơi chúng ta đang ở, nói riêng như thế nào?
Lễ Cưới theo truyền thống như từ trước tới nay, đã từ từ trở thành một biến cố “hiếm hoi”. Nhiều thanh niên thiếu nữ ngày nay không muốn chấp nhận đời sống hôn nhân truyền thống bình thường, nghĩa là một đời sống vợ chồng có cưới hỏi đạo-đời đàng hoàng. Họ cho một cuộc sống vợ chồng như thế là “đeo gông vào cổ”, là mất hết tự do cá nhân và ngăn cản sự phát triển bản thân. Trái lại họ chủ trương hai người nam nữ khi yêu nhau, thì sống chung với nhau, chứ không cần cưới hỏi, không cần hôn thú. Ít nhất là phải “thử” trước xem có hợp nhau không đã! Những lý do chính họ đưa ra là:
Người thì bảo: Cưới hỏi để làm gì? Sự quan hệ sống chung của chúng tôi là chuyện hoàn toàn riêng tư của hai chúng tôi, đâu cần chi phải cưới hỏi đạo-đời làm gì! Nếu người ta suy nghĩ một chút, người ta sẽ thấy ngay là ngày nay tất cả mọi lãnh vực trong cuộc sống của chúng ta đều đã được qui định và trở nên khó khăn rắc rối như thế nào, thì người ta sẽ thông cảm được một thái độ như thế. Ít là ở đây, trong lãnh vực hoàn toàn có tính cách riêng tư này, chúng tôi không muốn những người ngoại cuộc “xía vô”.
Tuy nhiên, ở đây người ta cũng phải hỏi ngược lại: Phải chăng phía sau một thái độ như thế lại không ẩn chứa một chủ nghĩa cá nhân quá khích hay sao? Bởi vì, chúng ta không sống lẻ loi trên một hoang đảo như nhân vật tiểu thuyết Robinson, hay trên một hoang đảo chỉ có hai người, nhưng chúng ta sống giữa một chuỗi của các tương quan đa phức: Gia đình, anh em họ hàng, bà con láng giềng, bạn hữu, đồng nghiệp, v.v… Cuộc sống chúng ta nhất thiết phải cần đến những quan hệ đó! Vâng, tình yêu là một điều hoàn toàn riêng tư cá nhân, nhưng chỉ tạm thời! Nếu một khi có điều gì đó không may xảy ra, thì bấy giờ người ta lại phải chạy đến nhờ cậy sự can thiệp và giúp đỡ của những kẻ khác, sự can thiệp và giúp đỡ của xã hội, của chính xã hội mà trước đó đã không được vị nể.
Ðàng khác, những sự kiện vui mừng và quan trọng trong cuộc sống như lễ cưới, ngày khởi đầu cuộc sống chung gia đình giữa hai người nam nữ, người ta cần phải ăn mừng và công khai hóa trước sự chứng giám của xã hội chứ! Thế nhưng có những đôi nam nữ đến tuổi cập kê đã lẳng lặng, đã “không trống không kèn” bỏ nhà cha mẹ cuốn gói đến ở chung với nhau. Nếu người ta đã có đủ lý do để cùng với bạn bè và người thân quen ăn mừng ngày đậu bằng lái xe hay đậu tú tài, ngày sinh nhật thứ mười tám hay ngày thi đậu tốt nghiệp, v.v…thì tại sao người ta lại không muốn cùng với gia đình, bạn bè và mọi người thân quen ăn mừng một biến cố, một gian đoạn vô cùng quan trọng trong cuộc sống, như ngày khởi đầu con đường đời chung giữa hai người nam nữ: Ngày cưới?
Còn những người khác lại nói: Tại sao lại cưới hỏi? Chẳng ích lợi gì! Bởi vì luật pháp ràng buộc trong hôn nhân chỉ là lý do cho người ta ỷ lại hay là phương tiện cho người ta dễ dàng lợi dụng để sống dửng dưng và coi thường nhau. Còn những ai sống chung với nhau mà không cưới hỏi thì luôn luôn phải lo lắng quan tâm đến nhau – vì biết quan hệ của họ không có ràng buộc -, chứ không thể có thái độ hửng hờ hay lạnh nhạt với nhau được. Cả hai phải luôn săn đón và chiều chuộng nhau, phải luôn cố gắng sống sao để có thể lôi cuốn và giữ được nhau. Như thế, sự quan hệ giữa hai người luôn sống động!
Chắc chắn rằng trong quan niệm trên cũng có những nhận xét rất thực tế và đúng đắn. Chúng ta đã biết câu chuyện rất thời danh về “Chiếc va-ly”. Người ta kể rằng: “Có một đôi vợ chồng trẻ, ngay sau ngày cưới, đã lấy tàu lửa đi du lịch đến một tỉnh khác trong nước để hưởng tuần trăng mật. Khi đến nơi đã định đến, cả hai xuống tàu và còn tỏ ra ngượng nghịu, chứ chưa được tự nhiên. Bấy giờ cô vợ ghé tai chồng nói nhỏ: ‘Kìa, người ta ai nấy cứ nhìn chúng mình chằm chặp, làm em ngượng quá. Chúng mình hãy làm ra vẻ là chúng mình đã cưới nhau lâu rồi, đi anh!’ Bấy giờ anh chồng nói với cô vợ: ‘Vậy thì em hãy tự xách lấy va-ly!’“
Vâng, phải chăng mối đe dọa nguy hiểm to lớn nhất đối với mỗi đời sống hôn nhân lại không phải là sự thiếu quan tâm lo lắng lẫn cho nhau sao? Ðó chính là điều các tầng lớp người trẻ nhìn thấy rất rõ. Cụ thể trước mắt họ chính là đời sống hôn nhân của cha mẹ họ, mà họ thường hay gay gắt phê bình chê trách. Sự nguy hiểm của thói quen, của nhàm chán, của sự giận hờn thái quá đến tránh mặt nhau trong đời sống vợ chống, là rất lớn.
Tuy nhiên, cũng có sự nguy hiểm ngược lại, là: Khi đời sống hôn nhân thiếu đi sự bảo đảm chắc chắn, khi ở chỗ nào đó trong đời sống hôn nhân còn dùng dằng và thiếu rõ ràng dứt khoát, thì bấy giờ một người trong họ lại không có thể dễ dàng bắt chẹt người còn lại bằng những đe dọa cụ thể hay bóng gió, đến nỗi khiến cho người này phải bỏ cuộc – và đây cũng chính là điều chúng ta thường chứng kiến trong cuộc sống thực tế?
Phải chăng đời sống hôn nhân không thể có được sự bảo đảm chắc chắn trước sự hay thay đổi bất thường của tình cảm con người, đến nỗi người vợ hay người chồng – cả trong trường hợp cần thiết và quan trọng – cũng không dám đưa ra những lời phê bình thẳng và thành thật có tính cách xây dựng sao? Phải chăng cả lời thề hôn nhân với sự ràng buộc chặt chẽ của nó mà hai người đã công khai hứa với nhau trong ngày cưới trước sự chứng dám của xã hội, lại không thể giúp cho hai người đứng vững được trong những giai đoạn thử thách và cùng nhau vượt qua được những khó khăn vất vả trong cuộc sống vợ chồng, thay vì vội vàng bỏ cuộc sao? Phải chăng việc loại bỏ sự bảo đảm của định chế pháp luật cho đời sống hôn nhân, lại không phải là một sự phiêu lưu liều lĩnh? Chớ thì trong thực tế, sự bảo đảm đó của pháp luật lại thường đã không mang lại hạnh phúc cho hôn nhân hơn là đổ vỡ sao?
Ðàng khác, ngày nay người ta cũng thường nghe những quan điểm khác nữa, ví dụ: Về đời sống hôn nhân, người ta cần phải sống thử trước đã, để xem liệu hai người có hợp với nhau hay không. Còn nếu hai người nam nữ chỉ chờ vào những ngày cuối tuần hay chỉ thỉnh thoảng mới gặp nhau, thì rất khó lòng biết được con người thật của nhau. Vâng, người ta cần thí nghiệm xem liệu người ta có thể chấp nhận được những va chạm đụng độ cụ thể của cuộc sống hằng ngày hay không, liệu người ta có thể cùng nhau tay trong tay vượt lên trên được những khó khăn thử thách, v.v…! Dĩ nhiên, người ta phải công nhận rằng, quan điểm đó đã nêu lên được những vấn nạn thực tế quan trong.
Tuy nhiên ở đây, người ta cũng phải hỏi ngược lại: Phải chăng những quan niệm tương phản trong vấn đề hôn nhân đã không nêu lên hai tình huống hoàn toàn khác nhau: Một đàng, hai người nam nữ lén lút sống chung “thử” với nhau, chứ không có cưới hỏi phép tắc gì cả; còn đàng khác, hai người nam nữ sống chung với nhau bằng lời thề hứa hôn nhân có tính cách ràng buộc, mà họ cùng công khai tuyên bố trước sự chứng giám của xã hội là họ sẽ trọn đời chung thủy bên nhau dù cho cuộc sống có xoay vần thế nào đi nữa; nhưng nhất là với sự chúc phúc và chuẩn y của Thiên Chúa qua trung gian của Giáo Hội?
Ðứng trước những khó khăn thử thách đầy gian lao chắc chắn sẽ xảy ra trong cuộc sống chung, thì hai kiểu sống chung khác nhau đó đương nhiên sẽ có những thái độ xử sự hoàn toàn khác nhau. Thật vậy, xét về phương diện tâm lý: Phải chăng hoàn cảnh của cặp nam nữ sống chung “thử” với nhau, thì chỉ có thể kêu mời sự ý thức tự nguyện của các đương sự, chứ không thể bó buộc họ phải nỗ lực thích ứng và phải cư xử tốt, đúng với sự thể? Những cặp nam nữ đó sẽ xử sự ra sao khi họ không thể cầm cự được với sự thử thách như thế? Dĩ nhiên hậu quả cũng sẽ xảy ra tương tự như ly dị, chia tay, v.v…, với tất cả những hâu quả nghiêm trọng của nó, như: Ðau khổ, thất vọng, chua xót, chán chường, nhất là thiếu trách nhiệm đối với nhau và không được pháp luật bênh vực; đó là chưa nói đến yếu tố quan trọng khác: con cái!
Thật ra, khi phải đối mặt với những đời sống hôn nhân bất hạnh và bị đổ vỡ, người ta rất dễ thông cảm được thái độ sợ hãi của một số không nhỏ những bạn trẻ, đã không muốn ràng buộc mình suốt đời vào cuộc sống hôn nhân. Những câu hỏi họ thường đặt ra là: Phải chăng lời hứa trọn đời chung thủy lại không có nghĩa là một sự đòi hỏi quá sức? Ai có thể quả quyết được là rồi đây – trong mười, mười lăm hay hai mươi năm về sau – người bạn đời của tôi, và cả chính tôi nữa, sẽ phát triển ra sao đây? Và liệu cả hai chúng tôi còn có thể hợp với nhau nữa không? Liệu chúng tôi còn có thể sống hạnh phúc với nhau nữa không?
Như đã nói trên, ngày nay nhiều thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành đã tự tiện sống chung với nhau mà không cưới hỏi, không có hôn thú. Ngay cả những gia đình đạo đức sốt sắng cũng không tránh khỏi những thách đố đó. Họ đau khổ nhiều và không biết phải xử sự ra sao nữa! Hy vọng những suy tư sau đây có thể giúp cho họ có thêm ý tưởng chăng:
Nhiều bạn thanh niên thiếu nữ hoàn toàn chắc chắn và chân thành xác tín rằng, họ hành động như thế là đúng. Và dù chính tôi có nhận xét ngược lại, tôi cũng phải công nhận và kính trọng sự chân thành chủ quan trong sự quyết định của họ. Phải chăng các người bạn trẻ ngày nay đã không còn sự nhận thức và cảm giác là mình đã làm một điều gì đó sai? Tôi không tin thế!
Vì thế lời góp ý của tôi là: Thưa các bậc cha mẹ, xin quí vị hãy luôn bình tĩnh, nhẫn nại, quảng đại và tiếp tục giữ quan hệ tốt với con cái mình trong mọi trường hợp, nhất là luôn luôn phải thành tâm thương yêu con cái. Ðó là sự giúp đỡ tốt nhất mà quí vị có thể dành cho con cái, hầu có thể tạo điều kiện thuận lợi cho chúng biết nhìn ra được đâu là phải hay trái, tốt hay xấu, đúng hay sai, trong hành động và trong quyết định của chúng. Ðừng bao giờ có thái độ quá khích đối với con cái, để không xô đẩy chúng vào những hành động quá khích và những quyết chủ quan sai lạc! Sớm hay muộn, con cái cũng sẽ hiểu ra được quan điểm đúng đắn của cha mẹ mình; dĩ nhiên thái độ của cha mẹ phải luôn minh bạch và dứt khoát.
Nói chung, đối với các thanh niên thiếu nữ, nếu người ta luôn luôn chỉ biết chiều chuộng một cách thái quá, cốt sao để lấy lòng chúng, hay ngược lại, chỉ lạnh lùng từ chối hay phê bình phủ nhận một chiều, thì thường không thể mang lại được hiệu quả tích cực. Trái lại, cả hai thái độ đó chỉ gây thêm sự xa lạ và thất bại chua cay!
Vậy câu hỏi vẫn được đặt ra là: Cha mẹ cần phải xử sự ra sao khi con cái họ nhất định không chấp nhận đời sống hôn nhân cổ truyền, bất chấp cả xã hội lẫn Giáo Hội, và chung sống với nhau theo phong trào tự do “hôn nhân không có hôn thú”?
Sự góp ý sau đây của tôi mang dạng thức những câu hỏi, để các bậc cha mẹ suy tư và tìm ra câu trả lời: Ðiều gì thực sự tốt đối với hai người thanh niên thiếu nữ trong hoàn cảnh cụ thể hiện tại của họ? Ðâu là cách tốt nhất để tôi có thể giúp đỡ cho sự quan hệ của họ được thành công? Hy vọng rằng, những câu hỏi đó cũng là những câu hỏi mà các bậc cha mẹ đang trong hoàn cảnh tương tự cần đặt ra cho mình. Tôi xin nhắc lại là: Với tình thương yêu chân thành, lòng nhân hậu bao dung và sự thông cảm hiểu biết lành mạnh, v.v… người ta có thể nâng đỡ họ một cách tốt nhất!
Tiếp đến tôi cũng thành thật góp ý với các bạn trẻ thế này: Các bạn hãy cư xử với ý thức trách nhiệm trong những quan hệ của mình. Ai thật lòng yêu một người, thì cũng phải có trách nhiệm đối với người đó. Không ai có quyền lợi dụng tình cảm và sự tin tưởng của kẻ khác.
Ở đây, tôi xin kể các bạn nghe một câu chuyện mà chính tôi đã chứng kiến cách đây khá lâu, một câu chuyện mà theo tôi là không được phép xảy bất cứ nơi đâu nữa. Ðó là trường hợp hai bạn nam-nữ trẻ mà tôi cứ đinh ninh là mọi sự sẽ tốt đẹp xuôi chảy, vì họ hội đủ hầu như tất cả những điều kiện thuận lợi cho một cuộc sống chung hạnh phúc. Vâng, họ đã đầu tư rất nhiều vào sự quan hệ của họ. Cả hai đã trải qua mọi thăng trầm của cuộc sống. Và nay con đường đời chung cho cả hai như đã được mở rộng trước mắt họ. Thế nhưng, bổng nhiên qua một quan hệ tình cờ và ngắn ngủi với một người đàn ông khác, và kết quả là người bạn gái mang thai. Bấy giờ tình huống đã trở nên hoàn toàn phức tạp và vô cùng khó xử: Một đàng, người đàn bà và đứa con; đàng khác, người đàn ông mà nàng vẫn luôn luôn yêu thương hết lòng; một đàng khác nữa, người đàn ông đã cho nàng đứa con và cũng không muốn bỏ nàng! Một cuộc sống bị giằng co níu kéo giữ bốn người như thế, thật vô cùng nặng nề và vô cùng rắc rối khó xử!
Qua đó, chúng ta thấy được một điều quá hiển nhiên, là: Trên một sân chơi mà người ta không tôn trọng luật chơi, thì sẽ bị loại ra khỏi sân, chứ không thể tiếp tục cuộc chơi được nữa! Sống trong một xã hội mà người ta không tôn trọng luật lệ của xã hội, thì sẽ bị xã hội đào thải và sẽ rơi vào cảnh đời bất hạnh, “tiến thoái lưỡng nan”. Hơn nữa, chính lý trí và luân lý là hai yếu tố phân biệt con người với các thụ tạo khác. Và sau cùng, để một sự quan hệ được thành công, cần phải có sự ý thức trách nhiệm, lòng trung thành, sự thông cảm và sự tha thứ, nhất là đức tin vào Thiên Chúa. Amen.
23. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Ai trong chúng ta cũng từng dự lễ cưới, chúng ta thường nghe người ta chúc cô dâu chú rể “trăm năm hạnh phúc”. Người ta mong được “trăm năm” đồng nghĩa hạnh phúc mãi mãi. Trong thực tế, gia đình có được hạnh phúc đã là khó, hạnh phúc trăm năm lại càng khó hơn. Hơn thế nữa, đời sống của mỗi người chúng ta như một tiệc cưới. Có phải trong cuộc sống ai trong chúng ta cũng luôn có được niềm vui, có được hạnh phúc như trong một tiệc cưới không?
Tiệc cưới ở Cana phút chốc đã lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang vui, mọi người đang mời nhau ly rượu mừng nhưng bỗng “hết rượu”. Còn gì buồn cho bằng. Hết rượu là điều mà chủ nhà không ngờ và cũng không muốn nhưng ông đang phải đối mặt. Việc thiếu rượu trong tiệc cưới ở Cana có thể đó là những thiếu thốn trong gia đình chúng ta. Thực tế mà nói, mỗi gia đình thường thiếu một cái gì đó vào một lúc nào đó trong đời sống hôn nhân gia đình: thiếu kiên nhẫn, thiếu hiểu nhau, thiếu thông cảm…thiếu ngay cả tình yêu, như giữa bữa tiệc thiếu rượu vậy. Có thể những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm, không đủ tiền cho con đi học, thiếu thuốc men khi bệnh tật. Quan trọng hơn là những thiếu thốn về tinh thần: vợ chồng thiếu sự quan tâm, chăm sóc cho nhau; cha mẹ thiếu những lời dạy dỗ khuyên bảo con cái; con cái thiếu kính trọng, vâng lời cha mẹ; anh chị em không nhường nhịn tôn trọng lẫn nhau. Nhưng cái thiếu thốn trầm trọng nhất là thiếu lòng đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu sự công bằng bác ái, thiếu tinh thần sống đạo.
Những thiếu thốn trên dễ dàng đưa đến những bất hoà với nhau, xích mích, giận hờn, ghen ghét, gia đình ngột ngạt. Gia đình giờ đây không còn ạnh phúc nữa, hay đúng hơn tổ ấm giờ đây trở thành chốn “ngục tù” của nhau. Vì thế, làm sao có được hạnh phúc gia đình khi người chồng, người cha sáng say chiều xỉn, còn người vợ, người mẹ trở nên cau có, hay quát mắng, những đứa con không còn ngoan ngoãn nữa.
Vì thế, có phải khi lâm vào những bế tắc như trên, chúng ta không còn cách để tìm lại hạnh phúc gia đình? Phúc âm cho chúng ta lời giải đáp. Trong tiệc cưới Cana có sự hiện diện của Chúa Giêsu. Sự hiện diện của Ngài nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa dành chúng ta. Thiên Chúa như một người cha, người bạn thân thiết của chúng ta. Ngài gần gũi, thân tình, đồng hành và chia sẻ buồn vui với con người. Nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu, gia đình Cana mới thoát khỏi một bất hạnh nước đã hoá rượu ngon.
Mỗi người chúng ta cũng sẽ vượt qua những thiếu thốn những khó khăn trong gia đình, trong cuộc sống của mình khi chúng ta dám để Chúa đến với gia đình, với cuộc sống của mình. Sự hiện diện của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua những trở ngại, những khó khăn trắc trở trong cuộc sống. Chúng ta hết tiền, không có việc làm, thiếu sức khỏe…hãy mời Chúa Giêsu đến, như đôi tân hôn ở Cana, chúng ta sẽ được giúp đỡ những gì chúng ta cần để chúng ta hạnh phúc. Kế đến, chúng ta phải lắng nghe và thực hành ý Chúa “Người bảo gì các anh phải làm theo”. Muốn giữ vững hạnh phúc gia đình mỗi người trong chúng ta hãy làm theo Lời Chúa dạy. Hãy mở lòng ra để Lời Chúa hướng dẫn. Đồng thời, trong mọi công việc chúng ta làm hãy để Chúa giúp chúng ta. Thực hành Lời Chúa, gia đình chúng ta sẽ vượt qua những thiếu thốn, những khó khăn. Hơn nữa, chúng ta cũng đừng quên vai trò của Đức Maria trong phép lạ hôm nay. Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ đã được thực hiện để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở. Ngày nay Đức Mẹ vẫn còn nói với Chúa Giêsu giúp chúng ta: “họ hết rượu rồi”.
Giáo dân Châu Âu xưa kia có một câu tục ngữ như thế này: “Nếu bạn đi du lịch bằng đường bộ, bạn hãy đọc một kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi du lịch bằng đường biển, bạn hãy đọc hai kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi cưới vợ, lấy chồng, bạn hãy đọc một trăm kinh Kính Mừng”. Phải, đời sống chúng ta không phải chỉ là một chuyến du lịch mà là cả một cuộc hành trình đến mãn đời. Không có sự hiện của Chúa, không có Đức Mẹ, chúng ta khó vượt qua khó khăn, trắc trở và sống vui tươi được và nhất là sống yêu thương tha nhân được.
Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương nhân loại, để nhân loại sống hợp nhất và yêu thương. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù, chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Mỗi người phải tìm cách giàn xếp để yêu thương nhau, hiệp nhất với nhau. Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong gia đình chúng ta, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của tình yêu. Chúa Giêsu phải luôn có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách, thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc. Chúa biến nước lã thành rượu ngon thì Chúa cũng mời gọi chúng ta biến đổi cuộc đời nhạt nhẽo này thành rượu nồng tình yêu, yêu chúa và yêu người bằng cách sống yêu thương để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến thăm và chúc phúc cho gia đình chúng con để chúng con tràn đầy sự hiện diện của Chúa. Và trên hết, xin Chúa hãy chúc lành cho mỗi người trong gia đình chúng con, để tâm trí chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, đôi tay luôn biết rộng mở yêu thương cho tha nhân, và trái tim luôn luôn biết hướng về Chúa. Amen.
24. Cuộc sống luôn cần sự quan tâm
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Sau khi chịu phép rửa của Thánh Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai. Ngài rao giảng Tin mừng. Đi liền với lời rao giảng là các phép lạ. Bài Tin mừng hôm nay tường thuật phép lạ Ngài biến nước thành rượu ngon theo lời thỉnh cầu của Đức Mẹ. Đây là phép lạ đầu tiên của Ngài. Qua phép lạ này, chúng ta thấy được những bài học về sự quan tâm: Sự quan tâm của Đức Mẹ; sự quan tâm của Chúa Giêsu và sự quan tâm của các gia nhân.
- Sự quan tâm của Đức Mẹ
Đi dự đám cưới để chúc mừng hạnh phúc của đôi tân hôn là chuyện bình thường trong cuộc sống. Đặc biệt khi con người có những mối liên hệ: Ruột thịt, họ hàng, bạn bè, làng xóm láng giềng với nhau. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu và Mẹ Maria đi dự tiệc cưới. Chắc chắn gia đình chủ tiệc có liên hệ gì đó với Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Thông thường, những người được mời đến dự tiệc sẽ được sắp xếp ngồi vào chỗ đã chuận bị trước và được gia chủ tiếp đón một cách chu đáo. Đức Mẹ và Chúa Giêsu là khách mời, và có lẽ là khách mời danh dự nên sẽ được sắp xếp vào chỗ ngồi đặc biệt. Nhưng tại sao Đức Mẹ lại biết chủ tiệc hết rượu? Vì Mẹ quan tâm đến gia chủ. Mẹ quan sát và thấy gia chủ bối rối. Mẹ tìm hiểu và thấy họ hết rượu. Đúng như người ta nói: Bác ái là tìm tòi. Tìm sự thiếu thốn của người khác để quan tâm, để giúp đỡ. Giúp đỡ như thế nào đây? Đức Mẹ đã nghĩ đến Chúa Giêsu. Vì Mẹ tin tưởng chỉ có Con của Mẹ mới có thể giải quyết được chuyện này. Thế là Mẹ đã mạnh dạn đặt vấn đề với Chúa Giêsu, Con của Mẹ: “Họ hết rượu rồi”(x. Ga 2,3). Vai trò của Mẹ là như thế: Cầu bầu. Việc còn lại là của Chúa Giêsu. Mặc dầu, câu trả lời của Chúa Giêsu có vẻ lạnh nhạt: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”(x. Ga 2,4). Nhưng Mẹ vẫn tin tưởng Chúa Giêsu sẽ làm gì đó để giúp đỡ chủ tiệc. Bằng chứng là Mẹ đã bảo những người giúp việc “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”(x. Ga 2,5).
Mẹ Maria có mặt ở tiệc cưới Cana là do lời mời của gia chủ, và cũng là do sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ngày hôm nay, nhiều gia đình đang thiếu thốn cách này cách khác: Thiếu thốn sự quan tâm, thiếu thốn tình yêu, thiếu thốn miếng cơm manh áo, bị bệnh tật…Hãy mời Mẹ về với gia đình, hãy dâng những nỗi khổ, những sự thiếu thốn của gia đình chúng ta cho Mẹ. Mẹ sẽ sẵn sàng cầu bầu cùng Chúa giúp đỡ gia đình chúng ta như xưa Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa giúp đỡ gia đình tiệc cưới tại Cana.
- Sự quan tâm của Đức Giêsu
Trong suốt 3 năm rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu hằng luôn quan tâm đến mọi hạng người để giúp đỡ, để biến đổi, để chữa lành. Riêng trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Ngài quan tâm đến lời yêu cầu của Đức Mẹ. Khi Mẹ Maria đề nghị Ngài cứu giúp gia tiệc, Chúa Giêsu trả lời cho Mẹ biết “Giờ Ngài chưa đến”(x. Ga 2,4). Mặc dầu giờ chưa đến nhưng do lời thỉnh cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon. Điều đó chứng tỏ Ngài quan tâm đến Mẹ. Sự quan tâm đó còn được thể hiện qua việc Ngài lối Đức Mẹ cho Thánh Gioan và lối Thánh Gioan cho Đức Mẹ. Từ đó, Mẹ trở thành mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương giúp đỡ chúng ta khi còn sống cũng như khi đã về trời. Vì vậy, Giáo hội thường gán cho Mẹ các tước hiệu như: Đấng bênh vực, Mẹ Phù hộ, Mẹ cứu giúp, Đấng làm trung gian (x. LG 62).
Chúa Giêsu không những quan tâm đến Đức Mẹ mà Ngài còn quan tâm đến chủ tiệc và đôi tân hôn, tức là quan tâm đến đời sống gia đình. Đám cưới là niềm vui lớn nhất trong đời của đôi tân hôn. Chính vì vậy, cả đôi tân hôn và cả gia đình chủ tiệc đều mong muốn có một niềm vui trọn vẹn. Thế mà, không hiểu sao giữa tiệc vui lại hết rượu. Đây là sự cố xảy ra ngoài ý muốn của gia đình và cô dâu chú rể. Vì không muốn họ mất đi niềm vui trọn vẹn, nên Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon để cứu giúp họ. Việc Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới và làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon nói lên sự quan tâm của Ngài đối với gia đình. Đó lá dấu chỉ Ngài sẽ lập Bí tích hôn phối sau này. Bí tích hôn phối được Chúa thiết lập kết hợp người nam và người nữ thành vợ chồng. Đặc tính của bí tích này là đơn hôn và vĩnh hôn. Nghĩa là phải một vợ một chồng và phải sống với nhau cho đến chết.
- Sự quan tâm của các gia nhân
Thông thường trong các đám cưới, ngoài cha mẹ anh em họ hàng ra còn có những người làng xóm, bạn bè…Họ không phải là khách mời, nhưng là những người đến để giúp đỡ. Họ giúp gia chủ những công việc như: Dựng rạp, sắp đặt bàn ghé, trang trí, nấu nướng, bưng bê mâm cỗ…Tại đám cưới ở Cana, vai trò của những người này hết sức quan trọng. Không những họ làm những công việc trên, mà họ còn đóng góp phần mình trong phép lạ hoá nước thành rượu ngon. Sau khi đề nghị với Chúa Giêsu, Mẹ Maria bảo họ: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (x. Ga 2,5). Và khi nghe Chúa Giêsu bảo đổ đầy nước vào các chum. Họ liền làm đúng như vậy. Sau đó, Chúa Giêsu bảo họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (x. Ga 2,8). Họ cũng làm theo như vậy, và phép lạ đã được thực hiện.
Như vậy, phép lạ hoá nước thành rượu ngon do Chúa Giêsu làm nhưng nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ Maria và sự cộng tác tích cực của các gia nhân.
Trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống gia đình, cần có sự quan tâm, giúp đỡ, cộng tác của những người xung quanh. Đó là sự cộng tác: giữa vợ chồng với nhau; giữa cha mẹ và con cái; giữa anh em ruột thịt; giữa bạn bè; giữa làng xóm láng giềng. Mỗi người Chúa ban cho mỗi khả năng, nếu biết quan tâm, giúp đỡ, cộng tác với nhau chắc chắn sẽ đem lại lợi ích to lớn. Thánh Phaolô trong bài đọc II đã nói: “Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người”(1 Cr 12, 9-11).
Cuộc sống cần sự quan tâm. Noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các gia nhân trong bài Tin Mừng, mỗi chúng ta hãy thể hiện sự quan tâm của chúng ta đối với những người xung quanh. Mình giúp người, người giúp mình đó là quy luật của cuộc sống. Để thấy rõ hơn điều đó, chúng ta hãy nghe câu chuyện cảm động sau đây: Một nữ công nhân làm việc tại nhà máy chế biến thịt đông lạnh. Ngày hôm ấy, sau khi hoàn thành công việc, như thường lệ cô đi vào kho đông lạnh để kiểm tra một chút. Đột nhiên, cửa phòng bị đóng và khóa lại, cô bị nhốt ở bên trong mà không một ai biết.
Cô vừa hét khản cổ họng vừa đập cửa với hy vọng có người nghe được tiếng mình mà đến cứu, nhưng vẫn không có ai nghe thấy. Lúc này tất cả công nhân đã tan ca, toàn bộ nhà máy đều yên tĩnh.
Sau 6 giờ chiều hôm ấy, nữ công nhân lạnh cóng người, tuyệt vọng và đau khổ… Đang lúc cô tưởng như không chịu đựng được nữa thì bất ngờ được người bảo vệ đến mở cửa cứu ra ngoài.
Hôm sau, cô gái hỏi người bảo vệ tại sao lại biết mình ở trong đó để đến mở cửa, mặc dù đây không phải khu vực mà ông ấy quản lý.
Người bảo vệ trả lời: “Tôi làm việc ở nhà máy này đã 35 năm rồi. Mỗi ngày đều có mấy trăm công nhân ra ra vào vào. Nhưng cô là người duy nhất mà ngày nào sáng sớm đi làm cũng chào hỏi tôi và buổi tối tan làm lại chào tạm biệt tôi trong khi có rất nhiều người xem như không nhìn thấy tôi vậy! Hôm nay, tôi biết rõ ràng buổi sáng cô có đi làm bởi vì sáng sớm cô còn nói “cháu chào bác!” Nhưng sau khi tan làm buổi chiều, tôi lại không nghe thấy tiếng cô chào: “Tạm biệt bác, hẹn ngày mai gặp lại!” Thế là tôi quyết định đi vào trong nhà xưởng tìm xem xem thế nào. Tôi đi đến những chỗ góc hẻo lánh tìm cô và cuối cùng lại nghe thấy tiếng khóc và tìm thấy cô ở trong kho đông lạnh…”
Hãy luôn khiêm tốn nhã nhặn, yêu thương và tôn trọng những người xung quanh mình bởi vì bạn không thể biết được sự tình gì sẽ xuất hiện vào ngày mai!
(Theo NTDTV, Mai Trà biên dịch)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đến tham dự tiệc cưới ở Cana và Chúa đã cứu gia đình chủ tiệc một bàn thua trông thấy khi làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon. Ngày hôm nay, nhiều gia đình đang tan nát vì họ thiếu thố đủ thứ: Thiếu tình thương, thiếu sự kính trọng, thiếu sự quan tâm, thiếu niềm tin, thiếu lòng chung thuỷ…Xin Chúa hãy đến với họ để giúp họ như xưa Chúa đã giúp gia chủ và đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana. Amen.
25. Có Mẹ đồng hành
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Theo Phúc Âm Thánh Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Khi một Linh mục hay một Giám mục đi dự một đám cưới, chẳng qua là vì tình nghĩa, chứ không phải vì thích ăn uống. Chúa Giêsu đến dự đám cưới này cũng vì tình nghĩa, vì yêu thương, vì đây có lẽ là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.
Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày. Đám cưới Cana này mới đến ‘ngày thứ ba’ thì đã hết rượu rồi. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Các rabbi vẫn nói: Không rượu thì không vui, hay người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống rượu pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể.
Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.
Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Chúa Giêsu chia sẽ cho cô dâu chú rễ, cho họ hàng đôi bên và mọi người niềm vui của Chúa mà rượu là biểu tượng như lời thánh vịnh 109: Rượu ngon làm phấn khởi lòng người.
Ơn cứu độ là niềm vui. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.
Trong Phúc Âm Gioan chỉ có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Phúc âm Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.
Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó.
Chẳng hạn:
– Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tự giới thiệu: Ta là bánh hằng sống.(Ga 6)
– Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: Ta là ánh sáng thế gian.(Ga 9)
– Sau khi cho Lazarô sống lại, Chúa tự nhận: Ta là sự sống lại và là sự sống.(Ga 11)
Vậy phép lạ Cana mang một ý nghĩa nào?
– Phép lạ xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu ước, để diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với dân Israel, các Ngôn sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới vời dân mình, Thiên Chúa là chú rễ. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Yuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà.
– Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc: Bữa tiệc là hình ảnh đựơc dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Messia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người vì mình là chú rễ, là tân lang. Người coi giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ.
Đọc Tin mừng Chúa nhật hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rễ lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môisen. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rễ thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu ước thành rượu Tân ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.
– Tiệc cưới Cana là biểu tượng tiệc cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể; Bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui ơn cứu độ cho con người.
Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mính Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh hằng sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Chúa.
Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.
Phúc âm Gioan chỉ nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19,25-27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo hội, với người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẽ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.
Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước nhan thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: họ hết rượu rồi và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: Hãy làm mọi điều Chúa bảo.
26. Rượu hết – Rượu đầy
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Trang Tin mừng cũng như sứ điệp Tin mừng hôm hay hết sức gần gụi và quá ư là dễ thương. Chủ đề Tin mừng hôm nay nói về tiệc cưới! Nghe cái gì chứ nghe đến tiệc thì nó hấp dẫn bởi vì nó làm cho người ta liên tưởng đến mâm cao cỗ đầy trong bữa tiệc. Đang nghe tác giả Tin mừng trình bày về bữa tiệc thật hay đấy bỗng nhiên lại xảy ra sự cố hết rượu!
Một bữa tiệc nho nhỏ như là bữa họp mặt, bữa tiệc sinh nhật hay đơn giản là một bữa mừng gì đó của nhóm bạn thân quen nhau thì thật là vui, thật là quý. Ai ai cũng mong muốn cho những buổi tiệc ấy tạo nên tình thân hữu, tình bè bạn và cũng mong bữa tiệc ấy kết thúc một cách tốt đẹp và sau bữa tiệc ấy lại là lời hẹn cho bữa tiệc sau. Giả như cuộc vui đang lên đỉnh thì bữa tiệc vui ấy ắt hẳn sẽ không còn như mong đợi nữa. Đang vui như vậy mà hết thức ăn thì quả là chán thật! Nếu như thiếu thức ăn thì còn có thể chấp nhận kiếm quả cóc quả ổi để nhâm nhi những “giọt nước mắt quê hương” do gia chủ thết đãi. Và rồi nếu thiếu “nước mắt quê hương” thì quả thật là buồn.
Khi lo cho những bữa tiệc như vậy thì người ta cũng cố gắng hết sức mình để chuẩn bị cho bữa tiệc tươm tất và có khi người ta với tấm lòng rộng rãi còn làm dư cả. Và với thế giới văn minh ngày nay thì còn đó những cái tủ cấp đông để giữ lại thức ăn nếu thừa nên người ta thường hay chuẩn bị nhiều và nhiều thức ăn để cùng nhau chia vui. Thức ăn là vậy, còn rượu bia hay “nước mắt quê hương” ngày nay người ta thường chuẩn bị dư thừa.
Dừng lại một chút, nếu đám tiệc ở thành thị thì cũng khá đơn giản cho chuyện kiếm mồi kiếm bia. Nếu đám tiệc ở thôn quê thì đành rơi vào bế tắt vì lẽ muốn đi mua thêm chút mồi chút rượu quả là điều hơi bị khó. Trong cái khó, cái bế tắt ấy thì ắt hẳn không biết bao nhiêu chuyện sẽ xảy đến và nhất là với những anh chàng bợm nhậu.
Trang Tin mừng hôm nay, câu chuyện tiệc cưới hôm nay dẫn ta đi vào chuyện bế tắt của đôi tân hôn. Tiệc mừng, tiệc sinh nhật, tiệc họp mặt thiếu rượu, thiếu thức ăn thì còn có thể châm chước, còn có thể chấp nhận nhưng đàng này lại là tiệc cưới. Đời ai cũng chỉ một lần nếu sống đời hôn nhân lên xe hoa, thết đãi mọi người trong ngày vui trọng đại nhất của đời mình. Niềm vui, hạnh phúc sẽ trọn vẹn nếu như bữa tiệc ấy được hoàn hảo. Tiệc cưới Cana hôm nay rơi vào bi đát, rơi vào bết tắt khi hết rượu! Thế nhưng đang tưởng rơi vào bế tắt thì Chúa Giêsu lại “ra tay”. Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu để cứu vãn tình thế có một không hai của đôi hôn nhân.
Chuyện hết rượu của tiệc cưới Cana ngày hôm ấy trở nên khá phổ biến trong các tiệc cưới của ngày hôm nay và trong các bữa tiệc thường nhật của các gia đình ngày hôm nay. Chuyện thiếu rượu ở Cana đã có và phép lạ Cana đã xảy ra. Ngày nay, thiếu rượu trong đời sống gia đình vẫn có và phép lạ rượu đầy ngày hôm nay Chúa Giêsu vẫn làm đấy thôi. Chuyện quan trọng là người ta đã không nhận ra Chúa Giêsu đã, vẫn và sẽ hiện diện trong gia đình và làm phép lạ cho gia đình.
Không phải mới ngày hôm nay mà tự ngàn xưa khi Chúa Giêsu sinh xuống thế làm người Chúa Giêsu đã cảm nhận được cái khốn khó của kiếp người và đặc biệt khi con người rơi vào bế tắt. Chúa Giêsu vẫn yêu thương, Chúa Giêsu vẫn ban rượu dư đầy để cho niềm vui của tiệc cưới cũng như niềm hạnh phúc của gia đình được kéo dài luôn mãi.
Rượu mà Chúa Giêsu ban đấy vẫn dư tràn trên mỗi người nhưng chuyện quan trọng là con người đã khép kín lại, đã khư khư giữ riêng cho mình để rồi phép lạ bị con người cản ngăn đấy thôi. Nếu như con người biết mở lòng ra, san sẻ những gì Chúa ban cho mình thì ắt hẳn niềm vui của tiệc cưới đời mình và niềm vui của gia đình sẽ nhân lên mãi.
Bằng chứng như lời Thánh Phaolô vừa tuyên bố cho giáo đoàn Côrintô cũng như cách nào đó thánh Phaolô tuyên bố cho chúng ta: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người”. (1 Cr 12, 4-11).
Quà của Chúa, đặc sủng của Chúa, ơn của Chúa hay nói cách khác là rượu của Chúa vẫn được phân chia cho mỗi người mỗi mức tuỳ theo ý của Người.
Thử hỏi, trong đời sống thường nhật, nếu như người ta biết cộng tác, biết đóng góp một chút phần của họ, một chút đặc sủng, một chút ơn mà Chúa ban cho họ thì cuộc sống của họ hạnh phúc là dường nào.
Nhớ lại những năm tháng còn ở Học Viện, vào những ngày tháng thực tế mục vụ hè ở vùng Cao, hình ảnh của những anh chị em dân tộc thiểu số nghèo ở vùng Cao thật là hay.
Hôm ấy, ở cái làng Bông La thuộc xã La Sơn huyện Mang Yang – Pleiku có một đám nhưng không phải là đám tiệc mà là đám tang. Hết sức ngạc nhiên khi thấy anh chị em dân tộc thiểu số đi viếng đám tang, đi chia sẻ nỗi đau niềm nhớ của gia đình nhà hiếu bằng bị gạo, bằng vài con cá khô bằng vài trái bắp non. Vì ngạc nhiên nên tò mò hỏi với hình ảnh lạ ấy. Hỏi thăm thì được biết là theo tập tục của anh chị em dân tộc thiểu số là nhà có đám tang thường để cả tuần lễ. Để một tuần lễ như vậy thì chuyện ăn uống sinh hoạt khá tốn kém và là một gánh nặng cho một gia đình nghèo. Để giải quyết những khó khăn trong những ngày tang chế bà con quanh làng mỗi người một chút mang đến nhà hiếu. Họ đến chia sẻ nỗi buồn, sự mất mát của gia đình nhà hiếu bằng cả tấm lòng cộng thêm vài con cá khô, vài lon gạo, vài trái bắp.
Chắc cũng chẳng cần nói nhiều, những bữa cơm chứ không dám nói là bữa tiệc của một tuần lễ tang chế ấy bảo đảm sẽ không bị thiếu dù là nhà hiếu thuộc dạng nhà nghèo. Hình ảnh chung chia, hình ảnh đóng góp của những anh chị em dân tộc nghèo sao mà thân thương quá, sao mà gần gụi quá. Họ, có thể là chưa biết Chúa nhưng họ đã đáp lại lời mời của Chúa hay nói một cách hơi quá là đã chứng minh phép lạ mà Chúa đã làm như đã từng làm ở Cana hay từng làm nơi hoang địa khi hoá bánh ra nhiều.
Mỗi người một ơn riêng, mỗi người một đặc sủng và mỗi người đều có một chút “rượu” trong đời mình. Nếu như mỗi người biết mở rộng lòng mình ra để chung chia chút ơn, chút “rượu” mà Chúa đã ban cho mình thì những đám tiệc hay nói gần hơn một chút là những bữa cơm trong gia đình của mình hết sức hạnh phúc.
Ta có thể đi xa hơn một chút, rộng hơn một chút ở cấp độ làng xóm, ở cấp độ giáo xứ. Nếu như mỗi giáo dân biết chung chia một chút “rượu” của lòng mình thì xóm đạo, giáo xứ của mình sẽ hạnh phúc như đôi tân hôn hôm nay ở Cana mà chúng ta vừa nghe Thánh Gioan thuật lại.
Một sự kiện, một câu chuyện hết sức thực tế, hết sức dễ thương đang xảy ra như đã từng xảy ra ở Cana đó là Đồng Chiêm ngày hôm nay. Đồng Chiêm đang rơi vào cảnh bế tắt, rơi vào ngõ cụt khi bị đàn áp, khủng bố đến tính mạng nhưng mà hình như giáo dân Đồng Chiêm và xứ Ải mỗi người một chút “rượu” để góp phần vào. Và hiện nay, không chỉ giáo dân Đồng Chiêm mà cả giáo dân trong và ngoài nước bằng cách này hay cách khác đã góp một chút “rượu” của mình vào Đồng Chiêm.
Đồng Chiêm đượm mùi sát khí nhưng vẫn vui và hạnh phúc vì ơn Chúa vẫn có đó và vẫn còn đó.
Chúa vẫn hiện diện, Chúa vẫn làm phép lạ trong cuộc đời này nhưng chuyện quan trọng người ta có nhận ra hay không mà thôi.
Rượu đầy, rượu thiếu là do lối nghĩ, lối sống của mỗi người.
Có những người mang trong mình quá nhiều rượu và rượu ấy với nồng độ rất cao là những người có tiếng nói, là những vị có trách nhiệm sẽ giúp cho những đám tiệc, những sự kiện Đồng Chiêm thêm vui và hạnh phúc nhưng lại khư khư giữ lại và cất giấu đi. Họ có vẻ như sợ mất quyền lợi và thiệt thòi khi mang “rượu” của mình vào cuộc đời. Bi đát nhất là họ vẫn vui, vẫn bình thản trước những đau thương mất mát của kitô hữu và của Giáo Hội.
Ngược lại, có những người thấp cổ bé họng rượu cũng ít và nồng độ chẳng là bao lại xả thân đóng góp vào Đồng Chiêm. Những giọt “rượu” nhỏ bé của những con người bé nhỏ xem ra vậy mà hay. Những giọt “rượu” ấy bỗng làm cho Đồng Chiêm càng ấm áp hơn, càng hạnh phúc hơn vì sự hiện diện của Chúa Giêsu, vì “rượu” ấy được ép từ trong men Giêsu.
Rượu vẫn đầy chứ rượu không hề thiếu. Chỉ sợ lòng con người ta cạn và lòng con người ra chai đá mà thôi.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Đấng làm phép lạ tại Cana ngày xưa đến và ở lại với mỗi người chúng ta, với chút rượu đã có mà Chúa ban cho mỗi người, thì nay xin Ngài ban thêm một chút nữa cả về số lượng cũng như “nộng độ” để mỗi người chúng ta góp thêm niềm vui, niềm hạnh phúc cho những bữa tiệc hàng ngày trong gia đình, trong xứ đạo của chúng ta.
27. Tiệc cưới Cana
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Sau khi kêu gọi và tuyển chọn những môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ, là cùng môn đệ đi ăn cưới ở Ca-na. Và tại tiệc cưới này, Chúa lại làm một việc đặc biệt không ai ngờ nữa, là qua sự can thiệp của Đức Maria, Chúa đã biến nước lã thành rượu ngon. Đây là phép lạ đầu tay của Chúa Giêsu, phép lạ đầu tiên Chúa làm khi công khai rao giảng Tin Mừng. Phép lạ này có ý nghĩa thế nào và dạy chúng ta những bài học gì?
Trước hết, ý nghĩa trực tiếp của phép lạ là một sự chữa lành. Mỗi lần chữa bệnh tật thân xác cho người ta, Chúa Giêsu đều nghĩ đến bệnh tật của linh hồn. Ở đây, khi cứu vãn tình yêu hôn nhân của con người. Đôi vợ chồng kia hôm nay đang yêu nhau tha thiết, nhưng tình yêu của họ sẽ kéo dài được bao lâu? Hay rồi cũng như rượu đang nửa chừng thì hết, tình yêu của họ sẽ sớm khô cạn? Giữa những bất trắc của tình vợ chồng, sự bất trung thật đáng sợ. Chúa Giêsu muốn cứu vãn tất cả. Ngài muốn cứu vãn lòng trung thành chung thủy trong cuộc sống hôn nhân.
Như vậy, sự có mặt của Chúa Giêsu ở tiệc cưới này mở màn cho hôn nhân một kỷ nguyên mới, nghĩa là trang sử mới của chế độ bí tích hôn nhân Ki-tô giáo đã bắt đầu. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới: đã được chính Chúa Giêsu làm phép cưới, trước sự chứng giám của Mẹ Maria và các tông đồ. Bí tích hôn phối của đạo mới khai nguyên từ đám cưới này. Từ nay hôn nhân phải nhất phu nhât phụ, hôn nhân phải bất khả phân ly, hôn nhân phải được Chúa chúc phúc và Hội Thánh chứng nhận.
Điều quan trọng thứ hai của phép lạ này là sự can thiệp của Đức Maria. Đức Mẹ đã phát hiện ra sự thiếu rượu và nỗi bối rối lo lắng của chủ nhà, của đôi tân hôn, và Đức Mẹ đã can thiệp. Ở đây chúng ta thấy có hai lời của Đức Mẹ, hai lời ấy bổ sung cho nhau và rất đầy ý nghĩa. Lời thứ nhất hướng về Chúa Giêsu để cầu xin: “Họ hết rượu rồi”. Lời thứ hai hướng về các người giúp việc để đưa họ đến với Chúa và làm theo ý của Chúa: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”. Mẹ không ép Chúa làm phép lạ và Mẹ cũng chẳng có quyền đó. Phép lạ Ca-na là do quyết định cuối cùng của Chúa Giêsu, nhưng chắc chắn có sự đóng góp, can thiệp của Mẹ Maria, một người mẹ nhạy cảm và từ ái. Nói rõ hơn, phép lạ Ca-na Chúa Giêsu đã làm theo ý mẹ mình để minh xác đã đến “giờ” mẹ có một sứ mệnh đặc biệt đối với Chúa và đối với nhân loại.
Đối với chúng ta hôm nay, nhìn những đôi tân hôn tươi cười bước đến nhà thờ, nắm tay nhau công khai hứa trọn đời yêu nhau, ai lại không vui, ai lại không cảm động.Niềm vui ấy lại được củng cố thêm bằng bữa tiệc vui, khi bà con hai họ và bạn bè nâng ly chúc mừng đôi tân hôn được tràn đầy hạnh phúc. Nhưng niềm vui ấy có khi nào lụi tàn không? Tàn lụi khi hạ ly xuống, khi bước xuống xe hoa, sau một vài tuần hay sau vài năm? Câu hỏi đó không thừa với thời nay khi mà rất nhiều gia đình, trong đó có gia đình Công giáo, sau một thời gian chung sống đã cạn chén rượu tình thương.
Trong niềm tin, người Ki-tô hữu biết rằng: Đức Maria vẫn ở với loài người, vẫn chia sẻ niềm vui và nỗi lo lắng của con người. Mẹ là Đấng chuyển cầu cho những ai trong hoàn cảnh khốn cùng, lo âu, đau khổ. Mẹ thưa với Chúa về mọi nhu cầu cần thiết của từng người và tình trạng của từng gia đình lên Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi”, nghĩa là gia đình họ đang gặp đau khổ, có nguy cơ tan rã. Đó là tư tưởng mà Kinh Thánh thường dùng để nói lên tình trạng đau khổ của mọi người. Nhưng muốn có rượu ngon phải tuân thủ một điều kiện tiên quyết: “Người bảo gì thì cứ làm theo”. Đó là lời Đức Mẹ nói với những người giúp việc trong tiệc cưới Ca-na. Đó cũng là lời Đức Mẹ nói với nhân loại ở mọi nơi, mọi thời. Đó là điều kiện không thể thiếu để lời chuyển cầu của Đức Mẹ đạt kết quả. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn trong gia đình.
Còn đối với giới trẻ, chưa lập gia đình hay sắp lập gia đình, cần biết: hôn nhân liên hệ đến hạnh phúc cả một cuộc đời, nên cần phải được chuẩn bị cẩn thận. Tạo nên một gia đình, một tổ ấm cho suốt cuộc đời quả thực là một việc hết sức quan trọng và khó khăn. Các bạn đừng bao giờ bồng bột, hấp tấp, vội vàng trong việc hệ trọng này, để rồi khi về với nhau thì: giai đoạn đầu: hai người nhìn nhau mà no. Giai đoạn hai: hai người nhìn nhau mà ngáp. Giai đoạn ba: nhìn chén dĩa bay. Hay cuộc sống gia đình trở thành một bi hài kịch, bi hài kịch của Pát-can, cũng gồm ba giai đoạn: giai đoạn đầu: chàng nói nàng nghe, nàng nói chàng nghe. Giai đoạn hai, chàng nói chàng nghe, nàng nói nàng nghe. Giai đoạn ba: cả hai cùng nói, hàng xóm nghe.
Vậy muốn cho đời sống hôn nhân mai ngày trở nên “dễ thở”, nếu không được là thiên đàng hạ giới, ít là không phải địa ngục trần gian, các bạn phải chuẩn bị cẩn thận và chu đáo. Việc cần thiết trước khi lập gia đình là học hỏi: học hỏi để biết mình và biết người. Hai người xa lạ khác biệt nhau, nhưng rồi sẽ chung sống với nhau, bổ túc cho nhau: hai mà phải nên một: “Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”. Chuẩn bị là đối thoại, là trao đổi ý kiến để đi đến mẫu số chung về cuộc sống mai sau. Chuẩn bị là cầu nguyện, cầu nguyện sóng đôi, để tìm hiểu, để đi dần đến mầu nhiệm hôn nhân của bí tích mà hai người sẽ trao và sẽ nhận trước bàn thờ Chúa.
Chúng ta cầu nguyện cho gia đình chúng ta hôm nay, cho tất cả các gia đình, và cầu nguyện cho nhau.
28. Ý nghĩa phép lạ Cana
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có viếng thăm Nhà Thờ Cana. Nơi đây cách Nagiarét 7km về hướng Bắc. Một vùng nông thôn nằm giữa Nazarét và biển hồ Tibêria, ngày nay gọi là Kefr Kenna. Cana cũng là quê hương của Tông đồ Nathanael (Batôlômêô).
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên tại Cana. Ngài biến nước thành rượu hảo hạng (Ga 2,1-12). Tiệc đang vui vẻ mà rượu gần cạn. Gia đình lo lắng, sợ mất mặt với khách dự tiệc… Mẹ Maria quan tâm đặc biệt. Mẹ ngỏ ý với Chúa: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”. Chúa Giêsu nói với gia nhân: “Hãy đổ nước đầy chum”. Họ đổ tới miệng chum. Và Chúa bảo họ: “Bây giờ hãy múc nước đem cho người quản tiệc”. Nước đã biến thành rượu ngon. Người quản tiệc bỡ ngỡ, thực khách vui mừng.
Chúa Giêsu còn thực hiện một phép lạ khác tại Cana: chữa lành cho con một sĩ quan cận vệ nhà vua (Ga 4,46-54).
Từ chỗ dừng xe, phải leo lên một đoạn dốc cao, hai bên có nhiều quày hàng bán quà lưu niệm vui vẻ mời chào.Chúng tôi thấy một ngôi Thánh đường có hai tháp, biểu tượng cho đôi lứa và một vòm ở giữa tượng trưng sự tận hiến của đơn vị gia đình.
Bên trong Thánh đường, người ta đặt chum rượu của thời Chúa Giêsu một cách cung kính ở ngay Cung Thánh. Những chum đá dưới bàn thờ cũng như ở tầng hầm có từ thế kỷ V. Chum có hình dáng như chum đá tại tiệc cưới Cana ngày xưa. Nơi đây như trình bày đặc ân mà Chúa muốn dành phép lạ đầu tiên để thánh hóa tình yêu lứa đôi và kiện toàn thể chế gia đình bền vững. Có một chum đá to được trưng bày trang trọng cho khách tham quan ngắm nhìn; đây là 1 trong 6 chum đá của phép lạ Cana được các nhà khảo cổ tìm thấy.
Có nhiều đoàn hành hương đã cử hành nghi thức lập lại lời hôn ước cho những cặp vợ chồng tại Nhà thờ Cana. Có những đoàn chọn Cana để kỷ niệm ngày thành hôn. Xin Chúa chúc lành cho hạnh phúc lứa đôi tại nơi này thì thật là ý nghĩa.
Chúng tôi quỳ gối đọc kinh, cầu nguyện cho những người sống đời đôi bạn được hạnh phúc, tín trung.
Phía trước Nhà thờ có nhiều quày bày bán quà lưu niệm. Những chai rượu Cana là quà mừng cho người thân bạn bè được du khách ưa chuộng nhất. Rượu nho sản xuất tại Cana. Ai cũng mua vài chai làm quà tặng quý giá như rượu chính phẩm được Chúa làm phép lạ năm xưa.
- Phép lạ đầu tiên
Theo Tin Mừng Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Có thể là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.
Tại Palestina, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà, mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do Thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày.
Đám cưới Cana này mới đến ngày thứ ba thì đã hết rượu rồi. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Các Rápbi vẫn nói: Không rượu thì không vui. Người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Say rượu là một điều thật xấu hổ, nên họ uống rượu pha, hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều hổ thẹn, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.
Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Chúa Giêsu chia sẻ cho cô dâu chú rể, cho họ hàng đôi bên và mọi người niềm vui của Người mà rượu là biểu tượng như lời Thánh Vịnh 109: “Rượu ngon làm phấn khởi lòng người”. Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng. Chúa Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10). Rượu Chúa Giêsu cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Luật Môsê được thay thế bằng chất lượng Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn mới (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn còn bị thiếu nữa. Có một thứ rượu tuyệt hảo được ban tặng bởi Tân Lang đích thực là Chúa Giêsu. Ơn Cứu Độ chính là niềm vui trọng đại. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.
Trong Tin Mừng Gioan, có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Tin Mừng theo Thánh Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.
Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó. Chẳng hạn:
– Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa tự giới thiệu: “Ta là bánh hằng sống” (Ga 6).
– Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: “Ta là ánh sáng thế gian”(Ga 9).
– Sau khi cho Ladarô sống lại, Chúa tự nhận: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11).
- Ý nghĩa phép lạ Cana
– Phép lạ Cana xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu Ước, để diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa đối với dân Israen, các Ngôn Sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới với dân của Ngài. Thiên Chúa là chú rể. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Giuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà. Chủ đề của bài đọc I là cuộc phục hưng Giêrusalem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “hôn thê” cho dân Ngài. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”. Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mêsia, niềm vui dạt dào như rược tiệc cưới Cana.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu ở tiệc cưới Cana mở màn cho hôn nhân Kitô giáo một kỷ nguyên mới. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới. Chính Chúa Giêsu làm phép cưới, trước sự chứng giám của Mẹ Maria và các Tông Đồ. Bí tích Hôn phối của đạo mới khai nguyên từ đám cưới này. Dựa trên học thuyết của thánh Phaolô trong thư gửi Êphêsô, ca tụng tình yêu chồng vợ cao đẹp như tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Giáo Hội là hiền thê (Ep 5,22-33), Giáo Hội khẳng định “Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa hai người được rửa tội lên hàng bí tích” (Giáo Luật # 1055). Từ nay, hôn nhân có đặc tính là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly; hôn nhân được Chúa chúc phúc và được Giáo Hội chứng nhận.
– Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc. Bữa tiệc là hình ảnh được dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Mêsia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon”. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người ví mình là chú rể, là tân lang. Chúa Giêsu ví giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ. Đọc trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rể lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môsê. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rể thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu Ước thành rượu Tân Ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy Ơn Cứu Độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.
– Tiệc cưới Cana là biểu tượng Tiệc Cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể; bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui Ơn Cứu Độ cho con người.Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh Hằng Sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
- Hãy đến với Mẹ Maria
Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.
Tin Mừng Gioan nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19, 25- 27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẻ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.
Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước Nhan Thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: “Hãy làm mọi điều Chúa bảo…”. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn vơi trong gia đình chúng ta.
29. Chúa Nhật 2 Thường Niên
THIÊN CHÚA CẢM THÔNG VÀ YÊU MẾN
“Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana. Trong đám cưới có Mẹ Maria. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự”. (Lc 2, 1-2)
Phép lạ tại tiệc cưới Cana là phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu làm, khởi đầu cuộc đời hoạt động công khai của Chúa, cũng là vừa để củng cố lòng tin cho các môn đệ, mới vừa gia nhập chỉ mấy hôm thôi. Ở đây, chúng ta thấy một khía cạnh đáng kinh ngạc, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu thế, mà cũng “đi ăn đám cưới, đi dự tiệc như một người trần chúng ta”, một hình ảnh gần gủi và thân thương quá! Điều này: muốn nói lên: Đức Kitô trong bản tính là con người, Người cũng có bản tính là người y như ta; lại rất gắn bó, rất cảm thông với niềm vui và nổi khổ của con người. Hình ảnh việc Chúa đi ăn cưới, rồi lại can thiệp để cứu giúp gia đình nhà đám khỏi xấu hổ vì thiếu rượu, điều đó nói lên cách hùng hồn tình yêu cao cả của Con TC trước khổ đau nhân loại chúng ta. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
- Trước hết có vài từ chúng ta cần lưu ý, và tìm hiểu ý nghĩa cặn kẽ:
- Cana: một làng quê nhỏ bé, cách Nadareth 10cs, quê hương của tông đồ Nathanael.
- Tiệc cưới đối với người Do thái là một dịp vui và bận rộn nhất trong đời họ, vừa nói lên sự quan hệ họ hàng khá lớn. Thường tiệc cưới được tổ chức cả 7 ngày (người tái hôn, cũng phải 3 ngày). Gia đình nhà đám tại Cana là hạng khá giả, nên họ dùng nhiều chum đựng nước cho khách rửa chân khi mới vào. Tất cả là 6 cái, mỗi cái gần 120 lít nước, vị chi gần 2/3 m 3 khối nước. Chúa làm phép lạ cho 700 lít nước thành rượu, thì khách dự tiệc là bao nhiêu mới uống hết rượu đây? Rượu là thức uống đem lại phấn khởi, vui tươi cho con người, nhất là trong đám tiệc, nhất là khi người ta uống điều độ. Chính Chúa Giêsu cũng uống rượu. Một điểm cuối cùng, lời thưa can thiệp của Mẹ Maria: “họ hết rượu rồi”. Câu trả lời của Chúa Giêsu: “thưa Bà” (Imma) là một lời thưa đầy kính trọng, và ở nơi công cộng, hoàn toàn không có gì là coi thường Mẹ mình cả… Cũng chính nhờ lời can thiệp này mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ. Có các nhà chú giải cho rằng: gần như Chúa chờ đợi Mẹ Maria cầu xin Người, để Chúa làm phép lạ; thiết nghĩ điều này không sai, vì Mẹ Maria có vai trò là Đấng Đồng công cứu chuộc với Chúa Cứu thế; hơn nữa, Chúa đợi Mẹ cầu xin, một lời cầu xin mà Chúa rất hài lòng và Chúa không bao giờ từ chối. Vì vậy sự can thiệp của Mẹ ở đây là điều rất chính đáng…
- Tình yêu của Con Thiên Chúa dành cho nhà đám:
Chúng ta thử tưởng tượng gương mặt của chú rể, là chủ đám cưới, anh này sẽ ngạc nhiên và cuối cùng thán phục Chúa biết bao, khi hiểu ra vì thương gia đình anh mà đã làm phép cho nước lã hóa thành rượu. Rõ ràng chúng ta thấy Chúa Giêsu vì yêu mến và kính trọng gia đình này, nên đã đến đây dự tiệc cưới; rồi chúng ta lại thấy Chúa cảm thông và sẵn sàng chia sẻ với con người chúng ta bất cứ lúc nào qua việc biến nước thành rượu, để giữ lại sĩ diện nhà đám nữa. Như vậy, Người đã cư xử hết sức là con người, vì Chúa cũng thật sự mang bản tính con người y như ta.
- Gợi ý sống và chia sẻ:
* Chúa Giêsu tuy là Chúa, cũng là người như ta, trong bản tính con người, nên người có thể cảm thông, chia sẻ, yêu thương chúng ta. Có điều chúng ta có thực sự tin cách mãnh liệt rằng: Thiên Chúa yêu ta không?
* Mẹ Maria đã xin Chúa: “họ hết rượu rồi”; tuy Chúa trả lời: “giờ Con chưa đến”. Đó không phải là lời từ chối, vì Đức Mẹ vẫn tin vào Con Chí thánh của mình. Câu nói của Chúa chính là: giờ của Con chưa đến, nhưng vì Mẹ đã xin nên Con sẵn sàng làm theo Ý của Mẹ. Mẹ rất tin cậy nơi Chúa Giêsu. Phần ta, ta có tin và luôn trông cậy vào Chúa như Mẹ Maria không?
30. Biến đổi kỳ diệu
Câu chuyện hoá nước thành rượu ngon có thể nói là câu chuyện đẹp nhất trong những trang Tin mừng theo thánh Gioan. Hình ảnh Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ Chúa đến tham dự tiệc cưới Cana cùng với mọi người thân thích nơi đây làm thành một bức tranh tuyệt đẹp về sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người. Chúa Giêsu đi vào cuộc sống của con người một cách rất bình dị và thật gần gũi. Ngài vui với niềm vui của kẻ khác. Ngài sẵn lòng chia sẻ với họ những khó khăn trong đời sống. Đúng như những gì Ngài đã nói: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.
Người ta vẫn thường quen trích dẫn câu chuyện Chúa Giêsu biến nước thành rượu để cho thấy vai trò bầu cử của Đức Mẹ Maria trước mặt Thiên Chúa có hiệu quả như thế nào! Thật ra câu chuyện này không hề mang ý nghĩa đó. Chúa Giêsu đến trong trần gian này là để thực thị sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha. Những lời Ngài rao giảng, những phép lạ Chúa làm đều được thực hiện dưới sự hướng dẫn và hoàn toàn theo Thánh ý của Chúa Cha muốn. Ngài không bao giờ để cho ai ngoài Thiên Chúa Cha có thể tác động trên những lời nói và việc làm của Ngài dù người đó là Mẹ Maria đi nữa! Có thể chúng ta vẫn quen hiểu rằng: kết quả của việc Chúa Giêsu biến nước thành rượu là nhờ lời thỉnh cầu của Mẹ Maria. Thật ra không phải thế. Câu trả lời xem ra có vẻ lạnh nhạt của Chúa Giêsu với Mẹ Maria đã nói lên điều đó: “Này Bà, Tôi với Bà có can chi đâu? Giờ Tôi chưa đến”. Câu nói này không phải bao giờ là sự bất hiếu của Chúa Giêsu với Mẹ Ngài. Nhưng câu nói ấy cho thấy rằng: hành động Chúa Giêsu đã, đang và sẽ làm không bao giờ bị trói buộc bởi lời cầu xin của con người.
Cũng có lẽ chúng ta suy nghĩ trong lòng rằng: Chúa Giêsu là người “ngôn hành bất nhất”, nói khác mà làm thì khác. Bởi vì xem ra Chúa không nhận lời Đức Mẹ xin, nhưng sau đó thì lại làm theo. Không phải Chúa Giêsu hối hận trong lời nói rồi thi hành phép lạ để Mẹ Ngài vui lòng! Không. Ngài làm phép lạ hoá nước thành rượu ngon này là do sáng kiến của Ngài, hay nói đúng hơn là Ngài thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa Cha. Phép lạ này chắc chắn làm cho mọi người có mặt trong tiệc cưới ở Cana nói chung và Đức Mẹ nói riêng rất vui và rất hài lòng nhưng cần nói lại một lần nữa: phép lạ ấy không phải nhờ vào lời bầu cử của Đức Mẹ mà có. Tuy nhiên, chúng ta không phủ nhận lời cầu xin của Đức Mẹ, cũng không có ý nói rằng: lời nói của Đức Mẹ là dư thừa trước mặt Thiên Chúa. Không phải thế! Lời bầu cữ của Mẹ rất có thế giá trước mặt Thiên Chúa nhưng không phải là lúc này và không phải trong trường hợp này.
Giờ đây, chúng ta hãy tìm hiểu xem đâu là ý nghĩa đích thực của phép lạ biến nước thành rượu ngon này?
Chúa Giêsu đã nói: “Giờ tôi chưa đến”. Dù vậy, Ngài vẫn thực hiện phép lạ đầu tiên này tại tiệc cưới Cana nhằm tỏ bày vinh quang Thiên Chúa nơi Ngài, đồng thời cũng cho các môn đệ của Ngài nhìn thấy và tin vào Ngài. Phép lạ xảy ra là do lòng tin nhưng phép lạ cũng nhằm cũng cố niềm tin nơi con người.
Qua phép lạ này, chúng ta cũng thấy được rằng: Chúa Giêsu đã đi vào cuộc sống của con người với tấm lòng của người cha, người mẹ và Ngài đã làm cho cuộc sống thêm hương vị đậm đà của tình thươn, thêm vị nồng nàn của sự thánh thiện.
Cuộc sống của chúng ta nếu không có Chúa thì sẽ nhạt nhẽo lắm, sánh ví như nước lã vậy. Trong tiệc cưới Cana hôm ấy, nếu không có Chúa hiện diện thì nó sẽ nhạt nhẽo biết là dường nào! Chủ nhà tiệc sẽ phải xấu hổ lắm trước mặt quan khách, vì chỉ có nước lạnh mà không có rượu nồng. Nhưng may thay, Chúa Giêsu đã hiện diện và Ngài đã “cứu một bàn thua trông thấy” cho chủ tiệc cưới. Chúa đã đem đến niềm vui trọn vẹn cho con người.
Cũng vậy, mọi công việc chúng ta làm nếu không có Chúa thì cũng sẽ nhạt nhẽo lắm. ý nghĩa của nó chắc chắn sẽ không bao giờ trọn vẹn được. Chính Chúa sẽ mặc cho những công việc làm của chúng ta ý nghĩa tốt đẹp trọn vẹn của nó. Công việc của Cha Damien khi chăm sóc người cùi, công việc qui tụ những người nghèo cùng cực của Mẹ Têrêsa sẽ trở nên nhàm chán và ghê sợ nếu Cha Damien và Mẹ Têrêsa không được Chúa nâng đỡ và chúc phúc. Chính vì nhận thấy Chúa Giêsu hiện diện trong những con người đáng thương ấy mà những chiến sĩ của Chúa đã dấn thân đến quên mình.
Đời sống gia đình có thể sẽ trở thành nặng nề và nhàm chán lắm nếu gia đình ấy không có Chúa ở cùng để chúc phúc cho họ. Gia đình có Chúa là gia đình có mái che! Chính Chúa sẽ làm cho hạnh phúc nơi gia đình mãi thêm nồng nàn, mặn mà và mạnh mẽ. Chính Chúa sẽ chở che và ban phúc cho những gia đình nào biết chọn Chúa làm gia nghiệp và làm chủ của mình.
Lạy Chúa, Chúa thật là nguồn sống và niềm hy vọng vững chắc cho chúng con. Amen.
31. Chúa Nhật 2 Thường Niên
HỄ NGƯỜI BẢO GÌ, THÌ PHẢI LÀM THEO
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta từng bước dõi theo những ngày đầu (sứ vụ công khai) của Chúa Giêsu. Sau khi chịu phép rửa xong, Gioan Tiền Hô giới thiệu cho mọi người biết Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”; tiếp đến có ba môn đệ là: Anrê, Phêrô và Philipphê đã bỏ tất cả mọi sự mà đi theo người; thầy có trò, tất cả cùng được mời đi dự tiệc cưới, chính tại Cana phép lạ đầu tiên xảy ra, khiến nước hóa thành rượu, nhờ sự can thiệp của Rất Thánh Trinh Nữ Maria (x. Ga 2, 1-12).
Câu hỏi được đặt ra, đâu là ý nghĩa của Rượu được Chúa Giêsu biến thành từ nước? Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới hàm chứa điều gì?
Theo Thánh Maximus, Giám mục thành Turin thì Rượu mà Đức Giêsu hóa thành từ nước, chính là Rượu mới của niềm vui đích thực. Bởi Vị Thiên Chúa theo Phúc Âm mô tả đã được mời đến dự tiệc cưới. Như thế, Con Thiên Chúa đã đi ăn cưới, và với sự hiện diện của mình, Người đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành Rượu. Người đã đến dự đám cưới theo luật cũ, để chọn trong dân ngoại một hiền thê tinh tuyền. Người không sinh ra từ cuộc hôn nhân của loài người như Kinh Tin Kính chúng ta đọc: “Được sinh ra mà không phải được tạo thành”. Người đến đám cưới, không phải đến để ăn một bữa tiệc cho vui như bao nhiêu bữa tiệc khác. Người đến để mạc khải một sự diệu kỳ, đầy ngưỡng mộ. Người đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho gia nhân rượu ngon nồng. Và khi mọi thực khách đang dự tiệc, bỗng thiếu rượu, Đức Maria, Mẹ Người đã nói với Người: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3). Chúa Giêsu, dường như trả lời với vẻ không vui cho lắm: “Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu” (Ga 2, 4)… khi trả lời: “Giờ Con chưa đến” (Ga 2, 4), chắc chắn đây là lúc Người loan báo giờ vinh quang của Người nơi cuộc Thương Khó, hoặc chính máu Người là rượu đổ ra để trao ban sự sống, và ơn cứu độ cho nhiều người. Mẹ Maria xin một đặc ân hiện tại, Con Mẹ lại chuẩn bị trao ban niềm vui muôn thủa trong tương lai. Tuy nhiên, Thiên Chúa nhân lành đã không ngần ngại trao ban những điều nhỏ mọn cho con người, trong khi chờ đợi những điều lớn xảy đến.
Đức Maria, người mẹ diễm phúc, vì Mẹ là Mẹ thật của Con Thiên Chúa, nên Mẹ đã biết trước ý định của Con Mẹ, và thấy trước được điều gì sẽ xảy đến. Đó là lý do tại sao sau khi Mẹ yêu cầu Con Mẹ, kể cả khi nhận được câu trả lời: “Con với bà có can chi đâu” (Ga 2, 4); Mẹ vẫn căn dặn những gia nhân quản tiệc cưới hãy làm bất cứ điều gì Con Mẹ yêu cầu: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” (Ga 2, 5). Chắc chắn Mẹ biết rằng lời chỉ trích của Con Mẹ và Mẹ thấy Con Mẹ, một Vì Thiên Chúa đã không giấu được sự bất bình của thân phận làm người giận dữ nhưng chứa đựng một mầu nhiệm của lòng từ bi cao cả … Vì tiếp theo là nước trong chum bỗng nhiên bắt đầu nhận được sức thánh hóa để có thể chuyển màu sắc, lan tỏa hương vị của một thứ rượu ngon lành, và cùng một lúc thay đổi hoàn toàn bản chất của nó, nước đã hóa thành rượu. Và việc chuyển đổi nước thành một chất khác cho thấy sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa, quyền năng, bởi không ai, ngoại trừ người tạo ra từ không có gì ra nước, có thể chuyển đổi nước thành một cái gì đó khác tức là rượu.
Chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria kiên nhẫn, cậy trông, cầu nguyện và quan tâm đến người khác. Chúa Kitô đã làm phép lạ biến nước thành rượu ở Cana chính vì Đức Trinh Nữ Maria là một người rất quan tâm đến mọi người. Trong đám cưới, Mẹ phải để ý lắm mới phát hiện ra sự tế nhị trầm trọng này. Nhưng Mẹ không chỉ thấy rồi để trong lòng, mà vì tính ân cần chu đáo sẵn có nơi Mẹ, Mẹ đã trao những lo lắng của mình vào tay Chúa Giêsu, Con Mẹ, và đã hành động một cách hợp lý. Mẹ lo lắng cho nhu cầu của đôi tân hôn, quan tâm đến người khác, chứ không đóng kín vào chính mình.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: Ngày nay chúng ta có thể thấy rất nhiều hoàn cảnh hết “rượu” là dấu chỉ của sự vơi cạn “hạnh phúc, tình yêu, và sự phong phú”. Ngài đặt câu hỏi: “Có bao nhiêu người trẻ trong chúng ta cảm thấy không còn tìm được những điều ấy trong nhà mình? Có bao nhiêu phụ nữ buồn chán và cô đơn tự hỏi khi nào tình yêu sẽ ra đi, sẽ rời bỏ cuộc sống của mình? Có bao nhiêu người già cảm thấy bị gạt sang một bên, đứng ngoài các ngày vui của gia đình, và hằng ngày khao khát chút tình yêu?”(Trích Bài giảng 06/7/15 tại Los Samanes, Guayaquil, Ecuador).
Đức Maria giải quyết việc thiếu rượu bằng cách tin tưởng đến với Chúa Giêsu, và cầu nguyện. Mẹ dạy chúng ta phải đặt gia đình vào tay Chúa, phải cầu nguyện, phải khơi dậy niềm cậy trông để thấy rằng lo lắng của tha nhân cũng là lo lắng của ta, và lo lắng của ta cũng là lo lắng của Chúa. Cầu nguyện luôn nâng chúng ta, giúp chúng ta thoát khỏi những lo lắng của mình. Cuối cùng Đức Mẹ đã hành động. Lời Mẹ nói với các người giúp việc “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” cũng là lời mời gọi chúng ta mở lòng mình cho Chúa Giêsu, “Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (Mc 10, 45).
Với đức tin sống động, tinh tuyền và kiên vững, Đức Maria chỉ cho chúng ta nguồn gốc của một trong những dấu chỉ, và thực tại của nó mà chúng ta sẽ được tham dự trong tương lai, nếu chúng ta làm tất cả những gì Chúa Giêsu, Đấng là Tình Yêu Vĩnh Cửu (biểu tượng của rượu) dạy bảo.
Tại Cana, Mẹ Maria đã hiện diện và can thiệp vào tiệc cưới. Vào giờ trên Thánh Giá; giờ Chúa Giêsu cử hành tiệc cưới với Giáo hội; Mẹ Maria cũng ở đó. Giờ đây Mẹ vẫn hiện diện để giúp đỡ con cái mình sống tinh thần yêu thương và phục vụ tha nhân như Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con yêu mến Chúa Giêsu, Vị Hôn Phu của Giáo hội mãi mãi và yêu mến Giáo hội, Hiền thê của Chúa Giêsu, và thực thi bác ái với hết mọi chi thể của Chúa Kitô. Amen.
32. Chúa Nhật 2 Thường Niên
NOI GƯƠNG ĐỨC MẸ VỮNG TIN VÀO CHÚA
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tin Mừng thánh Gioan thuật lại tiệc cưới tại Cana diễn ra vào “ngày thứ ba”, nghĩa là sau khi Chúa Giêsu thu nhận các môn đệ xong, cả thầy lẫn trò cùng nhau dự tiệc cưới: “Ba ngày sau, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới” (Ga 2,1-2).
Ít nhiều, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tiệc cưới. Không phải tiệc cưới của mình, người thân gia đình, thì tiệc cưới của người khác! Nhất là của những người thân quen hay bè bạn, mà chúng ta được mời tới dự. Nên chúng ta dễ dàng hình dung ra cảnh tiệc cưới.
Nhìn vào đám cưới tại Cana trong Tin Mừng hôm nay, ngẫm về những tác động hữu ích do sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Maria, Mẹ Người, trong các hoạt động đời thường của con người chúng ta. Chúa Giêsu và Đức Maria, với địa vị khác nhau, mang theo sự hiện diện của Thiên Chúa mọi lúc mọi nơi. Chúa là chân, thiện, mỹ, Ngài ở đâu, thì có tình yêu, ân sủng và phép lạ ở đó. Như mặt trời chiếu tỏa ánh hào quang, trái đất được có ánh nắng sưởi ấm, vận vật cỏ cây sẽ đơm hoa kết trái. Đồng nghĩa với việc, khi chúng ta để cho Thiên Chúa đến gần chúng ta, sự tốt lành, bình an và hạnh phúc của Thiên Chúa sẽ lớn lên trong chúng ta.
Phương tiện mà Thiên Chúa chọn để hiện diện giữa loài người và tiếp xúc với loài người là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa. Công việc của Thiên Chúa ở giữa thế gian là bản tính con người của Chúa Giêsu và sự hiện diện của Đức Maria. Cô dâu và chú rể tại Cana đã không nghi ngờ gì khi mời Chúa Giêsu và Đức Maria đến dự cưới! Lời mời này có lẽ là do tình thân huyết tộc nào đó.
Chúa Giêsu đã nhận lời mời đến dự tự cưới, vì Chúa ủng hộ mối quan hệ con rất tình người và chân thành của họ. Tính trung thực và tốt lành của gia đình này đã lôi cuốn Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu đã làm cho Thiên Chúa hiện diện trong ngày cưới của họ. “Đây là phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người” (Ga 2,11). Chính tại Cana xứ Galilêa, Chúa Giêsu đã bắt đầu thực hiện các phép lạ phi thường của mình, và ở đó, Đấng Thiên Sai đã mở rộng tâm hồn các môn đệ và thông ban cho họ ơn đức tin qua sự can thiệp từ mẫu của Đức Maria, người tín hữu đầu tiên.
Và nếu Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã đi ăn cưới, và với sự hiện diện của mình, Người đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành rượu. Người đến đám cưới, không phải đến để ăn một bữa tiệc cho vui như bao nhiêu bữa tiệc khác. Người đến để mạc khải một sự diệu kỳ, đầy ngưỡng mộ. Người đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho gia nhân rượu ngon nồng. Thì sự hiện diện của Đức Maria và của các môn đệ Chúa Giêsu cũng hết sức đặc biệt. Trong tiệc cưới, Đức Maria đã hiện diện không như khách, nhưng như thành viên đóng góp vào biến cố niềm vui. Vì thế Mẹ biết rõ tình trạng thiếu rượu. Hết rượu là mất vui, là đụng chạm đến ý nghĩa của đám cưới. Vì rượu không chỉ cần cho bữa tiệc, nhưng còn tượng trưng cho niềm vui gặp gỡ. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi!” (Ga 2,3) Trước sự cố này, Đức Giêsu có vẻ không vui khi nói: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” (Ga 2,4).
Tuy vậy, Mẹ vẫn tin tưởng vào Con Mẹ. Giờ của chưa tới, nhưng Mẹ tin rằng, Người có thể “chỉnh giờ” lại. Quả thực, Chúa Giêsu đã hành động: vừa đáp lại lời cầu bầu của Đức Maria để cứu bữa tiệc, vừa mở rộng ý nghĩa của hành động này. Sáu chum nước lớn, vốn dùng để thanh tẩy theo Luật cũ và đức công chính cũ, Người đã làm cho trở nên viên mãn khi hóa nước thành rượu, tượng trưng cho ơn tha thứ, hòa giải và niềm vui, cho đức công chính của Đức Giêsu, mà Thiên Chúa trao ban nhưng không cho loài người và cho mỗi người chúng ta.
Hình ảnh nước biến thành rượu do quyền năng của Chúa Giêsu và sự can thiệp của Đức Maria rất phù hợp với con người và cuộc đời của chúng ta. Hình ảnh “đổ đầy tới miệng” diễn tả sự trọn vẹn và dư tràn. Thực vậy, trong đời ta, trên hành trình theo Chúa trong ơn gọi, có thể có niềm vui đứt đoạn; hành trình nhạt nhẽo: xin Mẹ để ý nhìn xem, quan tâm nâng đỡ phù hộ, và xin Chúa ban niềm vui làm cho thơm ngon như rượu mới tại tiệc cưới Cana.
“Người bảo gì các anh cứ làm theo” (Ga 2,5). Đây là lời nói cuối cùng của Đức Maria, không chỉ dành cho những người phục vụ tiệc cưới, nhưng còn cho người môn đệ Chúa Giêsu, nam cũng như nữ, thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay. Hãy tin tưởng vào quyền năng trong mọi biến cố cuộc đời. Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, hãy đặt hết tất cả lòng tin vào Chúa, phó thác cuộc đời chúng ta cho Ngài, như lời Đức Mẹ khuyên: “Hễ người bảo gì thì hãy làm theo” (Ga 2,5). Nước kia lên rượu thơm nồng, ngất ngây trong tiệc cưới tưng bừng. Lời Mẹ dạy dỗ mãi khắc ghi. Nguyện Mẹ dìu dắt mỗi bước đi. Thiên ý xa vời, Mẹ hỡi hãy luôn phù trì.
Thứ hai thì ngắm, Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Canna, ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Amen.
33. Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cùng với Chúa Giêsu sống những ngày (đầu sứ vụ công khai). Thánh Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người biết: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian” (Phụng vụ Năm A); tiếp đến có ba môn đệ là: Anrê, Phêrô và Philipphê đã bỏ tất cả mọi sự mà đi theo người (Phụng vụ Năm B); có đồ đệ, thầy trò Đức Giêsu đi dự tiệc cưới, tại đây phép lạ đầu tiên xảy ra tại tiệc cưới Cana, khiến nước hóa thành rượu, nhờ sự can thiệp của Rất Thánh Trinh Nữ Maria, (Phụng vụ Năm C). Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, với đức tin sống động, tinh tuyền và kiên vững, chỉ cho chúng ta nguồn gốc của một trong những dấu chỉ, và thực tại của nó, mà chúng ta sẽ được tham dự trong tương lai, nếu chúng ta làm “tất cả những gì Chúa Giêsu, Đấng là Tình Yêu Vĩnh Cửu (biểu tượng của rượu) dạy bảo. Lời dẫn vào Thánh lễ: “Lạy Chúa, toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh, Lạy Chúa Trời cao cả” (Lời nhập lễ). (“Hãy ca ngợi Chúa bằng một khúc ca mới, hỡi hoàn vũ, hãy ca ngợi Chúa, hãy ca ngợi Chúa, tôn vinh danh thánh Người”.) (Tv. 95)
Theo Thánh Maximus, Giám mục thành Turin thì Rượu mà Đức Giêsu hóa từ nước thành, chính là Rượu mới của niềm vui đích thực.
Bởi Vị Thiên Chúa theo Phúc Âm mô tả đã được mời đến dự tiệc cưới. Như thế, Con Thiên Chúa đã đi dự tiệc cưới, và bằng sự hiện diện của mình, Ngài đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành Rượu. Ngài đã đến dự đám cưới, theo luật cũ, để chọn trong dân ngoại một người vợ sẽ luôn luôn giữ mình đồng trinh. Ngài không sinh ra từ cuộc hôn nhân của loài người như Kinh Tin Kính chúng ta đọc: “Được sinh ra mà không phải được tạo thành”. Ngài đi đến đám cưới, không phải để tham dự một bữa tiệc vui vẻ như bao nhiêu bữa tiệc. Ngài đến để mạc khải một điều kỳ diệu thực sự, hết sức đáng ngưỡng mộ. Ngài đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho rượu ngon nồng. Và khi mọi thực khách đang dự tiệc, bỗng thiếu rượu, Đức Maria, Mẹ Ngài đã nói với Ngài: “Họ hết rượu rồi.” Chúa Giêsu, dường như trả lời với vẻ không vui cho lắm: “Hỡi bà, bà muốn tôi điều gì? “… khi trả lời: “Giờ của con chưa đến”, chắc chắn đây là lúc Ngài loan báo giờ vinh quang của Ngài nơi cuộc Thương Khó, hoặc chính máu Ngài là rượu đổ ra để trao ban sự sống, và ơn cứu độ cho nhiều người. Mẹ Marie xin một đặc ân hiện tại, còn Chúa Giêsu, Ngài lại chuẩn bị trao ban niềm vui muôn thủa trong tương lai. Tuy nhiên, Thiên Chúa nhân lành đã không ngần ngại trao ban những điều nhỏ mọn cho con người, trong khi chờ đợi những điều lớn xảy đến.
Đức Maria, người mẹ diễm phúc, vì Mẹ là Mẹ thật của ConThiên Chúa, nên Mẹ đã biết trước ý định của Con Mẹ, và thấy trước được điều gì sẽ xảy đến. Đó là lý do tại sao sau khi Mẹ yêu cầu Đức Giêsu, Con Mẹ, Mẹ nhận được câu trả lời: “Việc đó có liên quan gì đến bà và tôi”; Mẹ vẫn căn dặn những gia nhân quản tiệc cưới hãy làm bất cứ điều gì Con Mẹ yêu cầu: “Người bảo sao cứ làm như vậy”. Người mẹ thiêng liêng của Chúa Giêsu chắc chắn biết rằng lời chỉ trích của Con Mẹ và Mẹ thấy Con Mẹ, một Vì Thiên Chúa đã không giấu được sự bất bình của một người đàn ông giận dữ nhưng chứa đựng một mầu nhiệm của lòng từ bi cao cả… Vì tiếp theo là nước trong chum bỗng nhiên bắt đầu nhận được sức thánh hóa để có thể chuyển màu sắc, lan tỏa hương vị của một thứ rượu ngon lành, và cùng một lúc thay đổi hoàn toàn bản chất của nó, nước đã hóa thành rượu. Và việc chuyển đổi nước thành một chất khác cho thấy sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa, quyền năng, bởi không ai, ngoại trừ người tạo ra từ không có gì ra nước, có thể chuyển đổi nước thành một cái gì đó khác tức là rượu.
Chúng ta đang tiếp tục hành trình sống của mình trong Năm Đức Tin, tưởng cũng nên nhắc lại Mầu nhiệm Năm Sự Sáng: Thứ Hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu làm phép tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Như vậy là Chúa nhật này, chúng ta xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa, tức là xin ơn Đức Tin.
Thật vậy, khi chiêm ngắm tiệc cưới Cana, nước hóa thánh rượu, loan báo hồng ân mà Chúa Giêsu thực hiện ngay trong Bí tích Thánh Thể và ghi nhớ giờ hiến dâng trên cây Thánh Giá, giờ Chúa trao ban chính thịt máu mình làm của nuôi nhân loại.
Tại Cana, Mẹ Maria đã hiện diện và can thiệp vào trong tiệc cưới. Vào giờ trên Thánh Giá; giờ Chúa Giêsu cử hành tiệc cưới với Giáo hội; Mẹ Maria cũng ở đây trong lúc chúng ta cầu nguyện; Giờ phút này đây, Mẹ cũng hiện diện để giúp đỡ chúng ta sống ơn gọi làm người, dâng hiến đời sống chúng ta hầu mưu ích cho tha nhân.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta xin Mẹ dạy ta học yêu mến Chúa Giêsu, Vị Hôn Phu của Giáo hội mãi mãi và yêu mến Giáo hội, Hiền thê của Chúa Giêsu.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, chúng ta cầu xin Chúa cho chính chúng ta biết để ý đến nhu cầu của anh em; đồng thời cùng nhau thành tâm cầu nguyện cho tất cả mọi người nam cũng như nữ, những người phục vụ Tin Mừng biết sống khiêm nhường phục vụ trong đời sống hàng ngày; và nhất là cầu cho những ai có trái tim khép kín biết mở ra với tha nhân.
34. Chúa Nhật 2 Thường Niên
NGÀI XỨC DẦU CHO TÔI, SAI TÔI ĐI…
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tiếp tục sứ vụ công khai của mình là đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành những người ốm đau bệnh tật, xua trừ ma quỉ, kêu gọi người ta hoán cải, hoàn tất lời các tiên tri đã loan báo: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 21).
Sau khi tỏ mình ra dần dần bằng các phép lạ tại Cana (x. Ga 2,1-12), Galilêa và Giêrusalem (Ga 2, 23). Chúa chọn thêm một số môn đệ, rồi cùng với các ông trở về Capharnaum, Người bắt đầu giảng dạy tại đây. Ngày Sabát đầu tiên Chúa vào hội đường Nagiarét đọc sách và giảng dạy ở đó, khiến mọi người chăm chú lắng nghe và không ngớt lời ca tụng (Lc 1, 1-4).
Được Chúa Cha xức Dầu và sai đi…
Lời của ngôn sứ Isaia được Chúa Giêsu công bố trong hội đường áp dụng vào chính bản thân mình:”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hôn sám hối… trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng” (Lc 4, 14-18). Như thế, Chúa Giêsu loan báo thời lưu đày của dân Israel tại Babylon sẽ chấm dứt, khởi đầu một thời kỳ hoàn toàn mới, thời Đấng Cứu Thế xuất hiện, thời Đấng Messia là chính Người.
Nghe có vẻ đơn sơ, nhưng thật trang trọng, những lời tiên tri ấy áp dụng vào Chúa Giêsu một cách rất tự nhiên: “Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 21). Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng thương xót của Chúa Cha, được Chúa Cha xức Dầu và sai xuống trần gian để thể hiện lòng xót thương qua việc giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa con người trở về với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Giêsu nhằm mang hạnh phúc, niềm vui, sự sống và tình yêu của Thiên Chúa đến cho loài người. Sứ vụ của Chúa Giêsu là sứ vụ thần linh, thần linh hoá nhân loại, cho nhân loại được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, được trở nên con cái của Thiên Chúa trong Thần Khí. Người không được sai đến với những ai tự phụ, tự mãn, cho rằng mình đã đầy đủ, nhưng là đến với những người thấy mình là phận nhỏ, thiếu thốn trăm bề, cả hồn lẫn xác. Cuộc lưu đày ở Babylon, rồi được trả tự do, cho hồi hương của Dân Chúa là một dấu chỉ, một hình ảnh tượng trưng nói lên ý định lớn lao của Thiên Chúa là cứu độ và giải thoát con người khỏi ách tù đày nô lệ tội lỗi và sự chết.
Như thế, khi áp dụng những lời sấm của tiên tri Isaia vào bản thân mình, Chúa Giêsu tự mô tả về con người và sứ mạng của mình, bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng rất uy nghi, đến nỗi dân chúng nín thở, hồi hộp, lắng nghe. Thánh Luca nói: “Mọi người trong Hội đường đều chăm chú nhìn Người”(Lc 4, 20). Cung cách dạy dỗ của người hoàn toàn khác với các thầy dạy luật mà họ đã quen bấy lâu nay. Đúng là một Tin mừng làm nức lòng họ, đem đến cả một bầu trời hy vọng và tự do.
Giáo hội được Chúa sai đi
Nếu như Chúa Giêsu được Chúa Cha xức Dầu hoan Thánh Thần, sai đi vào dòng đời để cứu vớt những kẻ cơ hàn, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho biết bao con người, khai mở năm hồng ân để thi ân giáng phúc cho nhân loại, thì đến lượt mình, Người cũng trao lại sứ mạng đó cho Giáo hội: “Như cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em” (Ga 20,21). Giáo hội cũng được xức dầu như Chúa Kitô và được sai đi. Người cũng ban tràn đầy Thánh Thần cho Giáo hội: “Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mạng Giáo hội, là Chúa Giêsu nối dài, tiếp nối mầu nhiệm nhập thể và sứ vụ của Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Ngày hôm nay, chúng ta, những người đã chịu phép Rửa tội và đã được xức Dầu, Giáo hội muốn chúng ta trung thành sống và thực hành giáo huần của Chúa. Đây là dịp tốt để mỗi người cùng với Chúa Giêsu lặp lại những lời của tiên tri Isaia được công bố trong Phúc Âm như sau: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi…” (Lc 4, 18).
Người Kitô hữu được truyền phải sống Lời Chúa
Như thế, chúng ta được xức Dầu khi chịu Phép Rửa tội và Phép Thêm Sức, được “thánh hiến” cho Thiên Chúa và được sai đi loan báo Tin Mừng. Sống đạo là bước theo Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trên con đường yêu thương hiếu thảo đối với Chúa Cha, con đường yêu thương tự hiến cho tha nhân, con đường trở nên hoàn hảo trong tình yêu. Rập khuôn thầy Giêsu, điều đó chúng ta không làm nổi, nhưng với khả năng Chúa ban, chúng ta đủ sức thực thi những việc tha nhân đang cần bằng tất cả đời sống.
Lời Chúa hôm nay rất thiết thực đối với mỗi người. Vậy:
– Hãy là đôi chân cho người già yếu, giúp họ đến nhà thờ, đi thăm bà con.
– Hãy là đôi tai cho những bạn trẻ đang mong bạn lắng nghe những nỗi lòng của họ.
– Hãy là tin mừng cho người đang u sầu bằng những lời chia sẻ ủi an, khích lệ khôn ngoan.
– Và hãy đem ánh sáng cho những ai đang lầm đường lạc lối, bằng sự hướng dẫn ân cần đầy thương yêu.
Với ước mong những người xấu số thiệt phận được chúng ta yêu thương, nhất là liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống đời bác ái yêu thương họ là chúng ta thi hành sứ mạng người kitô hữu của mình, những người được xức Dầu. Có thế, đời sống Đạo của chúng ta mới có ý nghĩa. Amen.
35. Gia đình có Mẹ
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Trời có lúc mưa lúc nắng, lúc trong lúc mờ. Đời có lúc thăng lúc trầm, lúc buồn lúc vui. Tình có lúc nồng lúc nhạt, lúc thắm lúc phai.
Nghe sao có vẻ cải lương quá! Ấy thế mà tính chất cải lương kia lại cứ xuất hiện trong cuộc sống con người, nhất là trong cuộc đời hôn nhân. Không hiểu sao người ta hay ngâm nga: “Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở. Đời mất vui khi đã vẹn câu thề.” Phải chăng bắt đầu thề ước là bắt đầu xót xa? Ngày lên xe hoa thì cũng chính là ngày ra chiến trận? Mà trong trận chiến này, nếu không khéo, có ngày sẽ bị thương vong.
Đám cưới tại làng Cana mới bắt đầu mà đã có chuyện. Tiệc chưa tàn nhưng rượu lại hết. Nguy quá! Thế thì còn đâu mặt mũi tân gia. Không chừng cô dâu chú rể sẽ phải lục đục với nhau vì nhà anh đã không khéo chuẩn bị, còn nhà em thì cứ mời cho đông vào mà không cho biết trước. Không chừng vết thương trong ngày thành hôn sẽ để lại cơn đau khó tàn cho đôi uyên ương.
Thiếu rượu thì mất vui. Đám cưới mà không vui thì có hơn gì đám ma. Với lại truyền thống xưa nay của dân tộc là “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi.” Vậy mà khi khách chưa say, chất cay đã cạn. Bao nhiêu choé rượu sắm sẵn đều hết sạch. Bẽ mặt mất thôi! Chắc hẳn gia chủ lẫn tân lang và tân nương đang trải qua một phen bối rối, hốt hoảng ghê lắm. Biết tìm đâu ra rượu bây giờ?
Thấy được tình cảnh oái oăm của tân gia, Mẹ Maria đến gặp Con mình và nói: “Họ hết rượu rồi.” Đây là lời cầu cứu hay câu mẹ trách con vì đã đem theo mấy ông môn đệ nên mới làm cho người ta hết rượu? Nhưng nếu là câu trách thì tại sao Mẹ lại bảo các người hầu: “Ngài có bảo gì, hãy làm theo”? Câu này hàm chứa một cái nhìn tiên tri là Chúa Giêsu sẽ ra tay để làm một điều gì đó.
Chắc rằng trong suốt 30 năm sống bên Đức Giêsu, Mẹ đã thấy rõ quyền năng và tình nhân ái bao la của con mình đối với những kẻ sa cơ hoạn nạn. Thế nên hôm nay, khi thấy gia đình tân hôn bị rơi vào trường hợp éo le nan giải, Mẹ đã tìm đến với Chúa để xin Ngài ra tay. Nhưng, có một vấn đề khác: nếu như trước đó Đức Giêsu đã từng cứu giúp những người khốn khó thì tại sao vị Thánh Sử lại bảo đây là “dấu lạ đầu tiên”?
Theo văn mạch của Thánh Gioan thì đó là phép lạ đầu tiên mà “Chúa Giêsu đã làm tại Cana xứ Galilê.” Thế ra, có thể Ngài đã từng làm dấu lạ ở nơi khác, ví dụ như tại Nazaret, nhưng tại Cana thì đó là lần đầu. Ngoài ra Thánh sử Gioan cũng nhấn mạnh trong câu kết luận rằng Chúa Giêsu đã làm dấu lạ này “để tỏ vinh quang của Ngài cho các môn đệ,” những người vừa mới đáp trả lời mời gọi bước theo Ngài được mấy hôm.
Như vậy trước đó, có thể Đức Giêsu đã từng làm dấu lạ, không phải để tỏ vinh quang, nhưng chắc là âm thầm và qua tay Mẹ Maria. Phải chăng Chúa Giêsu đã từng nhờ Đức Mẹ làm trung gian để đem cái này, chuyển cái kia cho những người cùng khốn gian nan, nên Mẹ biết rõ quyền năng và tình thương của Chúa mà chạy đến cầu cứu? Phải chăng, dù là mẹ, Đức Maria vẫn từng làm theo ý Con, và đã thấy người ta nhận được biết bao ân phúc phi thường.
Cho nên trong giờ phút cam go của gia đình có đám, Mẹ đã kêu cầu Đức Giêsu. Và sau đó, Mẹ đã nhắn nhủ các lời khuyên phát xuất từ một lòng tin tưởng vững vàng vào tình yêu tha nhân nơi Con mình. Ngài không thể không chạnh lòng thương xót trước nỗi thống khổ của con người. Và đây cũng là lời nhắn nhủ đầy kinh nghiệm của Đức Maria, người đã từng làm theo lời Chúa và thấy bao kết quả tươi đẹp trong đời.
Ngài có bảo gì thì cứ làm theo. Lời nói biểu lộ lòng xác tín Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp. Mẹ Maria biết chắc Ngài sẽ đáp lời Mẹ xin. Thế mới thấy quyền phép nơi lời cầu bầu của Đức Mẹ hiệu năng dường nào. Không phải là Chúa Giêsu đã từng nói: “Giờ con chưa đến” sao? Vậy mà “Giờ con đã đến” vì lời Mẹ xin. Giáo hội đã có lý khi đưa vào kinh Cầu Đức Bà lời nguyện: “Đức Bà có tài có phép. Cầu cho chúng con” là vậy.
Các Thánh cũng công nhận rằng chẳng có sự gì Mẹ xin cùng Thiên Chúa mà không được. Thánh Antôn từng nói: “Vì Đức Maria là Mẹ, nên lời cầu xin như có sức truyền dạy trước toà Chúa Giêsu. Do đó, khi Mẹ xin gì thì không lẽ Chúa Giêsu lại không nhậm lời.” Thánh Ricarđê viết rằng: “Hễ Con quyền phép vô cùng thì Con cũng làm cho Mẹ vô cùng quyền phép. Đó là lẽ đương nhiên. Nhưng Con của Mẹ quyền phép vì bản tính Ngài là Thiên Chúa. Còn Đức Mẹ có quyền phép là nhờ ơn Chúa ban; nghĩa là Thiên Chúa quyền phép vô cùng, phán một lời liền có hết mọi sự. Còn Đức Mẹ quyền phép vô cùng, xin một tiếng liền được hết mọi sự.”
Nhờ có Mẹ can thiệp mà Chúa Giêsu đã cứu tiệc cưới tại làng Cana khỏi cảnh bẽ mặt ê chề. Nhờ lời cầu xin của Đức Mẹ mà giờ giải cứu con người khỏi kiếp khổ đau của Chúa Giêsu đã điểm. Nhờ sự khích lệ bảo ban của Mẹ mà con người biết cộng tác với Con Thiên Chúa để mang lại niềm vui của ơn phúc đầy tràn đến muôn tâm hồn.
Hôm nay, giữa trần thế, có biết bao gia đình “sắp hết rượu.” Lắm cõi lòng đã mất hẳn niềm vui. Nhiều cuộc tình đã rơi vào bế tắc. “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” không còn nữa. Làm sao cứu vãn đây?
Nếu đời có Mẹ, người ta sẽ gặp được ơn Chúa. Mời Mẹ đến với gia đình, chẳng bao giờ Mẹ để cho rượu nồng tình thắm bị cạn khô.
Thế nên, hỡi tất cả các gia đình, mới hay cũ, đang an hoà hạnh phúc hay trắc trở lao đao, hãy cậy nhờ và phó thác cho Mẹ Maria. Chắc chắn với Mẹ và qua Mẹ, Chúa Giêsu sẽ tỏ mình ra nơi gia đình anh chị em.
Không phải tình cờ mà Đấng Cứu Thế lại tỏ vinh quang của mình trong một cuộc hôn nhân. Không phải tình cờ mà vinh quang đó lại liên kết âm hưởng với sự hiện diện của Đức Maria. Trái lại, tất cả đã diễn ra trong cùng một mạc khải của Tin Mừng: gia đình có Mẹ là gia đình có Chúa; gia đình có Chúa là gia đình luôn có tình yêu tràn đầy và niềm vui dạt dào.
36. Chúa Nhật 2 Thường Niên
CÓ CHÚA GIA ĐÌNH MỚI HẠNH PHÚC
(Suy niệm của Cố Lm Hồng Phúc)
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu và các môn đệ đi dự một đám cưới ở làng Cana và làm phép lạ cho nước biến thành rượu.
Đây là phép lạ đầu tiên trong 7 phép lạ mà Phúc Âm của Gioan kể lại. Gioan gọi là “dấu chỉ đầu tiên”, một bài học bằng việc làm để giúp ta hiểu một mầu nhiệm.
Sau khi được Gioan ban phép Rửa – Đề tài bài Phúc Âm tuần trước- Chúa Giêsu đã kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Họ là Anrê, Gioan, Phêrô, Philiphê và Nathanael. Và hôm nay, Chúa dẫn cả nhóm đi ăn cưới tại làng Cana, cách Nagiaret khoảng 14 cây số, trong một gia đình quen thân, vì có cả Đức Mẹ cũng đến tham dự.
Chúng ta chú ý đến hai điểm mà Phúc Âm nói đến là: Giờ của Chúa và dấu chỉ của Chúa.
- “Giờ của Ta chưa đến”. Có thể rằng trong những ngày dài, những đêm khuya khoắt sống bên cạnh Mẹ dưới mái nhà Nagiaret, Chúa Giêsu đã tỏ cho Mẹ hay về sứ mạng tương lai của mình.
Ngài cho Mẹ hay, Ngài sẽ sống với người nghèo khó, đem tình thương vỗ về ấp ủ, đem Chúa đến cho họ, giúp họ hoán cải cuộc sống tăm tối trở nên như một bửa tiệc cưới. Hôm nay, Đức Mẹ thấy con đem cả nhóm đồ đệ đến dự một đám cưới bình dân, chắc Đức Mẹ nghĩ rằng Giờ con tỏ quyền năng đã đến. Vì thế, với con mắt quán xuyến, với một giác quan nhạy cảm của người phụ nữ, Đức Mẹ biết nhà đám đang bối rối vì rượu đã cạn. Đức Mẹ không ngần ngại đến nói với Chúa, “Con nè, nhà này hết rượu”. Một câu nói đơn sơ trong tình mẹ con. Một câu nói đầy tin cậy như một lệnh truyền. Chúa Giêsu trả lời: “Giờ con chưa đến”, nghĩa là giờ tỏ vinh quang của Con chưa điểm. Mặc dầu thế, vì Mẹ đã xin thì con làm, Mẹ đã muốn thì Mẹ được như ý.
Mẹ là người tín hữu đầu tiên đã tin vào Chúa và lòng tin làm nên phép lạ, mặc dầu Giờ của Chúa chưa đến. Chúng ta thấy Đức Mẹ hành động cách tự nhiên, quả cảm. Mẹ bảo người giúp việc: “Thầy bảo sao hãy làm đúng vậy”.
Và phép lạ đã xảy ra.
- Dấu chỉ của Rượu. Gioan trình bày các phép lạ của Chúa như những dấu chỉ, những mạc khải bằng việc làm. Phép lạ đó ám chỉ và mạc khải 3 điều:
Trước hết, đó là dấu chỉ quyền năng của Thiên Chúa. Xưa Chúa phán một lời từ cõi hư vô vạn vật xuất hiện, nay biến hóa sự vật đã có, nước hóa rượu, nào có khó gì!
Thứ đến, phép lạ mạc khải rằng Chúa đến khởi đầu một cuộc giao duyên mới: cuộc giao duyên giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Tiệc cưới hôm nay báo hiệu một tiệc cưới mới. Phaolô ví tình yêu liên kết đôi vợ chồng với tình yêu liên kết Chúa Giêsu và Giáo hội (Eph. 5, 25).
Phép lạ hôm nay cũng ám chỉ tình thương của Chúa đối với những ai sống trong bậc vợ chồng. Chúa tham dự tiệc cưới để thánh hóa hôn nhân. Ngày nay, nhiều cuộc hôn nhân cũng thiếu rượu của một mối tình khắng khít vĩnh cửu. Văn hào Taine nói mỉa mai: “Người ta tìm hiểu nhau 3 tuần, yêu nhau 3 tháng, cãi lộn 3 năm rồi chịu đựng nhau 30 năm… để con cái lại trở về cái vòng lẩn quẩn!”
Hôm nay, Chúa đến dự lễ cưới, biến nước lã nên rượu ngon, để thánh hóa hôn nhân. Có Chúa gia đình mới có hạnh phúc, cuộc sống tẻ nhạt biến thành rượu nồng.
37. Vị khách quyền năng
(Suy niệm của B.M.Thiện Mỹ CRM.)
LỜI CHÚA:
* Bài đọc1: Is.62:1-5: Người chồng sẽ vui mừng vì vợ.
* Bài đọc 2: 1Cr.12:4-11: Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người qui định.
* Phúc âm: Ga.2:1-12: Hễ Người bảo gì thì hãy làm theo.
SUY NIỆM:
Một phụ nữ kể về việc trang trí nội thất của gia đình. Mọi việc trang hoàng đều được vợ chồng đồng ý. Bỗng một hôm chồng bà tự ý bảo người thợ treo ảnh Chúa Giêsu vào chỗ trang trọng nhất trong nhà. Bà không bằng lòng, cố hết sức thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn khăng khăng.
Đang lúc hai vợ chồng cãi nhau, bà sực nhớ lời Chúa Giêsu: “Ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác. Ta cũng sẽ nhìn nhận kẻ ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt.10:32).
Thế là bà chịu theo ý chồng. Và từ đó Chúa Giêsu luôn ban cho gia đình bà an vui hạnh phúc, đến nỗi một người bạn sau khi ngắm bức ảnh đã thốt lên: “Lúc nào tôi cũng thấy gia đình chị yên vui. Ấn tượng mạnh nhất tác động trên bạn bè khách khứa chúng tôi là mỗi khi nhìn lên ảnh Chúa Giêsu, tâm hồn chúng tôi luôn được nâng cao….”
Và bà đã kết luận: “Theo thiển ý tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà chắc bạn sẽ được biến đổi hoàn toàn”.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện cưới của đôi tân hôn. Họ biết mời Chúa , Đức Mẹ và các môn đệ vào nhà dự tiệc. Nhờ đó, qua sự lưu tâm chăm sóc cầu bầu đặc biệt của Đức Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên tại Cana miền Galilê.
Lễ cưới là một lễ quan trọng thật sự cho mọi người trên khắp thế giới. Tại Palestine, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng, dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Đường đi càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Hồi đó vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng vui vẻ, quả thực là kỷ niệm vô cùng đặc biệt trong cuộc đời. Hòa với niềm vui con người, Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Tuy nhiên có vấn đề trục trặc xảy ra.
Trong bữa tiệc của người Do Thái, rất cần phải có rượu. Chính các thầy Do Thái cũng nói: “Không rượu thì không vui”. Đó không phải là vì người ta nghiện rượu. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều rất xấu hổ. Nhưng ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng: thiếu thức ăn, thức uống trong tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Hôm nay nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lời cầu nguyện của Đức Mẹ xin Chúa Giêsu là lời cầu xin đầy khiêm tốn, nhất là Mẹ nhận lại lời đáp ứng dường như có vẻ cứng cỏi của Chúa Giêsu: “Thưa bà, chuyện đó có can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến”. Thế nhưng Đức Mẹ đã từ bỏ mình, chỉ nghĩ đến tình hình khẩn cấp nan giải của gia chủ. Cuối cùng, chẳng những do lời cầu của Đức Maria mà Chúa được vinh hiển, mà khắp nơi qua mọi thế hệ, Kinh Thánh được loan truyền cho mọi người thấy Chúa làm phép lạ là do lời Mẹ cầu bầu.
Bài suy niệm trên đây giúp chúng ta học được rất nhiều điều quí giá:
– Trước hết là sống với Đức Kitô: Như đôi tân hôn trong ngày đại lễ, họ đã đón nhận vị thượng khách đến nhà, chúng ta cũng hãy đồng hành với Đức Kitô trong mọi sự. Đón nhận Đức Kitô qua bí tích Thánh Thể, qua sự kết hợp thiêng liêng. Từ đó ánh quang phục sinh của Chúa sẽ lan tỏa trong mọi hành vi của cuộc sống thường nhật. Không những chúng ta mời Đức Kitô đến tham dự tiệc cưới mà còn mời Ngài tham dự bất cứ yến tiệc nào trong cuộc đời. Chúng ta mời Chúa đến chỉ huy mọi công trình vĩ đại đã vậy, mà còn mời Ngài giúp đỡ cả những công việc khác nữa. Chính Ngài sẽ hoàn hảo mọi sự trong ngoài cho đời sống chúng ta. Xưa kia Chúa cũng đã biến đổi các tâm hồn và thường làm phép lạ trong các gia đình: Người chữa bà mẹ vợ thánh Phêrô khỏi bệnh (Mc.1,31). Cho con gái ông Giairô sống lại (Mc. 5, 41). Chữa lành bệnh nhân nhà người biệt phái (Lc. 14,4). Chúa biến đổi anh thu thuế Giakêu (Lc. 24,30). Chúa mở mắt tâm hồn cho hai môn đệ làng Emmau v.v…
– Sau nữa chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ Maria. Nghĩa là phải cầu xin với lòng tin tưởng. Lịch sử ơn cứu độ đã chứng minh điều đó: Bởi đức tin, nước Biển Đỏ rẽ đôi; bởi đức tin đại quân ngoại bang phải rút lui; bởi đức tin thành Giêricô xụp đổ. Nhờ đức tin, mà người mù được sáng, què được đi, kẻ phung được sạch, người chết rồi cũng được sống lại. Đức Maria hôm nay tin vững chắc rằng: “Người bảo gì cứ làm theo”.
Tắt rằng, Đức Kitô vẫn luôn hiện diện trong đời sống chúng ta qua những nỗi buồn vui sướng khổ. Đó là ân huệ ở tiệc cưới trần đời này và là hạnh phúc đời đời ở tiệc cưới đời sau trên thiên quốc. Có Chúa chúng ta không còn sợ hãi, không còn thiếu thốn, mà Ngài còn là con tầu êm ái đưa ta về quê trời.
38. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Hùng)
Hằng năm, mùa cưới thường được diễn ra bắt đầu từ tháng 8 mùa thu đến hết tháng 2 mùa xuân. Chẳng hạn nơi giáo xứ chúng ta, trong thời gian này cũng có nhiều đôi tổ chức cưới, có khi một tuần tổ chức từ hai đến ba lễ cưới. Có lẽ trong khoảng thời gian này, ngày cưới được chọn là bởi thời tiết mát mẻ, se lạnh sẽ giúp các cặp đôi xích lại gần nhau và muốn cùng nhau xây dựng một tổ ấm mới, có một khởi đầu mới với mùa thu thanh mát và mùa xuân cây lá đâm chồi, nẩy lộc. Tượng trưng cho cuộc sống gia đình hạnh phúc, con cái sum vầy.
Lễ cưới hay đám cưới là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm thông báo rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân. Nên tiệc cưới luôn là hình thức liên hoan, một sự chúc mừng hạnh phúc cho cô dâu, chú rể và cho cả hai gia đình thông gia, dòng tộc.
Tin Mừng thánh Gioan hôm nay cũng thuật lại bối cảnh một tiệc cưới của người Do Thái, tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su, Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự (Ga 2,1). Tiệc cưới đang diễn ra trong bầu khí vui mừng cho ngày vui của đôi tân hôn, khách dự tiệc cũng đang chia sẻ, chúc mừng cho gia đình, dòng tộc và nhất là cho đôi tân hôn bằng những món ăn ngon, những ly rượu thơm nồng thì gặp phải một sự cố hết sức khó khăn, đó là “hết rượu”.
Như chúng ta đã biết, đối với người Việt Nam, thức ăn và rượu là hai điều không thể thiếu trong các bữa tiệc. Theo tập tục người Do Thái thời Chúa Giêsu, một đám cưới có thể kéo dài từ ba ngày đến một tuần. Thế nhưng, theo Tin Mừng thánh Gioan, tiệc cưới tại Cana chỉ diễn ra đến ngày thứ ba đã hết rượu, điều này làm cho chủ tiệc phải lo lắng, khó xử trước tình thế hết sức khó khăn, vì: tiệc đang diễn ra, bầu khí đang vui mừng trong ngày cưới, khách dự tiệc cũng đã đến… Đức Maria đã thấy được tình cảnh khó khăn đó, nên đã đến nói với Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Đây là một lời thông báo, hay nói đúng hơn, Đức Maria chỉ nêu lên một sự kiện khó khăn của một đám cưới thiếu rượu cho Đức Giêsu biết. Thế nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu dường như từ chối: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” (Ga 2,4). Nhưng rồi Chúa lại làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon. Sự việc này gợi lên cho chúng ta hai điều:
– Trước tiên: Đức Maria và Chúa Giêsu rất hiểu ý nhau, và gắn bó với nhau, nên cho dù Chúa Giêsu có ý từ chối lời đề nghị của Đức Maria, vì giờ của Chúa chưa đến, nhưng Đức Maria vẫn tin Chúa sẽ thương giúp cho gia cảnh khó khăn của đôi tân hôn qua lời chuyển cầu của Mẹ, nên Mẹ Maria đã nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. (Ga 2,5).
– Kế đến, phép lạ hoá nước thành rượu tại tiệc cưới Cana là phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu thực hiện, khi Ngài công khai ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Điều này cho chúng ta biết rằng: gia đình hay tình yêu là điều Thiên Chúa rất quan tâm. Hay nói đúng hơn, điều đầu tiên Thiên Chúa làm, là giúp cho một đám cưới, là che chở cho một gia đình mới khỏi bẽ mặt với bà con lối xóm, với khách dự tiệc vì tình trạng thiếu thốn của mình. Và nếu chúng ta để ý một chút thì sẽ thấy trong gia đình, nhất là trong tình yêu hôn nhân luôn luôn có sự che chở, sự hiện diện của Chúa trong tình yêu của đôi vợ chồng, chẳng hạn:
Chính Chúa sắp đặt và an bài cho đôi vợ chồng yêu nhau, cùng dắt nhau đến nhà thờ, cùng nắm tay nhau thề hứa trước Chúa, trước Giáo Hội rằng: “Anh sẽ đón nhận em, em sẽ đón nhận anh làm chồng, làm vợ của nhau và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ lúc thịnh vượng cũng như lúc gian nan, để yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời”. Hoặc “Hứa đón nhận con cái Chúa sẽ ban và giáo dục chúng theo luật Đức Kitô và Hội Thánh…”. Tất cả những lời hứa ấy chứng tỏ rượu tình của hai vợ chồng được tràn đầy, nồng thắm qua sự chúc phúc của Thiên Chúa trong Bí tích Hôn nhân. Thế nhưng, theo năm tháng cùng với những lo toan cơm áo gạo tiền, nhất là sự bê trễ việc giữ đạo, sống đạo của gia đình, con cái làm cho hạnh phúc gia đình lâm vào tình cảnh khó khăn, bế tắc và thậm chí có nguy cơ đổ vỡ vì tình đã vơi, nghĩa đã cạn.
Trong những lúc như thế, chúng ta hãy nhớ đến Đức Maria, một người Mẹ luôn ở bên Chúa và hằng cứu giúp những khó khăn, bất trắc cho mỗi người chúng ta, như Mẹ đã thấy và giúp cho đôi tân hôn ở tiệc cưới Cana.
Tuy phép lạ tại tiệc cưới Cana do Chúa Giêsu thực hiện nhưng vai trò của Đức Maria rất cần thiết, vì: nhờ có Mẹ thấy được tình cảnh khó khăn, sự bế tắc của một gia đình mới và Mẹ nói với Chúa; nhờ có Mẹ tin Chúa, hiểu ý Chúa và nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Thì tức khắc phép lạ được diễn ra, nước lã biến thành rượu ngon làm vui lòng thực khách, mọi vấn đề khó khăn, sự bế tắc được giải quyết.
Ước gì mỗi người, mỗi gia đình chúng ta biết chạy đến với Chúa qua Mẹ Maria, để những khó khăn, bế tắc trong cuộc sống được Chúa hiện diện đỡ nâng. Nhờ có Chúa, có Mẹ Maria nhắc nhở mỗi người chúng ta: “Hãy làm theo Lời Chúa” thì chắc chắn gia đình chúng ta sẽ có bình an và hạnh phúc.
39. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Achille Degeest)
ĐỨC MARIA QUAN TÂM ĐẾN HẠNH PHÚC CỦA NHỮNG ĐÔI LỨA.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Người ta nghĩ rằng Chúa Giêsu dự tiệc cưới Cana là vì mẹ Người được mời đến, dường như vì có liên hệ thân thuộc với họ nhà trai hoặc nhà gái. Thần học thiêng liêng rút ra một kết luận ít nhất cũng phù hợp với kinh nghiệm của Giáo Hội: Việc Đức Maria can thiệp khiến cho nhiều tâm hồn mở rộng nghênh đón Chúa Giêsu. Danh từ ‘bà’ mà Chúa nói với mẹ Người là theo phép lịch sự Do thái thời đó, chẳng có gì đáng cho ta khó chịu. Trong bài tường thuật có hai yếu tố chính của lịch sử Chúa Giêsu: quyền năng của Chúa được Người sử dụng để biểu lộ lòng nhân hậu của Người. Chúa xen vào đời sống nhân loại hằng ngày, Chúa can thiệp vào những công việc tầm thường nhất của con người. Một số nhà phê bình nào đó cho rằng việc Chúa làm phép lạ là một việc rất khó xảy ra, Chúa đắn đo cân nhắc rất nhiều trước khi tỏ quyền uy của Người. Như vậy chúng ta thấy rằng về phương diện đạo đức con người có hai nhược điểm: dễ đi đến chỗ thái quá, sinh ra mê tín – hoặc trái lại, dễ sa vào thái độ thần thoại hoá. Chúng ta chấp nhận thiên ký sự tiệc cưới Cana như thể đón nhận ánh bình minh báo hiệu một ngày đẹp trời. Chúng ta mở mắt đón lấy nguồn sáng đang lên.
1) Từ phép lạ Cana trở đi, Chúa đến nơi nào là nơi ấy có một sự biến đổi, bao giờ cũng vậy. Đức Maria ở đâu, nếu lúc đó chưa có mặt Chúa thì chắc chắn Chúa đang trên đường tới đó. Chúng ta quan niệm đời sống Kitô giáo không như một hệ tư tưởng áp dụng cho thế giới, nhưng là một sự nghênh đón Chúa Kitô đến với chúng ta, cho nên bao giờ chúng ta cũng có lý do mời Đức Maria (Mẹ chúng ta) đến chung vui hoặc chia sẻ lo âu với chúng ta. Thế là mau mau Chúa cũng sẽ đến. Mặt khác, Chúa làm gì trong tiệc cưới? Chúa biến đổi nước thành rượu. Nước là chất tượng trưng cho thực tại thường nhất của đời sống chúng ta. Sự hiện diện của Chúa Kitô trong đời sống của một người tầm thường làm biến đổi, thần hoá đời sống ấy. Ở đây rượu tượng trưng cho mạch nhựa lưu thông trong cây nho và cành nho, tức là ân huệ đời sống thần linh do Chúa Kitô ban cho.
2) Phép lạ Cana xảy ra giữa một tiệc cưới. Những bậc giáo phụ (là những tác giả thời khởi thuỷ đã đóng góp thành lập kho tàng truyền khẩu trong Giáo Hội) từng nghĩ rằng chính sự kiện Chúa dự đám cưới Cana nâng phép hôn phối Kitô giáo (trong đó Chúa hiện diện) lên hàng một bí tích. Dẫu sao, Chúa đã tới chung vui với đôi tân hôn trẻ tuổi. Chắc chắn lúc đó Chúa thấy rõ điều mà Thần Trí Chúa sau này sẽ mặc khải cho Giáo Hội của Người: Chúa, vị tân lang của Giáo Hội, Chúa muốn cho Giáo Hội có hạnh phúc. Đối với Giáo Hội, quyền năng thần kỳ của Chúa vô hình, thường không lộ ra bên ngoài, nhưng có thật: Chúa can thiệp, xen vào đời sống nhân loại hằng ngày của người Kitô hữu, thành phần của Giáo Hội. Sự hiện diện của Chúa là một sự thật, đòi hỏi người ta dâng lời cảm tạ trong niềm vui sướng cao độ nhất.
40. Chúa Nhật 2 Thường Niên
ÐỨC GIÊSU,
ÐẤNG ĐEM LẠI NIỀM VUI CHO DÂN NGƯỜI
Suốt 4000 năm, dân Do Thái đợi trông Ðức Chúa viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Tuy Chúa đã gởi nhiều sứ giả của Ngài đến hướng dẫn dân như Môsê và các tiên tri, nhưng những vị ấy không thể làm thoả mãn lòng khát mong sâu xa của dân, dân chúng tin vào lời hứa Messia, người là Ðấng muôn dân trông đợi.
Trong bài đọc I, qua miệng tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa ban cho Israel Ðấng Cứu Ðộ, Ngài đến như ngọc đuốc sáng ngời, mọi vua và mọi dân nước sẽ thấy vinh quang của dân Người. Từ Israel, vinh quang của Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa ra các dân tộc, Israel sẽ được gọi là kẻ được Thiên Chúa sủng ái.
Những điều Isaia nói trong Cựu Ước hôm nay đã ứng nghiệm. Ðức Giêsu, Ðấng cứu chuộc Israel đã đến. Ngài đem niềm vui cứu độ cho dân Người. Việc Ngài làm phép lạ hóa nước thành rượu trong tiệc cưới Cana cũng là một dấu chỉ Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại niềm vui hoan hỉ nhờ Đức Giêsu Kitô. Chính Ngài là Đấng đem lại niềm vui, niềm hy vọng cho dân đang ngồi trong bóng tối sự chết. Ngài đến để vực dậy sự sống của con người vốn đang bị Satan vây bủa và phá hoại. Ðó cũng là điều Chúa Cha muốn Con mình thực hiện để các môn đệ và mọi người biết Ngài là ai và tin cậy vào ngài.
Trong phép lạ này, chúng ta thấy có sự hiện diện và can thiệp của Đức Mẹ. Nhờ Mẹ nói với Chúa Giêsu về tình trạng thiếu rượu của gia chủ mà Chúa Giêsu đã ra tay can thiệp. Tuy nhiên, đây cũng là điều đẹp lòng Chúa Cha và nằm trong chương trình của thiên chúa. Chúa Giêsu hiểu đựơc ý Cha và cũng tỏ cho Mẹ Maria biết là giờ cứu chuộc, giờ Ngài chịu nạn chịu chết đền thay vì tội lỗi nhân loại và sống lại vinh quang chưa đến. Tuy nhiên, Ngài sẽ thực hiện việc cứu chuộc muôn dân, sẽ đến giờ mà ma quỉ và sự chết phải đại bại hoàn toàn. Đó là lúc loài người được giao hòa với thiên chúa, và cửa Thiên đàng mở ra cho người lành được vào hưởng vinh phúc.
Xưa kia bà Evà đã đưa sự chết vào thế gian thì hôm nay, nhờ Bà Evà mới là Mẹ Maria, Ðức Giêsu sẽ cứu thế gian khỏi quyền lực ma quỉ và sự chết. Chắc chắn như vậy vì Ngài là Ðấng quyền phép vô cùng. Ngài có thể biến nước lã, chỉ dùng vào việc tắm rửa trở nên rượu ngon hảo hạng cho con người được hưởng dùng hỉ hoan, thì Người cũng sẽ làm cho dân tộc Do Thái cũng như tất cả chúng ta từ bất xứng, từ những kẻ tội lỗi trở nên xứng đáng, nên những vị thánh nhờ công nghiệp cứu chuộc của Ngài.
Chúa Giêsu rất yêu thương chúng ta đến độ sẵn sàng hy sinh chính mình Ngài vì phần rỗi của chúng ta. Chúa Cha có một người con duy nhất mà cũng sẵn sàng ban cho loài người để Người đổ hết máu mình ra rửa sạch tội lỗi nhân loại. Chúng ta tin chắc sẽ rằng: Ai tin vào Chúa Giêsu thì sẽ không phải hư mất, sẽ không mất niềm hy vọng nhưng sẽ được niềm vui hoan lạc, được uống rượu vui mừng trong Nước Chúa.
Hôm nay, chúng ta đã biết Chúa Giêsu là Ađam mới, Ngài đến để chuộc lại tội lỗi của Ađam xưa, để giải thoát con người khỏi án tội nguyên tổ. Vậy chúng ta đã nghe lời Người dạy bảo trong Phúc Âm, đã tuân giữ giới răn Người truyền ban, đã sống gắn bó với Người, đã đi theo Người trọn vẹn chưa?
Nếu chúng ta tin cậy nơi Chúa thì bao nhiêu việc làm của chúng ta dù nhỏ bé nhưng nếu chúng ta biết làm hết sức mình với lòng chân thành yêu mến Chúa thì sẽ được Chúa biến đổi thành công phúc lớn lao, thành rượu hoan lạc cho chúng ta trong Nước Trời mai sau.
41. Chúa Nhật 2 Thường Niên
GIAO ƯỚC MỚI CỦA SỰ PHONG PHÚ PHONG NHIÊU.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Hai người bạn trẻ cử hành đám cưới tại Cana, họ là những người vô danh nhưng đã trở nên bất tử trong Phúc Âm bởi vì Chúa Giêsu là khác trong đám cưới của họ. Bất cứ cặp hôn phối nào cũng ghen tỵ với họ. Câu chuyện này được kể bởi thánh Gioan đã được tuyên bố với chúng ta trong lễ nghi phụng vụ, có một ý nghĩa rộng lớn hơn là sự hợp nhất của một người nam và một người nữ Do Thái vào hai mươi thế kỷ trước.
Bài đọc thứ I ngày hôm nay của tiên tri Isaia đã dọn sẵn cho chúng ta ý nghĩa rộng lớn hơn này. Bài đó được đặt nền tảng trên hình ảnh yêu thích của Thiên Chúa trong Cựu Ước như là vị hôn phu của dân Người. Vị tiên tri nói: “Như một thanh niên kết hôn với một trinh nữ, Đấng sáng tạo ngươi sẽ kết hôn với ngươi, như là một chú rể vui hưởng nơi cô dâu thì Thiên Chúa của các ngươi sẽ vui hưởng nơi các ngươi”. Câu chuyện Cana đã nhắc lại hình ảnh này là biểu tượng tỏ hiện Giao Ước mới và đời đời giữa Chúa và dân của Người.
Hôn nhân của xã hội ngày hôm nay được xem như là một hợp đồng mà nó được trói buộc bởi luật. Theo cái nhìn của Thiên Chúa, hôn nhân là một Giao Ước mà nó được trói buộc bởi tình yêu, sắp xếp của Phúc Âm ngày hôm nay làm cho chúng ta nghĩ rằng Giao Ước của Thiên Chúa với chúng ta là một Giao Ước của tình yêu trung thành giống như của những đôi vợ chồng dâng hiến cho nhau.
Chi tiết của câu chuyện Phúc Âm tỏ lộ cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa thì quảng đại và phong nhiêu. Gần đó có sáu chum đá, mỗi chum chứa được mười lăm đến hai mươi lăm thùng nước khoảng sáu trăm lít. Chúa Giêsu đã hướng dẫn cho những người giúp việc đổ nước đầy tới miệng. Cana là một thành phố nhỏ, có lẽ đó chỉ có khoảng năm mươi khách bao gồm cả môn đệ của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu biến nước thành rượu, những người khách không những đã có đủ uống mà còn dư thừa, vì tới gần sáu trăm lít rượu. Tình yêu của Thiên Chúa thì phong nhiêu giống như thế. Theo Thần học, Cana có quan hệ với lễ Hiển Linh. Ý nghĩa của lễ Hiển Linh là dân ngoại cũng như dân Do Thái đều được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu. Tình yêu của Thiên Chúa thì phong nhiêu đủ để bao gồm tất cả mọi người trong Giao Ước mới của Người.
Rượu mới ở Cana không chỉ phong nhiêu mà nó còn tuyệt hảo nữa. Người quản tiệc sau khi nếm rượu đã nói với chú rể: “Anh đã giữ rượu ngon cho tới giờ này?” Thiên Chúa cũng sẽ giữ rượu ngon cho chúng ta trong kỷ nguyện Kitô giáo một loại rượu ngon và phong phú trong Giao Ước mới của Người.
Sự hiệp nhất thật sự của Thiên Chúa và dân Người đã chờ đợi khoảnh khắc ở bên kia tiệc cưới Cana. Do lời khẩn cầu của Mẹ Maria khiến Chúa Giêsu bắt tay vào những biến cố đời sống công khai của Ngài, giờ của mầu nhiệm Vượt Qua và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu đã mở rộng vòng tay của Ngài trên thánh giá để âu yếm chúng ta bằng một tình yêu phong phú và quảng đại, tình yêu ấy lớn đủ để bao gồm toàn thể nhân loại. Đó là khoảnh khắc sự hiệp nhất của chúng ta.
Chúng ta đổi mới quan hệ tình yêu của chúng ta khi cử hành Thánh Thể. Tại Cana Chúa Giêsu chuyển đổi nước thành rượu. Trong khi cử hành Thánh Lễ Người đã biến bánh và rượu thành Thịt và Máu Người như để tưởng nhớ lại sự chết và sự Phục Sinh của Người. Trong tiếng đọc của Linh mục chúng ta nghe những lời của Đức Kitô: “Đây là chén Máu Ta, Máu Giao Ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người…”.
Kể từ ngày đẹp trời ấy tại Cana, mỗi tiệc cưới sẽ nhắc nhở chúng ta về tình yêu phong nhiêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và mỗi đôi hôn phối sẽ làm cho chúng ta nghĩ đến sự trung thành của Thiên Chúa. Trên hết, chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành là một Giao Ước mới, là sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa và những người khác trong Giáo Hội.
42. Hãy mời Chúa vào nhà
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ)
Cách đây ít lâu, có một bài báo thú vị của một phụ nữ kể lại việc trang hoàng nhà cửa của gia đình bà. Mọi công việc trang trí đều được vợ chồng tâm đầu ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người trang trí nội thất treo bức hình Chúa Giêsu kích thước khoảng: 40×50 cm vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang lúc tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời Chúa Giêsu: “Bất cứ ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe theo ý kiến của chồng.
Giờ đây bà nói rằng bà rất vui đã nghe theo ý chồng vì bà nghĩ rằng bức hình Chúa Giêsu đã gây được ảnh hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa nữa. Chẳng bạn ngày nọ có người khách lạ sau khi chăm chú nhìn vào bức hình liền nói với bà: “Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức hình đó không nhìn vào bà đâu, Ngài nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!”. Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức hình cũng thốt lên: “Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình an”. Tuy nhiên, -người phụ nữ nói thêm – ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên bạn bè khách khứa của tôi là mỗi khi nhìn tấm hình Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn được nâng lên cao.
Cuối cùng, người phụ nữ nói rằng, có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà tâm sự: “Theo ý của tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước nữa”.
Thưa anh chị em,
Đôi tân hôn trẻ trong Tin Mừng hôm nay hẳn đồng ý với người phụ nữ trên. Họ đã mời Chúa Giêsu vào nhà họ và Ngài đã làm phép lạ đầu tiên ở đó khi họ thiếu rượu. Nhờ phép lạ hóa nước thành rượu ngon, Chúa Giêsu đã cứu vãn tình thế lúng túng của nhà đám và đem lại niềm vui tràn đầy cho mọi người.
Thực tế mà nói, mỗi cặp vợ chồng thường thiếu một cái gì đó vào một lúc nào đó trong đời sống hôn nhân gia đình: thiếu kiên nhẫn, thiếu hiểu nhau, thiếu thông cảm… và đôi khi thiếu ngay cả tình yêu, như giữa bữa tiệc thiếu rượu vậy. Bạn hết tiền, bạn không có việc làm, bạn thiếu sức khỏe… bạn hãy mời Chúa Giêsu đến, như đôi tân hôn ở Cana, bạn sẽ được giúp đỡ những gì bạn cần để hôn nhân bạn hạnh phúc hơn. Bạn phải làm phần của bạn: bạn phải làm việc nhiều hơn, hy sinh nhiều hơn, suy tín nhiều hơn. Giả sử hôn nhân của bạn điêu đứng vì thiếu kiên nhẫn, bạn hãy bàn hỏi, lập kế hoạch để bạn có thể kiên nhẫn làm sao và khi nào? Rồi – đây là điều quan trọng – bạn hãy xin Chúa Giêsu giúp bạn kiên nhẫn. Bạn thiếu hụt tài chánh ư? Bạn lập kế hoạch làm sổ chi tiêu. Rồi – đây là điều quạn trọng thứ nhất – bạn xin Chúa Giêsu giúp bạn đủ chi tiêu.
Sự sai lầm của các cặp vợ chồng là đã không xin Chúa giúp giải quyết các vấn đề. Đức Cha Tihamer Toth đã hỏi các bạn trẻ: “Các bạn có biết cái tội đầu tiên mà đôi bạn Công giáo đã phạm không? Và Ngài đã trả lời: đó là khi làm đám cưới, các bạn đã mời tất cả, nào là bà con, bạn hữu, phụ dâu, phụ rể, cả thợ trang điểm, thợ may, mời luôn dàn nhạc, mời hết chỉ trừ Chúa Giêsu là không có trong danh sách được mời. Đó là cái tội đầu tiên của đôi tân hôn. Và cái tội đầu tiên nầy là khởi điểm của một cuộc phiêu lưu dẫn đôi bạn trẻ vào một con đường vô định, một con đường đầy bóng tối…”.
Một em bé gái mới lên năm, vừa cùng mẹ đọc kinh trước khi ăn cơm. Mẹ em thường ứng khẩu những lời kinh nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, xin hãy nên vị khách quý của bữa cơm hôm nay”. Bà cầu nguyện chưa xong, thì bỗng em bé nhìn mẹ và nói: “Nhưng thưa mẹ, con không muốn Chúa Giêsu làm người khách của chúng ta”. Bà mẹ hoảng hốt hỏi lại: “Tại sao lại thế”?. Em bé trả lời: “Vâng, thưa mẹ, là người khác, Chúa chỉ đến một vài lần thôi. Con muốn Chúa Giêsu đến đây và ở lại luôn mãi với chúng ta” (Knight).
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu phải có mặt trong đám cưới của anh chị em, Chúa Giêsu phải là một phần tử của gia đình anh chị em. Ngài sẵn sàng giúp đỡ. Ngài đang chờ anh chị em xin Ngài, như Đức Maria đã làm tại Cana. Tốt nhất anh chị em hãy cầu xin qua Đức Maria những gì anh chị em cần trong đời sống hôn nhân, gia đình của anh chị em. Như vậy sẽ không có gì thiếu nữa.
Giáo dân Châu Âu xưa kia có một câu tục ngữ như thế nầy: “Nếu bạn đi du lịch bằng đường bộ, bạn hãy đọc một kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi du lịch bằng đường biển, bạn hãy đọc hai kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi cưới vợ, lấy chồng, bạn hãy đọc một trăm kinh Kính Mừng”. Phải, đời sống hôn nhân gia đình đâu phải chỉ là một chuyến du lịch mà là cả một cuộc hành trình đến mãn đời. Không có sự hiện diện của Chúa, không có Đức Mẹ, vợ chồng khó lòng trung thành với nhau trọn tình vẹn nghĩa thủy chung được, nhất là những khi thiếu rượu nồng tình yêu.
Thiên Chúa nhập thể đã làm đám cưới với nhân loại, vì yêu thương nhân loại, để nhân loại bắt tay nhau. Động cơ của hợp nhất, đầu mối của hạnh phúc lứa đôi là tình thương yêu. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù, chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Đã là bất bình thường thì mọi người phải tìm cách giàn xếp để cùng nhau trở lại tình trạng bình thường là yêu thương nhau, hiêp nhất với nhau. Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong đời sống hôn nhân và gia đình, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của tình yêu. Chúa Giêsu phải có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách, thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến thăm và chúc phúc cho gia đình chúng con. Xin chúc lành cho cánh cửa nhà chúng con. Ước chi những cánh cửa nầy luôn biết mở ra cho kẻ tha phương và người hiu quạnh. Xin chúc lành cho phòng ốc gia đình chúng con, để chúng tràn đầy sự hiện diện của Chúa. Và trên hết, xin Chúa hãy chúc lành cho mỗi người trong gia đình chúng con, để tâm trí chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, đôi tay luôn biết rộng mở cho những kẻ nghèo khó, và trái tim luôn luôn biết hướng về Chúa. Amen.
43. Giêsu, niềm vui mới
Tâm lý chung của con người mọi thời là sợ buồn, sợ khổ, sợ bệnh tật, sợ chết v.v thế nên Đức Phật nhìn đời một cách thật bi quan mà thốt lên “đời là bể khổ”. Vì thế nên ngài đưa ra nhiều phương cách để diệt khổ, hầu mong có được sự bình an, niềm vui, hạnh phúc ngay tại cuộc sống trần gian này. Nhưng thực tế con người có diệt được khổ, diệt được nỗi buồn, thoát cái chết không? Thưa con người vùng vẫy và bất lực trước buồn khổ.
Bài tin mừng hôm nay, thánh Gioan cho chúng ta thấy sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ tại tiệc cưới Cana. Để có sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ, tôi thiết tưởng rằng gia chủ hay đôi tân hôn phải gởi những tấm thiệp đến hoặc cho người đi mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Vâng!Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Mẹ là niềm vui và là vinh dự cho gia chủ cũng như cho đôi tân hôn vì Chúa Giêsu và Đức Mẹ không làm phụ lòng gia chủ. Niềm vui, niềm vinh dự đó không chỉ thông thường như các đám cưới khác, mà chính nơi tiệc cưới này Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên trong sứ vụ rao giảng công khai của Ngài.
Theo phong tục của người Do Thái, đám cưới phải được tổ chức kéo dài trong bảy ngày thì niềm vui ngày thành hôn mới được trọn vẹn. Nhưng đám cưới tại Cana này thực khách đang vui vẻ chén anh chén tôi bước sang ngày thứ ba thì đã hết rượu, đám cưới mà hết rượu thì còn gì là vui nữa. Hiển nhiên thực khách sẽ lần lược ra về hết. Đây là sự mất mặt của gia chủ đối với thực khách, vì đám cưới mà lại không chuẩn bị chu đáo, một nỗi buồn ập đến cho gia chủ và đôi tân hôn. Gia chủ rất bối rối và không kém phần lo lắng…
Trong những thực khách dự tiệc ngày đó, có một người rất tinh tế thấy được sự bối rối của gia chủ đó là Mẹ Maria. Nếu Mẹ Maria cứ ngồi ăn như những thực khách khác thì làm sao Mẹ thấy được nỗi lo lắng của gia chủ. Chắc là Mẹ vào phụ giúp dưới bếp hay cũng quan sát lắm mới thấy được điều đó. Mẹ đã hiểu được hoàn cảnh éo le mà gia chủ gặp phải, và Mẹ đã đi bước trước lời ngỏ ý của gia chủ. Vâng! Một khi hai người thân nhau lắm mới hiểu được khả năng của nhau. Mẹ kết hợp mật thiết với Con của Mẹ, nên mẹ hiểu con Mẹ, Mẹ tin tưởng Con của Mẹ có thể giúp được cho gia chủ, vì thế Mẹ đã ý nhị ngỏ lời với Con của Mẹ “họ hết rượu rồi”, chỉ một lời nói nhỏ ngỏ ý với Con mà phép lạ đã được thực hiện sáu chum nước lã hoá thành sáu chum rượu ngon. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đem lại niềm vui mới không chỉ cho gia chủ mà cho hết mọi thực khách dự tiệc ngày đó, đến nỗi họ phải thốt lên với tân lang: “ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàn hơn, còn anh lại giữ rượu ngon đến bây giờ”. Sự hiện diện của Chúa Giêsu thật sự đem lại niềm vui trọn vẹn, niềm vui mới khác hẳn niềm vui ban đầu.
Tương tự trong đời sống của ta cũng thế, nhiều khi gặp bất ổn là do “sắp hết rượu hay là đã hết rượu” rồi.Tại vì chúng ta không biết mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ đến dự tiệc cuộc đời với chúng ta. Chúng ta cứ lo chạy tìm hay mời những người khách chóng qua như: hưởng thụ, khoái lạc, danh vọng, tiền bạc… mà quên mời những vị khách đem lại niềm vui đời đời cho chúng ta. Vậy chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không vội viết những tấm thiệp để mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ đến với chúng ta, và chúng ta hãy mở lòng ra thố lộ những khó khăn chúng ta đang gặp để Đức Mẹ cũng ngỏ ý với Chúa Giêsu như tại tiệc cưới Cana “họ hết rượu rồi, họ đang buồn chán, họ đang gặp khó khăn, họ đang mất bình an đó” vì chính Mẹ là trạng sư của chúng ta mà. Và như thế tôi tin rằng Chúa Giêsu cũng sẽ thực hiện những phép lạ tỏ tường trong đời sống chúng ta. Chỉ nơi Chúa Giêsu mới có sự bình an và niềm vui viên mãn.
Người ta kể lại câu chuyện như sau: Có một tu viện nọ, các thầy sống chung với nhau mà luôn cải cọ, ganh ghét, nói xấu chỉ trích nhau làm gương xấu cho cả vùng đó. Vì thế không còn ai muốn lui tới tu viẹân nữa. Thầy bề trên thấy tình cảnh như thế rất đau buồn nhưng không biết cách làm sao giải quyết.
Thế là một hôm thầy bề trên quyết định tìm đến một vị ẩn sĩ để tâm sự về những tình trạng xấu trong dòng mong tìm ra cách giải quyết. Vị ẩn sĩ trầm ngâm nghe những lời tâm tình của thầy bề trên rồi nói: Thầy hãy về nói lại với anh em trong dòng rằng “Có Chúa Giêsu đang cải trang thành một thầy đang sống cùng chúng ta”. Thầy bề trên về tập hợp các anh em trong dòng nói “có Chúa Giêsu đang cải trang thành một người trong anh em chúng ta”.Vậy anh em phải sống thế nào để không đóng đinh Ngài vào thập giá một lần nữa. Từ ngày đó thầy này nghĩ thầy kia là Chúa Giêsu nên không còn dám xúc phạm nữa. Vì thế các thầy thay đổi cách đối xử với nhau, sự bình an, yêu thương đã trở lại trong tu viện. Từ sự yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ của các thầy người ta thấy được niềm vui và sự bình an. Thế là người ta lại kéo nhau đến tu viện để tìm sự bình an đông hơn trước.
Cũng thế, nếu thật sự chúng ta để Chúa Giêsu bước vào trong đời sống chúng ta thì sẽ không còn buồn chán, thất vọng, ganh ghét, chỉ trích nhau xảy ra. Chúng ta hãy hỏi Chúa Giêsu coi nếu Chúa là con trong hoàn cảnh này, sự việc này thì Chúa làm gì? Chắc chắn lúc đó chúng ta sẽ có những hành động như Chúa Giêsu. Chúng ta hãy dành cho Chúa một chỗ quan trọng trong ta thì Chúa sẽ lo liệu cho chúng ta tất cả, chúng ta không cần chạy lung tung mà tìm những niềm vui ảo. Niềm vui chóng qua ấy sẽ dẫn chúng ta đến sự chết đời đời. Vậy thì chúng ta hãy khôn ngoan mà chọn lựa theo Chúa nguồn hạnh phúc đích thật hay theo những thứ ảo chóng qua. Chúa luôn chờ đợi mỗi người chúng ta mời Ngài bước vào cuộc sống chúng ta, vì một khi Chúa đến sẽ có những thay đổi trong cuộc đời chúng ta như nước lã biến thành rượu ngon vậy.
Lạy Chúa Giêsu xin hãy mau đến mang sự bình an, niềm vui mới cho mọi người chúng con. Amen.
44. Cana
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật – Chúa Nhật và Lễ Trọng’ – McCarthy)
Suy Niệm 1. KHI NGƯỜI TA THIẾU RƯỢU
Điều đã xảy ra ở tiệc cưới Cana sớm muộn gì cũng xảy ra trong mỗi cuộc hôn nhân – người ta thiếu rượu. Qua đó chúng ta muốn nói điều gì? Một cuộc hôn nhân mẫu mực bắt đầu bằng một bữa tiệc vui và nồng nhiệt. Đôi tân hôn được bạn hữu vây quanh và những người đến mừng cùng với quà cưới không ngớt lời chúc tụng họ. Hy vọng và mơ ước tràn đầy, họ lên kế hoạch cho tuần trăng mật. Rượu uống thỏa thuê.
Rồi sau tuần trăng mật họ trở về và công việc làm ăn thật sự bắt đầu – sắp xếp nhà cửa và học cách sống chung với một người khác. Lúc ban đầu họ tìm thấy niềm vui to lớn được sống bên nhau. Họ tin rằng tình yêu của họ đã được tiền định trên trời và có ý nghĩa là sẽ kéo dài muôn thuở. Rượu vẫn còn dồi dào.
Nhưng khi con người ở cận kề với một người khác, sẽ có những vấn đề nảy sinh. Căng thẳng xuất hiện. Họ khám phá rằng họ đã không cưới một thiên thần, nhưng một con người đã bị tội lỗi và vị kỷ làm tổn thương. Họ ngạc nhiên về sự nghèo nàn mà họ khám phá nơi người kia. Tuần trăng mật đã hết. Người ta thiếu rượu. Tất cả những gì còn lại là “nước” của một tiềm năng còm cõi.
Những sự việc như thế cũng xảy ra trong chuyên môn, nghề nghiệp và cả trong những ơn gọi như đời sống linh mục hoặc đời sống tu trì. Ở đây cũng hết rượu. Niềm vui, còn lại là nước của thói quen, của sự tẻ nhạt và có thể là sự vỡ mộng. Nhưng chúng ta hãy trở lại với vấn đề hôn nhân.
Giờ đây rượu ban đầu đã cạn, họ phải làm gì? Có những người bị cám dỗ “cạn” theo với rượu: “Không còn gì cho tôi nữa”. Thái độ này tưởng chừng có lý nhưng nó bao hàm một tính vị kỷ đáng sợ. Đối với những con người như thế, hôn nhân chỉ là một sự liên kết của hai con người vị kỷ vì thế, trong lúc họ lợi dụng lẫn nhau, họ bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác những hoa quả mà người ta có thể hái và ăn mà không vất vả và bỏ công sức.
Nhưng một cặp vợ chồng phải làm gì? Họ phải biết rằng rượu ban đầu đã cạn. Trong một lúc, họ phải tìm cách xoay xở với nước. Nhưng họ không nên sợ hãi hay thất vọng khi điều đó xảy ra. Họ phải chống trả cơn cám dỗ bỏ rơi mối tương quan và đánh mất chính mình trong một nghề nghiệp hoặc một đời sống xã hội cuồng nhiệt. Điều họ phải làm là phải nỗ lực cải thiện tương quan giữa họ qua đó, họ có thể trưởng thành như những con người khám phá ý nghĩa thật sự của tình yêu. Khủng hoảng ấy có thể trở thành một cơ hội.
Và đây là một điều làm người ta ngạc nhiên: rượu ban đầu cần phải cạn. Nếu không rượu mới không thể đến được tình yêu lúc ban đầu cho dù đẹp và lãng mạn không thể kéo dài được. Chắc chắn nó phải trôi qua. Nhưng trôi qua không phải là một điều xấu. Thật vậy, nó phải trôi qua để một tình yêu mới mẻ và sâu đậm hơn được sinh ra. Tình yêu mới này chủ yếu là đặt người khác đứng trước mình. Người ta phải quên chính mình và tìm thấy niềm vui khi mình yêu thương hơn là khi mình được yêu thương, khi mình cho hơn là khi mình nhận.
Tình yêu là một cuộc phiêu lưu khó khăn. Bước vào hôn nhân là bước vào một trường học tình yêu ở đó mọi người đều là những học viên chậm chạp. Chính vì thế, chúng ta cần có sự hiện diện của Đức Kitô.
Rượu mới không chỉ có ý nghĩa đối với cặp hôn phối mà còn có ý nghĩa đối với mọi người. Điều này có nghĩa là chúng ta phải thay đổi. Đức Kitô phải cảm hóa tâm hồn chúng ta và giúp đỡ chúng ta yêu thương vô vị lợi. Đối với những người tìm kiếm sự giúp đỡ của Người thì phép lạ Cana vẫn còn xảy ra – nước của lòng vị kỷ được biến đổi thành rượu của tình yêu chân chính. Và điều kỳ lạ là rượu nho mới lại ngon hơn rượu nho cũ.
Suy Niệm 2. MỘT KIỂU MẪU CỦA SỨ VỤ
Thánh Gioan mô tả Đức Maria như người đã tham gia vào lúc Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ của Người (ở Cana), và rồi vào cuối sứ vụ ấy (trên núi Canvariô). Vì thế Đức Maria liên kết với toàn bộ sứ vụ của Người. Người ta chỉ cần nhìn vào Tin Mừng để thấy rằng Mẹ luôn có mặt vào những lúc quan trọng của cuộc đời Người.
Trong lúc Truyền Tin, sứ thần hỏi Mẹ có muốn trở thành Mẹ của Đấng Cứu Chuộc không. Mẹ đã dẹp qua một bên những dự tính của Mẹ và đáp lại đề nghị của Thiên Chúa bằng tiếng “xin vâng” quảng đại. Một đôi khi tác vụ có ý nghĩa là sẵn sàng đặt những kế hoạch của chúng ta qua một bên và đáp lại lời kêu gọi bằng cách giúp đỡ một tay.
Trong lúc đi Thăm Viếng, Mẹ chủ động có sáng kiến. Khi nghe bà Elizabeth, một bà chị họ lớn tuổi đang chờ ngày sinh con, Mẹ đã thăm viếng bà, ở lại với bà cho đến khi đứa bé được sinh ra. Tác vụ một đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến, khi nhìn thấy một nhu cầu và khi đáp ứng nhu cầu đó.
Trong tiệc cưới Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu và sự làm hỏng tiệc cưới của đôi tâm hồn. Mẹ muốn giúp đỡ nhưng biết rằng Mẹ không thể tự mình làm việc đó. Vì thế Mẹ quay lại Con Mẹ và xin Người giúp đỡ, và Người đã thực hiện với sự quảng đại. Có những lúc, tác vụ có nghĩa là nhận ra một nhu cầu và biết rằng chúng ta không thể xử lý một mình.
Vì thế chúng ta cần đưa đến cho những người khác. Nhưng, không phải là đổ trách nhiệm cho người khác.
Trong suốt đời sống công khai, Đức Giêsu luôn được đám đông vây quanh. Đức Maria không biết Người ra sao. Mẹ sợ người ta bắt Người đi. Là một bà mẹ, Mẹ cảm thấy bắt buộc phải giải cứu. Mẹ đã hiểu sai hoàn cảnh. Người luôn chủ động. Người có một việc phải làm và có thể tự mình xử lý. Tác vụ có thể gồm cả việc phạm sai lầm và cảm nghiêm bị sai hỏng, thất bại. Nhưng điều đó không do thiếu quan tâm mà do thiếu hiểu biết.
Trên Núi Canvariô, Đức Maria đứng dưới chân thập giá nhìn Đức Giêsu chết. Dù Mẹ rất muốn cứu Người, nhưng một cách tuyệt vọng, Mẹ không có khả năng làm được điều đó. Một đôi khi trong tác vụ, chúng ta không thể làm được điều gì. Vì thế tác vụ của chúng ta giống như Đức Maria đứng dưới chân thập giá. Một sự hiện diện thinh lặng chịu đựng. Và sự hiện diện chịu đựng và trấn an là cả một thế giới cho người đau khổ. Nó cứu người ấy khỏi viễn cảnh đau buồn phải chết một mình và bị bỏ rơi.
Dù chỉ là những cái nhìn thoáng qua. Nhưng một hình ảnh nổi bật của Đức Maria là một người ân cần tận tuỵ. Trên nhiều phương diện, một bà mẹ điển hình. Đức Maria là một kiểu mẫu của tác vụ. Nhưng vai trò của Mẹ phải luôn luôn được nhìn trong tương quan với vai trò của Con Mẹ. Vai trò của Mẹ giờ đây là vai trò của một người mẹ chăm sóc cho những người đi theo Đức Giêsu.
Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều ở trong tác vụ: đối với những người khác, hoặc ở trong gia đình, hoặc trong một cộng đoàn rộng lớn hơn. Ngay cả công việc chúng ta làm cũng có thể được coi như một tác vụ và một phục vụ. Torng lúc các bà dường như có ơn đặc biệt hơn, tất cả chúng ta đều có khả năng làm tác vụ.
Tác vụ phải có nghĩa là ban tặng những sự vật (như ở tiệc cưới Cana), nhưng thường là sẵn sàng ban tặng chính mình. Chúng ta phải sẵn sàng đón nhận thất vọng, hiểu lầm, thất bại, sự bất lực. Nhưng điều duy nhất chúng ta phải sợ là sự thờ ơ. Những kỹ năng đặc biệt không cần thiết. Vào cuối mỗi ngày, cái còn đọng lại là tình yêu thương. Tác vụ là một sự biểu lộ của tình yêu.
Trong tác vụ, điều chúng ta làm giống việc làm của các gia nhân ở tiệc cưới Cana. Họ chỉ là những người thừa hánh của Đức Giêsu. Họ múc nước đã hoá thành rượu và đem đến cho khách dự tiệc. Kể từ đó, những thừa tác viên của Đức Kitô đã rút ra từ cùng một suối nguồn. Họ chia sẻ những ơn lành của Đức Giêsu cho Giáo Hội người và cho thế giới. Từ sự viên mãn của Người, chúng ta tiếp tục đón nhận và chia sẻ.
45. Tiệc cưới Cana
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP
Chúa nhật hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu phép rửa vì trong cả ba lễ đó, Đức Giêsu đều tỏ vinh quang của mình ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Chúa nhật 2 thường niên hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ biến nước thành rượu là có ý hé mở cho các môn đệ một chút vinh quang của Ngài, mặc dầu giờ của Ngài chưa tới, để củng cố niềm tin cho những môn đệ mới được kêu gọi. Đồng thời cũng loan báo cho mọi người biết, qua việc thiếu rượu và biến nước thành rượu, Ngài sẽ lập một đạo mới thay thế cho đạo cũ không còn hợp thời.
Ngoài ra, việc Đức Giêsu đến dự tiệc cưới vào những ngày đầu sứ vụ công khai minh chứng rằng Ngài rất quan tâm đến đời sống hôn nhân gia đình và Ngài sẽ lập bí tích hôn phối.
Sự hiện diện của Đức Mẹ trong tiệc cưới này cũng nói lên vai trò rất đắc lực trong việc cầu bầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Hãy sống theo phương châm:”Per Mariam ad Jesum”.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 62,1-5.
Sau khi đi lưu đầy về, tiên tri Isaia ca ngợi vinh quang của Giêrusalem và đất thánh. Nhìn ngược về quá khứ, ta thấy Israel đã được Thiên Chúa yêu thương, được coi như hôn thê của Ngài, nhưng Israel đã bất trung, phải đi lưu đầy vì những lầm lỗi, Giêrusalem trở nên hoang tàn. Tuy vậy, Thiên Chúa vẫn không ngớt yêu thương và tha thứ. Nay Thiên Chúa đưa Israel trở về, không còn bị người ta chế diễu là “đồ bị ruồng bỏ” và xứ sở không còn mang tiếng là “phận bạc duyên đơn”.
Bây giờ Giêrusalem hoan hỉ tưng bừng vì được thay đổi số phận, được Chúa yêu thương như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới, như tiên tri Isaia mô tả:”Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo nên ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui của chú rể, ngươi cũng là niềm vui của Thiên Chúa ngươi thờ (Is 62,5).
Lời tiên tri ấy đã được hoàn thành trong Đức Giêsu, Đấng đã thay thế trật tự cũ bằng trật tự mới. Điều này được tượng trưng bằng sự biến đổi nước thành rượu (Tin mừng).
+ Bài đọc 2: 1Cr 12,7-11.
Thánh Phaolô thấy giáo đoàn Côrintô có sự chia rẽ, Ngài phải viết thư nhắc nhở họ. Trong đoạn thư hôm nay, thánh Phaolô nhắc lại cho họ ba điểm:
1) Những ân huệ, những tài năng, những chức vụ thì đa dạng, nhưng tất cả đều do Chúa Thánh Thần ban.
2) Những ân huệ do Thánh Thần ban thì khác nhau nơi từng người, người được ơn này, người được ơn khác.
3) Nhưng tất cả những ân ban đó đều nhằm mục đích chung của Hội thánh là để phục vụ. Việc Chúa ban cho Hội thánh nhiều ân sủng chứng tỏ rằng Chúa hằng trung tín với Hội thánh, là hiền thê của Ngài.
+ Bài Tin Mừng: Ga 2,1-11.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm nước hoá thành rượu tại tiệc cưới Cana. Bài tường thật này không nhằm mô tả phép lạ hoá nước thành rượu mà nói lên “một dấu chỉ đầu tiên” qua đó, Đức Giêsu bầy tỏ vinh quang của Ngài để các môn đệ tin vào Ngài.
- a) Đức Giêsu cho thấy Ngài là Đấng Thiên sai khai mở một thời kỳ hoan lạc mới cho nhân loại. Thánh kinh thường hay dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Cứu thế, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Theo nghi lễ, hôn phu phải cung cấp rượu (c. 10), trong trường hợp này, hôn phu bước đi và Đức Giêsu một cách kín đáo để thay thế ông. Với tư cách là hôn phu của nhân loại, chính Ngài cung cấp rượu.
- b) Đạo cũ của người Do thái đã lỗi thời không còn thích hợp , Ngài đến thiết lập một đạo mới thay thế cho đạo cũ. Việc thiết lập đạo mới này được tượng trưng bằng việc biến sáu chum nước thành sáu chum rượu ngon. Rượu ngon mới này ám chỉ rằng tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài, nay không thích hợp nữa.
- c) Tuy giờ vinh quang của Đức Giêsu chưa tới, nghĩa là vinh quang ấy chỉ được biểu lộ trên thập giá, nhưng vì có lới yêu cầu của Đức Maria, nên Ngài đã tỏ chút vinh quang cho các môn đệ thấy và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tiệc cưới tình thương
- TIỆC CƯỚI TẠI CANA.
- Diễn tiến tiệc cưới.
Vào ngày thứ ba tính từ khi rời Nazareth đến Galilê, tức là vào tuần đầu đời công khai của Đức Giêsu, có một tiệc cưới ở Cana. Có lẽ tiệc cưới này là của bà con thân thuộc gì đó. Mẹ Đức Giêsu cũng được mời và đã đến đó trước rồi. Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên cũng được mời dự tiệc cưới đó.
Theo phong tục của người Do thái, có rất nhiều nghi lễ và cuộc vui kéo dài từ 3 đến một tuần lễ, tùy theo tài sản của đôi bên, và cuộc lễ thường đuợc tổ chức vào ban đêm. Trường hợp của bà goá tái giá thì chỉ trong ba ngày. Đám cưới này chắc hẳn của đôi tân hôn còn trẻ .
Đám cưới mà Đức Giêsu đến dự có lẽ là của một bậc khá giả vì cần nhiều nước dự trữ để làm lễ tẩy, lại thêm một viên quản tiệc tức là ngưới đứng đầu trông nom cỗ bàn. Thường thường thì người Do thái rất tiết kiệm, nhưng trong những dịp vui này người ta không ngại tốn kém, tổ chức cho linh đình để lấy tiếng cho gia đình mình. Trong tiệc vui như thế này người ta không ăn uống bình thường như mọi ngày mà có thể nói được người ta “nhậu nhẹt”, chén tạc chén thù, có thể đi đến say sưa. Có lẽ chính vì đó mà xẩy ra cảnh “hết rượu”. Chủ nhà đó đã tính hụt. Điều này làm cho gia chủ và những người phục vụ rất lo lắng vì đang bữa tiệc mà hết rượu thì cả là một sự xấu hổ và nhục nhã cho gia đình.
Đứng trước cảnh lúng túng của gia chủ, Đức Maria đã có cách tháo gỡ thế bí cho gia chủ: Ngài nhờ Đức Giêsu giúp đỡ. Ngài âm thầm từ dưới bếp đi lên, ghé vào tai Đức Giêsu mà nói nhỏ:”Họ hết rượu rồi”. Một lời gợi ý có tính cách van xin và đầy tin tưởng.
Đức Giêsu có phản ứng ngay và có tính cách lạnh nhạt:”Tôi với bà có can chi đâu, giờ tôi chưa đến”. Tiếng Việt nam và thói tục Việt nam nói như thế không có gì khó nghe cả. Những chàng thanh niên nhất là có địa vị, hay khi đã có gia đình và có con, khi nói với mẹ mình trước mặt một số người thường cũng hay dùng chữ “bà” với chữ “tôi”. Đối với người Việt nam, dùng chữ “bà” và “tôi” cũng vẫn thân mật. Tuy câu trả lời của Đức Giêsu có vẻ từ chối nhưng thực tế ai cũng hiểu lời ấy vẫn ngầm chứa sự đồng ý.
Giờ của Chúa tuy chưa tới, nhưng trước lời cầu xin của Đức Mẹ thì việc làm phép lạ phải đến trước “giờ”: 6 chum nước chứa được từ 800 đến 1200 lít đã biến thành rượu ngon. Đức Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên để cứu đôi tân hôn khỏi khổ nguy trong ngày đầu hết đời sống hôn nhân, dầu chưa đến giờ của Ngài. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu rất quan tâm đến đời sống hạnh phúc của hôn nhân.
- Ý nghĩa tiệc cưới.
Phép lạ ở Cana liên kết Chúa nhật này với ngày lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu phép rửa – tất cả là sự biểu lộ vinh quang của Ngài. Nếu chúng ta hiểu phép lạ ở Cana theo nghĩa đen, chúng ta sẽ giản lược nó thành một điều kỳ diệu chỉ trong nháy mắt là xong và giới hạn ý nghĩa của nó.
Thánh Gioan đã có dụng ý dùng từ “dấu lạ đầu tiên” để chỉ ý nghĩa sâu xa của nó và nó có giá trị trong mọi thời đại. Trong nỗ lực mô tả mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Người, Kinh thánh dùng hình ảnh của hôn phu và hôn thê. Và để mô tả niềm vui mà Thiên Chúa tìm thấy ở giữa dân Người, Thiên Chúa dùng hình ảnh tiệc cưới.
Bài đọc 1 gợi lên cho chúng ta ý tưởng: dân Israel là hôn thê của Thiên Chúa đã bất trung, phải bị lưu đày, nhưng hôn phu của nàng là Thiên Chúa đã không quên nàng. Sẽ có một tiệc cưới mới. Thiên Chúa sẽ phục hưng dân Ngài. Lời hứa này đã được thực hiện khi dân chúng trở về từ chốn lưu đầy, nhưng đặc biệt hơn khi Đức Giêsu đến. Người ta không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai ở một tiệc cưới. Ở tiệc cưới ấy, người ta thiếu rượu. Cách nói này muốn ám chỉ tôn giáo cũ, giao ước cũ vẫn còn thiếu sót. Đã đến lúc mọi lời hứa phải đuợc thực hiện, cũng là thời kỳ của luật mới và tinh thần mới. Điều Đức Giêsu đã thực hiện ở Cana không phải là một việc làm hời hợt, nó nói lên điều phải xẩy ra trong suốt sứ vụ của Ngài. Hoá nước thành rượu là một biểu tượng của việc Ngài cần phải thực hiện. Bất cứ nơi nào Ngài đến, cái cũ được trở thành cái mới (McCarthy).
Đức Giêsu hiện diện trong tiệc cưới để cùng cảm thông niềm vui của con người, đồng thời cũng là dịp để Chúa thu phục niềm tin của các môn đệ mới theo Ngài.
Đối với việc Đức Giêsu và Đức Maria đi ăn cưới thì điều này rất bình thường trong cuộc sống của con người. Nhưng lần này khi đến tham dự tiệc cưới và thực hiện phép lạ hoá nước thành rượu, Đức Giêsu muốn nói lên mối quan tâm của Ngài đối với gia đình. Trong tiệc cưới này Ngài đã cứu cho gia đình nhà chủ tiệc một bàn thua hết rượu và để cho cuộc vui không bị gián đoạn. Như vậy, Đức Giêsu đặc biệt quan tâm đến đời sống gia đình. Ngài muốn làm nổi bật về vai trò của gia đình, nhất là tính bền vững của gia đình Công giáo. Đứng trước những khó khăn của cuộc sống gia đình, Chúa vạch ra một đuờng lối để cho gia đình luôn được êm ấm, hạnh phúc.
- TIỆC CƯỚI VÀ HÔN NHÂN.
- Đức Giêsu lập bí tích hôn nhân.
Đức Giêsu đến dự tiệc cưới Cana là dấu chỉ Ngài sẽ lập bí tích hôn nhân sau này, Ngài quan tâm đến đời sống gia đình và chúc phúc cho hôn nhân.
Tại sao lại có hôn nhân? Thánh Gioan Tông đồ nói:”Thiên Chúa là tình yêu”. Ngài là nguồn gốc của tình yêu, Ngài san sẻ tình yêu cho con người để họ yêu Ngài và yêu nhau. Vì thế ai cũng có tình yêu: trẻ con thì yêu cha mẹ, anh chị em, lớn lên thì có tình yêu nam nữ. Tình yêu luôn hướng đến sự kết hợp. Do đó, tình yêu nam nữ dẫn đến hôn nhân.
Hôn nhân là một hành vi tự nhiên và có tính cách nhân linh. Sở dĩ nói hôn nhân có tính cách nhân linh là vì con người không chỉ đến kết hợp với nhau do bản năng mà còn do sự suy nghĩ lựa chọn , tự do: tự đặt câu hỏi có nên kết hôn chăng, kết hôn với ai, vào lúc nào…
Mọi cuộc hôn nhân không phải phát xuất từ con người mà từ Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ và cho họ kết hợp với nhau. Chính Đức Giêsu đã nói:”Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,8-9).
Ta cần phân biệt hai loại hôn nhân: hôn nhân tự nhiên và hôn nhân theo bí tích . Những người ngoại giáo lấy nhau theo hôn nhân tự nhiên, đó là điều tốt và Chúa chúc lành cho họ. Chúng ta là những người công giáo, phải ý thức rằng Đức Kitô đã thiết lập bí tích hôn nhân, nên ngoài hôn nhân tự nhiên ra, chúng ta còn phải cử hành bí tích hôn phối theo bí tích để chính thức nên vợ nên chồng.
Hôn nhân theo bí tích có hai đặc tính: đơn hôn và vĩnh hôn. Đơn hôn là hôn phối một vợ một chồng, không chấp nhận chế độ đa thê hay đa phu. Còn vĩnh hôn là không được ly dị. Hai đặc tính này được trích ra từ Lời Chúa:”Cả hai sẽ thành một xương một thịt”(Mc 10,8) và “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,9)
- Nền tảng của hôn nhân.
Chúng ta phải khẳng định rằng tình yêu la ønền tảng của hôn nhân. Chúng ta không thể xây dựng hôn nhân trên nền tảng khác như chức quyền, danh vọng, tiền của, sắc dục, những thứ đó dễ bị mai một và nếu không còn những thứ đó thì hôn nhân sẽ ra sao? Vì thế, muốn đi đến hôn nhân phải có tình yêu trước đã. Đây là điều kiện tiên quyết “sine qua non”(không có không được), đúng như ông Alphonse Karr nói:”Hôn nhân không có tình yêu là ngày không có rạng đông”. Nếu mới gặp nhau lần đầu, anh A đã yêu chị B một cách say đắm. Anh không còn tìm hiểu làm gì, anh nói với cha mẹ cho cưới chị B. Anh cho là hai người tâm đầu ý hợp. Đấy chưa hẳn là tình yêu có nền tảng mà chỉ là “tiếng sét ái tình”.
Hoặc một anh tỷ phú muốn chọn cho mình một người vợ lý tưởng. Anh ta dùng máy móc để đo vòng ngực, vòng eo và vòng mông đúng tiêu chuẩn. Thêm vào một chút là cái mũi dọc dừa hơi cao, tóc mầu hung, con mắt lá răm, lông mày lá liễu… Anh coi vậy là người yêu lý tưởng! Nhưng đấy đâu phải là người yêu mà chỉ là một con “robot”.
Muốn trở thành người yêu còn phải tìm hiểu tính tình, ước vọng, nghề nghiệp, sở trường sở đoản, gia đình của cô ta vì “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Sau đó, anh còn phải quyết định xem có nên lấy cô ấy không vì chưa nắm vững tương lai. Khi đã có một quyết định đứng đắn và dứt khoát thì phải nói đến sự “dấn thân” (engagement). Khi đã nói đến dấn thân thì luôn ngầm chứa một chút “liều” trong đó:
Một liều ba bảy cũng liều
Cầm bằng con trẻ chơi diều đứt dây.
(Ca dao)
Khi đã kết hôn thì vợ chồng phải thương yêu nhau tha thiết. Tình yêu vợ chồng phải noi theo và nắm giữ là theo mô hình của tình yêu giữa Chúa Giêsu và Hội thánh:”Nguời làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô thương yêu Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh”(Ep 5,25).
- Hạnh phúc của hôn nhân.
Con người từ bẩm sinh, ai cũng muốn được hạnh phúc, kể cả người tự tử (theo Pascal). Nhưng hạnh phúc không phải là một cái gì tiền chế có sẵn đấy, muốn chọn bao nhiêu hay muốn mua bao nhiêu thì mua, nhưng hạnh phúc phải là cái gì do con người tạo ra. Hôn nhân thực ra chỉ là một cái hộp rỗng, chưa có hạnh phúc, phải bỏ gì vào đấy rồi mới lấy ra được vì nếu không bỏ hạnh phúc vào thì có gì mà lấy ra? Hạnh phúc không phải tự nhiên mà có hay do người khác tặng cho mà hạnh phúc phải được trả bằng giá đắt.
Có nhiều cách để đạt tới hạnh phúc. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến 3 phương cách tạo ra hạnh phúc: hy sinh, nhẫn nhục và thánh thiện.
- a) Tinh thần hy sinh.
Không có tình yêu nào chỉ toàn mầu hồng, bay lượn trên không, mà tình yêu phải được dệt bằng hy sinh, đau khổ , gian nan , thử thách vì không có hoa hồng nào mà không có gai. Càng hy sinh nhiều, tình yêu càng sâu đậm, và hy sinh tỷ lệ thuận với hạnh phúc. Ông Chamfort nói:”Muốn thử nghiệm tình yêu, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, thì đó là tình yêu thật”. Một người vợ dấn thân theo chồng đã hy sinh tất cả để mưu cầu hạnh phúc cho gia đình, đã tâm sự:
Một ngày ba bận trèo non,
Lấy gì mà dòn mà đẹp hỡi anh.
Một ngày ba bận trèo đèo
Vì ai vú xếch, lưng eo hỡi chàng?
(Ca dao)
- b) Nhẫn nhục chịu đựng.
Bà De Scudéry nói:”Bắt đầu yêu là bắt đầu sống”, nhưng có người nói ngược lại: Bắt đầu yêu là bắt đầu chết. Vậy yêu là sống hay là chết? Có lẽ chúng ta phải nói: yêu vừa là sống vừa là chết. Nhưng muốn cho tình yêu được trọn vẹn, bao giờ cũng phải nhịn nhục chịu đựng. Tại sao?
* Đã yêu thì phải chết:
“Yêu là chết trong lòng một ít” (Xuân Diệu)
Đã yêu thì phải chết, không chết trước thì chết sau:
– Chết trước: chết trước là phải nhẫn nại chờ đợi cho đến ngày kết hôn, phải giữ mình được trinh tiết:
Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ,
Đôi ta trinh tiết để chờ lấy nhau.
(Ca dao)
– Chết sau: Trong cuộc sống gia đình sẽ có sự lộn xộn, xích mích , va chạm, bất hòa, không thể nào tránh được cảnh “cơm chẳng lành canh chẳng ngọt”. Bao nhiêu sự khó khăn xẩy đến cho gia đình mà hai người phải kiên trì chịu đựng.
* Đã yêu thì phải nhẫn nhục:
Chúng ta có thể nói về tình yêu thật:
Đã yêu thì nhẫn
Đã nhẫn thì nhục
Vì thế mới có Nhẫn nhục.
Chữ nhẫn ở đây không phải là nhẫn vàng hay kim cương mà là nhẫn nại chịu đựng. Chúng ta phải chấp nhận sự nhẫn nại, đã nhẫn thì phải nhục, nhưng chắc chắn sẽ đi đến kết quả tốt:”Ai kiên nhẫn đến cùng thì sẽ được rỗi”(Mt 10,22).
Vì thế văn hào Hypolite Taine nói một cách mỉa mai:
“Người ta tìm hiểu nhau ba tuần
Yêu nhau ba tháng
Cãi nhau ba năm
Rồi chịu đựng 30 năm… để con cái lại trở về cái vòng luẩn quẩn”.
- c) Đời sống thánh thiện.
Chìa khoá mở cửa vào chốn hạnh phúc là sự thánh thiện. Nếu vợ chồng yêu thương nhau như mối tình giữa Chúa Kitô và Hội thánh thì chắc chắn phải có đời sống thánh thiện. Phải rước Chúa vào trong đời sống gia đình. Bài Tin mừng hôm nay chứng tỏ chính nhờ Chúa mà gia đình ở Cana này không vỡ mộng hạnh phúc. Không có Chúa, làm sao gia đình tránh khỏi sự đau khổ phiền muộn lúc ban đầu.
Nhà nào có Chúa ngự trong gia đình thì nhà ấy có hạnh phúc. Kinh nghiệm cho hay những gia đình nào hay đi dự lễ, buổi tối đọc kinh trong gia đình thì gia đình ấy thường là sống yêu thương, nhường nhịn, thuận hoà, giúp đỡ nhau, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc ngay khi gặp những khó khăn trong gia đình. Một trong các tiêu chuẩn hàng đầu phải có trong khi chọn người yêu để lập gia đình là sự thánh thiện, hay ít ra có đời sống đạo đức bình thường.
Truyện: Sẩy hết.
Có một chị kia muốn lập gia đình với một anh thanh niên trong xứ. Muốn hỏi ý kiến cha xứ xem chị ta có nên lấy anh ấy không.
Cha hỏi:
– Anh ấy thế nào?
Chị thưa:
– Anh ấy có bằng Thạc sĩ, cha ạ.
Cha xứ trả lời:
– Hết sẩy. Còn gì nữa?
– Anh ấy chơi dương cầm hay lắm.
– Hết sẩy.
– Anh ấy là hoạ sĩ nữa.
– Hết sẩy!
– Anh ấy lại có tài ngoại giao nữa.
– Hết sẩy!
– Anh ấy lại là con nhà giầu nữa .
– Hết sẩy.
– Nhưng còn một điều con hơi thắc mắc, đó là anh ta khô khan, không xưng tội rước lễõ!.
Cha xứ trợn mắt, lắc đầu:
– Ồ! SẨY HẾT.
III. TIỆC CƯỚI VÀ ĐỨC MARIA.
“Người bảo gì thì cứ làm theo”. Mặc dầu câu trả lời của Đức Giêsu có vẻ từ chối:”Giờ con chưa đến”, nhưng Mẹ Maria cứ tin rằng, Con mình sẽ thực hiện theo lời yêu cầu của mình nên đã nói với gia nhân:”Người bảo gì cứ làm theo”. Đức Mẹ biết Con mình rất hiếu thảo, không bao giờ làm buồn lòng cha mẹ. Do đó, khi đề xuất việc hết rượu với Con mình, Đức Mẹ tin chắc Con mình sẽ can thiệp, dĩ nhiên bằng phép lạ, dù trước đó Ngài chưa từng làm.
Điều này cũng nói lên giá trị thật sự trong lời bầu cử của Đức Mẹ đối với Con mình. Nói đến việc con cái hiếu thảo đối với cha mẹ, chúng ta liên tưởng đến một người con rất hiếu thảo, qúi trọng mẹ mình, không bao giờ muốn làm buồn lòng mẹ mình, đó là vua Salomôn trong Cựu ước. Trong sách Các vua có thuật lại khi mẹ của Salomon đi gặp ông, ông đi ra đón và sấp mình chào bà ; đoạn ông ngồi trên ngai, đồng thời truyền đặt một ngai cho bà ngồi bên hữu, và nói:”Thưa mẹ, mẹ cần gì cứ nói, con không từ chối mẹ điều gì”( 1V 2,19-20).
Mẹ Maria có mặt trong tiệc cưới không phải là sự ngẫu nhiên mà do sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngày nay Mẹ đang có mặt trong cuộc sống gia đình chúng ta. Mẹ cùng chia sẻ nỗi lo với mọi người chúng ta. Mẹ biết những khó khăn mà gia đình chúng ta đang gặp phải. Mẹ hiểu gia đình chúng ta đang thiếu những gì và cần gì. Mẹ đón nhận cái khổ của các gia đình như là cái khổ của mình. Chính vì thế khi cuộc sống gia đình gặp sóng gió, chúng ta tìm đến với Mẹ Maria. Mẹ sẵn sàng làm những gì có thể để giúp gia đình chúng ta như năm xưa Mẹ đã báo cho Chúa biết việc hết rượu. Nhờ Mẹ cầu bầu, Chúa lại sẽ làm phép lạ để cho rượu yêu thương trong hũ của gia đình chúng ta được đầy tràn (JKN).
Truyện: Xin tài trợ.
Linh mục Sylvano và mục sư Tin lành Henri cùng nhau đến lâu đài Pa-xi-an để xin hoàng tử trợ giúp tài chính cho dự án của mình.
Linh mục Sylvano có ý định xin tiền để xây nhà thờ. Còn mục sư Henri thì xin tiền để xây trường học.
Đến nơi, họ được hoàng tử Auguste tiếp kiến riêng từng người một. Người được vào trước là mục sư Henri. Nhưng chỉ vài phút sau người ta thấy mục sự bước ra với vẻ mặt buồn thiu, vì dự án không được hoàng tử chấp nhận.
Mục sư ngồi lại chờ linh mục Sylvano để cùng về chung. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy linh mục bước ra khỏi phòng tiếp kiến của hoàng tử, vẻ mặt hớn hở, tay xách một túi tiền khá nặng. Mục sự Henri liền thắc mắc hỏi:
– Tại sao linh mục lại được tài trợ như thế?
Linh mục Sylvano trả lời:
– Dĩ nhiên đúng như vậy. Thoạt đầu hoàng tử chối từ lời xin của tôi. Nhưng khi nhìn qua bên cạnh thấy có hoàng thái hậu, tôi liền đến trước hoàng thái hậu để xin ngài bầu cử cho. Và hoàng tử đã đổi ý kiến, nghe lời khẩn cầu của hoàng thái hậu mà tài trợ cho dự án của tôi. Hoàng tử đã thưa với mẹ:”Mẹ đồng ý thì con cũng đồng ý”(D. Wahrheit, Món quà giáng sinh, 79-80).
“Mẹ đồng ý thì con cũng đồng ý”. Đó là điều mà câu chuyện trên đây muốn nhắc nhở.
Người công giáo chúng ta có lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria. Chúng ta đến với Chúa Giêsu qua Mẹ Maria. Mẹ khẩn cầu cho chúng ta và cùng với chúng ta thì làm sao Chúa Giêsu có thể từ chối.
46. Chúa Nhật 2 Thường Niên
“NGÀI CÓ BẢO GÌ, HÃY LÀM THEO!”
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Sở dĩ gọi Cana trong miền Galilê là để phân biệt với Cana miền Coelo-Syria. Đây là một làng rất gần Nadaret. Thánh Hiêrônimô, người từng ở Palestine bảo rằng, từ Nadaret ông có thể nhìn thấy Cana. Tại đó đang có một đám cưới, Đức Maria được mời đến dự và giữ một vai trò đặc biệt, chắc liên quan đến việc tổ chức nên bà đã tỏ ra lo lắng khi thấy thiếu rượu. Bà cũng có đủ quyền để ra lệnh cho đầy tớ làm bất cứ điều gì Chúa bảo.
Tại xứ Palestine, lễ cưới là một cơ hội thật sự quan trọng. Theo luật Do thái, lễ cưới của một trinh nữ phải tổ chức vào ngày thứ tư. Điều này rất thú vị, vì nó cho chúng ta căn cứ để tính lui lại: nếu đám cưới nhằm ngày thứ Tư, thì ngày Chúa Giêsu gặp Anrê và Gioan lần đầu tiên phải là ngày sa-bát, và cả hai đều ở với Ngài trọn ngày đó. Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường làng, dưới ánh đuốc, có lọng che đầu. Họ được đưa theo con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Tại Palestine vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Họ được đối xử như vị vua và hoàng hậu, và lời nói của họ là luật. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Chúa Giêsu đã vui vẻ tham dự ngày hạnh phúc ấy. Nhưng đã có trục trặc xảy ra.
Trong đám tiệc của người Do thái, rất cần rượu. Các Rabi vẫn nói: “Không rượu thì không vui”. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng bên Đông phương món rượu thật quan trọng. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn, thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể. Vì thế Đức Maria đã báo cho Chúa Giêsu biết sự việc này. Mà Chúa Giêsu đã bày tỏ quyền năng của Ngài để cứu gia đình mộc mạc này khỏi bị tổn thương nhục nhã. Ngài đã hành động vì lòng ưu ái, tử tế, thông cảm với những người mộc mạc đơn sơ.
Câu chuyện đã được kể lại cách sống động nên rõ ràng phải là do người đã chứng kiến tận mắt ghi lại, nhưng không phải là ghi lại ngay sau khi xảy ra mà là bảy mươi năm sau, và cũng ghi lại tác dụng của phép lạ ấy: “Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana và bày tỏ vinh quang của Người.” Chúa làm phép lạ này bày tỏ vinh quang của Người. Chúng ta cố gắng tìm biết các nguyên tắc bày tỏ tỏ vinh quang này.
– Bước đường cùng khiến người ta quay về với Chúa, cung cấp dịp tiện cho Người hành động, ân huệ của Chúa được ban cho ai thành khẩn kêu cầu Ngài. Dầu có người chê cầu nguyện là mê tín, hay bình thường thì chẳng bao giờ cầu nguyện, nhưng một khi đã lâm vào cảnh khốn cùng, chẳng ai không ngước mắt lên trời mà kêu cầu.
– Đức Maria là người thân trong gia đình này, được mới tới dự tiệc cưới, khi thấy rượu đã hết, biết ngay chủ nhà sẽ rất bối rối, sẽ bị bẽ mặt, và các thực khách sẽ mất vui. Không kể đến địa vị làm mẹ, đến với Đức Giêsu mà cầu khẩn: “Họ hết rượu rồi.” Làm mẹ, mà hạ mình cầu cứu con, không phải dễ lắm đâu. Đàng khác chưa biết ý Chúa ra sao, đường đột đưa ra một lời cầu như vậy mà không thăm dò trước có khi rước lấy tai họa. Thế nhưng đến nước này, nếu không kêu cầu Chúa thì còn biết trông cậy vào ai nữa!
Lời cầu nguyện của Đức Maria bị thôi thúc vì hoàn cảnh mà Mẹ đảm trách lấy, là kiểu mẫu cho những lời cầu bầu của chúng ta.
Vì chúng ta thấy lời cầu của Đức Maria là lời cầu “Ý Cha thực hiện” vì Ngài chỉ nói: “Họ hết rượu rồi” chứ không thêm gì vào nữa! Một lời cầu nguyện tốt nhất là “trình lên Chúa các nhu cầu của mình” rồi để Ngài làm theo ý Ngài. Đức Maria đã làm như thế; còn phần chúng ta, ngoài việc trình nhu cầu lên Chúa, thường hay bày thêm cách này cách kia, đôi khi còn đòi Chúa phải làm theo ý của mình. Đức Maria không ép Chúa, Ngài để Chúa tự do địnhh liệu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có người đã làm theo gương Đức Maria, khi Ladarô đau nặng, hai chị em Matta và Maria sai người đi thưa Chúa “người Thày yêu đau nặng.”
– Lời cầu nguyện của Đức Maria là lời cầu nguyện hạ mình: đây là lời cầu xin của bà mẹ đối với con. Nếu còn giữ thể diện thì không dễ gì một bà mẹ sẵn lòng hạ mình kêu cầu con; đã thế lại còn nhận được một lời đáp ứng dường như cứng cỏi của Chúa Giêsu: “Thứa bà, chuyện đó can gì đến bà và con, giờ của con chưa đến.” Thế nhưng, Đức Maria đã từ bỏ mình trước rồi, chỉ nghĩ đến tình hình khẩn cấp chứ không nghĩ đến thể diện cá nhân. Lời câu xin không kể đến thể diện mình quả là phép mầu để Chúa được vinh hiển. Chẳng những tại đây, do lời cầu của Đức Maria mà Chúa được vinh hiển, mà khắp nơi qua Kinh Thánh đều thấy Chúa làm phép lạ là do có người kêu cầu.
– Này, có một người phong đến gần Ngài thưa: “Lạy Chúa, nếu Chúa ưng, xin cho con được lành mạnh. Chúa giơ tay sờ đến anh phá: Ta muốn, anh được lành sạch. Tức thì người phong được sạch.”
– Khi Chúa vào Caphanaum, có một sĩ quan đến thưa Ngài: “Con gái tôi đau gần chết, xin Thày đến đặt tay trên nó, để được sống.” Chúa bèn đứng dậy đi theo ông.”
– Phêrô hòng chìm xuống nước la lên: “Thầy ơi cứu con với, tức thì Chúa giơ tay ra cứu ông.”
– Hai người mù thưa: “Lạy Chúa, xin cho mắt chúng tôi được sáng. Chúa động lòng thương, liền sờ đến mắt và hai người thấy được”
Có thể trưng nhiều hơn, nhưng cũng đủ để thấy Chúa thường hay mượn cớ người ta cầu nguyện để ban ơn, để tỏ bày vinh hiển của Ngài. Nguyện lời cầu của chúng ta cũng giống thế.
Thấy nhà chủ hết rượu Đức Maria trình lên Chúa nhu cầu, thì nhận được một lời đáp ứng không mấy tích cực: “Chuyện đó can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến.” Làm thân bà mẹ mà phải hạ mình xin con đã là khó, nay lại nhận được một câu trả lời như thế, rất dễ nản lòng, mất hết cậy trông. Đức Maria không thế, Ngài vẫn bình tĩnh bảo những người giúp việc Đức Giêsu bảo gì cứ làm theo đó. Tại sao Đức Maria biết Chúa sẽ ra lệnh cho các kẻ giúp việc? Đó chỉ do bà tin. Bà chẳng vì cảm xúc mà nghi ngờ điều mình xin, nhưng lấy đức tin mà nắm lấy lời hứa của việc cầu nguyện: “Cứ xin thì được.” Chính vì đức tin mà Maria dặn bảo các người giúp việc phải tuân theo lệnh Chúa.
Trình bày nhu cầu xong, phải tin vào lời hứa của Chúa mà chắc chắn mình được nhận lời. Thiếu đức tin thì không bao giờ thấy vinh hiển của Chúa. Các vĩ nhân trong lịch sử thánh đều là những anh hùng đức tin: bởi đức tin, nước Biển Đỏ rẽ đôi, bởi đức tin có thể qua sông Giođan, bởi đức tin có thể đánh lui toán quân của ngoại bang, bởi đức tin có thể khiến thành Giêricô sụp đổ, khiến người mù được sáng, què được đi, kẻ phong được sạch, người chết rồi cũng được sống lại. Có việc nào không bởi đức tin mà tỏ bày vinh quang của Chúa đâu. Thế nên, Chúa từng phán với Matta rằng: “Ta đã chẳng nói với con rằng nếu con tin con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa.” Giả như lúc này Đức Maria không dặn bảo những người giúp việc sẵn sàng làm theo lệnh Chúa thì Chúa cũng chẳng bảo họ làm gì nữa, mà dầu có bảo họ cũng chẳng nghe theo. Thế thì đã không có phép lạ nước hóa ra rượu… nhưng vì đức tin của Đức Maria quá lớn, nên phép lạ đã xảy ra.
Sở dĩ chúng ta không được thấy vinh hiển Chúa trong đời sống, không phải vì chúng ta không cầu xin, nhưng vì cầu xin trong sự không tin. Hãy bắt chước Đức Maria, nghĩa là phải lấy đức tin mà nhận điều mình cầu xin dầu hoàn cảnh là thập phần khó khăn, cảm giác thập phần lạt lẽo, nhưng phải làm xong điều gì phải làm như Đức Maria đã từng làm thì Chúa sẽ phải giữ lời Ngài đã hứa mà ban ơn cho ta để tỏ vinh quang Ngài.
Với lòng đầy tin tưởng, Đức Maria nói gì: “Người bảo gì cứ làm theo đó.” Phải ghi chặt vào lòng câu nói đó. Vì đó là việc buộc phải làm về phương diện loài người. Nếu ta không chịu vâng phục mà làm theo, vinh quang của Chúa có thể bị cản trở vì bất tuân của loài người. Các bạn có tin Thiên Chúa rẽ đôi nước Biển Đỏ không? Tin chứ, nhưng nếu bất tuân mà không giơ cây gậy lên thì nước Hằng Hải đâu có phân đôi tả hữu; các bạn có tin nước Giođan nhưng chảy không? Tin chứ, nhưng nếu vì bất tuân mà không đặt chân vào dòng sông thì nước không dồn lại thành đống. Bạn có tin Chúa có thể làm sụp đổ tường thành Giêricô không? Tin chứ, nhưng nếu không nghe lời Chúa mà đi vòng quanh thành đủ bảy ngày, thì tường thành không tự nhiên đổ xuống đâu. Người teo tay phải vâng lời Chúa mà giơ tay ra, mới được lành; người phong phải vâng lời Chúa đem thân đến cho thấy tư tế khám nghiệm mới được sạch phong; người mù phải vâng lời Chúa đi xuống ao Silôê mà rửa mới xem thấy được. Trong Kinh Thánh có rất nhiều bằng chứng cho thấy rằng sự vâng phục là điều kiện buộc phải có để Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài.
Trong tiệc cưới, các gia nhân đang bận rộn, vậy mà Chúa bảo họ phải đổ đầy nước vào sáu cái chum đá, thế mà họ vâng lệnh “đổ đầy tới miệng”. Rồi tiếp theo lệnh thứ hai: “Bây giờ hãy múc đưa cho người quản tiệc. Họ liền đem cho ông.” Chữ ‘liền’ ở đây rất ý nghĩa, đây chính là thái độ tỏ rõ vinh quang Chúa. Có gì buộc mà họ phải vâng lời Ngài, Ngài đâu có phải là chủ của họ, họ đang bận rộn, gặp lúc thiếu rượu lại còn quýnh lên; lại nữa lời bảo của Chúa chẳng hợp lẽ chút nào: đổ nước vào chum đá đã là phiền hà, lại còn múc đem cho người quản tiệc để làm gì? Bảo làm thế, để làm gì trong tình thế khó khăn này? Thế nhưng gia nhân đã vâng theo không hề phản kháng càu nhàu, Chúa bảo làm gì họ làm thế. Họ đem lại cho Chúa cơ hội hoàn toàn tự do để bày tỏ quyền năng là biến nước thành rượu. Nếu người ta không chịu vâng phục mà đổ nước vào rồi lại múc nước ra, hay tuy là vâng theo, nhưng không trọn vẹn, chỉ để lưng chừng, thì thế nào cũng giảm bớt hay làm bế tắc vinh hiển của Chúa. Thế mới biết vâng lời không cần lý do mới khó làm sao! Nhưng vâng phục không cần lý do quả thực là điều kiện duy nhất của những ai giúp việc Chúa!
Đến với Chúa, chúng ta chỉ có sự cầu xin thì không đủ, cần phải có đức tin nữa; chỉ có đức tin cũng chưa đủ, còn phải có sự vâng phục nữa. Chắc có nhiều người nói mình đã có đức tin rồi, nhưng thử hỏi thật lòng mình đã có vâng phục hoàn toàn chưa. Chúa bảo bạn làm điều gì cứ làm ngay điều đó, đừng nhìn xen hoàn cảnh, đừng đòi lý do, “cứ làm theo đi” một người đi theo Chúa, quả có nhiều bài phải học, mà bài khó học hơn hết là vâng phục, có thể nói rằng hễ ai tiến bộ trong sự vâng phục là có tiến bộ trong đời thuộc linh. Vâng phục là đem chủ quyền của mình mà nhường cho Chúa, để Chúa cai trị, khi nào người môn đệ hoàn toàn vâng phục Chúa, Chúa mới hoàn toàn làm chủ người môn đệ. Phải biết chắc rằng bạn có vâng phục Chúa, Chúa mới vâng phục bạn (nghe lời bạn cầu xin).
47. Nước hằng sống
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Hai năm trước đây vào tháng giêng 2011 nhiều nơi trong thành phố Brisbane chìm dưới nước. Suốt mấy tuần lễ sau đó hàng ngày đều có thông báo và tiên đoán những thành phố nào kế tiếp sẽ là nạn nhân của giòng thác lũ. Những tiên đoán trên đã xảy ra đúng như những gì thông báo. Năm nay trái lại, khí hậu khô, oi bức. Không phải khô hạn chỉ gây nóng bức, khó chịu mà còn gây cháy rừng toàn lục địa. Người người, nhà nhà cầu trời đổ mưa; kẻ không tin mong trời xả nước giập tắt hoả hoạn cháy rừng. Người người vẫn còn mong đợi.
Nước đóng một vai trò quan trọng trong Kinh Thánh. Thời Cựu Ước nước được nhắc đến giải thoát cơn khát sa mạc của đoàn lữ hành trên đường về Đất Hứa. Thời Tân Ước nước dùng để thanh tẩy mang lại ơn thánh hoá. Đức Kitô dùng hình ảnh nước thường diễn giải nước hằng sống cho người phụ nữ thành Samarita khi Ngài nói cùng cô:
Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời (Ga 4,14)
Tuần trước chúng ta nghe về phép thanh tẩy của Gioan và ông cũng là người ban phép thanh tẩy cho Đức Kitô trước khi Ngài bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai. Tuần này chúng ta nghe về phép lạ Đức Kitô biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana tại Galilê. Việc biến nước thành rượu thượng hảo hạng đã làm kinh ngạc cả thực khách lẫn người quản tiệc. Ông diễn tả điều ngạc nhiên như sau:
Ai ai cũng thết ruợu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ (Ga 2,10)
Cuối bài Kinh Thánh kết luận:
Đức Kitô đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người (Ga 2,12)
Các môn đệ tin vào Đức Kitô trước khi Ngài làm dấu lạ. Nếu không tin vào Ngài các ông đã không bỏ mọi sự để đi theo. Chính việc các ông bỏ mọi sự để đi theo cho thấy niềm tin của các ông. Điều Kinh Thánh diễn tả trong trình thuật này cho biết một điều khác hơn là đức tin của các ông. Các môn đệ tin vào Đức Kitô nhưng các ông không biết Lời Ngài có sức sáng tạo. Các ông biết sau khi chứng kiến Đức Kitô làm dấu lạ. Các ông nhìn thấy các người giúp việc múc nước đổ vào chum. Các ông nghe Ngài nói với các người giúp việc lấy nước trong chum đưa cho người quản tiệc và các ông nghe người quản tiệc khen rượu ngon. Có lẽ chính các ông cũng được nếm thử thứ rượu hảo hạng đó. Các ông nghe, thấy và tin Lời Thầy có sức mạnh. Lời Thầy có sức thánh hoá. Lời Thầy có sức biến đổi nước thành rượu. Như thế dấu lạ không ban đức tin cho người Kitô hữu nhưng thêm sức mạnh cho đức tin, làm cho người Kitô hữu hiểu thêm, hiểu sâu hơn về niềm tin.
Niềm tin của các tông đồ có trước sau đó mới đến dấu lạ. Không phải thấy dấu lạ rồi mới có đức tin mà chính là ngược lại, các tông đồ có đức tin rồi mới thấy dấu lạ.
Tin theo Đức Kitô luôn có những ngạc nhiên tốt đẹp đến trong đời. Điều ngạc nhiên tốt đẹp nhất, trọng đại nhất đến sau cùng. Đó chính là nước hằng sống mà Ngài hứa ban cho chị phụ nữ thành Samarita. Đây cũng là niềm hy vọng của mỗi người trong chúng ta những kẻ tin theo Chúa.
Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời (Ga 4,14).
48. Ngày thứ Ba
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Ngày thứ ba hay số ba đóng một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ của Đức Kitô.
Ngày thứ ba không nhất thiết phải là sau ngày thứ hai trong tuần. Ngày thứ ba có một nghĩa khác là sau ba ngày. Sau ba ngày có thể là bất cứ ngày nào trong tuần kể từ khi sự việc xảy ra. Có cách diễn tả khác đó là ba ngày sau.
Đức Kitô làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana tại Galilê vào ngày Thứ Ba. Quan trọng hơn nữa Ngài sống lại từ cõi chết sau ba ngày. Cũng là con số ba. Quan trọng nhất là tín điều Một Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Đổi mới
Ngày thứ ba trong tiệc cưới Cana có đổi mới. Nước lã biến thành rượu ngon.
Bầu cũ, bình da cũ tượng trưng cho một dân tộc, cá nhân, mà tinh thần bạc nhược, hèn nhát, không còn minh mẫn, sáng suốt nhận biết chân giả, đúng sai. Để phân biệt hư thực đúng sai, điều tốt lành, trọn hảo dân tộc đó, cá nhân đó, cần một tinh thần mới, sức sống mới. Đó là loại rượu mới.
Rượu mới tượng trưng cho trật tự mới. Một trật tự có nguồn gốc phát xuất từ tình yêu. Mọi lời nói, cử chỉ, việc làm do tình yêu chân thành thúc đẩy, hướng dẫn, đều bắt nguồn từ trật tự mới. Đó là đạo lí mới, cách sống mới, được Lời Chúa hướng dẫn, chỉ dậy cách sống, cách thờ phượng mới.
Trật tự mới rút ra từ trật tự cũ đó là nước lã. Châm ngôn ‘lạt như nước ốc’ diễn tả một tấm lòng thiếu chân thành, tự nguyện, một tình cảm nhạt nhẽo, không ân cần, săn đón, chăm sóc.
Rượu mới, đạo lí mới, cách sống mới Đức Kitô rao giảng tốt hơn đạo lí cũ, cách xử thế cũ. Cách xử thế cũ nặng hình thức, trình diễn bên ngoài được thay thế bằng cách sống mới đầy yêu thương.
Cựu Ước cũng nhắc đến tầm quan trọng của con số ba. Sách Xuất Hành chương 19 nhắc lại biến cố dân Israel sau ba tháng bỏ đất cũ Ai Cập đến miền đất mới Sinai. Tại nơi đây Môsê nhận lệnh từ Giavê Thiên Chúa, sau ba ngày Ngài thiết lập Giao Ước, Môsê nhận Mười Điều răn.
Đức Kitô chịu phép rửa tại sông Giođan, ba ngày sau Ngài nhận hai môn đệ là Philiphê và Nathanaen.
Ngày thứ ba trong cuộc Phục Sinh của Đức Kitô mang đến cho nhân loại một chiến thắng khải hoàn. Qua đó những ai tin sẽ nhận ơn cứu độ, thoát ách xiềng xích của ma quỉ do tội lỗi gây nên và trở nên con Thiên Chúa, dân tuyển chọn. Đây là một đổi mới toàn diện con người, bắt đầu từ trong tâm, tràn đầy yêu thương, cảm thông và tha thứ. Thành quả sau ba ngày mai táng trong mồ. Ngài sống lại ban cho nhân loại sự sống mới.
Tiệc cưới
Kinh thánh dùng hình ảnh ngày vui tiệc cưới nói về niềm vui nước trời cho những ai đáp lại lời Đức Kitô mời gọi. Người tham dự tiệc cưới cần có sốt sắng tham dự và tinh thần sẵn sàng. Dụ ngôn mười trinh nữ dự tiệc cưới cho thấy chuẩn bị và sẵn sàng là thiết yếu. Thiếu chuẩn bị sẽ thua thiệt vì bị từ chối nhập tiệc (Mt 25).
Dự tiệc cưới nước trời cần mặc áo cưới. Trước khi dự tiệc cưới mặc áo nào cũng được mời. Sau khi vào tiệc, cần phải mặc áo cưới.
Đây là điều bắt buộc.
Bấy giờ nhà vua tiến vào phòng quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy. Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới. Người ấy câm miệng không nói được gì. Bấy giờ nhà vua bảo gia nhân trói tay chân nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng. (Mt 22, 11)
Bài học cần lưu ý cho những ai ăn bận, diêm dúa, loè loẹt, thiếu kín đáo và thiếu chuẩn bị khi tham dự thánh lễ. Họ trả lời thế nào về tinh thần và thái độ sẵn sàng tham dự tiệc cưới. Vẫn biết quyền phán xét dành riêng cho Chúa nhưng nhìn y phục khó tránh khỏi nhận xét về tư cách.
Tinh thần
Tinh thần đóng một vai trò quan trọng liên quan đến y phục. Đây không phải là cơ hội trưng diện, khoe khoang. Cần ăn mặc lịch sự thích hợp cho việc tham dự thánh lễ. Như thế nào là lịch sự, thích hợp?
Một tấm lòng yêu mến thiết tha, biết ăn mặc thế nào cho xứng khi đón nhận Chúa vào lòng. Cần chuẩn bị kĩ trong ngoài trước khi đến gặp Chúa. Đến với Chúa trong tâm tình khiêm nhường, lòng thiết tha và tinh thần vui tươi. Đến với Chúa với tâm tình đơn hèn vui thích, không cảm thấy dự lễ là điều bắt buộc, chu toàn lề luật. Đến do lòng mong ước, tâm tình yêu mến, sẵn sàng tham dự các nghi thức một cách chân thành, vui vẻ và hoà đồng với những anh chị em khác.
Quí bạn dự lễ đứng ngoài thánh đường cần xét lại cách thờ phượng riêng mình. Lí do giải thích cho việc đứng ngoài có nhiều. Chính đáng hay không mình bạn biết. Thực tế việc làm gây nên một số điều không hay. Vì nhiều lí do.
– Dễ bị chia trí khi dự lễ.
– Khó tập trung khi nghe các bài đọc và bài giảng.
– Tâm tình cầu nguyện bị chi phối bởi hoàn cảnh.
– Đôi khi vừa dự lễ vừa chuyện vãn.
– Là gương mù cho người khác bắt chước.
Bạn nghĩ thế nào khi mình là duyên cớ cho người khác vấp phạm.
49. Dấu chỉ tiệc cưới Cana
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Alkasami, một nhà thần bí người Ba Tư qua đời năm 1330, đã viết về tình yêu của Thiên Chúa như sau: “Cái đẹp đích thực, tình yêu đích thực chính là Thiên Chúa. Và tất cả những gì là đẹp, là dễ yêu trên thế giới này đều tỏ lộ trọn vẹn về tình yêu của Ngài. Mỗi lần chúng ta nhận ra một người đẹp, đôi mắt trí tuệ của chúng ta phải hướng vọng lên Chúa và tấm lòng của chúng ta phải hướng về Ngài. Cuộc đời của Kitô hữu phải là mọt cuộc chiêm ngắm triền miên về Ngài. Cuộc đời của Kitô hữu phải là một cuộc chiêm ngắm triền miên vẻ đẹp tuyệt vời là Thiên Chúa, và phải là tiệc cưới tươi vui vì có Chúa Giêsu Kitô là vị hôn phu là rượu mới thơm ngon của thời cứu thế”.
Đó là sứ điệp Giáo Hội muốn nhắn gởi chúng ta qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay. Bắt đầu vào thế kỷ thứ XIII trước tây lịch, với tiên tri Môisê, mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel không còn được trình bày trong thứ ngôn ngữ chính trị ngoại giao của Giao ước nữa, mà được diễn tả trong thứ ngôn ngữ của hôn nhân, của liên hệ vợ chồng, của cuộc gặp gỡ đối thoại thân tình và tươi vui như trong một tiệc cưới. Tiên tri Isaia III, một đồ đệ của trường phái Isaia sống vào sau thời lưu đày đã muốn ca tụng các liên hệ thân tình ấy của Thiên Chúa với dân Israel. Các chương từ 56-66 là một bài ca cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã lại đoái nhìn đến Israel và cho họ được trở về quê hương sau 50 năm lưu đày bên Babylon.
Trong Kinh Thánh, thành Giêrusalem bị tàn phá và dân Israel phải sống kiếp lưu đày được giải thích như hâu quả cuộc sống tội lỗi của dân Chúa chọn, vì Israel đã chạy theo tôn thờ các thần linh giả tạo khác, không nhận biết Chúa và không kêu cầu Ngài nữa, nên phải sống kinh nghiệm đắng cay sự làm thinh của Thiên Chúa. Thiên Chúa rút bàn tay đỡ nâng lại và giấu cánh tay phải trong lòng không dang ra trợ lực họ nữa. Nhưng trong chương 62, tiên tri Isaia III cho thấy Thiên Chúa lại bắt đầu ngỏ lời với dân Israel.
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, nếu sự thinh lặng diễn tả cảnh hoang tàn buồn thảm, nếu thinh lặng là sa mạc trống vắng vực thẳm, không có sự sống, thì lời nói diễn tả sức sáng tạo. Thành Giêrusalem được tái thiết và đổi mới lại trở thành người đối thoại với Thiên Chúa y như người nam và người nữ đã từng được chuyện vãn thân tình với Thiên Chúa vào thời khai nguyên vũ trụ. Giêrusalem tái thiết, là dấu chỉ của sự tạo dựng hữu hiệu của Thiên Chúa bị tàn phá vì tội lỗi bất trung của mình. Giêrusalem đã trở thành biểu tượng của con người được Thiên Chúa phục hồi vẻ trong sáng và hình ảnh của Ngài. Và Kinh Thánh diễn tả tình trạng cuộc tái sinh ấy của con người trong ơn thánh Chúa thứ ngôn ngữ của hôn nhân, Giêrusalem không bị bỏ rơi nữa mà trở thành hôn thê của Thiên Chúa, đầu đội vương miện, phẩm giá mới cao trọng của một nữ hoàng và được Thiên Chúa gọi là niền vui của Ta.
Cuộc sống của chúng ta ngày nay tuy chúng ta có lỗi, nhưng Thiên Chúa trao ban cho chúng ta cuộc sống mới và phẩm giá mới là con cái của Ngài. Và còn hơn thế nữa, Thiên Chúa biến đổi chúng ta thành người yêu, niềm vui của Ngài. Qua tường thuật tiệc cưới làng Cana, thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu cũng tỏ lộ con người và sứ mạng của Ngài trong khung cảnh một bữa tiệc cưới. Khác với các thánh sử của ba Phúc Âm nhất lãm hay dùng từ phép lạ, thánh Gioan dùng từ “dấu chỉ”. Trong Kinh Thánh, rượu là dấu chỉ của thời cứu thế và của niềm vui mà Đấng Cứu Thế khơi dậy nơi tâm lòng con người. Khi biến đổi nước thành rượu ngon, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thứ rượu hảo hạng của tiệc cưới thời cứu thế mà Thiên Chúa ban cho loài người. Đây là dấu chỉ, qua đó Chúa Giêsu cho thấy trước vinh quang của Ngài để các môn đệ tin vào Ngài. Nhưng trong nhãn quan thần học của thánh Gioan, vinh quang đích thực của Chúa Giêsu sẽ chỉ được tỏ hiện trên thánh giá và trong sự Phục sinh của Ngài mà thôi. Thánh Gioan gọi là giờ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, ngay lúc này đây, dấu chỉ ấy đã bắt đầu tỏ hiện. Lời xin của Mẹ Maria diễn tả cái lo lắng vật chất. Câu trả lời và kiểu cách làm của Chúa Giêsu diễn tả viễn tượng cứu thế trong tương lai. Và cũng giống như đoàn tông đồ, Mẹ Maria được Chúa Giêsu dẫn đưa vào con đường lòng tin, con đường mà mỗi một môn đệ đều phải đi theo, để có thể hiểu biết toàn vẹn bản chất đích thực con người của Chúa Giêsu.
Trong khung cảnh của tiệc cưới Cana, bên cạnh Chúa Giêsu là rượu mới của thời cứu thế, là vị hôn phu của cộng đoàn Giáo Hội và là chủ tiệc Thánh Thể, Mẹ Maria cũng là một dấu chỉ. Mẹ không cho chúng ta thấy một vị Thiên Chúa nghiêm nghị khắc khổ, mà giúp chúng ta hiểu Chúa Giêsu, con Mẹ là vị Thiên Chúa của sự sống, của niềm vui và của tình bạn hữu.
Có rất nhiều Kitô hữu gồm cả các vị lãnh đạo cộng đoàn quan niệm rằng, niềm vui không thể đi đôi với nỗ lực sống nghiêm chỉnh lòng tin Kitô, chỉ có ăn chay hãm mình mới là sống đạo. Chỉ khi chịu đựng những gì nặng nề, nhàm chán và khó chịu, mới có công phúc và mới là sống đạo, còn tươi vui hớn hở không phải là thái độ nghiêm trang kính trọng đối với Thiên Chúa. Quan niệm sai lầm nay khiến cho tín hữu có kiểu sống đạo khô khan, nhăn nhó và phục vụ Thiên Chúa với gương mặt cau có khó thương, chịu đựng hy sinh, tốn kém cho cái dịch vụ thờ phượng như với gương mặt sầu thảm làm sao. Do đó họ không cảm hứng vui lên trong Chúa khi phụng sự Ngài trong tiếng đàn ca.
Dấu chỉ tiệc cưới Cana cho thấy Thiên Chúa yêu thích cho chúng ta sống vui tươi hồn nhiên và trong sáng, bởi vì Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta, chỉ là tin vui thật sự nếu chúng ta có thái độ sống lòng tin thật sự, nếu gương mặt, ánh mắt và cuộc sống chúng ta phản ánh niềm vui đó. Dấu chỉ tiệc cưới Cana dạy cho chúng ta biết rằng, để gặp gở Chúa Kitô chúng ta không cần phải là người thoát tục trở thành thiên thần, nhưng chỉ cần hiểu rõ thành loài người hơn, sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng ta hơn theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô nhập thể. Và để có thể hiện thực ơn gọi làm người, cần phải tập và sống các nhân đức nhân bản mỗi ngày, càng biết sống sâu đậm các nhân đức căn bản tự nhiên, chúng ta càng giống Chúa Giêsu làm người. Đó là nền tảng vững chắc đầu tiên, cần thiết trong cuộc sống ơn gọi Kitô. Thiếu các nhân đức căn bản này, người tín hữu mất quân bình, thường trở thành cuồng tín, có thái độ sống đạo lệch lạc.
Ngoài ra dấu chỉ của tiệc cưới Cana còn dạy cho chúng ta biết rằng, của cải trần gian và các tiện nghi vật chất tự chúng không có gì là xấu xa và nguy hại, chúng chỉ xấu xa nguy hại và đáng khinh, khi chúng khiến cho chúng ta đánh mất đi chất người của mình, và biến chúng ta trở thành ích kỷ hàm hồ, ác độc, bất công và nô lệ chúng. Nhưng thật ra, chỉ có con người là đáng chê trách vì ta trở thành xấu xa và gian tham ác độc chớ không phải của cải. Cũng chính vì thế, nên trong chương 12, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô khuyến khích mọi người hãy biết sử dụng đúng đắn tất cả mọi đặc sủng mà Thiên Chúa rộng ban cho họ. Kẻ ít người nhiều ai cũng nhận được một số đặc sủng tùy theo sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa. Cần tận dụng tất cả mọi ơn đó, tất cả mọi đặc sủng và tài khéo đó mà Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng ta để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho tha nhân và trong cộng đoàn. Chính các đặc sủng khác nhau ấy làm thành sự phong phú của dân Chúa, những ơn Chúa ban đều có mục đích giúp cộng đoàn trở thành vững mạnh.
Tóm lại sống lòng tin Kitô có nghĩa là ý thức được ơn Chúa ban cho chúng ta, là luôn tươi vui tận dụng để phục vụ Thiên Chúa trong thân nhân theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô.
50. Chúa Nhật 2 Thường Niên
CHÚA ĐẾN MANG LẠI
NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một số người cho rằng Chúa Giêsu đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng đáng bận tâm.
Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Chúa Giêsu còn thiết tha đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa.
Sự kiện xảy ra tại tiệc cưới Cana chứng tỏ điều đó.
Hôm ấy, Chúa Giêsu đến tham dự tiệc cưới tại Cana cốt để đem lại niềm vui cho cô dâu chú rể và chúc lành cho họ được trăm năm hạnh phúc. Chúa Giêsu xem đây là điều quan trọng nên Người không chỉ tham dự một mình mà cùng đi với Mẹ Maria và các môn đệ để cho niềm vui của đôi hôn nhân được tăng lên.
Thế rồi, đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu. Đây là chuyện không may và ngày vui của đôi tân hôn có nguy cơ trở thành ngày rầu rĩ vì cô dâu chú rể sẽ bị gièm pha trách móc, tiệc cưới sẽ để lại ấn tượng đáng buồn trong lòng khách dự tiệc.
Trước tình thế đó, Mẹ Maria tìm đến với Chúa Giêsu để xin Người cứu vãn. Thế là mặc dù “giờ của Người” chưa đến (Ga 2,4), Chúa Giêsu cũng đã thực hiện phép lạ đầu tay, hoá nước thành rượu ngon với số lượng dư dật để đem lại niềm vui cho mọi người.
Sự việc nầy cho thấy hạnh phúc đời nầy của con người là mục tiêu quan trọng mà Chúa Giêsu nhắm tới. Sau nầy, Chúa Giêsu thực hiện nhiều phép lạ khác cũng không ngoài mục tiêu đó.
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người goá phụ Na-in nên Chúa Giêsu đã cho con trai bà đã chết được sống lại, dù bà chưa ngỏ lời van xin. (Lc 7,11-17)
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho hai chị em Mác-ta và Maria ở Bêtania đang sầu thảm vì mất em, Chúa Giêsu đã truyền cho Ladarô chết chôn trong mồ được sống lại. Nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui. (Ga 11, 32-43)
Cũng vì muốn đem lại niềm vui cho hai môn đệ Em-mau đang sống trong ưu phiền thất vọng, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra, cùng đồng hành với các ông, đem lời kinh thánh sưởi ấm tâm hồn sầu muộn của các ông. (Lc 24, 32)
Và rất nhiều phép lạ khác Chúa Giêsu đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, cho người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, cho người đói được ăn, cho người nghèo được nghe Tin Mừng… cũng đều nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Hơn nữa, Chúa Giêsu không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn, nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt nền trên tình yêu thương huynh đệ.
Biết rằng con người sẽ luôn luôn bất hạnh nếu thiếu vắng tình thương, rằng tình thương là yếu tố cốt thiết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho muôn người, nên Chúa Giêsu không ngừng kêu gọi mọi người hãy yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Gioan 13, 34).
Người cũng báo trước cho mọi người biết rằng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc chỉ dành riêng cho những ai yêu thương phục vụ người khác, đồng thời cảnh báo rằng khổ hình đời đời trong hỏa ngục là hậu quả phải đến cho những kẻ không sẵn sàng cứu giúp những người khốn khổ quanh mình. (Mt 25, 31-46)
Như thế, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh không còn là chuyện nhỏ nhưng là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giêsu.
Là ki-tô hữu, là cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tay với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an vui.
51. Bình an, êm xuôi là ơn Chúa
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người thường mong Chúa làm phép lạ. Ai cũng muốn nhìn thấy phép lạ. Kẻ cần phép lạ để tin. Kẻ muốn có phép lạ để củng cố lòng tin. Xem ra phép lạ đối với phần đông nhân loại là những chuyện khác thường, những chuyện kinh thiên động địa. Phép lạ là những biến cố xảy ra ngoài tự nhiên tựa như con lừa của Baal biết nói tiếng người. Con gà mái gáy giữa ban ngày. Xem ra phần đông nhân loại đang cần những phép lạ tương tự như vậy rồi mới có thể tin vào sự hiện diện của Chúa.
Thực ra, Thiên Chúa không làm phép lạ để những sự kiện xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Phép lạ đúng nghĩa là Ngài làm cho nó trở lại với trạng thái ban đầu tạo dựng. Ngài làm phép lạ để cho những sự kiện được diễn ra bình thường, không gây xáo trộn. đi sai tới quy luật tự nhiên.
Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa đã nhìn thấy mọi sự Ngài tạo dựng đều tốt đẹp. Ngài đã đặt để những quy luật tự nhiên để muôn loài thọ tạo được lớn lên và phát triển hầu đạt đến đỉnh cao của sự sung mãn. Thế nhưng, tội lỗi đã đi vào thế gian. Tội lỗi đã phá huỷ những trạng thái tốt lành ban đầu, gây xáo trộn cho muôn loại tạo dựng. Sự dữ là nguyên nhân gây nên những xáo trộn trong thế gian. Vì lẽ đó, Thiên Chúa vẫn tiếp tục can thiệp vào thế gian để đưa mọi sự trở về với tình trạng tốt lành ban đầu của tạo dựng.
Phúc âm kể lại rằng có một lần Chúa Giêsu đang ngủ trên con thuyền có các môn sinh. Biển lặng tư bề. Bỗng sóng gió nổi lên như muốn nhận chìm con thuyền. Các môn sinh hốt hoảng. Kẻ cầm chèo. Kẻ giữ buồng. Kẻ chạy tới kêu cầu Chúa. Trong cơn bẫn loạn đó, Chúa đã đứng dậy đe gió biển im lặng. Ngài đã làm phép lạ trước mắt các môn sinh là truyền lệnh cho biển trở về với trạng thái ôn hoà.
Trong suốt ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã chữa lành biết bao người bất hạnh đang bị sự dữ hoành hành. Họ đang bị đau khổ bởi cơn đau của thể xác. Họ đang bị đau khổ bởi nỗi bất hạnh, bởi tai ương dịch bệnh hay ngụp lặn trong thất vọng bởi phải chia ly người thân. Chúa đã làm phép lạ bằng việc xua trừ sự dữ. Chúa chữa lành họ để giúp thân xác họ trở về với tình trạng nguyên tuyền ban đầu. Chúa giúp họ trở về với cuộc sống bình thường như bao người khoẻ mạnh khác.
Hôm nay trong tiệc cưới Cana, tiệc rượu đang diễn ra êm xuôi. Mọi người đều vui vẻ với chén rượu, với nụ cười hân hoan. Tiệc sẽ mất vui nếu thiếu rượu. Tiệc sẽ dở dang nếu rượu dự trữ không đủ cho đến khi tàn tiệc. Tiệc dở dang cũng đồng nghĩa niềm vui không trọn vẹn. Chúa đã làm phép lạ để tiệc rượu diễn ra bình thường. Không gián đoạn bởi thiếu rượu. Chúa đã làm phép lạ để tiệc vui được tiếp diễn đến nỗi người quản tiệc cũng không hay biết. Khách dự tiệc vẫn tiếp tục cuộc vui. Người người vẫn nâng ly rượu mừng trong tiếng cuời, tiếng hoan hô chúc tụng. Xem ra ai cũng thoả mãn với chén rượu nồng nàn. Đôi tân hôn hôm nay đã có một niềm vui trọn vẹn. Ngày hôn lễ được diễn ra một cách êm xuôi. Gia đình họ thật hạnh phúc. Hạnh phúc vì có Chúa và Mẹ Maria cùng hiện diện trong gia đình họ. Hạnh phúc vì nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria mà Chúa đã ban cho gia đình một niềm vui trọn vẹn trong ngày thành hôn.
Ngày hôm nay nhiều gia đình đang đổ vỡ. Có biết bao gia đình đang bị xáo trộn bởi cơm chẳng lành canh chẳng ngọt. Có biết bao gia đình đang ly tán bởi “ông ăn chả, bà ăn nem”. Có biết bao gia đình rượu ngon đã cạn chỉ còn đọng lại một chút rượu lạnh nhạt và chua cay. Thiếu rượu nồng của tình yêu nên dẫn đến đổ vỡ, nghi kỵ, hiểu lầm và ghen tương. Ngày hôm nay nhiều gia đình đang bất hoà vì đói nghèo, túng cực. Nhiều gia đình đang thất vọng bởi công việc làm ăn chẳng thuận buồm xuôi gió. Nhiều gia đình đang thiếu tình yêu, thiếu thốn tiền bạc, thiếu cả sự cảm thông và tha thứ đã gây nên biết bao xáo trộn trong các gia đình.
Ước gì mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta cũng biết mời Chúa đến trong gia đình của mình. Hãy dành cho Chúa một vị trí xứng đáng trong gia đình chúng ta. Hãy dâng gia đình cho Chúa. Nếu có Chúa hiện diện, Ngài sẽ tiếp tục gìn giữ gia đình chúng ta trong an bình hạnh phúc. Và trên hết mọi sự, hãy biết sống theo lời dặn của Mẹ Maria: “Người bảo gì anh em hãy làm như thế”. Sống theo lời Chúa, gia đình sẽ không thiếu niềm vui, không thiếu rượu ngon của hạnh phúc yêu thương. Sống theo Lời Chúa thể hiện qua sự phó thác tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, và nhất là luôn sống đạo tình thương, mỗi người hãy biết mến thương nhau như chính mình. Nếu mình muốn có hạnh phúc hãy làm cho gia đình mình hạnh phúc. Nếu mình muốn được mọi người tôn trọng hãy biết đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
52. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
GIÊSU, ĐẤNG ĐẦY TRÀN THÁNH THẦN, LÀM MỌI VIỆC ĐỀU TỐT ĐẸP.
Kính thưa quý anh chị em,
Một vị “vua” nước Nhật muốn có một khoảng thời gian thư giãn sau mỗi ngày làm việc căng thẳng. Vua cho gọi những người biết nói khôi hài đến hoàng cung. Hôm đó, một nhà sư được mời. Mọi người đã an tọa, vua nói với nhà sư hãy bắt đầu những câu chuyện khôi hài để mọi người được cười vui sảng khoái.
Nhà sư xin vua nói trước, để mình dựa theo đó mà phụ họa cho câu chuyện được thêm phong phú.
Nhìn cái đầu trọc của nhà sư, vua nói: “Ta nhìn nhà ngươi giống như con heo !”
Đáp lại, nhà sư thưa: “Thần nhìn đức vua giống như Đức Phật !”
Đức vua cười nói: “Ta nhìn ngươi giống con heo, cớ sao ngươi nhìn ta lại giống Đức Phật !”.
Nhà sư thưa “Vì thần có tâm phật, nên nhìn ai cũng giống Đức Phật cả !”.
Như vậy, kẻ có tâm phật, nhìn mọi người đều là phật, còn kẻ có tâm heo, thì nhìn tất cả đều là heo.
Giê-su, Đấng đầy tràn Thánh Thần, tình yêu và sự sống, mọi sự phát xuất từ Ngài đều là chân, thiện, mỹ, và đều đem lại hồng ân cứu độ cho tất cả những ai tùng phục Người
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mạc khải Giê-su, Đấng đầy tràn Thánh Thần, làm mọi việc tốt đẹp.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, diễn tả tình thương của Thiên Chúa đối với dân. Vì hạnh phúc và vì lợi ích của dân, Thiên Chúa đã không nín lặng, Người dùng mọi cách thế để tạo hạnh phúc và vinh quang cho dân được tuyển chọn. Thánh Kinh quen gọi: Chúa mặc cho họ áo hồng ân cứu rỗi, choàng đức chính trực công minh.
Chúa đặt cho Israel tên mới “Ái khanh” (người được Chúa yêu thương). Và còn hơn cả tình yêu đơn thuần tự nhiên, chính Chúa thiết lập hôn ước muôn đời với dân: “Ta yêu thương ngươi bằng mối tình muôn thuở, đời đời Ta dành cho người lòng sủng ái” (Jr 31, 3).
Bài sách thánh diễn tả lòng “ghen yêu” của Chúa thiên binh thực thi điều đó, điều mà Người đã hứa thuở xưa, là mở đường cứu độ, gởi Đấng cứu thế cho đời.
Nhờ ân sủng Chúa ban, Giê-ru-sa-lem rực rỡ ánh sáng huy hoàng, trở thành nơi gặp gỡ, thành điểm hẹn cho muôn dân. Họ tìm về Giê-ru-sa-lem, không chỉ để chiêm ngắm, mà còn để cầu mong phúc lộc và ân huệ Chúa cũng sẽ tặng ban cho họ như thế.
Vẻ huy hoàng của Israel đạt tới tầm vóc viên mãn nơi Chúa Giê-su, Đấng muôn dân mong đợi. Người là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc chuyển tải một sứ điệp rất phong phú về ơn cứu độ được thực hiện trong Chúa Giê-su.
Khởi đầu đoạn Tin Mừng kể rằng: ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. Ý của mấy câu này diễn tả điều gì ?
Ngày thứ ba là ngày Đức Giê-su phục sinh từ trong cõi chết. Cử hành tiệc cưới vào ngày thứ ba là ngày của niềm vui trọn vẹn.
Chúng ta để ý cách thánh sử Gio-an diễn tả: trong tiệc cưới có thân mẫu Chúa, Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự, hợp với khung cảnh nhà tiệc ly nơi có Đức Mẹ và các tông đồ họp nhau cầu nguyện đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống và đã được thực hiện vào ngày thứ nhất trong tuần.
Ở đây cũng vậy, những nhân vật được giới thiệu là Giáo Hội, nên niềm vui có Chúa là chính tiệc cưới Nước Trời, vì thế, không thể thiếu rượu mới Giê-su đem đến cho Giáo Hội.
Mẹ Maria đã để lại cho chúng ta một kinh nghiệm gặp Chúa, đó là: “vâng lời” trong mọi sự “Người bảo sao, các anh cứ làm theo” (Jn 2, 5).
Thưa anh chị em,
Sự vâng phục và thực thi ý Chúa luôn phải do Thánh Thần hướng dẫn mới đẹp lòng Chúa và sinh ơn cứu rỗi cho cả thế gian.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, cho thấy mọi hoạt động trong Giáo Hội nhất thiết phải do Thánh Thần cắt đặt mới có sự thống nhất, hài hòa, hiệp thông, mới đem lại lợi ích cho toàn thân mình mầu nhiệm Chúa là Giáo Hội.
Thâm tín vào sự sắp đặt của Thánh Thần nơi mỗi người, chúng ta đừng bao giờ cạnh tranh đòi cho được chức vụ này, công việc kia, cũng đừng khư khư giữ mãi một phận vụ…
Không ai có thể làm thay Thánh Thần, mọi sự đều do Ngài cắt đặt và trao ban, nên tránh mọi thái độ tự cao tự đại, một hãy khiêm tốn thưa rằng: tôi chỉ là đầy tớ làm phận vụ được trao phó.
Sống tinh thần Tin Mừng như thế, bình an, hạnh phúc, an vui sẽ tràn ngập tâm hồn chúng ta và có khả năng lan tỏa ra môi trường xung quanh, góp phần tích cực làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta tham dự thánh lễ này. Amen.
53. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Chiếc cầu Mỹ Thuận nối liền hai bờ của dòng sông Tiền, là một công trình của thế kỷ, đã đem đến nhiều sự thuận lợi tốt đẹp cho nước VN. Nhưng để có điều thuận lợi như thế, để có được nét đẹp như thế, nhiều người đã phải hy sinh, di dời nhà cửa, từ bỏ đi những mảnh ruộng vườn thân yêu của mình, từ bỏ đi những lợi ích riêng tư, để phải chấp nhận những điều mà trước kia, họ thấy dường như vô ích đối với họ. Giờ đây, họ mới thấy được sự hy sinh, chấp nhận của mình được đền bù xứng đáng, không phải chỉ mang lợi ích cho riêng bản thân họ, nhưng mang lợi ích cho rất nhiều người, cho cả dân tộc. Một sự hy sinh âm thầm không cần ai biết đến, cũng không cần ai trả ơn. Một sự hy sinh rất có giá trị.
Nếu có ai đó không chịu hy sinh để di dời, không chịu tuân phục, mà vẫn cố lỳ làm theo những gì mình muốn, thì thử hỏi, vẻ mỹ quang của toàn cảnh sẽ như thế nào?
Trong bữa tiệc vui, bỗng nhiên một trục trặc xảy đến, một sự việc ngoài ý muốn. Làm sao để mọi sự được trở nên tốt đẹp, nếu những người giúp việc không nghe theo những gì Mẹ Maria mách bảo: ” Người bảo gì cứ làm theo.” Nếu những người giúp việc không biết hy sinh một chút, không chịu đổ nước đầy các chum theo lệnh truyền, mặc dù theo như những gì họ hiểu biết, thì việc hết rượu và việc phải đổ nước vào các chum để thanh tẩy, chẳng liên hệ gì với nhau. Nhưng vì họ đã biết vâng phục, biết chấp nhận cả những điều mà họ cho là nghịch lý, nên phép lạ đã được thực hiện. Phép lạ được thực hiện trong âm thầm lặng lẽ. Phép lạ đã xảy ra, mà rất nhiều người không hề hay biết. Nhưng những người đã hy sinh, những người đã chấp nhận phục vụ, họ thấy được giá trị của sự hy sinh. Họ đã nhận được niềm vui do kết quả của việc làm, đồng thời niềm vui còn được nâng cao, khi nhìn thấy người khác được hạnh phúc. Nếu những người giúp việc, không chấp nhận, không phục vụ, thì chắc chắn phép lạ đã không được thực hiện.
Thiên Chúa đã ban cho mỗi người một hoàn cảnh sống, Ngài để cho con người tự do chọn lựa phương cách tốt nhất để sống. Nhưng đã biết bao lần, sự thất vọng, chán nản đã chiếm lấy và làm chủ con người của chúng ta. Cũng biết bao lần chúng ta khó chịu vì hoàn cảnh không mấy thuận lợi. Còn rất nhiều lần chúng ta bực mình, có thái độ chua cay, gắt gỏng vì bao nhiêu sự vô lý cứ xảy đến mà bản thân phải hứng chịu. Sự việc cứ thế, và con người cứ đầy ắp những trăn trở khó khăn không thể giải quyết được.
Những lúc đó, Mẹ Maria vẫn luôn ở bên cạnh chúng ta và nói: ” Người bảo gì cứ làm theo.” Nhưng chúng ta đâu có nghe được tiếng nói nào, cũng không nghe được những lệnh truyền để phép lạ có thể được thực hiện. Chúng ta cứ cho mình thần thông quảng đại, hiểu biết tất cả mọi sự, nên không cần phải nghe ai. Có những lúc chúng ta còn tỏ ra khinh dể những ý kiến, những lời nói chân thành mà chúng ta cho là vô ích, vì nó không trúng với những suy tính, những gì chúng ta mong muốn, cho nên không bao giờ hành động. Đó là những lúc Chúa cũng bảo chúng ta: “Hãy đổ nước đầy các chum”. Một việc làm mà rất nhiều người và cả chúng ta nữa đã cho là vô ích, nên không làm. Vì thế phép lạ đã không xãy ra, chúng ta vẫn sống trong tình trạng bối rối mà không có lối thoát.
Được bao nhiêu lần trong cuộc sống, chúng ta biết chấp nhận hoàn cảnh sống, chúng ta biết nhường nhịn để lắng nghe, chúng ta biết bỏ đi một chút tự ái để thực hành điều mà mình không thích. Cứ nhớ lại xem, chính những lần đó, phép lạ đã xảy ra cho mình, nên chúng ta cảm thấy yên tâm, vui mừng, đôi khi có pha lẫn chút tự hào vì mình đã làm được việc có giá trị trước mặt Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho chúng ta biết khiêm nhường, dẹp đi một chút tự ái của bản thân, để lắng nghe được Tiếng Chúa và làm theo những gì Thiên Chúa chỉ dạy.
54. Hãy mời Chúa đến nhà bạn
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống giống như một ly trà, bất luận đầy hay vơi, nóng hay lạnh, nồng hay nhạt, cũng đều có dư vị riêng của nó. Con người cũng vậy, chẳng ai giống ai, mỗi người có một lý tưởng, một cách sống riêng, có người ôm giấc mộng giàu sang, có người mong được sống an nhàn, có người lại chỉ cần một tâm hồn thư thái…
Nhưng giữa cuộc sống đầy bon chen này, con người rất khó giữ được trạng thái vô lo vô nghĩ, không ưu phiền vấn vương. Đó là điều khiến cho cuộc đời con người luôn đầy lắng lo, khổ đau và bất hạnh.
Kỳ thực, cuộc sống chỉ đơn giản là được bình an và bình an là không đòi hỏi cái ngoài ý muốn, bình an là chấp nhận những gì đang xảy đến với mình. Thế nên, có người nói rằng:
“Sống một kiếp người, bình an là được
2 bánh 4 bánh, chạy được là được
Tiền ít tiền nhiều, đủ ăn là được
Người xấu người đẹp, dễ coi là được”
Nói thì dễ nhưng chấp nhận chẳng dễ chút nào! Cuộc đời luôn đưa đến những điều chẳng bao giờ vừa ý. Mình cầu điều này nhưng lại chẳng mấy khi được theo ý cầu xin. Thế nên, con người luôn cầu có một phép màu để được theo ý mình, để đổi đời, để sống tốt hơn, …
Nói chung là con người thường mong Chúa làm phép lạ. Ai cũng muốn nhìn thấy phép lạ. Kẻ cần phép lạ để tin. Kẻ muốn có phép lạ để củng cố lòng tin. Xem ra phép lạ đối với phần đông nhân loại là chứng kiến những chuyện khác thường, những chuyện kinh thiên động địa. Phép lạ là những biến cố xảy ra ngoài tự nhiên tựa như con lừa của Baal biết nói tiếng người. Con gà mái gáy giữa ban ngày. Xem ra phần đông nhân loại đang cần những phép lạ tương tự như vậy rồi mới có thể tin vào sự hiện diện của Chúa.
Thực ra, Thiên Chúa không làm phép lạ để những sự kiện xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Phép lạ đúng nghĩa là không đảo lộn tự nhiên, không đi ngoài quy luật. Thiên Chúa làm phép lạ để cho những sự kiện được diễn ra bình thường, không gây xáo trộn, đi sai tới quy luật tự nhiên.
Nếu mọi sự trong cuộc sống chúng ta vẫn diễn ra bình lặng, êm xuôi là chúng ta đang được Chúa làm phép lạ để giữ cho thăng bằng. Vì dòng đời đâu mấy khi bình an, mà lại luôn có sóng gió nghi nan.
Hôm nay trong tiệc cưới Cana, tiệc rượu đang diễn ra êm xuôi. Mọi người đều vui vẻ với chén rượu, với nụ cười hân hoan. Nhưng nếu rượu lại hết. Tiệc sẽ dở dang và niềm vui sẽ không trọn vẹn. Chúa đã làm phép lạ để tiệc không bị gián đoạn bởi thiếu rượu. Chúa đã làm phép lạ để tiệc vui được tiếp diễn đến nỗi người quản tiệc cũng không hay biết. Khách dự tiệc vẫn tiếp tục cuộc vui. Xem ra ai cũng thoả mãn với chén rượu nồng nàn. Đôi tân hôn hôm ấy đã có một niềm vui trọn vẹn. Ngày hôn lễ được diễn ra một cách êm xuôi. Gia đình họ thật hạnh phúc. Hạnh phúc vì nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria mà Chúa đã ban cho gia đình một niềm vui trọn vẹn trong ngày thành hôn.
Ngày hôm nay nhiều gia đình đang đổ vỡ. Có biết bao gia đình đang bị xáo trộn bởi cơm chẳng lành,canh chẳng ngọt. Có biết bao gia đình đang ly tán bởi “ông ăn chả, bà ăn nem”. Có biết bao gia đình rượu ngon đã cạn chỉ còn đọng lại một chút rượu lạnh nhạt và chua cay. Thiếu rượu nồng của tình yêu nên dẫn đến đổ vỡ, nghi kỵ, hiểu lầm và ghen tương. Ngày hôm nay nhiều gia đình đang bất hoà vì đói nghèo, túng cực. Nhiều gia đình đang thất vọng bởi công việc làm ăn chẳng thuận buồm xuôi gió. Nhiều gia đình đang thiếu tình yêu, thiếu thốn tiền bạc, thiếu cả sự cảm thông và tha thứ đã gây nên biết bao xáo trộn trong các gia đình.
Ước gì mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta cũng biết mời Chúa đến trong gia đình của mình. Hãy dành cho Chúa một vị trí xứng đáng trong gia đình chúng ta. Hãy dâng gia đình cho Chúa. Nếu có Chúa hiện diện, Ngài sẽ tiếp tục gìn giữ gia đình chúng ta trong an bình hạnh phúc. Và trên hết mọi sự, hãy biết sống theo lời dặn của Mẹ Maria: “Người bảo gì anh em hãy làm như thế”. Sống theo lời Chúa, gia đình sẽ không thiếu niềm vui, không thiếu rượu ngon của hạnh phúc yêu thương. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
55. Năm đức tin, sống điều Chúa dạy
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
“Người bảo gì anh em hãy làm như vậy”. Nói thì vậy, nhưng để có thể làm theo Lời Chúa cũng đòi hỏi phải vượt lên biết bao trở ngại mới có thể thực hiện được như Lời Người đã nói. Vì làm theo Lời Chúa có khi rất nhạt nhẽo như nước lã, cũng có khi thật cay đắng như chén rượu. Làm theo Lời Chúa có khi phải bỏ lại đằng sau những tình nghĩa ruột thịt. Làm theo Lời Chúa có khi phải mang gánh nặng của thập giá cho đến suốt dọc dài cuộc đời. Làm theo Lời Chúa có khi phải đi trên con đường chông gai, gian truân . . .
Có một người phụ nữ đã gọi điện thoại cho tôi. Chị ấy nói rằng: “Cha ơi, con mới đi khám thai. Bác sĩ nói thai nhi dị dạng! Bây giờ phải làm sao cha ơi!”. Đây có phải là thánh ý Chúa hay không? Có lẽ là không. Bởi vì Chúa luôn làm mọi điều tốt đẹp.
Nhưng quả thực thai nhi bị khiếm khuyến không hoàn hảo như bao thai nhi khác. Và có lẽ ở điểm này mà Chúa mời gọi hãy can đảm vì Chúa mà đón nhận đứa con tật nguyền chăng? Suy nghĩ một lát và tôi đã khuyên: “Thiên Chúa luôn có kế hoạch cho từng con người sinh ra. Hãy để cho Chúa dẫn dắt theo ý Ngài”.
Năm nay, Giáo hội mở ra năm đức tin như một thông điệp gửi đến nhân loại: “năm đức tin hãy sống điều Chúa dạy”. Năm đức tin mời gọi chúng ta hãy đặt lại niềm tin của mình vào Thiên Chúa. Một Thiên Chúa hiện hữu, sống động trong cuộc đời chúng ta. Ngài luôn tác động trên chiều dài lịch sử nhân loại và trên từng cuộc đời con người. Ngài là một Thiên Chúa quyền năng và giầu tình thương, thế nên hãy tín thác cuộc đời cho Chúa.
Có một câu chuyện kể rằng:”Nửa đêm thình lình phát hỏa dữ dội trong một căn nhà, mọi người hốt hoảng ùa chạy ra sân để thoát nạn. Sau khi cả nhà ra sân, ông bố mới thấy còn thiếu thằng út lên ba. Trong cơn lo sợ, ông đang định chạy vào trong nhà để kiếm con, thình lình nghe thấy tiếng la hét trên lầu, ông ngước nhìn lên thấy đứa con trai út đang mở cửa sổ phòng ló đầu kêu cứu… Ông bố mừng rỡ hô lớn:
– Con ơi! hãy nhảy xuống đi, bố đỡ con ở dưới này! Nhưng đứa bé hoảng sợ la lên:
– Bố ơi, khói mù mịt con không nhìn thấy bố! Ông bố tiếp la lớn:
– Con không nhìn thấy bố … nhưng bố nhìn thấy con!
Thế là cậu bé đã an tâm nhảy vào bàn tay rắn chắc vững vàng của người cha. Chỉ cần niềm tin “bố nhìn thấy con” đã cho đứa bé nghị lực để lao ra giữa khói lửa mịt mù.
Quả là, đức tin có thể chuyển núi dời non. Đức tin sẽ giúp con người chiến thắng mọi khó khăn vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Đức tin sẽ mang lại cho con người bình an tâm hồn ngay trong những thử thách gian truân.
Hôm nay tại tiệc cưới Cana, những người giúp việc đã được nghe Mẹ Maria nói trước: “Người bảo gì các anh hãy làm như vậy”. Họ đã tin và đã làm theo lời Chúa. Họ đã được như ý. Rượu nồng tình yêu đã đổ chan chứa nhờ tin vào quyền năng của Chúa. Nếu không có đức tin, có lẽ họ đã thầm nghĩ: “đổ nước lã vào chum và múc ra chẳng khác nào đánh lừa thực khách hay sao?”. Nhưng không, họ đã tin. Niềm tin đã tạo cho họ sức mạnh để có thể làm theo Lời Chúa ngay như chuyện không thể làm được. Niềm tin giúp cho họ mạnh dạn, vui tươi khi tuân hành theo Lời Chúa.
Cuộc đời con người không thiếu những gian truân, có khi còn đi đến bế tắt. Cuộc đời con người không thiếu những đêm dài tuyệt vọng. Nhưng, niềm tin vào Thiên Chúa quyền năng sẽ giúp chúng ta can đảm vượt qua. Và nhờ ơn Chúa, nhờ bám vào Chúa chúng ta sẽ vượt thắng tất cả.
Nhìn lại những trang tin mừng, chúng ta cũng gặp biết bao niềm vui của các bệnh nhân nhờ tin vào Chúa mà được khỏi bệnh. Nhìn lại những trang tin mừng, chúng ta cũng thấy thái độ của các tông đồ cũng hoàn toàn thay đổi từ nhút nhát đến kiên cường. Từ trốn tránh đến dám ra làm chứng cho Chúa sau khi các ông đã tin vào Chúa phục sinh.
Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” Niềm tin của chúng ta chỉ cần đơn sơ như cậu bé tin rằng: ”Con không nhìn thấy Cha nhưng con biết Cha nhìn thấy con!”. Vậy con xin phó thác để nhảy vào tay Cha để con “Sống là sống cho Cha và chết là chết cho Cha.”
Xin Chúa là Đấng chúng ta tin thờ luôn an ủi, che chở và gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy. Amen.
56. Khi lửa tắt, bình khô rượu
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Tài liệu của US Census Bureau năm 2010 cho biết, tỉ lệ ly dị trung bình của nước Mỹ là khoảng 50%, tiểu bang đi đầu là California 60%, mà Quận Cam là vùng có tỉ lệ ly dị cao nhất, gần 70%.
Từ nhiều năm trở lại đây, tỉ lệ lập gia đình trong dân số Hoa Kỳ ngày càng giảm, trong khi con số ly dị từ các cặp vợ chồng đó ngày một tăng lên. Cứ ba cặp đôi nào vượt qua được các thử thách và quyết định đi tới hôn nhân, thì chỉ 1 trong số đó sẽ giữ được mái ấm của mình. Với tỉ lệ ly dị cao tới gần 70% giữa các đôi vợ chồng ở Quận Cam, có thể nói rằng những đứa trẻ nào ở Quận Cam, mà có được cả ba lẫn mẹ để thưa chào trước khi đi học hay khi về nhà, là những đứa trẻ may mắn.
Tóm lại, cứ 10 cặp vợ chồng ở Quận Cam thì 7 cặp sẽ kết thúc trong sự tan vỡ. Theo khảo sát thì ba cặp còn lại, cũng nghĩ tới việc ly dị nhưng họ không biến ý nghĩ đó thành hiện thực. Trong cuộc sống hiện đại, khi thời gian là vàng bạc, con người dường như quyết định mọi thứ nhanh chóng hơn, kể cả việc chấm dứt đời sống vợ chồng. Khi nghĩ tới việc ly dị như một phương án, để kết thúc cho mọi khó khăn trong đời sống gia đình, thiết nghĩ một chút thời gian để nói chuyện với nhau, có thể giữ bạn lại ở bên phía 30% may mắn của các cặp vợ chồng ở Quận Cam. (Thiên An, Người Việt)
Hôm nay, Thánh sử Gioan mời gọi chúng ta đi dự tiệc cưới Cana cùng với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các tông đồ tân tuyển. Tiệc cưới diễn ra ban đầu suôn sẻ, nhưng bất ngờ xảy ra sự cố ngoài dự trù.
Khi đôi tân hôn đang còn nôn nóng, chờ đợi mời nhau chén rượu hợp cẩn, khi những lời chúc phúc trăm năm hạnh phúc, chưa kịp biến thành hiện thực, thì bất ngờ mối lo âu, hốt hoảng đã vội len lỏi ập đến, như kẻ trộm âm thầm giữa đêm khuya. Tiệc cưới sắp hết rượu!
Không Chúa, “hết rượu rồi!”
Đại tiệc đang hồi cao trào, náo nhiệt, tưng bừng, nhưng Mẹ Maria luôn quan tâm, luôn lắng nghe và luôn thấu hiểu tình trạng con cái, khi gia nhân lo lắng, băn khoăn, loáng thoáng xầm xì hết rượu. “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.”(Ga 2, 3)
Thiên hạ vẫn nghĩ rằng, hạnh phúc hôn nhân được gầy dựng, duy trì và phát triển do chính hai vợ chồng, cùng góp công, góp sức. Điều đó đúng đắn, nhưng thực sự chưa đủ để hôn nhân bền vững tồn tại. Bởi vì khuynh hướng hưởng thụ cá nhân đang được thế giới văn minh đề cao cổ võ, có thể gây tổn thương trầm trọng đến mái ấm. Nếu cứ đua nhau đi tìm thú vui, tình cảm riêng tư, không còn biết chia ngọt, xẻ bùi với bạn đời, không còn gắn kết chặt chẽ với nhau trong tình yêu nữa, thì đổ vỡ hôn nhân là điều tất nhiên. Đó chính là lúc “Họ hết rượu rồi!” báo hiệu nguy cơ chia tay, ly hôn, ly dị.
Tình cảm đôi lứa, tình yêu hôn nhân, tình nghĩa vợ chồng rồi cũng sẽ phai nhạt dần theo năm tháng, cũng sẽ sứt mẻ vì nhàm chán, vì va chạm, vì bất hòa, bất đồng, nhất là vì mỗi người tôn thờ cái bụng, tôn thờ cái tôi vĩ đại. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương thấm thía cảm nghiệm: “Em ơi, lửa tắt, bình khô rượu! Đời vắng em rồi, vui (say) với ai?” Lửa tình, yêu thương đã tắt ngúm, rượu nồng, nghĩa thắm cũng đã cạn kiệt, niềm vui đã biến mất, hạnh phúc đã cao chạy xa bay. Còn tiếc nuối chi nữa mà níu kéo nhau?
Mặc dù Chúa Giêsu luôn hiện diện, luôn kiên nhẫn trông ngóng, chờ đợi bên ngoài ngưỡng cửa tổ ấm, người ta vẫn lạnh lùng, không hề ân cần, vồn vã kính trọng mời Chúa bước vào. Không hề muốn Chúa đến thăm viếng, chia sẻ. Đó chính là tình trạng “vô thần thực dụng,” như Đấng Đáng Kính Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận, đề cập về Điều Răn Thứ Nhất. Không hề muốn Chúa can thiệp vào đời sống hôn nhân, hoặc riêng tư, thì cuộc đời vợ chồng sẽ đương nhiên mau chóng trở nên nhàm chán, trơ trẽn, nhạt nhẽo, vô vị, trống rỗng, thiếu thốn, phá sản, như bình rượu cạn khô.
Có Chúa, “rượu ngon” tràn đầy
Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi! “ Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), (Ga, 7- 9)
Khi trân trọng mời Chúa vào nhà, thì Người sẽ biến đổi cuộc hôn nhân đang đóng băng, sắp tan vỡ, trở thành bền vững, ấm áp, nồng nàn nghĩa tình. Chồng cần mẫn, rộng lượng, quảng đại, trung tín, có trách nhiệm với mái ấm, biết hy sinh cho vợ con, không say sưa chè chén, không đam mê đỏ đen, không lăng nhăng phù phiếm. Vợ đằm thắm biết nhẫn nhục, biết vun đắp, không đay nghiến, không nhỏ nhen, chấp chiếm, vạch lá tìm sâu. Con cái ngoan ngoãn, biết vâng lời cha mẹ, ông bà, thầy cô, trở nên hiểu đễ, chăm chỉ học hành. Không còn ai sống theo ý riêng, ích kỷ, vun quén bản thân, lạnh lùng, ơ hờ, bất cần người khác, mà thân thương, gắn bó, đoàn kết, hòa hoãn, chin bỏ làm mười, cùng nhắc nhủ nhau noi gương Thánh Gia, chung sức xây dựng gia đình hạnh phúc bền bỉ. Cũng đừng quên sứ điệp của Mẹ Têrêsa Calcutta: “Hãy luôn mỉm cười với nhau!”để tình yêu hôn nhân, gia đình luôn cập nhật và canh tân.
Chúa đến thăm gia đình, sẽ thân ái trao tay những tặng phẩm vô giá, lòng nhân ái, lòng thương xót, nghĩa phu thê, tình mẫu tử, tình phụ tử, lòng hiểu thảo, đức khiêm nhường, lòng khoan dung, tha thứ, hy sinh, quên mình, bỏ mình, vác thánh giá của nhau. Tất cả những nhân đức ây mới có điều kiện nảy nở, phát triển, khi đón nhận Chúa vào nhà, đồng thời có sức miễn nhiễm và đề kháng mãnh liệt với những thách đố hiện đại, như xung khắc, ích kỷ, hưởng thụ, ly thân, ly dị.
Có Mẹ săn sóc, bảo hiểm tổ ấm
Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 5) Lời Mẹ dặn vô cùng quan trọng để gìn giữ hôn nhân bền vững. Hãy lắng nghe Người dạy bảo qua Tin Mừng. Bởi vì Lời Chúa chính là ngọn đèn soi bước chúng ta đến bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu.
Mỗi khi thánh lễ hôn phối vừa chấm dứt, các đôi tân hôn thường theo mỹ tục, dẫn nhau đến dưới bàn thờ Mẹ, phó dâng cho Mẹ đời sống hôn nhân mới mẻ. Mẹ chẳng bao giờ nỡ chối bỏ làm ngơ. Mẹ luôn ân cần chăm sóc con cái, y như khi xưa ở Nazareth, Mẹ chu toàn tình mẫu tử với Hài Nhi Giêsu.
Gia đình Thánh là mẫu gương sáng chói rạng ngời cho hôn nhân. Hơn nữa, Thánh Gia đã bao phen cơ cực, như Mẹ phải sanh con nơi hang đá bò lừa, hôi hám, giá lạnh, như Thánh Giuse phải vội vã đem gia đình di tản lánh nạn, âm thầm vượt biên, hòng thoát khỏi bàn tay khát máu của vua Hêrôđê. Do vậy, không ai hiểu những thách đố cay nghiệt của đời sống hôn nhân bằng Mẹ. Vậy hãy chạy đến Mẹ hằng ngày, hằng giờ, để được Mẹ an ủi, chở che, bảo hiểm mái ấm khỏi mưa sa bão táp hư hao, bầm dập.
Phần thứ nhất của tiệc cưới Cana là yêu thương, hưởng thụ, nhưng giữa tiệc cưới chỉ còn nước! Đôi tân hôn mới ý thức rằng phương tiện mình hạn hẹp, tình yêu mình lạnh nhạt!
Phần thứ hai của tiệc cưới Cana là khám phá ra kho tàng đạo đức chưa được sử dụng, rượu sau ngon hơn rượu trước: Một tình yêu chân thực, một quả tim biết thắng mình, quên mình, trung thành và hiến dâng không đòi lui (Đường Hy Vọng, 464)
Lạy Chúa Giêsu, con xin chân thành mời Chúa đến thăm gia đình chúng con, ở lại với chúng con luôn mãi, để thánh hóa cuộc hôn nhân chúng con, tựa như của lễ hiến dâng lên Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria nhân từ, xin Mẹ luôn quan tâm chăm sóc, chở che, vỗ về gia đình chúng con, khỏi bão tố, ba đào, cho tình yêu đôi lứa chúng con bển vững và thăng hoa, đẹp lòng Thiên Chúa. Amen.
57. Biến đổi
Cuộc đời con người cần có những niềm vui. Niềm vui tô điểm cho cuộc đời mỗi ngày thêm mới. Con người sống thiếu niềm vui sớm trở thành cằn cỏi, già nua. Những cơ cực thiếu thốn trong đời khiến con người dần dần thiếu hẳn niềm vui. Nếu cả đời người ta phải sống trong cơ cực vất vả mà gặp một ngày tiệc tùng vui chơi là cơ hội quý giá trong đời.
Chúa Giêsu hiện diện trong đám cưới hôm nay như góp thêm niềm vui cho ngày hôn lễ. Phép lạ hoá nước thành rượu mang đến niềm vui cho chủ nhà và những người dự tiệc. Phép lạ này mang một ý nghĩa lớn lao hơn những gì con người đã chứng kiến. Một chân lý tiềm ẩn mà Gioan muốn nói tới: Chúa Giêsu chính là vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang Người tỏ rạng sẽ đem đến cho con người một niềm vui bền vững, không tàn.
Khung cảnh câu chuyện là đám cưới ở một làng quê. Tiệc vui người Do thái rất cần rượu. Các Rabbi vẫn nói: ” Không rượu thì không vui”. Tiệc đông vui mà hết rượu quả là một điều xấu hổ cho gia đình, là sự nhục nhã cho cả cô dâu và chú rể. Chúa Giêsu xuất hiện kịp thời làm cho niềm vui ngày cưới của họ được nên trọn vẹn. Giao ước trong hôn nhân là giao ước tình yêu được ký kết giữa người với người. Thiên Chúa đã chúc lành để giao ước tình yêu nơi con người luôn được bền chặt. Tuy nhiên, sự hiện diện của Ngài trong tiệc cưới còn hướng con người nhớ lại giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với nhân loại qua Môisen. Rồi đây Thiên Chúa sẽ kết ước với con người một giao ước mới qua Đức Kitô.
Trong Cựu ước Thiên Chúa tự xưng mình là hôn phu của dân Israel. Trước tình yêu vô bờ của Thiên Chúa thì dân Israel cảm nhận được hậu quả mà mình đã gây ra. Nhìn lại quá khứ, tác giả sách Isaia cảm nhận ra tình yêu Thiên Chúa vẫn nồng nàn: Cho dù dân Israel nhiều lần phản bội nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng và đón nhận họ trong tình yêu vô bờ: ” Ngươi sẽ được gọi ái khanh lòng ta hỡi”. Thiên Chúa tiếp tục biến đổi cuộc sống của dân Ngài thành hoan lạc:
“Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ”.
“Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới người về”.
Đến thời Chúa Giêsu, Ngài đến khai mạc một thời kỳ mới. Ngài sẽ là vị trung gian của giáo ước con người với Thiên Chúa. Chính Ngài là thứ rươụ mới mà Thiên Chúa ban cách dư tràn để con người vui sống. Ngài đến làm hoan lạc lòng người. Ơ Naim, Ngài biến đổi nước mắt khổ đau của người mẹ thành những giọt lệ vui mừng khi đứa con sống lại. Ở Giêricô, Ngài cho cõi lòng ích kỷ hay tích góp của Giakêu trở nên một tâm hồn rộng mở giúp đỡ mọi người. Ngài sẵn sàng cứu chữa nhưng người đau bệnh, ban cho họ sức khoẻ để họ bình an mà vui sống với cuộc đời.
Phép lạ Chúa Giêsu làm hôm nay là một dấu hiệu Ngài muốn thay đổi cuộc sống của con người. Ngài đến ban cho con người một thứ rượu mới, đó chính là rượu ân sủng dồi dào của Thiên Chúa. Cuộc sống thiếu thốn của con người giờ đây Ngài làm cho dư tràn. Những bất toàn trở nên hoàn hảo. Ân sủng Ngài ban không chỉ duy nhất một lần nơi tiệc cưới nhưng sẽ luôn mãi diễn ra trong suốt cuộc sống con người.
Bất cứ lúc nào Chúa bước vào đời sống thì đời sống ấy được mang một phẩm chất mới, giống như lã biến thành rươụ ngon. Không có Chúa Giêsu thì cuộc đời cứ ứ đọng, ù lì, chán ngắt. Khi Chúa Giêsu bước vào cuộc đời, nó trở nên sống động, lý thú, xinh tươi. Không có Chúa cuộc đời thật lạnh lẽo,vô vị. Với Chúa Giêsu cuộc sống đã trở nên hấp dẫn, diệu kỳ.
58. Chúa Nhật 2 Thường Niên
KÍNH MỜI ĐỨC GIÊSU ĐẾN DỰ TIỆC CƯỚI
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngay từ đầu sách Tin Mừng của mình, Thánh Sử Gioan đã tường thuật lại câu chuyện tiệc cưới ở Cana, trong đó có sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Maria, Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên (Ga 2,1-11). Đức Giêsu không chỉ tham dự buổi lễ cưới, nhưng còn “cứu nguy cho buổi lễ ấy” bằng một phép lạ hóa nước thành rượu ngon! Như thế, dấu lạ đầu tiên trong chuỗi những dấu lạ Ngài thực thi để bày tỏ vinh quang, nằm trong bối cảnh của một tiệc cưới, và điều này cho thấy một sự đồng cảm lớn lao Ngài dành cho một gia đình vừa mới khai sinh, nhờ sự thúc dục và quan tâm đầy nét từ mẫu của Mẹ Maria. Điều này giúp chúng ta nhớ đến sách Sáng Thế, khi Thiên Chúa hoàn thành công trình tạo dựng và các tuyệt tác của Ngài; tuyệt tác đó là chính người nam và người nữ. Nơi đây, Đức Giêsu bắt đầu các phép lạ của mình cũng bằng một tuyệt tác, trong một cuộc hôn nhân, một tiệc cưới giữa người nam và người nữ. Như thế, Đức Giêsu dạy bảo chúng ta rằng tuyệt tác của xã hội là gia đình: người nam và người nữ yêu thương nhau! Đây chính là tuyệt tác! Từ lúc diễn ra tiệc cưới ở Cana cho đến nay, đã có rất nhiều thứ thay đổi, nhưng “dấu chỉ” này của Đức Kitô vẫn mãi là một thông điệp có giá trị.
Ngày nay, dường như chẳng dễ để nói về hôn nhân như là một ngày vui, mà người ta kỷ niệm vào những chặng đường khác nhau trong cuộc đời của hai người. Có một sự thật là số lượng người kết hôn với nhau đã giảm đi. Đây là một thực tế: giới trẻ không còn muốn kết hôn nữa. Thay vào đó, tại nhiều nước, con số vợ chồng ly dị gia tăng, và số con cái người ta có trong gia đình thì giảm xuống. Những khó khăn vẫn còn đó, có thể giữa hai người, có thể trong gia đình, đã khiến họ phá vỡ mối dây hôn phối thường xuyên và nhanh chóng hơn, và chính con cái là những người đầu tiên gánh chịu hậu quả. Chúng ta hãy nghĩ đến những nạn nhân đầu tiên, và vô cùng quan trọng đã phải chịu đựng hậu quả nhiều hơn ai hết trong vụ ly dị, đó chính là con cái. Tôi tin rằng chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ về việc tại sao nhiều bạn trẻ không cảm thấy muốn kết hôn. Có phải do lối nghĩ về một nền văn hóa tạm bợ, tất cả đều tạm bợ, chẳng có gì tồn tại vĩnh viễn?..
Chứng tá thuyết phục nhất của phúc lành hôn nhân Kitô giáo chính là đời sống tốt đẹp của cặp vợ chồng Kitô giáo và của gia đình. Không hề có một cách thức nào tốt hơn để nói về nét đẹp của bí tích! Hôn nhân được Thiên Chúa thánh hóa sẽ giúp bảo vệ mối dây liên kết giữa người nam và người nữ, là loài được Thiên Chúa chúc lành từ khi tạo dựng trời đất; và đây chính là nguồn mạch của bình an, thiện hảo dành cho đời sống lứa đôi và gia đình. Tin Mừng gia đình, Tin Mừng loan báo chính bí tích này chống lại nền văn hóa ly dị…
Anh chị em thân mến, chúng ta đừng sợ mời Đức Giêsu đến dự tiệc cưới! Đừng sợ mời Giêsu đến nhà chúng ta, vì Người luôn ở với chúng ta và che chở gia đình chúng ta. Mẹ Maria, Mẹ của Người cũng thế! Khi người Kitô hữu kết hôn “trong Chúa”, họ sẽ được biến đổi trong một dấu chỉ hữu hiệu của tình yêu Thiên Chúa. Người Kitô hữu không kết hôn chỉ cho mình, nhưng họ kết hôn trong Chúa vì lợi ích của tất cả cộng đồng và toàn thể xã hội. (Pr. Lê Hoàng Nam, SJ dịch,ĐTC Phanxicô: Đừng sợ mời ĐứcGiêsu đến dự tiệc cưới, dongten.net)
Hiệp ý cùng Đức Giáo Hoàng Phanxicô, mong tất cả những đôi tân hôn đều trân trọng kính mời Đức Giêsu đền dự tiêc cưới, cùng với Mẹ Maria và các Tông Đồ, để được quan tâm, giúp đỡ, khỏi lâm vào nỗi khổ tâm “hết rượu.”
Trong hôn nhân, không thiếu xảy ra những hoàn cảnh “hết rượu,” tình yêu phai nhạt như nước ốc, không còn nồng ấm như thuở ban đầu. Gia đình trở nên âm u, lạnh lẽo, không còn tiếng nói huyên thuyên, giọng cười dòn dã, chỉ còn tiếng bấc tiếng chì nặng nhẹ, không còn ánh mắt long lanh dịu dàng, thắm thiết, chỉ còn đôi mắt lườm nguýt, trợn trừng, doạ dẫm, dữ dằn, xa lạ. Khi tình yêu vỗ cánh bay đi, lửa hận tình thù kéo đến, cạn tình ráo máng.
Nhân dấu lạ hoá nước thành rượu, Đức Giêsu muốn nhắn nhủ đến tất cả những đôi hôn phối, làm thế nào xây dựng gia đình hạnh phúc luôn bền vững, trọn hảo.
Tình Yêu
Nếu hôn nhân chỉ dựa trên tình yêu vị kỷ, sắc dục, xác thịt, hưởng thụ, (Eros) hay tình yêu bằng hữu (Philia) chiếu lệ, hời hợt, đãi bôi, hoặc tình yêu gia đình huyết tộc, cha mẹ, con cái, anh chị em, (Storge) thì cũng sẽ dần mai mọt, nhạt nhẽo theo năm tháng. Còn nếu hôn nhân đặt trên nền tảng tình yêu xả kỷ vị tha, dâng hiến, hy sinh, cho đi vô điều kiện, (Agapé) theo Đức Giêsu, thì mới tồn tại viên mãn. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu của minh.” (Ga 15, 13)
Chạy theo tình yêu vị kỷ, con người sẽ không bao giờ thoả mãn, vì sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, ảo ảnh, phù vân, không bao giờ trường tồn, cũng chẳng bao giờ đáp ứng đủ nhu cầu đòi hỏi vô chừng. Chỉ có tình yêu xả kỷ vị tha mới đem lại bình an và hạnh phúc, vì Chúa luôn bù đắp gấp trăm, gấp vạn lần cho đi. “Hãy cho đi, và các ngươi sẽ được người ta cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc, đầy tràn tóe ra mà đổ vào vạt áo các ngươi. Vì các ngươi đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy.” (Lc 6, 38)
“Đừng để tháng ngày làm cho quả tim già nua. Hãy yêu thương một một tình yêu ngày càng mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: Tình yêu Chúa đổ vào quả tim con. (Đường Hy Vọng, số 178)
Vâng phục
“Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo.” Lời nhắc nhủ của Mẹ Maria chan chứa yêu thương dành cho những người giúp việc phục vụ, đồng thời cũng dành cho tất cả người Kitô hữu, nhất là dành cho các đôi hôn nhân muốn được bình an và hạnh phúc. Bởi chưng “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119, 105) Nghe và thực hành Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh, thì tâm hồn sẽ được cảm hoá và biến đổi tốt lành hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn, gia đạo bền vững, vợ chồng quan tâm, kính trọng nhau, con cái hiếu đễ, ngoan ngoãn, yên vui, xum vầy.
Đức Giêsu truyền lệnh: “Hãy đổ nước đầy các chum.” Họ đổ đầy tới miệng.” Không băn khoăn, do dự, nghi ngại, thắc mắc, những người giúp việc mau mắn, răm rắp thi hành, theo như lời Mẹ Maria đã ân cần dặn dò. Lập tức dấu lạ xảy ra. Nước lã bỗng dung biến thành rượu ngon! Vâng theo Thánh Ý Chúa, kết quả hoàn mỹ, ngoài sức tưởng tượng, không ai có thể ngờ trước được!
Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô căn dặn vợ chồng phải vâng phục, yêu thương nhau với lòng kính mến Chúa. Đó chính là Thánh Ý Chúa, là bổn phận làm chồng làm vợ, là nghĩa vụ giáo dục con cái và trách nhiệm với Thiên Chúa và xã hội. “Anh em hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Ðức Kitô. Người vợ hãy phục tùng chồng mình, như đối với Chúa: vì chồng là đầu người vợ, như Ðức Kitô là đầu Hội Thánh: chính Người là Ðấng Cứu Chuộc thân thể mình. Và như Hội Thánh phục tùng Ðức Kitô thể nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong mọi sự như vậy… Cũng thế, người chồng phải yêu thương vợ mình như chính thân mình. Ai yêu thương vợ mình, là yêu thương chính mình. Vì không ai ghét thân xác mình bao giờ, nhưng nuôi dưỡng và nâng niu nó, như Ðức Kitô đối với Hội Thánh: vì chúng ta là chi thể của thân xác Người, do xương thịt Người. (Ep 5, 21-24; 28-30)
Hiệp nhất
Có tình yêu hiến dâng và vâng phục Lời Chúa, hôn nhân mới được Chúa chúc phúc và hiệp nhất, như nước lã tẻ nhạt, tầm thường, vô vị, được Chúa đồng nhất biến thành mỹ tửu đậm đà, độc đáo, thơm ngon. “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!” Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết.” Chỉ những ai nghiêm túc lắng nghe và thực hành Lời Chúa, mới có thể cảm nghiệm được dấu lạ cả thể đã biến đổi, canh tân và thánh hoá cuộc đời mình lẫn gia đình. Đồng thời vinh quang của Đức Giêsu được dịp biểu hiện công khai với tha nhân.
Hơn nữa, đó là những điều kiện tiên quyết để hiệp nhất gia đình một cách mật thiết và sung mãn nhất. “Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với Mẹ Người, anh em và môn đệ Người.” Khiêm nhu, vâng phục, yêu thương vị tha đã kết hiệp chặt chẽ các thành viên trong gia đình, cũng như đã liên kết Thánh Gia và Gia Đình Mục Vụ mới, gồm Đức Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ, gắn bó, hiệp nhất với nhau làm một, khi cùng đồng tâm xuống Capharnaum rao giảng.
Đây cũng là hình ảnh hiệp nhất giữa Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh duy nhất, thánh thiện công giáo và tông truyền. “Vì người được Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi, sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa, ngươi thờ.” (Is 62, 4-5)
“Phần thứ nhất của tiệc cưới Cana là yêu thương và hưởng thụ. Nhưng giữa tiệc cưới chỉ còn nước! Đôi tân hôn mới ý thức rằng: Phương tiện mình hạn hẹp, tình yêu mình lạnh nhạt. Phần thứ hai của tiệc cưới Cana là khám phá ra kho tang đạo đức chưa được xử dụng, rượu sau ngon hơn rượu trước: Một tình yêu chân thực, một quả tim biết thắng mình, quên mình, trung thành và hiến dâng không đòi lui.” (Đường Hy Vọng, số 464)
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con tình yêu xả kỷ, sẵn sàng cho đi, hiến dâng tất cả cho Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con biết vâng theo Thánh Ý Chúa, qua Lời Chúa và giáo huấn Hội Thánh, để chúng con được bình an, hạnh phúc và hiệp nhất trong gia đình, cộng đoàn, giáo xứ và Giáo Hội.
Lạy Mẹ Maria, khấn xin Mẹ đoái thương những gia đình, những đôi hôn nhân đang còn lạc đường, đắm chìm trong những phù phiếm hưởng thụ, vị kỷ. Khấn xin Mẹ thức tỉnh chúng con đừng sa ngã vào văn hoá tiêu thụ, nô lệ cho tiền tài, của cải tiện nghi và tà thần. Kính xin mời Mẹ và Con Mẹ đến dự đám cưới chúng con và ở cùng gia đình chúng con luôn mãi. Amen.
59. Vị khách
Có một đôi vợ chồng trẻ được cha mẹ cho ra riêng. Trong khi trang hoàng ngôi nhà mới, họ đã bất đồng với nhau về chỗ để treo bức ảnh Chúa Giêsu. Người chồng thì muốn treo bức ảnh ấy ở một vị trí nổi bật nhất trong nhà. Cuối cùng thì người vợ đành phải nhượng bộ, bởi vì chị bỗng nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán:
– Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
Chính bức ảnh này đã gây được một ấn tượng mạnh đối với gia đình và khách khứa đến thăm.
Ngày kia, một người bạn, sau khi nhìn ngắm bức ảnh đã nói với chị:
– Chúa Giêsu không phải chỉ nhìn vào chị, mà còn nhìn xuyên qua tâm hồn chị.
Người khác thì cho biết:
– Lúc nào tôi cũng cảm thấy gia đình chị luôn bình an.
Chính chị đã tâm sự:
– Một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi, không còn như trước nữa.
Đôi tân hôn tại cana, hẳn sẽ đồng ý với người vợ trong câu chuyện trên, bởi vì họ đã mời Chúa Giêsu đến nơi gia đình họ và Ngài đã làm phép lạ đầu tiên, cho nước lã biến thành rượu ngon, để họ khỏi bị bẽ mặt với khách dự tiệc.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta sẽ thấy được một nhận xét nho nhỏ và thú vị, đó là nhiều lần Ngài đã làm phép lạ ở trong gia đình của dân chúng. Chẳng hạn khi Phêrô mời Ngài đến nhà thì Ngài đã chữa lành cho bà mẹ vợ đang sốt nặng. Cũng tại nhà Giairô, Ngài đã cho con gái ông được sống lại. Khi dùng bữa tại nhà ông Biệt phái, Ngài cũng đã chữa lành cho một bệnh nhân. Đặc biệt là với Giakêu và Matthêu, sự hiện diện của Chúa Giêsu đã làm thay đổi cuộc sống của hai ông, Matthêu thì đã trở nên tông đồ của Chúa. Còn Giakêu thì nhất quyết làm lại đời mình và đền bù những thiệt hại mình đã gây ra.
Từ những hình ảnh trên, chúng ta hãy tự hỏi xem:
– Chúng ta đã thực sự mời Chúa Giêsu vào nhà chúng ta hay chưa?
Một người khách khi bước chân vào nhà chúng ta, liệu họ có nhận ra chúng ta thuộc về Chúa qua cách bài trí trên bàn thờ, trên tường vách, hay là người ấy sẽ bình phẩm:
– Tôi thấy con cái của ông bà là những đệ tử ruột của Lý Hùng, của Thu Hương, của Diễm My… bởi vì khắp nơi trong nhà được dán la liệt hình ảnh của những tài tử này.
Liệu một người khách sau vài ngày viếng thăm và ở lại trong gia đình chúng ta, khi ra về họ sẽ nói:
– Gia đình bạn thực là một gia đình Kitô giáo. Mình không thể nào quên được những lời kinh ban tối và ban sáng, trước và sau mỗi bữa ăn. Cũng như chẳng bao giờ quên được tình thương yêu đầm ấm trong gia đình bạn. Ngoài ra mình cũng nhớ là mình chưa hề nghe những người trong gia đình bạn nói hành nói xấu ai cả.
Như thế, việc mời Chúa Giêsu vào nhà là một bổn phận thật quan trọng của mỗi người chúng ta. Cách thức mời Ngài vào nhà, có thể là bằng việc treo lên bàn thờ một tượng chịu nạn, hay một bức ảnh về Chúa. Có thể là việc kính cẩn đọc kinh tối và sớm, trước và sau mỗi bữa ăn. Nhất là bằng việc đối xử với nhau một cách yêu thương và chân thành, cũng như không bao giờ oán hận và thù ghét ai cả.
Cùng với sự hiện diện của Ngài thì bản thân chúng ta sẽ được đổi mới và gia đình chúng ta sẽ được đầm ấm và hạnh phúc.
60. Hạnh phúc mong manh
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.
Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót, chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động. Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.
Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về “Tiệc cưới Cana”. Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của Người.
Theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến ‘ngày thứ ba’ thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhảy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.
Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt: “Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Qua câu này, Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ Maria cũng không hiểu rõ chữ ‘Giờ’ tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ. Mẹ mong Con làm một điều gì đó: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.
Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy ‘Giờ’ tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để “Các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11).
Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.
Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành bảy trăm lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.
Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa: “Họ hết rượu rồi”.
Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.
Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.
Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu Ước thành rượu ngon của Tân Ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho chúng con một hạnh phúc vững bền.
Xin Mẹ Maria luôn là Đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen.
61. Chúa Giêsu thay đổi tất cả
Sự náo động chung quanh việc thiếu rượu, cuộc đối thoại đáng kinh ngạc giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria, phép lạ làm sững sờ, sự hài hước (‘Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ’), thật là sống động! Biết bao nhiêu hoạ sĩ thích vẽ đám cưới Cana, và chúng ta cũng bị cám dỗ biết mấy là dừng lại ở nơi sự thu hút của đám cưới này.
Nhưng chúng ta đang đọc Tin Mừng của thánh Gioan. Ngài là người kể chuyện tài tình và là thần học gia Tin Mừng đang mặc khải các mầu nhiệm bằng cách tiên phong sử dụng những từ ngữ với một nghệ thuật tinh vi. Bạn hãy nhìn xem các từ ‘vinh quang’ và ‘dấu chỉ’ đang chiếu sáng. Bạn hãy xem nước và rượu tương phản nhau biết bao, giờ (‘Giờ của tôi chưa đến’) và sự bắt đầu (‘Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana’: tại Cana, khởi đầu các dấu chỉ). Bạn hãy đọc kỹ trang mặc khải này và bạn sẽ gặp được hai câu chính yếu: “Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu”… “Các môn đệ đã tin vào Người”.
Mỗi đoạn Tin Mừng thánh Gioan là một lời kêu gọi tin vào một điều mà điều này là một bước tiến gần tới toàn bộ đức tin. Tin vào điều gì ở đây? Đó là Chúa Giêsu thay đổi tất cả. Ngài đến Cana và nước hoá thành rượu. Đây là một ‘phép lạ-dấu chỉ’. Chúa Giêsu đến và thế giới được biến đổi: “Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2Cr 5,17). Chúa Giêsu đến trong cuộc sống của chúng ta và nếu chúng ta tin, theo nghĩa rất mãnh liệt của thánh Gioan, thì cuộc sống của chúng ta được biến đổi. Chúng ta đi từ cuộc sống hơi tẻ nhạt đến một cuộc sống mạnh mẽ. Cuộc sống này nhảy múa ca hát và bẻ gãy những bó buộc sai trái: Rượu của Chúa Giêsu Kitô! Ngài nói: rượu mới của ta làm vỡ những bình cũ (Mc 2,22).
Than ôi! Người ta còn có thể nói rằng tôn giáo là rượu ngon của cuộc sống nữa hay không? Chúng ta đã làm cho Kitô giáo trở thành một cái gì buồn tẻ, thật sự không làm cho say sưa. Nước của Cana! Nước trong Thánh Kinh, nước trong thánh Gioan vọt ra, tẩy sạch, biểu tượng của sự sống: nước hằng sống. Nhưng không phải nước tại Cana.
“Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái”. Đây là nước mà Chúa Giêsu sẽ biến đổi, nước biểu tượng của một tôn giáo hình thức. Tôn giáo hằng sống của người Do thái trở nên quá tỉ mỉ, giả hình. Đó là căn bệnh của mọi tôn giáo. Cuối cùng người ta tin rằng để làm vui lòng Chúa, chỉ cần thốt lên những câu nói, rửa ráy, làm những việc bề ngoài là đủ.
Tôn giáo của Chúa Giêsu thay đổi tất cả: đó là rượu say đắm của tình yêu. Chúng ta làm Chúa vui lòng nếu các nghi thức của chúng ta là những dấu chỉ và là sự trỗi dậy việc chúng ta trao ban cho tha nhân, nếu chúng ta thay đổi, ít ra là xoa dịu nỗi khổ nhọc của một người anh em thành niềm vui. Chúa Giêsu mang lại khả năng chưa từng có này: từ nay tất cả sẽ có thể là tình yêu. Ngài nói với Mẹ Maria: ‘Thưa Mẹ, Mẹ chờ đợi gì ở con? Con sẽ làm hơn thế nhiều khi đã tới giờ!’.
Nhưng ở đây nổ ra khả năng sinh hạ của Mẹ Maria: Mẹ đã sinh hạ ra con trai của Mẹ cho cuộc đời, Mẹ đã sinh hạ con trai đó cho cuộc sống công khai của Ngài, với những phương tiện của một người mẹ của Đấng Duy Nhất: sự kín đáo và niềm tin.
Có gì kín đáo hơn thế? “Họ hết rượu rồi” (Tôi thích câu này ‘hết rượu rồi’ của các nhà chú giải, thay vì ‘còn ít rượu’: Chúa Giêsu sẽ không cho thêm rượu, Ngài sẽ cho rượu).
Và đức tin rất mạnh mẽ: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Rất ít lời, vừa đủ để sự nhục nhã của một cặp vợ chồng trẻ được biến đổi thành niềm vui. Và để chúng ta muốn xin Mẹ Maria ân sủng của tiệc cưới Cana: cuối cùng chúng ta hãy tin rằng Chúa Giêsu thay đổi tất cả.
62. Hôn Phu Giáo Hội
Lời Chúa Chúa nhật hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nước thành rượu tại tiệc cưới ở Cana. Trước hết ta thấy đoạn Tin mừng này kể lại câu chuyện về một đám cưới. Đám cưới này đã gặp chuyện không may là hết rượu nửa chừng. Đám cưới này có Chúa Giêsu, Đức mẹ và các Tông đồ tham dự. May mắn, lúc ấy Chúa Giêsu đã làm phép lạ để cứu cho chủ tiệc một bàn thua trông thấy.
Không những có rượu để đáp ứng cho tiệc cưới mà rượu ấy lại là rượu ngon hảo hạng. Đến nỗi người quản tiệc đã nói với chú rể: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” Như vậy, nếu ở đâu có Chúa Giêsu hiện diện thì ở đấy dù có phải điêu đứng thì cũng an tâm. Đây là một ý nghĩa trong nhiều ý nghĩa khác mà Thánh Gioan muốn gởi gắm cho ta qua đoạn Tin mừng này.
Ý nghĩa khác cũng không kém phần quan trọng cho đời sống đức tin của ta. Đó là qua hình ảnh tiệc cưới này Thánh Gioan muốn nói đến Chúa Giêsu chính là Hôn phu của Giáo hội.
Theo tục lệ của người Do thái thời ấy, chú rể có bổn phận phải cung cấp rượu cho tiệc cưới của mình. Có như thế khách dự tiệc mới vui và tiệc mới có được niềm vui trọn vẹn. Xin nói thêm tiệc cưới ở xứ Do thái thường kéo dài khoảng một tuần lễ. Dĩ nhiên chú rể phải biết dự liệu trước. Nhưng đây lại là tình huống có thể nói là ngoài ý muốn. Từ đó, ta thấy được sự giới hạn của con người. Chính lúc ấy Chúa Giêsu đã đóng được vai trò chú rể thật là hoàn hảo. Bởi lẽ, rượu là thứ không thể thiếu trong tiệc cưới.
Gia đình là hình ảnh gần gũi với ta. Theo truyền thống của người Việt Nam cũng như một số nơi khác trong gia đình người chồng, người cha chính là trụ cột. Cách nào đó, ta thấy nếu gia đình mà thiếu vắng trụ cột này thì gia đình khó có thể đứng vững. Cũng vậy và hơn thế nữa, nếu như không có Chúa Giêsu thì chắc chắn Giáo Hội đã tan rã từ lâu.
Trước khi về trời Người đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Với cặp mắt thể lý có thể ta khó thấy được sự hiện diện của Người. Tuy nhiên dưới cặp mắt đức tin ta tin chắc rằng Người luôn ở cùng và ở bên Giáo Hội. Thậm chí, cả những lúc tưởng chừng như Giáo Hội mất hết hy vọng thì sự hiện diện của Người càng mạnh mẽ hơn.
Ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho Giáo hội. Xin Chúa ban cho Giáo hội luôn biết nương tựa vào Người chứ đừng nương tựa vào thế lực nào ở trần gian này. Cách riêng mỗi người hãy biết cộng tác với Giáo hội bằng sức của mình. Mỗi người đều được ban đặc sủng riêng, hãy biết dùng để thờ phượng Chúa và làm mở mang nước Chúa.
63. Chuyện bất ngờ
Người ta thường bảo:
– Mấy ai học được chữ ngờ.
Có những điều chúng ta không bao giờ nghĩ đến, thì lại xảy ra. Đó cũng là trường họp của đoạn Tin mừng hôm nay. Thực vậy, Chúa Giêsu đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng cách tham dự một đám cười ở Cana và thực hiện phép lạ đầu tiên cũng tại đây.
Là Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại, chúng ta thích Ngài chọn lựa một hoàn cảnh khác, trang trọng hơn để tỏ mình ra cùng thiên hạ.
Đúng thế, chúng ta thử tưởng tượng một vị Giám mục hay một vị Hồng y chẳng hạn như Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, ngay sau khi vừa được tấn phong, đã vội vã cùng với những người thân cận nhất của mình, đi tham dự một đám cưới.
Bữa tiệc kéo dài tới tận khuya thì thiếu rượu, vị Giám mục hay vị Hồng y ấy bèn sai người về lấy những chai rượu lễ, mang tới để đãi khách và kéo dài tiệc vui. Nếu sự thật đã xảy ra như vậy, thì khi nghe biết, chúng ta chỉ còn cách lắc đầu, nhún vai và không thể nào hiểu nổi.
Thế nhưng đối với Chúa Giêsu thì đó lại là một chuyện bình thường. Ngài ngồi giữa đám khách dự tiệc và làm phép lạ đầu tiên, biến nước lã trở thành rượu ngon. Sáu chum đựng nước, chứa từ ba trăm đến bốn trăm lít, đã được chủ tiệc xác nhận là một thứ rượu ngon tuyệt vời. Vậy đâu là mục đích và đâu là ý nghĩa của việc Chúa Giêsu đã làm?
Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu ít khi đề cập đến vấn đề hôn nhân, cũng như về tình yêu gia đình. Tuy nhiên đây chắc chắn phải là một vấn đề thời sự nóng bỏng lúc bấy giờ, bởi vì như chúng ta đã biết lúc bấy giờ quân đội La Mã đang chiếm đóng xứ này. Và cùng với họ, là những xáo trộn về đạo đức và những suy thoái về luân lý.
Hơn thế nữa, xứ Palestine lại nằm giữa những dân tộc ngoại giáo với những quan niệm sai lạc về hôn nhân và gia đình. Hẳn rằng Chúa Giêsu có nhiều lý do để trình bày về đề tài này, nhưng Ngài lại nói rất ít.
Còn chúng ta hôm nay, chúng ta đã bàn bạc, đã viết lách rất nhiều. Nào là sự khủng hoảng của đời sống gia đình. Nào là sự sụp đổ của tình yêu hôn nhân. Nào là những khác biệt tâm lý trong liên hệ vợ chồng…Thế nhưng ngày hôm nay lại có nhiều đổ vỡ trong hôn nhân và gia đình hơn hết.
Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi một tiếng đồng hồ lại có tới cả trăm đôi vợ chồng lôi nhau ra tòa để ly dị. Con số ly tị tăng nhanh và lên tới 50% tại các nước phương tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng thành hôn, thì lại có một cặp thất bại, phải ly dị nhau. Ấy là chưa kể tới biết bao thai nhi đã bị giết chết một cách oan uổng. Mới đây người ta đã xếp Việt Nam chúng ta vào một trong ba nước có con số nạo phá thai cao nhất thế giới…
Còn Chúa Giêsu thì khác. Ngài không nói nhưng Ngài đã làm. Ngài ở giữa đôi tân hôn tại Cana, tham dự đám cưới của họ và thánh hóa mái gia đình họ vừa mới gầy dựng. Hành động khởi đầu cho sứ mạng của Ngài không phải là một thông điệp gửi đến cho toàn thể thế giới, cũng không phải là một cuộc biểu dương lực lượng, nhưng là một đám cưới nhà quê, qua đó Ngài tỏ cho chúng ta biết Ngài chính là suối nguồn đem lại bình an và hạnh phúc, cảm thông và trung thành cho đôi tân hôn.
Đúng thế, hôn nhân không phải chỉ là một giao ước mang tính cách xã hội, mà còn là một bí tích, một sự kết hợp thiêng liêng trong ơn sủng và Đức Kitô chính là sợi dây nối kết họ lại với nhau. Tình yêu của họ là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo hội, như tại Cana Ngài đã giúp cho họ vượt qua mọi khó khăn. Hơn thế nữa, hôn nhân còn là một cơ may để họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc hình thành và giáo dục những người con cái Thiên Chúa.
Có nhìn hôn nhân và gia đình như thế, chúng ta mới tìm thấy được ý nghĩa của cuộc sống lứa đôi và sức mạnhg giúp chúng ta trung thành cùng nhau trong liên hệ vợ chồng, bởi vì Đức Kitô đang ở giữa chúng ta.
64. Thiên Chúa sẽ lấp đầy
Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, ắt hẳn ai trong chúng ta đều có những kinh nghiệm về những sự việc vượt quá giới hạn của con người, lúc đó ta thấy khả năng của mình hạn hẹp, sức lực của ta có giới hạn… và khi đó ta đành phó mặc cho số phận vì ta không thể làm gì hơn được nữa. Nhưng với những người có niềm tin, tin tưởng vào Thiên Chúa thì không phải thế, Chúa sẽ lấp đầy những gì con người còn thiếu, còn chưa đủ cho những ai biết trông cậy và phó thác cho Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay Ga2, 1-11 cho ta thấy rõ điều đó.
Thánh Gioan thuật lại phép lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời hoạt động công khai của Ngài là phép lạ hoá nước thành rượu trong tiệc cưới Cana, phép lạ mà như lời Chúa Giêsu nói ” Giờ tôi chưa đến” nhưng Ngài lại thực hiện phép lạ này. Vì sao thế? Thiết tưởng có nhiều lý do để Chúa Giêsu thực hiện phép lạ này nhưng ở đây tôi chỉ xin khơi lên khía cạnh con người mà ở đây là những người gia nhân của tiệc cưới.
Sau khi tiệc cưới hết rượu ắt hẳn các gia nhân cũng băn khoăn không kém gì người quản tiệc: Còn rượu đâu mà đãi khách, xử sự ra sao bây giờ…. và khi nghe Đức Maria dặn ” Người bảo gì anh cứ làm theo”. Họ cũng phân vân. Đức Maria và anh Giêsu thì có lẽ họ cũng quen biết mà anh Giêsu có là gì mà phải làm theo sự chỉ dẫn của anh. Anh cũng chỉ là một người được mời thôi mà… Nhưng khi Đức Giêsu bảo họ ” Các anh đổ đầy nước vào các chum đi”, quả là một việc buồn cười, thiếu rượu chứ có thiếu nước đâu mà bảo múc nước…. Nhưng họ đã ” đổ đầy tới miệng”. Khi đó Đức Giêsu đã thực hiện việc biến nước thành rượu. Chúng ta thử đặt vấn đề nếu như các gia nhân đổ không đầy tới miệng, nếu như gia nhân chỉ đổ đầy 2, 3 chum thôi thì không biết Đức Giêsu có thực hiện phép lạ không. Nhưng với sự cộng tác hết mình của họ mà Đức Giêsu đã đem lại niềm vui cho tiệc cưới. Như đã nói con người chúng ta có giới hạn, có những sự việc vượt quá khả năng của chúng ta nhưng trong niềm tin đó chính là lúc Thiên Chúa ra tay thực hiện ý định của Người. Một Apram son sẻ trở thành tổ phụ một dân tộc đông đảo như sao trên trời như cát bãi biển, một Giuse bị anh em ghen ghét bán làm nô lệ bên Aicập trở thành vị cứu tinh cho cả một dân tộc, một Môsê yếu hèn lẩn trốn vào sa mạc trở thành thủ lãnh giải thoát dân tộc Israel…. còn nhiều còn nhiều những tấm gương, những cuộc đời được biến đổi nhờ cộng tác nhiệt thành với Thiên Chúa. Thánh Augustin nói “Ơn siêu nhiên không phá huỷ tự nhiên”, Thiên Chúa “không thể ban ơn” nếu con người không đón nhận và Thiên Chúa “bị bắt buộc” thi ân khi con người khao khát ngóng chờ.
Cuộc sống người Kitô hữu chúng ta, chúng ta đọc kinh cầu nguyện, dâng lễ.. nhưng ta có khao khát Chúa thật lòng chưa? Ta đòi hỏi Chúa ban ơn này ơn kia cho ta nhưng ta có cộng tác hết mình chưa? Thánh Augustin dạy: “Hãy làm mọi sự như mọi sự bởi ta và khi hoàn tất hãy biết mọi sự là bởi Chúa”. Chúa Giêsu cũng dạy “Khi hoàn tất mọi sự hãy nói rằng: chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng”. Tiên tri Isaia trong Bài đọc I tiên báo ngày huy hoàng của Israel là ngày Thiên Chúa đoái thương nâng Israel từ “Đồ bị ruồng bỏ, phận bạc duyên đơn trở thành Ái khanh lòng ta hỡi và duyên thắm chỉ hồng”. Hãy để Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài trong đời sống của chúng ta, Thiên Chúa sẽ lấp đầy những gì mà giới hạn con người không thể với tới.
Chúa Giêsu thực hiện phép lạ tại Cana và Chúa cũng sẽ thực hiện nhiều phép lạ hơn nữa trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Hãy phó thác cho Chúa,hãy lắng nghe tiếng Chúa vẫn hằng gọi mời chúng ta trong cuộc sống hằng ngày và hãy nối dài cánh tay của Thiên Chúa để thế giới ngày càng tốt đẹp hơn.
65. Tiệc cưới
Nếu chúng ta hiểu phép lạ ở Cana theo nghĩa đen, chúng ta sẽ giản lược nó thành một điều kỳ diệu chỉ trong nháy mắt là xong và giới hạn ý nghĩa của nó.
Thật ra, vấn đề không phải ở chỗ quyền năng làm biến đổi nước thành rượu. Chúng ta đã biết làm điều ấy như thế nào – việc ấy xảy ra mỗi năm trong các vườn nho và các nhà máy của chúng ta. Phép lạ có một ý nghĩa sâu xa và rộng lớn hơn và ý nghĩa này có giá trị ở mọi thời đại. Nó còn quan trọng hơn một điều kỳ diệu.
Trong nỗ lực mô tả mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Người. Kinh thánh dùng hình ảnh của hôn phu và hôn thê. Và để mô tả niềm vui mà Thiên Chúa tìm thấy ở giữa dân Người, Kinh Thánh dùng hình ảnh của tiệc cưới.
Bài đọc 1 chứa một sứ điệp về niềm hy vọng của dân Thiên Chúa trong những thời kỳ suy sụp nhất của lịch sử họ. Giêrusalem bị tàn phá và nhiều người dân đi đày qua Babylon. Israen, một thời là tân vương của Thiên Chúa, giờ đây giống như một quả phụ bị lấy mất con. Tuy nhiên, hôn phu của nàng là Thiên Chúa đã không quên nàng. Sẽ có một tiệc cưới mới. Thiên Chúa sẽ phục hưng dân Người.
Lời hứa này đã được thực hiện khi dân chúng trở về từ chốn lưu đày, nhưng đặc biệt hơn khi Đức Giêsu đến. Người ta không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai ở một tiệc cưới. Ở tiệc cưới ấy, người ta thiếu rượu. Cách nói này muốn ám chỉ tôn giáo cũ, giao ước cũ vẫn còn thiếu sót. Đã đến lúc mọi lời hứa phải được thực hiện, cũng là thời kỳ của luật mới và tinh thần mới.
Các ngôn sứ đã nói trước về việc rượu chảy dồi dào trong ngày của Đấng Mêsia. Ở Cana, chính Đức Giêsu đã ban phát rượu ấy. Và mọi người nếm hưởng rượu ấy đều đồng ý rằng rượu này ngon hơn rượu cũ. Chúng ta nhận thấy sự quảng đại tuyệt đối của phép lạ. Sáu cái chum đá, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Chúng ta thoáng thấy lòng ấm áp của Người. Trật tự mới bắt đầu với một hành động xót thương.
Điều Đức Giêsu đã thực hiện ở Cana không phải là một việc làm hời hợt, qua loa. Nó nói lên điều phải xảy ra trong suốt sứ vụ của Người. Hóa nước thành rượu là một biểu tượng của việc Người cần phải thực hiện. Bất cứ nơi nào Người đến, cái cũ được đổi thành cái mới. Người đã đổi nước mắt của bà góa ở Nain thành niềm vui, tính vị kỷ của Giakêu thành sự yêu thương. Trên núi Canvariô, Người đổi sự tuyệt vọng của tên gian phi thành niềm hy vọng. Và trong buổi sáng Phục sinh, Người đổi cái chết thành sự sống.
Sự hiện diện của Người có thể làm thay đổi đời sống của những người đã được tiếp xúc với Người cả khi họ không nhận ra. Và Người tiếp tục làm điều đó cho những ai tin tưởng và đi theo Người. Người biến đổi đời sống chúng ta thành một điều kỳ diệu. Người cho ta tham dự vào đời sống thần linh – không thua gì trạng thái xuất thần do hiệp thông với Thiên Chúa. Nhưng tất cả những điều đó vẫn còn ở lại trên bình diện lý thuyết nếu chúng ta không cảm nghiệm điều đó trong đời sống chúng ta, và nếu Đức Giêsu không hóa nước thành rượu một cách nào đó trong đời sống chúng ta.
Nước là một chất cần thiết và có ích cho sự sống còn của cơ thể. Tuy nhiên, dù nước đem lại sự thỏa mãn nhưng nó không đem lại niềm vui. Mặt khác, rượu làm say sưa và phấn chấn tinh thần.
Phúc cho những người khát khao thứ “rượu” mới mà Đức Giêsu cung cấp. Rượu cũ là lời hứa; rượu mới là sự hoàn thành. Của cải vật chất không đủ. Đức Giêsu đem lại một chiều kích mới cho đời sống. Người mang lại một niềm vui mà thế gian không thể mang lại.
Người yêu cầu các gia nhân múc nước đã hóa thành rượu và đem đến cho người quản tiệc. Đức Giêsu đã dùng những người trung gian để chuyển giao những ơn huệ của Người. Người yêu cầu chúng ta chia sẻ với những người khác các ơn lành mà Người đã chia sẻ với chúng ta.
66. Tình yêu với chai rượu Cana
(Suy niệm của Br. Thomas Huy Châu, CRM)
Dịp Năm Thánh 2000 Tám Lưu Linh theo vợ đi hành hương ở Lộ Đức về. Tới phi trường, nhân viên quan thuế mở hành lý của ông ta ra, hỏi:
– Cái gì trong mấy cái chai này vậy?
Tám trả lời:
– Nước suối, nước Đức Mẹ Lộ Đức.
Nhân viên quan thuế không tin, mở thử một chai, ngửi:
– Đâu phải là nước, rõ ràng là rượu mà.
Tám Lưu Linh quì xụp xuống, giang rộng hai tay ngửa mặt lên trời, thành khẩn:
– Quả là phép lạ! Xin tạ ơn Đức Mẹ!
Chúng ta không rõ và có thể hoài nghi phép lạ mà Tám Lưu Linh tuyên bố. Tuy nhiên bài Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay ghi lại một phép lạ thực sự, phép lạ đã được Chúa làm cho nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Cana.
Cách đây ít năm tôi và một số cha bạn có cơ hội hành hương Đất Thánh ở Do Thái và đến thăm nhà thờ tiệc cưới Cana nơi kỷ niệm Chúa làm phép lạ biến nước thành rượu để giúp cho đôi vợ chồng mới cưới khỏi xấu hổ mất mặt vì thiếu rượu.
Trong phần cầu nguyện cha hướng dẫn nhắn nhủ là có thể nhắc tên những người sắp sửa lập gia đình kỳ hè năm đó. Tôi đã nhắc tên một số cặp vợ chồng và cầu nguyện nhiều cho họ cũng như cho các gia đình.
Sau đó ghé thăm tiệm rượu, người ta mời tôi dùng thử rượu cưới, tôi tự nghĩ mình đi tu, độc thân không cưới ai và không ai thèm cưới mình nhưng dù vậy mình vẫn có quyền hưởng rượu cưới chứ và vì nghĩ như thế nên tự thưởng cho mình một ly, thấy rượu cưới ngon ngọt êm dịu thì thôi và lúc đó bị cám dỗ: Không ngờ tình yêu gia đình lại ngon ngọt dịu êm như thế. Biết trước như vậy mình không đi tu nữa xong. Just kidding.
Sau đó tôi mua 5 chai và cha bạn mua 2 chai. Khi mua không nghĩ gì đến chuyện mang về khó khăn, nhưng khi di chuyển từ miền Bắc, từ Nagiaret xuống miền Nam, Bê-lem, và nghĩ đến chuyện mang về Mỹ là cả một công trình, tôi mới bàn với cha bạn: “Thôi mỗi ngày chúng ta mừng nhau một chai và như thế trong 7 ngày chúng ta thanh toán hết và không còn phải lo lắng gì đến chuyện phải mang về khó khăn nữa. Nếu ai có hỏi thì mình trả lời là rượu cưới có nhiều chất alcohol nên đã bay hơi hết rồi.” Nói xong làm liền tôi mở ra một chai và chia ra làm hai mỗi người một nửa rồi nói: “Let us celebrate. Nào chúng ta hãy cùng nhau hoan hỉ.” Nói thế chứ cũng cố mang về được bốn chai còn lại.
Trong một lễ cưới, tôi dùng chai rượu Cana để làm hình ảnh trình bày chia sẻ về ý nghĩa tình yêu: Chai rượu này quí vì nó chỉ được bán ở một nơi duy nhất trên thế giới đó là Cana. Nó quí vì nó nhắc lại việc Chúa hiện diện trong tiệc cưới làm cho đôi vợ chồng được sung sướng hạnh phúc. Hơn nữa nó còn quí ở chỗ công phu gìn giữ khi phải di chuyển từ miền Bắc nước Do Thái là Cana xuống miền Nam là Bê-lem, và đi lên miền Trung là Giêrusalem và từ Giêrusalem trở về Mỹ an toàn là cả một công trình vất vả khó khăn. Tôi phải lấy vải lấy khăn bọc các chai lại rồi xếp cẩn thận trong vali và lúc nào cũng xách theo mình không dám gửi xe bus hay máy bay vì sợ vỡ.
Cũng như rượu Cana này, tình yêu của các cặp vợ chồng dành cho nhau thật cao quí vì nó phát xuất từ Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu đó còn cao quí vì nó gói ghém sự trao ban trọn vẹn của cặp vợ chồng trao cho nhau. Tuy nhiên cũng như chai rượu này dễ bể dễ vỡ, tình yêu thật cao quí nhưng cũng rất dòn mỏng, dễ vỡ dễ mất, chỉ một chút không để ý, một chút tự ái ích kỷ, một chút kiêu ngạo cố chấp, cũng có thể làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Một buổi sáng khác, tôi chạy bộ trong công viên trước sân nhà thờ ở Rochester, New York. Trong lúc chạy bộ, thấy có nhưng miểng chai thủy tinh vỡ vụn trên lối đi, tôi về nhà lấy chổi ra quét vì sợ có người nào sẽ bị thương vì những miểng chai vỡ. Đang khi quét dọn, tôi liên tưởng tới hạnh phúc gia đình và vấn đề ly dị. Gìn giữ một chai rượu ngon cho khỏi vỡ không phải là chuyện dễ dàng, đòi nhiều hy sinh cố gắng, nhưng đập vỡ chai rượu ngon đó dễ thôi. Chỉ cần ích kỷ lười biếng một chút vất xuống nền xi-măng một cái là đi đoong chai rượu ngon ngay. Đập vỡ chai rượu dễ, tuy nhiên vừa mất rượu ngon, rồi thêm vào đó, những miểng chai vỡ đã có thể gây tai nạn thương tích cho nhiều người.
Gìn giữ chai rượu ngon cũng như gìn giữ hạnh phúc gia đình không phải là chuyện đơn giản dễ dàng. Tuy nhiên đập vỡ chai rượu cũng như ly dị phá hủy hạnh phúc gia đình thật dễ, và rồi giống như những miếng chai vỡ có thể gây tai nạn cho nhiều người, sự ly dị đã đang gây đau khổ phiền toái cho chính cặp vợ chồng đó, cho con cái họ, cho gia đình hai bên cũng như cho xã hội.
Một em bé sau khi nghe xong bài tin mừng hôm nay về việc Chúa tham dự tiệc cưới và đã làm phép lạ cho nước hóa rượu giúp cho cặp vợ chồng mới cưới được sung sướng hạnh phúc, về nhà ông bố hỏi: “Con đã học được gì nơi bài tin mừng đó?” Em bé suy nghĩ trong giây lát rồi trả lời: “Nếu có đám cưới, hãy làm thế nào để Chúa phải có mặt ở đó.”
Mời Chúa tham dự chỉ trong tiệc cưới không thôi chưa đủ, còn cần Chúa hiện diện trong cả cuộc sống gia đình. Thiếu rượu, tiệc cưới mất vui, thiếu rượu tình yêu gia đình không hạnh phúc. “Hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình,” Chúa muốn đến với rượu tình yêu giúp cho các gia đình sống hạnh phúc, nhưng còn tùy thuộc ý muốn tự do tiếp nhận hay hờ hững chối từ đầy trách nhiệm của con người.
67. Chúa nhật 2 Thường niên
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Mở đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đi dự Tiệc Cưới Cana với Đức Mẹ và mấy môn đệ đầu tiên. Tin Mừng Gioan hai lần nhắc tới Đức Mẹ: lần đầu tiên tại cưới Cana và lần sau cùng dưới chân Thập giá Chúa Giêsu tại Núi Sọ; cả hai lần Chúa đều có ngỏ lời với Đức Mẹ và đều xưng với Đức Mẹ là thưa Bà: “Hỡi Bà, Con với Bà có can chi đâu, giờ con chưa đến” và: “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19, 26). Người Do thái thường xưng hô với mẹ mình ở nơi công cộng là Bà, lời xưng hô tỏ sự tôn kính nhưng cũng cho thấy có khoảng cách giữa Đức Mẹ và Chúa Giêsu.
Điều đặc biệt trong tiệc cưới này là qua lời xin của Đức Mẹ, Chúa Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên là biến Nước lã thành rượu ngon. Sáu chum nước để ở trước nhà cho khách tới dự tiệc rửa tay tức là làm nghi thức thanh tẩy theo tục lệ Do thái trước khi ăn. Sáu chum có sức chứa khoảng 600 lít. Đức Mẹ nói với Chúa:”Họ hết Rượu rồi”. Một lời bá cáo nhưng chủ ý là lời xin Chúa can thiệp nên Chúa Giêsu trả lời Mẹ như là từ chối và cũng là thử thách lòng tin của Mẹ tương tự như lời Chúa Giêsu đã từ chối lời xin làm phép lạ của người phụ nữ Canaan sau này: “Không nên lấy bánh của con cái và ném cho chó con (Mc 7,27)” người phụ nữ này không nao núng và tiếp tục bày tỏ lòng tin, thì ở đây Đức Mẹ vẫn vững tin nên Mẹ bảo các người giúp việc: “Hễ Người bảo gì thì phải làm theo”. Kết quả là Chúa Giêsu nói họ đổ đầy nước vào các chum để rồi nhờ quyền năng Chúa, 6 chum nước lã biến thành 6 chum rượu ngon. Đám cưới đang thiếu rượu mà giờ vừa được rượu ngon lại vừa dồi dào phong phú nữa, tương tự như khi Chúa hóa bánh ra nhiều, dân được ăn no nê và còn thu về 12 thúng đầy bánh vụn nữa.
“Hễ Người bảo gì thì phải làm theo” Đại hội Thánh Mẫu ở Missouri nước Mỹ tổ chức năm 2017 kỉ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima đã lấy câu nói này của Đức Mẹ làm phương châm cho đại hội. Qua lời này, chúng ta thấy Đức Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu, muốn mọi người làm theo lời Chúa Giêsu dạy, tương tự như Chúa Cha nói từ trong đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” Chính vì các người giúp việc biết nghe và làm theo lời Chúa Giêsu, nên đã đem đến kết quả hết sức tốt đẹp.
Chúng ta thấy Đức Mẹ tỏ ra nhạy bén trước nhu cầu của gia đình hôn lễ, Đức Mẹ đứng ra lo thay cho chủ nhà không cần chờ họ phải xin xỏ, Đức Mẹ có quyền năng cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, và sự hiện diện của Đức Mẹ là sự hiện diện ân cần đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta.
Theo gương gia đình hôn lễ ở Cana, chúng ta hãy mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ đến với gia đình chúng ta. Chúa Giêsu đi tới đâu là Chúa ban ơn phúc tới đó như khi Chúa đến nhà ông Simon Phêrô, mẹ vợ ông đang bị sốt nặng, Chúa cầm tay bà và cho bà chỗi dậy để liền sau đó bà có thể phục vụ lo bếp núc dọn bàn ăn được; Chúa tới nhà ông Giakêu và đem lại ơn hoán cải cho ông nên Chúa đã tuyên bố: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ…”; Chúa vào nhà với hai môn đệ đi làng Emmaus, hai ông đã nhận ra Chúa khi Chúa bẻ bánh và được lòng tin Chúa đã Phục sinh, rồi ở Cana như chúng thấy hôm nay …
Chúa đã nói trong sách Khải Huyền : “Này Ta đứng ngoài cửa và gõ, nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho, thì Ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người và người với Ta (KH 3, 20)”: như vậy tức là Chúa muốn đến với gia đình chúng ta nếu chúng ta biết mở lòng đón Chúa.
Noi gương môn đệ Gioan và gia đình tiệc cưới Cana, chúng ta cũng mời Đức Mẹ, có Đức Mẹ ở với gia đình, Mẹ sẽ thực hiện cho gia đình chúng ta như Mẹ đã làm cho gia đình hôn lễ Cana xưa: Đức Mẹ sẽ quan tâm tới những nhu cầu chính đáng của gia đình chúng ta.
Câu chuyện: Linh mục Sylvano và mục sư Henri đến lâu đài Pa-xi-an gặp Hoàng tử Auguste để xin giúp tài chính xây dựng. Linh mục thì xây nhà thờ, Mục sư thì xây trường học. Hoàng tử tiếp riêng mỗi vị. Mục sư gặp Hoàng tử xong ra ngoài vẻ mặt buồn thiu vì không được hoàng tử chấp thuận. Đến lượt Linh mục vào, xong ra ngoài rất vui. Mục sư hỏi sao ông được hoàng tử chấp thuận? Linh mục nói ban đầu tôi cũng bị từ chối nhưng tôi thấy có hoàng thái hậu ở gần đó nên tới thưa với hoàng thái hậu và được bà bầu cử nên hoàng tử đổi ý và nói nếu mẹ thuận thì con cũng thuận.
Trong việc cầu nguyện cũng vậy nếu ta xin Đức Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta thì điều chúng ta xin có nhiều khả năng được Chúa chấp nhận như lời kinh Hãy nhớ: “Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời”. Amen.
68. Có Mẹ chở che
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Nguyên)
Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi một tiếng đồng hồ lại có tới cả trăm đôi vợ chồng lôi nhau ra tòa để ly dị. Con số ly tị tăng nhanh và lên tới 50% tại các nước phương tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng thành hôn, thì lại có một cặp thất bại, phải ly dị nhau.
Với bối cảnh đó, tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta hãy tái khám phá giá trị và ý nghĩa thiêng liêng cao quý của đời sống hôn nhân, qua việc Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Và qua đó, cho chúng ta một bài học quá rõ ràng: ở đâu có sự hiện diện của Chúa và Mẹ thì niềm vui và hạnh phúc ở đó tràn đầy.
Thật vậy, câu chuyện Tin mừng hôm nay nói đến sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria tại một gia đình có đám cưới ở Cana. Và sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui cho nhà đám, mà còn cứu cho gia đình này khỏi một bàn thua trông thấy. Nhờ các Ngài mà rượu đã hết lại trở nên dư dật. Nhờ các Ngài mà cô dâu chú rể và gia đình nhà đám khỏi bẽ mặt trước các thực khách. Nhờ các Ngài mà niềm vui của ngày cưới được tiếp tục và trọn vẹn.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.
Nếu trong đám cưới ngày xưa đã từng hết rượu, thì sống trong đời hôm nay, có biết bao nhiêu lần chén hạnh phúc của chúng ta đã vơi đi, hay đã cạn hết rồi. Men của tình yêu, của niềm vui, của sự thành công, của sung túc không còn. Ngay cả khi tất cả những điều ấy phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, bằng xương, bằng máu mới có được… Vậy mà chỉ sau một biến cố nào đó, đã mất hết, đã cướp hết, mình hoàn toàn trắng tay, chỉ để lại trong lòng nỗi cô đơn dằn xé, nỗi chán chường đến mức bạt nhược… Những lúc như thế, mỗi người chúng ta cần lắm một lời van xin của Mẹ đến với Chúa “Họ hết rượu rồi”, để Chúa an ủi và ban nghị lực, ban đức tin giúp ta có thể vượt qua những đắng cay cồn cào ấy.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria không bao giờ là một tai họa, nhưng luôn mang lại ân phúc. Vấn đề là chúng ta có cho các Ngài nhập hộ khẩu vào trong gia đình và trong cuộc đời của mình hay không?
Hôm nay, chúng ta đã thấy rõ rồi đó, dù bảo rằng “Giờ của con chưa tới” và đám tiệc còn hay hết rượu thì chẳng có liên quan gì đến chúng ta cả Mẹ ơi, thế nhưng, phép lạ vẫn cứ xảy ra thật. Chúa đã biến nước thành rượu thật. Không chỉ thành rượu, mà còn là rượu ngon. Và đám cưới không chỉ cứ tiếp tục vui, mà còn vui hơn.
Vì thế, chúng ta có thể xác quyết rằng: Lời cầu nguyện của Đức Mẹ là lời hiệu nghiệm và có uy lực. Lời đó mang lại giá trị cho đời sống chúng ta. Nó cho thấy Đức Mẹ có quyền năng trong lời chuyển cầu của mình. Lời chuyển cầu hiệu nghiệm và uy lực ấy rất cần cho chúng ta, vì nó mang lại giá trị cho đời sống, mang lại hạnh phúc cho con người, mang lại những phép lạ lớn lao tưởng chừng như không thể xảy ra. Vì thế, khi tôn thờ Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cũng hãy yêu mến Đức Mẹ. Hãy tâm sự với Đức Mẹ, hãy bày tỏ cuộc đời mình với Đức Mẹ. Vì chúng ta thâm tín rằng, chính trên thập giá, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa đã trối Mẹ cho Gioan, và Gioan cho Mẹ. Đấy là lúc chúng ta trở thành con cái Mẹ, lẽ nào Mẹ lại không nhận biết những nhu cầu để giúp đỡ chúng ta sao?. Ngày xưa khi còn tại thế, lời cầu của mẹ đã hiệu nghiệm đến thế, huống chi bây giờ Mẹ đang tột cùng vinh hiển bên cạnh Con Mẹ. Mẹ đang vinh hiển, tràn đầy uy quyền, nắm giữ kho báu ân sủng của Con Mẹ, Mẹ lại tiếc với chúng ta sao?. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta luôn bình an và ngập tràn niềm vui trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
69. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Ga. Phan Tiến Dũng)
“Bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: Họ hết rượu rồi”. Thưa ACE, đối với tiệc cưới của người Do Thái, rượu để đãi tiệc là thứ không thể thiếu. Gia chủ cũng đã có sự chuẩn bị chu đáo, thế nhưng, điều tế nhị không may lại xảy ra. Khi nhìn vào những khó khăn xảy ra cho gia đình trong tiệc cưới tại Cana, mời gọi chúng ta nhìn lại bao thách đố khó khăn, đau khổ trong đời sống hôn nhân-gia đình như hiện nay, khi chúng ta đang phải sống chung với dịch bệnh. Dẫu biết rằng, ai cũng yêu thương, quan tâm lo lắng cho các thành viên trong gia đình của mình, nhưng, khó khăn, đau khổ là điều không thể nào tránh khỏi. Thế thì, trong hoàn cảnh đau thương này, chúng ta sẽ làm gì để bảo vệ, yêu thương và chăm lo cho gia đình và những người thân của mình cách tốt nhất?
Tin mừng hôm nay (Ga 2, 1-12) Thánh Gioan cho chúng ta một “bí quyết” có một không hai thật tuyệt vời, đó là, nhờ có sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới. Điều quan trọng là, Mẹ Maria không phải đến tham dự, chia vui như một vị khách bình thường, nhưng với lòng hiền mẫu, với một ánh nhìn-quan sát rất tinh tế, với sự quan tâm, gần gũi, Mẹ Maria đã hiểu thấu được những khó khăn đang xảy ra cho gia đình, mà ngay cả gia chủ cũng như đôi tân hôn hầu như không biết đến. Thật hạnh phúc là, Mẹ Maria đã mau mắn đến cậy nhờ vào Chúa Giêsu, Con của Mẹ. Thực ra, Mẹ đã không nhờ, đã không xin Chúa giúp đỡ, Mẹ chỉ tường thuật, trình bày cho Chúa sự việc khó khăn tế nhị của gia đình đang xảy ra: “Họ hết rượu rồi”. Khi nói cho Chúa biết như vậy, thì Mẹ tin rằng, Chúa Giêsu có cách thế riêng của Ngài. Vì Mẹ luôn thấu hiểu và tôn trọng sứ vụ của Chúa Giêsu.
Mặc dầu, Mẹ Maria không thể nào hiểu được khi Chúa trả lời: “Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến”. Thế nhưng, vì lòng tin vào Chúa Giêsu, Con của mình và vì trái tim hiền mẫu của một người mẹ trong gia đình, Mẹ đã đi bước trước đến nói với những người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo”. Thưa ACE, đây chính là điều mà Giáo hội dạy và mời gọi chúng ta cần xác tín là: “Sự cầu thay nguyện giúp, hay sự chuyển cầu, phù hộ của Mẹ Maria để xin Thiên Chúa ban ơn, cứu giúp”. Thật vậy, qua Mẹ Maria, vì lòng tin của Mẹ, vì sự chuyển cầu, cộng tác của Mẹ, mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ công khai đầu tiên là cho nước lã hóa thành rượu ngon thượng hạng. Điều thú vị và tinh tế trong Tin mừng của Thánh Gioan nơi phép lạ này là: “Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người”. Do đó, điều quan trọng mà Lời Chúa đang mời gọi chúng ta là, chúng ta có tin vào quyền năng, sức mạnh và ơn thánh đến từ Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, để rồi nhờ vào lòng tin, chúng ta sẽ sẵn sàng dấn thân theo Ngài hầu thực thi những điều mà Ngài truyền dạy hay không?
Thưa ACE, đặc biệt với các gia đình hiện nay, khi đã trải qua biết bao đau khổ, tang thương vì dịch bệnh, giờ đây còn phải sống chung với nó nữa; bao nhiêu lo sợ, khó khăn vẫn đang ở phía trước mà không ai biết sẽ ra sao. Thế nên, lúc này đây hơn bao giờ hết, các gia đình đang rất cần được sự sẻ chia, đồng hành và nâng đỡ cả về vật chất, thể lý lẫn tinh thần. Thế thì, đâu là giải pháp hay là cách thế tốt nhất hầu giúp cho các gia đình có được bình an, hạnh phúc, có được sức mạnh để đối chọi, đứng vững và vượt qua được những khó khăn, thử thách trong cuộc đời?
Bài đọc một (Is 62, 1-5) cho chúng ta một bí quyết tuyệt vời đó là: các thành viên trong gia đình, từ cha mẹ đến con cái, mỗi người đều phải cố gắng, nỗ lực để trở nên “Niềm Vui” cho nhau và trên hết, mọi người hãy sống làm sao để trở nên Niềm Vui cho chính Thiên Chúa. Hay nói khác hơn, khi mỗi người sống đẹp lòng Chúa, tín thác, cậy trông vào Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ trở nên nguồn ơn thánh, là tình yêu, là sức mạnh giúp chúng ta có được bình an và hạnh phúc đích thực.
Bài đọc hai (1 Cr 12, 4-11) Thánh Phaolo đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm, để sống sao cho đẹp lòng Chúa đó là: Phải khiêm tốn, mở lòng để tin nhận, trân quý và phát huy những quà tặng ơn thánh mà Thánh Thần ban cho mỗi người chúng ta. Ơn ban của Thánh Thần đều được trao ban cho tất cả mọi người, nhưng chỉ với những ai biết biện phân để tin nhận và sống trọn vẹn với ơn được kêu gọi, thì thật là hạnh phúc cho người đó.
Thật vậy, gia đình ngày nay, rất cần đến với Chúa, rất cần có sự soi sáng chỉ dẫn của Lời Chúa, rất cần được sự chuyển cầu, phù hộ, cầu thay nguyện giúp của Mẹ Maria, thánh Giuse và các Thánh trong chính cuộc đời và ơn gọi của mỗi người. Như tiệc cưới tại Cana, khi có sự ơn Chúa ban qua Mẹ Maria, xin cho các gia đình và mỗi người tiên vàn hãy đến với Chúa với lòng tin, hãy chọn Chúa là thượng khách của chúng ta để trong mọi sự luôn tôn vinh danh Chúa và làm đẹp lòng Ngài. Amen.
70. Có Chúa, niềm vui sẽ trọn vẹn
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Ga 2: 1-11 Qua việc tỏ vinh quang trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ đầu tiên, và một cách tiệm tiến, Ngài đi từ tiệc cưới tự nhiên, tức là tiệc cưới Cana để dẫn con người đến tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu Phép rửa, vì trong cả ba lễ này, Đức Giêsu đều tỏ vinh quang của mình ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Nếu Chúa Nhật lễ Hiển linh, Đức Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại qua Ba Đạo Sĩ nơi ngôi sao lạ, để loan báo ơn cứu độ phổ quát cho muôn dân; rồi Chúa Nhật lễ Đức Giêsu chịu Phép rửa, Thiên Chúa Cha giới thiệu Ngài là Con Yêu Dấu và được Chúa Thánh Thần tấn phong, đây là một cuộc mạc khải về thiên tính và sứ vụ nơi Đức Giêsu, thì đến Chúa Nhật này, Đức Giêsu tỏ vinh quang của Ngài cho mọi người dự tiệc cưới qua dấu lạ đầu tiên, đó là: phép lạ nước lã thành rượu ngon.
Qua việc tỏ vinh quang trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ đầu tiên, và một cách tiệm tiến, Ngài đi từ tiệc cưới tự nhiên, tức là tiệc cưới Cana để dẫn con người đến tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
1/ Tiệc cưới Cana
Tin Mừng hôm nay cho biết, tại làng Cana, miền Galilê có một đám cưới của đôi bạn trẻ. Trong số những khách dự tiệc hôm ấy, có sự hiện diện của Mẹ Maria, Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên. Đây thật là một hồng phúc cho gia chủ và nhất là đôi tân hôn!
Theo văn hóa, phong tục của người Dothái thì nghi lễ thường được được bắt đầu vào lúc mặt trời đã xế bóng. Khi ấy, đôi tân hôn được đưa về nhà mới, nơi họ sẽ ở và sinh sống trong tư cách là vợ chồng. Đến giờ đã định, một cuộc rước linh đình bắt đầu diễn ra. Họ được đưa đi qua các con đường dưới ánh sáng của các ngọn đuốc và có lọng che đầu.
Khi đã về đến nhà, họ ở tại nhà mới của mình và bắt đầu tiếp khách. Thời gian kéo dài khoảng một tuần lễ. Đầu họ đội vương niệm và mặc y phục của lễ cưới. Tuần lễ này có thể nói là tuần lễ vui mừng và hạnh phúc, vì đây là dịp duy nhất của đời người, họ được mọi người kính nể, trọng vọng và trân quý cách đặc biệt.
Trong bầu khí hân hoan đó, người ta không ngại gì tốn kém, và ai nấy ăn uống thoải mái, nào là chén chú chén anh, chén tạc chén thù, chén thương chén nhớ…
Như vậy, rượu dùng để đãi khách là điều hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đám cưới hôm nay niềm vui không được trọn vẹn, vì tiệc đang dang dở thì hết rượu. Đây là điều cấm kỵ trong văn hóa của người Dothái và nỗi tủi nhục ập đến cho gia chủ cũng như đôi tân hôn.
Nhưng, nhờ sự tinh tế, nhạy bén, thấu hiểu và cảm thông của Mẹ Maria, nên Mẹ đã không nỡ để cho gia chủ phải bẽ mặt hổ ngươi, vì thế, Mẹ đã cậy nhờ Đức Giêsu để Ngài cứu nguy cho họ, qua đó, giữ thể diện cho gia chủ!
Khi được Mẹ thông báo, Đức Giêsu cũng một tâm tình như Mẹ mình, nên Ngài đã làm phép lạ hóa nước lã thành rượu ngon.
2/ Tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người
Qua phép lạ này, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để mạc khải cho nhân loại biết: giữa Thiên Chúa và dân Người cũng được ví như một tiệc cưới.
Hình ảnh này được ngôn sứ Isaia nhắc đến trong bài đọc I hôm nay:
Dân Israel vốn là một dân tộc được Thiên Chúa yêu thương, nhưng sự bội ước, bất trung đã làm cho họ phải chịu cảnh nô lệ nơi đất khách quê người, bị chủ nô coi thường, khinh bỉ. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa thì lớn lao hơn cả tội lỗi của con người, nên Người đã cứu dân ra khỏi kiếp lưu đày, thoát khỏi cảnh nô lệ, để từ nay, không còn bị nghe thấy dân ngoại sỉ nhục là: “Đồ bị ruồng bỏ” và xứ sở không còn mang tiếng là “phận bạc duyên đơn”. Từ nay, dân Israel thoát ra khỏi lời nguyền khinh miệt, được trở thành một dân tự do trong tiếng vui cười hân hoan. Thiên Chúa và dân Israel được ví như: “… trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo nên ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui của chú rể, ngươi cũng là niềm vui của Thiên Chúa ngươi thờ (Is 62,5). Như vậy, trong tư cách là hôn phu, Thiên Chúa hằng ân cần chăm sóc, kiêm tâm, nhẫn nại và hết mực yêu thương dân Israel như hôn thê của mình.
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu Kitô được ví như vị hôn phu của Giáo Hội (x. Ep 5,22-23). Hình ảnh này đã được sách Khải Huyền nhắc tới khi đề cập đến tiệc cưới giữa Con Chiên (Đức Kitô) với Giêrusalem trên trời (Giáo Hội) (x. Kh 21,9).
Thật vậy, Đức Kitô đã chọn Giáo Hội làm hôn thê của mình, nên Ngài đã hiến dâng trọn vẹn, ngay cả cái chết trên thập giá, để chứng tỏ tình yêu Ngài dành cho Giáo Hội.
Sự gắn bó đầy yêu thương này một lần nữa được sáng tỏ trong bài Tin Mừng hôm nay: vì yêu thương, cảm thông và liên đới, nên Đức Giêsu đã làm phép lạ nước lã hóa rượu ngon. Qua sự kiện này, một mặt Ngài bày tỏ quyền năng và vinh quang của mình cho các môn đệ thấy mà tin, mặt khác, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để loan báo một triều đại mới, triều đại của Đấng Thiên Sai, đến để ban phát ân sủng nhằm thay thế cho thời đại cũ vì nó không còn phù hợp.
Như vậy, chúng ta thấy: “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót”. Ngài là nguồn gốc của tình yêu, Ngài san sẻ tình yêu cho con người để họ yêu Ngài và yêu nhau.
3/ Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy biết xây dựng mối tương quan gia đình trên nền tảng tình yêu.
Vợ chồng yêu thương nhau, cha mẹ yêu thương con cái như khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi; như hình ảnh khăng khít giữa Thiên Chúa và dân Israel, như Đức Kitô hiến mình vì Giáo Hội. Đây là tiêu chuẩn, mẫu số cho mọi người Kitô hữu noi theo.
Tuy nhiên, muốn sống được điều đó, chúng ta cần:
Trước tiên, loại bỏ lối sống ích kỷ, vụ lợi, thực dụng để thay thế vào đó bằng thứ rượu tình thương, độ lượng và hy sinh, liên đới, cảm thông và chia sẻ.
Thứ đến, mọi người luôn biết nghe và thi hành Lời Chúa như những gia nhân trong Tin Mừng hôm nay. Thiên Chúa phải là trung tâm của mọi sinh hoạt trong gia đình. Nếu không có Chúa, niềm vui của chúng ta sẽ hão huyền, phù phiếm, mau qua, chóng hết và không trọn vẹn.
Cuối cùng, mọi nỗi khó khăn, vất vả, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, để nhờ Mẹ, chúng ta đến với Chúa là nguồn cội bình an, là đích điểm hạnh phúc, Ngài sẽ ban cho chúng ta được no đủ và hoan lạc, như xưa Ngài đã nhận lời Đức Mẹ mà cứu giúp gia chủ trong tiệc cưới tại Cana.
Lạy Chúa Giêsu, đời sống của nhiều gia đình Công Giáo hôm nay bị thiếu rượu yêu thương, liên đới và trách nhiệm. Vì thế, gia đình không còn là nơi tiếp nhận và chia sẻ tình yêu.
Xin cho các gia đình của chúng con biết chọn Chúa làm trung tâm của cuộc sống và cho mỗi người luôn được Lời Chúa hướng dẫn, ngõ hầu chúng con được bình an, niềm vui và hạnh phúc. Amen.
71. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Nhóm Sao Biển chuyển ngữ từ America Magazine)
QUA CÁC PHÉP LẠ, ĐỨC GIÊSU MẶC KHẢI CHÍNH MÌNH CHO NHÂN LOẠI
Tin mừng Gioan có một số truyền thống độc đáo về cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu. Trình thuật về Tiệc cưới Cana trong bài Tin mừng hôm nay là một ví dụ.
Các phép lạ đầu tiên theo truyền thống Nhất lãm đều liên quan đến việc Đức Giêsu chữa lành thể lý cho con người. Trong Tin mừng Máccô (1,21–28) và Luca (4,31–37), Đức Giêsu chữa một người bị thần ô uế ám, còn trong Tin mừng Mátthêu, Ngài chữa lành một người mắc bệnh phong (Mt 8,1–4). Trong Tin mừng Gioan, phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu là hóa nước thành rượu để trợ giúp cho đôi tân hôn và những khách dự tiệc cưới.
Trong tiệc cưới, Đức Maria thấy hết rượu nên ngỏ lời với Đức Giêsu về tình cảnh của đôi tân hôn, mong Người có thể đáp ứng nhu cầu của họ. Tuy nhiên, phản ứng của Đức Giêsu có phần lạnh lùng và hững hờ. Nơi bài Tin mừng trong Sách bài đọc, câu trả lời của Đức Giêsu là “Hỡi bà, con với bà có can chi đâu?”. Câu trả lời trong Bản dịch của Nhóm Phiên dịch Các Giờ kinh Phụng vụ là: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?”. Các bản dịch tiếng Anh có nhiều cách dịch khác nhau về câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho Đức Mẹ, như: Mối quan tâm của bà và tôi là gì? Tại sao bà lại kéo tôi vào việc này? Mối quan tâm của bà có liên quan gì đến tôi? Câu nói của Đức Giêsu ám chỉ Người không quan tâm đến tình hình lắm, có lẽ Người không coi việc thiếu rượu là vấn đề cấp bách. Hơn nữa, lời tuyên bố tiếp theo của Đức Giêsu – “Giờ của tôi chưa đến” – khẳng định rằng Người không nghĩ đã đến lúc phải bộc lộ quyền năng của mình.
Vì biết Đức Giêsu có thể và nên giúp đôi tân hôn đang gặp khó khăn, Đức Maria đã nói với các đầy tớ là hãy làm theo lời Đức Giêsu. Cuối cùng, Người bảo các gia nhân hãy đổ nước đầy các chum đá, và khi người quản tiệc nếm thử thì nước đã trở thành rượu ngon. Qua dấu lạ này, Đức Giêsu đã “bày tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ bắt đầu tin vào Người”. Qua các dấu lạ, Đức Giêsu không chỉ giúp đỡ những người gặp khó khăn mà còn mặc khải chính mình cho nhân loại và lôi kéo thêm các môn đệ.
Chúng ta có thể học được gì từ câu chuyện này? Giống như các phép lạ hay dấu lạ khác được đề cập trong Tin mừng, phép lạ này biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa để chứng thực sứ vụ và căn tính của Đức Giêsu, nhằm lôi kéo các môn đệ theo Ngài. Ngoài mục đích này ra, Đức Giêsu còn làm gương về việc quan tâm đến nhu cầu của người khác. Phản ứng ban đầu của Đức Giêsu phản ánh cách thức mà nhiều người trong chúng ta đã đáp lại nhu cầu của người khác, thể hiện sự vô tâm trong việc giải quyết các vấn đề của kẻ khác, đặc biệt là những vấn đề không có vẻ nghiêm trọng hay nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên, Đức Giêsu cuối cùng cũng đã can thiệp để giúp đỡ đôi tân hôn, khi dọn ra một loại rượu thậm chí còn ngon hơn rượu đã dùng để đãi khách lúc ban đầu. Dấu lạ này của Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng: cho dẫu chúng ta chẳng có liên hệ trực tiếp hay bất cứ trách nhiệm nào, nếu có thể, chúng ta cần giúp đỡ những người đang gặp khó khăn. Dấu lạ này cũng nhắc nhở chúng ta hãy biết đồng cảm và quan tâm đến người khác hơn chính bản thân mình.
72. Cảm thông
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Cảm thông là điều rất cần thiết trong cuộc sống. Cảm thông liên quan lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Đó là biết quan tâm, yêu thương và chia sẻ với người khác. Chúa Giêsu đã cảm thông nên mới “chạnh lòng thương” những con người khốn khổ mà Ngài gặp ở bất cứ nơi nào (x. Mt 9:36; Mt 14:14; Mt 15:32; Mt 18:27; Mt 20:34; Mc 1:41; Mc 9:22; Lc 7:13), và Ngài cũng dạy chúng ta phải như người Samari mà biết xót thương tha nhân (x. Lc 10:29-37).
Như vậy, biết cảm thông là một nhân đức, vì cảm thông có liên đới với các nhân đức và các đức tính khác. Người biết cảm thông tha nhân là người của Thiên Chúa, vì người đó noi gương Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương (x. Is 49:10; Is 54:10), là Đấng từ bi và nhân hậu (x. 2 Sbn 30:9; Tv 103:1 & 8; Tv 111:4; Tv 145:8; Gc 5:11).
TẠI SAO CẦN CẢM THÔNG?
Ngôn sứ Isaia bộc bạch: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is 62:1). Rồi ông cho biết rằng “muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi bằng tên mới là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62:2).
Thật là hạnh phúc vì được chính Thiên Chúa cảm thông mà thương xót, đồng thời còn được là “ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa cầm ở tay” (Is 62:3). Vì thế, chẳng ai còn dám tru tréo là “đồ bị ruồng bỏ!”, ngay cả xứ sở cũng không còn bị tiếng là “phận bạc duyên đơn”. Nhưng lại được ưu ái gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi! Xứ sở ngươi nức tiếng là duyên thắm chỉ hồng” (Is 62:4). Tại sao? Vì người đó được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở người đó. Kinh thánh ví “như tài trai sánh duyên cùng thục nữ” khi Đấng tác tạo sẽ cưới người đó về, và “như cô dâu là niềm vui cho chú rể”, người đó cũng là niềm vui cho Thiên Chúa (Is 62:5).
Chắc hẳn chẳng còn niềm vui nào lớn lao hơn và tột đỉnh như vậy. Vậy thì im lặng sao được, thế nên phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Chúc tụng và tôn vinh như vậy cũng chưa đủ, vì lời nói phải đi đôi với việc làm. Tác giả Thánh vịnh kêu gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi các dân các nước, dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan” (Tv 96:7-9). Tiếp theo là phải loan truyền cho người khác cùng hưởng niềm vui có Chúa: “Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng” (Tv 96:10).
Làm gì cũng phải nhờ ơn Chúa, như Đức Kitô đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Nhưng có nhiều loại ơn, và mỗi người được nhận theo khả năng của mình: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:4-7). Vấn đề là “vì ích chung”. Vì thế, khi chúng ta được ơn này mà người kia không có thì đừng cho là mình “ngon”, được ơn gì đó là để phục vụ chứ không phải để hãnh diện mà kiêu căng, trách nhiệm tăng theo số ơn nhận được. Ngược lại, nếu mình không được ơn mà người khác được thì đừng ghen tỵ mà đố kỵ. Phải rất tỉnh táo để mà khiêm nhường và cảm thông.
Thánh Phaolô phân tích rạch ròi: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ” (1 Cr 12:8-10). Tất cả đồng quy một mối: “Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” (1 Cr 12:11).
Thế thì chẳng ai có thể vênh vang tự đắc hoặc biện hộ cho mình bằng bất kỳ lý do gì. Người nào cũng có bổn phận riêng theo ơn mình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Mười nén, năm nén hay một nén không là để kèn cựa nhau, mà là để nâng đỡ nhau, cảm thông nhau, và xót thương nhau theo gương Đại Sư Giêsu.
CẢM THÔNG ĐỂ LÀM GÌ?
Chắc chắn cảm thông là để phục vụ: Phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo hội, phục vụ tha nhân. Khi dạy về bài học phục vụ, chính Chúa Giêsu xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Phục vụ là phải “chịu thiệt”, vậy mới khó, chứ ai cũng có thể “chỉ tay năm ngón” – người tài thì điều khiển khéo léo, người kém tài thì điều khiển vụng về, nhưng người ta vẫn có thể ra lệnh và “sai bảo”.
Một lần nọ, Đức Giêsu và Thân mẫu được mời dự tiệc cưới tại Cana, miền Galilê, các môn đệ cũng được mời. Tiệc đang “nóng”, khách đang “hưng phấn” thì rượu bia không còn. Đi mua thì không kịp, vì thời đó phải đi bộ xa lắm phương tiện liên lạc không dễ. Như ngày nay, người ta chỉ cần phóng xe đi trong vòng vài phút hoặc “nhấn nút alô” là xong ngay, khỏi cần tính toán nhiều cho nhức đầu.
Khi thấy họ thiếu rượu, Đức Mẹ đã cảm thông gia chủ và thấy thương họ, nên rỉ tai Con Trai: “Họ hết rượu rồi, con ơi!” (Ga 2:3). Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Mẹ ơi, chuyện đó can gì đến mẹ con mình? Giờ của con chưa đến” (Ga 2:4). Tuy vậy, Đức Mẹ vẫn đi nói với gia nhân: “Con Trai tôi bảo gì thì các anh cứ việc làm theo nhé!” (Ga 2:5). Con nói gì thì nói, Mẹ cứ bảo người ta theo ý Mẹ. Điều đó chứng tỏ Mẹ Con rất thông cảm và hiểu nhau, luôn “ăn ý” với nhau, đồng thời cũng chứng tỏ đức tin của mẹ quá mạnh mẽ và vững vàng.
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng 80 hoặc 120 lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” (Ga 2:7). Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Ngài nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (Ga 2:8). Họ liền đem cho ông mà cũng không thắc mắc gì hết.
Khi người quản tiệc nếm thử thì thấy là rượu. Các chum đổ đầy nước mà giờ hoá thành rượu. Lạ thật! Không ai biết rượu từ đâu ra, chỉ có gia nhân đã múc nước thì biết. Mà không phải rượu thường, đó lại là thứ rượu hảo hạng, vừa ngon và vừa mạnh “đô” lắm. Ôi chao, cứ đổ đồng mỗi chum là 100 lít, vị chi là 600 lít. Lượng rượu này có nước mà vừa bán vừa cho chứ uống gì hết! Ông quản tiệc “đau cái điền”, chả hiểu ất giáp gì ráo trọi. Ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” (Ga 2:10). Chú rể cũng lắc đầu, bó tay, nhưng hẳn là anh chàng này khoái chí và hạnh phúc lắm.
Thánh Gioan cho biết rằng đây là dấu lạ đầu tiên mà Đức Giêsu đã làm để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Các môn đệ quá đỗi ngạc nhiên, nhưng nhờ vậy mà các đệ tử đã tin vào Đại Sư của mình.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết cảm thông và yêu thương mọi người, nhất là những con người khốn khổ nhất, để chúng con xứng đáng được Ngài xót thương. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.
73. Chúa nhật 2 thường niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)
CÓ CHÚA TA ĐƯỢC BIẾN ĐỔI NÊN THÁNH
Suốt mùa Thường niên, Phụng vụ Giáo hội mời gọi các tín hữu dõi theo hành trình rao giảng của Chúa Giê-su trên dương thế. Lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa trong Chúa nhật tuần trước là khởi đầu của mùa Thường niên. Và biến cố ấy là ngày Chúa Giê-su khởi sự sứ vụ công khai rao giảng Nước Trời. Trong Chúa nhật thứ hai này, Phụng vụ trình bày về sự biến đổi từ hoang tàn tới phồn thịnh, từ nước thành rượu, từ chia rẽ tới hiệp nhất. Sự biến đổi ấy có được là bởi có sự hiện diện của Chúa.
Lời tiên báo năm xưa
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã khơi lên trong tâm hồn những người Do Thái một hy vọng đầy tươi sáng. Dân Do Thái khi ấy mới trở về Giê-ru-sa-lem sau những năm lưu đầy tại Babylon. Trước mắt họ là cảnh hoang tàn của thành thánh đã bị thiêu đốt. Nhóm dân ít ỏi rơi vào tâm trạng chán nản, thất vọng.
Tiên tri Isaia đã quả quyết về sự xuất hiện của Đấng công chính. Thiên Chúa sẽ làm cho Giê-ru-sa-lem trở nên huy hoàng: “ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là “kẻ Ta ưa thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư”. Sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ làm cho dân được biến đổi từ tình trạng u buồn của “kẻ bị ruồng bỏ” sang tình trạng vui mừng trong lòng bàn tay Chúa “như thanh niên ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; như người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi”.
Chứng kiến niềm vui có Chúa
Viễn cảnh mà tiên tri Isaia loan báo ấy được hiển lộ trong bài Tin mừng mà thánh sử Gioan tường thuật tại tiệc cưới Cana. Chính sự hiện diện của Chúa Giê-su trong tiệc cưới đã đem lại niềm vui trọn vẹn cho cô dâu chú rể. Chính cái đụng chạm của Thiên Chúa đã làm cho nước lã trở thành rượu ngon.
Nếu cô dâu chú rể không mời Chúa Giê-su thì họ đã không có sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời hôn ước. Họ không đủ rượu cho khách chứng tỏ họ nghèo. Và cái nghèo ấy cộng với sự vắng bóng của Thiên Chúa ắt hẳn sẽ khiến cho ngày cưới trở nên nhàm chán vì thiếu rượu, đời hôn nhân sẽ mãi nhạt nhẽo như nước lã.
Nhưng họ đã có sự hiện diện của Chúa trong đời mình. Họ đã lắng nghe và làm theo lời Chúa chỉ dạy. Bởi thế mà tình trạng thiếu thốn của họ đã trở nên dư dả, tình trạng nhạt nhẽo như nước lã đã trở nên nồng nàn như rượu quý. Họ đã được biến đổi thực sự nhờ có Chúa hiện diện cùng họ.
Việc làm đầu tiên mà Chúa Giê-su thực hiện công khai trước bàn dân thiên hạ đã diễn ra trong khung cảnh một đám cưới. Sự xuất hiện của Chúa giữa cuộc đời đã đem lại niềm vui cho con người. Niềm vui tươi mới mà tiên tri Isaia loan báo khi xưa đã thực sự diễn ra: niềm vui của thanh niên bên thiếu nữ, niềm vui của người chồng bên người vợ. Thiên hạ tưng bừng trong tiệc cưới với rượu ngon.
Những khác biệt trở nên một trong Thần Khí
Đón nhận Chúa và chấp nhận để cho Chúa hoạt động trong con người của mình thì mọi khác biệt cũng trở nên hiệp nhất. Thánh Phaolo đã đưa ra một loạt những minh họa cụ thể trong thư Ngài gửi tín hữu thành Cô-rin-tô: “có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần”.
Xã hội bao gồm những con người khác biệt. Đón nhận Chúa, mỗi người đều được biến đổi trong ơn thánh Chúa. Sự biến đổi ấy không làm cho mọi người trở nên giống nhau, nhưng làm cho mỗi người trở nên chính mình. Một giáo sư sẽ trở nên một giáo sư thánh, một nông dân sẽ trở nên một nông dân thánh, một chính trị gia sẽ trở nên một nhà chính trị thánh, một linh mục sẽ trở nên một linh mục thánh, một công nhân sẽ trở nên một công nhân thánh, một người giúp việc sẽ trở nên một gia nhân thánh… Nhưng dù là ai thì tất cả đều trở nên thánh bởi “cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó”.
Năm xưa nước đã biến đổi thành rượu nhờ sự hiện diện của Chúa Giê-su; ngày nay trên bàn thờ tế lễ, Chúa Giê-su tiếp tục hiện diện qua thánh chức linh mục để biến đổi rượu và bánh thành huyết nhục Chúa. Mỗi người được mời gọi tiến tới đón nhận Chúa Giê-su vào trong lòng mình. Chính Chúa sẽ biến đổi, sẽ kéo con người ra khỏi những tăm tối để bước vào miền ánh sáng. Chính Chúa sẽ biến đổi tình trạng nhạt nhẽo của gia đình, của tâm hồn trở nên nồng nàn như rượu mới ngày tân hôn.
Lạy Chúa, con xin mời Chúa đến với con, đến với gia đình con. Con tin thật sự hiện diện của Chúa trong đời con. Có Chúa con sẽ được biến đổi, sẽ trở nên tươi mới, sẽ luôn được hưởng nếm rượu ngon của tiệc cưới Nước Trời.
74. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Thường Niên năm C này nêu bật dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực hiện ở tiệc cưới Ca-na.
Theo truyền thống của các Giáo Hội Đông Phương, ba biến cố: các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, phép rửa của Đức Giê-su và dấu lạ đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na, hình thành nên ba biến cố Chúa Hiển Linh và được cử hành cùng nhau. Theo truyền thống Tây Phương, năm C là năm duy nhất trong ba năm phụng vụ, tưởng niệm việc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài ở tiệc cưới Ca-na, sau phép rửa của Đức Ki-tô và việc các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, như vậy duy trì mối liên hệ giữa ba cuộc hiển linh đầu tiên mở ra mầu nhiệm của Đức Giê-su là Vua, Con Thiên Chúa và Đấng Ki-tô.
Is 62: 1-5
Chủ đề của Bài Đọc I là cuộc phục hưng Giê-ru-sa-lem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “Hiền Thê” cho dân Ngài.
1Cr 12: 4-11
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô rằng muôn vàn ân sủng mà họ hưởng được đều phát xuất từ một Thần Khí duy nhất, Đấng tỏ mình ra nơi mỗi người mỗi cách vì lợi ích của cộng đoàn.
Ga 2: 1-12
Nhân tiệc cưới ở Ca-na, Chúa Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên: dấu lạ hóa nước thành rượu tiên trưng dấu lạ hóa rượu thành máu của Ngài, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và nhân loại.
BÀI ĐỌC I (Is 62: 1-5)
Bài thánh thi này ca ngợi cuộc phục hưng sắp đến của Giê-ru-sa-lem vào giờ phút khiến lòng người phải nghi ngờ. Sau khi trở về từ Ba-by-lon, những người lưu đày gặp lại thành thánh nghèo nàn, dân cư thưa thớt, đền thờ hoang tàn đổ nát, suốt năm mươi năm qua dưới ách thống trị của ngoại bang. Trước tiên họ bắt tay tái thiết đền thờ, nhưng công việc đã phải bị bỏ dỡ vì thiếu tài chánh và vì những chống đối khác nhau. Họ thất vọng vì công việc quá lớn lao và những khó khăn gặp phải. Trong bầu khí chán chường thất vọng, một ngôn sứ vô danh, được gọi dưới biệt danh là I-sai-a đệ tam, môn đệ của I-sai-a đệ nhị, công bố rằng Giê-ru-sa-lem sắp được phục hưng và tìm lại vinh quang của mình.
- Cuộc phục hưng huy hoàng sắp đến
Phải chăng đây chính là lời loan báo của vị ngôn sứ hay lời hứa của Thiên Chúa được đặt trên môi miệng của vị ngôn sứ? Thật khó phân định điều này; một sự luân phiên giữa giọng nói của vị ngôn sứ và giọng nói của Thiên Chúa là một trong những nét đặc trưng của bài thánh thi này. Chung chung, vị ngôn sứ không bao giờ nói ở ngôi thứ nhất, trừ một lần, khi ông biện minh sứ vụ của mình. Qua những gì xảy ra trước đó, chúng ta biết rằng những người hồi hương luôn luôn phàn nàn về việc Thiên Chúa trì hoãn phục hưng Thành Thánh và Đền Thờ của Ngài.
Thật kỳ lạ biết bao khi vị ngôn sứ vặn lại, sự chậm trễ không đến từ Thiên Chúa nhưng từ tội lỗi của các ngươi, vì tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với dân Ngài vẫn thường hằng. Đó là ý nghĩa của câu thứ nhất mà người ta toan tính gán cho chính Đức Chúa:
“Vì lòng mến Xi-on, tôi sẽ không nín lặng,
vì lòng mến Giê-ru-sa-lem, tôi nghỉ yên sao đành,
tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông,
ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is 62: 1).
Giê-ru-sa lem phải được tái thiết trong đức công chính của nó, trong ơn cứu độ của nó. Ở đây “đức công chính” và “ơn cứu độ” thì tương đồng rất rõ nét. Vị ngôn sứ ngỏ lời với Thành Thánh, ông loan báo rằng Thành Thánh sẽ được phục hưng trong huy hoàng rạng rỡ; những quốc gia và những vua chúa đã áp bức Thành Thánh rồi sẽ thấy vinh quang của nó, ơn cứu độ của Giê-ru-sa-lem sẽ “rực lên như ngọn đuốc”.
Người ta thường nhận ra trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ tam, một ý tưởng đắc thắng. Dân Thiên Chúa sẽ hả dạ vì những nhục nhã họ đã phải chịu:
“Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi,
mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng” (Is 62: 2).
- Hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài
Phần cuối của sấm ngôn này lấy lại hình ảnh về hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài, hình ảnh này đã trở thành kinh điển kể từ ngôn sứ Hô-sê, rồi đến ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Giao Ước được diễn tả bằng ngôn ngữ tình yêu: dân Chúa là Hôn Thê tưởng rằng mình bị thất sủng nay gặp lại tấm lòng sủng ái của Đức Chúa là Hôn Phu của mình.
Nhưng để Giao Ước có thể được tái lập, quá khứ tội lỗi phải được thanh tẩy. Dấu hiệu đầu tiên là gán tên mới cho Giê-ru-sa-lem. Một tên mới tạo nên một căn tính mới. Chúng ta biết tầm quan trọng của tên theo truyền thống Kinh Thánh. Tên diễn tả bản chất sâu xa của một người hay vận mệnh của người mang tên ấy. Giê-ru-sa-lem sẽ không còn được gọi “Đồ bị ruồng bỏ” nhưng “Ái khanh lòng Ta hỡi”. Xứ sở của nó sẽ không còn là “Phận bạc duyên đơn”, nhưng “Duyên thắm chỉ hồng”.
Còn hơn thế nữa, Giê-ru-sa-lem sẽ được Đấng tác thành mình lập hôn ước “như trai tài sánh duyên cùng thục nữ”, nghĩa là, mọi tội lỗi, bất trung, thờ ngẫu tượng của dân thành mà các ngôn sứ đã nhiều lần gọi “con điếm” vì đã chạy theo các thần minh khác, nay được phục hồi sự trinh khiết của mình: tình yêu của Thiên Chúa đã thanh tẩy Thành Thánh. Sau này sách Khải Huyền sẽ gợi lên hôn lễ của Con Chiên với thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc:
“Vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ của Con Chiên,
và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng,
nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (Kh 19: 8).
Ngôn sứ I-sai-a đệ tam chắc chắn nhớ lại bản văn của vị tiền nhiệm mình, I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đã mô tả cho những người lưu đày thấy những rực rỡ của Thành Thánh Giê-ru-sa-lem tương lai và báo trước cho Thành Thánh:
“Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ,
chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn.
Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân
và không còn nhớ bao nhục nhằn thời góa bụa.
Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt
chính là Đấng đã tác thành ngươi,
tôn danh Người là Chúa các đạo binh;
Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Ít-ra-en,
tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất” (Is 54: 4-5).
- Niềm vui hôn ước và niềm vui thời Mê-si-a
“Như cô dâu là niềm vui cho chú rể,
ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62: 6).
Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mê-si-a, niềm vui mà rược dồi dào của tiệc cưới Ca-na loan báo theo cách khác.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 4-11)
Trong năm Chúa Nhật liên tiếp, Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta đọc những đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, từ chương 12 đến chương 15.
- Bối cảnh
Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã lưu lại thành phố này khoảng mười tám tháng và đã để lại một cộng đoàn Ki-tô hữu rất sinh động nhưng cũng gây nên nhiều nỗi bận lòng cho thánh nhân.
Thánh Phao-lô đã viết ít nhất bốn bức thư cho các tín hữu Cô-rin-tô, thư thứ nhất và thư thứ ba đã thất lạc; bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất thực ra là thư thứ hai. Thánh Phao-lô đã viết thư này từ Ê-phê-xô (có lẽ vào mùa xuân năm 55). Sau khi đã nhắc nhở trật tự trong cộng đoàn, tiếp đó, bàn đến nhiều vấn đề nhất định, thánh nhân bắt đầu tranh luận: toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu đều phải ở dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ gìn giữ cộng đoàn trong sự hiệp nhất và sẽ giúp cho cộng đoàn biết biện phân những hoạt động vì lợi ích chung của Cộng Đoàn.
- Lương dân và người Ki-tô hữu
Các tín hữu Cô-rin-tô sống trong bối cảnh ngoại giáo khá đặc biệt. Thành phố Cô-rin-tô là một đô thị lớn thuộc miền duyên hải và gồm nhiều dân tứ xứ, mở rộng cửa đón nhận thế giới bên ngoài. Chịu ảnh hưởng từ miền Cận Đông, các tôn giáo cổ truyền nhường chỗ cho những khát vọng huyền bí, trong khi những tôn giáo mầu nhiệm tràn lan với những nghi lễ khai tâm và thực tiễn hướng đến niềm hưng phấn và xuất thần. Những thái độ này có thể rất gần với những đặc sủng mà các Ki-tô hữu được hưởng. Cần phải nêu lên tất cả cái lập lờ này. Trong cộng đoàn Ki-tô hữu, những ân huệ nhận được có nguồn gốc siêu nhiên; nguồn mạch duy nhất của mọi ân huệ này là Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Dấu chỉ Ba Ngôi
Lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và những hoạt động Ki-tô giáo dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đi từ Chúa Thánh Thần:
– Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.
– Có nhiều công việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (Đức Ki-tô).
– Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm mọi sự trong mọi người (Chúa Cha).
Đoạn, thánh nhân liệt kê một loạt những ân huệ khác nhau, đều là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Giáo Hội tiên khởi chắc chắn đã hưởng được nhiều cách thế bày tỏ đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Thánh Lu-ca đã nêu lên nhiều ví dụ trong sách Công Vụ Tông Đồ, đến mức sách này được gọi “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.
Những ân huệ dồi dào và tự phát như thế bổ túc cho việc thiếu cơ cấu tổ chức. Nhưng thánh Phao-lô muốn tránh tình trạng hỗn loạn; vì thế thánh nhân nhấn mạnh sự duy nhất cơ bản của mọi ân huệ này: “Chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người”.
TIN MỪNG (Ga 2: 1-12)
Theo Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai mạc sứ vụ của Ngài qua dấu lạ tiệc cưới Ca-na: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê”. Vậy từ “dấu lạ” muốn nói lên điều gì? Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, vấn đề “dấu lạ” có rất nhiều nghĩa, nhưng được tập trung vào một nghĩa cơ bản: thời đại Mê-si-a đến ở nơi sự hiện diện của Đức Giê-su.
- Ý nghĩa phong phú của dấu lạ Ca-na
Bài tường thuật về dấu lạ đầu tiên này trình bày một loạt những đối chiếu với giai đoạn cuối cùng sứ vụ trần thế của Đức Giê-su.
– Đây là “ngày thứ ba” Đức Giê-su “bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người”. Biến cố Phục Sinh ẩn hiện ở nơi dấu lạ đầu tiên này.
– Dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực hiện cốt là hóa nước thành rượu; dấu lạ sau cùng của Ngài cốt là hóa rượu thành máu của Ngài.
– Dấu lạ đầu tiên này được thực hiện để cử hành tiệc cưới nhân loại; dấu lạ sau cùng để cử hành Giao Ước Mới, tiệc cưới của Thiên Chúa với nhân loại.
– Ở tiệc cưới Ca-na, Thân Mẫu Đức Giê-su được thánh ký kể ra lần đầu tiên; Mẹ Ngài sẽ chỉ được thánh ký kể ra lần thứ hai và lần sau cùng dưới chân thập giá, ở đó Đức Giê-su sẽ thân thưa với Mẹ Ngài cũng bằng cách xưng hô như ở tại tiệc cưới Ca-na: “Thưa bà”. Có những bí ẩn hòa điệu giữa hai biến cố này.
– Ở tiệc cưới Ca-na, Chúa Giê-su lần đầu tiên nói về “giờ của Ngài”. Giờ này sẽ là giờ Tử Nạn và Vinh Quang của Ngài. Khi viết: “Đức Giê-su biết giờ của Ngài đã đến” (Ga 13: 1), thánh ký sẽ nói về lễ Vượt Qua gần đến và về bữa ăn sau cùng của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài. Bữa ăn đầu tiên, tiệc cưới Ca-na, cũng được định vị vài ngày trước lễ Vượt Qua.
Những đối chiếu đa dạng như trên giúp chúng ta hiểu sâu xa những ý nghĩa phong phú của dấu lạ tiệc cưới Ca-na.
- “Ngày thứ ba”
Thánh Gioan xây dựng bài tường thuật của mình về những khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su theo cùng một cách với bài tường thuật về giai đoạn sau cùng của Ngài, với thời gian đặc thù và biểu tượng: các biến cố được cô động thành một tuần lễ, ngầm tham chiếu đến bảy ngày của công trình sáng tạo. Chính “vào ngày thứ bảy” của tuần lễ khai mạc mà tiệc cưới Ca-na, dấu chỉ của ơn cứu độ thời Mê-si-a, được định vị: một cuộc sáng tạo mới. Nhưng đây cũng là “ngày thứ ba” khởi đi từ việc Đức Giê-su ra khỏi miền Giu-đê. Việc Đức Giê-su tham dự tiệc cưới Ca-na được đặt vào ngày thứ ba sau lời hứa của Ngài cho ông Na-tha-na-en, một trong những môn đệ đầu tiên của Ngài: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1: 50).
Ca-na là một thị trấn nhỏ thuộc miền Ga-li-lê không xa làng Na-da-rét. Đức Ma-ri-a đến Ca-na, chắc chắn từ Na-da-rét; Mẹ đến một mình; chắc hẳn thánh Giu-se đã qua đời. Còn Đức Giê-su đến từ miền Giu-đê với các môn đệ Ngài; Ngài gặp lại Mẹ Ngài ở tiệc cưới này. Người ta đã nghĩ rằng chú rể và cô dâu thuộc gia tộc của Đức Ma-ri-a, vì Mẹ xử sự gần như gia chủ khi căn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Dù thế nào, gia đình nầy thuộc tầng lớp hạ lưu, vì tại những gia đình giàu có rượu không thể thiếu. Những người được hưởng dấu lạ đầu tiên của Chúa Giê-su thuộc gia đình nghèo. Điều này chẳng có gì phải ngạc nhiên cả.
- Dấu chỉ của rượu
“Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước”. Những chum đựng nước này được dùng cho các khách rửa tay trước khi dự tiệc, đây là nghi thức thanh tẩy theo luật định. Một trong số chum đá này chắc chắn được dùng để thanh tẩy các vật dụng được dùng trong bữa ăn như thánh Mác-cô ghi nhận: “Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của các tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng” (Mc 7: 3-4). Sau khi dùng, những chum này cạn nước. Đức Giê-su bảo đổ đầy nước vào các chum cho tới miệng. Như vậy, rượu mà Ngài sẽ ban thật dồi dào và thậm chí dư dật, như đối với phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ấy vậy, rượu dư dật đến như thế là hình tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng để loan báo buổi bình mình của kỷ nguyên Mê-si-a (Am 9: 13; I s 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18; Tv 78: 24-27; 132: 15). Phép lạ Ca-na là một dấu chỉ thời Mê-si-a.
Mặt khác, rượu là dấu chỉ của niềm vui; nói một cách chính xác, rượu biểu tượng niềm vui thời Mê-si-a, tiên trưng niềm vui vĩnh cửu, thường được biểu thị bởi bàn tiệc trong Nước Thiên Chúa, “bàn tiệc cánh chung”. Đức Giê-su ám chỉ đến điều này vào bữa Tiệc Ly: “Từ nay, Thầy sẽ không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26: 29; Mc 14: 25 và Lc 22: 18).
Nước mà Đức Giê-su hóa thành rượu không phải bất kỳ nước nào: chính là nước được dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục của người Do thái. Đối với tác giả Tin Mừng Gioan, việc nước thanh tẩy của Cựu Ước hóa thành rượu Mê-si-a báo hiệu “Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có ở đây rồi” (2Cr 5: 17). Thời đại Mê-si-a đã đến. Từ nay, nước thanh tẩy không còn có ích nữa, bị hủy bỏ và được thay thế bởi rượu, dấu chỉ của ơn cứu độ. Trong bối cảnh phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, rượu tiệc cưới Ca-na rất dễ gợi lên trong tâm trí của các tín hữu Rượu Thánh Thể, đặc biệt khi thánh ký nói với chúng ta Đức Giê-su hóa nước thành rượu xảy ra trước lễ Vượt Qua (2: 13), cùng một thời điểm mà ba năm sau này Đức Giê-su sẽ hóa rượu thành máu của Ngài cho muôn người được tha tội (Mt 26: 28).
- Dấu hiệu Giao Ước
Sự hiện diện của Đức Giê-su ở tiệc cưới Ca-na là một cử chỉ của tình bạn. Vì tình bạn, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ này để tránh cho gia đình này khỏi bẽ mặt; nhưng đồng thời Ngài đem đến một sự bảo lãnh – một sự bảo lãnh thần linh – cho tính chất linh thánh của hôn nhân. Ngoài ra, cử chỉ của Ngài mặc lấy một chiều kích thần học: chính bằng ngôn từ tình yêu hôn nhân mà các ngôn sứ đã dùng để diễn tả Giao Ước của Thiên Chúa với dân Ngài như Hôn Ước.
Trong bài tường thuật, người quản tiệc nói với tân lang: “Ai ai cũng thiết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Ấy vậy, người đãi rượu ngon không phải là tân lang mà là Đức Giê-su. Thật vậy, trong Tin Mừng Gioan, tân lang thường tượng trưng cho Đức Giê-su (Ga 3: 29). Sau này, khi ban cho các môn đệ Rượu Thánh Thể, Ngài sẽ công bố rượu này là dấu chỉ Giao Ước Mới. Thánh Phao-lô cũng sẽ sử dụng ngôn từ tình yêu vợ chồng để nói về sự hiệp nhất của Đức Giê-su với Giáo Hội của Ngài; và sách Khải Huyền sẽ cử hành tiệc cưới muôn đời của Con Chiên với dân Thiên Chúa được biểu thị bởi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc.
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su khai mạc mầu nhiệm tình yêu và hiệp nhất của Thiên Chúa với nhân loại.
- “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?”
Tác giả Tin Mừng Gioan không bao giờ gọi đích danh “Ma-ri-a”, nhưng luôn luôn “Thân Mẫu Đức Giê-su”, bốn lần trong bài tường thuật này (2: 1, 3, 5, 12), cũng là bốn lần trong bài trình thuật về cuộc Thương Khó (19: 25-26), để tỏ lòng tôn kính đối với Đức Mẹ, Mẹ đã sống những năm cuối đời của Mẹ tại nhà thánh nhân và đã qua đời trong tình con thảo của thánh nhân. Chắc chắn đây cũng là tước hiệu tôn kính mà người Ki-tô hữu tiên khởi dành cho Thân Mẫu của Chúa mình.
Lời thỉnh cầu kín đáo của Đức Ma-ri-a: “Họ hết rượu rồi”, nhắn gởi cho Đức Giê-su, Con Mẹ, diễn tả độ nhạy bén của Mẹ trước nhu cầu của tha nhân. Nhưng câu trả lời của người con cho mẹ mình: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?” thật đáng ngạc nhiên, như thử muốn nói rằng: “Đây không phải là công việc của mẹ. Xin đừng can dự vào”.
Trước tiên, cách xưng hô “Thưa bà” không nói lên một sự bất kính, nhưng diễn tả cái khoảng cách. Chúa Giê-su xưng hô như thế với người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4: 21), với người đàn bà Ca-na-an (Mt 15: 28), với người phụ nữ còng lưng (Lc 13: 12), với bà Ma-ri-a Mác-đa-la (Ga 20: 15). Cái khoảng cách này được tăng cường bởi những lời tiếp theo sau: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi?”. Đây là cách nói mang đậm nét Do thái khá thông dụng trong Cựu Ước (x. Tl 11: 12; 2Sm 16: 10; 1V 17: 18). Tại các sách Tin Mừng Nhất Lãm kiểu nói này được đặt trên môi miệng của hai người bị quỷ ám: “Chuyện chúng tôi can gì đến ông?” (Mt 8: 29).
Cách xưng hô của Đức Giê-su với Mẹ Ngài ở tiệc cưới Ca-na tái xuất hiện ở hoạt cảnh Thập Giá, ở đó Ngài thân thưa với Mẹ Ngài: “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19: 26). Trong hoạt cảnh sau cùng này, tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a không bị bác bỏ, vì Đức Giê-su ban cho Mẹ Ngài người môn đệ yêu mến, khuôn mẫu của người Ki-tô hữu hoàn thiện, làm con của Mẹ. Như vậy, với cách xưng hô lạ lùng ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đòi hỏi Mẹ của Ngài mở rộng tình mẫu tử của Mẹ, biến đổi tình mẫu tử riêng tư giữa Mẹ và Con thành tình mẫu tử của một Người Mẹ ân cần săn sóc những môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội của Ngài, Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.
- “Giờ tôi chưa đến”
Trong Tin Mừng Gioan, “giờ của Chúa Giê-su” là giờ Ngài được giương cao trên thập giá, giờ Ngài được tôn vinh (Ga 3: 14-15; 8: 28), giờ mà tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ tận mức ở nơi cái chết của người Con Một Thiên Chúa. Rõ ràng, ở tiệc cưới Ca-na, giờ đó chưa đến.
Nếu chúng ta đọc lại tình tiết về người phụ nữ Ca-na-an, người ta sẽ gặp lại cũng một thái độ như thế của Đức Giê-su. Trước hết, Ngài không đáp một lời, đoạn từ chối, để thử thách niềm tin của người phụ nữ này. Người phụ nữ không chùn bước. Lúc đó, Chúa Giê-su thán phục niềm tin kiên vững của bà và cho bà được toại nguyện: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy” (Mt 15: 28).
Đức Ma-ri-a trải qua một thử thách tương tự. Trước thái độ ngập ngừng của Con Mẹ, Mẹ trả lời bởi một hành vi đức tin kiên vững vào Ngài: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Đức Mẹ đã tin vào Con Mẹ trước khi phép lạ xảy ra, trong khi các môn đệ Ngài tin vào Ngài sau khi phép lạ xảy ra. Lúc đó, Chúa Giê-su nghiêng mình trước đức tin đáng thán phục của Mẹ Ngài.
Trong bối cảnh Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê để bày tỏ vinh quang của Ngài và để các môn đệ tin vào Ngài, thì lời căn dặn của Mẹ: “Người bảo gì các anh cứ làm theo” thật có ý nghĩa biết bao trong việc huấn luyện người môn đệ lý tưởng. Dù thế nào, chúng ta ghi nhận rằng thành quả của dấu lạ đầu tiên được thực hiện nhờ sự can thiệp của Đức Ma-ri-a và dẫn đến niềm tin của các môn đệ. Vì thế, truyền thống Ki-tô giáo đã nhấn mạnh quyền năng cầu bầu của Đức Ma-ri-a, sự hiện diện ân cần của Mẹ, nỗi bận lòng của tình mẫu tử đối với tha nhân: “Xưa nay chưa từng ai đến cùng Mẹ mà Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Trang Tin Mừng này không chỉ mang chiều kích Ki-tô học, nhưng còn mang chiều kích Thánh Mẫu học.
75. Tiệc cưới Cana
(Suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)
Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Người biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
1.- Ngữ cảnh
Về đoạn văn Ga 2,1-12, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi sau đây: câu truyện Cana mở ra một phân đoạn mới (gọi là “Sách các dấu lạ”, ch. 2–12) hoặc khép lại một bài tựa mang tính tường thuật (1,19–2,12)?
Chúng tôi chọn đặt truyện Cana vào cuối bài tựa tường thuật. Trong ch. 1, sau Bài Tựa (1,1-18), tác giả giới thiệu gương mặt vị Tẩy Giả, vị chứng nhân, “bạn của chàng rể” (3,29), người ban phép rửa để “Người [= Đức Giêsu] được tỏ ra cho dân Ít-ra-en” (1,31). Sứ mạng của Gioan là bày tỏ chân tính thiên sai của Đức Giêsu. Vì lý do này, Anrê và một môn đệ nữa đã đi theo Thầy (1,35-40). Anrê lại đi gặp Simôn và bảo: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (1,41); chuyện cũng như thế đã xảy ra với Nathanaen (1,45-51). Tất cả kết thúc tại Cana, với việc chính Đức Giêsu tỏ vinh quang ra (2,11).
Còn có những lý do khác khiến phải đi theo chiều hướng này. Có thể kể ra hai lý do: 1) Cách tính các ngày làm thành một tuần. “Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình” (1,29). “Hôm sau ông Gioan lại đứng đó” (1,35). “Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê” (1,43). Cuối cùng, “ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana miền Galilê” (2,1). Đây đúng là một tuần, và tiệc cưới đã xảy ra vào ngày thứ bảy. 2) Cần ghi nhận việc tác giả tích lũy các danh hiệu Kitô học. Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (1,29.36), “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (1,33), là “Rabbi” (1,38.49), là “Đấng Mêsia” (1,41), là “Con Thiên Chúa, vua Ít-ra-en” (1,49). Rõ ràng các danh hiệu này là một tổng hợp việc mạc khải mầu nhiệm Đức Kitô. Điểm tới của cụộc tỏ mình này là Cana: “Đức Giêsu tỏ vinh quang của Người” (2,11). Việc Đức Giêsu tỏ mình ra tương ứng với việc các môn đệ đáp lại: “Và các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Tới đây, cộng đoàn các môn đệ gồm những người tin đã thành hình; Đức Giêsu có thể bắt đầu đời sống công khai.
Vậy có thể coi đây là Dẫn nhập bằng một dấu lạ lịch sử: Truyện Tiệc cưới Cana kết thúc phần Dẫn nhập và đưa vào “Sách các dấu lạ của Đức Giêsu”, nên có thể gọi là đoạn văn “làm cầu”.
2.- Bố cục
Bài tường thuật được giới thiệu như là một “dấu lạ”, nên có thể tìm bố cục theo cách cấu trúc cổ điển của các phép lạ. Nhưng chúng ta có thể tìm ra bố cục theo cấu trúc đồng tâm sau:
A = Phần tường thuật (2,1-3);
B = Các đối thoại (2,4-8):
Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu,
Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn,
Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn;
A’= Phần tường thuật (2,9-11).
3.- Vài điểm chú giải
– Ngày thứ ba (1): Chi tiết thời gian này có mục đích nối kết phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu với núi Sinai (Xh 19,1.10-11.16) và cuộc Phục Sinh (Ga 2,19-22; x. 7,30; 8,20…).
Như thế, Cana một đàng là phiên bản của những gì đã xảy ra tại núi Sinai, đàng khác, là một lời tiên báo mào đầu cho mạc khải tối hậu phát xuất từ cuộc Phục Sinh của Đức Kitô.
– tại Cana miền Galilê (1a và 11a): Trong Tân Ước, thành này chỉ được Ga nhắc tới (x. cả 21,2). Thông thường người ta nghĩ đến Khirbet Qana, cách Nadarét 15 cây số. Đây là nơi hẻo lánh, không mấy quan trọng.
– Có tiệc cưới: Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần (ba ngày: trường hợp một quả phụ tái giá). Khung cảnh tiệc cưới nối kết câu truyện Cana với đề tài quen thuộc trong Cựu Ước: hôn lễ của Đấng Mêsia với Dân Người. Trong TM IV, Gioan Tiền Hô sẽ giới thiêu Đức Giêsu là chàng rể (3,29); còn trong các TMNL, Đức Giêsu tự coi mình là chàng rể (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34), và đã mô tả Nước Trời như một tiệc cưới (Mt 22,1-14). Cuối cùng, sách Kh cũng vận dụng tới đề tài này để diễn tả sự kết thúc thời hiện tại và sự khai mở thời tương lai (Kh 19,7-9; 21,2; so với Ep 5,22tt). Theo tập tục, chính chàng rể cung cấp rượu (x. c. 10).
– có thân mẫu Đức Giêsu: Đức Trinh Nữ được giới thiệu là “thân mẫu Đức Giêsu”, rồi ở c. 4, Đức Giêsu lại gọi mẹ là “bà”. Một sự cố tương tự lại xảy ra trên Núi Sọ trong Ga 19,25-27; như vậy, câu truyện Núi Sọ có những điểm chung với câu truyện Cana. Có thể coi hai câu truyện này làm nên một thứ cấu trúc “đóng khung”.
– Họ hết rượu rồi (3): Người ta đã muốn coi lời này chỉ là ghi nhận một sự kiện. Tuy nhiên, có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó.
– Thưa bà (gynai) (4): Một người Do Thái gọi mẹ là ‘immâ, “mẹ của con”. Vì thế danh hiệu “bà” (gynê; femme, woman) được Đức Giêsu dùng mà gọi Đức Maria có vẻ kỳ lạ. Trong thực tế, Đức Giêsu cũng sử dụng danh xưng ấy để gọi các phụ nữ khác trong TM IV (4,21: bà Samari; 20,13: bà Maria Mácđala) và trong các TMNL (Mt 15,28; Lc 13,12). Dù sao, đối chiếu với Ga 19,25-27, danh xưng này không thể có một ý nghĩa tiêu cực. Rất có thể qua tiếng “bà” (E. Farahian đề nghị dịch trong tiếng Ý là “signora”), Đức Giêsu đề ra một cách công khai hơn để gọi mẹ ruột của mình tại nơi công cộng. Ngoài ra, với từ ngữ này, chắc chắn ở bình diện biểu tượng, có một gọi ý đến cuộc tạo dựng: Đức Maria xuất hiện ra như là Evà mới, hoặc hơn nữa, như là đại diện của dân Israel, hoặc tốt hơn nữa, như là Israel đích thật.
– Chuyện đó can gì đến bà và con? (4): dịch sát: “Giữa tôi và bà, nào có việc gì?” (NTT). Ti emoi kai soi (Hp: mah-li wâlâk): Đây là cách diễn tả quen thuộc trong văn chương Hy Lạp, Rô-ma và Sê-mít để diễn tả sự ưng thuận hoặc bất thuận giữa hai hoặc nhiều người. Chỉ có văn cảnh mới giúp thấy rõ các sắc thái của mỗi trường hợp.
– Giờ của con chưa đến (4): Nếu quan tâm tới ý nghĩa của thuật ngữ “Giờ của Đức Giêsu” theo TM Ga, và tới giá trị biểu tượng của rượu, chúng ta sẽ thấy rõ. “Giờ của Đức Giêsu” là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh; còn rượu tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến “Giờ” Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1).
– Rượu (3): Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta các ý nghĩa của “rượu”.
* Thời thiên sai và cánh chung:
Các ngôn sứ nói rằng khi Thiên Chúa quy tụ con cái tản mác lưu đày về và cho họ được định cư, rượu và các sản phẩm khác sẽ được ban cho họ dư dật (Am 9,13; Ge 2,24; Gr 31,12; Ge 2,19-16). Rượu này lại có phẩm chất rất tốt (Hs 14,8; Is 25,6; Dcr 9,17). Rượu và sữa được tặng không (Is 55,1). Trong Hs 2,21-22 và Is 62,5, sự phì nhiêu của hoa mầu ruộng đất được ghép vào hình ảnh cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và Dân Ngài. Cuộc hôn nhân này tượng trưng Giao Ước mới ký kết với con cái Israel, được quy tụ về (Ge 31,8-10.31-37). Có hai bản văn trực tiếp mang tính thiên sai, St 27,28-29 và St 49,10-12: Thời đại thiên sai được mô tả bằng một giọng văn đầy hình ảnh: “rượu mới dồi dào” (St 27,28); muốn buộc con lừa, Đấng Mêsia chỉ có dây nho; muốn giặt áo, Người chỉ có rượu; và rượu làm cặp mắt Người ngời sáng (St 49,11-12).
Trong Diễm ca, “rượu” được dùng 8 lần để tượng trưng tình yêu nồng nàn của đôi nam nữ (Dc 1,2-4; 2,4; 4,10; 5,1; 7,3-10; 8,2).
* Rượu và Lời Thiên Chúa:
Trong Cựu Ước, Luật Môsê (hoặc Lời Thiên Chúa) được đặt trong quan hệ với rượu, trong hai đoạn: Gr 23,9 và Cn 9,25. Sự Khôn Ngoan đã dọn tiệc và mời khách, thật ra là Luật Môsê. Theo truyền thống Kinh Thánh, vị hiền nhân là người suy gẫm và đào sâu Torah. Và rượu của sự Khôn Ngoan là Luật Thiên Chúa. Trong Hc 24,17, sự Khôn Ngoan lại tự ví mình với một cây nho (x. Ga 15,1). Như vậy, ta có chuỗi các khái niệm: Torah = Khôn Ngoan = cây nho = rượu.
* Rượu là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích:
- a) Truyền thống Do Thái giáo:
Rượu còn được coi như là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích: Vị này được người ta chờ mong như một vị thầy chuyên môn về Luật Môsê (x. Targ Dc 8,12). Còn khi bản Midrash St R 98,9–49,11 nói rằng Đấng Mêsia “… giặt áo mình trong rượu” (St 49,11), điều này có nghĩa là Người sẽ viết lại những câu Luật cho người nhà mình, tức sẽ đề nghị những ý nghĩa và lối giải thích Torah. Còn Người giặt “áo choàng trong máu của nho”, có nghĩa là Người sẽ sửa chữa các lối giải thích sai lạc.
- b) Tân Ước: Mt 5,17.21-22.27-28.31-32.33-34.38-39.43-44. Các TMNL ví giáo huấn của Đấng Mêsia với rượu mới, Đức Giêsu là chàng rể của lễ cưới thiên sai. Rượu mới tượng trưng cho Tin Mừng của Người, Mạc khải của Người; rượu này không thể pha trộn với rượu cũ của Do Thái giáo (Mt 9,14-17; Mc 2,18-22; Lc 5,33-39).
* Giá trị biểu tượng của rượu Cana:
Trong thần học Gioan, Lời của Đức Giêsu là “Sự Thật” (Ga 8,31-32; 18,37; 17,8.14.17..), và điều quan trọng là Lời này được đồng hóa với chính Đức Giêsu: “Thầy là Sự Thật” (14,6; x. 8,32-26). Tin Mừng của Đức Kitô được nhập thể cách rõ ràng nhất nơi bản thân và trong những biến cố liên hệ tới bản thân con người đang loan báo Tin Mừng này, là Ngôi Lời làm người: “Thầy là ánh sáng, bánh ban sự sống, sự sống lại, sự sống…”. Vậy, Lời của Đức Kitô là Mạc khải của Người, Tin Mừng của Người.
Chúng ta nói “rượu” tượng trưng Lời Đức Kitô là do những nhận định sau:
1) Cặp mẫu Sinai – Cana:
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Gioan (1,19-2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với chóp đỉnh là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào “ngày thứ ba”.
“Ngày thứ ba” của Cana tương ứng hoàn toàn với “ngày thứ ba”của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào “ngày thứ ba”, thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào “ngày thứ ba”; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người.
2) Động từ “giữ” (c. 10):
Người quản tiệc nói với tân lang: “… Còn anh, anh lại giữ (HL. tetêrêkas) rượu ngon cho đến mãi bây giờ”. Động từ “giữ” là động từ tiêu biểu của từ vựng Gioan khi đề cập đến Lời–Điều răn của Đức Giêsu, và Lời này là Lời của Chúa Cha. Tác giả Gioan đã dùng động từ ấy theo nghĩa này ít ra 25 lần (8,51-52; 14,23; 15,20; 17,6; Kh 3,8 / Kh 3,10 / 14,24 / 1 Ga 2,5 = 8,55 / Kh 1,3; x. 22,7.9 / Kh 2,26 / 1 Ga 2,3; 3,22.24; 5,3 / Kh 12,17 / Kh 14,12. Lưu ý: Mc chỉ dùng 1 lần (Mc 7,9); Mt 3 lần (Mt 27,36.54; 28,4); Lc 1 lần (Cv 15,5).
3) Nước thanh tẩy của tập tục Do Thái:
Rượu Đức Giêsu ban lại lấy từ nước đựng trong các chum dùng vào “việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái” (c. 6). Nước này không phải là nước phàm tục, mà là nước dùng trong nghi lễ, để thanh tẩy các thực khách (x. Mc 7,2-5; Mt 15,2; Lc 11,38-39). Chính nước này được Đức Giêsu biến thành rượu. Điều này có nghĩa là kể từ nay, “việc thanh tẩy” không còn được nối kết với việc giữ Luật Môsê nữa (tượng trưng bằng nước trong sáu chum), mà là với việc giữ Tin Mừng của Đức Kitô, giữ Lời của Người (tượng trưng bằng rượu ngon).
Thật ra, đây là giáo lý của tác giả Ga về việc “thanh tẩy”. Các môn đệ được “thanh tẩy” nhờ Lời Đức Giêsu đã loan báo cho họ (15,3). Sứ điệp mạc khải của Đức Kitô là Sự Thật có thể giải thoát các môn đệ khỏi nô lệ tội lỗi (8,32.34-36). Người nào ở lại trong Đức Giêsu, bằng cách đón nhận Tin Mừng của Người (Ga 15,7; 1 Ga 3,6) thì không phạm tội nữa, mà được thánh hóa (1 Ga 3,6). Lời Đức Giêsu giống như một hạt giống (1 Ga 3,9; x. Lc 8,11; 1 Pr 1,23; Gc 1,18; 1 Cr 4,15). Nhờ tác động của Lời, người môn đệ có thể thắng sự dữ và ít sa vào tội lỗi hơn (1 Ga 2,14). Đây là cách Đức Giêsu “xóa bỏ tội trần gian” (1,29): Người “thanh tẩy” con người bằng Lời Sự Thật của Người.
4) Rượu Cana, biểu tượng của mạc khải cánh chung của Đức Kitô:
Rượu Cana không những là hình ảnh của Lời mạc khải của Đức Giêsu, mà còn diễn tả chiều kích cánh chung của Lời này, trong tư cách là Lời tối hậu và vĩnh viễn.
Chẳng hạn Ga 1,45: Philípphê nói với Nathanaen: “Đấng mà Sách Luật Môsê và các Ngôn Sứ nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét”. Từ Môsê và các Ngôn sứ, ta chuyển qua Đức Giêsu. Đây là điều đã được nói ở 1,16-17. Dấu lạ Cana là một sự chuẩn nhận mang tính ngôn sứ cho niềm chờ mong cánh chung xoáy vào con người Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu ra lệnh đổ các chum “đầy tới miệng” (c. 7), điều đó không chỉ có nghĩa là đổ nhiều tối đa, nhưng đặc biệt có nghĩa là “hoàn toàn”. Sau Đức Kitô, không còn có chuyện “còn nữa”, “sau đó” hoặc “thêm nữa”. Lời Người làm đầy mức Mạc khải. Lời Người là “nguồn sung mãn” (1,16). Tuy nhiên, sự sung mãn của Đức Kitô được thêm vào cho một mức độ có trước (x. Dt 1,1). Rượu Người cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Nhiệm cục Luật Môsê bị vượt quá về chất lượng bởi Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn “mới” (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là “ngon (tốt)” (HL. kalôn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassô).
Những gì xuất hiện tại Cana là như hình ảnh của một mở đầu, thì được kiểm chứng trong TM IV bởi những mẩu đối thoại khác, trong đó nhắc lại sự cao trọng của Đức Giêsu và những ân ban của Người, so với những nhân vật hoặc những định chế của Cựu Ước: hơn Giacóp (4,12), Môsê (5,46; 6,32-35), Abraham (8,58), Đền Thờ (2,19-21; x. 4,21-23), Gioan Tẩy Giả (1,26-33), như Gioan đã tuyên bố (3,29-30): “… Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi (Hl. elattousthai; từ này cùng một ngữ căn với elassô, 2,10)”.
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại “cho đến mãi bây giờ” (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ “cho đến bây giờ” (HL. eôs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô đến.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
5) Quan hệ giữa rượu Cana với “ngày thứ ba” và “Giờ của Đức Giêsu”:
Cuối cùng, các thuật ngữ “ngày thứ ba” (c. 1) và “Giờ của Đức Giêsu” đưa lại cho dấu lạ Cana một ý nghĩa cánh chung: cả hai thuật ngữ quy hướng về những biến cố cuối đời của Đấng Cứu thế, về cuộc Khổ Nạn quang vinh của Người.
Yếu tố “rượu” cũng có một vai trò trong chiều hướng cánh chung này. Chúng ta nói rằng “rượu” tượng trưng cho Sự Thật Phúc Âm đã được Đức Giêsu rao giảng, và đã nhập thể nơi chính bản thân Ngôi Lời nhập thể. Thế nhưng lời cuối cùng của sứ điệp này, nghĩa là việc mạc khải hoàn toàn về chân tính của Đức Kitô, chỉ nên rõ khi Đức Giêsu đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). “Vào ngày ấy”, các môn đệ biết rằng Đức Giêsu bằng Cha Người trong thần tính (14,20a; x. 10,31-33; 5,18), và Người liên kết họ với Người trong sự hiệp thông với Cha Người (14,20b). Đây là ngày xảy ra Giao Ước Mới được ký kết giữa Thiên Chúa và loài người để tiếp nối và hoàn tất Giao Ước cũ.
Sau Phục Sinh, Tôma nhận biết Đức Giêsu là “Đức Chúa và Thiên Chúa” của ông (20,28); nơi Người, được thực hiện lời hứa thường được các Ngôn sứ nhắc lại: “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi”.
Trong thời của mầu nhiệm Phục Sinh ấy, Mạc khải không còn được truyền đạt bằng dụ ngôn hoặc hình ảnh nữa (16,25). Nay đã được Thánh Thần hướng dẫn (16,13-14), các môn đệ không còn dám hỏi: “Người là ai?” nữa (21,12; x. 16,23). Kể từ nay, các ông biết Người là “Đức Chúa, Kyrios” (21,12).
Lời Phúc Âm (được tượng trưng bằng rượu Cana) nay rực sáng lên nơi Đức Kitô quang vinh.
– Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo (5b): Có lẽ Đức Maria không hiểu những lời Đức Giêsu nói. Mẹ cũng giống như những người khác trong TM IV, ở tại một bình diện hết sức cách biệt với Đức Giêsu. Tuy nhiên, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định.
– Mỗi chum chứa được khoảng hai hoặc ba thùng (6. NTT): Một metrêtês (mesure) khoảng 40 lít (Hp: êpah, éphah).
– Người quản tiệc… không biết rượu từ đâu ra (9c): Dọc theo TM IV, ý tưởng này: ‘không biết nguồn gốc Đức Giêsu và Vương quốc của Người (x. 18,36)’ tái xuất hiện dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: 3,8; 4,10; 6,41; 9,29.30; 7,26-27 (x. 19,9).
Đức Giêsu vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người khi xảy ra biến cố Khổ Nạn–Chết–Sống lại (x. Ga 7,33-35; 8,21-23; 23,36; 16,5.28). Đây sẽ là một mạc khải vĩ đại có sức soi sáng các tín hữu và làm cho những kẻ không tin phải bẽ mặt (1,51; 2,18-19; 3,11-15; 5,17.20; 6,62; 8,28; 12,32; 14,19-20).
– Còn gia nhân đã múc nước thì biết (9d): Câu này không chỉ là một ghi nhận về sự kiện. Các “gia nhân” là những người đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9).
Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa cho người giữ các điều răn của Người (14,21). Như vậy, Đức Giêsu tỏ mình ra cho ai yêu mến Người bằng cách đưa Lời Người ra thực hành. Người sẽ cùng với Chúa Cha đến lập cư nơi người ấy (14,23). Ai yêu mến Đức Kitô là gia nhân đích thật của Người, Chúa Cha sẽ “quý trọng” (tôn vinh) kẻ ấy (12,26).
Ba thành ngữ sau đây liên hệ với nhau: “phục vụ Đức Kitô – Vâng theo Lời Người – Đức Kitô tỏ mình ra”. Ai “phục vụ” Đức Giêsu, “vâng theo điều răn của Người” (và ngược lại), Đức Kitô sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Gia nhân ở Cana đã chứng nghiệm điều trên rõ ràng. Họ được biết “rượu ngon” (= một phương diện của thực tại Đức Kitô) “từ đâu đến”, chính là vì họ đã vâng lời Đức Giêsu mà múc nước đổ đầy các chum. Thánh Gioan có nói: “Căn cứ vào điều này chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người” (1 Ga 2,3).
Trong TM IV, hai viễn tượng lịch sử và thần học thường lồng vào nhau. Như vậy, các câu 7c, 8d, 9d đã giới thiệu các “gia nhân” ở Cana như là điển hình cho đời “phục vụ–vâng lời” mà Đức Kitô đòi hỏi trong Giao Ước mới (x. Ga 13,34; 15,14).
– ông gọi tân lang lại và nói…(9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại “cho đến mãi bây giờ”.
Trong TM Ga (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm “bạn của tân lang” (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. “được sai đi trước”: c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30).
Sách Khải huyền cũng ca tụng lễ cưới của Chiên Con với Giêrusalem mới (19,7-8; 21,2).
Vì tác giả TM trình bày Dấu lạ Cana phỏng theo những truyền thống về Núi Sinai, ta có thể nhớ rằng Giao Ước Sinai đã được trình bày dưới biểu tượng hôn lễ kể từ nền văn chương ngôn sứ (x. Hs 2,16-25; Is 50,1; 54,4-8; 62,4-5; Gr 2,1-2; 3,1-13…). Trong khối Tân Ước có trước Ga, ta có thể kể ra: Mt 22,1-14; 25,1-13 (Các dụ ngôn về Nước Trời như tiệc cưới); Mc 2,18-20 (Đức Giêsu tự giới thiệu như là “Chàng Rể”); 2 Cr 11,2; Ep 5,25-33 (Đức Kitô-Hôn Phu và Giáo Hội-Hiền Thê).
Loại hình ảnh biểu tượng này được dùng rất phổ biến trong truyền thống Do Thái giáo. Chính thánh Âutinh đã viết: “Hôn phu (chú rể) của tiệc cưới ấy là hình ảnh của Đức Chúa hiện thân…”.
– Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này (11a): Nhiều nhà chú giải (C.K. Barrett; Olsson) ghi chú rằng tác giả TM coi phép lạ Cana không những như là dấu lạ “đầu tiên”, mà còn như điển hình của các dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện. Bởi vì Người đã viết: “Tautên epoiêsan archên tên sêmeiôn Iêsous…” (NAB: Jesus did this as the beginning of his signs; TOB: Tel fut… le commencement des signes de Jésus; NTT: Dấu lạ đầu hết này, Đức Giêsu đã làm…). Từ ngữ archê (khởi đầu, bắt đầu) gây ra một số khó khăn; vì thế người ta đã đưa vào những dị bản, chẳng hạn prôtên (= thứ nhất).
Dường như trong Ga, từ archê không có nghĩa là khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, như trong Lc (3,23; Cv 10,37), cũng không phải là lời rao giảng của Gioan Tiền Hô trong hoang địa (Mc 1,1), thậm chí cũng không phải là lời kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Ga 1,35-51). Nhưng từ ấy có nghĩa là khoảnh khắc chính xác mà Đức Giêsu bắt đầu tỏ mình ra cho các môn đệ (x. Ga 15,27; 16,4; 1 Ga 1,1-3). Vậy việc mạc khải tiệm tiến của Đức Giêsu khởi sự tại Cana miền Galilê, và được tiếp tục dọc theo sách Tin Mừng (x. Ignace de la Potterie). Origiênê gọi dấu lạ Cana là “prohêgoumenon sêmeion”, một dấu chỉ “ưu việt”. Zerwick & Grosvenor giải thích: “such was the first of the signs that Jesus did; Jesus did this as his initial sign”.
Vậy rượu mới ở Cana không chỉ là “dấu lạ đầu tiên”, mà cũng còn là “điển hình”, “nguyên mẫu” (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm “bày tỏ” vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của “ngày thứ ba”, của “Giờ của Đức Giêsu”, nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người.
– và bày tỏ vinh quang của Người (11b): Động từ “bày tỏ” (HL. phaneroô; manifester; make clear/visible, show) cũng là động từ tiêu biểu của từ vựng Ga. Tác giả ưu tiên dùng động từ này để nói về “mạc khải” (x. Ga 1,31; 2,11; 3,21; 7,4; 9,3; 17,6; 21,1; 1 Ga 1,2; 2,19; 3,2; 4,9).
Còn ý nghĩa của từ “vinh quang” (HL. doxa) được rút từ Cựu Ước. Theo nghĩa đen, từ Híp-ri kabôd hàm chứa một ý tưởng về “trọng lượng” (động từ kabêd: cân nặng). Theo nghĩa bóng, từ này có nghĩa là “trọng (quan trọng, trọng đại)”, nghĩa là “giá trị”, “tầm quan trọng” của một hữu thể, “sự tôn kính” mà hữu thể ấy gợi ra; tóm, là “bản tính”, “bản lĩnh (nhân cách)” của kẻ ấy, dù kẻ ấy là ai.
Thế mà trong truyền thống Cựu Ước, Đức Chúa (Yhwh) mạc khải “vinh quang” của Ngài ra bằng những biểu lộ bên ngoài của chính bản thân Ngài, nghĩa là xuyên qua “những việc vĩ đại”, “những việc kỳ diệu” (= phép lạ) được thực hiện trong cuộc Tạo dựng và trong Lịch sử Dân Ngài (x. Tv 19/18B,2; Ds 14,21.22; Xh 14,18; 16,7; 24,25t; 29,43; 40,34; 1 V 8,10t…). Con người có thể hiểu rõ hơn Đức Chúa là ai hoặc “vinh quang” của Ngài là thế nào, khi suy nghĩ về sự tỏa rạng của bản thân Ngài trong công cuộc tạo dựng và trong lịch sử Dân Thiên Chúa tuyển chọn.
Tại Cana, Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên như một biểu lộ đầu tiên về “vinh quang” của Người, một khởi đầu cho công cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Người. Các tông đồ có hiểu gì chăng?
* Trước Phục Sinh, và chính xác hơn, vào ngay ngày các môn đệ được chứng kiến dấu lạ Cana, dĩ nhiên các ông không thể hiểu thấu bí mật sâu xa của chân tính Đức Kitô. Các ông không thể nắm được tính siêu việt của chân tính này. Cứ cho đi là niềm tin của các ông được khơi lên bởi một phép lạ–dấu chỉ, thì muốn hợp lý, nên suy ra là cũng như đối với Nathanaen, niềm tin ấy có đối tượng là tư cách Mêsia của Đức Giêsu (x. Ga 1,47-50; rồi 7,31; 10,41-42; 12,37-42).
* Sau Phục Sinh, Hội Thánh được soi sáng trọn vẹn về mầu nhiệm Đức Giêsu. Thế là khi nhớ lại những gì đã xảy ra tại Cana, tác giả Gioan (cũng như toàn thể cộng đồng Kitô hữu) đã hiểu rằng, ngay ở dấu lạ đầu tiên này, Đức Giêsu đã bắt đầu tự mạc khải ra như “Hôn Phu thần linh của tiệc cưới thiên sai”, tiệc cưới của Giao Ước mới, trong đó sẽ được chứng thực “ngày thứ ba” của Phục Sinh, khi “Giờ của Đức Giêsu”đã đến (x. Ga 14,20).
Phụng Vụ lễ Hiển Linh chú giải thật đúng hình ảnh biểu tượng mang tính ngôn sứ của Cana, khi hát lên Điệp ca của Thánh ca Benedictus: “Tân Nương là Giáo Hội, ngày hôm nay được phối hiệp cùng Đức Kitô, vị Lang Quân thống trị Nước Trời… Nước hóa rượu ngon, làm vui lòng thực khách”.
– Các môn đệ đã tin vào Người (11c): Trong TM IV, đề tài “đức tin” là đề tài căn bản. Động từ “tin” (HL. pisteuô có 3 cách dùng:
– tin “ai” (HL. pisteuein tini) nghĩa là chấp nhận lời người ấy là thật: 2,22; 4,21-50; 1 Ga 3,23;
– tin “vào ai” (HL. pisteuein eis tina) hàm ý gắn bó với người ấy: 2,11; 3,16.18.36; 4,39;
– tin “vào danh ai” (HL. pisteuein eis to onoma tinos): đây là cách diễn tả hoàn hảo nhất về đức tin.
Tác giả Gioan là người duy nhất đã dùng cách này trong Tân Ước (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga 5,13). Đây là sự gắn bó với một người theo nội dung của tên người ấy. “Tin vào danh Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18) có nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là “Con Một Thiên Chúa”.
– Sau đó (meta touto…) (12a): Một vài tác giả (J.H. Bernard; A. Feuillet) có lý mà cho rằng, trong ngôn ngữ Ga, công thức meta touto (= sau việc ấy; après quoi) có ý nhắm tạo ra một liên hệ lô-gích giữa những gì đi trước và những gì tiếp sau, y như thể đoạn sau là một hậu quả hoặc một minh họa mới của đoạn trước. Tác giả đã dùng 4 lần, luôn luôn trong quan hệ với Đức Giêsu (Ga 2,12; 11,7-11; 19,28). Ý nghĩa rất gần với ý nghĩa của “tauta (hoặc touto) eipôn” (= “khi đã nói những điều ấy xong”; hoặc: “sau khi đã nói những điều ấy”) (Ga 7,9; 9,6; 11,18.43; 13,21; 18,1; 20,20-22).
Còn thuật ngữ meta tauta (= sau các biến cố ấy) thì khác: nó chỉ đóng vai trò chuyển mạch về văn chương thôi, một chuyển mạch không xác định, giữa hai đoạn (Ga 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 13,7; 19,38; 21,1).
Vậy, tương quan giữa 2,1-11 và 2,12 là thế nào? Phần tiếp của c. 12 sẽ cho thấy.
– Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum (12bc): Ở đầu bài tường thuật, Đức Trinh Nữ Maria ở một bên, Đức Giêsu và các môn đệ ở một bên, như là hai nhóm đến dự tiệc cưới theo những nẻo đường khác nhau. Nhưng đến cuối bài, Đức Trinh Nữ, các anh em và các môn đệ Đức Giêsu xuất hiện ra như một nhóm duy nhất siết chặt quanh Người. Chắc hẳn tác giả muốn nói rằng họ đã xích lại gần nhau nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, mà Đức Trinh Nữ (c. 5) và các môn đệ (c. 11) đã chứng tỏ. Hơn nữa, trên bình diện đức tin, không có khác biệt giữa bà con họ hàng (thân mẫu và các anh em) và các môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Phần tường thuật (1-3):
Chi tiết thời gian “ngày thứ ba” đánh dấu tuần lễ khai mạc hoạt động của Đức Giêsu; nhưng chi tiết này cũng nhắc lại những sự kiện lớn thuộc lịch sử cứu độ xảy ra vào ngày thứ ba: Đức Chúa tỏ mình ra cho Dân Ngài vào ngày thứ ba trên núi Sinai (Xh 19,10-11; x. 19,16). Nhưng dựa vào Hs 6,2, chi tiết “ngày thứ ba” còn có liên hệ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu (“theo lời Kinh Thánh”: Lc 24,46 và 1 Cr 15,4). Có thể nói tác giả Ga minh nhiên thiết lập quan hệ giữa “ngày thứ ba” và “sự chết–sự sống lại” của Đức Giêsu (x. 2,19-22). Trong TM IV, công thức “ngày thứ ba” cũng liên hệ với “Giờ của Đức Giêsu” (x. 2,1-4): đây là kiểu nói để gọi ba biến cố Khổ Nạn – Chết – Sống Lại của Đấng Cứu thế, coi như một thực tại duy nhất (x. 2,4; 7,30; 8,20; 13,1…).
“Tại Cana miền Galilê” (1a và 11a): Đây là một chi tiết địa lý, nhưng hẳn cũng có một lý do thần học. Những người Pharisêu hỏi Nicôđêmô: “Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả!” (7,52). Đấy là điều người ta gọi là “sự mỉa mai thần học của Tin Mừng IV”: Cho đến nay, người ta vẫn cho rằng không thể có một ngôn sứ xuất thân từ miền Galilê; thế mà, bây giờ tại Cana miền Galilê, lại xảy ra cuộc tỏ mình đầu tiên của Vị Ngôn sứ siêu đẳng, Đức Giêsu Nadarét, Đấng được nói đến trong Luật Môsê và các Ngôn sứ (Ga 1,45). Vị Ngôn sứ cánh chung (x. Ga 6,14) xuất thân từ Nadarét, một thôn làng mà người ta cho rằng không thể có gì tốt phát sinh từ đó được (Ga 1,46).
Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần. Thân mẫu Đức Giêsu có đến dự: tác giả không gọi tên bà ra, tương tự như ở 19,25-27: Rõ ràng tác giả quan tâm đến vai trò của Đức Trinh Nữ được diễn tả ra bằng các danh hiệu “thân mẫu Đức Giêsu” và “bà” hơn là đến tên thật của bà. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh – Do Thái giáo, Dân Israel thường được hình dung như một “phụ nữ” (x. Is 52,2; Dcr 9,9). Do đó, ta có thể hiểu lý do khiến Đức Giêsu nói với thân mẫu như thế (“Thưa bà”): Đức Giêsu coi thân mẫu chính là hiện thân Dân Israel đã tới thời viên mãn. Ta có thể nói rằng từ ngữ “bà” trong TM Ga tương ứng với hình ảnh “thiếu nữ Sion” được TM Lc gán cho Đức Maria (Lc 1,28; x. Dcr 2,14).
Tác giả TM ghi nhận là sự cố đầu tiên khởi đầu hoạt động công khai của Đức Giêsu là một tiệc cưới. Ngoài việc ghi lại một sự kiện, hẳn tác giả muốn vận dụng hình ảnh “tiệc cưới” nhằm nhắc lại giao ước của Thiên Chúa với Dân Ngài, và đặc biệt gợi tới sự thể hiện cánh chung, khi Thiên Chúa ký kết giao ước với toàn thể nhân loại. Sâu sắc hơn nữa, hình ảnh lễ cưới nhắc lại giao ước của Đấng Mêsia với Dân Người (x. Hs 2,16-25).
Đang giữa tiệc cưới thì hết rượu…
* Các đối thoại (4-8)
(1) Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu
Thân mẫu Người nói: “Họ hết rượu rồi” (3). Có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó. Chỉ có điều là bản văn không đủ rõ để có thể kết luận rằng Đức Maria đã xin một phép lạ (x. Ga 4,47; 11,3.21-22). Nhưng phải trợ giúp thế nào thì bà cũng không rõ. Bà không xin rõ ràng một phép lạ. Có lẽ bà có biết sứ mạng thiên sai của Con mình; nhưng bà có thể chờ đợi phép lạ như chuyện hết sức tự nhiên chăng? Vả lại, hẳn là quá đáng nếu Đức Maria dám xin một phép lạ, lại là phép lạ đầu tiên, để chỉ kéo dài một lễ hội trong làng? Có lẽ ở đây, với tấm lòng vừa đầy sự chú tâm ân cần vừa đầy cảm thương của người phụ nữ, Đức Maria đã kêu đến Đức Giêsu, mà mơ hồ hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ làm “một điều gì đó”, rằng Người sẽ can thiệp cách nào đó, mà Mẹ cũng chẳng biết thế nào cả.
Bằng câu nói “Chuyện đó can gì đến bà và con?” (4), Đức Giêsu từ chối không làm “phép lạ” mà Người gán cho Thân mẫu là có ý xin. Nhưng Đức Giêsu lại liên kết điều Thân mẫu xin (cho có rượu) với thuật ngữ “Giờ” khiến độc giả ngờ ngợ là ở đây có những biểu tượng.
“Giờ” của Đức Giêsu là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh, là khoảnh khắc tối hậu trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra; còn rượu, theo truyền thống Do Thái giáo và các Giáo Phụ (vd: thánh Âutinh), tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến “Giờ” Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga 13,1). Thân mẫu Người nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất (như chẳng hạn, Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thân mẫu nói về rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đó là điểm khác biêt giữa Đức Giêsu và Thân mẫu Người. Nói cách khác, Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất. Đây là một đặc điểm của lời Đức Giêsu rao giảng, mà TM IV minh họa rõ ràng (Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thật ra, tác giả không nói rõ ràng ý nghĩa của “rượu” (x. ngược lại Ga 2,21; 7,39), nhưng ngài có gợi ý để ta coi “rượu” là biểu tượng của Lời Đức Kitô, của Mạc khải, của Luật mới mà Đức Giêsu mang lại, của Tin Mừng của Người.
Đây không phải là một cách giải thích mới. Nhiều Giáo Phụ đã coi “nước” trong các chum ở Cana là hình ảnh của Lề Luật và các Ngôn sứ, được Đức Giêsu biến đổi bằng Tin Mừng của Người. Thánh Âutinh đã viết: “Đức Kitô đã giữ rượu tốt nhất lại cho đến bây giờ, điều ấy có nghĩa là Tin Mừng của Người”. Trong số các nhà chú giải hiện đại, Bultmann khẳng định: “Rượu không liên hệ tới một ơn nào của Đức Kitô nói riêng, nhưng đúng hơn tới ơn là chính Đức Giêsu, trong toàn vẹn bản thân của Người, tới Đức Giêsu trong tư cách là Đấng mạc khải…”.
Trong thực tế, Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta nhiều ánh sáng.
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Ga (1,19–2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với đỉnh điểm là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào “ngày thứ ba”.
“Ngày thứ ba” của Cana tương ứng hoàn toàn với “ngày thứ ba”của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh quang của Ngài khi ban Torah vào “ngày thứ ba”, thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một thứ rượu ngon hơn cũng vào “ngày thứ ba”; rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người. Động từ “giữ” (“giữ rượu”) cũng là động từ tiêu biểu của truyền thống Ga khi nói về Lời – Điều răn của Đức Giêsu. Đàng khác, các chum đựng nước thanh tẩy theo tập tục Do Thái tượng trưng Luật Môsê bất toàn (chỉ có sáu chum), giờ đây đựng rượu tuyệt hảo, có thể giải thích đó là Tin Mừng, là Lời của Đức Kitô: Người “thanh tẩy” con người bằng Lời Sự Thật của Người. Đức Giêsu cho thấy Luật của Người có sự hoàn hảo khi bảo tôi tớ đổ các chum “đầy tới miệng” (c. 7).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a). Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là “ngon (tốt)” (HL. kalœn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassœ).
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại “cho đến mãi bây giờ” (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ “cho đến bây giờ” (HL. [h]eœs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến khi Đức Kitô xuất hiện.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
(2) Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Dù bị Đức Giêsu từ chối, dù không hiểu các ý định của Con, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng tin của Mẹ đang mở ra với vô định: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (c. 5b). Câu này khiến ta nghĩ đến lời của Pharaô: “Cứ đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo” (St 41,55). Chúng ta còn nghĩ đến các câu nói của các vị trung gian trong Cựu Ước nói lên lập trường của mình để mời gọi toàn dân chọn Đức Chúa: Tùy hoàn cảnh, vị trung gian ấy có thể là một vị ngôn sứ (Er 19,3-8; 24,3-8 [Môsê]; Gr 42-43,4 [Giêrêmia]), một vị vua (2 V 23,1-3 [Giôsigiahu]; 2 Sb 15,9-15 [Axa]), một thủ lãnh (Gs 1; 24,1-28 [Giôsuê]; Nkm 5,1-13 [Nơkhêmia]; 1 Mcb 13,1-9 [Simôn]), một tư tế (Er 10,10-12 [Étra]), một thiên thần (Lc 1,26-28 [Gabriel]). Vị này đóng vai trò sứ giả giữa Đức Chúa và các anh em mình (Dnl 5,5). Vị này mời gọi chọn lựa, nhưng bắt đầu bằng việc nhận lấy cho mình những yêu cầu của Đấng mà Người đại diện, để làm gương (x. Gs 24,15; Nkm 5,10). Do bản văn Cana gần với bản văn Sinai, chúng ta thấy Thân Mẫu Đức Giêsu có vai trò như Môsê (so sánh Ga 1,3-5 với Dnl 5,5), để rồi tại Sinai, ân ban Lề Luật đã được trao tặng sau khi Dân đã tuyên xưng đức tin; và tại Cana, ân ban rượu mới (biểu tượng của Luật mới được Đức Giêsu mang đến) đã được báo trước và tạo cơ hội cho xảy ra nhờ đức tin của Đức Maria được thông truyền cho các gia nhân.
Bản văn có một chỗ cắt ngang sau lời khuyên của Đức Maria (“Người bảo gì, các anh cứ làm theo”), để tháp vào một đoạn mô tả giúp hiểu những gì xảy ra sau đó: “Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước” (c. 6). Đoạn văn này cung cấp cho độc giả hai thông tin: a) khối lượng nước khá lớn; b) nghi thức thanh tẩy của người Do Thái. Với hai thông tin này, độc giả sẵn sàng để hiểu khá hơn những gì sẽ xảy đến.
(3) Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn
Đức Giêsu đã bảo những người hầu bàn hai câu: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi” và: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (c. 7). Các gia nhân không nói một lời, họ vâng lời thật chính xác, họ “giữ” đúng các lời Đức Giêsu truyền. Trước tiên, họ “làm đầy”, đưa đến mức hoàn hảo, những gì còn vơi, những gì chưa hoàn hảo, trong truyền thống cũ. Kế đó, họ múc nước từ những chum đá (tượng trưng Luật cũ bất toàn) đưa cho ông quản tiệc để được chứng thực (nước đã hóa thành rượu hảo hạng). Đấy chính là dấu lạ.
* Phần tường thuật (9-11)
Khi nếm nước đã biến thành rượu, “người quản tiệc… không biết rượu từ đâu ra (c. 9c)”, vì ông khơng “làm” các lời Đức Giêsu truyền, ông không “giữ” lời Người. Nhưng “còn gia nhân đã múc nước thì biết” (c. 9d), bởi vì họ đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria (cc. 7-9). Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (14,21; x. 14,23; 12,26).
“Người quản tiệc mới gọi tân lang lại và nói…” (cc. 9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại “cho đến mãi bây giờ”. Trong TM IV (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm “bạn của tân lang” (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x. “được sai đi trước”: c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay, Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30). Xem thêm Kh 19,7-8; 21,2.
Và tác giả kết luận: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này” (c. 11a): Rượu mới ở Cana không chỉ là “dấu lạ đầu tiên”, mà cũng còn là “điển hình”, “nguyên mẫu” (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm “bày tỏ” vinh quang của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của “ngày thứ ba”, của “Giờ của Đức Giêsu”, nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người. “Các môn đệ đã tin vào Người” (c. 11c), nghĩa là gắn bó với Người ấy, trong khi chờ đợi một ngày nào đó sẽ tin “vào danh Người”, nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là “Con Một Thiên Chúa”.
“Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum và ở lại đó ít ngày” (c. 12). Câu này là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] đưa sang đoạn sau.
+ Kết luận
Được mời đến Cana dự tiệc cưới, Đức Giêsu đã đến trong tư cách người bạn, có các môn đệ cùng đi theo. Thân mẫu Người cũng được mời dự tiệc. Tại đây, Người đã thực hiện “dấu lạ đầu tiên”: biến nước thành rượu ngon để cứu chữa một đám cưới. Đối với tác giả Gioan, người đã viết trong Lời Tựa của Tin Mừng: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1), thì “khởi đầu các dấu lạ” này, nghĩa là các việc kỳ diệu có chức năng chứng thực cho tư cách Mêsia của Người, chính là cách tỏ bày trong thời gian vinh quang vĩnh cửu của Người. Tác giả ghi lại “dấu lạ” này để chúng ta tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để chúng ta tin chúng ta có sự sống đời đời nhờ danh Người (x. Ga 20,30-31).
5.- Gợi ý suy niệm
- Rõ ràng là dấu chỉ tiệc cưới, nếu một đàng phong phú ý nghĩa, thì đàng khác cũng rất dị nghĩa. Tiệc cưới, dấu chỉ tự nhiên của niềm vui và niềm hân hoan, bị đe dọa bởi nỗi buồn do hết rượu. Giao ước giữa người nam và người nữ tự nó rất mỏng giòn, và cũng như mọi thực tại dưới ánh mặt trời, nó bị đe dọa bởi bạo chúa khắc nghiệt là sự chết. Tiệc cưới vẫn là một biểu tượng tích cực: nó gợi tới tình yêu, sự chung thủy, sự phong nhiêu, sự sống. Nhưng nó cũng bị đe dọa bởi nỗi buồn, sự thất trung, sự đau khổ. Bản văn Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Người biến nước của giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
- Rượu là dấu chỉ của niềm vui của Tin Mừng, của tình yêu, của Thánh Thần, của sinh lực mới tuôn trào ra từ sức mạnh của Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui sẽ đưa lễ cưới khỏi nỗi buồn, khỏi sự chán chường do Lề Luật. Và rượu vừa chan hòa vừa hảo hạng. Đời Kitô hữu không bao giờ thiếu rượu là phúc lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, có ai trong chúng ta dám nghĩ rằng mình đã sống được ngang tầm với phúc lành của Thiên Chúa? Ai dám nói rằng tính ích kỷ không bao giờ lấn lướt tình yêu nơi mình? Ai lại không bị thương tích ngày qua ngày do tội lỗi? Do đó, sự trung thành là một ơn ta phải hết lòng cầu xin. Chính ân huệ dồi dào Thiên Chúa ban giúp ta thắng vượt nỗi lo sợ về các giới hạn của đời sống chúng ta. Chúng ta bị dính cứng vào mặt đất, dễ mệt nhọc, bị đủ thứ sự dữ khống chế, chúng ta mỏng giòn và dễ bị tổn thương, nhưng niềm tin vào Chúa sẽ chiến thắng mọi sự dữ và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
- Có thể nói lời Đức Maria nói với gia nhân ở Cana là “di chúc thiêng liêng của Mẹ” (A. Serra), bởi vì đó là những lời nói cuối cùng của Mẹ được các tác giả Tin Mừng ghi lại. Đức Maria sẽ không nói nữa, nhưng Mẹ đã nói được điều chính yếu. Mẹ đâu có bổn phận mở cửa sổ khi Đức Kitô có vẻ muốn đóng các cửa ra vào! Trong tư cách là “Mẹ” của Hội Thánh, Mẹ cầu nguyện và chuyển cầu để con cái Mẹ thường xuyên mở lòng ra với các lời của Chúa Giêsu, những lời vừa nặng ý nghĩa vừa có sức giải phóng. Đấy là “những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Hôm nay, chúng ta là những gia nhân của các đám cưới, chúng ta có khôn ngoan đủ để đón nhận lời Mẹ đề nghị chăng?
- Cha M. Thurian (+1996) đã viết: “Đến cuối bài tường thuật, Đức Maria và các môn đệ làm thành cộng đoàn thiên sai, hợp nhất trong niềm tin vào Con Thiên Chúa đến biểu lộ vinh quang của Người; đó chính là nòng cốt của Giáo Hội đang vây quanh Đức Chúa của mình, mà lắng nghe Lời Người và thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Đức Maria hiện diện với cộng đoàn Giáo Hội này và ta có thể tưởng tượng ra Đức Kitô đang nhìn nhóm vây quanh mình mà nói: ‘Đây là Mẹ tôi và đây là anh em tôi; bất cứ ai thực hiện ý muốn của Cha tôi trên trời, thì người ấy là một người anh em, một người chị em, và một người mẹ đối với tôi’ (x. Mt 12,49 và các bản văn song song)”.
76. Rượu ngon sẽ không thiếu
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Trong thời của Chúa Giêsu cũng như cuộc sống hiện nay của chúng ta, rượu là một phần không thể thiếu của những bữa tiệc mừng. Rượu đem lại niềm vui, tạo bầu khí sinh động. Người xưa nói “Miếng trầu mở đầu câu chuyện”; nhưng thời nay thì dường như “Chén rượu khởi đầu câu chuyện”, vì rượu giúp người ta cởi mở với nhau và dễ dàng giao trao đổi. Niềm vui của buổi tiệc được trọn vẹn khi món ăn đủ và rượu ngon không thiếu. Tin Mừng hôm nay thuật lại một tiệc cưới dở dang hết rượu! Thế nhưng, có thể nói là chỉ hết rượu không ngon, còn rượu ngon sẽ không bao giờ thiếu. Bởi vì:
– Lòng tin và sự Quan Tâm của Mẹ Maria: Ở bữa tiệc cưới tại Cana, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu đã rất chú ý tới nhu cầu của những người khác. Mẹ nhận thấy rằng chủ nhân tiệc cưới không còn rượu để thiết đãi khách nữa. Mẹ hiểu được nỗi khó khăn nan giải này của họ, Mẹ đã đến với Chúa Giêsu và tin chắc chắn Người có thể cứu nguy ở đây. Dù rằng con của Mẹ biểu lộ ngạc nhiên về lời cầu xin, nhưng… Mẹ đã sáng kiến nói với những người giúp việc “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 5)
– Lòng tin và sự vâng lời của gia nhân: Các gia nhân nghe lời Đức Maria dặn.Vậy họ đã nhiệt tình đổ đầy nước vào sáu chum đá theo lời Chúa Giêsu đề nghị. Có thể những gia nhân cũng không biết Đức Maria và Chúa Giêsu, nhưng họ thực sự đơn sơ vâng lời và cộng tác với các Ngài. Gia nhân múc nước đổ vào chum và mang nước cho chủ tiệc nếm, hơn ai hết, họ biết chắc đó là nước, thế mà họ vẫn một lòng tin vào những lời Chúa Giêsu truyền dạy “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc. Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết.)”(Ga 2,8-9) Chúa Giêsu đã biến đổi nước thành rượu, ngon hơn rượu đã phục vụ trước đó.
– Và bởi vì Chúa Giê su tham dự tiệc cưới: Có Chúa Giê su hiện diện ở đó trong tiệc cưới. Người đã thực hiện nhiều hơn một cử chỉ quảng đại đối với đôi tân hôn và gia đình họ. Như vậy, khởi đầu sứ mạng, Chúa Giêsu công bố thời đại mới đã đến, thời mà dân đã nóng lòng chờ đợi, trong bối cảnh của một bữa tiệc cưới mà ở đó rượu ngon không bao giờ thiếu. Từ 6 chum nước dùng vào việc thanh tẩy, con số không trọn vẹn (vì là 7 thiếu 1), nói lên Luật cũ không hoàn hảo, Chúa Giêsu đã dùng để hóa thành rượu ngon, rượu của Giao Ước Mới, giao ước đã vượt qua sự giới hạn của Giao Ước cũ với hình ảnh “Họ đã đổ đầy tới miệng.”(Ga 2,7)
Qua dấu lạ này, Chúa Giêsu khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên lòng nhân hậu kỳ diệu của Thiên Chúa, khởi đi từ bữa tiệc hoàn thành một Giao Ước Mới với dân của Người và với tất cả nhân loại. Tóm lại, đó là bữa tiệc cưới giữa Chúa Giêsu -Tân Lang với nhân loại, trở thành hiền thê của Người. Chúa Giêsu sai gia nhân đưa rượu cho chủ tiệc nếm là việc của một tân lang “…ông mới gọi tân lang lại và nói: Ai ai cũng thết rượu ngon trước…còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ.” (Ga 2, 9-10) Chúa Giê su chính là Tân Lang Tiệc Cưới của Đấng Mê-si-a như lời Gio-an tẩy giả đã làm chứng: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể.” (Ga 3, 28-29) Hình ảnh Tiệc Cưới nói nhiều về Thiên Chúa và về sứ vụ của Chúa Giêsu như chúng ta thấy trong Tin Mừng (Mt 22,2-10. 25,1-3; Lc, 14,8-11. 12, 36).
Ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn tiếp tục được mời dự tiệc cưới với Tân Lang Giêsu trong mỗi Thánh Lễ và vui mừng chuẩn bị đến dự Tiệc Cưới Cánh Chung. Cùng với Mẹ Maria, Mẹ của những kẻ tin, chúng ta mời Chúa Giêsu đến nhà chúng ta, tham dự và chia sẻ với chúng ta trong từng chi tiết của cuộc sống. Có Chúa hiện diện, chắc chắn Chúa sẽ can thiệp, cứu giúp gia đình chúng ta trong những lúc thiếu rượu của tình yêu, của cảm thông, của sự ấm áp…Và có Chúa, chúng ta sẽ có đầy ắp rượu ngon tin yêu.
Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Chúa ban thêm đức tin và hướng dẫn chúng con. Xin Chúa ở lại trong chúng con và dạy chúng con biết làm tất cả những gì Người nói với chúng con. Amen.
77. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Chú giải của Noel Quesson)
Bài trình thuật tiệc cưới ở Cana được Gioan, một nhân chứng trực tiếp, kể lại. Điều đó bảo đảm sử tính của câu chuyện. Nhưng Gioan, cũng như các thánh sử khác trước hết không có ý định mô tả cho chúng ta một đám cưới làng quê vào thời kỳ ấy. Sự kiện lịch sử ấy được suy gẫm lâu dài trong năm, sáu mươi năm trở thành một cơ hội cho Gioan dạy giáo lý với tư cách một nhà thần học. Chúng ta cũng thế, chúng ta phải cố vượt qua tính chất giai thoại của câu chuyện bước vào cách giải thích “tượng trưng” sâu xa: Sự kiện ấy là một “dấu chỉ”. Nó có một “ý nghĩ” ẩn giấu.
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê.
Khi Gioan viết những từ “ngày thứ ba” ấy thì trong ngôn ngữ của các Kitô hữu tiên khởi, đó là một lối diễn tả gần như là thuật ngữ và lập tức gợi lại “ngày vinh quang” của Đức Gỉêsu: Ngày sống lại (Mt 16,21 – 17,23 – 20,19; Lc 9,2-18 – 33-24, 7; Cv 10,40).
Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Trong phần đầu Tin Mừng của mình, Gioan chỉ nhắc đến Đức Maria trong trình thuật tiệc cưới ở Cana này và ở phần cuối Tin Mừng lúc Mẹ đứng dưới chân thánh giá…mà không cho biết tên Maria của Mẹ, nhưng chỉ xác định Mẹ trong mối quan hệ với Đức Giêsu… đó là “Mẹ Người “!
Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”
Giờ của Đức Giêsu cũng là một cách diễn tả về cuộc khổ nạn (Ga 7,30 – 8,20 – 13,1 – 16,25 – 16,32). Đây là giờ độc nhất, một cách chính xác, đó là giờ Người được vinh quang: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh con bên Cha, xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,l-5). Giờ vinh quang của Đức Giêsu diễn ra trong ba giai đoạn: Đó là thập giá, Người được “nâng lên” về mặt thể xác và một cách tưởng tượng… đó là sự sống lại, Người được “nâng lên” bên hữu Chúa Cha… và đó là sự tuôn đổ của Thánh Linh cho các tín hữu… (Ga 3,14 – 8,28 – 12,32 – 17,11 – 17;13 – 17,39). Như thế, người thợ mộc ở Nadarét được mời tham dự tiệc cưới trong một ngôi làng nhỏ lân cận, cho chúng ta khám phá “hữu thể” sâu xa của Người, xuyên qua các lời nói và cử chỉ: Vinh quang của Thiên Chúa ở trên Người. Người nói rằng “Giờ của Người” chưa đến. Nhưng giờ ấy sẽ đến! Khi người ta mời ông Giêsu này đến dự tiệc cưới thì họ đã mời chính Thiên Chúa Tạo Hóa của tình yêu! Một mầu nhiệm ẩn giấu trong lòng của tình yêu đôi lứa.
Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”
Bề ngoài kiểu nói ấy xem ra tầm thường. Vả lại, đó chính là một trích dẫn từ Kinh Thành. “Toàn xứ Ai Cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharaô xin bánh ăn. Pharaô nói với mọi người Ai Cập: “Cứ đến với ông Giuse, ông bảo gì, các ông hãy làm theo” (St 41,55). Vua Pharaô nhận biết Giuse có sự khôn ngoan của Thần Khí Thiên Chúa nên đã nhún mình trước mặt Giuse và đã chỉ cho những người nghèo khổ đói khát đến với Giuse như đến với một người có thể lấp đầy sự khốn khổ của họ.
Giờ đây, chính Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”. Ở đó, đang thiếu rượu… và có lẽ, nào ai biết được, “tình yêu’ cũng thiếu… Cuộc vượt qua là sự ra khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết: “Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta “không thể còn làm được gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc đó… Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng duy nhất có thể cứu: “Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo”.
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết)
Không một chi tiết nào ở đây là bởi sự ngẫu nhiên.
Chúng ta thử hiểu một nửa chữ thôi…
“Sáu chum đá… Người xưa thường thích ý nghĩa tượng trưng của các con số. Bảy là con số của sự hoàn hảo. Bảy kém một là hình ảnh của sự bất toàn.
“Dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái nước dùng để tắm rửa trong việc phụng tự. Những chum đá ấy là dấu chỉ một tình trạng lạc hậu lỗi thời của các tập tục tôn giáo giờ đây đã bị vượt qua. Đức Giêsu đến thay đổi, hoàn tất tôn giáo của người Do Thái. Nước trở thành rượu!
“Họ đổ đầy tới miệng…”. Dấu chỉ dư dật, phong phú, tràn đầy mọi ơn lành của Đấng Mêsia mà Đức Giêsu khởi đầu trong “dấu chỉ” đầu tiên này, quả thật là điên rồ và thái quá 600 lít rượu nho! Cả làng sẽ uống say sưa!
“Rượu”… Một biểu tượng xưa của Kinh Thánh (Tl 9,13; Thánh Vịnh 104,15.v…) Trái nho là một sản phẩm rất được ưa chuộng của đất đai: nó làm cho lan tỏa niềm vui và sự sảng khoái, nó làm cho phấn khởi lòng người”. Các thời đại của Đấng Mêsia được loan báo bằng các hình ảnh bữa tiệc ở đó rượu chảy thừa mứa: “Đức Chúa sẽ mở tiệc cho mọi dân tộc, một bữa tiệc với thịt béo và rượu nồng”(Isaia 25,6; A-mốt 9,14.; Ôsê 2,16-15,5; Giôen 4,18; Giê-rê-mi-a 3 1., 12; Diễm ca 2,4 v.v…)
Vả lại chúng ta chớ bao giờ quên rằng Gioan viết Tin Mừng của Người khoảng năm mươi hoặc sáu mười năm sau biến cố Cana, vào một thời kỳ mà cộng đoàn Kitô hữu đã hội họp từ nhiều năm rối để dùng bữa ở đó một thứ “rượu’“ mầu nhiệm được róc ra. Làm thế nào mà bữa ăn đầu tiên này của Đức Giêsu ở Cana lại không nhắc họ nhớ đến bữa ăn cuối cùng khi Đức Kitô đã biến rượu thành máu của Người… trong sự chờ đợi bữa tiệc quyết định mà Đức Giêsu đã loan báo: “Từ nay Thầy không còn uống thứ rượu nho này cho tới ngày Thầy sẽ uống rượu mới trong Vương quốc của Cha Thầy”.
Phúc thay cho những người được mời đến bàn tiệc của Thiên Chúa.
Mỗi lần bạn uống được rượu ngon, bạn hãy nghĩ về Thiên Chúa đã dùng rượu làm một “dấu chỉ” về Người. Thiên Chúa muốn mềm vui. Thiên Chúa không muốn chúng ta thiếu niềm vui, thiếu tình yêu, mỗi thánh lễ là một dấu chỉ về Người, một bí tích. Mỗi thánh lễ là máu của Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Người.
Ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”.
Sự lầm lẫn này có ý nghĩa biết bao: Khi lẫn lộn tân lang với Đức Giêsu, người quản tiệc đã lầm! Trong một vài dòng của Tin Mừng, Gioan Thánh sử sẽ nói rõ ràng rằng “tân lang” đích thực, chính là Đức Giêsu (Ga 3,29).
Chúng ta thấy ở đây điểm then chốt đem lại lời giải thích chủ yếu cho dấu chỉ Cana…”. Đây là rượu của tiệc cưới mới, đây là chén của Giao ước mới trong máu ta”. Những lời ấy chúng ta biết rõ thường lướt quá nhanh trong trí óc đã quen thuộc của chúng ta. Thánh lễ, mầu nhiệm của tình yêu!
Một truyền thống lâu dài và khả kính của Cựu ước đã giới thiệu Thiên Chúa như tân lang của nhân loại. Isaia trong bài đọc một của chúa nhật này vừa nói với chúng ta “sự ngỏ lời tình yêu” nóng bỏng như một đam mê của người si tình: “Người ta sẽ không còn gọi em “cô gái bị bỏ rơi” nhưng người ta sẽ gọi em là “cô gái được yêu thích”, người ta sẽ gọi xứ sở của em là “Tân nương của Ta”… Như một thanh niên cưới một thiếu nữ làm vợ, Đấng đã xây dựng em, sẽ cưới em làm vợ. Như người vợ trẻ là niềm vui của chồng mình cũng thế, em sẽ là niềm vui của Thiên Chúa em” (Isaia 62,1-5; ô8ê 2?21; êdêkien 16,8). Toàn bộ Tân ước đã lấy lại hình ảnh vợ chồng ấy (2 Cr 11,2; Ep 5,25; Kh 21,2 – 22,17 v.v…).
Vả lại như bạn đã nhận thấy, ở tiệc cưới Cana, cô dâu không được kể ra. Không kỳ lạ sao! Chúng ta không gặp một đám cưới bình thường. Nếu Đức Giêsu là Tân Lang thật sư tân nương thật sự là người “phụ nữ” mà Người đã gọi bằng một từ ngữ mang tính tượng trưng sâu sắc: ‘Thưa Bà!”. Tân nương của Thiên Chúa, chính là Israel chờ đợi “giao ước mới” khi thừa nhận mình không.,còn rượu nữa. Israel ấy, dân tộc được Thiên Chúa cưới trong giao ước mới, rồi đây sẽ là Giáo Hội. Và Đức Maria đại diện cho cả hai: bà là “con gái của Israel” và khuôn mặt của Giáo Hội”. Như thế, Tân nương không được nói tên trong tiệc cưới đó chính là chúng ta: Thiên Chúa yêu thương bạn… Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô… trong khi vui cũng như trong lúc buồn!
Chúng ta sống trong một thời đại mà khủng hoảng của tình yêu vợ chồng trở nên bi đát: Tình yêu dường như bị mất phương hướng, người ta ca tụng sự kết hôn tự do, người ta sống chung mà không muốn làm lễ cưới, không muốn mở tiệc mừng tình yêu, không muốn nhận trách nhiệm đối với người khác, đối với con cái sẽ được sinh ra… Biết bao cặp vợ chồng mau chóng lìa tan, lúc mới bắt đầu cũng vui vẻ đấy, nhưng rồi trở nên nhạt nhẽo, tầm thường như nước ốc! Nhưng trong bối cảnh ấy, những cặp vợ chồng vững chắc nhất cũng không tránh khỏi nhận xét bi đát: Họ không còn rượu nữa!”. Chính tình yêu đang thiếu thốn. Chỉ Đức Giêsu mới có thể ban lại tình yêu cho chúng ta. Hãy hiệp thông vào chén của Đức Giêsu, uống rượu của Người, chính là uống nơi suối nguồn yêu thương, đã hiến dâng tất cả và yêu thương cho đến cùng” (Ga 13,1).
Trong nhiều thế kỷ, các nhà thần học băn khoăn tìm hiểu cuộc sống nào cao cả hơn, cuộc sống “hôn nhân” hay cuộc sống “độc thân”. Tuy nhiên chúng ta chớ nên quên ngôn ngữ của Kinh Thánh nói về một Thiên Chúa – Tình Quân. Chúng ta hãy để cho sự dịu dàng của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta. Nếu bạn đã kết hôn, vợ chồng bạn là “dấu chỉ”, nghĩa là “bí tích”, “sự biểu lộ” của Tình Yêu Thiên Chúa. Nếu bạn sống độc thân. không phải bạn “không có tình yêu”, bạn cũng đã được cưới bởi một tình yêu cao cả nhất phải có! Nhưng bạn sống đời sống hôn nhân, hoặc đời sống độc thân của bạn như thế nào? Vấn đề ở đây không phải là sự thiết lập bí tích hôn nhân trong Tin Mừng. Nhưng đối với những ai hiểu được “dấu chỉ” của tiệc cưới Cana, điều đó chẳng cần thiết hay sao?
Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
Bên ngoài tính giai thoại, ở đây chính Gioan thánh sử cho chúng ta lời giải thích về câu chuyện của ngài: Đức Giêsu bày tỏ căn tính của Người… các môn đệ đã bắt đầu bước vào đức tin… “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người”.(Ga 1,14).
78. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Chú giải của Fiches Dominicales)
TIỆC CƯỚI Ở CANA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Từ một tiệc cưới làng quê… đến những tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người.
Chúa nhật trước chúng ta đã chú ý đến bài tường thuật của Mátthêu về ba nhà đạo sĩ, một bài rất giàu ý nghĩa biểu tượng. Bài tường thuật của Tin Mừng Gioan về tiệc cưới ở cana mở đầu cho “Cuốn sách về các Dấu chỉ” cũng giống như vậy. Và như A. Marchadour cảnh giác, chắc chắn rằng qua câu chuyện được kết cấu như thế, “tốt hơn ta nên, từ bỏ ý nghĩ muốn biết đích xác sự việc xảy ra như thế nào. Thánh Gioan là người vốn thích nhìn từ một sự việc cụ thể đích thực để nhận ra ý nghĩa thần học tiềm ẩn, cột làm cho lịch sử có được nét sáng giá hơn” (L’Evangile de Jean, Centurien, 1992, tr. 55).
Việc giới thiệu các nhân vật và quan hệ hỗ tương của họ là chìa khoá thứ nhất dẫn vào lối đọc ý nghĩa biểu tượng của trình thuật này.
+ Thực vậy, các nhân vật mà người kể chuyện nói đến là “Đức Giêsu”, “thân mẫu Đức Giêsu”, các “môn đệ” Người, rồi ở phần tiếp của đoạn văn có người “quản tiệc” và “tân lang”.
+ Theo A. Marchadour nhận xét, tất cả những nhân vật này, đều được giới thiệu quy chiếu về Đức Giêsu: thân mẫu Người, các môn đệ Người. Các môn đệ sẽ không có vai trò chủ động nào, nhưng lại quan trọng, đồng thời là chứng nhân của cảnh tượng và là những con người được biến đổi: cuối chuyện các ông trở thành những con người có lòng tin (Sđd.)
+ Còn chính tân nương sẽ không có vấn đề gì hết.
– Một chìa khóa khác đó là sự lặp đi lặp lại từ “tiệc cưới” ở đầu bản văn (c.1.2) rõ ràng là có ý làm nổi bật ý nghĩa biểu tượng của câu chuyện, tiệc cưới chỉ là cái khung để lồng những biểu tượng ấy.
Qua khắp cả Kinh Thánh, từ sách tiên tri Ô-xê cho đến sách Nhã Ca, Thiên Chúa luôn được trình bày như tân lang của dân Người là Israel. Giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và Israel là một giao ước hôn nhân, nghĩa là bền chặt, không thể tiêu huỷ được; giao ước ấy dựa trên nền tảng là tình yêu trọn vẹn và hỗ tương. Chính Tân Ước cũng thường xuyên sử dụng chủ đề này.
Chính chủ đề này được quảng diễn ở đây, trong bài tường thuật của thánh Gioan. Bên kia buổi lễ cưới của những cặp vợ chồng trẻ ở cana, thánh sử muốn hướng tầm nhìn của ta vào cảnh khai trương một cuộc lễ khác, cho những tiệc cưới khác: Lễ cưới của Thiên Chúa với dân Người trong Đức Giêsu Kitô Con Người, mà các ngôn sứ đã loan báo.
- Từ nước của luật cũ… đến rượu nho của giao ước mới.
Càng chú ý đọc bài tường thuật này, người ta càng thấy rõ góc độ biểu tượng này.
– Gioan đã đặt biến cố vào “ngày thứ ba”. Có phải coi biểu xác định thời gian vắn vỏi được nói ở đây, theo J.B. Michaud hiểu, là muốn đưa về mạc khải mà Gioan có ý nói đến ở 1, 51 chăng? Nói cho đúng, theo như X. Léon-Dufour, há người ta chẳng đọc thấy ở đây ý hướng của người kể chuyện là rnuốn cho câu chuyện này có liên hệ với những biến cố vĩ đại của lịch sử thánh cũng xảy ra vào “ngày thứ ba” như: hiến tế Isaac, trong St 22,4, Chúa hiện ra trên núi Sinai trong Xh 19, 11 đấy sao? Việc “xác định ngày tháng” này có lẽ muốn loan báo “một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giao ước” (Lecture de l’Evangile selon Jean, cuốn 1, tr. 222). Sau cùng, như A. Marchadour gợi ý, phải chăng việc ghi chú “ngày thứ ba” như thế muốn gợi nhớ lại biến cố Phục sinh, ngày thứ ba lúc Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang, và lúc ấy các môn đệ đã tin.
– “Họ hết rượu rồi”, lời nói này của “thân mẫu Đức Giêsu” bỗng dưng khiến người ta phải chú ý.
+ Ta đừng quên rằng rượu nho là đồ uống trong ngày lễ, nhất là lễ cưới thường kéo dài nhiều ngày nên phải lo dự trữ sao cho đủ rượu nho cũng là biểu tượng các tiệc cưới mang tính thiên sai giữa Thiên Chúa với dân Israel mà các ngôn sứ hằng ca ngợi và trông đợi.
+ Sự cố thiếu rượu là điểm khởi đầu câu chuyện. Tác giả không quan tâm đến lý do của sự thiếu rượu cho bằng ý nghĩa biểu tượng của sự kiện đó: nỗi khốn khó và lòng dân Israel trông đợi ân huệ Chúa ban.
+ Chính Đức Maria “thân mẫu Chlía Giêsu” – Gioan luôn dùng từ này để gọi Đức Maria – có sáng kiến báo cho Đức Giêsu biết nhà đám thiếu rượu.
– “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và con”. Câu trả lời là khá bí ẩn.
+ Trước hết Đức Giêsu xưng hô với mẹ Người không phải bằng tiếng “má” (imma), tương đương với tiếng “ba” (abba), mà lại dùng tiếng “Bà”.
Ta đừng coi đây như một lời lẽ thiếu kính trọng nào đó, cũng đừng coi đó là một lúc bực mình bột phát. Kiểu gọi Đức Mẹ như thế ở đầu Tin Mừng Gioan và một lần nữa ở cuối Tin Mừng, khi ở trên Núi Sọ thiết tưởng nên được đặt ở một bình diện tương quan khác với bình diện của đời thường và của gia đình.
+ Rồi phần tiếp theo của câu trả lời càng củng cố điều ta vừa nói ở trên: “Chuyện đó can gì đến Bà và con”. Đó là một kiểu nói Do Thái nhằm từ chối một sự can thiệp chưa hợp thời, chưa đúng lúc, đồng thời cho thấy có sự hiểu lầm giữa người nói và người nghe. Các dịch giả và các nhà chú giải Kinh Thánh thì cố gắng lựa lời để làm dịu đi vẻ cứng cỏi của kiểu nói này. Như A. Marchadour gợi ý, cách trả lời của Đức Giêsu, phải chăng là “tạo một khoảng cách: Chúa muốn thúc giục thân mẫu Người đi xa hơn, vượt lên chức năng làm mẹ theo huyết nhục, để sinh ra làm người môn đệ nữa” (Sđd, tr. 56).
– “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”, Đức Maria nói ngay với những gia nhân. Hưởng ứng lời kêu gọi của con, Đức Maria đã vượt khoảng cách để trở thành người môn đệ đầu tiên.
Mấy lời trên đây mà bài tường thuật đặt vào môi miệng Đức Maria chứa chất biết bao ký ức xa xăm về Kinh Thánh:
+ Nó gợi nhớ lời vua Pharaô nói với dân Ai Cập đến xin lương thực: “Hãy đến cùng Giuse, Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (St. 41,55). Hình ảnh Đức Maria mờ nhạt đi trước Đấng đang làm ứng nghiệm những lời tiên tri loan báo, một Giuse mới đang cho dân ăn, đưa dân từ thiếu thốn đến sung túc.
+ Nó gợi nhớ lời đáp lại của dân Chúa trước đề nghị của Giao Ước khi tụ họp ở núi Sinai: “Mọi điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo” (Xh. 19.8). Ở đây, ngay lúc khởi đầu Giao ước mới, thánh sừ đặt vào môi miệng Đức Maria lời tuyên xưng đức tin của dân đượlc tuyển chọn. Thánh sử giới thiệu Ngài là hình ảnh của Israel mới.
Bài tường thuật tiếp tục “Ở đó, có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái”. Thật là kỳ lạ, thay vì những vò đất nung hay những bình da người ta dùng đựng rượu trong tiệc cưới Cana, và những bình ấy chắc hẳn đã cạn hết rượu rồi, thì Đức Giêsu lại bảo những người giúp việc đổ đầy nước vào các chum đá vốn không đựng rượu, mà đựng nước dùng vào việc “thanh tẩy theo thói tục người Do Thái”. Và chính từ những cái chum đá đổ đầy nước “tới miệng” này (chừng 700 lít) mà các gia nhân sẽ múc rượu ngon ra, thứ rượu ngon hơn rượu đãi lúc đầu, “người quản tiệc” xác nhận như vậy.
Việc nước hóa thành rượu trong bữa tiệc cưới ở làng quê tượng trưng cho Luật cũ chuyển qua Luật mới. Rượu nho của thời đại cứu thế thay thế cho nước của giao ước đầu tiên.
- Từ khởi đầu các dấu lạ … đến “Giờ” thực hiện.
– Bài tường thuật về tiệc cưới Cana mở đầu “Sách các dấu lạ” sẽ kết thúc ở 12,50, để từ đó sẽ khởi đầu “Sách về Giờ của Đức Giêsu”.
+ Thánh sử lưu ý: chúng ta đang ở vào thời kỳ “khởi đầu các dấu lạ”. Khi làm “dấu lạ” đầu tiên này, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các người thân của mình biết thân thế và sứ mệnh của Người. Cana đánh dấu bước thứ nhất trên con đường đức tin của các môn đệ: “Các môn đệ đã tin vào Người”.
Nhiều “dấu lạ” khác sẽ theo sau: hóa bánh ra nhiều (Ga 6), chữa người mù bẩm sinh (Ga 9), cho Ladarô sống lại (Ga 11) sẽ triển khai mạc khải ban đầu kia và góp phần làm nên những chặng đường trong hành trình đức tin của các môn đệ. + Nhưng “Giờ Người chưa đến”, Đức Giêsu tuyên bố như thế. Giờ nhiệm mầu ấy sẽ đan xen cả giờ khổ nạn, giờ được tôn vinh, lẫn giờ tràn đầy ơn ban của Chúa Thánh Thần. Để rồi trong ánh sáng rạng ngời của mầu nhiệm Vượt qua, mọi ý nghĩa đều được sáng tỏ và các môn đệ sẽ trở thành những con người gắn bó hoàn toàn với Đức Giêsu, nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa.
+ Về phần “thân mẫu Chúa Giêsu”, Người “ở đó” để chứng kiến dấu lạ khai mào Giao ước mới: “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và con?”, cũng như Người sẽ “ở đó, gần thập giá” (19,25) lúc “Giờ” đóng ấn Giao ước mới trong máu, sẽ điểm, lúc ấy, Đức Giêsu sẽ nói với thân mẫu Người rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Thân mẫu Đức Giêsu có mặt lúc “khởi đầu” thì Người sẽ có mặt khi “hoàn tất” (cf. 19,30: “Thế là đã hoàn tất”).
– Bài tường thuật này được viết sau biến cố Phục sinh.
- Marchadour kết luận: “Phép lạ ở Cana, được viết cho các tín hữu đọc, vì họ là những người đã có kinh nghiệm về niềm tin Chúa phục sinh là đã đoạn tuyệt với Do Thái giáo. Kết cấu câu chuyện cho ta thấy rõ điều đó. Mở đầu và kết luận đặt người đọc trong bối cảnh phục sinh… Toàn bộ bài tường thuật mô tả việc chuyển từ Do thái giáo sang Kitô giáo được thực hiện như thế nào trong Đức Giêsu.
Thân mẫu Đức Giêsu có mặt ở đó có nghĩa là nhờ Người mà lễ hội giao duyên giữa Thiên Chúa và loài người trở thành khả dĩ. Người dẫn đưa Israel mới (mà các gia nhân ở đây là biểu tượng) đến cùng Đức Giêsu. Nhưng khi nói với gia nhân: Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”, thì chính Người lại đóng vai người phụ nữ, hình ảnh Israel mới phải phục tùng con mình. Rượu vừa nhiều vừa ngon ám chỉ rằng thời đại Đấng Cứu Thế vui như ngày hội đã bắt đầu và từ nay rượu sẽ không bao giờ thiếu. Một giáo phụ tự hỏi: “Người ta đã uống cạn chăng? Không, vì hiện giờ chúng ta vẫn còn uống” (Sđd, tr. 58).
BÀI ĐỌC THÊM
- “Rượu nho mới”
(G. Bessière, trong “Dieu si proche. Năm C”, DDB, trg 83-84).
Đức Giêsu có mặt trong tiệc cưới mừng cho tình yêu của cặp trai gái làng Cana. Người sắp làm phép lạ đầu tiên trong tiệc vui này. Bài tường thuật của thánh Gioan về tiệc cưới ấy dọi một tia sáng vào quá khứ của Israel, vào tương lai của Đấng Chúa sai đến và vào đời sống của Giáo Hội.
Thời Môsê, Êlia, Êlisê, Thiên Chúa đã làm những dấu lạ để củng cố sứ mệnh của các vị ấy thế nào, thì Người cũng sắp chứng thực sứ mệnh của Đức Giêsu như vậy khi cho Người thực hiện những tiệc lạ lùng: đó chính là những “dấu chỉ”. Trong Kinh Thánh, rượu nho thường là biểu tượng ơn khôn ngoan do Lời Chúa ban cho. Rồi đây Đức Giêsu sẽ là Người được ban tặng ơn ấy một cách dồi dào và triệt để.
Đức Giêsu hóa nước thành rượu trong sáu chum đá dùng cho nghi thức thanh tẩy mà người Do Thái vốn tuân giữ rất cặn kẽ; chi tiết này ám chỉ rằng Đức Giêsu sắp mang đến một sự canh tân cho Do Thái giáo. Lúc ấy, ở đó có sáu cái chum: số sáu được coi như con số không hoàn toàn muốn chỉ tỏ rằng quá khứ phải nhường chỗ cho một tương lai mới.
Sách các Ngôn sứ thường ví dân được tuyển chọn như một hôn thê bất trung, bội tín. Nên với sự hiện diện của Đức Giêsu, bây giờ là lúc những tiệc cưới giữa Thiên Chúa và nhân loại đã dứt khoát bắt đầu. Đây là những tiệc cưới mà “Giờ” chưa đến: tiệc của rượu nho trong bữa Tiệc ly và của máu trên thập giá, tiệc Thánh Thể, trung tâm đời sống của Giáo Hội vẫn tiếp tục ca tụng thứ rượu nho của những tiệc cưới đời đời.
Đức Giêsu chính là rượu nho được Thiên Chúa ban một cách hào phóng là là giao ước luôn luôn mới.
- Vương quốc mới được khai trương
Ta phải vượt lên Cana là buổi lễ ở làng quê hôm đó để có thể nắm bắt được những luồng tư tưởng lớn của các ngôn sứ vẫn xuyên suốt lịch sử Thánh. Phải tìm lại những dấu chỉ của giao ước là tất nhiên là những tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Việc Đức Giêsu khởi sự làm những dấu lạ, rõ ràng loan báo vương quốc mới, triều đại của Đấng Mêsia. Ngày ấy được ngôn sứ Isaia mô tả là ngày mà Chúa toàn năng sẽ khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn đầy thịt cùng các món hảo hạng với rượu ngon nổi tiếng… Ngày ấy người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng trông đợi” (Is 25, 9).
Vương quốc mới được khai trương Đấng cứu độ được loan báo và được hứa cuối cùng thì cũng đã có mặt đây rồi. Đã hết rồi những lề luật khắc khe, những nghi thức thanh tẩy được tượng trưng bằng sáu cái chum, một con số nói lên sự bất toàn. Từ nay những cái đó không còn giá trị nửa. Phải nhường chỗ cho một giao ước tình yêu; với giao ước đó; Thiên Chúa trở nên rất gần gũi, gần gũi đến độ trở nên một người ở giữa chúng ta. Phải nhường chỗ cho những niềm vui của tiệc cưới và cho thứ rượu nho mới của Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đến làm đảo lộn những tập quán, phá bỏ những truyền thống và không quan tâm đến những thói vụ luật.
79. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
TIỆC CƯỚI CANA
- “Phúc âm các dấu lạ” (2,1-12,36) bắt đầu với chủ đề mà phần cuối của lời tựa đã loan báo: “Luật đã được ban nhờ Môisen, ân sủng và chân lý thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (1,17). Chủ đề này gắn liền với việc canh tân phổ quát mà thời thiên sai phải sống (Kh 21,5: “Này đây Ta dựng vũ trụ mới”). Nhưng đây không phải là một trật tự cổ xưa được hoàn thiện nhờ trật tự mới (nhãn giới của Phúc Âm nhất lãm, nhất là của Mt); hai trật tự này đối nghịch nhau, để làm nổi bật siêu việt tính của trật tự mới. Văn mạch cho thấy cuộc tranh luận với dân Do thái là những kẻ luôn bám vào Môisen và không chịu nhìn nhận Môisen là người chuẩn bị cho Chúa Giêsu (5,45t; 9,28t). Trật tự mới được đức Kitô thiết lập, không phải là sự thành tựu của trật tự cũ, nhưng đối nghịch với lề luật của Môisen mà dân Do thái lấy làm đủ. Trong đoạn này, trật tự mới và cũ được xét đến trong toàn thể (2,1-11), hay trong những yếu tố chính yếu: việc phượng tự (2,13tt; 4,20tt), việc tái sinh (3,5tt; 4,14).
Thật vậy, trong 4 chương đầu tiên, Chúa Giêsu cố gắng cho thấy, chính Ngài có bổn phận thiết lập một nhiệm cục mới trổi vượt giao ước cũ. Trong lời tuyên bố long trọng cùng Nathanael (1,51): “Người Israel đích thực không có gian dối trong mình” (1,47), Chúa Giêsu hứa cho Israel mới thấy các thiên thần lên xuống, không phải lên một nơi nào đó như ở Béthel (Stk 28,10-17), nhưng trên con người được tôn vinh, Đấng sẽ là “nhà Thiên Chúa và cửa thiên đàng” trong nhiệm cục cứu rỗi Kitô giáo. Trình thuật tiệc cưới Cana nhắm đến giao ước mới, và rõ ràng hơn nữa nhắm tới rượu thiên sai của bí tích Thánh Thể; việc đuổi dân buôn bán ra khỏi đền thờ làm nghĩ đến ngôi đền thánh hoàn hảo là thân xác Đấng phục sinh: cuộc đối thoại với Nicôđemô bàn đến vấn đề tái phát sinh phát xuất từ Thánh Thần; cuộc tiếp xúc với bà xứ Samaria đặt đối nghịch phụng tự cổ xưa với phụng tự mới trong tinh thần và chân lý.
- Đoạn văn đơn sơ của chúng ta (xảy ra trong bối cảnh buổi lễ cưới nhà quê) xem ra đơn sơ, và người ta có khuynh hướng đồng hóa nó với những trình thuật phép lạ trong phúc âm nhất lãm. Tuy nhiên câu kết luận (2,11) tiềm tàng những dấu hiệu đặc thù của Gioan – “dấu lạ đầu tiên” “Ngài tỏ vinh quang”; “Các môn đệ tin vào Ngài” – Những đặc điểm này mời gọi độc giả, qua những hình thức bề ngoài, khám phá tầm mức đích thực của hoạt động Chúa Giêsu. Ngoài câu trả lời của đức Kitô với mẹ Ngài (2,4) xem ra bí mật và nghiêm khắc, và người ta cũng không hiểu gì hơn sau việc can thiệp của Maria. Tuy nhiên, xem ra Maria không lo lắng, và Chúa Giêsu cuối cùng đã làm phép lạ, mà thoạt tiên tưởng như Ngài từ chối.
Về đoản văn này, có nhiều cách giải thích, thường hoàn toàn xa lạ với nhãn giới Gioan. Các nhà chú giải công giáo đã nghiên cứu đoản văn này dưới khía cạnh thánh mẫu học (mariologique). Để có thể hiểu đoạn này cần phải tôn trọng hai nguyên tắc hiển nhiên: một là đoản văn phải được soi sáng nhờ văn mạch của Gioan, hai là phải phân biệt cách thức trình bày (niveau rédactionnel) và thực tế cụ thể (niveau anecdotiquec) của các sự kiện lịch sử. Chúng ta thử xem đâu là những đặc điểm của nhãn giới Gioan (trình độ biên tập).
a/ Ý nghĩa biểu tượng của phép lạ này. Gioan gọi phép lạ này là một dấu chỉ (c.11), như những phép lạ khác. Dĩ nhiên các dấu lạ khác của phúc âm thứ tư cũng có một giá trị biểu tượng: việc hóa bánh ra nhiều minh chứng Chúa Giêsu ban bánh hằng sống và chính Ngài là bánh ấy (6,36.51), việc chữa lành người mù từ khi mới sinh nhằm biểu lộ Chúa Giêsu như “ánh sáng trần gian” (9,5); việc Lazarô sống lại minh xác Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống (11,25). Như vậy, nước, rượu và việc hóa nước thành rượu phải ám chỉ những thực tại vượt quá bề ngoài hữu hình. Nước biểu thị trật tự tôn giáo Do thái: như thánh Gioan lưu 6 chum đá được “dùng theo tục lệ thanh tẩy của người Do thái” (c.6) và chúng ta biết những nghi lễ thanh tẩy là một trong những đặc tính chính việc sống đạo của dân Do thái (Mc 7,3t). Ngược lại, chính Chúa Giêsu đã nói đến rượu thuộc trật tự tôn giáo mới mà Ngài thiết lập (Mc 9,17 và song song); chén rượu, trong bữa tiệc ly, được liên kết với việc thiết lập giao ước mới (Mt 26,27-29 và song song); Cựu Ước đã biết đến rượu, biểu tượng của hạnh phúc cánh chung (Stk 49, 11t; Is 21,6; J 14,18). Do đó dấu lạ Cana biểu thị việc thay thế toàn trật tự tôn giáo cổ xưa, bằng trật tự tôn giáo mới. Lượng rượu trùng hợp với sự phong phú của ân sủng (1,16) và sự sống (7,38) mà Gioan đề cập như là đặc điểm của trật tự mới được đức kitô thiết lập.
b/ Những người đối thoại với Chúa Giêsu thường không hiểu. Trong phúc âm thứ tư, những người tiếp xúc với Chúa Giêsu thường chỉ lưu tân đến vấn đề vật chất: dân Do thái chỉ thấy đền thờ được xây cất từ 46 năm (2,20); Nicôđem hạn hẹp trong sự sinh sản thể lý (4,13-14); bà xứ Samari chỉ nghĩ đến nước giếng Giacop (4,11-12.15); dân Do thái xin phép lạ bánh Manna (6,30tt). Chúa Giêsu cố gắng đưa các đối thoại viên đến một trật tự khác, nhưng thường không mấy ai hiểu Ngài. Tại sao? Vì Ngài là con người siêu việt “từ trời xuống” (3,13.31). Con người và sứ điệp của Ngài vượt quá trí hiểu loài người. Họ chỉ có thể hiểu, nhờ sự trợ giúp của Thánh Thần (16,12-14), Đấng chỉ được ban sau khi đức kitô hiển vinh (7,39).
Vì thế, không lạ gì khi mẹ Chúa Giêsu không hiểu điều con mình nói (2,4). Lc 2,48 cũng ghi lại một chuyện tương tự. Cũng như các đối thoại viên của Chúa Giêsu, trong phúc âm thứ tư, Maria một cách nào đó ở vào một bình diện xa cách Con mình. Do đó, khi gọi mẹ là “Bà”, Chúa Giêsu muốn đồng hóa mẹ với các người Ngài gặp.
c/ Sáng kiến làm phép lạ. Những phép lạ Chúa Giêsu ghi lại không bao giờ được thực hiện theo ý người xin. Viên sĩ quan xin Chúa đi chữa lành con mình, phải tin Ngài, dù ở xa, đã chữa lành bằng lời Ngài phán (4,50). Người bất toại chỉ mong có người giúp anh đi xuống hồ nước, và này Chúa Giêsu đã chữa lành anh bằng lời Ngài (5,7-9). Chính Chúa Giêsu tự quyết định nuôi dân (6,5-13) và chữa lành người mù từ khi mới sinh ra (9,3-7). Chị em Lazarô nài xin Chúa Giêsu đến chữa lành em mình, nhưng Ngài vẫn ở lại chỗ thêm hai ngày (11,3-7), để rồi sau đó cho Lazarô sống lại.
Đức Kitô trong phúc âm Gioan không bao giờ trói buộc vì lời con người nài xin. Đường Ngài phải đi, và ngay cả những hoàn cảnh nhỏ nhặt, đều được Cha Ngài chỉ định, chứ không phải ai khác. Do đó, Chúa Giêsu không thể dễ dàng chấp thuận sự “chạy chọt” của mẹ Ngài. Ngài làm phép lạ, do sáng kiến của Ngài, hay đúng hơn dưới sự hướng dẫn của Cha. Vì thế trước tiên Chúa Giêsu không chịu làm theo ý Maria (2,4), được khi xem ra sau đó Ngài hành động theo ý mẹ xin. Phép lạ làm Maria phỉ nguyện, nhưng không phải phép lạ được làm vì đã được xin.
- Do đó, đây là ý nghĩa tổng quát có thể gán cho đoạn này. Ở câu 3, Maria trình bày một sự kiện để xin Chúa Giêsu giúp. Việc trình bày này có hai ý: bề ngoài, là xin Chúa Giêsu giúp đôi tân hôn về mặt vật chất; nhưng việc hóa bánh thành rượu nói lên việc thay thế trật tự tôn giáo cổ xưa bằng trật tự tôn giáo mới. Chắc chắn Maria chỉ thấy ý nghĩa thứ nhất của lời nài xin của mình.
Tất cả mọi cố gắng hòa dịu câu 4 đã làm mất siêu việt tính của Chúa Giêsu và lòng vâng phục tuyệt đối của Cha Ngài. Câu trả lời của Chúa Giêsu rõ ràng là lời từ chối hành động theo sự can thiệp của mẹ Ngài. Dù cho mẹ là người thân nhất, xét theo mặt thể lý, tuy nhiên theo bản tính bà thuộc trần gian này, còn Ngài thuộc thế giới trên cao. Do đó, Ngài có thể gọi mẹ là “Bà” như mọi người ở dưới thế này và nói lên sự bất liên quan giữa hai người. Chắc chắn là vì Maria còn ở dưới thế này, Bà không thể hiểu rằng việc thay đổi mà Bà nài xin cách vô thức chỉ có thể thực hiện theo quyết định của Chúa Cha, vào giờ tôn vinh Con Ngài.
Tuy nhiên, không nên hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu như một lời trách mắng mẹ Ngài. Đức Kitô chỉ xác quyết siêu việt tính của Ngài và cách mặc nhiên sự lệ thuộc hoàn toàn đối với Cha Ngài. Vì thế, Ngài từ chối thi hành điều Maria xin cách vô thức.
Dù không hiểu, Maria luôn tin tưởng vào Con và trao phó cho Ngài tất cả công việc (c.5). Bấy giờ Đức Kitô hoàn thành cách tự phát phép lạ, vì Cha Ngài ưng muốn và chuẩn y. Phép lạ này chưa phải là dấu chỉ tuyệt hảo được thực hiện vào giờ tôn vinh Chúa Giêsu nhưng là một tiền dấu chỉ. Để nhấn mạnh tầm mức của hình ảnh tiền trưng này, Gioan nhắc đến phẩm và lượng của thứ rượu mới.
Vai trò của Maria trong đoạn này xem ra đáng ngạc nhiên. Chắc chắn rằng Maria hoàn tất một nhiệm vụ phụ thuộc. Mẹ không chỉ cho Chúa Giêsu thái độ phải có, nhưng lời nài xin của Mẹ dù sao cũng trở nên cơ hội cho dấu chỉ đầu tiên của Chúa Giêsu, tiên báo sẽ có một dấu chỉ ở tột đỉnh của sứ vụ Ngài. Vào giờ tuyệt đỉnh này, Gioan lại giới thiệu Maria nhưng lần này như là mẹ của mọi môn đệ. Sự hiện diện của Maria ở đầu và cuối sứ vụ của Chúa Giêsu – hai lần duy nhất mà mẹ xuất hiện trong phúc âm thứ tư – có thể ám chỉ một thứ trung gian trong việc thiết lập một trật tự mới.
KẾT LUẬN
Khi trình bày hành vi khai mạc sứ vụ ấy của Đức Kitô, Gioan đã gợi cho chúng ta thấy Đức Kitô có sứ vụ chính yếu là thiết lập giao ước mới và vĩnh viễn với Israel đích thật: Ngài là vị hôn phu thần linh sửa soạn cho vị hôn thê thiêng liêng “quang vinh, không một tì ố hay nét nhăn, nhưng thánh thiện vô tì vết” (Eph 5,27) để giới thiệu nàng vào Ngày sau hết, hầu sống với tân nương cuộc Hôn nhân vĩnh cửu. Nhưng cuộc hôn nhân trên trời này đã được khai mào ngay từ bây giờ, vì Hôn phu đã có mặt và đã có tân nương – Giáo hội (3,29), được nhân cách hóa trong Maria và các môn đệ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tự xưng là hôn phu của Israel như bài học thứ nhất ngày hôm nay. Từ đó, Cựu Ước đã trình bày việc chọn lựa những không của Thiên Chúa, sự ân cần chăm sóc của Chúa đối với Israel, lòng nhẫn nại vô bờ của Ngài, Lời Ngài mời gọi hối cải tâm hồn, mời gọi sống thân mật tuân phục và yêu mến. Đức Kitô là vị hôn phu của Giáo hội (Eph 5,22-23), điều mà Khải huyền cũng diễn tả khi nói đến tiệc cưới giữa Con Chiên (Đức Kitô) với Giêrusalem lý tưởng từ trời xuống (Giáo hội). (Kh 21,9). Đức Kitô chọn Giáo hội làm hôn thê thiêng liêng của Ngài. Ngài hiến cuộc sống mình cho Giáo hội, thanh tẩy Giáo hội bằng nghi thức tắm hôn lễ (tục lễ cổ xưa của lễ nghi hôn nhân), ban đầy ơn cho Giáo hội, dưỡng nuôi Giáo hội nơi bàn tiệc Thánh Thể. Chính khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể mà Giáo hội chuẩn bị dự tiệc thiên quốc và việc biểu lộ vinh quang của Chúa.
- Chúa Giêsu sửa soạn việc thiết lập hôn nhân Kitô giáo bằng sự hiện diện ở tiệc cưới Cana, cũng như sau này Ngài sẽ thiết lập bí tích rửa tội bằng việc dìm thân xác thánh hiến của Ngài trong nước sông Hòa giang, khi được vị Tiền hô làm phép rửa. Người ta thấy tính cách tả chân của Gioan: Ngôi Lời Thiên Chúa chia xẻ niềm vui của hôn lễ thôn quê.
- Chúa Giêsu hiện diện ở mọi lễ hôn phối cử hành trong Giáo hội, vì chính Ngài là Đấng thông ban ân sủng cho đôi tân hôn nhận lãnh bí tích. Maria cũng tham dự với tư cách trung gian của mọi ân sủng. Đây không phải là hình ảnh của Giáo hội, trong đó đang cử hành nghi thức hôn lễ sao? Bàn tiệc cưới thật sự là bàn tiệc Thánh Thể. Với bàn tiệc thánh này, đôi tân hôn được mời đến tham dự, để luôn giữ mình sống đúng những lời đoan hứa.
- Sự lưu tâm tế nhị của Chúa Giêsu và mẹ Maria đã làm cho đôi tân hôn ở Cana khỏi mất mặt, minh chứng cho những người sống bậc vợ chồng, biết rằng Chúa quan phòng luôn nhìn đến gia đình của họ, bằng hành động của Chúa Cứu thế và mẹ Ngài.
- Maria xuất hiện ở Cana như mẹ Chúa Giêsu, Hôn Thê của Chúa và như là người Phụ Nữ tham gia vào công cuộc cứu rỗi thay thế cho Evà thất trung. Sự hiện diện của mẹ Maria trong đời sống chúng ta là một chú ý thường xuyên của Mẹ đến các nhu cầu của chúng ta nhờ sự hiểu biết mà Mẹ có được trong Thiên Chúa về những hoạt động, tư tưởng và tình cảm của chúng ta, và nhờ tình thương của mẹ đối với chúng ta. Chúng ta hãy vui sống dưới ảnh hưởng của Mẹ và hãy đón nhận Mẹ trong nhà chúng ta.
- Can thiệp của Mẹ Maria bên Chúa Giêsu: Maria là người trình bày cho Thiên Chúa và Con của Người những nhu cầu của loài người. Bài ca Salve Regina gọi Người là trạng sư của chúng ta.
- Mệnh lệnh của Mẹ Maria “Ngài có bảo gì, hãy làm theo”: biểu lộ cho con người thánh ý Thiên Chúa. Qua những lời khuyên cũng như gương sáng của Người, mẹ Maria chỉ cho chúng ta đường dẫn đến Con của Người.
- Maria góp phần vào việc hình thành nhóm môn đệ đầu tiên của Con mình, khi ôm ấp họ cùng với Con của Người trong tình mẫu tử. Là tín hữu của Đức Kitô, cũng là môn đệ Ngài, chúng ta hãy biết rằng mình là con cái của đức Maria – điều này đã được nói rõ ràng trên thập giá, khi Chúa Giêsu trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Ước gì mẹ Maria dẫn đưa chúng ta, với một đức tin được canh tân, vào mầu nhiệm của Đức Kitô, cho đến ngày chiêm ngưỡng vinh quang Ngài.
80. Niềm vui lớn
(Suy niệm của William Barclay)
Bây giờ chúng ta đến phần chân lý sâu nhiệm và ẩn dấu mà Gioan muốn truyền đạt khi kể lại câu chuyện này.
Điều cần nhớ là ông viết sách này cho cả người Do Thái lẫn Hy Lạp. Mục đích của ông là kể lại câu chuyện về Chúa Giêsu sao cho không xa lạ với người Hy Lạp.
Trước hết, hãy nhìn từ quan điểm Do Thái. Nên nhớ trong những câu chuyện đơn giản của Gioan còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu nhiệm hơn, mà chỉ những ai chịu suy nghĩ mới có thể nhìn thấy được. Trong cả Phúc Âm, Gioan không hề viết một chi tiết nào không cần thiết và vô nghĩa. Mỗi chi tiết đều mang một ý nghĩa, và đều hướng tới một điểm cao xa hơn.
Có sáu cái ché đá đựng nước và theo lệnh của Chúa Giêsu, nước đã biến thành rượu. Đối với người Do Thái, con số 7 là con số đầy đủ và trọn vẹn. Vậy số 6 là chưa đầy đủ, không toàn vẹn. Sáu cái ché đá đựng nước tiêu biểu cho toàn thể những cái bất toàn của luật và thay vào đó bằng thứ rượu mới của ân sủng Phúc Âm. Chúa Giêsu đã đổi những bất toàn của luật ra sự toàn hảo của ân sủng. Liên hệ với điều này còn một điểm đáng chú ý khác nữa. Sáu cái ché đựng nước, mỗi cái chứa từ 80 đến 120 lít. Chúa Giêsu khiến nước lã trong sáu ché ấy biến thành rượu ngon, tất cả phải có từ 500 đến 700 lít rượu. Nêu lên sự kiện này, Gioan không chỉ muốn chúng ta hiểu câu chuyện theo nghĩa đen. Vấn đề ông muốn nêu lên là khi ân sủng của Chúa đã đến với loài người, thì ân sủng ấy có đủ để cung cấp cho tất cả. Không có đám cưới nào trên đời có thể uống hết sáu, bảy trăm lít rượu. Không một nhu cầu nào trên thế gian lại làm cạn nguồn ân sủng của Chúa Cứu Thế. Ân sủng quang vinh của Chúa luôn luôn dư tràn.
Gioan cho chúng ta thấy trong Chúa Giêsu, những cái bất toàn đã trở thành hoàn toàn, ân sủng thì vô hạn, đầy đủ và dư dật bội phần cho mọi nhu cầu.
Bây giờ hãy nhìn từ quan điểm Hy Lạp. Người Hy Lạp cũng có những chuyện tích như vậy. Dionysos là thần rượu của người Hy Lạp. Pausanias là một tác giả Hy Lạp chuyên mô tả xứ sở và các lễ lạc cổ của đất nước ông. Trong phần nói về xứ Elis, ông đã mô tả một nghi lễ và niềm tin thời cổ như sau: “Giữa khu chợ và sông Menius là một rạp hát cũ và đền thờ Dionysos. Tượng thần ấy do Praxitels sáng tạo. Không có thần nào được dân Eleans kính trọng cho bằng Dionysos, họ bảo là thần ấy đến dự tiệc cùng họ tại khu Thyia, địa điểm tổ chức lễ cách thành phố khoảng một dặm. Người ta đem ba cái ấm lớn vào đền thờ và các vị tư tế đặt chúng tại đó, trước sự hiện diện của dân chúng. Các tư tế và những người được chọn sẽ đóng dấu niêm phong cửa đền. Hôm sau, mọi người tự do xem xét các dấu niêm phong và khi vào đền, họ thấy các ấm đã đầy rượu. Tôi không có mặt tại đó trong kỳ lễ, nhưng những người khả kính nhất trong xứ Elis và cả khách lạ nữa đều thề rằng: Các sự kiện có thật như tôi vừa kể”.
Vậy người Hy Lạp cũng có những câu chuyện tương tự, nhưng dường như Gioan muốn nói với họ rằng: “Các bạn có nhiều truyền thuyết về các thần của mình, đó chỉ là những câu chuyện được kể lại và các bạn đều biết chúng không có thật. Chúa Giêsu đã đến, Ngài làm những điều mà các bạn hằng mơ ước các thần của các bạn có thể làm được. Ngài khiến những điều các bạn trông mong thành hiện thực”.
Với người Do Thái, Gioan nói: “Chúa Giêsu đã đến để đổi sự bất toàn của luật lệ thành sự toàn hảo của ân sủng”. Với người Hy Lạp, ông bảo: “Chúa Giêsu đã đến để thực hiện những điều mà các bạn hằng mơ ước, mà chỉ các thần mới có thể làm được”.
Bây giờ chúng ta có thể thấy điều Gioan muốn truyền đạt. Mỗi câu chuyện không phải chỉ mô tả điều Chúa Giêsu làm một lần rồi chẳng bao giờ tái diễn, nhưng Ngài vẫn làm cho đến đời đời. Ông cho chúng ta biết, không phải về những việc Chúa Giêsu một lần làm tại xứ Palestine, mà về những việc Ngài vẫn làm thời nay. Điều ông muốn chúng ta thấy ở đây, không phải chỉ lần Chúa Giêsu hoá nước trong các ché đá nào đó thành rượu, nhưng ông muốn chúng ta nhận thấy rằng, bất cứ lúc nào Chúa bước vào một đời sống, thì đời sống ấy nhận được một phẩm chất mới, giống như nước lã đã biến thành rượu vậy. Không có Chúa Giêsu thì cuộc đời vốn ứ đọng, phẳng lì và chán ngán. Khi Chúa Giêsu bước vào đời sống, nó trở nên sống động, tươi sáng và lý thú. Không có Chúa, cuộc đời thật lạnh lẽo, vô vị, đáng chán, với Chúa Giêsu thì cuộc sống trở nên hấp dẫn, kỳ diệu và tươi vui.
Khi Sir Wilfred Grenfell kêu gọi những người tình nguyện đến công tác với ông tại Labrador, ông không hứa cho họ nhiều tiền, nhưng hứa là họ sẽ sử dụng thì giờ của đời họ xứng đáng. Đó là điều Chúa Giêsu hứa với chúng ta. Nên nhớ là Gioan viết sách này đã 70 năm sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Ông đã suy nghĩ, nghiền ngẫm, và hồi tưởng suốt 70 năm dài, cho đến khi thấy được các ý nghĩa mà lúc bấy giờ ông chưa nhận ra. Khi thuật lại câu chuyện này, ông nhớ lại những ngày đã sống với Chúa Giêsu, ông nói: “Bất kỳ Chúa đi đâu, khi nào Chúa bước vào cuộc sống của ai thì đều giống việc Ngài hoá nước thành rượu”. Và ông muốn nói với chúng ta: “Nếu bạn muốn được niềm vui mới, hãy trở thành người theo gót Chúa Giêsu Kitô. Lúc đó, sẽ có những thay đổi trong cuộc đời của bạn, như nước biến thành rượu vậy”.
81. Chúa Nhật 2 Thường Niên
HÃY MỞ CỬA ĐÓN CHÚA ĐẾN NHÀ
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- LỜI CHÚA: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5)
- CÂU CHUYỆN: MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ.
Cách đây ít lâu, có một phụ nữ đã kể lại câu chuyện xảy ra trong gia đình bà như sau: “Từ trước đến nay hai vợ chồng tôi luôn nhất trí trong việc mua sắm và trang trí nhà cửa. Tuy nhiên, gần đây, chồng tôi tự nhiên mang về một khung ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng kiếng, có kích thước 40×50 cm, bên trong có thiết kế ánh sáng đèn điện. Mỗi khi đèn sáng thì hình Thánh Tâm Chúa lại sáng lên trông rất đẹp mắt. Ông chồng tôi đòi treo bức ảnh này ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Theo ý tôi thì không nên treo tại phòng khách vì nhà chúng tôi có nhiều khách lạ thường lui tới. Nhưng lần này chồng tôi quyết tâm bảo thủ ý muốn của mình. Trong lúc tranh cãi, tự nhiên lời Chúa xuất hiện trong tâm trí tôi: “Ai nhìn nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Cuối cùng tôi đã bằng lòng theo ý của chồng tôi. Giờ đây, sau mấy năm, tôi thực sự không hối tiếc gì về việc đã chiều theo ý muốn của chồng. Vì bức ảnh Thánh Tâm Chúa đã phát sinh hiệu quả tốt trên gia đình tôi và các khách đến thăm ngôi nhà của chúng tôi. Ngày nọ, có một ông khách sau khi chăm chú nhìn vào bức hình, đã phát biểu như sau: “Bà biết không? Khi nhìn vào khuôn mặt Đức Giê-su trên bức hình này, tôi có cảm tưởng như Người đang nhìn thấu qua tâm hồn tôi!”. Rồi vào một buổi tối kia, một bà bạn sau khi ngồi ngắm bức hình khá lâu cũng đã thốt lên: “Mỗi lần đến đây, lúc nào tôi cũng có cảm giác trong nhà chị chan hòa sự bình an”… Nói chung, khi nhìn vào hình Chúa Giê-su, thì tâm hồn của các người khách đều được nâng cao! Có thể mọi người sẽ cười nhạo những nhận xét này của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Theo thiển ý của tôi: Một khi bạn mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn, không giống như lúc trước nữa!”.
- SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giê-su dù chưa tới Giờ bày tỏ quyền năng, nhưng nhờ lời Đức Ma-ria cầu bầu, Người đã làm dấu lạ biến nước lã thành rượu ngon, để bày tỏ quyền năng giúp các môn đệ mới theo nhận biết, tin Người là Đấng Thiên Sai như Tin Mừng Gio-an đã kết luận: “Những điều đả được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su chính là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Ngoài ra, phép lạ đầu tiên này cũng cho thấy ơn cứu độ do Đức Giê-su thực hiện có Mẹ Ma-ri-a hiệp công và bắt đầu từ việc xây dựng hạnh phúc của gia đình tín hữu.
– Hãy mời Chúa Giê-su đến nhà: Trong Tin mừng, những ai đón nhận Đức Giê-su đến nhà đều nhận được những ơn lành hồn xác. Chẳng hạn: Đức Giê-su đến thăm gia đình ông Si-mon và đã chữa cho bà nhạc mẫu của ông khỏi cơn sốt nặng (x. Mt 1,29.31); Người cũng đến nhà ông Gia-ia để phục sinh con gái của ông vừa chết nằm trên giường (x. Mc 5,22.38-43); Người đến dự tiệc tại nhà viên thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu và đã chữa lành cho một người mắc bệnh phù thủng (x. Lc 14,1-4); Người đến ở trọ nhà viên trưởng thu thuế Gia-kêu để biến ông từ một kẻ tham lam trở thành người lương thiện, là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham. (x. Lc 19,8-10); Người vào ở trọ nhà hai môn đệ làng Em-mau để mở lòng hai ông tin vào Người đã từ cõi chết sống lại qua nghi thức “bẻ bánh” (x. Lc 24,13-32)… Tin mừng hôm nay cũng cho thấy đôi tân hôn đã mời Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến nhà dự tiệc cưới và nhờ lời Mẹ cầu bầu, Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon giúp đỡ đôi tân hôn.
– “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”: Cuộc sống của mỗi người cũng như của gia đình chúng ta không thiếu những bất trắc và sự cố bất ngờ. Tuy nhiên, nếu biết mời Chúa đến nhà, Người sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, với điều kiện là chúng ta phải làm theo lời dạy của Mẹ Ma-ri-a: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Mỗi gia đình tín hữu có thể mời Chúa Giê-su đến nhà qua việc thiết lập bàn thờ Chúa trong gia đình và tổ chức giờ kinh tối hằng ngày. Trong giờ kinh tối, các thành viên gia đình cùng nhau nghe Lời Chúa phán và cầu nguyện cho nhau, động viên nhau thực hành lời Chúa bằng cách ứng xử lịch sự tế nhị với tha nhân. Mỗi sáng khi vừa thức dậy, mỗi người chúng ta hãy dành một giây phút dâng lên Chúa một lời cầu nguyện để xin giúp thực thi ý Chúa trong ngáy.
– “Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ”: Ngày nay Chúa Giê-su vẫn đang đứng ngòai gõ cửa. Những ai mở cửa đón Chúa, thì Người sẽ vào nhà kẻ ấy, sẽ dùng bữa tối với kẻ ấy, và kẻ ấy sẽ dùng bữa chung với Người (x Kh 3:20). Vậy ngay hôm nay chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng đón Chúa vào nhà linh hồn hầu nhận được ơn cứu độ của Chúa hay không?
4.THẢO LUẬN: Một người kia có dịp nghỉ hè tại nhà một bạn thân. Sau kỳ nghỉ đã viết thư cám ơn bạn ấy. Trong thư có đoạn nhận xét về gia đình của bạn mình như sau: “Tôi cảm thấy gia đình bạn là một gia đình công giáo đạo đức thực sự: Cách bài trí trong nhà bạn thật ấn tượng với những tranh ảnh đạo được treo trên tường thay vì những tranh lịch người mẫu ăn mặc hở hang. Tôi không quên được những lời cầu nguyện sốt sắng của từng thành viên trong gia đình bạn trước các bữa ăn. Tôi cảm thấy một bầu khí đầm ấm yêu thương và bình an ở trong ngôi nhà của bạn: Các thành viên đều quan tâm săn sóc lẫn nhau. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng tranh cãi to tiếng, những lời tục tĩu hay những lời chỉ trích nói hành người vắng mặt trong ngôi nhà của bạn”… Còn gia đình của chúng ta hiện nay có những phẩm chất đạo đức như gia đình trong câu chuyện trên hay không?
- NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Xin hãy đến chúc phúc cho gia đình chúng con. Ước chi cánh cửa nhà chúng con luôn rộng mở để tiếp đón những kẻ ngay thật không nhà. Xin chúc lành cho ngôi nhà của chúng con luôn có sự hiện diện của Chúa, thể hiện qua việc trưng bày bàn thờ và các tranh ảnh đạo trong nhà, nhất là qua cách ứng xử lịch sự tế nhị giữa các thành viên gia đình. Xin cho gia đình chúng con luôn biết nghe lời Mẹ Ma-ri-a để thực hành Lời Chúa trong cuộc sống.
– Lạy Chúa. Xin cho đôi tay chúng con luôn rộng mở để sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những kẻ đói nghèo bất hạnh. Xin cho trái tim chúng con luôn hướng về Chúa là nguồn sống và là hạnh phúc của chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ có khả năng chu toàn sứ mệnh làm chứng cho tình yêu của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay.
- Xin hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
82. Tiệc cưới tại Cana
(Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.)
Cho đến nay, người ta không biết đích xác Cana nằm ở đâu trong vùng Galilê, nhưng hẳn Cana không xa Nadarét lắm. Có lẽ đây là đám cưới của một người bà con. Đức Maria được mời, Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Ngài cũng được mời, nhưng có thể Đức Maria đã đến trước. Theo tập tục thời đó, đám cưới kéo dài một tuần lễ với nhiều khách khứa tiệc tùng. Chúng ta không rõ nhờ đâu mà Đức Maria biết được rượu đã hết. Phải chăng Mẹ đã nghe được những tiếng xì xào từ dưới bếp, hay Mẹ đã đọc được sự lúng túng trên nét mặt của những người dọn bàn? Dù sao đi nữa hết rượu thật là điều đáng xấu hổ, làm bẽ mặt gia đình và làm bữa tiệc mất vui. Đức Maria cũng chẳng biết làm sao trước chuyện rủi ro này. Mẹ chỉ nói với Đức Giêsu: “Họ hết rượu rồi.” Trong câu nói của Mẹ ẩn dấu một lời yêu cầu kín đáo, đầy tin tưởng. Tuy nhiên, chúng ta không nên khẳng định là Mẹ có ý xin Đức Giêsu làm phép lạ. Theo Tin Mừng Luca, hẳn Mẹ biết sứ mạng Thiên Sai của Con, nhưng trong những năm dài ở Nadarét, Đức Giêsu đã sống rất mực bình thường. Ngài chưa bao giờ làm phép lạ nào cả. “Họ hết rượu rồi.” Qua câu nói này, Mẹ chờ đợi Đức Giêsu làm một điều gì đó mà chính Mẹ cũng không rõ. Mẹ hy vọng Ngài sẽ can thiệp theo cách của Ngài.
Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu thật là khó hiểu. Ngài gọi Mẹ Ngài là “Bà”. Người Do Thái không có thói quen gọi như vậy. Trong các sách Tin Mừng, Ngài cũng gọi một số phụ nữ khác là Bà (Mt 15,28; Lc 13,12; Ga 4,21;20,13). Lối xưng hô này là lối xưng hô bình thường và lịch sự. “Chuyện đó can gì đến Bà và Con?” câu này phải được hiểu như một lời từ chối của Đức Giêsu, không muốn đáp ứng lời yêu cầu của Mẹ (x. 2S 19,23). Đức Giêsu không trách móc Đức Mẹ, Ngài chỉ khẳng định siêu việt tính của mình, và ám chỉ đến sự lệ thuộc trọn vẹn của mình vào Chúa Cha. “Giờ của con chưa đến” Giờ ở đây là Giờ Đức Giêsu chịu khổ nạn, được phục sinh và tôn vinh. Toàn bộ sứ vụ của Đức Giêsu, bắt đầu từ dấu lạ ở Cana, đều hướng đến Giờ đó. Trong 11 chương đầu, thánh Gioan thường dùng lối nói: “Giờ chưa đến” (2,4; 7,30; 8,20), nhưng “nó đang đến” (4,21.23; 5,25-28). Từ chương 12 trở đi, ta gặp lối nói: “Giờ đã đến” (12,23; 13,1; 17,1). Lúc đầu Đức Giêsu có vẻ từ chối lời Mẹ Ngài yêu cầu. Ngài biết rằng vinh quang của Ngài chỉ được tỏ bày và Giờ sau hết, nên Ngài có vẻ chưa muốn hé lộ vinh quang ra trong lúc này, qua phép lạ đầu tiên.
Trước câu trả lời của Đức Giêsu, Mẹ Ngài không vội nản lòng. Mẹ để cho con mình đươc tự do. Nhưng Mẹ lại muốn gia nhân ở trong tư thế sẵn sàng hành động: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo.” Quả thực, Đức Giêsu sau đó đã bảo gia nhân đổ nước đầy 6 chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục của người Do Thái. Nước đã biến thành rượu, mà lại là rượu ngon. Một lượng rượu khổng lồ, quá dư thừa cho một đám cưới ở vùng quê.
Một phép lạ mang nhiều ý nghĩa
Trong cả Tin Mừng theo thánh Gioan, chỉ có bảy phép lạ được kể lại. Phép lạ ở Cana có một vị trí nổi bật, vì đó là dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Tin Mừng thứ tư đều không phải chỉ là những hành vi biểu lộ quyền năng của Đức Giêsu, nhưng hơn nữa, chúng mạc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Giêsu. Nói cách khác, phép lạ trong Tin Mừng Gioan có tính biểu tượng cao. Chúng là những dấu chỉ (sémeion) cho ta biết về con người Đức Giêsu. Sau phép lạ, đôi khi có một bài giảng dài của Đức Giêsu nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ vừa kể. Thí dụ sau khi làm phép lạ bánh hoá nhiều, Đức Giêsu tự giới thiệu: “Tôi là bánh ban sự sống” (Ga 6,1-58). Khi làm cho người mù được thấy ánh sáng, Đức Giêsu nói: “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 9,1-41). Khi hoàn sinh cho Ladarô, Đức Giêsu tự nhận: “Tôi là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,1-44). Chúng ta tự hỏi phép lạ ở Cana có mang một ý nghĩa sâu xa không, có cho chúng ta biết về căn tính mầu nhiệm của Đức Giêsu không?
Bối cảnh của phép lạ ở Cana là bối cảnh một đám cưới. Trong Cựu Ước, để diễn tả tình yêu thắm thiết của Thiên Chúa đối với dân Ít-ra-en, thường dùng hình ảnh hôn lễ. Thiên Chúa làm đám cưới với dân của mình. Người tự nhận mình là Chú Rể (x. Ed 16,1-4; Hs 2,16-25; Is 62,1-5). Bối cảnh phép lạ Cana cũng là bối cảnh của một bữa tiệc. Bữa tiệc là hình ảnh được dùng để mô tả niềm vui vào ngày Đấng Mêsia đến. Dĩ nhiên bữa tiệc này có dồi dào rượu ngon. “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon.” (Is 25,6). Chúng ta thấy Đức Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Ngài tự ví mình như Chú Rể (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34). Ngài coi giáo huấn của Ngài là thứ rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ (Mc 2,22).
Đọc lại đoạn Tin Mừng trên đây, ta bắt gặp một chú rể lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Anh ta chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môsê. Đức Giêsu xuất hiện như Chú Rể thực sự của nhân loại. Ngài biến nước thành rượu, biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước. Rượu của Ngài vừa ngon, vừa nhiều; có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy ơn cứu độ do Đức Giêsu đem lại thật là một nguồn ơn quý giá và dư dật. Trong bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giêsu biến rượu thành Máu Ngài. Mỗi lần dự Thánh Lễ là một lần dự tiệc. Bữa tiệc hôm nay chuẩn bị cho Bữa Tiệc Thiên Quốc.
Hãy làm điều Ngài bảo
Các sách Tin Mừng có ghi lại một vài câu nói ngắn của Đức Mẹ với thiên thần Gáp-ri-en hay với Đức Giêsu. Còn đây là câu nói duy nhất của Đức Mẹ cho các gia nhân, có thể hiểu cho chúng ta, “Hãy làm điều Ngài bảo”. Đức Maria đưa chúng ta đến với Đức Giêsu và mời gọi chúng ta thực hiện ý muốn của Ngài. Như vậy trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta đã gặp Đức Maria (bước 1); để rồi, từ Đức Maria, chúng ta gặp lại Đức Kitô, để đào sâu hơn mối liên hệ đã có với Ngài và bám rễ sâu trong Ngài (bước 2). Tin Mừng thánh Gioan chỉ nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana; lần cuối ở Núi Sọ. Đức Mẹ chứng kiến cái chết của Con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19,25-27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Đức Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Đức Giêsu ở Cana, và Đức Giêsu cũng đã đưa thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu, đến với Đức Mẹ: “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở Núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Đức Giêsu.
Hôm nay, Mẹ vẫn ở với loài người, vẫn chia sẻ niềm vui và nỗi lo lắng của con người. Ngay trong tiệc cưới cũng có chuyện không vui. Mẹ không ép Chúa làm phép lạ và Mẹ cũng chẳng có quyền đó. Phép lạ Cana do quyết định cuối cùng của Đức Giêsu, Ngài làm theo ý Cha. Nhưng chúng ta vẫn không quên sự đóng góp, can thiệp của Mẹ, một người mẹ nhạy cảm và từ ái. Hôm nay, Mẹ cần hiện diện trong mọi cộng đoàn Kitô hữu, trong gia đình, trong giáo xứ, tu hội, nhóm tông đồ và trong cả Hội Thánh. Cuộc sống chúng ta thường có những khó khăn trắc trở. Mẹ vẫn thường nói với Chúa: “Họ hết rượu rồi” và Mẹ cũng hay nói với từng người chúng ta: “Hãy làm mọi điều Ngài bảo”.
83. Nhờ Mẹ đến với Chúa
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Ga 2: 1-11 Trong tiệc cưới Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu và sự làm hỏng tiệc cưới của đôi tâm hồn. Mẹ muốn giúp đỡ nhưng biết rằng Mẹ không thể tự mình làm việc đó. Vì thế Mẹ quay lại Con Mẹ và xin Người giúp đỡ, và Người đã thực hiện với sự quảng đại.
Ta thấy đám cưới ở Do Thái là một dịp vui mừng. Thay vì tuần trăng mật, thì họ tổ chức tiệc tùng kéo dài cả tuần lễ. Vì thế số lượng rượu phải được tính toán cẩn thận kẻo bị thiếu hụt. Và sự kiện này lại xảy ra ở Cana, một thành phố nhỏ năm giữa Nadarét và biển hồ Tiberiat, là quê hương sinh trưởng của Nathanael, là nơi Chúa cho con của một sĩ quan gần chết được khỏi bệnh. Dù sao thì bữa tiệc hôm ấy không còn một giọt rượu nào, mà Chúa Giêsu và Mẹ Maria lại có mặt ở đó, vì có lẽ là chỗ bà con họ hàng.
Trước tình thế đó, Mẹ Maria chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài cứu vãn. Thế là mặc dù giờ chưa đến, Chúa Giêsu cũng đã thực hiện phép lạ hoá nước thành rượu với số lượng lớn không ai ngờ: đến những sáu chum nước lã được hoá thành rượu thật ngon để đem lại niềm vui và hạnh phúc chan hoà cho mọi người.
Phép lạ đầu tay vào lúc khởi đầu sứ vụ đã được Chúa Giêsu thực hiện nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho cô dâu chú rể cũng như cho khách dự tiệc tại Cana cho thấy Ngài rất quan tâm đem lại hạnh phúc cho người khác. Nhiều phép lạ khác được Chúa Giêsu thực hiện sau nầy cũng không ngoài mục đích đó.
Maria xuất hiện ở Cana như mẹ Chúa Giêsu, Hôn Thê của Chúa và như là người Phụ Nữ tham gia vào công cuộc cứu rỗi thay thế cho Evà thất trung. Sự hiện diện của mẹ Maria trong đời sống chúng ta là một chú ý thường xuyên của Mẹ đến các nhu cầu của chúng ta nhờ sự hiểu biết mà Mẹ có được trong Thiên Chúa về những hoạt động, tư tưởng và tình cảm của chúng ta, và nhờ tình thương của mẹ đối với chúng ta. Chúng ta hãy vui sống dưới ảnh hưởng của Mẹ và hãy đón nhận Mẹ trong nhà chúng ta.
Trong tiệc cưới Cana, chúng ta nhìn thấy sự nhạy cảm của Đức Maria. Mẹ nhận thấy thiếu rượu và sự làm hỏng tiệc cưới của đôi tâm hồn. Mẹ muốn giúp đỡ nhưng biết rằng Mẹ không thể tự mình làm việc đó. Vì thế Mẹ quay lại Con Mẹ và xin Người giúp đỡ, và Người đã thực hiện với sự quảng đại. Có những lúc, tác vụ có nghĩa là nhận ra một nhu cầu và biết rằng chúng ta không thể xử lý một mình.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay nói đến sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria tại một gia đình có đám cưới ở Cana. Và sự hiện diện của các Ngài không những đã mang lại niềm vui cho nhà đám, mà còn cứu cho gia đình này khỏi một bàn thua trông thấy. Nhờ các Ngài mà rượu đã hết lại trở nên dư dật. Nhờ các Ngài mà cô dâu chú rể và gia đình nhà đám khỏi bẽ mặt trước các thực khách. Nhờ các Ngài mà niềm vui của ngày cưới được tiếp tục và trọn vẹn.
Đức Maria giải quyết việc thiếu rượu bằng cách tin tưởng đến với Chúa Giêsu, và cầu nguyện. Mẹ dạy chúng ta phải đặt gia đình vào tay Chúa, phải cầu nguyện, phải khơi dậy niềm cậy để thấy rằng lo lắng của tha nhân cũng là lo lắng của ta, và lo lắng của ta cũng là lo lắng của Chúa. Cầu nguyện luôn nâng chúng ta, giúp chúng ta thoát khỏi những lo lắng của mình. Cuối cùng Đức Mẹ đã hành động. Lời Mẹ nói với các người giúp việc “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” cũng là lời mời gọi chúng ta mở lòng mình cho Chúa Giêsu, “Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (Mc 10, 45).
Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”. Ở đó, đang thiếu rượu… và có lẽ, nào ai biết được, “tình yêu’ cũng thiếu… Cuộc vượt qua là sự ra khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết: “Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta “không thể còn làm được gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc đó… Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng duy nhất có thể cứu: “Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo”.
Thấy nhà chủ hết rượu Đức Maria trình lên Chúa nhu cầu, thì nhận được một lời đáp ứng không mấy tích cực: “Chuyện đó can chi đến bà và con, giờ của con chưa đến.” Làm thân bà mẹ mà phải hạ mình xin con đã là khó, nay lại nhận được một câu trả lời như thế, rất dễ nản lòng, mất hết cậy trông. Đức Maria không thế, Ngài vẫn bình tĩnh bảo những người giúp việc Đức Giêsu bảo gì cứ làm theo đó. Tại sao Đức Maria biết Chúa sẽ ra lệnh cho các kẻ giúp việc? Đó chỉ do bà tin. Bà chẳng vì cảm xúc mà nghi ngờ điều mình xin, nhưng lấy đức tin mà nắm lấy lời hứa của việc cầu nguyện: “Cứ xin thì được.” Chính vì đức tin mà Maria dặn bảo các người giúp việc phải tuân theo lệnh Chúa.
Dấu chỉ tiệc cưới Cana cho thấy Thiên Chúa yêu thích cho chúng ta sống vui tươi hồn nhiên và trong sáng, bởi vì Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta, chỉ là tin vui thật sự nếu chúng ta có thái độ sống lòng tin thật sự, nếu gương mặt, ánh mắt và cuộc sống chúng ta phản ánh niềm vui đó. Dấu chỉ tiệc cưới Cana dạy cho chúng ta biết rằng, để gặp gở Chúa Kitô chúng ta không cần phải là người thoát tục trở thành thiên thần, nhưng chỉ cần hiểu rõ thành loài người hơn, sống trọn vẹn ơn gọi làm người của chúng ta hơn theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô nhập thể. Và để có thể hiện thực ơn gọi làm người, cần phải tập và sống các nhân đức nhân bản mỗi ngày, càng biết sống sâu đậm các nhân đức căn bản tự nhiên, chúng ta càng giống Chúa Giêsu làm người. Đó là nền tảng vững chắc đầu tiên, cần thiết trong cuộc sống ơn gọi Kitô. Thiếu các nhân đức căn bản này, người tín hữu mất quân bình, thường trở thành cuồng tín, có thái độ sống đạo lệch lạc.
Việc Đức Giêsu khởi sự làm những dấu lạ, rõ ràng loan báo vương quốc mới, triều đại của Đấng Mêsia. Ngày ấy được ngôn sứ Isaia mô tả là ngày mà Chúa toàn năng sẽ khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn đầy thịt cùng các món hảo hạng với rượu ngon nổi tiếng… Ngày ấy người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng trông đợi” (Is 25, 9).
Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong gia đình.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là hình ảnh sự hiện diện của các Ngài trong gia đình và trong cuộc đời của chúng ta. Các Ngài hiện diện để thi ân giáng phúc cho chúng ta, bởi các Ngài là Cha, là Mẹ của chúng ta. Các Ngài hiểu rõ mọi nhu cầu của đời sống chúng ta, dù chúng ta chưa trình bày với các Ngài. Các Ngài sẽ bao bọc, sẽ chở che, sẽ yêu thương, sẽ dẫn dắt chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mỗi khoảnh khắc của cuộc sống.