Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 23 Thường Niên – C

Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 23 Thường Niên – C

Lời Chúa: Kn. 9,13-18; Plm. 9-10.12-17; Lc 14,25-33

MỤC LỤC

  1. Trở thành môn đệ của Chúa – Dã Quỳ. 4
  2. Cùng đi với Đức Giêsu – ViKiNi 9
  3. Theo và vác Thập Giá – Huệ Minh. 13
  4. Độc thân. 18
  5. Đòi hỏi của tình yêu – Thiên Phúc. 20
  6. Như người tôi tớ. 23
  7. Thập giá đời thường. 25
  8. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 27
  9. Từ bỏ hết. – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu. 29
  10. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 32
  11. Chọn lựa Thiên Chúa là duy nhất – An Phong. 44
  12. Điều kiện theo Chúa. 47
  13. Vác thập giá theo Chúa. 49
  14. Hy sinh từ bỏ. 52
  15. Từ bỏ – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP. 54
  16. Để làm môn đệ Chúa – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 58
  17. Tình yêu là động lực để đi theo Chúa Giêsu. 61
  18. Từ bỏ để tồn tại và tăng trưởng. 65
  19. Niềm tín thác vào Chúa – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền. 68
  20. Từ bỏ để thăng tiến – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 72
  21. Vác Thập giá vì Chúa – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 75
  22. Một sự nghịch lý – Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan. 78
  23. Sự khôn ngoan của Tin Mừng. 81
  24. Từ bỏ để theo Chúa. 92
  25. Bạn đã yêu mến Chúa ở thang bậc nào??. 96
  26. Thập giá trong đời – AM Trần Bình An. 99
  27. Ai có thể làm môn đệ Đức Giêsu?. 103
  28. Chúa Nhật 23 Thường Niên. 108
  29. Mời gọi để từ bỏ – R. Veritas. 111
  30. Từ bỏ. 114
  31. Một đòi hỏi nhân bản sâu đậm nhất 117
  32. Sẵn sàng làm môn đệ trung thành của Chúa. 119
  33. Từ bỏ để theo Chúa – Lm. Minh Vận, CRM… 122
  34. Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. 127
  35. Chọn Chúa Kitô. 130
  36. Theo Thầy – McCarthy. 134
  37. Trả giá – McCarthy. 136
  38. Làm môn đệ Chúa: dễ hay khó?. 139
  39. Từ bỏ để theo Chúa. – Veritas. 142
  40. Tôi là thứ ba. 145
  41. Lựa chọn. 147
  42. Đòi hỏi của tình yêu. – Thiên Phúc. 151
  43. Cuộc đăng sơn vất vả. 154
  44. Từ bỏ. 156
  45. Từ bỏ. 159
  46. Tự do hay là chết – Như Hạ, OP. 162
  47. Kính mến Chúa trên hết mọi sự – Cao Huy Hoàng. 167
  48. Từ bỏ. 171
  49. Cuộc xuất hành mới – Đỗ Lực, OP. 175
  50. Từ bỏ. 182
  51. Điều kiện làm môn đệ Chúa Kitô. 186
  52. Từ chối – Lm. Vũ Đình Tường. 188
  53. Đồ bỏ – Lm. Vũ Đình Tường. 190
  54. Xiềng xích. 192
  55. Môn đệ Đức Giêsu- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.. 195
  56. Đường dễ đi là ngõ cụt. 198
  57. Vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu- JKN. 201
  58. Ai xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu?. 206
  59. Môn đệ Đức Kitô- Lm. Bùi Quang Tuấn. 211
  60. Con đường theo Chúa. 214
  61. Điều kiện làm môn đệ Chúa Kitô. 217
  62. Từ bỏ trên con đường theo Chúa. 219
  63. Niềm vui lớn hơn – Lm. G. Nguyễn Cao Luật 225
  64. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng. 231
  65. Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh. 234
  66. Theo Chúa. 238
  67. Làm môn đệ Chúa Kitô những điều kiện phải có. 240
  68. Từ bỏ và vác Thập Giá. 252
  69. Suy Niệm Chúa Nhật 23 Thường Niên. 255
  70. Điều kiện làm môn đệ Chúa Giêsu. 263
  71. Những điều kiện để bước theo Đức Giêsu. 265
  72. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin. 272
  73. Chú giải của Noel Quesson. 275
  74. Chú giải của R. Gutzwiller. 281
  75. Chú giải của Fiches Dominicales. 288
  76. Suy niệm của William Barclay. 294
  77. Tính toán – Trầm Thiên Thu. 298
  78. Theo Chúa, phải từ bỏ tình cảm tự nhiên. 305
  79. Trung thành theo Chúa. 310

 

1. Trở thành môn đệ của Chúa – Dã Quỳ

Con đường Chúa Giêsu đang đi là đường tiến về Giêrusalem, nơi cuộc tử nạn thập giá đang chờ Người. Trên con đường ấy, có nhiều người đang đi cùng với Chúa. Đi cùng nhưng có lẽ họ đã chưa thực sự theo và là môn đệ của Chúa! Vì thế, Chúa đã chỉ cho họ biết những điều kiện để trở thành môn đệ. Với mỗi người Kitô hữu, qua Phép Rửa, chúng ta cũng được mời gọi trở thành môn đệ của Chúa. Vậy ta cùng dừng lại để nghe những lời Chúa nhắn nhủ với chính chúng ta hôm nay.

– “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con. anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.”- Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta một sự từ bỏ trọn vẹn để gắn bó với Người cách triệt để. Thoạt nghe những lời này, ta cảm thấy như khó chấp nhận và không để thực hiện. Thế nhưng, chúng ta biết rõ rằng Chúa muốn chúng ta yêu thương những người thân của ta. Tình yêu con cái, tình yêu vợ chồng, tình huynh đệ, tình bạn bè… trong sáng đều được Chúa chúc lành và thánh hóa. Nhưng ở đây, Chúa muốn tình yêu chúng ta yêu Thiên Chúa phải là tình yêu lớn nhất,  tình yêu vượt qua tất cả tình yêu khác và linh hoạt tất cả. Tình yêu dành cho Chúa là yêu hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Như trong Mười Giới Răn ta vẫn đọc “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.”

Chúa Giêsu khẳng định ai muốn theo Chúa và trở thành môn đệ  thì cần yêu mến Chúa hơn bất cứ ai khác, hơn cha mẹ, anh em, vợ chồng. Vì “Ai yêu cha, yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy.”(Mt 10,37) Khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trái tim chúng ta sẽ rộng mở và rồi ta có thể yêu cha mẹ, anh em với một tình yêu phổ quát, không điều kiện, không biên giới, vô vị lợi chứ không phải chỉ là một tình cảm cỏn con ích kỷ và hẹp hòi!

Vì thế, để theo Chúa Giêsu, chúng ta cần yêu mến Chúa trên hết mọi sự và chọn một mình Chúa là Chủ, là Chúa của đời ta. Thách đố cho chúng ta, nhất là những bạn trẻ Kitô hữu, chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao danh vọng, tiền tài… người ta đam mê những cầu thủ bóng đá, những minh tinh màn bạc hay ngôi sao ca nhạc…và xem họ là thần tượng đời mình! Vậy khi được hỏi: Bạn hâm mộ ai nhất? Yêu thích ai nhất? Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy mạnh dạn và thực lòng trả lời : Đó là Chúa Giêsu- Thần tượng của tôi, Đấng tôi hâm mộ, yêu mến nhất. Xin Chúa Thánh Thần trợ giúp và đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng ta, để dẫu cho cuộc sống đầy dẫy những cám dỗ, khó khăn ngăn cản, ta vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu và có thể vác thập giá đời mình theo Người.

– “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.”- Theo Chúa Giêsu, đòi ta trả một giá đắt; cần phải đầu tư không tiếc công sức và tâm trí; cần phải dấn thân trọn vẹn “Vác Thập giá mình”. Trong thời đại chúng ta, không còn thấy những cảnh vác thập giá trên đường, nhưng những thính giả của Chúa và những độc giả của thánh Luca thì đã chứng kiến tất cả cảnh những người bị kết án tử phải vác thập giá đến tận nơi người ta đóng đinh mình. Và Chúa Giêsu không quên điều đó vì Người đang trên đường lên Giêrusalem, ở đó, chính Người sẽ trao tặng cho chúng ta khung cảnh đau thương với thân xác tan nát vì roi đòn và thập giá trên vai vác đến tận nơi hành hình Người. Đó là con đường thập giá, con đường của dấn thân và tự hiến, con đường đánh bại tội lỗi, sự dữ và cái chết, con đường dẫn đến vinh quang Phục Sinh vinh hiển của Chúa.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, những người Kitô hữu “Vác thập giá mình đi theo Chúa” với lòng trung tín đến cùng trong mọi hoàn cảnh diễn ra trong cuộc sống đời thường. Những đau khổ, khó khăn của cuộc sống Kitô hữu không làm chúng ta ngạc nhiên nữa. Không còn những chịu đựng nhăn nhó, miễn cưỡng…nhưng là nhìn ngắm và đón nhận đau khổ như một sự hiệp thông với Chúa Giêsu, như được tham dự với công trình cứu độ và như một “Bước theo Chúa”. Khi chúng ta biết đón nhận những đau khổ, bệnh tật, yếu đuối của bản thân, vất vả lao động, lo toan cho gia đình, …..với lòng quảng đại và tin tưởng, ta sẽ được tràn đầy bình an, hy vọng, vượt thắng được những sợ hãi, những bất công và chia rẽ trong cuộc đời.

Vác thập giá mình theo Chúa là chúng ta đi trên con đường riêng của Chúa Giêsu, con đường mang đến cho nhân loại ơn cứu độ. Khi đối mặt với gian nguy, đau khổ, sự dữ… đáp trả duy nhất của Kitô hữu là hy sinh hiến thân, là trao ban cả cuộc sống riêng, là yêu thương phục vụ. Chúng ta đừng trốn tránh hay quên đi thập giá đời mình nhưng hãy can đảm vác và bước đi trong vui tươi, hạnh phúc. Ta chọn theo Chúa, đón nhận những đau đớn như thập giá trên vai nhưng ta không khổ sở, vì chính thập giá là trường đào luyện ta trở thành môn đệ của Chúa. Chính Chúa Giêsu đã bước đi trên con đường thập giá và ai biết từ bỏ tất cả để đi theo Người, sẽ được tiến vào sự sống vinh quang. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu, Đấng đi trước và chúng ta theo sau Chúa.

– “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”- Từ bỏ là khởi đầu cho một chọn lựa. Chọn lựa ấy đòi chúng ta suy tính và phải bền chí như hai việc Chúa đưa ra là xây dựng và chiến đấu. Theo Chúa, cần có sự suy nghĩ chín chắn. Phải “Ngồi xuống” để tính xem ta cần làm gì, chuẩn bị gì và phải từ bỏ những gì. Chúa muốn chúng ta là suy nghĩ để biết từ bỏ những gì không phù hợp với lối sống của người theo Chúa, chứ không phải tính toán thiệt hơn theo kiểu thế gian. Như thánh Phêrô, nhiều lúc ta cũng so đo với Chúa “Thầy coi, …chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27) Nhưng ta tin chắc vào phần thưởng mà Chúa Cha nhân lành sẽ ban cho chúng ta là sự sống đời đời làm gia nghiệp và được là con cái của Thiên Chúa tình yêu. Ước gì ta có thể xác tín như thánh Phaolô “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu-Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô.”( Pl 3,8)

Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta, chính Người đã thực hiện, đã sống và nêu gương cho ta. Chúa đã từ bỏ tất cả vinh quang và địa vị là Thiên Chúa để nhập thể, sống như con người. Chúa đã yêu thương nhân loại đến cùng, đã vác thập giá trong suốt hành trình làm người, đã xuống tận cùng nỗi khổ đau của con người và đã chết trên thập giá để cứu chúng ta. Tất cả chúng ta  được mời gọi cách cá nhân trở thành môn đệ của Chúa và bước đi theo Người. Điều kiện để trở thành môn đệ của Chúa là “Yêu mến Người trên hết mọi sự, vác thập giá mình và từ bỏ hết những gì mình có”, không dễ thực hiện chút nào! Thế nhưng Chúa không đòi chúng ta thành công, mà Người chỉ mong ta cố gắng. Vậy chúng ta hãy đặt trọn niềm tin vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần để rồi từng ngày, chúng ta có thể trở thành những Kitô hữu trung thành và những môn đệ tốt lành của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã từ bỏ tất cả để nhập thể, nhập thế; đã vác thánh giá, Tử Nạn và Phục Sinh để cứu độ chúng con. Xin nâng đỡ và giúp sức cho chúng con dám từ bỏ những danh lợi thú thế gian mà can đảm vác thập giá bước theo Chúa. Amen.

 

2. Cùng đi với Đức Giêsu – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Ở Giêrusalem, hàng năm cứ đến ngày thứ sáu tuần Thánh, từng đoàn người cùng với chủ chiên vác thập theo chính con đường Đức Giêsu đã vác thập giá lên núi Sọ chịu đóng đinh.

Ở Rôma cũng long trọng diễn ra cảnh Đức Giáo Hoàng cùng với đoàn tín hữu vác thập giá lên đồi Vaticanô vào ngày thứ sáu Tuần Thánh để thờ kính Thánh giá Đức Giêsu và những Thánh giá của thánh Phêrô, thánh Phaolô và hàng ngàn Thánh giá của các thánh tử đạo đã chịu đóng đinh suốt 300 năm thời Giáo hội sơ khai.

Ở Việt Nam chúng ta chưa thấy diễn ra cảnh vác Thánh giá như thế, chỉ thấy rước Thánh giá và viếng chặng đàng vào cuối thứ sáu Tuần Thánh. Phải chăng chúng ta chưa vác nổi thập giá mình đi theo Đức Giêsu chăng? Có lẽ chúng ta đi theo Người giống như đám đông đi theo Đức Giêsu xưa: “Họ cùng đi đường với Đức Giêsu đông lắm”. Nhưng, không cùng vác thập giá với Người, mà chỉ đi theo Người vì nhiều lý do lợi lộc, như được chữa khỏi bệnh tật, được ăn bánh hóa nhiều, mong được giải phóng nô lệ Rôma hay được địa vị sang trọng khi Người làm Vua, làm Đấng Cứu thế cai trị muôn dân. Vì thế, Người quay lại bảo họ: “Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được”. “Ai không vác thập giá mình đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được”. “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi được”.

Vậy muốn cùng đi đường với Đức Giêsu chúng ta phải làm gì? Một là từ bỏ, hai là vác thập giá, ba là vâng ý Cha.

Một là từ bỏ: yêu cầu đầu tiên của Đức Giêsu là dứt bỏ mọi liên hệ gắn bó với mình, như: cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình, từ bỏ hết những gì mình có. Đức Giêsu là ai mà đòi hỏi họ phải gắn bó với chính Người hơn là cha mẹ, vợ con, và cả mạng sống mình? Chỉ có Thiên Chúa mới dám yêu cầu như thế, vì giới răn trọng nhất là “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Dnl. 6, 5). Đức Giêsu cũng đòi buộc họ yêu mến Người như thế. Vậy Người đòi họ phải tin Người là Thiên Chúa. Khi họ tin Người là Thiên Chúa, thì yêu mến Người là làm cho tình yêu của họ được vươn lên tới tình yêu của Thiên Chúa: “Anh em hãy yêu nhau như Thầy yêu anh em”. Tình yêu của họ được tái sinh, được đổi mới, được siêu thăng, thành tình yêu thăng tiến, tình yêu thánh hóa, tình yêu siêu nhiên và tình yêu cứu độ vinh phúc muôn đời. Họ được giải thoát khỏi tình yêu phàm trần chỉ bám vào xác thịt bên ngoài, chỉ lo cho đời sống vật chất tạm bợ, chóng tàn. Loài người, dù vĩ đại như Khổng Tử cũng chỉ dậy: Hiếu có ba: đại hiếu tôn trọng cha mẹ, thứ đến không làm ô nhục, sau là nuôi dưỡng – “Hiếu hữu tam: Đại hiếu tôn thân. Kỳ thứ phất nhục. Kỳ hạ năng dưỡng” (lễ ký, tế nghĩa). Như vậy, yêu mến hiếu thảo cha mẹ vẫn còn trong vòng tình cảm loài người. Đức Giêsu đòi ta dứt bỏ thứ tình yêu tầm thường hạn hẹp đó, để vươn lên tình yêu như Thiên Chúa: Người đã yêu thương dựng nên ta, sống nên một với ta, mang lấy đau thương tật nguyền, tội lỗi và cả cái chết của ta, cho ta được sống và được sống dồi dào hạnh phúc vinh quang đời đời. Nhờ tình yêu như Thiên Chúa, Phaolô đã nhận Ônêximô làm con, làm anh em rất thân mến, chứ không còn là nô lệ nữa.

Hai là vác thập giá mình đi theo Ta. Thập giá Đức Giêsu là gì? Là hình khổ do người Hy Lạp và Rôma lập ra để phạt đóng đinh treo trên thập giá những kẻ nô lệ phạm tội và những kẻ trọng tội không phải công dân của Rôma. Đức Giêsu đã chịu cực hình đó như kẻ tử tội, khốn cùng, bị chúc dữ, ô nhục và chết đi để làm giá cứu chuộc muôn dân. Như vậy, Người đã biến khổ giá loài người thành Thánh giá, biến đau khổ thành hạnh phúc, biến chúc dữ thành chúc lành, biến ô nhục thành vinh quang, biến sự chết thành sự sống muôn đời; như Người đã biến thân nô lệ thành thân Đấng Cứu thế, biến những chum nước lã thành rượu ngon, biến bánh rượu vật chất thành Mình Máu thánh Người.

Thập giá chúng ta cũng là những cực khổ, những sự dữ, những xỉ nhục, những thử thách gian nan, những sự chết dần dần. Chúng ta phải biết hy sinh vác đi theo Chúa để Chúa biến đổi những khốn khổ đó thành giá cứu chuộc chúng ta và mọi người, như những giọt nước hòa tan trong rượu nho làm của lễ dâng lên Chúa.

Ông Simon đã vác thập giá mình theo Chúa. Xin cho mỗi người chúng con được vinh phúc như ông Simon.

Ba là sống theo Thánh ý Thiên Chúa: Đức Giêsu đã xin vâng ý Cha để từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, hạ mình xuống làm thân nô lệ, vâng lời Cha chịu chết trên Thánh giá. Người đã thực hiện ý Chúa Cha vì Chúa Cha đã thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống phong phú, như vậy, lý do Người từ bỏ mình và vác Thánh giá là vâng ý Cha, để yêu mến Chúa Cha trọn vẹn và yêu thương loài người đến thí mạng sống. Chúng ta muốn cùng đi với Đức Giêsu, muốn vác thập giá mình đồng hành với Đức Giêsu, cũng phải vâng ý Cha như Đức Giêsu, vì ý của Thiên Chúa ban đức khôn ngoan của thượng giới cho chúng ta được cứu độ. Đó là nền tảng vững chắc để xây dựng nhà cho chúng ta ở vĩnh viễn trên trời. Đó là sức mạnh của chúng ta đi giao chiến với tướng quỷ để chúng ta chắc chắn chiến thắng.

Lạy Chúa, vinh dự của chúng con là thập giá Đức Kitô.

Tình yêu của chúng con là đồng hành với Đức Giêsu.

Lẽ sống của chúng con là làm theo Thánh ý Người.

 

3. Theo và vác Thập Giá – Huệ Minh

Lời Chúa như ngọn đèn pha soi tỏ sự thật về chúng ta. Tôi chưa thật sự là môn đệ của Chúa Giêsu, nếu cách này hay cách khác, tôi còn loay hoay tìm kiếm “những gì đó” cho mình dọc theo con đường tôi theo Chúa. “Những gì đó” có thể là tiền bạc, của cải vật chất, song cũng có thể là quyền lực, danh vọng, địa vị… Và tôi chưa thật sự là môn đệ của Chúa Giêsu, nếu người ta nhìn vào tôi và họ không tìm thấy một thập giá nào cả, mà có khi lại là những thứ đối nghịch với thập giá!

Trang Tin Mừng hôm nay phải được gọi theo thánh Phaolô là “sự điên rồ của Thiên Chúa”. Sự điên rồ đã thúc đẩy Chúa Giêsu đến độ hóa thân làm người và chết cho tất cả những người tội lỗi.

Những ai chọn theo Đức Kitô không còn có thể ở lại trong bình diện lí luận nữa, mà phải đi vào tình yêu. Và chỉ như thế chúng ta mới thể lắng nghe và đón nhận lời mời gọi của Đức Kitô hôm nay:

“Nếu ai muốn theo Thầy mà không yêu mến Thầy hơn cha, mẹ, vợ con và ngay cả cuộc sống riêng của mình thì không thể làm môn đệ Thầy”.

Nghe lời ấy, chúng ta rất dễ bị cám dỗ muốn so sánh Chúa Giêsu với một người độc tài áp đặt những đòi hỏi phi lí.

Chúa Giêsu nói với những ai muốn làm môn đệ Người. Người nói với quần chúng đông đảo, làm chứng Người muốn kêu gọi hết mọi người và muốn mọi người được hạnh phúc.

Do đó, Lời của Chúa Giêsu không dành riêng cho một nhóm người nào. Ðừng bảo những lời ấy chỉ có giá trị đối với người Do Thái đồng thời với Người. Cũng đừng nói ngày nay những lời ấy chỉ dành cho linh mục và tu sĩ. Chúa Giêsu nói với tất cả chúng ta ngày hôm nay. Người bảo: Muốn đến với Người và làm môn đệ của Người phải ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống của mình nữa. Lại phải vác khổ giá mình mà đi sau Người. Và phải từ bỏ của cải mình đi hết thảy.

Dĩ nhiên Chúa chẳng vô lý đòi chúng ta bỗng dưng phải bỏ cha mẹ, bạn hữu, mạng sống và của cải. Con người ở đời phải có những sự ấy. Và nếu những sự ấy giúp chúng ta đến với Chúa và làm môn đệ của Người, thì có chi mà phải ghét bỏ? Nhưng khi mà những sự ấy trở thành chướng ngại vật cho chúng ta trên đường đi theo Chua, thì hôm nay Người bảo chúng ta phải dứt khoát lựa chọn: hoặc bỏ chúng để được Người, hoặc giữ chúng mà mất Người. Không có lối thoát nào khác. Không phải vì Chúa quá đòi hỏi; nhưng giữa ánh sáng và tối tăm, giữa tình yêu và hận thù, người ta phải lựa chọn.

Thế nên, tiếp theo Chúa bảo người ta phải suy nghĩ, cân nhắc. Như người muốn xây tháp, như vua sắp đi giao chiến, phải suy tính kỹ lưỡng kẻo tháp xây không nổi, đánh trận sẽ thua, khiến không những bị cười nhạo mà cuộc đời cũng tiêu luôn.

Người ta phải suy nghĩ trước khi đi theo Chúa. Và theo Chúa không như theo bất cứ một ai. Những người Do Thái đồng thời với Ðức Giêsu còn có thể hiểu lầm được, chứ ngày nay chúng ta đã thấy rồi, Chúa đã đi con đường thập giá, ai muốn đi sau Người, cũng phải mang lấy thập giá.

Kẻ muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu Kitô phải vác thập giá đi sau Ðấng đã vác thập giá mở đường cứu độ cho muôn người. Ðối với những thính giả ở thời Ðức Giêsu, điều này có một ý nghĩa rất cụ thể. Người ta vẫn thấy những tên tù tội phải vác thập giá đi đến nơi chịu tử hình. Ngày nay chúng ta đã thấy Ðức Giêsu đi như thế. Ai đi sau Người tất bị khai trừ bởi những ai phủ nhận đường lối Người đã đi. Không chấp nhận bị khai trừ như vậy không thể làm môn đệ của Người được. Và khi đi vào con đường thập giá như vậy, làm sao còn có thể bám vào của cải thế gian nữa? Do đó hãy hiểu hai đòi hỏi “ghét cha mẹ” và “từ bỏ của cải” như là điều kiện và hậu quả của việc lựa chọn đi vào đường lối của Chúa, khi tình yêu tự nhiên và của cải thế gian ngăn trở người ta bước đi sau Chúa để trở thành môn đệ của Người.

Khi theo Ngài, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải vác thập giá mình mà theo (Lc14, 27). Thập giá ở đây là gì? Đó chính là đời sống ta, là trách nhiệm mà Thiên Chúa trao gửi cho ta. Hãy hoàn thành trách nhiệm của mình một cách hoàn hảo, chúng ta sẽ hân hoan và tự tin đi theo Người. Nếu bạn là một người tu sĩ ư? Hãy sống trọn đời sống của người tu sĩ. Bạn là một người cha ư? Hãy sống trọn trách nhiệm của một người cha, biết lo cho gia đình và nuôi dạy con cái nên người. Bạn là một giáo sư ư? Hãy làm trọn bổn phận của mình, hãy chuẩn bị giáo án đầy đủ và trao gửi tâm huyết, kiến thức của mình cho thế hệ trẻ để giúp họ nên người trưởng thành. Vác thập giá mình để đi theo Đức Giêsu chính là đi đến tận cùng của tình yêu. Đó chính là làm mọi việc vì tình yêu.

Và người môn đệ Chúa Giêsu phải là người biết ngồi lại, suy nghĩ như một người muốn xây tháp hay như ông vua chuẩn bị giao chiến (Lc 14, 28-32). Người môn đệ không phải là người vô tri, hành động thiếu suy nghĩ, nhưng là người biết dùng sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban tặng cho anh để phân định và phục vụ tốt hơn. Phục vụ nước Thiên Chúa giữa đời.

Theo Chúa Giêsu là đi ngược lại những cách sống của thời đại chúng ta. Sự chọn lựa của tin mừng có thể kéo theo những đoạn tuyệt đau đớn. Nó sẽ quấy rầy chúng ta trong các thói quen, tiện nghi chúng ta. Đó là trường hợp của những người sẵn sàng hi sinh thời giờ để giảng dạy giáo lí, coi sóc một nhóm trẻ hoặc tham dự vào các hội đòan và làm việc phục vụ giáo xứ. Vị trí ưu tiên dành cho tình yêu Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, đặc biệt cho những người bé nhỏ, những kẻ đau yếu, những người bị lọai trừ. Ngài mời gọi tất cả chúng ta đi theo Ngài để trở thành chứng nhân trong thế giới hôm nay.

Của cải đời này cũng thật đáng quý, nhưng khi cần, người ta sẵn sàng từ bỏ của cải để dành lấy những giá trị cao hơn. Khi bị cướp hăm doạ tính mạng và đòi lấy của cải bạc tiền, người ta sẵn sàng bỏ của lấy người. Khi bị một chứng bệnh nan y đe doạ cướp đi mạng sống, người ta sẵn sàng bỏ ra hàng tỉ bạc để kéo dài đời sống, dù chỉ sống thêm được một năm.

Qua cuộc đời từ bỏ của mình, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy từ bỏ không là mất đi nhưng là được lại và là được lại gấp nhiều lần.

Làm môn đệ Chúa Giêsu, đó không hề là một chuyện ‘rẻ tiền’, dễ dãi. Bởi vì điều ấy giả thiết rằng người ta phải sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì thiết thân nhất của mình – dù đó là cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, hay cả mạng sống mình nữa. Nhưng từ bỏ mới chỉ là một phần việc. Phần còn lại càng thách đố hơn gấp bội: Vác thập giá mình mà đi theo Chúa Giêsu! Thập giá không chỉ gợi liên tưởng cái chết, mà đó còn là cái chết thê thảm, cái chết tận cùng nhục nhã. Chúa Giêsu không hề lập lờ, giấu giếm các điều kiện để theo Ngài. Trái lại, Ngài rất rõ ràng về các đòi hỏi đối với những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu. Đó là không giữ lại cho riêng mình bất cứ điều gì; trái lại phải sẵn sàng chịu tước mất tất cả, ngay cả mạng sống mình, dù một cách ê chề, nhục nhã.

Nếu chúng ta yêu thương Chúa Giêsu thì ta hãy để Ngài đi vào trong cuộc sống của chúng ta. Sự hiện diện của Ngài là một luồng Ánh sáng đến ở trong cuộc đời chúng ta và biến đổi từ bên trong. Khi cử hành Thánh lễ, chúng ta có thể múc tận nguồn để tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta đi theo Đức Kitô. Chúng ta hãy cầu xin Ngài ban cho chúng ta sức mạnh để trở thành nhân chứng nhiệt thành cho tình yêu của Người trong cuộc sống hôm nay.

 

4. Độc thân

Phát biểu trong Thượng hội đồng Giám mục thế giới, nhóm họp tại Rôma vào tháng 10.1990, Đức Cha Nguyễn Văn Hoà, Giám mục Nha Trang đã đề cao chứng tá của đời độc thân linh mục. Ngài cho biết: Sở dĩ các linh mục ở Việt Nam được kính trọng là nhờ ở đời sống độc thân. Đồng thời cũng nhờ đời sống độc thân mà các linh mục xứng đáng được gọi là thầy. Như chúng ta đã biết linh mục là Alter Xtus, là Đức Kitô thứ hai. Nếu Đức Kitô đã được gọi là Thầy nhờ vào sự tận hiến của Người, thì các linh mục cũng thế, muốn được gọi là thầy, thì cũng phải sống tâm tình hiến dâng.

Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã nhiều lần xác quyết: Ai không từ bỏ cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Là môn đệ của Chúa, chúng ta phải trở nên giống Người, có nghĩa là chúng ta cũng phải dâng hiến, và sự dâng hiến trọn vẹn nhất cho Chúa, chính là cuộc sống độc thân của các linh mục và tu sĩ.

Trên bình diện Giáo Hội, sự độc thân của các linh mục tu sĩ chính là một kho tàng Thiên Chúa đã trao tặng cho Giáo Hội, bởi vì nhờ đó các ngài không còn bị ràng buộc bởi hôn nhân, bởi gia đình, bởi tài sản và những tiện nghi vật chất khác nữa.

Nhìn vào xã hội Việt Nam, chúng ta thấy có những thuận tiện cho việc độc thân của linh mục và tu sĩ, bởi vì các tín hữu luôn quý mến và nâng đỡ các ngài, chính những tình cảm nồng hậu ấy trở nên như một hàng rào bảo vệ cho sự độc thân của các ngài. Đó không phải chỉ là một ơn riêng cho bản thân linh mục mà còn là một quà tặng chung cho Giáo Hội, bởi vì các ngài trở nên như những chứng tá cho Giáo Hội, đồng thời qua sự độc thân ấy, các ngài như muốn mời gọi tất cả chúng ta: Hãy sống trọn vẹn cho Thiên Chúa, đó cũng là một ơn gọi chung cho mọi người tín hữu.

Thực vậy, sự nên thánh không bao giờ có một biên giới bởi vì mọi người đều được mời gọi để nên thánh. Các linh mục và tu sĩ thì nên thánh qua bậc độc thân của mình, còn người giáo dân thì nên thánh qua bậc gia đình và môi trường sống của mình. Chính vì thế sống bậc gia đình không phải là một cái gì thấp kém nhưng cũng là một ơn gọi. Nếu chúng ta trung thành trong đời sống vợ chồng, nếu chúng ta chu toàn được những bổn phận của mình trong phạm vi gia đình, chúng ta cũng có thể nên thánh.

Chúa Giêsu không đến để hạ giá đời sống gia đình, nhưng trái lại Người đã nâng nó lên hàng bí tích và lấy nó làm hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Người và Giáo Hội. Nếu như linh mục phải đi cho đến tận cùng lời cam kết độc thân của mình, thì chúng ta, những người giáo dân, chúng ta cũng phải đi cho đến tận cùng lời cam kết hôn nhân của mình.

Bởi đó chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục cũng như cho mỗi người chúng ta biết sống trọn vẹn cho Chúa trong bậc sống của mình ở mọi nơi và trong mọi lúc.

 

5. Đòi hỏi của tình yêu – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.

Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.

Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.

***

Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?

Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mi 10, 37).

Vậy ý của Chúa Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.

Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.

Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.

Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm cày mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đúng như Pierre Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.

***

Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.

Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hôi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen.

 

6. Như người tôi tớ.

Theo sự tính toán của người đời, thì mỗi khi chúng ta theo đuổi một con người, một công việc hay một chế độ nào, thì chúng ta phải thu lại được những lợi lộc vật chất hay những địa vị danh giá. Đó là điều hết sức bình thường và hợp lý. Chính mười hai môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu cũng đã có một tâm trạng như vậy.

Chẳng thế mà có lần các ông đã không biết sượng sùng khi đặt thẳng câu hỏi này với Chúa: “Lạy Thầy, chúng con đã bỏ hết mọi sự để theo Thầy, vậy thì chúng con sẽ được lại những chi?”. Các ông cũng đã từng tranh cãi xem ai trong các ông là người quan trọng nhất trong cái triều đình của Chúa. Các ông cũng đã từng bực dọc ghen tức khi thấy mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin Chúa dành cho hai con mình những chỗ ngon nhất, đó là được ngồi bên tả và bên hữu Chúa.

Đứng trước quan niệm thông thường ấy của các môn đệ, của những người theo Chúa, Ngài đã có một lập trường khác hẳn, vừa khó nghe lại vừa khó hiểu. Ngài nói: Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai yêu con trai, con gái hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ giữ lấy được. Lần khác Chúa cũng nói: Ai là người nhỏ nhất trong anh em thì kẻ ấy sẽ là người lớn nhất. Và Ngài cũng đã khuyên nhủ các môn đệ: Vương giả trần gian thì làm chúa thiên hạ và những ai cầm quyền thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con thì đừng làm như thế, trái lại ai lớn nhất trong các con thì phải trở nên người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu thì phải hầu hạ mọi người. Thầy sống giữa các con như một kẻ tôi tớ.

Những lời mời gọi chói tai này đã làm cho không ít người phải khó chịu, nhưng đồng thời cũng những lời tuyên bố ngược đời này vẫn không ngừng lôi cuốn biêt bao người dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, không biết đâu là giới hạn. Nếu Đức Kitô chỉ là một con người bình thường, hoặc giả là một bậc vĩ nhân đi nữa, mà nếu Ngài chỉ nói suông như thế thì cũng chẳng mấy ai tin. Nhưng Ngài còn là Con Thiên Chúa và lời Ngài có được cái giá trị siêu việt. Hơn nữa, chính Ngài đã lấy cả cuộc sống và cái chết để minh chứng lời Ngài là sự thật. Còn chúng ta thì sao? Trước lời mời gọi của Chúa, chúng ta có dám sống tinh thần từ bỏ và chấp nhận mọi hy sinh để bước theo Chúa hay không?

 

7. Thập giá đời thường.

Khi ngắm đàng thánh giá, giữa mỗi chặng chúng ta thường đọc:

– Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô. Vì Chúa đã dùng thánh giá Chúa mà chuộc tội cho thiên hạ.

Và hôm nay, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu cũng bảo:

– Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Ta.

Điều Chúa muốn là mỗi người hãy ngồi lại để nhận rõ đâu là thập giá của mình để vác theo Chúa, để không còn than thân trách phận, để không còn trốn chạy và bỏ cuộc.

Nói thế chúng ta cứ tưởng là một điều gì xa vời nhưng trái lại, đó là một điều thật gần gũi, bởi vì trong chương trình cứu độ, Chúa bao giờ cũng để thập giá vừa tầm tay mỗi người. Chu toàn bổn của mình hằng ngày đó chính là cây thập giá đời thường mà mỗi người phải trung thành vác cho đến cùng, mặc dù nhiều khi cũng cực nhọc, vô vị và đơn điệu lắm.

Dầu muốn dầu không, một khi đã sống trên cõi đời này, chúng ta vẫn phải kề vai vác lấy thập giá của mình. Chi bằng hãy can đảm vác lấy với Chúa và theo Chúa, lúc đó chúng ta sẽ cảm thấy được bình an trong tâm hồn, và tìm thấy được những giá trị cao cả hơn.

Người ta hỏi một anh đạp xích lô như thế này:

– Anh đạp xích lô để làm gì?

– Tôi đạp xích lô để kiếm tiền.

– Vậy anh kiếm tiền để làm gì?

– Tôi kiếm tiền để mua gạo ăn?

– Mua gạo ăn để làm gì?

Để đạp xích lô.

Và chúng ta gọi đó là một chiếc vòng luẩn quẩn. Phải, cuộc đời mỗi người chúng ta cũng thế. Nếu không cố gắng vươn lên, chúng ta cũng sẽ mãi mãi ở trong chiếc vòng luẩn quẩn ấy. Tuy nhiên đối với chúng ta thì không phải chỉ có vậy, bởi vì chúng ta phải vươn lên tới những giá trị siêu nhiên. Thực vậy, nếu chúng ta đạp xích lô để chu toàn bổn phận Chúa trao phó là lo lắng cho cuộc sống của mình và của gia đình, như lòng Chúa mong ước, nói cách khác, nếu chúng ta biết làm những công việc nhỏ bé tầm thường ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì đó là chúng ta đang vác thập giá mình với Chúa và theo Chúa.

Như vậy, chúng ta có thể nói cuộc đời chúng ta chồng chất những thập giá bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau chẳng hạn như bệnh hoạn tật nguyền, chết chóc tang tóc… đều là một thập giá. Tuy nhiên, cùng với Chúa chúng ta sẽ không thất vọng chán nản, trái lại chúng ta sẽ vui mừng và phấn khởi, bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau sẽ là một sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời chúng ta và làm cho tấm vải cuộc đời ấy thực sự có một giá trị siêu nhiên cao quý trước mặt Chúa.

Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không đi vào ngõ cụt vô nghĩa, sẽ không đi vào sự chết, nhưng sẽ tiến đến vinh quang phục sinh muôn đời với Chúa.

 

8. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

LÀM MÔN ĐỆ CỦA CHÚA

Ai trong chúng ta cũng mong ước được làm môn đệ của Chúa. Ai cũng muốn theo chân Chúa. Nhưng ta có thực sự hiểu làm môn đệ Chúa là như thế nào không? Hôm nay Chúa chỉ cho ta thấy rõ điều đó.

Làm môn đệ là một việc làm nghiêm túc. Đây không phải là một cảm tính bồng bột nhất thời. Nhưng là một việc lâu dài. Chúa Giêsu ví việc làm môn đệ theo Chúa với việc “xây dựng một cây tháp” và việc “chiến đấu với kẻ thù”. Xây dựng cây tháp là một việc làm lớn lao. Chiến đấu với kẻ thù là việc làm nghiêm trọng. Vì thế cần phải ngồi xuống suy tính cho cẩn trọng, chi li. Cũng thế việc làm môn đệ của Chúa là một việc làm nghiêm túc, vừa lớn lao như sự nghiệp cả đời, vừa nghiêm trọng vì ảnh hưởng tới cả định mệnh. Vì thế phải ngồi xuống suy tính cho kỹ lưỡng để có thể theo Chúa đến cùng. Phải suy tính kỹ lưỡng vì làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng.

Làm môn đệ là từ bđến tận cùng. Môn đệ không phải là kẻ hiếu kỳ cưỡi ngựa xem hoa. Môn đệ không phải là kẻ tài tử nay làm mai không. Môn đệ là người đi theo thày suốt đời, sống như thày trong mọi sự. Chính vì thế mà phải coi thày là thần tượng duy nhất, không yêu mến thày. Chính vì thế mà phải từ bỏ tất cả, không chỉ người thân mà từ bỏ cả chính bản thân với những ý nghĩ riêng tư. Để không những đi theo thày, sống như thày mà con ăn nói như thày, suy nghĩ như thày nữa. Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong mình. Muốn có Chúa Kitô trong mình, ta phải loại bỏ tất cả những gì không phải Chúa ra khỏi mình. Điều này chắc chắn không dễ dàng. Nhưng ta an tâm, vì Chúa Giêsu không chỉ đòi hỏi ta. Người đã đòi hỏi chính mình trước. Chúa Giêsu không chỉ đòi ta vác thánh giá. Chính Người đã vác thánh giá trước. Ta sẻ cảm thấy dễ dàng vì chỉ việc làm như Chúa Giêsu.

Làm môn đệ là làm như Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.

Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Làm môn đệ là gì?
  2. Chúa Giêsu đã nêu gương từ bỏ thế nào?
  3. Tại sao ta phải từ bỏ tất cả?

 

9. Từ bỏ hết. – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Sống là chấp nhận từ bỏ.

Có những điều xấu phải từ bỏ như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc…

Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống…

Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc. Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng. Tắt Tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình. Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.

Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn. Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con. Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.

Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.

Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.

Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả, chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền, chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể. Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.

Kitô hữu là người đã chọn theo Đức Giêsu.

Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.

Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.

Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.

Kitô hữu là người sống từ bỏ như Đức Giêsu.

Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta, đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.

Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Đức Giêsu.

Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Đức Kitô.

Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài, chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.

Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.

Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pizza.

Điều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.

Điều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.

Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.

Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.

Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.

Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.

Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.

Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.

Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận, vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.

Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.

Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.

Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.

Gợi Ý Chia S

Theo kinh nghiệm của bạn, từ bỏ điều gì là khó hơn cả? Bạn hãy cho biết lý do tại sao.

Có lần bạn đã rất vui khi làm một hy sinh, và bạn cảm thấy mình nhận nhiều hơn cho, được nhiều hơn mất. Bạn hãy kể lại.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.

Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cđể chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

 

10. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Ý thức cái giá phải trả khi làm môn đệ Chúa

“Từ bỏ mọi sự và vác thập giá theo Chúa”

(Lc 14, 25-33)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Mỗi ngày Chúa nhật khi chúng ta đến với Chúa, chúng ta đã được nghe Chúa nói với chúng ta nhiều điều, những điều rất ngọt ngào, những điều rất an ủi. Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta một điều không ngọt ngào lắm: Ngài muốn chúng ta phải hy sinh, phải từ bỏ.

Tại sao theo Chúa thì phải hy sinh và từ bỏ? Và phải hy sinh từ bỏ những gì?

Chúng ta hãy chú ý nghe Chúa giải thích. Và xin Chúa giúp chúng ta can đảm đáp lại lời kêu gọi của Ngài.

  1. Gợi ý sám hối

Phải chăng từ trước tới nay chúng ta đi theo Chúa vì tính toán vụ lợi, nghĩa là chỉ để được Chúa ban cho ơn này ơn nọ?

Phải chăng chúng ta ít biết hy sinh?

Phải chăng chúng ta rất ngại từ bỏ?

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Kn 9, 13-18)

Sách Khôn ngoan sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người về những vấn đề căn bản. Đoạn trích hôm nay bàn về giới hạn của sự hiểu biết của con người:

Ngay cả những vấn đề thuộc hạ giới, tức là những vấn đề trong tầm tay con người mà con người cũng phải rất nhọc công mới khám phá được, thậm chí nhiều điều con người không hiểu nổi.

Huống chi những vấn đề thuộc thượng giới, những vấn đề liên quan đến cuộc sống đời đời.

Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để mà đi theo và nhờ đó được ơn cứu độ.

  1. Đáp ca (Tv 89)

Tv này triển khai những ý tưởng của bài đọc I:

Thân phận con người rất mỏng manh: “như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn”

Do đó con người kêu xin Chúa: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”

  1. Tin Mừng (Lc 14, 25-33)
  2. Khung cảnh: Khi ấy “Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu”: họ đang cùng với Chúa Giêsu “tiến lên Giêrusalem”. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
  3. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu (“đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
  4. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
  5. Bài đọc II (Plm 9b-10. 12-17) (Chủ đề phụ)

Đây là một phần của bức thư Phaolô viết cho một tín hữu của ngài là Philêmon.

Hoàn cảnh: Khi ấy, một nô lệ của Philêmon tên là Ônêsimô bỏ nhà trốn đi có lẽ sau khi đã ăn cắp một số tiền. Do hoàn cảnh nào đó đẩy đưa, Ônêsimô gặp Phaolô đang ở tù. Ônêsimô xin theo đạo. Phaolô chấp thuận. Phaolô cũng quyến luyến Ônêsimô muốn giữ anh lại với mình, nhưng không thể được. Vì thế Phaolô quyết định gởi Ônêsimô về cho chủ. Nhưng Phaolô không gởi suông, mà cho Tychique đi kèm và còn mang theo lá thư này nữa cho Philêmon trong đó Phaolô tế nhị gợi ý Philêmon sẽ đón nhận Ônêsimô như một người anh em trong đức tin. Nhưng Phaolô không hề lạm dụng tình nghĩa của Philêmon đối với mình để làm áp lực, trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmon sẽ vì lòng tốt mà làm việc đó.

  1. Gợi ý giảng

* 1. Con đường theo Chúa

Thánh Luca mở đầu bài tường thuật này như sau:”Có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ”. Trong ngôn ngữ Thánh kinh, “đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Chúa Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi theo phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này Chúa Giêsu đã “quay lại bảo họ”, nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ.

Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn dặn dò kỹ các môn đệ là gì? Đọc tiếp đoạn Tin mừng chúng ta thấy Chúa dặn dò 2 điều: một điều tiêu cực là phải từ bỏ, một điều tích cực là phải vác thập giá. Chúng ta hãy suy nghĩ về từng điều:

  1. Điều thứ nhất là từ bỏ

a/ Tại sao làm môn đệ Chúa thì phải từ bỏ? Vì đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc.

b/ Vậy phải từ bỏ những gì? Chúa Giêsu kể: phải bỏ “cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình”. Qua cách nói “Cha mẹ, vợ con, anh chị em”, ý Chúa muốn nói tới gia đình; còn qua chữ “mạng sống”, ý Chúa muốn nói tới những gì thân thiết nhất của mình. Nhưng ta hãy hiểu cho đúng; Chúa không bảo người môn đệ phải bỏ những thứ vừa kể một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Gia đình là tốt, mạng sống là cần. Gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào mình cảm thấy 2 thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.

  1. Điều quan trọng thứ hai mà Chúa Giêsu căn dặn chúng ta là vác Thập giá

a/ Tại sao muốn đi theo Chúa thì nhất thiết phải với thập giá? Vì, như đã vừa nói ở phía trên, nếu đi theo Chúa giống như đi leo núi, thì thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.

b/ Điều thứ hai này có liên quan tới điều thứ nhất: chúng ta từ bỏ những thứ bận vướng là để mình có thể thong dong mà vác thập giá.

Chúng ta thường quên mất 2 việc rất quan trọng để thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa:

Xưa nay chúng ta quen tìm kiếm để được thêm chứ ít khi nào chủ động từ bỏ. Thỉnh thoảng có từ bỏ chỉ là vì miễn cưỡng, vì rán chịu vậy mà thôi. Thí dụ khi chúng ta bị mất tiền, mất đồ đạc, khi một người thân chết.

Cũng thế xưa nay chúng ta không chủ động vác thánh giá. Thập giá nào Chúa gởi thì chúng ta rán mà vác vậy thôi. Nguyên việc khám phá thứ nhất này cũng cho thấy chúng ta chưa thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu. Người môn đệ thật của Chúa phải chủ động từ bỏ và chủ động vác thập giá.

* 2. Đòi hỏi của tình yêu (Lc 14,25-33)

Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.

Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.

Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.

***

Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?

Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mi 10, 37).

Vậy ý của Chúa Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.

Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.

Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.

Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm cày mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đúng như Pierre Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.

***

Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.

Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hôi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc)

* 3. Lời nói thẳng thắn

Dòng Thừa Sai Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta đã rất nổi tiếng, nên có rất nhiều thiếu nữ xin gia nhập. Nhưng Mẹ Têrêsa rất thẳng thắn, Mẹ nói với họ: “Công việc người nữ tu dòng này rất cực khổ: chúng tôi phải phục vụ cho những người nghèo và những người vô gia cư. Chúng tôi phải làm việc suốt 24 giờ mỗi ngày”. Mẹ Têrêsa thẳng thắn như thế để các thiếu nữ ý thức và cân nhắc cẩn thận trước khi gia nhập dòng.

Gia nhập “dòng” của Chúa Giêsu để làm môn đệ Ngài còn cực khổ hơn nhiều. Vì thế Chúa Giêsu cũng rất thẳng thắn nói rõ cho những kẻ đi theo Ngài: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải sẵn sàng từ bỏ tất cả và còn phải vác thập giá mà theo.

Làm môn đệ Chúa không phải là bám theo một nhân vật quyền thế để có ô dù che chở hay để chia xẻ vinh dự, mà là để sống theo gương Ngài: hy sinh tất cả vì yêu thương mọi người.

Bởi đó người muốn làm môn đệ Chúa cần phải suy nghĩ kỹ xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi khó khăn ấy không. Như người xây tháp phải suy nghĩ kỹ về khả năng tài chính của mình, như một ông vua trước khi xuất chinh phải suy nghĩ kỹ về sức mạnh quân sự của mình.

Nếu chúng ta suy nghĩ kỹ về khả năng đáp ứng của mình trước hai đòi hỏi trên của Chúa Giêsu, chắc là chúng ta nản lòng không dám làm môn đệ của Ngài nữa.

Tuy nhiên gương các tông đồ là một khích lệ cho chúng ta: ban đầu các ông theo Chúa Giêsu mà không suy nghĩ gì nhiều; nhiều lúc các ông còn nghĩ rằng theo Chúa Giêsu thì sẽ được chia quyền chia thế trong nước mà Ngài sẽ thành lập. Nhưng Chúa Giêsu từ từ thanh luyện suy nghĩ của các ông. Sau ngày Chúa phục sinh, các ông mới hiểu rõ thế nào là làm môn đệ Chúa; và nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần các ông đã can đảm từ bỏ tất cả và vác thập giá của mình đi theo Chúa một cách hăng hái và vui vẻ.

Hiện giờ chúng ta chưa đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi của Chúa về một người môn đệ. Nhưng ít ra ý thức của chúng ta về những đòi hỏi đó cũng giúp chúng ta không đi theo Chúa vì những tính toán sai lệch. Nhìn gương các tông đồ và tin tưởng vào sự trợ giúp của ơn Chúa, chúng ta có thể can đảm từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.

* 4. Người-đi-theo và người-môn-đệ

Trong đoạn Tin Mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo: “Khi ấy có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi”… Rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ.

Người-đi-theo chưa hẳn là người-môn-đệ

Cũng như người-nói “Lạy Chúa lạy Chúa” chưa hẳn là người-làm theo ý Chúa.

Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu.

Cũng như người-mang-danh kitô hữu chưa hẳn là người-kitô-hữu.

Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, người-mang-danh-kitô-hữu thành người-kitô-hữu-đích-thực, đó là từ bỏ và vác thập giá.

Một trong những khiếm khuyết của Giáo Hội–và là khiếm khuyết lớn nhất – đó là trong Giáo Hội có rất nhiều người-đi-theo Chúa Giêsu, nhưng rất ít người-môn-đệ thực sự của Ngài.

* 5. Trả giá

Muốn làm việc gì cũng phải trả giá cho việc đó. Việc càng trọng thì giá càng cao. Nhiều người không làm xong việc mình muốn làm là vì không dám trả giá.

Antoinette là một cô gái rất đẹp nhưng rất nghèo. Điều mơ ước duy nhất của cô là trở thành giàu có, và cô nghĩ rằng cách dễ nhất là lấy được một người chồng giàu. Nhưng rủi thay khi cô lấy chồng thì người chồng của cô chỉ là một kẻ thường dân. Thất vọng và chán nản, cô chẳng muốn làm gì nữa, cũng chẳng muốn đi đâu hết.

Một hôm, Antoinette nhận được thiệp mời đến dự một bữa tiệc gồm toàn những người quý phái. Cô mừng lắm. Nhưng cô không có y phục và nữ trang sang trọng. Tuy nhiên cô biết cách thu xếp: cô rút hết tiền tiết kiệm ra mua được một bộ áo đẹp; cô đến với Marie một bạn học cũ mượn được một chiếc vòng nạm kim cương.

Thế là Antoinette xuất hiện trong bữa tiệc với một dáng vẻ rất xinh đẹp và sang trọng. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về cô. Cô rất sung sướng. Tuy nhiên khi tiệc tàn, trở về nhà, cô hoảng hốt khi biết chiếc vòng nạm kim cương đã rơi mất. Tìm tới tìm lui nhiều lần mà vẫn không thấy.

Chẳng còn cách nào khác, cô đành phải đi vay 40 ngàn quan với lãi xuất cao để ra tiệm kim hoàng mua một chiếc vòng y như thế trả lại cho Mary. Vì hai chiếc vòng rất giống nhau nên Marie không thắc mắc gì cả.

Từ đó trở đi, Antoinette phải làm đủ mọi việc để kiếm tiền trả nợ. Sau 10 năm, cô trả xong nợ. Nhưng khi đó trông cô rất già và không còn xinh đẹp như ngày xưa nữa.

Một hôm Antoinette và Marie tình cờ gặp nhau:

– Ồ sao trông bạn già đi và tiều tụy như thế? Marie giật mình hỏi.

– Tất cả chỉ tại bạn đó.

– Sao lại tại tôi?

Antoinette kể rõ đầu đuôi sự việc. Nghe xong Marie nói:

– Trời ơi tội nghiệp cho bạn quá. Chiếc vòng nạm kim cương của tôi là đồ giả. Giá chỉ có 400 quan thôi.

Thế là đột ngột Antoinette được Marie trả lại 39. 600 quan. Cô đã trở thành người giàu có. Nhưng với cái giá là 10 năm làm quần quật đủ mọi thứ việc cùng với một thân xác tiều tuỵ và một bộ mặt già nua.

Phải chi Antoinette đã chịu khó làm việc ngay từ đầu thì cái giá đâu đến nỗi cao quá như vậy!

  1. Chuyện minh họa

a/ Một hôm, có một người đến hỏi một giáo sư nổi tiếng về một thanh niên: “Anh ta có phải là môn đệ của Thầy không?” Vị giáo sư đáp: “Quả thật anh ta đang theo học những bài dạy của tôi. Nhưng không bao giờ anh ta là môn đệ của tôi”.

b/ Một vị vua đến thăm một thiền viện. Nhà vua hỏi vị thiền sư: “Trong thiền viện này có tất cả bao nhiều người đang theo học”. Thiền sư đáp “10 ngàn”. Nhà vua rất ngạc nhiên. Nhưng nhà vua càng ngạc nhiên hơn nữa khi thiền sư nói tiếp: “Trong số đó, số môn đệ thật của tôi chỉ có 4 hoặc 5 người”.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, có người nào biết được ý định của Thiên Chúa? Ai hiểu được Chúa muốn gì? Với ước mong được Chúa gan Đức Khôn ngoan và Thánh thần để giúp ta hiểu được thánh ý Người, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh luôn bênh vực những người thấp cổ bé miệng / bảo vệ những ai cô thế cô thân / giúp đỡ những kẻ đói rách bần cùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội thánh trên khắp hoàn cầu.
  2. Ngày nay / tuy chế độ nô lệ không còn nữa / nhưng nhiều hình thức nô lệ khác tinh vi hơn vẫn tồn tại và phát triển / làm mất hết tự do và phẩm giá của con người / như việc buôn bán phụ nữ còn đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nhà lãnh đạo các quốc gia / sớm tìm được phương thế thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng kinh tởm này.
  3. Trách nhiệm của người Kitô hữu / là cộng tác với hất thảy mọi người thành tâm thiện chí / để xây dựng trái đất này ngày càng xinh đẹp và hữu ích hơn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết cố gắng thực hiện trọn vẹn bổn phận cao quý này.
  4. Chúa Giêsu nói: / Ai không vác thập giá mình mà theo tôi / thì không thể làm môn đệ tôi được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn can đảm đón nhận mọi thử thách / và trung kiên bước theo Chúa mái đến cùng.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương và mời gọi chúng con làm con cái Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống xứng danh người Kitô hữu, để những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhìn vào đời sống của chúng con mà nhận ra Chúa chính là tình yêu. Chúng con cầu xin

  1. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Tác giả đoạn sách Khôn ngoan hôm nay đã viết “ý định của Chúa ai nào biết được”. Chúng ta hãy xin Chúa tỏ cho chúng ta biết được thánh ý của Ngài để chúng ta thi hành.

VII. Giải tán

Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa Giêsu “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Trong tuần này chúng ta hãy can đảm vác lấy những thập giá hằng ngày để theo Chúa.

 

11. Chọn lựa Thiên Chúa là duy nhất – An Phong.

Tin Mừng Chúa Nhật 23 Thường Niên C gồm hai phần. Phần đầu là lời kêu gọi từ bỏ con người mình, vác thập giá theo chân Chúa Giêsu. Phần thứ hai là dụ ngôn “xây tháp” và “đi giao chiến”. Ý nghĩa chính của hai dụ ngôn này là trước khi tiến hành một công việc quan trọng, người ta phải xem xét mình có đủ khả năng, nguồn lực để đạt được thành công hay không. Và cuối cùng là lời áp dụng “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Lời kết luận này là giáo huấn, là lời mời gọi cho tất cả mọi kitô hữu, những người môn đệ của Đức Giêsu.

Đức Giêsu mi gi hãy t b. Từ bỏ là một thái độ sống thực tế của người kitô hữu. Từ bỏ nghĩa là hy sinh vì lý tưởng, vì Thiên Chúa. Người kitô hữu từ bỏ không phải là điều kiện để trở nên một môn đệ Đức Giêsu, nhưng là điều kiện để luôn luôn trung thành là người môn đệ. Là người môn đệ tức là luôn chọn lựa Đức Giêsu là Hy vọng, là Đường, Sự thật và Sự sống. Là người môn đệ tức là dấn thân hết mình, đi cho trọn đường của người môn đệ, đừng như người ta khởi công xây tháp nhưng không thể hoàn thành được, hay đừng như ông vua kia đã ra trận nhưng không chiến thắng được.

Bn b, kiên trì, đi cho trn đường, đó là thánh giá đời người. Để là người môn đệ đích thực của Đức Giêsu, cần phải bền bỉ, triệt để. Đức Giêsu muốn những ai theo Người phải đi trọn đường thánh giá của mình. Thánh giá tức là những chọn lựa trong hiện tại, được lập đi lập lại và liên tục. Sống trong cuộc đời, chúng ta luôn bị đặt trong tình huống phải chọn lựa. Đã chọn lựa là không thể chọn lấy tất cả, đã chọn điều này tất phải bỏ điều kia. Việc chọn lựa không luôn luôn dễ dàng. Chỉ có một tiêu chuẩn cho việc chọn lựa, đó là “Thiên Chúa là trên tất cả”. Hơn nữa, không luôn luôn dễ dàng để trung thành với chọn lựa Thiên Chúa. Để có thể trung thành, cần có một tiêu chuẩn khác nữa, đó là “chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời ở đời sau” (Mc 10,29-30).

Từ bỏ nghĩa là không nhìn nhận những thực tại trần thế là tuyệt đối, có thể thay thế được chính Thiên Chúa. Chúng ta không loại bỏ những thiện hảo của cuộc sống như tiền bạc, của cải vật chất, nghề nghiệp… nhưng chúng ta chỉ nên coi đó là những phương tiện. Chúng ta nhìn nhận những giá trị trần gian là tốt đẹp, nhưng tất cả những giá trị đó phải quy hướng chúng ta đến với Thiên Chúa. Nếu các môn đệ của Đức Giêsu yêu mến tạo vật của Người hơn chính Người, thì họ không xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu.

Hơn nữa, việc từ bỏ này cần phải thực tế, tức là gắn liền với cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta có thể hiểu được điều này khi nhìn vào cuộc đời của những người hy sinh cho một lý tưởng mà họ đã chọn lựa. Những người đó dám chấp nhận từ bỏ đời sống gia đình, riêng tư của mình. Họ dám hy sinh thời giờ, sự an toàn và thậm chí cả sức khỏe của mình để hoàn thành sứ mạng.

Phải chăng chúng ta chọn lựa Thiên Chúa là ưu tiên trên hết?

Phải chăng chúng ta đang kiên trì, trung thành với chọn lựa là người kitô hữu, người môn đệ của Đức Giêsu qua nhiệm tính Thanh tẩy?

Ly Chúa,

Để con có th gn bó vi Ngài tha thiết hơn na,

con ước mong ý thc con tr nên bao la như tri bin,

mênh mông như vũ tr,

tri rng như loài người khp mt đất,

sâu thm như quá kh, sa m, trùng dương,

tinh vi như ht nhân nguyên t,

thâm thúy như tư tưởng ca lòng người.

Phi chăng con cn gn lin vi Chúa

t mi địa đim ca vũ tr bao la này,

để con đừng sa chước cám d rp rình

trong mi hành vi táo bo,

để chúng con đừng bao gi lãng quên là

ch có Chúa mi đáng được tìm kiếm qua mi s.

 

12. Điều kiện theo Chúa

Là con người nhiều giới hạn nên khi gia nhập bất cứ tập thể nào cũng đều phải đáp ứng những điều kiện được đưa ra. Đi học ở trường phải đáp ứng những điều kiện căn bản về học lực và hạnh kiểm mới được xét tuyển vào lớp mới. Đi xin việc làm cũng cần đáp ứng những điều kiện đưa ra mới có thể vào được. Cũng thế, ai muốn đi theo Chúa cũng cần đáp ứng những lời mời gọi của Người.

Khi Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai của mình xưa kia thì ngày càng có nhiều người đi theo Người. Chúa Giêsu không muốn người ta theo Người vì những động cơ thấp hèn hay thực dụng. Chúa Giêsu muốn người ta theo Chúa vì những lợi ích cao quý và thiêng liêng. Theo Chúa để tìm lại được tình trạng hạnh phúc thật. Theo Chúa vì phần rỗi đời đời. Trên hết mọi sự theo Chúa vì yêu mến. Vì yêu mến nên muốn sống gần gũi với Chúa.

Chính vì thế, Chúa Giêsu mời gọi: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26-27)

Với lời mời gọi này, Chúa Giêsu mong muốn những ai muốn theo mình nên xem Người là cao trọng hơn hết. Chúa không bắt chúng ta phải bỏ đi tình thân máu mủ cũng như không bắt chúng ta phải coi thường bản thân của mình. Chỉ vì Người muốn chúng ta đặt đúng bậc thang giá trị.

Chúng ta nhớ có lần một người đến gặp Chúa Giêsu và thưa Người: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10,17). Anh ta lấy làm hãnh diện vì anh đã thực hiện tốt các giới răn mà Chúa Giêsu mời gọi anh tuân giữ. Đáng tiếc thay với lời mời gọi: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho ng ười nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi.” (Mc 10, 21) thì “Anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. (Mc 10, 22)

Như vậy, người này đã chưa đáp ứng lại được điều kiện mà Chúa Giêsu đưa ra. Vì anh ta chưa dám từ bỏ chính mình, từ bỏ những lợi ích riêng tư của mình.

Trong thế giới ngày nay, con người ta bị nhiễm rất nhiều bởi lối sống cá nhân chủ nghĩa. Từ lối sống ấy, con người ta chỉ biết gom góp về cho mình. Người Công giáo thì dần dần xem thường lề luật Chúa và giới răn của Giáo hội. Có vẻ như họ không còn muốn theo Chúa nữa. Họ quên rằng chỉ khi nào còn theo Chúa thì mới mong tìm lại được chính mình. Ngược lại, những ai chỉ biết có mình thì nguy cơ đánh mất chính mình và đánh mất Chúa sẽ rất cao. Xin Chúa Giêsu cho chúng ta dám can đảm đáp ng li nhng điu kin mà Người mi gi.

 

13. Vác thập giá theo Chúa.

AI KHÔNG VÁC THẬP GIÁ THEO TÔI, THÌ KHÔNG ĐÁNG LÀM MÔN ĐỆ TÔI

Suy Niệm

Chẳng ai có thể đi một lúc hai con đường.

Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn, mà chọn là từ bỏ.

Từ bỏ trở thành quy luật để sống và lớn lên.

Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm.

Đứa bé chẳng thể nào trưởng thành, nếu nó sống mãi bằng sửa mẹ.

Từ bỏ thường là những cắt đứt đau đớn, như mổ một khối u.

Có nhiều người không có can đảm từ bỏ, nên suốt đời bị giằng co, ray rứt.

Trong đoạn Tin Mừng trên đây, Đức Giêsu đã nói ba lần câu: “thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Chúng ta đã trở nên môn đệ Đức Giêsu, nhưng để tiếp tục là môn đệ của Ngài, ta cần phải đặt Ngài lên trên mọi giá trị khác.

Người Kitô hữu lớn lên nhờ chọn lựa và từ bỏ.

Trung tâm điểm là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Mọi giá trị trở nên tương đối trước Đấng Tuyệt Đối.

Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là những giá trị tinh thần. Mạng sống là một giá trị trổi vượt. Nhưng ngay cả những giá trị đó cũng phải được hy sinh khi cần, để tôi chọn Đức Giêsu, Giá Trị của mọi giá trị.

Các thánh tử đạo đã chọn lựa như thế.

Dĩ nhiên chúng ta yêu gia đình, yêu bè bạn, yêu trái đất nâng ta, yêu bầu trời che chở ta, yêu cuộc sống làm người với bao niềm vui và nước mắt. Nhưng ta phải yêu tất cả trong Chúa và dưới Chúa, để khi phải chọn lựa một trong hai, chúng ta chọn Chúa.

Như thế, tuy người Kitô hữu gắn bó với tạo vật nhưng vẫn giữ một khoảng cách nào đó, để luôn sống trong tự do, bình tâm.

Vấn đề là dám chọn và tiếp tục chọn, không để cho tháp đã xây bị dở dang, không để cho cuộc tiến quân bị ngừng trệ.

Vấn đề là dám đi tới cùng, để tiếp tục trung tín với một Tình Yêu.

Phải cởi bỏ mình khỏi những điều xấu, nhưng cũng phải tách mình khỏi nỗi đam mê lệch lạc một điều tốt: yêu nó ngoài Chúa và trên Chúa.

Ước gì chúng ta tự cởi trói mình mỗi ngày và nhờ ơn Chúa, chúng ta được tự do.

Gợi Ý Chia S

Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay dễ bị lôi cuốn bởi thú vui nào? Đâu là những nguy hiểm của thú vui đó?

Bạn có kinh nghiệm gì về sự cám dỗ của một điều vốn là tốt, nhưng sau đó lại làm bạn bị nô lệ?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.

Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.

 

14. Hy sinh từ bỏ

Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.

Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi”, Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. “Không Thầy chúng con không thể làm chi được”, hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.

Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.

Lạy Chúa là Đấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.

Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.

 

15. Từ bỏ – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Có một câu chuyện kể rằng: Một vị linh sư Ấn giáo nổi tiếng kia đang ngồi tĩnh niệm bên bờ sông, thì một người đàn ông giàu có đến xin làm môn sinh. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân nhà tu hành hai viên ngọc quý giá để làm của lễ ra mắt. Vị linh sư mở mắt ra nhưng không tỏ lộ một thái độ nào, không cần nhìn kỹ vào món quà quý giá ấy, ông cầm lấy một viên ngọc và ném xuống sông. Vì tiếc của, người đàn ông liền lặn xuống sông để tìm lại viên ngọc. Nhưng mất suốt một ngày mà ông không tìm lại được. Chiều đến, mệt mỏi và chán chường, ông mon men đến bên vị linh sư và nài nỉ: “Ngài đã ném viên ngọc xuống chỗ nào xin ngài chỉ cho tôi để tôi lặn xuống tìm lại?”. Không nói gì, vị linh sư cầm lấy viên ngọc còn lại ném xuống sông và nói: “Đó, ta đã ném vào chỗ đó, ngươi hãy lặn xuống mà tìm lại”. Cử chỉ của vị linh sư Ấn giáo trên đây cho biết một đòi hỏi gay gắt đối với những ai muốn xuất gia tu hành, đó là họ phải từ bỏ tất cả.

Chúa Giêsu cũng đòi hỏi một sự từ bỏ như thế: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu nói những lời trên là chỉ nói với các môn đệ ngày xưa hay với những linh mục và tu sĩ ngày nay. Không phải thế, chắc chắn Chúa không có ý nói đến những người đi tu mà thôi, nhưng nói với tất cả mọi người. Thực vậy, những điều Chúa nói trên đây có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa đen, nghĩa chặt áp dụng cho những người đi tu, và nghĩa bóng, nghĩa rộng áp dụng cho mọi người.

Nếu hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là hiểu theo sát nghĩa từng chữ, thì đây là điều kiện Chúa đòi hỏi những người theo Chúa và thực sự những ngừơi đi tu đã thực hiện, đã sống theo những lời Chúa nói. Trong cuộc đời của các thánh, chúng ta thấy nhiều vị đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen, có những vị đã bán hết gia tài bố thí cho người nghèo; có những vị đã bỏ hết danh vọng, chức quyền; có những vị đã bỏ hết tiền bạc của cải để theo Chúa; có những vị đã bước qua con cái để ra đi dâng hiến cuộc đời cho Chúa, hay chấp nhận cha mẹ từ bỏ mình để được đi tu; cũng có những vị tự cắt tóc, rạch mặt để được thong dong theo Chúa.

Chẳng hạn thánh Phan-xi-cô Át-si. Truyện kể rằng khi còn là một thanh niên lêu lổng, Phan-xi-cô thường hay đi lễ trễ Chúa nhật. Có một lần khi vừa đến cửa nhà thờ, thì vị chủ tế đang đọc bài Tin Mừng, Phan-xi-cô nghe rõ được câu: “Nếu con muốn nên hoàn thiện thì hãy về bán hết gia sản, bố thí cho kẻ nghèo, rồi đến đây theo Ta”. Phan-xi-cô xác tín lời ấy Chúa nói với chính mình, anh trở về và thực hành đúng như lời Chúa, tơ lụa, vải vóc trong cửa hàng bề thế của gia đình anh đem phân phát cho người nghèo rồi đi theo Chúa và trung thành với sự nghèo khó suốt đời, nên chúng ta thường gọi là thánh Phan-xi-cô khó nghèo.

Trường hợp của thánh Béc-na cũng rất hay. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài sớm nhận ra rằng: khó mà được rỗi linh hồn nếu sống ở thế gian, nên ngài đã quyết định từ bỏ, ngài xin đi tu và còn kéo theo bốn người em nữa. Trước khi lên đường, năm anh em đã nói với người em út, tên là Ni-va: “Vĩnh biệt em Ni-va, các anh đi đây, các anh để lại tất cả đất đai, nhà cửa và của cải cho em”. Ni-va trả lời: “Các anh khôn thấy mồ, các anh chọn trời và để lại đất cho em, em không bằng lòng đâu”. Vì thế, sau này Ni-va cũng theo các anh vào tu viện, từ bỏ đất để chọn trời, từ bỏ thế gian để chọn nước trời.

Những trường hợp trên và nhiều trường hợp khác là những cử chỉ anh hùng, nhưng không phải là luật chung cho mọi người. Dầu sao những người đi tu, chúng ta thấy cũng hiểu được theo nghĩa đen lời Chúa nói: bỏ cha mẹ, gia đình, anh chị em để nhận nhà dòng làm gia đình và nhận những người cùng chí hướng làm anh em, chị em, hoàn toàn sống theo tinh thần từ bỏ bằng ba lời khấn vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh.

Tuy nhiên, nếu hiểu điều kiện từ bỏ theo nghĩa rộng là Chúa nói với mọi người, thì điều đó có nghĩa là phải ưu tiên dành cho Chúa và làm mọi việc để phụng sự Chúa mà thôi, nghĩa là phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả chính bản thân cũng như danh vọng và của cải trần gian. Đây là một đòi hỏi có tính cách khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: dụ ngôn người muốn xây tháp hay xây nhà và dụ ngôn ông vua hay ông tướng sắp lâm trận: phải biết lượng sức mình, phải biết đánh giá đúng khả năng của mình, tức là phải tính toán cẩn thận để khỏi hỏng việc, thiệt hại hay thất bại.

Nói rõ hơn, đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, nghề nghiệp để đi tu, nhưng Chúa đòi hỏi phải biết từ bỏ những gì cản bước chân chúng ta đi theo Chúa, những gì làm chúng ta xa Chúa, mất sự bình an, nhất là mất Chúa, mất hạnh phúc nước trời.

Tóm lại, không thể làm môn đệ Chúa nếu không dám dứt bỏ, mà lám sao dứt bỏ được nếu không có tình yêu, nên điều kiện theo Chúa là phải có một tình yêu lớn mạnh. Có tình yêu chúng ta sẽ làm được tất cả, và dứt bỏ vì yêu, chúng ta sẽ thấy nhẹ hơn và dễ hơn. Nói khác đi, từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu, khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.

 

16. Để làm môn đệ Chúa – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bài đọc 1 Chúa nhật XXIII thường niên C dạy chúng ta rằng” “Những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan”. Vì theo Thánh Kinh, sự Khôn ngoan của Thiên Chúa đồng nghĩa với Lời Chúa. Từ đó, nghe lời sự Khôn ngoan là căn tính đầu tiên của người môn đệ Đức Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể.

Đức Giêsu Kitô là Lời Thiên Chúa, là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Co 1, 24, 30 ) cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh, từ bỏ nữa” “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.” Nghe lời tuyên bố của Đức Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Đức Giêsu, với đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải từ bỏ tận căn, không những của cải, người thân thiết nhất, mà cả những tiện nghi, kế hoạch riêng, sự quyến luyến, những giao tiếp hợp pháp và thậm trí cả chính mạng sống mình nữa nữa (x. ). Ngài yêu cầu phải “bỏ” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Có người đặt câu hỏi” Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự từ bỏ đối với họ? Không phải thế, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Đức Giêsu yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất.

Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải… mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu, nên Ngài thêm” “Ai không vác thập giá mình mà theo, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đức Giêsu có thích khổ đau và thậy giá không? Không, Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu, những lời chua cay, nóng nảy, giận hờn, từ bỏ tính kiêu căng, thói tham lam, để chúng ta thoát khỏi những đam mê vật chất, hầu sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.

Không phải ngẫu nhiên Đức Giêsu nói đến “Thập Giá”. Vác thập giá bước theo Đức Kitô không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giêsu có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Ngài đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Ngài đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Ngài nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.

Quyết định theo Đức Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Đức Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma” “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật.” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).

Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con muốn từ bỏ tất cđể đi theo Chúa, nhưng trên đường đi, chúng con sợ bị mất một phần của đời sống, sợ mất tự do, sđau khổ, sợ không có khả năng, không thực sự muốn bước đi theo Chúa và trở thành môn đệ Chúa. Lạy Chúa, chúng con dâng cho Chúa ‘ước muốn theo Chúa của chúng con’ và chúng con mở cửa lòng mình cho Chúa. Lạy Chúa, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo, hiệp nhất với Chúa cho đến trọn đời. Amen.

 

17. Tình yêu là động lực để đi theo Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

Vẫn trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu biết đau khổ và cái chết đang chờ đón ở cuối cuộc hành trình. Ngài phải uống chén đắng. Tuy nhiên, khi đến giờ, Ngài thấy nó không dễ. Ngài phải trải qua một cơn hấp hối kinh hoàng và đã xin Chúa Cha cất chén ấy. Thế nhưng, Ngài đã giữ vững lòng trung tín. Điều làm cho Ngài kiên vững, đó là tình yêu. Ngài yêu Chúa Cha, muốn thực hiện ý định của Người. Ngài biết Chúa Cha muốn bày tỏ tình yêu sâu xa của Người với nhân loại, qua sự thành tín và lòng yêu thương của Ngài. Lòng thành tín và yêu thương này được trả bằng chính mạng sống của Ngài. Bởi vậy, Ngài sẵn sàng vâng lời Chúa Cha: Chết khổ nhục trên Thập giá. Qua cái chết đó, Ngài cũng thể hiện tình yêu của Mình đối với nhân loại: “Không ai có tình yêu cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13).

Đang khi đó, có rất đông người cùng đi với Đức Giêsu, nghĩ rằng: Ngài là Đấng Messia, là nhà lãnh đạo quân sự, một Đavít mới, tiến về Giêrusalem, để giải phóng Israel khỏi sự áp bức đô hộ của người Lamã, khôi phục đất nước. Đức Giêsu không muốn họ theo Ngài cách mù quáng. Ngài không che dấu những khó khăn, vất vả, hi sinh. Ngài cho họ biết, đi theo Ngài sẽ gặp nhiều đau khổ: Phải “dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình” (Lc 14, 26).

Nelson Mandela, một người thông minh muốn lập nghiệp như mọi người khác. Hans Muler, một thương gia, nhìn thế giới qua lăng kính của luật cung cầu, đã nói với Mandela: “Tất cả là tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Anh phải chiến đấu cho điều đó: Tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn có đủ tiền bạc, bạn không muốn cái gì khác trên đời”. Nếu Nelson Mandela làm theo lời khuyên của Hans Muler, ông có thể làm rất tốt cho bản thân. May mắn thay cho Nam Phi. Thay vì lo cho bản thân, Nelson Mandela đã quyết định cống hiến cuộc đời mình cho việc phục vđất nước.

Để làm điều đó, Mandela đã phải hy sinh, ông viết: “Đối với tôi, không phải là một việc dễ dàng khi phải xa cách vợ con, giã từ những ngày xưa tươi đẹp ấy, và sau một ngày làm việc hăng say ở văn phòng. Tôi có thể quay về với gia đình trong bữa ăn tối, thay vì phải sống như một người bị cảnh sát săn đuổi liên tục, sống xa cách những người thân yêu nhất, phải đối diện liên tục với những sự bất trắc như bị nhận dạng và bắt giữ. Đó là một đời sống cực kỳ khó khăn hơn cả chịu án tù (Trích “Hành trình đến tự do”, 1994, Little, Brown and Company). Nelson đã chịu 27 năm tù đày vì yêu đất nước. Ông đã trở thành tổng thống vĩ đại của Nam Phi.

Phêrô, một hôm, đã hỏi Chúa: “Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con được gì?”. Đức Giêsu trả lời: “Chúng con sẽ được gấp trăm ở đời này, cùng với sự bắt bớ và tù đày”.

Vâng, làm môn đệ theo Đức Giêsu, phải chịu bắt bớ, tù đầy. Môn đệ không hơn Thầy. Đức Giêsu đã chịu đau khổ, môn đệ không có con đường nào khác. Nhưng cái gì làm môn đệ có thể chịu đau khổ? Thưa, tình yêu. Chỉ có tình yêu mới làm được mọi sự. Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn, bị cáo gian, bị xỉ vả, đánh đòn, chế nhạo, phỉ nhổ, đội mão gai, đóng đinh vào Thập giá… Người đã chịu tất cả những điều đó vì tình yêu. Hơn nữa, Người đã biến đổi đau khổ, sự nhục nhã thành tình yêu thương và sự tha thứ. Đó là chiến thắng của tình yêu trên mọi sức mạnh hủy diệt. Trong Người, không có gì khác ngoài Tình yêu thương. Ngay cả khi chịu đóng đinh, Người vẫn yêu thương: “Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Những đau khổ của Người sẽ ra vô ích, nếu Người không chịu đựng với tình yêu thương. Không phải những đau khổ của Người đã cứu rỗi nhân loại, nhưng bởi tình yêu thương của Người.

Ai giả bộ thích chịu đau khổ, thật điên rồ. Đau khổ là thứ hầu hết chúng ta muốn tránh. Thế nhưng, người môn đệ của Đức Giêsu sẵn sàng chịu đau khổ vì yêu. Vì yêu, họ có thể dứt bỏ cha mẹ, anh em, chị em và cả mạng sống mình (Lc 14, 26). Vì yêu, họ sẵn sàng phục vụ mọi người. Vì yêu, họ chấp nhận mọi đau khổ. Họ tỏ lòng trung tín của mình trong đau khổ. Đau khổ là cách thể hiện tình yêu cao vời nhất.

Để thực hiện điều đó. Người môn đệ cần phải lượng sức mình, phải tính toán xem mình có đủ khả năng tiến bước hay không. Chúng ta không thể làm việc gì quá khả năng. Nhưng tất nhiên, chúng ta không biết trước khả năng của mình đến đâu. Chúng ta có thể tự đánh giá khả năng của mình hoặc quá thấp, hoặc quá cao. Điều quan trọng nhất là tự biết mình. Đức Giêsu đã đưa ra hai dụ ngôn ngắn: Người xây tháp và vua đi giao chiến. Một người xây tháp cần phải tính toán phí tổn, xem có hoàn thành nổi không? Vua đi giao chiến, phải tính xem số lượng quân đội của mình, có đủ sức đương đầu với đối phương không? Qua hai dụ ngôn đó, Ngài muốn bảo: Những ai muốn theo làm môn đệ của Ngài, cần phải suy nghĩ chín chắn.

Có thể, có một ai đó theo Chúa, nhưng không phải là môn đệ, họ chỉ là kẻ theo đóm ăn tàn trong một công việc vĩ đại, chỉ là người nói chứ không làm. Có một vị vua đến thăm Thiền viện của thiền sư Lin Chi, ông kinh ngạc vì có đến mười ngàn tu sĩ đó. Muốn biết chính xác con số các tu sĩ, nhà vua hỏi thiền sư: “Thầy có bao nhiêu môn đệ?” Lin Chi đáp: “Có bốn hoặc năm người”.

Phần những người đi theo Đức Giêsu, Ngài cũng hỏi: Có bao nhiêu người là môn đệ đích thực của Ta.

 

18. Từ bỏ để tồn tại và tăng trưởng

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)

Mùa thu về, cây trụi lá, mùa xuân đến, cây đơm lộc xanh tươi.

Cây cối cần phải từ bỏ lá già, lá cũ để khoác lá mới; nhờ thế, cây được lớn lên. Loài rắn cũng phải từ bỏ bộ da cũ để thay da mới; có vậy rắn mới trưởng thành. Loài tôm cũng phải lột vỏ nhiều lần theo đà tăng trưởng để lớn lên… Nói chung, từ bỏ là điều kiện tối cần thiết để cho muôn vật muôn loài được sống còn và tăng trưởng.

Là một sinh vật như bao nhiêu loài vật khác, nên muốn tăng trưởng và tồn tại, con người cũng không thoát ra ngoài quy luật đó.

Hằng ngày cơ thể ta loại bỏ hàng tỉ tế bào cũ để thay vào đó những tế bào mới, nhđó cơ thđược lớn lên và mạnh khoẻ. Nếu các tế bào cũ không chịu chết đi để nhường chỗ cho những tế bào mới, thì khối u sẽ xuất hiện và có nguy cơ dẫn đến ung thư và cái chết đau thương!

Đời người cũng là một tiến trình từ bỏ liên tục: người lao động phải đổ nhiều mồ hôi, phải bỏ ra nhiều công sức, trí tuệ mới kiếm đủ tiền cấp dưỡng cho gia đình và bản thân. Người lính chiến phải chấp nhận hy sinh thân mình mới bảo vệ được quê hương. Học sinh phải từ bỏ nhiều giờ vui chơi giải trí, giảm bớt giờ ngủ nghỉ để miệt mài đèn sách thì may ra mới chen chân vào đại học. Các nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu kiên trì mới có cơ may phát minh và sáng tạo…

Muốn làm ăn lên, phải đầu tư bỏ vốn; muốn thu vào, phải phát ra. Ai không phát ra, không từ bỏ, thì không thể thu vào được gì đáng giá. Đó là quy luật của cuộc đời.

Từ bđể đổi lấy những giá trị cao hơn

Của cải đời nầy cũng thật đáng quý, nhưng khi cần, người ta sẵn sàng từ bỏ của cải để dành lấy những giá trị cao hơn. Khi bị cướp hăm doạ tính mạng và đòi lấy của cải bạc tiền, người ta sẵn sàng bỏ của lấy người. Khi bị một chứng bệnh nan y đe doạ cướp đi mạng sống, người ta sẵn sàng bỏ ra hàng tỉ bạc để kéo dài đời sống, dù chỉ sống thêm được một năm.

Qua cuộc đời từ bỏ của mình, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy từ bỏ không là mất đi nhưng là được lại và là được lại gấp nhiều lần.

“Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ”, chấp nhận mang lấy thân phận con người mỏng giòn yếu đuối, trở thành Người tôi tớ của Thiên Chúa Cha. Ngài đã từ bỏ tự do và ý riêng của mình để vâng phục Cha như người tôi tớ thấp hèn, “cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự”… Thế nên Ngài được Chúa Cha hết lòng yêu mến, được Cha tôn vinh và đặt làm Chúa Tể mọi loài. (xem Phi-lip 2, 6- 11).

Con đường bỏ mình, từ bỏ mọi sự, con đường thập giá mà Chúa Giêsu đã đi thì Ngài cũng mời gọi các môn đệ cùng đi: “Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được.”

Hôm nay, nếu chúng ta muốn học dưới mái trường của Thầy Giêsu, muốn làm môn đệ Chúa Giêsu thì chúng ta cũng phải đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi, thực hiện điều mà Thầy chí thánh đã thực hiện, đó là chấp nhận từ bỏ, chấp nhận thập giá.

Nhưng hãy nhớ rằng: từ bỏ không phải là mất mát, dâng hiến không phải là tiêu vong, nhưng trái lại, “chính khi hiến thân là lúc nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc nhận được bản thân” (Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Átxidi)

Thế là sự từ bỏ theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, lại trở thành một cuộc đổi chác có lợi: đổi của tạm thời để lấy của đời đời; đổi cái phù du để thu về vĩnh cửu.

 

19. Niềm tín thác vào Chúa – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Ở đời người ta cần có niềm tin để sống với nhau. Nhờ tin vào nhau con người sẽ gần gũi nhau hơn, sẽ dễ dàng cảm thông với nhau hơn. Nhờ tin vào nhau con người sẽ vượt qua những rào cản của nghi kỵ, hiểu lầm để sống thân ái với nhau hơn. Ngoài tương quan giữa người với người còn có một tương quan khác chính là giữa Thiên Chúa và con người. Trong tương quan với Thiên Chúa, con người cần có đức tin. Đức tin để con người bước đi với Đấng mà mình chưa một lần gặp gỡ diện diện đối diện. Đức tin để con người có thể nhìn xem trời đất biển rộng bao la mà khám phá ra sự hiện diện đầy tình yêu quan phòng của Chúa mà phó thác, mà tin tưởng, cậy trông. Đức tin sẽ giúp con người dấn thân một cách trọn vẹn cho Thiên Chúa, cho dù có phải đi trong mênh mông đêm tối của biển đời, cho dù phải trải qua những thử thách gian truân, con người vẫn luôn xác tín một điều: Thiên Chúa không bỏ rơi con ngừơi. Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Thiên Chúa luôn là thuẫn đỡ chở che cho cuộc đời chúng ta.

Có người đã kể lại giấc mơ của mình như sau:

– Tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng có luồng ánh sáng xuất hiện, trong đó có Chúa Giêsu đang ngự trên một tấm thảm. Người mỉm cười bảo tôi:

– Con hãy ngồi trên tấm thảm này với Ta.

Lòng tràn ngập vui sướng, tôi đến gần Chúa và ngồi trên tấm thảm bên cạnh Người và tấm thảm từ từ bay bổng lên. Nhưng rồi tôi cảm thấy như Chúa không còn bận tâm đến tôi nữa, Người chăm chú rút từng sợi chỉ từ chiếc thảm chỗ Người và tôi. Chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại một nửa, và giữa chỗ Chúa và tôi đang ngồi lại có một lỗ trống to lớn. Tay chân tôi bắt đầu run lên vì sợ rơi xuống đất chết. Nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ, đến nỗi tôi khiếp sợ kêu lên:

– Lạy Chúa, Chúa làm gì vậy? Chúa không thấy tấm thảm của chúng ta đã tan tành sao?

Chúa cười rồi cầm lấy tay tôi nói:

– Sao con nghi ngờ, kém lòng tin? Con hãy bám chặt vào Ta. Con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dầu con phải bị tước đoạt hết cđến sợi chỉ cuối cùng.

Người vừa dứt lời thì quả thực, sợi chỉ cuối cùng đã bị rút đi. Tôi sợ hãi quá, giật mình thức dậy…

Nếu sự kiện đó xảy ra trong cuộc đời chúng ta, chúng ta sẽ phản ứng ra sao? Chúng ta có dám bỏ tất cả để chỉ bám vào một mình Thiên Chúa không? Chúng ta có dám thả trôi những sợi chỉ của tiền tài, danh vọng để chỉ còn lại một mình ta với Chúa hay không?

Một cách nào đó, đời sống của mỗi người chúng ta cũng bị trói buộc bằng những sợi chỉ tuy nhỏ bé mong manh, nhưng là những chướng ngại vật cản trở đà bay của chúng ta. Biết bao lần chúng ta tưởng mình đang đi tìm hạnh phúc thật, nhưng thật sự nó chỉ đem lại cho chúng ta thứ hạnh phúc mau qua chóng tàn, khác nào như những sợi chỉ mỏng manh kia. Biết bao lần chúng ta bám víu vào những tình cảm của con người, nhưng rồi cũng gặp phải biết bao ê chề của sự vô ơn, bội tín, bất trung. Biết bao lần chúng ta tưởng như ngồi mãi trên tấm thảm danh vọng cao sang nhưng rồi địa vị, chỗ ngồi như “của đồng lần” cũng bỏ ta để sang tay kẻ khác. Biết bao lần, thay vì bám chặt vào Chúa, đặt hết niềm tin cậy nơi Chúa, chúng ta lại chạy theo những người, những vật mỏng dòn chóng qua.

Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và hay thương xót. Người biết rõ chúng ta dễ gắn bó với tạo vật mà bỏ quên Người. Thế nên, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đặt chúa trên hết mọi quyến luyến trần gian. Hãy biết cậy dựa vào ơn Chúa để thắng vượt những ràng buộc, trở ngại trong cuộc đời.

Đã có thời người Do Thái tưởng rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khôi phục lại vương quyền nhà Israel. Họ tưởng rằng Chúa sẽ đánh đông dẹp tây để xây dựng một nước Israel hùng cường và thịnh vượng. Họ theo Chúa xem ra chỉ nhằm mục đích để được hưởng những vinh hoa phú qúy trần gian. Tiền tài và bổng lộc trần gian là những thứ mà họ cần Chúa đáp ứng cho họ. Chúa Giêsu muốn đánh tan quan niệm, ý nghĩ sai lầm của nhiều người đang đi theo Chúa. Chúa đưa ra lời mời gọi những người muốn đi theo Ngài hãy suy nghĩ, đắn đo, tính toán xem họ có đủ can đảm, đủ nghị lực để theo Chúa đến cùng hay không? Và để theo Chúa, con người phải dành cho Ngài chỗ ưu tiên, chỗ nhất trong đời sống của mình và làm mọi việc để phụng sự Chúa, để tôn vinh Ngài. Theo Chúa là chấp nhận một cuộc mạo hiểm như Abraham đã rời quê cha đất tổ để đi theo sự hướng dẫn của Chúa. Theo Chúa là buông mình theo thánh ý Chúa như Đức Trinh Nữ Maria đã mạnh dạn thưa lên cùng Chúa:”này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời sứ thần truyền”. Theo Chúa là chấp nhận trải qua những gian nan thử thách của giông ba bão tố, của bách hại và tù đầy như thánh Phaolô tông đồ đã từng trải qua. Như vậy, theo Chúa là uốn mình theo thánh ý Chúa và bằng lòng với phận mình mà Thiên Chúa đã an bài. Vui với phận mình là cách mà chúng ta đang để cho ý Chúa thực hiện trong cuộc đời chúng ta.

Xin Chúa thanh tẩy trí lòng chúng ta khỏi những toan tính lợi lộc trần thế khi theo Chúa. Xin thêm ơn trợ giúp để luôn trung thành sống cho Chúa. Cho dẫu có phải hy sinh những vinh hoa phú qúy trần gian. Cho dẫu có phải hy sinh những tình cảm chính đáng và cao thượng. Cho dẫu có phải bước đi trong đêm tối của đức tin với bao hiểm nguy và chông gai, nhưng luôn có Chúa là gia nghiệp và chiếm hữu hạnh phúc Nước Trời mai sau. Amen.

 

20. Từ bỏ để thăng tiến – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống muốn thăng tiến phải biết từ bỏ. Trẻ con phải từ bỏ cái nôi để tập đi tập đứng. Lớn lên một chút phải từ bỏ mái nhà để đến trường học bao điều mới lạ. Trưởng thành lại phải can đảm từ bỏ quê hương để dấn thân vào đời. Từ bỏ cái cũ để nhận cái mới. Phải từ bỏ cái không còn phù hợp mới có khả năng đón nhận cái phù hợp với hiện tại mình hơn. Không từ bỏ con người sẽ đánh mất cơ hội để thăng tiến, để trưởng thành hơn. Từ bỏ dường như là lẽ tất yếu của định luật tự nhiên.

Có một người thanh niên luôn mong muốn mình giỏi hơn người khác, và còn muốn trở thành một học giả lớn. Nhưng qua rất nhiều năm đường học vấn vẫn ở sau nhiều người. Thất vọng, chán nản, chàng đến tâm sự với một đại sư.

Đại sư nói: “Chúng ta đi leo núi đi, đến đỉnh núi rồi con sẽ biết được nên làm như thế nào.”

Trên núi có rất nhiều hòn đá xinh xắn. Mỗi lần thấy người thanh niên nhìn thấy hòn đá ưng ý, đại sư bảo chàng cho đá vào túi để đeo sau lưng. Một lúc sau chàng thanh niên không chịu nổi nữa, nói: “Đại sư ơi, nếu cứ đeo túi này, đừng nói là leo lên đình núi, có khi bây giờ bảo con đi tiếp cũng không thể đi được nữa rồi.”

Khi đó đại sư cười nói: “Muốn tiến lên phải biết bỏ đi, nếu không bỏ đi làm sao có thể lên đỉnh núi được?”. Người thanh niên lặng người, tự dưng trong lòng sáng suốt, cảm ơn đại sư rồi ra về. Sau đó chàng tập trung học hỏi, cuối cùng trở thành một học giả lớn.

Xem ra muốn leo lên được đỉnh núi cuộc đời cần biết từ bỏ. Những viên đá nặng ta mang trong mình là những tham sân si luôn làm ta trì trệ tiến bước. Lòng tham sẽ níu kéo chúng ta ở lại để tranh dành những danh lợi thú mau qua. Sự nóng giận như viên đá cản lối ta tiến bước bình an. Sự mê muội sẽ làm ta đi lầm đường lạc lối.

Bỏ đi không có nghĩa là thất bại, cũng giống như chơi cờ tướng, tuy phải bỏ đi lợi ích nhỏ, nhưng lại nhận được lợi ích lớn hơn. Bỏ đi đôi khi làm cho con người mình thanh cao hơn, đáng kính hơn, như người nghiện ngập bỏ được thói quen xấu sẽ được yêu mến hơn. Bỏ đi những công việc không phù hợp với mình để được kính trọng hơn, như người đi tu thì không buôn bán, không tích góp tiền của… Bỏ đi những thú vui bất chính để sống có trách nhiệm với cuộc đời hơn… Nói chung, con người cần phải biết từ bỏ: từ bỏ những quyền lợi và hư danh, từ bỏ những tranh chấp đấu đá danh vọng, từ bỏ những tình bạn đã thay đổi, những tình yêu đã thất bại, những quan hệ xã giao không có ý nghĩa, những tính cách xấu, những bận rộn và áp lực không cần thiết. Biết cách từ bỏ sẽ làm ta thanh thoát, nhẹ nhàng và bình an.

Hôm nay Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy can đảm từ bỏ để đi theo Chúa. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá vinh quang.

Chúa Giêsu cũng từng đón nhận thập giá vì Chúa Cha. Thập giá của Chúa Giêsu đã biến thành thánh giá. Thánh giá vinh quang. Thánh giá đem lại nguồn ơn cứu rỗi cho nhân trần. Theo lẽ thường chẳng ai thích đau khổ. Ai cũng tìm an nhàn sung sướng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã chọn gian khổ, chọn hy sinh để vui lòng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha sẽ ân thưởng vương quyền thiên quốc cho những hy sinh mà Ngài đã làm cho Chúa Cha.

Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gì so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thưởng hạnh phúc thiên đàng.

Xin cho chúng ta luôn biết đón nhận thập giá như là hồng ân Chúa gửi đến để ta lập công trước mặt Thiên Chúa. Amen.

 

21. Vác Thập giá vì Chúa – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

“Ai không vác thp giá mình mà theo Tôi, thì không th làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,27)

Đôi khi để được việc nào đó chúng ta cũng phải hy sinh, phải từ bỏ rất nhiều để đạt được điều chúng ta mong muốn. Cách sống này người ta gọi là ”Khổ nhục kế”. Khổ nhục kế cũng là cách người ta dùng hy sinh, dùng nhục hình để nói lên lòng thành của mình.

Chuyn k rng ti li vào mt trung tâm mua sm sm ut tnh Sơn Đông (Trung Quc) đã thc s b ùn tc trước “s c nghiêm trng”: mt thanh niên qu gi nht quyết không chu đứng lên, khiến cho mi người xúm li coi! Ngay c khi cnh sát đến can thip, anh chàng cũng không chu ri v trí để tr li s yên tĩnh cho đường ph!

Anh chàng cho biết bn thân đang cc k đau kh và giày vò vì đã không gi li ha vi người yêu mà ung rượu, khiến cô nàng tuyên b đường ai ny đi! Kh thân anh chàng lếch thếch chy theo năn n và mt du cô b trung tâm mua sm này. Vì thế, anh ta quyết định qu gi cho đến khi nào cô y xut hin mi thôi. May mà sau vài tiếng “thi gan”, anh chàng đã khiến cho trái tim cô gái “chy nước” nên cô đã đến và đưa anh ta đi.

Hóa ra để được việc đôi khi phải từ bỏ, từ bỏ danh dự, từ bỏ chính mình để được điều mình mong ước. Tựa như một cậu học sinh cần từ bỏ những niềm vui vô bổ để tập trung học hành mới mong công thành danh toại. Cuộc sống không có vinh quang nào mà không qua gian khó. Gian khổ càng nhiều vinh quang càng lớn. Quy luật cuộc đời trường tồn vẫn là thế.

Cuộc sống của người môn đệ cũng phải trải qua gian khổ, hy sinh, tập luyện và từ bỏ. Đôi khi phải hy sinh hay từ bỏ cả những cái mình quyến luyến, thích thú hay đam mê. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá vinh quang.

Chúa Giêsu cũng từng đón nhận thập giá vì Chúa Cha. Thập giá của Chúa Giêsu đã biến thành thánh giá. Thánh giá vinh quang. Thánh giá đem lại nguồn ơn cứu rỗi cho nhân trần. Theo lẽ thường chẳng ai thích đau khổ. Ai cũng tìm an nhàn sung sướng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã chọn gian khổ, chọn hy sinh để vui lòng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha sẽ ân thưởng vương quyền thiên quốc cho những hy sinh mà Ngài đã làm cho Chúa Cha.

Là người ai cũng ham sướng sợ khổ. Nhưng chúng ta vẫn có thể đón nhận vì một hạnh phúc lớn hơn. Tựa như người mẹ mang thai nặng nhọc và còn sinh con trong đớn đau nhưng niềm vui thật to lớn khi con được sinh ra chào đời. Là người ky-tô hữu chúng ta cũng đón nhận thập giá không phải vỉ chúng ta thích đau khổ mà vì một phần thưởng thật lớn lao trên trời mà Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gi so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thường hạnh phúc thiên đàng.

Xin cho chúng ta luôn biết đón nhn thp giá như là hng ân Chúa gi đến để ta lp công trước mt Thiên Chúa. Amen.

 

22. Một sự nghịch lý – Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan

Con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa.

Chúa đưa ra ví dụ người xây tháp, ông vua ra trận. Làm gì thì cũng phải tính xem mình có đủ sức hoàn thành không đã. Nhưng kết luận làm ta chưng hửng và há miệng suy nghĩ: “Cũng giống như thế, ai trong các ngươi không từ bỏ hết mọi của cải thì không thể làm môn đệ ta”. Trước đó, Chúa đã nói đến phải từ bỏ những người ruột thịt và chính mạng sống mình.

Cái nghịch lý ở đó. Muốn xây tháp phải có tiền. Muốn thắng trận phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết, nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Vấn đề không còn là có nhiều có ít mà là từ bỏ tất cả.

Thế nghĩa là gì? Từ bỏ tất cả để theo Chúa nghĩa là coi Chúa hơn tất cả và tin vào một mình Chúa. Muốn xây tháp phải có tiền, muốn thắng trận phải có lính, còn muốn theo Chúa phải coi Chúa hơn hết mọi người và mọi sự và tin tưởng vào Chúa hơn hết mọi sự, mọi người: tin vào Chúa mà thôi. Bởi vì muốn theo Chúa thì phải sống bằng lòng tin, cậy, mến.

Nếu không coi Chúa hơn hết mọi người, mọi sự thiết thân với ta, và ta cảm được sự gần gũi bằng giác quan, ta sẽ dựa vào những người và những vật ta thấy được, nên bóng tối đến, khi ta không cảm thấy Chúa đâu nữa, mà chỉ cảm thấy sức nặng của cuộc sống, của vất vả và đau khổ, ta sẽ dễ dàng bỏ Chúa để quay về với những người và những vật ta cảm thấy được.

Cuộc chiến đấu của Chúa Kitô là cuộc chiến đấu chống lại Satan chứ không phải với kẻ thù bằng xương bằng thịt, nên ta không thể dựa vào người nào hoặc sức mạnh nào của vật chất mà chiến thắng được, song phải dựa vào Chúa mà thôi. Đây vẫn là cuộc chiến đấu Đavít – Goliath: “Ngươi cầm gươm giáo ra đánh ta, còn ta, ta ra đánh ngươi nhân danh Chúa mà ngươi thách đố” (1Sam 17,44). Thế đấy, tuy Đavít đã có thể vỗ ngực trước mặt Saulê rằng mình đã từng tay không đánh nhau với sư tử và gấu để bảo vệ đoàn chiên của cha, nhưng khi nghênh chiến tên khổng lồ Goliath thì Đavít chỉ dựa vào Chúa thôi, và Đavít đã thắng, hay đúng hơn Chúa đã dùng tay Đavít mà tiêu diệt Goliath giải thoát cho dân Chúa.

Đây là vấn đề vinh danh Chúa. Chúa thi thố quyền năng để làm vinh danh Chúa, nên Chúa chỉ ra tay khi người ta không mưu toan chiếm đoạt vinh quang Chúa bằng cách gán cho thế lực, của cải hay tài sức mình. Trong chuyện Ghiđêon, Chúa đã bảo ông đuổi bớt người tình nguyện về, chỉ lấy 300 thôi, kẻo dân chúng lại tưởng nhờ sức họ mà họ chiến thắng.

Trong lịch sử, Chúa vẫn hành động như thế, Chúa hạ kẻ kiêu căng, tự phụ và nâng kẻ nghèo hèn, khiêm tốn lên. Có những vị thánh thông thái, tài ba… nhưng các vị ấy đều khiêm nhượng, nhìn nhận quyền năng của Chúa và sự yếu đuối của mình; có những vị thánh yếu đuối, dốt nát như thánh nữ Catarina de Sienna, thánh Gioan Maria Vienney để làm nổi bật quyền năng của Chúa.

Cái có vẻ nghịch lý lại là một hợp lý khi người ta biết nhìn ra ý nghĩa đích thật của việc đi theo Chúa, với mục đích là vinh danh Chúa và sức mạnh là sức của Chúa. Phải đặt Chúa lên trên hết vì Chúa là lẽ sống duy nhất của mình, vì đường lối của Chúa là duy nhất cho mình, và sức mạnh của Chúa là nguồn sức mạnh duy nhất để hoàn thành được cuộc hành trình theo sau Chúa, đi với Chúa.

 

23. Sự khôn ngoan của Tin Mừng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan)

Chúa Nhật 23 thường niên: Sách Khôn ngoan 9,13-18; thư gởi Philemon 9-17; Lc 14,25-33.

Các bài đọc và bài tin Mừng CN 23 TN xoay quanh sự khôn ngoan.

I- Sách Khôn Ngoan nêu một thực tế: tại sao con người “mất khôn” và làm sao có thể trở nên khôn?

Con người mất khôn vì: “ Thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề”.

Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng nhắc các môn đệ: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41).

Thân phận con người là như thế. Bao nhiêu lần chúng ta tự đấm ngực sau khi đã làm một chuyện đáng tiếc: “Sao lúc đó mình không nghĩ ra… Sao lúc đó mình ngu thế!”…

Đó là cái giới hạn thứ nhất. Cái giới hạn thứ hai càng khó vượt qua:

“Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai do thấu nổi hay chăng?”

Chúa Giêsu cũng nói với ông Nicôđêmô: “Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin,thì giả như tôi nói nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được?”(Ga 3,12).

Câu trả lời rất rõ ràng và dứt khóat: “Ý định của Chúa, nào ai bíết được, nếu tự chốn cao vời, Ngài chẳng ban Đức khôn Ngoan, chẳng gởi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho bíết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.”

Các tông đồ đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để ở với Chúa và được Chúa đích thân dạy dỗ suốt ba năm trời, mà càng học càng ngu, khiến Chúa phải than: “Anh em chưa hiểu, chưa thấu sao? Lòng anh em chai đá thế! Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao” (x. Mc 8,17-18).

Rút cục thì phải chờ đến khi Chúa đã vào trong vinh quang Phục Sinh, Chúa mới giải được cái huyệt ngu cho các ông: “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45).

Tin Mừng Gioan nói rõ hơn: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ phái đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (16,13).Vậy ra Thánh Thần là “ngón tay”của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Vinh Quang dùng để giải huyệt ngu và giúp trí nhớ cho các môn đệ.

Môn đệ thuộc thế hệ thứ hai, tức là các tín hữu do các Tông Đồ dạy dỗ cũng vẫn còn bị “điểm huyệt” cho hóa ngu. Trong bức thư đầu tiên gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và là bản văn xưa nhất trong sách Tân Ước, thánh Phao lô diễn tả cách thức ngài dạy dỗ tín hữu: “Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ… Chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; chúng tôi khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi anh em vào Nước và vào vinh quang của Người” (I Th 2,7.11-12).

Cuối thư, ngài khuyên họ: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ coi thường ơn làm ngôn sứ. Hãy cân nhắc mọi sự, điều tốt hãy giữ lấy, mọi thứ xấu hãy lánh xa” (5,18-22).

Trong bức thư thứ hai gởi cho cùng một cộng đoàn này, thánh Phaolô đã phải cảnh giác họ: “Về ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, chúng tôi xin anh em điều này: anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hỏang sợ vì một mặc khải của thần khí, một lời nói hay một bức thư được coi như là do chúng tôi và làm cho anh em tưởng là ngày của Chúa đã đến. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2Th 2,1-3).

Như vậy là sớm có những ngón tay khác tìm cách điểm huyệt làm cho ngu! Sư phụ của cái ngón điểm huyệt làm cho ngu vẫn là kẻ thù truyền kiếp: Xa-tan. Trong thư thứ hai gởi tín hữu Corintô, thành Phaolô vạch mặt chỉ tên nó: “… kẻo chúng ta bị Xa-tan lường gạt, vì không phải chúng ta không biết ý đồ của nó”(2Cr 2,11); “Lạ gì đâu, chính Xa-tan cũng giả dạng thiên thần” (11,14).

Trong thư gởi tín hữu Ga-lát, [là thư thứ hai, về thời gian, sau thư I Th], thánh Phaolô quở trách họ cũng giống Chúa Giêsu quở trách các tông đồ: “Hỡi những người Ga-lat ngu xuẩn, ai đã mê hoặc anh em… Anh em ngu xuẩn như thế sao?” (Gl 3,1.3). Rồi trong phần khuyên bảo, thánh Phaolô nhắc lại điều sách Khôn Ngoan đã nói: “Thật thế, tính xác thịt đam mê những điều trái ngược với Thần Khí… khiến anh em không làm được những điều anh em muốn” (5,17).

Cái nọc độc của Xa-tan thấm sâu đến nỗi người ta lừa dối chính mình: “Nếu ai tưởng mình là cái gì mà chẳng là cái gì cả, thì lừa gạt chính mình” (6,3). Nó có thể trở thành một thứ bệnh dịch: “Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo huấn lành mạnh, nhưng theo những đam mê của chính mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa ngáy muốn nghe. Họ sẽ ngỏanh tai đi không nghe sự thật, nhưng hướng về những chuyện hoang đường” (2Tm 4,3-4).

Cuối cùng thánh Phaolô còn gặp phải một “Anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian” (2Tm 4,10).

Xa-tan có trăm nghìn ngón để điểm vào cái huỵêt làm cho hóa ngu. Nó có nội gián ngay trong lòng ta, nó có đồng minh và tay chân bao vây ta. Thánh Phaolô bíêt thế, nên từ trong tù, ngài đã viết cho tín hữu Ephêsô: “Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha… Nguyện xin Chúa ban cho anh em được mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người… để cùng các thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết lòng yêu mến của Đức Kitô” (Ep 3,14-19).

  1. Bài đọc thư Philêmon cho chúng ta thấy thánh Phaolô đã vận dụng sự Khôn Ngoan của tin Mừng để giải quyết một vấn đề xã hội của thời ngài: vần đề nô lệ.

Philêmon là một tín hữu giàu có, nhiệt thành và quảng đại. Nhà ông trở thành nơi hội họp của cộng đoàn Hội Thánh. Thánh Phaolô gọi ông là “người bạn yêu quý và cộng sự viên”.

Không hiểu sao một người nô lệ trong nhà ông Philêmon, tên là Ônêximô, lại bỏ trốn. Nhưng anh ta rất khôn, tìm đến gặp thánh Phaolô đang ở trong tù. Và đối với thánh Phaolô anh ta đã trở thành “đứa con tôi sinh ra trong cảnh xiềng xích…nó là ruột thịt của tôi”. Anh ta trở nên người hữu ích đến nỗi thánh Phaolô ngỏ ý: “Tôi muốn giữ nó ở bên tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi không muốn làm gì mà không có sự ưng thuận của anh…”.

Tương quan giữa Ônêximô, người nô lệ đã bỏ trốn, và Philêmon, ông chủ, bây giờ thế nào?

“Có lẽ nó đã rời xa anh một thời gian, chính là để anh vĩnh viễn được lại nó, không phải như một người nô lệ nữa, nhưng còn hơn một người nô lệ, như một người anh em yêu quý: đặc bíệt yêu quý đối với tôi, phương chi đối với anh lại còn hơn bíêt mấy, xét cả về tình người lẫn tình anh em trong Chúa”.

Sự biến đổi tuyệt vời: người nô lệ trở thành người anh em trong Chúa của ông chủ.

Cách mạng kiểu Mac-xít thay đổi bằng cách lật ngược trật tự xã hội, đổi vai: chủ xuống làm nô lệ, nô lệ lên làm chủ. Ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1954-1975, còn đi tới khẩu hiệu: “thằng trời kia xuống làm dân, để cho nông hội đứng lên làm trời”, bởi vì nông hội có thể “thay trời làm mưa” và có thể “nghiêng đồng tát nước ra sông”. Cách mạng triệt để tới thế là cùng!

Sự Khôn Ngoan của Tin Mừng thay đổi tận bên trong lòng con người để nâng nô lệ lên làm anh em của chủ, “cả về tình người lẫn tình anh em trong Chúa”. Người nô lệ vô dụng bỏ trốn, nay trở thành “người hữu ích cho cả anh lẫn tôi”.

Tin Mừng không chủ trương lật đổ, nhưng biến đổi các tương quan từ bên trong:

“Thưa anh em, mỗi người đang ở địa vị nào khi được kêu gọi thì cứ ở địa vị đó. Bạn là nô lệ khi được kêu gọi ư? Chớ bận tâm, dù có thể được tự do, tốt hơn hãy lợi dụng thân phận nô lệ. Thật thế, người nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Kitô. Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (I Cr 7,20-23).

Sự thay đổi diễn ra trong Đức Kitô: “Tất cả anh em đã chịu phép rửa để kết hợp với Đức Kitô, thì đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn Do thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì tất cả anh chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28).

Xã hội tốt đẹp hơn và bình đẳng tuyệt đối, vì nô lệ trở thành “nô lệ của Đức Kitô, tận tâm thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng dọa nạt nữa: anh em bíêt rằng cả họ, cả anh em cùng có chung một Ông Chủ trên trời và Người không thiên vị ai”. (Ep 6,6-9).

III. Sự Khôn Ngoan Chúa dạy trong bài Tin Mừng.

Sách Tin Mừng Luca nói “dai” nhất và “triệt để” nhất về những điều kiện để làm môn đệ.

Nói “dai” nhất:

Sau lần thứ nhất Chúa Giêsu báo trước cuộc Thương Khó, Lc không kể gì về phản ứng của các tông đồ, mà để cho Chúa Giêsu tuyên bố liền điều kiện làm môn đệ. Sau lần thứ hai, Chúa ân cần sửa dạy cách hành xử “chống thập giá” của các tông đồ, rồi “cương quyết đi lên Giêrusalem” (9,51). Vừa lên đường thì lại xảy ra chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan muốn làm môn đệ Elia, khiến lửa từ trời xuống đột người ta, rồi chuyện ba người lần lượt xin theo Chúa hoặc được gọi theo Chúa, và được nghe những điều kiện một cách cụ thể.

Đến chương 14 thì Lc lại kể những lời Chúa nói về điều kiện làm môn đệ.

Sau lần thứ ba loan báo cuộc thương khó thì chỉ thấy “một sự im lặng đáng sợ” từ phía các môn đệ.

Tới bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng, sau khi Chúa đã lập bí tích Thánh Thể, trao Mình và Máu làm của ăn của uống và tuyên bố “bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy”, thì Lc kể” “các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong các ông được coi là người lớn nhất”, khiến Chúa Giêsu phải lặp lại một cách quyết liệt hơn bài học đã dạy sau lần thứ hai và đặt chính mình Chúa làm gương mẫu: “Thầy đây, Thầy ở giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,21-27àso với Ga 13).

Lc nói “triệt để” nhất:

lần thứ nhất nói về điều kiện làm môn đệ: “Ai muốn đi theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo…” (9,23-26).

Lần thứ hai” “Ai đến với tôi mà không… thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình và đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi (14,26-27).

Tình triệt để hiện rõ trước tiên ở cụm từ “thập giá hàng ngày”, chứ không phải lâu lâu gặp một lần!

Cách phát biểu lần thứ hai thì như một “định lý đảo” trong tóan học, so với lần thứ nhất là “định lý thuận”. Trong tóan học, khi một định lý thuận có định lý đảo thì không có cách nào thóat được!

Chúa nói với mọi người: Cái phiền là Chúa không nói riêng với các môn đệ vẫn theo Chúa hay với các vị trong nhóm Mười Hai, mà nói với mọi người (9,23 và 14,25). Vậy thì điều kiện này không chỉ dành cho ông cha, bà phước hay ông thầy khổ tu, mà dành cho mọi người.

Làm sao Chúa có thể đòi mọi người như thế được? Ở lần thứ nhất, Chúa giải thích: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất…”. Rõ ràng là khi bị đặt trong một hoàn cảnh phải chọn lựa quyết liệt, thì phải chọn Chúa hơn chính mạng sống mình, hơn mọi của cải trần gian, hơn danh vọng. Đó là trường hợp các thánh tử đạo, tổ tiên chúng ta và những người tử đạo đương thời…

Nhưng Lc Chúa nói đến “thập giá hàng ngày” kia mà! Sách Tin Mừng này đặc biệt thích “hàng ngày” và “hôm nay”. Thiên thần báo tin cho các người chăn chiên: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (2,11). Chúa Giêsu trong Hội Đường Nadaret: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời kinh thánh tai quý vị vừa nghe” (4,21). Khi Chúa vào nhà ông Da-kêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Và trên thập giá, Chúa đáp lời người trộm cướp kêu xin: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.

Trong kinh Lạy Cha, “Xin cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (11,3).

Ngày nào cũng là “Hôm nay” của ơn cứu độ, ngày nào cũng cần lương thực ngày ấy. Vì thế mà thập giá là nơi treo ơn cứu độ cũng hiện diện hàng ngày như lương thực.

“Thập giá hàng ngày” trở nên khó hiểu vì chúng ta thường hỉểu thập giá là cái gì đau khổ lắm, nên chỉ khi nào gặp chuyện đau khổ lắm mới đem lời “thập giá” ra an ủi nhau!

Trong lời Chúa tuyên bố, chúng ta có thể thấy “từ bỏ chính mình” là nói một cách trừu tượng, “vác thập giá mình hàng ngày” là kiểu nói bằng hình ảnh. Ở thời Chúa Giêsu hai chữ thập giá gợi lên cái gì thì ai cũng biết, và cảnh người bị treo trên thập giá không phải là họa hiếm. Có lẽ những người nghe Chúa cũng đã từng thấy cảnh đó rồi. Bị treo lên thập giá thì chẳng còn gì cả, trần truồng trước con mắt mọi người, ai đi qua cũng có thể phỉ báng, chim trời xuống mổ hay muỗi cắn cũng không đuổi được nữa. Một người bị kết án tử hình đã vác lấy thập giá của mình mà đi thì không còn gì là của mình nữa rồi.

Như vậy hình ảnh “vác thập giá mình hàng ngày” diễn tả trọn vẹn nhất sự từ bỏ, giống như Chúa Giêsu (x. Pl 2,5-11). Chính lời giáo huấn trong bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng cho chúng ta hiểu vác thập gia hàng ngày là đem bản thân và những gì mình có ra phục vụ anh chị em.

Cái khôn của Tin Mừng là “bỏ con săn sắt, bắt con cá rô”, bỏ cái giới hạn để được cái vô hạn, bỏ cái mau qua để được cái vĩnh cửu. Bỏ bóng bắt mồi chứ không bỏ mồi bắt bóng! Có nhiều cách bỏ.

Trong Tin Mừng Lc có các môn đệ “bỏ mọi sự mà đi theo Chúa” (5,11), lại có các phụ nữ giầu có ôm hết của cải mà đi theo Chúa: “Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (8,3). Có ông Da-kêu vừa được Chúa gọi và xin cho vào trọ ở nhà ông, ông đã thưa: “Thưa Ngài, đây phân nửa gia tài của tôi, tôi cho người nghèo”(19,8). Có ông Giuse Arimathê dùng uy tín của mình để đơn thân đi gặp Philatô xin xác Chúa Giêsu và chôn trong ngôi mộ mới (23,59-53).

Trong sách Công Vụ và các thư của thánh Phaolô, chúng ta thấy nhiều người như ông Philêmon, biến nhà mình thành nơi hội họp cho cộng đoàn tín hữu. Cặp vợ chồng Pơ-rit-ki-la và A-qui-la liên kết với thánh Phaolô phục vụ các cộng đoàn ở Corintô, Ephesô, Rôma.

Quả thật điều kiện làm môn đệ áp dụng cho mọi người, mọi bậc sống. Làm môn đệ của Chúa không phải là một nếp sống dành riêng cho một số người, nhưng cho mọi người. Ai cũng được mời gọi làm môn đệ của Chúa cả.

Cái trớ trêu của cuộc đời là có những người khôn nửa vời: từ bỏ mọi sự để vào tu viện nhưng vẫn dễ dàng “quên” một món: chính mình. Có khi tu đến hết đời cũng vẫn còn ôm theo chính mình. Vì thế chẳng bao giờ thấy mình hạnh phúc.

Trong chuyện “Bao Công xử án”, có chuyện một ông trong hoàng tộc bị kết tội mưu phản và bị chém đầu. Nhưng tòa án có ba con dao khác nhau: con dao có đầu con chó để chém dân đen (Cẩu đầu trảm), con dao có đầu con hổ để chém quan chức (Hổ đầu trảm) và con dao có đầu con rồng để chém người hoàng tộc (Long đầu trảm). Đáng lẽ theo đúng tội thì phải giáng xuống hàng dân đen. Nhưng Bao Công nể mặt hoàng tộc, ra lệnh “Hổ đầu trảm”. Ông hoàng đòi “Phải xử ta bằng Long đầu trảm”! Bao Công ra lệnh “Cẩu đầu trảm”!

Đúng là “cà cuống chết đến đít còn cay”.

Ngày nay trong các nước nghèo của châu Á, châu Phi, bên cạnh số người thật lòng đáp lại tiếng Chúa gọi, cũng có những kẻ “khôn ngược”: đó là những người chẳng có gì để bỏ, ngòai “chính mình”, nhưng lại ôm theo vào chủng viện, vào tu viện với cái ước mơ “vinh thân phì gia”, “một người làm quan cả họ được nhờ”.

Thật đáng báo động vì nguy hiểm cho tương lai của Giáo Hội.

Thế là đảo lộn Tin Mừng! Thay vì lột bỏ hết để theo Chúa thì lại cùng chia áo sống của Chúa với “quân dữ”, lợi dụng tài sản của Giáo Hội, lợi dụng lòng tốt của giáo dân, của ân nhân trong và ngoài nước… Giáo Hội tại các nước giàu đã chịu bao nhiêu thiệt thòi, có khi phá sản vì những gương xấu của linh mục, tu sĩ. Giáo Hội tại các nước nghèo không cẩn thận thì lại “nuôi ong tay áo”, tới lúc nào nó đốt cho rồi bay đi thì hối không kịp.

Phần cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy tiếp sự khôn ngoan của Tin Mừng. Chúa kể hai dụ ngôn về khôn ngoan ở đời là phải biết tình tóan. Rồi chuyển qua sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Cũng vậy, ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi”. Lại một định lý tóan học! Nhưng sao lại “cũng vậy”? Hai thí dụ đều là phải biết tính tóan, áp dụng vào con đường làm môn đệ thì lại không có tính toán mà chỉ có “trọn gói”!

“Cũng vậy” nghĩa là giống nhau. Giống nhau ở chỗ nào đây?

Giống nhau ở chỗ hai bên đều là khôn cả”

Khôn ở đời là phải bíêt tính tóan,

khôn của Tin Mừng là không tính tóan.

Tuy Chúa Giêsu học nghề thợ mộc, quen đo đạc: đo cuộc sống cũng lấy “khủyu tay” (Lc 12,12,27), nhưng đến khi nói về điều kiện để theo Chúa thì Chúa xóa hết các động từ “cân, đo, đong, đếm”, chỉ bíêt “trọn gói”.

Chúa khôn thiệt. Không cân, đo, đong, đếm thì không chia chác được.

Chúa cũng không cân, đo, đong, đếm từ khi làm người cho đến khi trút hơi trên thánh giá: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”.

Xin Chúa cho con một tí cái khôn của Chúa đi, con sẽ hạnh phúc suốt đời và muôn đời.

 

24. Từ bỏ để theo Chúa

Con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta biết điều kiện đó, là phải từ bỏ tất cả: “của cải, cha mẹ, vợ con, anh chị em và chính bản thân mình”. Đó là điều kiện gắt gao, cho nên cần phải tính toán, suy xét thật cẩn thận. Điều kiện này không phải Chúa chỉ nói với các môn đệ mà với tất cả đám đông đang nghe Chúa giảng dạy. Và như vậy đây là điều kiện cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong hoàn cảnh của nền văn minh vật chất hiện nay.

Trước hết, Chúa Giêsu cho biết: muốn đi theo Chúa, muốn làm môn đệ Chúa phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả chính bản thân cũng như vinh quang và của cải trần gian này. Đây là một đòi hỏi mang tính chất khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: Cũng như người muốn xây tháp hay xây nhà: trước khi xây phải tính toán cẩn thận: có xây hay không? Xây lúc này hay xây lúc khác? Xây ở đâu? Để làm gì? Rồi vấn đề tiền bạc, công thợ, vật liệu thế nào? Có giải quyết được những vấn đề đó mới nên khởi công, bằng không thì thôi. Thà đừng xây còn hơn là xây rồi mà bỏ dở dang. Cũng vậy, một ông vua hay một ông tướng sắp lâm trận, phải biết lượng sức mình, đánh giá đúng khả năng của mình: so đo lực lượng hai bên, phải biết tinh thần quân sĩ, phải nắm vững tình thế: thiên thời, địa lợi, nhân hòa… Có nắm vững được những yếu tố thuận lợi cho mình mới nên cất quân đi đánh giặc, bằng không phải tính toán cách khác, kẻo cất quân đi đánh mà bị thua thì vừa mất quân vừa thiệt hại.

Những người muốn đi theo Chúa cũng vậy, phải biết tính toán cẩn thận và chọn lựa dứt khoát. Bởi vì con đường theo Chúa là con đường từ bỏ: “từ bỏ hết, từ bỏ tất cả, từ bỏ hoàn toàn”. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn xây tháp, xây nhà phải có tiền. Muốn thắng trận, phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết, nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Từ bỏ tất cả để theo Chúa, nghĩa là coi Chúa hơn tất cả mọi người, hơn tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa mà thôi.

Điều kiện này là khó. Nhưng không phải là không thực hiện được. Bằng chứng là các tông đồ Chúa kêu gọi, các ông mau mắn, dứt khoát đi theo Chúa, dù phải bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Tiếp theo các tông đồ, từ xưa cho đến nay, biết bao nhiêu người đã sống đời tận hiến, bước đi theo Chúa trong ơn gọi linh mục, tu sĩ, cống hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân… Có biết bao người đã sẵn sàng chịu đau khổ, thử thách và hy sinh cả mạng sống vì danh Chúa Kitô như các thánh tử đạo.

Nhưng đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, vợ con, nghề nghiệp để đi tu. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết từ bỏ mình. Từ bỏ mình không có nghĩa là hành hạ mình, nhưng là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu của ý chí, những lời nói cay chua của cơn tức giận, những tư tưởng kênh kiệu độc đoán của thái độ tự phụ bất chính. Nói khác đi, từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏ tham, sân, si. Tham là tính tham lam: tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau. Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác. Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa, còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong xấu xa, thối nát. Đối với nhà Phật, phải diệt tham lam, diệt sân nộ, diệt mê si. Diệt là dứt bỏ, dứt bỏ dần dần và rồi hủy bỏ dứt khoát. Đối với chúng ta là từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý thích ý muốn của mình khi điều đó trái với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm: sống là lựa chọn, mà lựa chọn tức là từ bỏ những cái mình không chọn. Thái độ từ bỏ và dứt khoát đó lại càng cần đối với việc chọn Chúa, chọn nước trời, chọn những việc đẹp lòng Chúa và làm chứng cho Chúa. Bấy lâu nay chúng ta có thái độ dứt khoát đó không hay chúng ta muốn ôm đồm tất cả và cũng tiếc rẻ tất cả? Bấy lâu nay có phải chúng ta đã theo Chúa để tìm lợi cá nhân, tiền bạc, danh vọng hoặc địa vị và một số những cái lỉnh kỉnh khác, chứ thực sự chưa có thái độ lựa chọn dứt khoát vì Chúa, vì tình thương, vì tình người, vì nước trời… có phải vậy không?

Trong xã hội chạy theo văn minh vật chất và thích hưởng thụ này, có những người giàu, có chức vị, có tiền của, có nhiều phương tiện, nhờ có tinh thần từ bỏ mình, quên mình, đã biết lợi dụng những cái đó để làm ích cho kẻ khác, để xây dựng công ích, để mở Nước Chúa. Trái lại, cũng trong hoàn cảnh như vậy, kẻ không có tinh thần từ bỏ, quên mình, thì đã lợi dụng của cải, tiền bạc, tự do, tiện nghi, để hưởng thụ cho chính bản thân mình, đã không làm lợi cho kẻ khác, cho Hội thánh, cho đồng bào, cho đất nước… Chúng ta vào số người nào?

Để từ bỏ được chính mình như thế, cần phải có thật nhiều ơn Chúa và một sự can đảm mạnh mẽ. Vì khi từ bỏ là chúng ta sẽ cảm thấy như bị thua thiệt rất nhiều ở đời này. Vì thế, từ bỏ được mình, quên mình, nói thì dễ nhưng thực hành thì không dễ dàng, nếu không có ơn Chúa trợ giúp thì không ai có thể thực hành được. Cho nên, chúng ta phải cầu xin Chúa và cố gắng rất nhiều.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết từ bỏ để mạnh dạn bước đi theo Chúa và can đảm thi hành ý Chúa. Amen.

 

25. Bạn đã yêu mến Chúa ở thang bậc nào??

(Suy niệm của Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh)

Một đám rất đông người theo Chúa Kitô, cùng đi với Chúa Kitô. Lý do nào, động lực nào thúc đẩy họ? Vì phép lạ hoặc lời giảng dạy hoặc họ đã nhận ra Chúa là Đức Kitô? Câu hỏi nào cũng có thể đúng với một số người trong đám đông hỗn tạp này cả (x.Lc 14,25-38)

Chúa dạy họ. Ta có thể đoán được cái gì họ chưa có, Chúa mới dạy, “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”, dịch đúng là “Nếu ai đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”.

Một lời dạy đọc ra “chói tai”, vi phạm giới răn thứ tư. Ngôn ngữ Cựu ước thiếu lối so sánh “mà hơn”, họ dùng lối đối ngẫu, cặp đối lập thay vào, thí dụ: Thiên Chúa thương Giacóp và ghét Esau, có nghĩa là “Thiên Chúa thương Giacóp hơn Esau” (Mal 1, 2-3). Như vậy, lời Chúa dạy trên phải hiểu: Nếu ai đến với Ta mà thương yêu cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình hơn Ta thì không thể làm môn đệ Ta.

Đó là điều kiện tiên quyết đòi hỏi rất hợp lý hợp tình. Đặt Chúa trên các giá trị khác. Tình gia đình sâu thẳm, ai cũng nhận thế. “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, nhưng công của Chúa, tình của Chúa thương ta còn hơn cả cha mẹ, mến Chúa hơn cha mẹ là đúng. Chúa là cha mẹ ở bậc cao nhất vì Chúa tạo dựng mọi sự, quan phòng và cứu chuộc, chết cho ta đươc sống nên ta mến Chúa hơn cha mẹ là đúng.

Ai còn đặt một thứ tình yêu nào trên tình yêu Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ Chúa.

Biết đặt đúng giá trị con người, sự vật, biết ưu tiên cho tình yêu mến Chúa ta phải từ bỏ, phải hy sinh, phải chịu thiệt cái này cái kia nghĩa là phải vác thập giá theo Chúa. Không hy sinh, không từ bỏ, không hạn chế điều này điều kia, ta chỉ có thể mến Chúa ngang hàng với những thứ khác (tiền bạc, danh vọng, vợ con), ta không xứng đáng làm môn đệ Chúa.

Nền tảng của con người môn đệ Chúa là yêu mến Chúa hơn mọi thứ khác hợp lý, hợp luật (yêu cha mẹ là hợp lý hợp luật, yêu anh chị em là hợp lý hợp luật v.v…). Còn thứ hạng của môn đệ, cách thể hiện người môn đệ thì khác nhau. Không phải ai cũng bỏ mọi sự theo Chúa như Mười Hai Tông đồ được. Có người xin theo Chúa, Chúa đã dạy ở nhà làm “Tông đồ giáo dân”. Chúa nói với đám đông hai dụ ngôn để họ cân nhắc, ước lượng sức của mình, biết mình nên thuộc loại môn đệ nào:

Dụ ngôn xây tháp, phải tính toán tiền bạc xem có đủ không. Xây dở chừng, không hoàn thành, người ta sẽ cười cho.

Dụ ngôn ông vua sắp đi giao chiến với vua khác, tính toán cẩn thận xem mình có đủ lực thắng không. Không thắng thì tốt nhất là đi cầu hòa, hiệp thương.

Như vậy, đối với những người theo Chúa để làm Tông đồ như linh mục, tu sĩ đã dấn thân thì nên dấn thân trọn vẹn vì đã suy tính cân nhắc rồi. Từ bỏ tất cả để sống phục vụ Chúa và tha nhân. Bất nhất là không ra gì hết.

Đối với giáo dân, đời sống trần thế là đối tượng tông đồ, làm sao cho mọi sinh hoạt trần thế có tinh thần Tin Mầng. Gia đình, công sở, xí nghiệp, chợ búa, khu xóm đều là nơi ta tiếp xúc, làm việc, sinh sống thể hiện người môn đệ của Chúa. Đời sống nào cũng phải đúng đắn, hợp luật. Thanh niên chưa lập gia đình, phải sống đời “độc thân tạm thời” cho thật đàng hoàng, đạo đức. Người lập gia đình, chọn bạn trăm năm chứ không phải mười năm, đôi ba năm rồi ly dị. Người công nhân phải chuyên cần, đem sức lao động phục vụ bản thân, gia đình và xã hội.

Đời sống nào cũng đòi hỏi quyết tâm, dấn thân trong tinh thần vì yêu mến Chúa hơn tất cả.

 

26. Thập giá trong đời – AM Trần Bình An

Lực sĩ bơi lội Michael Phelps, người được nhiều huy chương nhất trong tất cả các kỳ thi thế vận hội, cách đây hai năm đã suýt tự tử. Vào thời điểm đó, anh bù đắp khoảng trống và nỗi đau của mình bằng ma túy và rượu, vì thế những thứ này còn đưa anh vào vòng xoáy hủy hoại hơn. Năm 2009, anh bị cấm bơi ba tháng vì một bức hình anh hút được lan truyền trên mạng; dù bị phạt nhưng cũng không ngăn anh tiếp tục cuộc chơi. Tệ hơn nữa khi anh bị bắt lần thứ hai, vì tội say rượu lái xe trong vòng mười năm.

Phelps ở dưới đáy. Những ngày sau khi bị bắt, anh sống cô lập và anh tiếp tục uống. Trong một buổi phỏng vấn với hãng tin ESPN, anh thú nhận: “Tôi không còn một sự tự tin nào. Tôi nghĩ không có gì có giá trị và thế giới sẽ tốt hơn nếu không có tôi. Tôi tự nhủ, tốt nhất là tôi nên tự tử”. Các huy chương vàng cũng không an ủi anh được: anh không còn tìm được ý nghĩa cuộc đời.

Sự quan phòng đã làm cho gia đình và các bạn của anh thuyết phục được anh vào một trung tâm phục hồi để đuổi các tư tưởng xấu này. Dù mới đầu anh không muốn nghe, nhưng cuối cùng anh chấp nhận số của mình và đi trên con đường chữa lành. Phelps mang theo anh quyển sách Mục đích hướng dẫn đời sống (The Purpose Driven Life – của Rick Warren). Đó là quyển sách do lực sĩ Ray Lewis tặng anh, lực sĩ Lewis là cựu phòng vệ của đội Ravens của Baltimore. Không những anh đọc mà anh còn cho nhiều bệnh nhân khác mượn, họ đặt cho anh biệt danh “Michael Người Rao Giảng”.

Các lực sĩ đều mê huy chương, đó là sự tưởng thưởng cho công trình khó nhọc. Nhưng sự chú ý của truyền thông chỉ có một thời gian. Trong khi Đức Tin dựa trên tình yêu, một tình yêu giúp tìm lại thăng bằng và phối cảnh. Ngoài việc tìm lại Đức Tin trong thời gian ở trung tâm phục hồi, Phelps cho biết, một phần sự rối loạn của mình là do sự thiếu vắng người cha. Khi anh 9 tuổi, cha mẹ của anh ly dị và để bù cho sự thiếu thốn này, anh bắt đầu bơi. Một khi đã chinh phục được nước thì nỗi đau lại trồi lên mặt.

Trong tuần lễ gia đình ở trung tâm, Phelps đã có dịp tiếp xúc với cha mình và đã giúp anh chữa lành. Lần đầu tiên họ ôm nhau từ nhiều năm nay, điều này đã giúp Phelps đi tới đàng trước. Một vài tháng sau khi ở trung tâm phục hồi, Phelps ngõ lời xin cô bạn gái Nicole Johnson của mình làm đám cưới. Họ đã đính hôn và sẽ làm đám cưới sau kỳ thi Thế vận hội. Khi lần đầu tiên bồng con mình trên tay, Phelps đã khóc. Anh thổ lộ với hãng tin ESPN: “Tôi bàng hoàng không nói lên lời. Tôi nhận ra thế nào là một tình yêu thật”.

Đứng trước trách nhiệm mới của gia đình, cuộc thi thế vận kỳ này sẽ là lần chót. Nhờ ơn Chúa, lực sĩ Phelps đã ra khỏi vực thẳm để về với cuộc sống. Có thể anh không hoàn hảo, nhưng Đức Tin của anh đã dẫn anh đi trên một con đường mới. Anh hiểu, dù số lượng huy chương vàng có nhiều như thế nào thì chúng cũng không có khả năng cứu được anh. (Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch, Đối với Michael Phelps mọi huy chương không thể sáng chói nếu không có Chúa)

Kình ngư huyền thoại Michael Phelps, vô địch huy chương vàng Olympic hôm nay đã không thể đạt những kỳ tích, nếu không có sự đồng hành của bà mẹ Debbie Phelps. Người đã quyết tâm rèn luyện Michael Phelps vượt qua nỗi sợ xuống nước từ hồi 7 tuổi và hội chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) lúc 9 tuổi. Khi đã lên đỉnh vinh quang, Michael Phelps lại đắm đuối vào những cám dỗ ma tuý, rượu chè, cờ bạc, cá ngựa, nhưng nhờ trông cậy vào ơn Chúa và tình yêu, anh lại tiếp tục gặt hái huy chương thế vận hội. Anh đã có tiền tài, danh vọng, chỉ thiếu có Chúa, nên mới lạc lối.

Trong Tin Mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu nêu lên những điều kiện bắt buộc tuân theo, để làm môn đệ Người, để đi theo Người. Đó là từ bỏ vật chất, tình cảm thế tục và chấp nhận thập giá. Ở đời, bất cứ ai chẳng nhiều ít, cũng đều vấp phải đau khổ, khó khăn, thách đố, nên ra sức tránh né. Nhưng Đức Giêsu lại đòi hỏi phải gánh vác lấy, không được từ chối: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Thập giá bản thân

Thách đố nặng nề hơn cả chính là tính xác thịt. Chống lại bản năng, thú tính, ham muốn, chính là một thập giá bất khả phân ly, liên tục cho đến nhắm mắt xuôi tay. Có thể gọi là thập giá tu thân. Thánh Phaolô khuyên nhủ Kitô hữu hãm mình, không nô lệ bản thân: “Chúng ta hãy ăn ở đứng đắn, như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.“ (Rm 13, 13-14)

Tiếp đến, thập giá còn là bổn phận và trách nhiệm, mà bất cứ ai sống trong cuộc đời cũng phải gánh vác. Làm con cái, cha mẹ, làm tu sĩ, Linh mục, đều có trọng trách, đều được Chúa giao cho một nén, hay nhiều nén bạc sinh lãi, tuỳ theo khả năng. (Mt 25, 14-20) Đó chính là thập giá tích đức. Mong ngày sau, được hân hạnh nghe lời khen của Ông Chủ: “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành…Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.” (Mt 25, 21)

Thập giá Kitô hữu

Ngoài thâp giá tha nhân, như quan tâm, nhân ái, tận tuỵ chăm sóc, tận tình phục vụ những người cô quả, nghèo đói, bệnh hoạn, đau khổ, bị bỏ rơi, cần được yêu thương, giúp đỡ, chia sẻ, người tín hữu Kitô còn phải vác thập giá chứng nhân, gieo vãi hạt giống Tin Mừng khắp nơi. Như chính Đức Giêsu đã trao phó nhiệm vụ cao cả cho các môn đệ, những người theo Người: “Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8)

Đức Giêsu cũng thẳng thắn tiên báo những gian khổ, nguy hiểm, thách đố, dành cho các môn đệ khi thi hành sứ vụ: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói.” (Mt 10, 16) Những thập giá đau đớn, xót xa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10, 22)

Tránh né vác thập giá, hay “khôn ngoan” thoả hiệp, thông đồng, hiệp lực, cộng tác với quyền lực đen tối của sự dữ, với văn minh sự chết, để cọng sinh, hỗ tương, thuận lợi “giữ đạo,” đều là trắng trợn nguỵ biện, xảo ngôn, cùng đối phó, phản nghịch, antichrist, bất trung với Tin Mừng. “Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.” (Lc 14, 27)

Thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa” để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá mà theo Ta.” (Đường Hy Vọng, số 714)

Lạy Chúa Giêsu đầy lòng thương xót, chúng con quá mỏng dòn, yếu đuối, dễ ngã lòng, xin Chúa luôn ban Thánh Thần đến an ủi, khích lệ, phù hộ chúng con can trường vác thập giá hàng ngày, luôn trung thành theo Chúa.

Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu chúng con luôn chấp nhận những khó khăn, vất vả, đắng cay trong đời cho nên, cho đẹp lòng Chúa. Amen.

27. Ai có thể làm môn đệ Đức Giêsu?

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

Ngày 02/08/2013, ca nô mang số hiệu H29, tuy tải trọng chỉ 18 khách, nhưng đã chở đến 30 người trong chuyến hành trình từ huyện Gò Công Đông (tỉnh Tiền Giang) đến Vũng Tàu. Bất ngờ gặp sóng lớn ca nô bị lật úp, cách bờ biển Cần Giờ khoảng 4 km.

Chàng trai Trần Hữu Hiệp, 26 tuổi quê Thanh Hóa, cũng là hành khách bị nạn trên ca nô, đã cố gắng cứu vớt được 4 người suýt chết đuối. Thấy một người phụ nữ đang mang bầu, yếu ớt bám vào thân ca nô, anh Hiệp đã không tiếc mạng sống cởi ngay áo phao đưa cho người này.

Nhường áo xong, anh Hiệp bám vào thành tàu cùng bạn hữu, nhưng liên tục bị nhiều cơn sóng khác đánh dạt ra. Anh bơi vào lại, nhưng chỉ được một lúc lại bị đánh ra xa tiếp. Nhiều con sóng khác lại ập vào, anh Hiệp lúc này đã kiệt sức lại trôi ra xa.

Những người đồng cảnh ngộ liền cố gắng níu giữ anh Hiệp. Tuy nhiên lúc này anh đã quá kiệt sức, không thở được nữa. Tay bám tàu, họ cố gắng níu giữ lại anh Hiệp, nhưng một cơn sóng khác lại đánh anh ra xa. Rồi liên tiếp những sóng đánh tơi tả, thân xác anh Hiệp trôi mất hút vào trong đêm tối. (Tổng hợp trên net)

Trích thuật Tin Mừng Thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến điều kiện làm môn đệ. Tiên quyết là chọn theo Người hay không. Tiếp theo là từ bỏ những quan hệ thân thuộc, đến sẵn sàng hy sinh mạng sống như gương dũng cảm nêu trên. Cuối cùng là chấp nhận những thương đau, khốn khổ để theo Người.

Chọn lựa

“Chọn lựa chính là loại trừ” (Choisir, donc exclure), triết gia Henri Bergson thừa nhận sự hiển nhiên về chọn lựa. Anh Trần Hữu Hiệp đã loại trừ sinh mạng mình, để cho chị phụ nữ mang thai được sống. Tuy nhiên chẳng hề dễ dàng khi chọn lựa, nếu không cân nhắc tầm quan trọng, ưu tiên phục vụ tha nhân hơn bản thân.

Chiến đấu hay hòa hoãn, xây dựng hay thúc thủ, sống cho mình hay chết cho người, đều là vấn đề tương phản, mâu thuẫn gay gắt, cần phải lựa chọn. Không thể bắt cá hai tay, chẳng được gì.

Dựa vào lương tâm, căn cứ vào Tin Cậy Mến, để tìm hiểu Thánh Ý, mà chọn lựa cái tốt nhất hay cái không tốt bằng, cái thiện hay cái ác, cái thánh thiện hay cái tầm thường.

Nếu băn khoăn khó phân định tốt xấu, thì nguyện xin Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, ban can đảm để chọn lựa và theo đuổi. Lửa Mến sẽ minh định sự chọn lựa chính xác, phù hợp Thánh Ý Chúa.

Nếu chưa tỏ tường thì nhờ các đấng tu trì, đạo đức. Các ngài sẵn sàng giúp chọn lựa theo sự khôn ngoan của Đức Chúa Thánh Thần.

Tuy nhiên, tiên vàn cần đến lòng khiêm nhường và phó thác, noi gương Mẹ tự hạ, sẵn sàng Xin Vâng, cảm tạ và ngợi khen hồng ân lãnh nhận, mới được Chúa đoái thương chỉ bào đàng ngay nẻo chánh. Vì “chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14, 6)

Sự lựa chọn, phân định tốt xấu còn được Đức Giêsu khẳng định thật rõ ràng:“Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ.”(Mt 6, 24)

Từ bỏ

Từ bỏ là loại trừ đi, không quan tâm hay chú trọng. Đến với Chúa luôn ưu tiên số một, vượt trên tình cảm gia đình, huyết tộc và cả sinh mệnh.“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Thời điểm này, Đức Giêsu không còn nhắc đến sự quyến luyến với vật chất của cải phù vân nữa, mà hơn nữa, còn đòi hỏi người môn đệ vượt qua tình cảm gia đình. Theo thói đời, thường những tình cảm này tuy được cho là cao quý và đáng trân trọng, nhưng không thể trở nên sức cản khi đến với Chúa.

Những người tận hiến cho Chúa, đều phải dứt áo xa lìa mái ấm, hy sinh những tình cảm huyệt tộc để có thể đến với tha nhân, đến với Chúa trong những hình hài xa lạ, khốn khổ hay tội lỗi trầm luân. Người giáo dân cũng thế, cần nhìn ra bên ngoài tổ ấm, quan tâm, săn sóc và phục vụ những người cơ nhỡ, bần hàn.

Mặt khác, từ bỏ chính mình vì ”Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, nên anh em mặc lấy Đức Kitô”(Gl 3,27). Mặc lấy Đức Kitô là bỏ đi con người cũ, vốn đầy đam mê những phù phiếm thế gian, vốn sa đọa tội lỗi, mà sống Lời Chúa thật sự, tin yêu và phục vụ.

Chấp nhận

Trong cuộc sống, chẳng một ai thoát khỏi những gánh nặng thường ngày đè nặng trên vai. Kẻ lo âu về vật chất, kẻ thì khắc khoải tinh thần. Mỗi người đều có thánh giá dài ngắn, nặng nhẹ khác nhau. Nhưng chẳng có thánh giá nào êm ái, dễ chịu. Cũng chẳng thể nào vác thay cho ai.

“Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”.

Chấp nhận hy sinh, đau khổ, khinh khi, rẻ rúng, chịu bách hại, tù đầy vì danh Chúa, vì Nước Chúa, nếu muốn làm môn đệ. Nhờ ơn Chúa, nhờ sức mạnh của Đức Chúa Thánh Thần, người môn đệ chấp nhận mọi đầy đọa, mọi thách đố, để bước theo cuộc khổ nạn, chịu hiến tế theo Đức Giêsu.

Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận đã chấp nhận toàn hiến, qua 14 bước theo Đức Giêsu:

Con theo từng bước của Chúa trên đường hy vọng:

Bước lang thang ra chuồng bò ở Bêlem,

Bước hồi hộp trên đường trốn sang Ai cập,

Bước bồn chồn trở về trú ngụ Nagiarét,

Bước phấn khởi lên Ðền thánh với Mẹ Cha,

Bước vất vả suốt 30 năm trời lao động,

Bước yêu thương ba năm rao giảng Tin mừng,

Bước thao thức kiếm tìm chiên lạc,

Bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt,

Bước cô đơn ra trước tòa không một người thân,

Bước ê chề vác thánh giá lên đồi tử nạn,

Bước thất bại chết chôn mồ kẻ khác,

Không tiền không bạc,

Không manh áo, không bạn hữu,

Chúa Cha cũng xem chừng bỏ rơi Chúa,

Nhưng Chúa phó thác tất cả vào tay Cha.

(ĐHY. Fx. Nguyễn Văn Thuận, Năm chiếc bánh và hai con cá)

Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết chúng con chưa đủ can đảm làm môn đệ của Chúa. Chúng con còn đang chần chừ, chân trong chân ngoài. Vừa muốn theo Chúa, vừa muốn hưởng thụ lạc thú thế gian. Trong khi Chúa muốn chúng con quyết định dứt khoát, theo Chúa hay không. Xin Chúa ban cho chúng con Tình Yêu nồng nàn, cùng Tin, Cậy nhiệt thành, để quyết tâm theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin cứu giúp chúng con biết từ bỏ mọi sự, kể cả bản thân, để cố gắng noi gương Mẹ, xin vâng theo Thánh Ý Chúa mãi mãi. Amen.

 

28. Chúa Nhật 23 Thường Niên

Anh chị em thân mến.

Việt Nam chúng ta có câu:

Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Thật đúng như thế, vì có lần tôi nhìn thấy: Đôi vợ chồng trẻ và đứa con nhỏ. Người vợ đang ôm đứa con, nét lo âu hiện rỏ trên khuôn mặt. Nhìn vào đôi mắt thì dường như bà đã khóc rất nhiều. Còn người chồng đứng ngồi không yên, ông chạy hết chỗ này tới chỗ kia, với thái độ dường như van xin. Thỉnh thoảng ông nhìn lại đứa con của mình cũng với nét mặt lo âu.

Còn đứa trẻ khoảng năm hay sáu tuổi, đang nằm yên trên tay người mẹ, một chân đã được băng lại với nẹp tre. Thì ra đứa nhỏ bị gẫy chân. Một đứa bé như thế mà làm cho hai người lớn phải lo âu, họ quên cả mình đang làm gì, dường như trước mắt họ giờ đây chỉ còn có đứa con, còn mọi việc khác không quan trọng đối với họ. Hai người cố gắng làm sao cho con mình được an toàn. Họ đã bỏ tất cả mọi việc để lo cho con mình. Nhìn thấy thế, tôi lại nhớ đến những đứa trẻ không người nuôi dưỡng, phải sống nhờ vào lòng hảo tâm của người khác. Khi đó những bậc sinh thành không biết vì lý do gì mà bỏ rơi chính đứa con mình đã sinh ra…

“Nếu ai đến với ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ ta”.

Mới nghe thoáng qua, mọi người ngỡ ngàng, dường như Chúa Giêsu dạy điều trái ngược với các giới răn. Hãy thảo kính cha mẹ, đó là điều Thiên Chúa dạy mọi người. Giờ đây Ngôi Hai Thiên Chúa lại bảo từ bỏ những điều Ngài đã dạy mới đi theo Ngài được.

Thật ra không trái ngược đâu. Nhưng Thiên Chúa muốn con người dùng tình yêu thương đó mà qui về Thiên Chúa. Cha mẹ là người sinh thành dưỡng nuôi. Thiên Chúa còn cao trọng hơn. Ngài sinh thành dưỡng nuôi, không phải chỉ riêng bản thân một người, nhưng cả cha mẹ ông bà tổ tiên của loài người. Ngài muốn con người biết hiếu thảo và tôn kính, đừng để những điều không xứng đáng làm cản bước đi.

Như thế, ai càng hiếu thảo cha mẹ thì càng biết hiếu thảo với Thiên Chúa hơn và không để cho những tình cảm của con người trần gian làm mai một đi, hay bị đảo lộn. Yêu thương là hy sinh, là từ bỏ, là chấp nhận. Như vậy Ngài kêu gọi những người đi theo Ngài, đi theo tiếng gọi của Tình Yêu thật sự, cũng biết hy sinh, từ bỏ và chấp nhận. Có như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Đấng là Tình Yêu.

Những người thời xa xưa đã bỡ ngỡ, không hiểu được những gì Chúa Giêsu nói với họ.

Những người công giáo ngày hôm nay. Những người ngồi trong nhà thờ này, những người đang lắng nghe Lời Chúa nói, đó là mỗi người trong chúng ta, đang có cảm nhận như thế nào? Chúng ta cũng biết yêu thương, cũng biết chấp nhận gian khổ, cũng biết từ bỏ rất nhiều để đạt được mục đích mình mong muốn. Nhưng chúng ta có là môn đệ đi theo Chúa Giêsu thật sự như Ngài đòi hỏi không?

Chúng ta chưa dám từ bỏ những cuộc vui bất ngờ để đến với Ngài trong những buổi lễ ngày Chúa nhật. Chúng ta chưa dám từ bỏ tính nóng nải của mình để chấp nhận Ngài trong những nghịch lý của cuộc sống. Chúng ta cũng không dám từ bỏ bạn bè, bàn tiệc, chai rượu, sòng bạc để đến với Ngài trong những buổi lễ, giờ cầu kinh. Chúng ta còn không dám từ bỏ một chút tình yêu thương riêng tư để đến với Ngài trong trách nhiệm của cuộc sống. Càng không dám bỏ đi chính cái tôi ích kỷ, để biết nhìn thấy và chấp nhận Ngài trong những người chung quanh.

Như vậy tình yêu thương của chúng ta đối với Ngài có bằng Tình Yêu của đôi vợ chồng trẻ với đứa con nhỏ của mình không? Hay là chúng ta không có chút tình yêu nào đối với Ngài, hoặc chỉ có ngoài môi miệng như những bậc sinh thành sinh con ra rồi đem vất bỏ không cần biết đến. Không lẽ chúng ta vô tình với Ngài như thế sao? Vậy thì chúng nói bước theo Ngài nhưng thật sự trong hành động và cuộc sống thì không như thế.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết từ bỏ thất sự, từ bỏ cả con người của mình để xứng đáng bước theo Ngài.

 

29. Mời gọi để từ bỏ – R. Veritas

Trên đời chẳng ai có thể đi một lúc hai con đường. Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn, mà chọn lựa nào lại không phải từ bỏ! Sống là chấp nhận từ bỏ. Có những điều xấu phải từ bỏ như việc nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc… Cũng có điều tốt cần phải bỏ để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường học, chọn chỗ làm, chọn bậc sống…

Từ bỏ vì yêu thương sẽ không bao giờ cảm thấy thiệt thòi, mất mát. Từ bỏ vì yêu thương sẽ làm ta cảm thấy nhẹ nhàng hơn, dễ chịu hơn, hạnh phúc hơn: Người mẹ hy sinh giấc ngủ, thức suốt đêm để lo lắng săn sóc cho con khi con yếu bệnh. Người cha hy sinh thức khuya dậy sớm để làm thêm giờ, kiếm thêm tiền lo cho gia đình con cái…

Từ bỏ đã trở thành quy luật để sống và lớn lên. Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm. Đứa bé chẳng thể nào trưởng thành, nếu nó cứ sống mãi bằng sửa mẹ.

Từ bỏ thường là những cắt đứt đau đớn, như mổ một khối u. Có nhiều người không có can đảm từ bỏ, nên suốt đời bị giằng co, ray rứt.

Bạn thân mến! Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu cũng nhắc đến hai chữ TỪ BỎ: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,26). Và Ngài nói thêm trong đoạn cuối bài Tin Mừng: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,33).

Điều kiện để làm môn đệ Đức Kitô là phải biết từ bỏ, từ bỏ không ngừng, từ bỏ mỗi ngày cho đến khi ta nhắm mắt xuôi tay.

Điều kiện để làm môn đệ Đức Kitô là phải biết đặt Ngài lên trên mọi giá trị khác. Ngài đòi buộc ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên hết mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại và tương lai của mình nữa.

Người Kitô là người sống từ bỏ như Đức Giêsu, là đi vào con đường hẹp như Đức Giêsu: Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người, và tự nguyện chết thay cho con người. Cao trọng nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Thiên Chúa Cha.

Trung tâm điểm của đời sống người Kitô là Chúa Giêsu. Mọi giá trị trở nên tương đối trước Đấng Tuyệt Đối là Chúa Giêsu. Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là những giá trị khác. Mạng sống là một giá trị trổi vượt hơn cả. Nhưng tất cả những giá trị đó phải được hy sinh khi cần, để ta chọn Chúa Giêsu là “Giá Trị Tuyệt Đối” của mọi giá trị. Các thánh tử đạo đã chọn lựa như thế.

Dĩ nhiên ta luôn yêu gia đình, yêu bạn bè, yêu trái đất nâng đỡ ta, yêu bầu trời che chở ta, yêu cuộc sống làm người với bao niềm vui và hạnh phúc. Nhưng ta phải yêu tất cả những điều đó trong Chúa và dưới Chúa, để khi phải chọn lựa một trong hai, ta luôn luôn chọn Chúa.

Ước gì ta biết vui mừng và hạnh phúc khi chọn “viên ngọc quý” là Đức Giêsu, dám bán tất cả, từ bỏ tất cả để thấy mình giàu có. Và ước gì ta tự cởi trói mình mỗi ngày, và nhờ ơn Chúa, ta được tự do và bình an thanh thản trong suốt cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu! Sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa cũng thật là một thách đố. Chúa đòi buộc con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa muốn lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa mà thôi. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cuộc đời con sinh thêm nhiều hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con trọn vẹn thuộc về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan của cuộc đời, để sống theo những đòi buộc của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt ở đời này.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng: “trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa, thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu lắm rồi”. Amen.

 

30. Từ bỏ

(Trích dẫn từ ‘Chương Trình Tìm Về Chân Thiện Mỹ’)

KHÔNG TỪ BỎ MỌI SỰ

THÌ KHÔNG THỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA

** Đọc đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy đòi hỏi của Chúa Giêsu thật quyết liệt, để có thể trở thành môn đệ đích thực của Ngài, để được tiến vào vinh quang với Ngài!

Trước hết, chúng ta thấy: Mọi thành quả ở trần thế này, đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì cố gắng mới có thể đạt thành mỹ mãn:

– Chẳng hạn, một lực sĩ muốn chiếm huy chương vàng thế vận hội, họ phải tập luyện ngày đêm, tập luyện bao nhiêu năm tháng mới chiếm được danh dự đó?

– Một người mẫu muốn có thân hình thon gọn, mỹ miều, cô phải ăn uống kiêng khem và tập thể dục, không hề ngơi nghỉ… hơi lơ là một chút thì thân hình sẽ mất hấp dẫn ngay!

– Cũng thế, một sinh viên muốn chiếm thủ khoa trong trường Đại học, hay muốn thi đậu để trở thành bác sĩ, luật sư… cũng phải bao nhiêu năm dùi mài kinh sử?

– Những người cao Cholesterol hay bị phì mập cũng phải ăn kiêng biết bao ngày tháng mới có thể giảm bớt, để có một thân hình cân đối???

Tóm lại, tất cả những ai muốn đạt thành những mục đích tạm bợ trần thế đều phải nỗ lực, kiên trì cố gắng ngày đêm như thế, còn Nếu muốn hạnh phúc đời đời, muốn được vinh quang miên viễn, muốn trở thành những người bạn tri âm, tri kỷ với Chúa Giêsu…chúng ta phải làm gì???

** Để xứng đáng với Ân Lộc vô cùng cao trọng đó, Chúa Giêsu- Vị Thầy của Các Thầy, Thầy dạy Chân Lý đã đòi hỏi tất cả chúng ta một điều, mới nghe, thật vô lý và khó thực thi, đó là: phải “Ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình” ( Lc 14, 26), nếu không, thì sẽ không được vinh dự ấy!… Điều hiển nhiên là trong toàn bộ Kinh Thánh, Chúa đã dạy chúng ta phải hết lòng yêu mến, hiếu thảo với cha mẹ, và trong Điều Răn IV, THẢO KÍNH CHA MẸ, Chúa đã truyền thành luật, mà nếu ai không tuân giữ, sẽ không vào được Nước Trời! Vậy Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng này có ý nghĩa gì???

Kính thưa quý vị và các bạn, Chúa nói mạnh như thế, để chúng ta hiểu rằng: Chúng ta phải đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự: Trên cha mẹ, vợ con, anh chị em và hơn cả chính mạng sống của chúng ta! Do đó, nếu ai yêu cha mẹ, vợ con và chính bản thân hơn Chúa, thì không xứng đáng làm môn đệ Chúa! Chính với ý đó mà Chúa đã truyền cho chúng ta phải “Yêu Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn”, và bất cứ khi nào, vì yêu bản thân hay cha mẹ, vợ con… mà lỗi luật Chúa, thì không xứng với tình yêu và Phước Lộc của Chúa! Bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng cho mọi tâm hồn tôn thờ và yêu mến trên hết mọi sự mà thôi!

Hằng trăm ngàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cha ông, tổ tiên của chúng ta đã chứng tỏ tình yêu Chúa hơn mạng sống mình: Các Ngài vui lòng chịu muôn nhục hình, chịu tra tấn, gông cùm, chịu phanh thây, chịu voi giầy,chịu đóng đinh đến chết chứ không chối bỏ Chúa! Đó là gương Yêu Mến Chúa cho tất cả chúng ta noi theo!

Ngày nay, bao nhiêu tâm hồn trên khắp thế giới luôn vui tươi Vác Thập Gía đời mình, thà chết không thà phạm tội mất lòng Chúa, họ ra đi gieo rắc Tin Mừng, đem Tình Thương đến cho những người tàn tật, phong cùi, câm điếc… Họ cũng đang chứng tỏ tình yêu mến Chúa khi hết lòng phục vụ những người xấu số, bệnh hoạn nhất, nghèo khổ nhất với tình yêu cảm thông sâu xa như họ đang yêu mến và phục vụ chính Chúa!

Có nhiều người vừa muốn làm môn đệ Chúa vừa yêu chuộng những thứ ngược lại với Chúa, như đam mê, tội lỗi, hoặc không muốn xa lìa dịp tội… Đó là những người vừa muốn vinh quang Nước Trời lại vừa không muốn từ bỏ lối sống đam mê của thân xác! Đó là người LÀM TÔI HAI CHỦ! Nửa nạc nửa mỡ sẽ không trở thành môn đệ của Chúa được! Đó cũng là người “xây tháp nhưng bỏ nửa chừng” (Lc 14, 28), thật đáng tiếc lắm thay!

** Để trở thành môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, chúng ta cần thi hành triệt để những lệnh truyền của Chúa. Đó là đường dẫn tới Sự Sống và Hạnh Phúc Viên Mãn. Con đường đó cũng đòi hỏi chúng ta TỪ BỎ chính bản thân, từ bỏ đam mê bất chính và những quyến luyến trần thế, hay nói cách khác: Chúng ta cứ việc yêu mến cha mẹ vợ con và mọi người, cứ việc có của cải, nhưng ĐỪNG DÍNH BÉN, đừng đặt bất cứ tình yêu nào, hoặc của cải hơn Thiên Chúa! Thiên Chúa phải chiếm địa vị quan trọng nhất, danh dự nhất trong linh hồn chúng ta. Chúa luôn là LẼ SỐNG là CÙNG ĐÍCH mà chúng ta hướng tới.

Còn, nếu khi nào chúng ta phải lựa chọn: Chọn Thiên Chúa hay tạo vật, thì các môn đệ đích thực của Chúa luôn chọn Thiên Chúa trước hết, còn mọi cái khác đều là thứ yếu! … Có sống như thế, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Chúa!

 

31. Một đòi hỏi nhân bản sâu đậm nhất

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Trước hết chúng ta minh định danh từ để tránh hiểu lầm. Đức Kitô không bao giờ phán rằng muốn theo Chúa phải ghét cha ghét mẹ …… Ở đây là một sự sắp hạng, quan hệ tình cảm thông thường phải đặt sau quan hệ tình cảm siêu nhiên. Tình nghĩa gia đình phải đứng sau tình yêu mến Thiên Chúa. ‘Ghét’ ở đây phải hiểu theo nghĩa ‘giảm bớt tình quyến luyến’. Chúng ta ngạc nhiên thấy những đám rất đông đi theo Đức Giêsu trên đường hành đạo của Người, mà con số những kẻ rời bỏ gia đình trở nên môn đệ Chúa chẳng được là bao. Nhưng chúng ta hiểu ra khi thấy Chúa nói lên những điều Chúa đòi hỏi. Không bao giờ chỉ vì muốn lấy lòng dân chúng mà Chúa che giấu những đòi hỏi của Người. Với bất cứ ai, Chúa có một cung cách quý mến là không đề nghị một thái độ đồng lõa với yếu hèn, trái lại Người kêu gọi lòng hào hiệp của người ta. Tới ngày đông đảo dân chúng bỏ Chúa, nộp Chúa cho quân dữ giết, Người không kết án dân chúng vì Người muốn hy sinh mạng sống cho họ. Tới lúc đó, Chúa sẽ có những môn đệ xứng đáng với sự đòi hỏi của Người, họ sẽ trở lại trong dân chúng làm chất men trong bột. Bài đọc hôm nay của thánh Luca cho thấy Phúc Âm gần gũi đời sống tới mức nào.

1) Bất chợt Đức Giêsu đến với con người trong đời sống cụ thể, trong khung cảnh sinh hoạt gia đình. Chúa đem đến một sự việc cực kỳ mới lạ. Những tình cảm gia đình sâu đậm là thế, chính đáng là thế, nay con người thấy còn có một điều quá lớn vượt lên trên tình nghĩa gia đình. Do đó, hễ quyết tâm theo Đức Giêsu thì cũng quyết tâm mở rộng đời sống cụ thể đón lấy một thực tại sâu rộng hơn, hiện thân hơn những liên hệ gia đình cố hữu. Thánh Phanxicô, đấng thánh tôn trọng Phúc Âm rất nghiêm chỉnh, nhờ kinh nghiệm sống theo Phúc Âm của ngài mà thốt ra hai tiếng ‘cha’ và ‘mẹ’ khi ngài nói về Đức Kitô, trong miệng ngài từ ngữ ‘anh em’ mang nặng tình nghĩa đậm đà vượt xa tình huynh đệ thế gian. Tuy không ý thức rõ rệt, ngài vẫn diễn tả được cao độ phẩm chất nhân bản trong đời sống theo khuôn mẫu Phúc Âm. Phúc Âm vượt lên trên những tình cảm gia đình thông thường nhưng không hủy bỏ chúng. Có thể nói rằng, mặc dầu cái khuôn mẫu tình cảm thế gian vẫn được tôn trọng, có những liên hệ gia đình mới lạ được thiết lập qua một sự thăng hoa, ở một chiều cao hơn. Chúng ta có thể thực tình nói đến ‘gia đình trong Đức Kitô’.

2) Đòi hỏi của Đức Kitô không có gì là phi nhân. Nghe nói đến ‘thập giá’ phải mang vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Muốn có một sự hiểu biết đúng đắn, thì trong đầu chúng ta thập giá phải đi liền với một tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Tôi chọn lấy thập giá của Chúa thay vì tình yêu theo nhân tính tự nhiên nhất, chính đáng nhất, là bởi vì thập giá phát xuất từ một tình yêu thượng đẳng, nó thấm đượm sâu đậm cái điểm nhân tính nhất trong tôi, đó là sự tự do lựa chọn, là tâm hồn dâng hiến. Thập giá Đức Kitô là bằng chứng và cũng là bề nổi tình yêu của Chúa. Thập giá Chúa, tức là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh? Ở đây, chúng ta chẳng đang đứng trước một đòi hỏi nhân bản sâu đậm nhất ư?

 

32. Sẵn sàng làm môn đệ trung thành của Chúa.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Đằng sau bài đọc thứ hai ngày hôm nay là một khoảng thời gian thích thú. Một người nô lệ có cái tên là Onesimus đã trốn thoát khỏi chủ của mình là Philêmôn, và anh chạy tới chỗ Thánh Phaolô để được an toàn. Thánh Phaolô đã nồng nhiệt bảo vệ cho người nô lệ bỏ trốn này, nhưng thánh nhân nhận biết một điều gì đó có giá trị cao hơn là sự tự do của Onesimus đã được hoàn thành. Thánh nhân đã kêu gọi Philêmôn, chủ của người nô lệ, hãy hành động như một môn đệ thật của Chúa Giêsu Kitô.

Thánh Phaolô dễ dàng che giấu Onesimus hoặc nhân danh Đức Kitô đòi Philêmôn trả lại sự tự do cho người nô lệ. Thay vào đó Thánh Phaolô đã gởi Onesimus về với Philêmôn và những gì tôi tưởng tượng ra là sự tủi nhục của người nô lệ và sự ngạc nhiên của người chủ. Qua người nô lệ, Thánh Phaolô đã gởi cho Philêmôn một bức thư mà chúng ta đã nghe một phần trong bài đọc ngày hôm nay. Điểm chính của bức thư là Phaolô đã không muốn cưỡng bách Philêmôn thực hành nhân đức, thay vào đó thánh nhân chỉ muốn mời gọi ông hãy quảng đại. Tha thứ cho người nô lệ có nghĩa là phó mặc cho quyền sở hữu rất giá trị thời đó. Đó là một thách đố cho Philêmôn. Thánh Phaolô đã kết luận bức thư bằng cách nói rằng; “Tôi viết thư này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ nghe theo vì tôi biết rằng việc anh sẽ làm còn làm hơn những gì mà tôi xin nữa”.

Thật sự chúng ta không biết chắc Philêmôn đáp trả như thế nào, ông có giải phóng người nô lệ hay không? Philêmôn có lẽ đã nhắc nhở Thánh Phaolô rằng việc nô lệ là hợp pháp và ông ta có quyền để giữ người nô lệ của mình? Có phải ông đã phàn nàn rằng Thánh Phaolô đã thật sự không hiểu về hoàn cảnh kinh tế của ông và người nô lệ thì cần thiết cho sự thành công tài chính của ông không? Chúng ta không biết Philêmôn có đáp trả như Thánh Phaolô mong đợi nơi ông như là người môn đệ của Chúa Giêsu hay không?

Chúng ta biết thế nào là môn đệ Chúa Giêsu và chúng ta được kêu gọi hãy trở nên quảng đại trong việc đáp trả của chúng ta, không phải là sống nhỏ giọt hoặc tìm kiếm những miễn trừ mà những người Công Giáo phải làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cảnh cáo chúng ta qua ví dụ xây tháp và đi đánh nhau, chúng ta phải được sửa soạn cho kinh nghiệm Kitô giáo của chúng ta. Nước Trời đã là một tài sản được hứa ban trong tương lai. Trong lúc còn trên mặt đất này, chúng ta được mong đợi trở thành những môn đệ trung thành, những người lắng nghe và chăm chú vào những lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không đáng làm môn đệ của Ta”.

Có lẽ thánh giá của chúng ta là những đau khổ có liên quan đến việc phải từ bỏ những nô lệ của chúng ta như là thói nghiện rượu, nghiện thuốc, hoặc là say xỉn, thánh giá của chúng ta có thể giữ chăm chú kỷ luật mà chúng ta cần để lướt thắng những chuyện đồn nhảm, để tha thứ những người nào đã đối xử bất công, hoặc là tử tế hay là nghĩ tốt cho những người luôn luôn cho chúng ta là điên rồ.

Thiên Chúa không cưỡng bách chúng ta trở nên đạo đức như Thánh Phaolô đã không cưỡng bách Philêmôn phải tha thứ cho nô lệ của ông. Ngay khi điều xấu xảy ra với chúng ta, Thiên Chúa cũng không cưỡng bách chúng ta phải chấp nhận nó như một thánh giá. Chúng ta phải nỗ lực làm việc để thấy được chúng ta có thể quay trở một điều đáng sợ trở thành một điều có giá trị, bằng việc kết hợp những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Đức Kitô.

Trong mọi Thánh Lễ chúng ta tưởng nhớ sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, như vậy qua bí tích Thánh Thể, sự hy tế của Ngài là một thực tại trước chúng ta trên bàn thờ. Khi chúng ta nghe những lòi: “Đây cũng là mình con nữa, cùng với Con Cha, con xin dâng chính mình con cho Cha”. Khi đó chúng ta sẽ nghe những lời: “Đây là chén Máu Ta”, chúng ta sẽ nói: “Đây là máu của con, con ước mong nó được đổ ra vì yêu Cha, nếu Cha muốn như vậy”. Chúng ta phải được chuẩn bị để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu Kitô.

 

33. Từ bỏ để theo Chúa – Lm. Minh Vận, CRM

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe khơi dậy nơi chúng ta nhiều thắc mắc: Tại sao người Do Thái đương thời cứ lũ lượt say mê theo Chúa hết ngày này sang ngày khác, đến hết cả lương thực để nuôi thân, đến nỗi Chúa phải làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi sống họ? Phải chăng nơi Chúa có một hấp lực thần linh lôi cuốn quyến rũ họ? Phải chăng lời Chúa rao giảng là một giáo lý cao siêu và đầy khôn ngoan khiến họ phải cảm phục đến sùng mộ? Phải chăng họ đã nhận ra Ngài là Đức Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến trần gian, vì họ đã từng được mục kích các phép lạ Ngài làm, để thi ân giáng phúc cho họ: Nào người câm nói được, kẻ mù được thấy, người điếc nghe được, kẻ phong cùi được lành sạch, người đã chết được sống lại và biết bao bệnh nhân với đủ mọi chứng bệnh tật đều được chữa khỏi? Thế nhưng, một thắc mắc rất quan trọng khác nữa, khiến chúng ta không thể hiểu nổi là, tại sao người ta cảm phục Chúa, được chứng kiến biết bao phép lạ, được nghe lời giảng dạy khôn ngoan, được lãnh nhận bao nhiêu ơn lành Chúa ban, thế mà chỉ sau đó vài ba hôm họ lại hô hoán đòi Chính Quyền kết án tử hình Ngài?

  1. ĐIỀU KIỆN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ

Theo các nhà chú giải Thánh Kinh, thì dân chúng lũ lượt theo Chúa, ngoài các lý do trên, còn một lý do khác hằng được họ ấp ủ trong lòng, cha truyền con nối, từ đời nọ qua đời kia, là việc hôm nay Chúa Kitô tiến lên thành thánh Jerusalem, như một cuộc khải hoàn và sau đó, Ngài sẽ thiết lập một Vương Quốc Vinh Quang trần thế, khiến Israel thành một Vương Quốc vĩ đại hùng mạnh của Đấng Thiên Sai, đáng muôn dân muôn nước phải tôn trọng nể vì. Họ tự hào mình là môn đệ của Chúa Kitô và đáng được Ngài cho hưởng vinh quang với Ngài. Chúa đã thấu tỏ tâm tư thầm kín trong lòng họ, Ngài muốn đánh tan cái ảo mộng hão huyền đó, nên Ngài quay lại phán với họ: “Nếu ai muốn theo Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta được. Còn ai không vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta, cũng không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14:25).

Theo quan niệm lương dân và nhãn quan phàm tục, thì những điều kiện Chúa đòi phải có trên đây, để trở nên môn đệ Chúa, là những đòi hỏi quá khắt khe, khiến người muốn theo Chúa phải chán nản, thất vọng bỏ cuộc. Nhưng theo khách quan, những yêu sách Chúa đòi những người muốn làm môn đệ Chúa trên đây, không có gì là quá khắt khe; vì cũng theo các nhà chú giải Thánh Kinh, thì Chúa Kitô đến trần gian là để rao giảng tình yêu thương, chứ không phải hận thù, Chúa không bao giờ phế bỏ giới luật thứ bốn trong 10 Điều Răn Chúa về tình yêu thương và lòng tôn kính hiếu thảo phải có đối với cha mẹ. Cho nên chữ “bỏ” trong bản dịch của chúng ta không có nghĩa là Chúa truyền chúng ta phải “từ” cha mẹ; nhưng là phải chọn Chúa trước cha mẹ. Còn theo các bản dịch khác đúng hơn phải dịch là “ghét”. Chữ “ghét”, ghét cha mẹ, ghét bản thân, ngôn ngữ Hy Lạp diễn tả ý niệm “thích hơn” bằng lối văn đối ngẫu: Yêu và ghét. Thay vì nói Thiên Chúa thích Giacóp hơn Esau (Mal 1:2-3) tiếng Hy Lạp nói: “Ta thương Giacóp và ghét Esau”. Cũng như trong Tin Mừng theo Thánh Mathêu, Chúa phán: “Ai yêu cha mến mẹ hơn Ta, không đáng làm môn đệ Ta” (Mt 10:37).

  1. THÁI ĐỘ CÁC THÁNH TRƯỚC LỜI CHÚA GỌI

Trước lời Chúa kêu gọi, các Thánh đã ý thức và thấu hiểu được cái giá trị đích thực và cao quí của ơn gọi làm môn đệ Chúa, các ngài đã can đảm, mau mắn, dấn thân, dứt khoát khước từ tất cả mọi sự, dù cả cha mẹ, họ hàng thân quyến, dù chính cả mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa.

Khi đã quyết định theo Chúa, các Thánh chấp nhận mọi hậu quả, sẵn sàng vui tươi lãnh nhận vác lấy mọi thập giá đau khổ Chúa gởi đến, tất cả mọi cái ngược lại với bản tính tự nhiên của con người, các ngài không phàn nàn kêu trách; trái lại, còn lấy làm vinh dự vì được diễm phúc chịu mọi thống khổ và chịu chết vì lòng yêu mến Chúa.

Thánh Phêrô, Andrê, Giacobê đã mau mắn giã biệt cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, nghề nghiệp chài lưới, để đi theo Chúa làm kẻ chinh phục các linh hồn.

Thánh Mathêu đã dứt khoát bỏ sở thuế vụ phục vụ Chính Quyền Roma, một nghề nghiệp khá có bảo đảm cho cuộc sống, để đi theo Chúa, truyền bá Tin Mừng Cứu Độ cho các linh hồn.

Thánh Alphongsô đã bỏ văn bằng tiến sĩ luật và ghế luật sư danh tiếng thành Napoli, để đi theo Chúa, phục vụ Chúa nơi các người nghèo nàn, những người xấu số bị xã hội loại bỏ; ngài còn lập một Hội Dòng để chiêu tập nhiều anh em cùng chí hướng thực hiện lý tưởng cao cả đó, hầu Chúa được tôn vinh và yêu mến, các linh hồn được cứu độ.

Tất cả các Thánh, mỗi vị một hoàn cảnh, một môi trường, một chức vụ khác nhau, nhưng các ngài đều đã hy hiến trót bản thân và cả cuộc sống, khước từ tất cả những gì trái nghịch tính tự nhiên, hoặc có thể làm cản trở sứ mạng Chúa trao phó; dù phải đoạn tuyệt cả những tình yêu chính đáng, những sở thích và xu hướng ngay lành riêng tư, ngay cả mạng sống mình vì lòng yêu mến Thiên Chúa, miễn là Chúa được tôn vinh sùng bái.

III. THÁI ĐỘ CHÚNG TA TRƯỚC LỜI CHÚA

Thái độ của chúng ta thế nào trước lời Chúa kêu gọi từ bỏ và vác thập giá mình hằng ngày theo Chúa, để trở nên môn đệ của Người? Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì làm cản trở chúng ta trên đường theo Chúa, những gì trái nghịch với giáo huấn và lề luật của Chúa và Giáo Hội không? Chúng ta có sẵn sàng lãnh nhận mọi đau khổ, ghé vai vác mọi thập giá Chúa gởi để đền tội, để lập công, để nên Thánh, để cứu độ tha nhân và để Chúa được vinh danh không?

Tại một xưởng thợ, trong giờ nghỉ, một nhóm công nhân đang ngồi bàn tán chê bai Đạo Công Giáo, cho Công Giáo là mê tín dị đoan, làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán và bản năng tự nhiên của con người. Khi họ vừa dứt lời, một chàng thanh niên đã can đảm lên tiếng: “Phải, vì Đạo Chúa, tôi đã phải từ bỏ tất cả”. Mọi người đều bỡ ngỡ trố mắt nhìn, anh thanh niên nói tiếp: “Trước kia tôi là kẻ bợm rượu, mê cờ bạc, ưa dối trá lừa đảo, thích ngao du chơi bời dâm đãng; nhưng vì Đạo Chúa tôi đã từ khước tất cả. Vì Đạo Chúa, đã làm cho tôi mất tất cả những tâm địa xấu xa. Xưa kia Satan thống trị gia đình tôi, biến gia đình tôi thành hỏa ngục nơi trần gian; nhưng nay Chúa ban cho gia đình tôi rất được hạnh phúc, vợ chồng thuận hòa, con cái ngoan ngoãn, thực sự đã làm cho chúng tôi cảm thấy được nếm hưởng hạnh phúc Thiên Đàng ngay trên trần gian này”.

Sau cùng, người thanh niên thành thực kêu gọi: “Hỡi các bạn, bây giờ các bạn đã biết, Đạo Chúa đã làm cho tôi mất tất cả những gì chưa? Hãy làm như tôi, tôi xin cam đoan chắc chắn với các bạn, các bạn sẽ không phải hối hận đâu”.

Kết Luận

Là con cái Chúa, chúng ta có can đảm từ bỏ tất cả những gì nghịch với lương tâm, trái với luật Chúa và Giáo Hội; quyết tâm sống đúng với giáo huấn của Chúa và Giáo Hội dạy, để tỏ lòng chúng ta yêu mến Chúa và nên môn đệ của Người không?

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con biết lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng thưa lời “Xin Vâng” như Mẹ, để chúng con được can đảm từ khước tất cả những gì làm cản trở chúng con trên đường theo Chúa và được trở nên môn đệ của Người.

 

34. Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.

(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)

Tin mừng hôm nay diễn tiến trong bối cảnh Chúa Giêsu đang trên hành trình lên Giêru salem. Hành trình đó là điểm đến cuối cùng của Người để hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại. Tại đó, Người sẽ phải trải qua cái chết khổ nhục trên Thập giá. Trên hành trình ấy, có rất nhiều người cũng muốn đi với Người. Họ muốn được gắn bó với Người. Tuy nhiên họ vẫn chưa hiểu hết con đường phía trước đang chờ đợi họ. Họ vẫn đang tin Người là vị vua theo nghĩa trần thế, có quyền năng thay đổi vận mệnh dân tộc và ban cho họ phú quý vinh hoa khi Người hoàn thành sứ mạng. Họ muốn Người làm Vua để đánh đuổi quân ngoại xâm và tái lập vương quốc Ítraen.

Chúa Giêsu biết những khát vọng trần thế ấy nơi họ nhưng không vì thế mà Người xua đuổi họ. Họ cần phải biết rõ hơn những yêu sách của việc đi theo Người, và họ cần phải ý thức về những khó khăn đang chờ đợi họ ở phía trước. Vì thế, Người đưa ra cho họ một lời đề nghị dành cho những ai muốn bước theo người. Người muốn họ phải vượt qua não trạng thông thường ưa tìm hư danh để bước xuống con đường tự hủy.

Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi vừa khẩn thiết vừa đầy thách đố cho những ai còn muốn đi theo Người: “Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, an hem, chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi được.” Thoạt nghe, người ta có thể hiểu sai khi cho rằng lời mời gọi như thế đi ngược lệnh truyền yêu mến người thân cận, cũng như đi ngược điều răn thứ IV là thảo kính cha mẹ. Nhưng đây là một đòi hỏi buộc người ta phải chọn Chúa vượt lên trên tất cả những tương quan khác, một chọn lựa có tính tuyệt đối.

Chắc chắn Chúa không dạy người ta phải khinh ghét cha mẹ và gia đình mình, nhưng người môn đệ phải dứt bỏ những tình cảm riêng tư, những gắn bó làm cản trở trong việc thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nói cách khác, người đồ đệ không để cho bất cứ điều gì cản trở mình chọn Chúa làm lẽ sống, cho dù đó là những giá trị linh thiêng cao quý như tình cảm đối với gia đình. Điều đó có nghĩa là người đồ đệ phải yêu mến Chúa hơn tất cả những người khác, kể cả những người thiết thân nhất với mình, và thậm chí là chính bản thân mình. Chúa Giêsu phải được đặt ở vị trí đặc biệt và độc nhất trong cuộc đời sống của người đồ đệ. Tình yêu dành cho Người phải vượt lên trên tất cả những tương qua ràng buộc khác. Tuy nhiên điều ấy không có nghĩa là loại trừ tình yêu mến đối với tha nhân, nhưng trái lại phải được tăng triển hơn. Bởi vì một khi tình yêu mến đối với Chúa gia tăng thì cũng đòi hỏi tình yêu thương đồng loại cũng phải triển nở. Vấn đề là tình yêu mến dành cho tha nhân không nằm ngoài mối tương quan của chúng ta có với Chúa Giêsu và phải được hội nhập vào mối tương quan đó.

Để củng cố sức mạnh cho các môn đệ trên hành trình theo Người, Chúa Giêsu đưa ra hai minh họa về người xây tháp và vị vua đi đánh trận. Cả hai đều phải tính toàn chi ly, lượng sức mình có đủ khả năng để đối đầu với công việc vốn gian nan này không. Việc theo Chúa cũng gian nan không kém việc xây tháp và đánh giặc. Từng chặng một đều đòi hỏi phải hao tốn sức lực. việc theo Chúa cũng không thể tính toán bao lâu, bao nhiêu, hay bằng những việc gì nhưng là thái độ quyết liệt, gạt ra một bên tất cả để bước theo Chúa, xây dựng nước Trời, chiến đấu với sự dữ và chấp nhận chết đi mỗi ngày để được chiến thắng hiển vinh.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được mạnh mẽ dứt khoát với tất cả những gì làm cản trở bước đường theo Chúa.

Xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lẽ sống duy nhất vượt lên trên tất cả những tình cảm dù thiêng liêng nhất là gia đình và ngay cả chính bản thân con.

Xin cho con vui lòng vác lấy thập giá Chúa mỗi ngày và hăng hái bước theo Người. Sau cùng, xin cho con lòng can đảm để biết từ bỏ hết những gì mình có để được làm môn đệ người và ra đi xây dựng Nước Trời, làm chứng tá tình yêu Chúa trước mặt mọi người.

 

35. Chọn Chúa Kitô.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Odette, một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc ở nước Bỉ. Năm 17 tuổi, cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ cô đến bắt trở về. Từ lâu, cha mẹ đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon ở một lâu đài gần đó.

Vốn biết cô con cái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã chuẩn bị hôn lễ một cách kín đáo. Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vèn màn nhìn qua cửa sồ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đàu. Hỏi đầy tớ, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Họ đưa cô xuống nhà nguyện của lâu đài. Nơi đây, có đông đủ quý khách, và linh mục tuyên úy của lâu đài cũng đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.

Nghi lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Odette có muốn nhận Simon là chồng theo luật Giáo Hội không? Cô đã dõng dạc tuyên bố “Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng hco Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào, cho dù sự hăm dọa có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con”.

Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng cô. Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đáu đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của cô. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không ai cấm cản con đi theo Chúa Kitô nữa”.

Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó, nữ tu Odette được chị em chọn làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.

Thưa anh chị em,

Cử chỉ táo bạo và xem ra như điên rồ của Odette là bằng chứng hùng hồn nhất về lòng tin và tình yêu của cô đối với Chúa Kitô. Và để trung thành tuyệt đối với tình yêu ca cả đó, cô đã sẵn sàng hy sinh tất cả: cha mẹ, tiền tài, danh vọng, chức quyền, sắc đẹp và chính đời sống của cô nữa.

“Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được”.

Cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa. Những chọn lựa đan thành đời riêng của mỗi người. Đối với người Kitô, chọn lựa là đáp lại tiếng Chúa đang vang lên trong lòng mình từng giây phút trong cuộc sống. Đôi khi nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường chọn mình: sở thích của mình, hạnh phúc của mình, tự do của mình. Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Trong khi Kolbe chọn chết thay cho bạn tù torng trại tập trung Đức Quốc Xã, Cha Đamien chọn hiến thân cho người phong cùi ở đảo Molokai, Mẹ Têrêsa chọn săn sóc cho những người hấp hối ở Calcutta. Và chúng ta hãy chọn cho mình một cách sống để diễn tả niềm tin và tình yêu vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.

Chọn lựa là phải từ bỏ. Người ta không thể bắt cá hai tay. Người ta không thể phục vụ hai chủ. Cũng không được đặt Chúa ngang hàng “cá mè một lứa” với tất cả những cái khác để chọn lựa. Chúa phải được đặt trên tất cả. Chọn Chúa la phải từ bỏ tất cả những cái khác. Không được coi những liên hệ tình cảm gia đình hơn Chúa. Không được coi tiền của vật chất hơn c. không được coi mạng sống mình hơn Chúa. Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải dành cho Ngài quyền ưu tiên trên tất cả mọi cái khác. Bất cứ điều gì đi ngược lại hoặc ngăn cản quyền chọn lựa ưu tiên đó đều phải bị loại trừ. Không thể đi theo Chúa, nếu chúng ta không yêu Chúa hơn tất cả những người thân yêu của chúng ta, dù là cha mẹ, anh chị em, và yêu Chúa hơn cả chính bản thân mình, hơn cả mạng sống mình nữa: “Ai muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được sự sống” (Lc 9,24).

Một người con tốt nghiệp Đại học Sư phạm muốn đi phục vụ những con người như bị bỏ rơi ở một nơi xa thành thị, đường đi khó khăn, trắc trở, thiếu thốn đủ thứ, từ cái ăn đến nước uống… Người mẹ khóc lóc cản ngăn, sợ con cực, con khổ…

Một công nhân làm trong một xí nghiệp. Người công nhân biết rất rõ nội vụ tiêu cực làm thiệt hại nặng nề tài sản của nhân dân. Im lặng để được yênt hân hay tố giác theo tiếng nói của lương tâm, của lẽ phải, nhưng lại liều mình chuốc họa vào thân…

Theo Chúa trong những trường hợp nầy là một thử thách, là thập giá. Nhưng đằng sau thử thách, đằng sau thập giá là cuộc sống mới trong vinh quang.

Anh chị em thân mến,

Khách quan mà nói, lời mời gọi của Chúa Giêsu thật là ngược đời và khó chấp nhận. Những lời đó vẫn làm khó chịu không ít người. Nhưng cũng những lời tuyên bố ngược đời đó vẫn không ngừng lôi cuốn bao người khác dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không biết đâu là giới hạn.

Chúng ta có thể hiểu và sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, khi chúng ta khám phá ra được tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu đó bao la, vô điều kiện, vô vụ lợi. Khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu đó bằng chính cuộc sống đời thường của một con người, thì lúc đó chúng ta mới thấy Chúa Giêsu có lý. Và chúng ta cũng có lý khi dấn thân vào việc thực hiện những hy sinh, từ bỏ. Vì tình yêu và chỉ vì tình yêu mà thôi, những từ bỏ, hy sinh tự nguyện của chúng ta mới có giá trị vĩnh cửu. Nói cách khác, nếu chúng ta yêu Chúa thật sự thì chẳng những chúng ta không ngần ngại mà còn sung sướng được chia sẻ thập gái với Chúa Giêsu. Vui sướng chấp nhận từ bỏ, hy sinh, khước từ của cải, danh vọng, quyền lực, để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa thật sự, không giả dối “tình yêu không có hy sinh, chưa phải là tình yêu thứ thiệt”.

Tuy nhiên, thưa anh chị em,

Cần phải suy nghĩ, đắn đo cẩn thận trước khi quyết định theo con đường Chúa Giêsu mời gọi. Vì đây là một chọn lựa hết sức quan trọng. Nó liên hệ đến cả cuộc đời chúng ta. Đã bước chân theo Chúa thì phải theo đến kỳ cùng. Không chấp nhận bỏ cuộc, dừng lại hay thối lui. Theo Chúa cần phải bền gan vững chí đến cùng mới được, như Chúa đã nói: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”.

Theo Chúa không phải là vấn đề của lợi lộc trước mắt mà là vấn đề của tình yêu. Yêu là trung thành. Yêu là cho đi, cho đi từ từ, cho đi mại, cho đi cả mạng sống. Đó mời là tình yêu lớn nhất, xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là biện chứng của Tin Mừng: cho đi là nhận lãnh, quên mình là tìm lại mình, chết là sống, tử nạn là phục sinh muôn đời.

 

36. Theo Thầy – McCarthy.

Trong Tin Mừng chúng ta thấy Đức Giêsu không giấu giếm các tông đồ thực tế. Người chỉ rõ những khó khăn, gian khổ và những hy sinh mà Người đòi hỏi nơi những ai đi theo Người. Bằng những lời lẽ rõ ràng, Người nói với họ rằng công việc đó không phải dễ dàng gì. Vì thế sau này họ không thể than phiền “Ôi chúng tôi đã không bao giờ nghĩ rằng sự việc nó lại như thế này”.

Người ta có thể là một người theo Đức Kitô nhưng không phải là môn đệ của Người. Bởi lẽ người ta có thể đi dân công nhưng không phải là một chiến sĩ của đức vua. Người ta có thể không phải gánh vác nặng nề mà vẫn đóng vai của mình. Người ta chỉ là một người xí phần trong việc lớn. Người ta có thể là người chỉ biết nói giỏi mà không làm.

Một lần nọ, có người đến gần vị giáo sư danh tiếng để hỏi về một thanh niên: “Dù sao xin ông nói cho tôi biết anh ta có phải là một sinh viên của Ông. Đúng không?” và vị giáo sư trả lời: “Anh ấy dĩ nhiên có nghe tôi giảng, nhưng xin ông tin tôi, anh ấy không bao giờ thật sự là sinh viên của tôi”.

Một trong những cản trở to lớn của Giáo Hội là trong Giáo Hội có nhiều người theo Đức Kitô với một khoảng cách an toàn, nhưng rất ít người thật sự là môn đệ, tức là những người đang thực hiện lời Người.

Chúng ta hãy đối diện với điều đó. Là một môn đệ của Đức Kitô không dễ dàng gì. Vai trò môn đệ có một số yêu cầu thực tiễn mà người ta không thể tránh né nếu không muốn phản bội lại Tin Mừng. Tuy nhiên có nhiều người đi nhà thờ một cách thoải mái nhưng ít người quan tâm đến những người khốn khổ, nghèo túng và tiếng rên rỉ của người nghèo. Ngày nay cũng thế, người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ nhiều điều mà người khác coi là việc đương nhiên họ phải có.

Một vài môn đệ tan biến đi khi họ được yêu sách, như tuyết tan dưới mặt trời. Những người khác bị sự chống đối và phê bình tàn phá, giống như ngọn lửa chập chờn bị cơn gió mạnh đầu tiên thổi tắt.

Khi nhà vua Trung Quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi; nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn mười ngàn nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi: “Ngài có bao nhiêu đệ tử?”

“Bốn hoặc năm” Lin Chi đáp.

Đức Giêsu nói rằng muốn đi theo Người, người ta phải suy xét với lương tri bình thường, với sự thận trọng và tính toán cái giá phải trả. Chúng ta không thể gánh vác quá khả năng của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không biết trước mình có khả năng gì. Chúng ta có thể đánh giá cao hoặc đánh giá thấp chính mình. Chúng ta cần có sự thách đố để điều tốt nhất trong chúng ta xuất hiện.

Chúng ta có thể rút ra từ gương sáng của các tông đồ một sự khích lệ. Tin Mừng cho chúng ta thấy họ phải chiến đấu ở mọi điểm để đi theo Đức Giêsu. Tuy nhiên, Người không loại bỏ họ. Chỉ sau khi Đức Giêsu từ sự chết sống lại, họ mới thật sự là những môn đệ của Người.

Khi nhìn vào các tông đồ, chúng ta khám phá sự bất toàn của chúng ta. Tin Mừng ban niềm hy vọng cho những Kitô hữu thất bại. Sự sám hối và một cơ may thứ hai luôn luôn có thể có. Đức Giêsu bằng ân sủng của Người luôn luôn quảng đại với những người cố gắng đáp lại lời kêu gọi của Người.

 

37. Trả giá – McCarthy.

Có những người hoài bão những mục tiêu lớn trong đời, nhưng họ sẽ không bao giờ hoàn thành những mục tiêu ấy. Tại sao lại không? Bởi vì họ không muốn trả giá.

Có một câu chuyện về một cô gái tên Antoinette, cô rất xinh đẹp nhưng rất nghèo. Cô chỉ có một mục tiêu trong đời trở nên giàu có. Hy vọng duy nhất của cô là lấy được một người giàu sang. Nhưng cuộc sống đưa đẩy cô lấy một viên chức nhà nước. Chồng cô cố gắng làm cho cô được hạnh phúc nhưng không thể đáp ứng những điều mà cô mơ ước – quần áo đẹp, nữ trang, một căn nhà với đầy đủ đồ đạc cao cấp, và v.v…

Cô từ chối đi làm ở bên ngoài, và sống những ngày khốn khổ và tuyệt vọng. Cô than phiền rằng vợ chồng cô chưa bao giờ đi đâu. Một lần kia, chồng cô được mời đến dự một bữa tiệc của tiểu bang, nhưng rồi cô lại than phiền cô không có trang phục thích hợp để mặc. Vì thế chồng cô phải gom góp hết tiền tiết kiệm khiêm tốn ở ngân hàng. Với số tiền đó, Antoinette mua được một chiếc áo mới. Sau đó cô còn mượn một chuỗi hạt của một người bạn học cũ tên Marie, rất hợp với chiếc áo mới.

Và thế là cô đã đi dự tiệc. Cô là người phụ nữ đẹp nhất ở đó và vui hưởng mọi sự chú ý mà cô có được. Tuy nhiên, khi họ về đến nhà vào lúc trời gần sáng, cô kinh hoàng khám phá chuỗi hạt đã mất.

Họ tìm kiếm chuỗi hạt khắp nơi nhưng không tài nào tìm được. Cô không có can đảm nói với Marie sự thật. Vì thế họ mua một chuỗi hạt khác hoàn toàn giống với chuỗi hạt đã mất. Nó giá 40.000 quan Pháp, một món tiền mà họ phải đi vay với lãi suất rất cao. Khi họ trả chuỗi hạt ấy cho Marie, cô này không bao giờ nhận ra sự khác nhau. Thật vậy, cô ta nhét chuỗi hạt vào ngăn kéo mà không nhìn đến nữa.

Giờ đây Antoinette biết cái nghèo thật sự là gì, nhưng cô quyết định góp phần để trả món nợ của họ. Họ trả lại căn phòng ở tầng trên và dọn xuống tầng hầm. Họ cho cô đầy tớ nghỉ việc. Antoinette tự mình làm việc nhà và còn đi làm việc ở bên ngoài. Họ xin xỏ và dành dụm từng đồng. Họ phải mất mười năm để trả hết món nợ nần. Giờ đây Antoinette trông giống một bà già. Một ngày kia tình cờ cô gặp lại Marie trong đường phố.

“Ôi, sao bạn già đi nhiều thế!” Marie nói.

“Tôi đã trải qua những thời gian rất khó khăn kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, và tất cả là vì bạn”, Antoinette đáp.

“Vì tôi ư? Tôi không hiểu”.

Rồi Antoinette nói với Marie về việc cô đánh mất chuỗi hạt và việc hai vợ chồng cô đã làm việc bấy nhiêu năm để trả lại món tiền. Nghe đến đây Marie nói: “Bạn định nói rằng bạn đã mua một chuỗi hạt bằng kim cương để thế vào chuỗi hạt của tôi?

“Vâng” Antoinette đáp, “và bạn không bao giờ nhận ra đâu”

“Ôi, Antoinette đáng thương của tôi!” Marie kêu lên. “Tại sao lại như vậy, chuỗi hạt của tôi chỉ là một sản phẩm nhái lại. Cùng lắm, nó chỉ đáng giá 400 quan”.

Nếu ngay từ lúc đầu, Antoinette chỉ cần bỏ ra phân nửa nỗ lực cho những gì mà cô mong ước trong đời, thì cô đã có thể đạt được mà không phải phung phí những năm quí giá ấy. Trái lại, cô đã dùng thời gian ấy của cô để nhìn ra cửa sổ và mơ mộng.

Đức Giêsu đã có một mục đích cao cả trong đời, tức là thực hiện sứ vụ mà Cha Người đã giao cho Người, sống vì điều đó và đã muốn trả bất cứ cái giá nào để hoàn thành mục tiêu. Tin Mừng cho chúng ta thấy Người đang tiến về Giêrusalem. Người đã biết điều gì đang chờ Người ở đó. Đau khổ, sự loại trừ và cái chết đợi sẵn ở cuối cuộc hành trình ấy. Tuy nhiên Người mong muốn đối mặt với tất cả những điều đó.

Và Người mong muốn các môn đệ của Người cũng phải như thế. Người nói về cái giá của việc làm môn đệ. Khi Người nói họ phải ghét cha mẹ mình, Người không định nói theo nghĩa đen. Người nói với họ rằng nếu cần họ phải sẵn sàng hy sinh những vật thân yêu nhất trong đời. Trong một số trường hợp (hiếm hoi), họ phải chọn giữa Người và các người thân của họ.

Hai dụ ngôn ngắn làm nổi bật việc theo Chúa là một ơn gọi nghiêm khắc, nó có thể có ý nghĩa của sự bách hại và chết chóc. Trong lãnh vực này, cũng như trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống (như kinh doanh và chính trị), người ta không thể bước vào một cách mù quáng. Người ta phải tính toán cái giá phải trả trước khi bắt đầu, và rồi xem mình có sẵn sàng đối mặt với nó hay không.

Mục tiêu mà Đức Giêsu đặt ra trước chúng ta thì đáng giá – mục tiêu của một lối sống trung thực ở đời này và của sự sống vĩnh cửu đời sau. Không có mục tiêu nào cao hơn mục tiêu ấy. Điều đó không dễ dàng gì. Không một ai có thể là một môn đệ mà không vác thập giá. Nhưng Đức Giêsu biết sự mỏng giòn của chúng ta. Người rộng ban ân sủng của Người cho những người cố gắng đi theo Người một cách chân thành.

 

38. Làm môn đệ Chúa: dễ hay khó?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo”“làm môn đệ”. Thánh Luca đã sử dụng hai cụm từ này rất khéo léo: “Khi ấy có rất đông người ‘đi theo’ Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi. Ai không vác thập giá mình mà ‘đi theo’ tôi thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi được”.

Quả vậy, có rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” của Ngài; chỉ những ai đi theo mà biết “từ bỏ” và “vác thập giá” thì mới thực sự “là môn đệ” của Chúa Giêsu. Nói cách khác, “người đi theo” chưa hẳn là “người môn đệ”. Cũng như người-nói “Lạy Chúa, lạy Chúa” chưa hẳn là người-làm theo ý Chúa. Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu. Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, đó là từ bỏ và vác thập giá (x. Sợi Chỉ Đỏ, Chúa Nhật 23 Thường Niên C).

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành mà Chúa Giêsu nói với “đám đông những người” đang đi theo Ngài. Người ta đi theo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ, có khi là những lý do rất trần tục. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với họ, chứ không nói theo kiểu úp mở, hay như kiểu tiếp thị, quảng cáo để chiêu dụ khách hàng. Ngài nói thẳng rằng theo Ngài thì phải từ bỏ, bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống, và lại còn phải vác thập giá nữa.

Giả như Chúa Giêsu bảo rằng ai muốn đi theo Ngài thì lên taxi, lên xe hơi, hay lên máy bay mà đi, có lẽ sẽ có khối người đi theo. Đàng này Chúa lại bảo một chuyện ngược đời: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Gọi là ngược đời vì ở đời có ai thích “vô sản”, có ai thích “khổ đau” bao giờ. Chấp nhận từ bỏ là chấp nhận “vô sản” một cách nào đó, chấp nhận thập giá cũng có nghĩa là chấp nhận “khổ đau” không hơn không kém. Bởi đó, từ bỏ mình và vác thập giá mình luôn là điều không dễ thực hiện chút nào. Thế nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy, thì mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài.

Trên thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ, càng không muốn vác thập giá. Có những người thờ thập giá nhưng không vác thập giá; vác thập giá của mình, chứ chưa nói đến chuyện vác thập giá của người khác. Có những người quý chuộng thập giá Chúa Giêsu, nhưng không quý chuộng thập giá mình. Tất cả những người đó không xứng là môn đệ của Chúa Giêsu.

Một điểm nữa rất rõ trong lời mời gọi của Chúa Giêsu là “Hãy vác thập giá hằng ngày”. Vác thập giá không phải chỉ là một ngày hai ngày, một tháng hai tháng, hoặc chỉ vác thập giá của hôm qua hay hôm nay, mà là hằng ngày, mọi ngày trong suốt cả cuộc đời. Ngày nào cũng có thập giá, không nặng thì nhẹ, như lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Ngày nào có sự khốn khó của ngày đó”.

John Newton đã nói rằng: “Những khổ sở mà đời ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Thế nhưng, nhiều người lại không làm như vậy: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay, mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và cả khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!”.

Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con cảm thấy chán nản buông xuôi vì những thử thách quá nặng nề. Xin Chúa thêm sức cho chúng con, nhất là cho chúng con có đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để chúng con có thể vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa đến cùng. Amen.

 

39. Từ bỏ để theo Chúa. – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Hồi còn trong chủng viện, tôi đã có dịp nghe nói đến bác sĩ Tom Dolay qua bản dịch tập nhật ký sang tiếng Việt có tựa đề là: “Lào Quốc Đèo Heo Hút Gió” ghi lại công việc phục vụ của bác sĩ tại một nơi mà ngày nay chúng ta có thể gọi là “vùng sâu, vùng xa”. Trong khi dấn thân phục vụ anh chị em cùng khổ, bác sĩ Tom Dolay phải chiến đấu với chính thập giá của bản thân mà ông gọi một cách bóng bảy là “ngọn núi cao nhất” của đời ông mà ông đã phải vượt qua, đó chính là căn bệnh ung thư mà ông đang mắc phải. Bác sĩ đã không vượt qua được ngọn núi cao này, đã chịu thua căn bệnh ung thư và qua đời lúc mới 34 tuổi.

Vì muốn sống trọn vẹn hơn đức tin vào Chúa, bác sĩ Tom Dolay đã từ bỏ gia đình, từ bỏ những tiện nghi của một cuộc sống sung túc an nhàn để ra đi phục vụ những con người cùng khổ nơi vùng xa và vùng sâu. Bác sĩ đã thực hiện nơi chính bản thân điều chúng ta vừa đọc trong đoạn Phúc âm hôm nay: “Ai không bỏ cha mẹ, vợ con anh chị em mà đến với Ta thì không thể làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta”. Và không phải là vác trong giây lát, trong lúc cần thiết để biểu diễn cho người khác nhìn thấy mà phải vác hàng ngày, thường xuyên trong âm thầm, không ai nhìn thấy, chỉ mình Chúa biết mà thôi.

Bác sĩ Tom Dolay đã ghi lại trong tập nhật ký như sau: Tôi phải tiếp tục thi hành công tác đang làm như một bác sĩ bao lâu Chúa còn cho tôi thời gian sống ở trần gian này để thực hiện nó. Tôi tiếp tục sống dịu hiền, bởi vì để sống hiền dịu con người phải có can đảm. Giờ đây, đứng trước ngọn núi cao nhất của đời tôi, (tức là chính căn bệnh ung thư mà bác sĩ đang trải qua) tôi còn phải can đảm hơn nữa, mặc dù can đảm đôi khi chỉ là một bài ca buồn. Hy vọng vẫn còn và bất cứ nơi nào còn có người can đảm chiến đấu, tôi không có ý định nằm im chờ chết trên giường bệnh, còn rất nhiều việc phải làm trong thế giới này.

Lần đầu tiên đối diện với thập giá trong tâm thức trần tục trước biến cố Vượt Qua, các tông đồ không hiểu được mầu nhiệm thập giá và dĩ nhiên họ còn lo sợ tránh né. Việc đó đã xảy ra cho Phêrô, ông can gián Chúa đừng lên Giêrusalem để khỏi phải chịu chết trên thập giá. Phêrô đã bị Chúa trách là không suy nghĩ theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa mà theo tâm thức thường tình trần tục.

Thật đúng vậy, nếu nhìn theo phương diện trần tục, xưa cũng như nay thì làm sao con người, mỗi người chúng ta có thể yêu mến thập giá, một hình khổ sỉ nhục dành cho kẻ bị kết án tử hình, bị tước lột mọi quyền lợi làm người.

Thánh Phêrô từ chối và khuyên Chúa không nên đi vào con đường này, nhưng Chúa Giêsu muốn Phêrô và các môn đệ hãy nâng tâm hồn lên, hãy có cái nhìn của Thiên Chúa trước mầu nhiệm thập giá, trước những khổ đau, những thử thách. Cần phải nhìn thấy mối liên hệ sâu xa được thực hiện nơi chính Chúa Giêsu trong cuộc Vượt Qua của Người. Mối liên hệ sâu xa giữa thập giá và mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa cần phải nhìn thấy mối liên hệ sâu xa này.

Chúng ta ngày hôm nay cũng như các đồ đệ của Chúa ngày xưa, một khi đã bước theo Chúa mới có thể hiểu được giá trị của thập giá trong đời sống của mỗi người chúng ta. Giá trị của thập giá đó hệ tại nơi mối liên hệ với mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, và chúng ta cần vác thập giá trong sự kết hợp với Chúa Giêsu với mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Hay nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, chúng ta cần đưa thập giá của chúng ta vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa: “Tôi bổ túc nơi thân xác tôi những gì còn thiếu nơi mầu nhiệm thập giá của Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và chịu chết vì tôi. Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Đây là một quyết định của người can đảm. Theo Chúa cần can đảm, theo Chúa không phải là một việc làm vì nhẹ dạ, vì xu thời, nhưng là việc làm can đảm sau khi đã suy nghĩ chín chắn. Hãy để cho Chúa Kitô vác lấy thập giá với ta trong cuộc sống hằng ngày, và chỉ với tình yêu kết hợp với Chúa mới có thể giúp ta từ bỏ mọi sự để theo Chúa. Hay đúng hơn, nói cách khác để yêu mến Chúa trên hết mọi sự và trong tình yêu Chúa trên hết mọi sự chúng ta mới có thể yêu mến thực sự cha mẹ, anh chị em, của cải, tất cả mọi sự của ta trong tình yêu của Ngài.

Chúng ta nói như đã từ bỏ mọi sự, thật sự chúng ta đặt mọi sự vào đúng vị trí của nó trong tình yêu của Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, và xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta được trung thành cho đến cùng là đi trọn con đường như Chúa đã đi, đó là con đường thập giá, và giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình qua Kinh Tin Kính.

 

40. Tôi là thứ ba.

Sayers là một cầu thủ nổi tiếng. Anh được báo chí đánh giá là một trong những hậu vệ chạy nhanh nhất trong lịch sử môn bóng đá chuyên nghiệp. Thế nhưng lúc nào anh cũng đeo trên cổ mình một tấm mề đay bằng vàng, trên đó đó khắc ghi bốn chữ:

– Tôi là thứ ba.

Và trong cuốn tự thuật của mình, anh đã cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của bốn chữ đó như sau:

Ngày kia, tôi đến thăm ông Bill Easte, huấn luyện viên của tôi. Tôi thấy ông đặt trên bàn làm việc của ông khẩu hiệu này. Tôi đọc mà chẳng hiểu, nên nhờ ông cắt nghĩa và ông đã nói cho tôi hay:

– Thiên Chúa là thứ nhất, tha nhân là thứ hai còn tôi là thứ ba.

Kể từ đó, tôi cũng đã chọn bốn chữ này làm khẩu hiệu sống cho cuộc đời mình.

Và cũng trong quyển tự thuật ấy, anh viết tiếp:

– Tôi cố gắng sống khẩu hiệu trên. Không phải lúc nào cũng thành công, nhưng dù sao việc mang khẩu hiệu ấy nơi cổ cũng nhắc nhở tôi và giúp tôi khỏi đi trệch đường quá xa.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với lời tuyên bố của Chúa Giêsu:

– Ai đến với Ta mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được.

Nói cách khác, Chúa đòi chúng ta phải dành địa vị ưu tiên số một cho Ngài trong cuộc sống.

Tiếp nối vào đó, chúng ta lắng nghe ý tưởng thứ hai được Ngài nêu lên trong phần cuối đoạn Tin Mừng:

– Ai trong các ngươi muốn xây một ngọn tháp mà trước hết không chịu ngồi xuống tính toán mọi phí tổn để xem thử mình có đủ khả năng hoàn tất nó hay không?

Nói cách khác, dành địa vị ưu tiên số một cho Chúa trong cuộc sống mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải thực thi trọn vẹn sự lựa chọn ấy nữa. Và đây mới thực sự là điều khó khăn và cam go.

Chính Sayers, trong câu chuyện vừa nghe đã xác quyết: Đặt Chúa vào vị trí số một trong đời bạn là một chuyện. Còn sống cái quyết định ấy trong suốt cả cuộc đời là một chuyện hoàn toàn khác. Chính vì thế, tôi luôn đeo tấm mề đay ấy nơi cổ như một nhắc nhở tôi phải sống sự lựa chọn ấy.

Còn chúng ta thì sao? Vào ngày chịu phép rửa tội và thêm sức, cũng như mỗi khi tuyên xưng đức tin, chúng ta cũng đã chọn lựa Chúa, cũng đã dành cho Chúa địa vị ưu tiên chỗ đứng số một trong cuộc sống.

Thế nhưng, chúng ta đã thực hiện sự chọn lựa ấy như thế nào? Chúng ta đã sống điều dốc quyết ấy ra làm sao? Rất nhiều khi chúng ta nói một đàng làm một nẻo… Miệng thì chúng ta tuyên xưng Chúa, nhưng việc làm thì phản lại lời tuyên xưng ấy, theo kiểu:

– Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.

Bởi vì mỗi khi phạm tội là chúng ta bán Chúa như Giuđa. Mỗi khi phạm tội là chúng ta chối bỏ Chúa như Phêrô. Mỗi khi phạm tội là chúng ta chọn lựa ma quỉ thay vì chọn lựa Chúa làm thần tượng cho đời mình.

Và như thế, biết bao nhiêu lần chúng ta đã phản bội, đã quay lưng chống lại Chúa. Bởi đó, mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem:

– Lúc này Chúa đang chiếm địa vị nào, đang có chỗ đứng nào trong tâm hồn và trong cuộc đời của tôi?

 

41. Lựa chọn

Có một cô gái người nước Bỉ, tên là Odette sinh ra trong một gia đình qúy tộc, thánh thiện và rất xinh đẹp. Năm 17 tuổi, cô đã quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng cha mẹ cô đã bắt trở về. Từ lâu ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon thuộc lâu đài gần đó.

Mọi người đã âm thầm chuẩn bị lễ cưới cho cô, các thiệp mời đều được kín đáo gởi đi. Nhưng vì lòng đã quyết đi tu dâng mình cho Chúa, khi đến phần giao ước, Odette đã dõng dạc tuyên bố: “Con không chấp nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin con đã hiến dâng cho Thiên Chúa từ lâu”. Hơn nữa, sáng hôm sau, cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của mình, nhằm hủy họai sắc đẹp của mình để không còn ai cấm cô đi tu nữa.

Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.

Hành động của Odette chắc chắn có nhiều người chê cười, cho rằng cô quá khờ, hoặc là một con người “thần kinh” không biết cách lựa chọn, một tương lai sáng lạng lại đi từ bỏ, một nhan sắc xinh đẹp mà hy sinh nó một cách không hề hối tiếc để rồi chấp nhận một cuộc sống âm thầm trong tu viện giữa bốn bức tường thầm lặng. Thật là một sự lựa chọn ngước đời. Nhưng sự lựa chọn này làm cho người ta còn có thể dễ chấp nhận hơn khi Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nói: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”. Nếu so sánh hai cách lựa chọn, một bên là gia đình và người thân của Odette, còn một bên là cách lựa chọn của Odette. Ta thấy cả hai cách lựa chọn đều có suy nghĩ, có sự tính toán. Nhưng một bên lại là sự khôn ngoan của người đời, mà tạm thời tôi đặt cho đó là sự lựa chọn gần. Còn một bên là sự khôn ngoan của Thiên Chúa vì biết sống theo lời dạy của Đức Giêsu. Mà tôi gọi là sự lựa chọn xa. Lựa chọn gần, hay xa là điều rất quan trọng và ảnh hưởng không chỉ cuộc sống đời này, mà nó còn quyết định cho cả đời sống mai sau.

  1. Lựa chọn gần

Đó là cách lựa chọn của Phêrô khi ngăn cản con đường thập giá của Đức Giêsu, cho nên Đức Giêsu đã trách ông: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của lòai người” (Mt 16,23). Cách lựa chọn của Phêrô được xem là một cách lựa chọn gần, vì ông chỉ nhìn thấy cuộc sống ngay ở hiện tại mà không hề thấy được cuộc sống mai sau mà mỗi người cần đạt được, chỉ phóng một tầm nhìn hạn hẹp mà không biết nhìn xa hơn. Chỉ biết hiện tại mà không hề biết đến tương lai. Chính vì thế mà Đức Giêsu mới khuyên mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ những cái tạm bợ để lựa chọn cái bền vững. Khi Đức Giêsu nói “từ bỏ” ở đây không có nghĩa dạy chúng ta sống bất hiếu, nhưng là biết rõ bậc thang giá trị, giữa cái phù vân và cái muôn đời, giữa tình cảm người đời chóng qua với tình yêu Thiên Chúa vĩnh cữu. Vì thế, Đức Giêsu luốn muốn chúng ta phải biết bậc thang giá trị trong lực chọn của mình, biết chọn Thiên Chúa hơn là gia đình. Hơn nữa, trong mười điều răn Đức Chúa Trời điều thứ nhất là “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”. Nhưng trong cuộc sống chúng ta vẫn thường hay làm ngược lại, chỉ chọn Chúa khi không còn gì để chọn, chỉ đến với Chúa khi có thời gian rảnh. Nhất là không dám làm phiền lòng người khác mà chấp nhận đi dự tiệc để rồi lại bỏ lễ ngày Chúa Nhật mà không còn thấy bứt rứt lương tâm nữa…. tiếng Chúa bây giờ không còn là lựa chọn tối ưu mà là tiếng của tình cảm, của con người chóng qua, tiếng của vật chất đã đựơc thần thánh hóa hơn cả tiếng của Chúa. Vì vậy, chúng ta hãy xem lại coi mình còn xứng đáng với Chúa không?

  1. Lựa chọn xa

Lựa chọn xa, là cách lựa chọn mà rất ít người nhìn thấy, hoặc thấy nhưng vì con luyến tiếc mà xem như không thấy nghĩa là “có mắt như mù”. Còn số khác thì không chịu thấy vì cho là xa vời, mơ hồ. Trong trường hợp lựa chọn của Odette được xem như là một sự lựa chọn xa. Ban đầu dưới con mắt người đời hành động của cô được xem như là điên rồ, nhưng thật ra đó là một hành động khôn ngoan, một sự lựa chọn tuyệt vời, một bằng chứng hùng hồn nhất về niềm tin và tình yêu đối với Đức Kitô, và để trung thành với tình yêu cao cả đó cô đã sẵn sàng hy sinh tất cả: Cha mẹ, tiền tài, danh vọng, chức quyền, sắc đẹp và chính đời sống của cô.

Thật vậy, cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, nó đã dệt lên thành đời sống riêng của mỗi người. Đối với người Kitô chọn lựa là đáp lại tiếng Chúa đang vang lên trong lòng mình từng giây phút trong cuộc sống. Chúng ta không những chỉ chọn lựa cho mình mà còn phải biết hướng dẫn cho người khác chọn lựa, nhất là cho con cái hướng dẫn cho chúng sẵn sàng hy sinh dâng mình cho Chúa và không ngăn cản nếu chúng muốn. Dù rằng không phải đi tu mới là chọn Chúa, nhưng tất cả mọi người chúng ta đều đang được tự do chọn Chúa ngay trong bậc sống của mình. Nhưng điều quan trọng là chúng ta có xem Chúa là trên hết mọi sự chưa, chúng ta có xứng đáng là môn đệ Chúa chưa đó là một điều chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống thanh thóat với tình cảm, danh vọng và vật chất ở đời này để chọn Chúa là đích điểm tuyệt đối của đời con. Amen.

 

42. Đòi hỏi của tình yêu. – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.

Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.

Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.

Trùng Nhĩ sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Tử Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi cúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?

Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37).

Vậy ý của Đức Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.

Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thiết thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.

Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào, mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp”“Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.

Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm tay mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đứng như Pierre Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.

Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.

Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hỏi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội, giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen.

 

43. Cuộc đăng sơn vất vả.

“Nếu ai đến với Ta mà không bỏ mạng sống…”

Theo Chúa là một cuộc đăng sơn vất vả, một cuộc đăng sơn về Giêrusalem. Có nhiều người theo vì tò mò, vì vu lợi. Luca viết: “Có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu. Người ngoảnh lại bảo họ rằng nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”.

Cho dầu có người giải thích rằng “bỏ” đây không phải là ghét bỏ mà là quý chuộng hơn thì câu nói của Chúa cũng vẫn chân thật nặng nề, một yêu sách có vẻ khó chấp nhận. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cần phải nhìn lên cao, phải vượt lên trên những cảm quan thường tình.

Tình yêu cha mẹ, vợ con, gia đình là một điều tốt nhưng nhiều khi có thể nói là một cản trở trên bước đường Đức Tin và phục vụ Chúa, Đấng là Tình yêu duy nhất. Tình yêu mến Chúa sẽ biến đổi, thanh lọc và thánh hoá mọi tình yêu của chúng ta.

Trước toà án Nam Định, quan dùng tình nghĩa vợ chồng con cái để làm lung lạc Thánh Nguyễn Huy Mỹ. Vị Tử đạo trả lời: Vợ con tôi, tôi yêu thật, song tôi còn hy vọng sum họp với gia đình thân yêu trên Thiên Đàng”. Bà vợ vế con đến thăm chồng, khuyên chồng đừng lo lắng đến vợ con, có Chúa phù hộ. Đứa con gái 11 tuổi trốn nhà đi đến ngục thăm Cha và khuyên Cha “đừng chà đạp Thánh giá” (+1838).

Theo Chúa là một cuộc đăng sơn khó khăn vất vả. Có nhiều người đã khởi công nhưng không thành công. Có nhiều người đã bỏ cuộc. Vì sao? Chúa phán: “Ai trong các ngươi muốn xây một cột tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ đển hoàn tất không?” Họ không thành công là vì không biết tính toán trước, không biết “ngồi” xuống suy tư, xe, xét những đòi hỏi của dự án và những khả năng của mình. Cả ngày nay nữa, đó đây có bao nhiêu ngôi nhà được khởi công rồi bỏ lửng, kẻ qua người lại cười nhạo bàn tán.

Ai muốn theo Chúa cũng phải khôn ngoan, lượng định khả năng của mình trước những hy sinh Chúa đòi hỏi. Phải tin cậy Chúa, nhưng đồng thời đó cũng coi là việc tư riêng của mình.

Cũng trong chiều hướng tư tưởng đó, Chúa nói đến dụ ngôn một ông vua sắp khai chiến với một ông vua khác. Ông ngồi suy nghĩ lượng định khả năng chiến đấu của quân đội mình. Đây là ván bài quá quan trọng vì cả một quốc gia, một dân tộc phải gánh chịu. Nếu không liệu thắng nổi thì đi cầu hoà trước.

Vậy đối với người muốn làm đồ đệ Chúa cũng phải lãnh nhận mọi hy sinh của ơn gọi, để khi đã “cầm” cày thì không quay mặt nhìn lui, hoặc đi tìm đúng con đường Chúa muốn.

Martin và Guerin, đôi thanh niêu thiếu nữ ấy, đã đi tìm lý tưởng tận hiến trong bậc sống tu trì. Nhưng nhận thấy đó không phải là con đường Chúa muốn, họ quyết định bước vào cuộc sống đôi bạn. Cô Guerin cầu nguyện chân thành: “Lạy Chúa, vì con không xứng đáng trở nên bạn trăm năm của Chúa thì con đi vào con đường đôi bạn, để làm tròn thánh ý Chúa. Nhưng xin Chúa ban cho con nhiều con, để con hiến dâng tất cả cho Chúa”. Tất cả con con đều đi tu mà Têrêxa Giêsu Hài đồng là cô út và là vinh quang của gia đình Martin Guerin.

Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa,

để chúng con mừng rỡ hân hoan trót đời chúng con.

Lạy Chúa, Chúa là chỗ con nương thân (Tv 89).

 

44. Từ bỏ.

Lời Chúa qua đoạn Tin mừng vừa nghe xem ra như có vẻ chói tai và khó chấp nhận.

Thực vậy, theo lẽ thường khi thâu nhận các môn đệ, người taluôn hứa hẹn những điều tốt đẹp, nhưng Chúa Giêsu thì ngược lại, Ngài đòi hỏi những ai muốn làm môn đệ Ngài phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh chị em, thậm chí còn phải “ghét” cả bản thân mình nữa. Rồi lại còn phải từ bỏ của cải trần gian và vác thập giá mình hằng ngày.

Đòi hỏi như thế, phải chăng là quá đáng, không phù hợp với lòng người và cũng không thể thực hiện được?

Con người thời nay bị ảnh hưởng bởi não trạng thực dụng và hưởng thụ, nên rất dị ứng với sự từ bỏ và thập giá.

Vì thế, có người đã coi lời Chúa là lỗi thời và nên để nó chìm vào quên lãng. Có người chỉ muốn tìm trong lời Chúa những gì êm ái, ngọt ngào, dễ nghe và dễ chấp nhận. Có người cố gắng cắt nghĩ lời Chúa sao cho phù hợp với ý riêng của mình để bề dễ thực hiện.

Nhưng thực ra, lời Chúa vẫn là lời Chúa. Lời Chúa như một con dao sắc bén,cắt đứt thịt da và đâm thấu tận tâm can. Lời Chúa luôn có tính cách đòi hỏi con người không được thỏa hiệp, không được nửa nạc nửa mỡ, cũng không được lấp lửng bắt cá hai tay và đi nước đôi, nhưng phải dứt khoát chọn lựa, phải quyết liệt thi hành cũng như phải triệt để dấn thân.

Như thế, lời Chúa có mâu thuẫn với lòng từ bi nhân hậu của Ngài hay không?

Thực vậy, Thánh Kinh cho biết vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban cho con người có cha có mẹ, cũng như có anh, có chị và có em để cùng chung sống dướii một mái ấm gia đình. Cũng vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự cho con người được hưởng dùng.

Nếu vậy thì đòi hỏi từ bỏ có nằm trong chương trình của Thiên Chúa hay không? Nó có mâu thẫun với sự tốt lành của Ngài hay không?

Chắc chắn là không, bởi vì nếu chúng ta tin rằng Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, thì chúng ta cũng tin rằng chính Ngài vừa dạy chúng ta phải biết yêu thương và tôn trọng những sự vật trần thế, nhưng đồng thời cũng dạy chúng ta phải biết từ bỏ.

Trong Phúc âm, đề tài từ bỏ cũng được Chúa quan tâm không kém đề tài yêu thương. Và cả hai đều nằm trong chương trình của Ngài.

Thực vậy, vì yêu thương nên mới từ bỏ và từ bỏ để rồi được yêu thương nhiều hơn. Chính Ngài cũng đã làm gương trước cho chúng ta noi theo và bắt chước.

Đúng thế, thánh Phaolô đã diễ tả: vì yêu thương, Đức Kitô đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang để mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân…Ngài vốn giàu sang, nhưng đã tự ý trở nên nghèo hèn, để lấy cái nghèo hèn của mình mà làm cho chúng ta được trở nên giàu sang.

Rõ ràng sự từ bỏ của Chúa đã được liên kết với tình yêu, một tình yêu luôn muốn sự tốt lành cho người khác. Ngài trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu. Ngài tự hạ để chúng ta được nâng lên. Ngài đã chết để chúng ta được sống.

Đó là một nghịch lý, một nghịch lý hồng phúc như thánh Phanxicô Assie đã diễn tả:

– Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Là Kitô hữu, chúng ta không có một con đường nào khác để bước theo Chúa, ngoài con đường từ bỏ, ngoài con đường thập giá. Và đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta đạt tới ơn cứu độ muôn đời.

 

45. Từ bỏ.

Bài Phúc âm hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ lại một tư tưởng chính mà Giáo Hội muốn đề nghị mỗi tín hữu Kitô, đó là sự nhất quyết theo Chúa, sẵn sàng chấp nhận những hy sinh để theo Chúa được trọn vẹn. Phúc âm thánh Luca ghi lại như sau:

Chúng ta có thể suy niệm chung bài đọc II và bài Phúc âm trong viễn tượng con người thời đại hôm nay, đó là viễn tượng kính trọng nhân quyền, kính trọng những quyền lợi tự nhiên của mỗi nhân vị. Trước hết, nơi bài đọc II trích từ thơ thánh Phaolô gởi cho ông Philêmôn, để yêu cầu ông này đón nhận lại người giúp việc cũ là Ônesimô, không phải đón nhận lại trong hoàn cảnh như trước, nghĩa là như người giúp việc đã bỏ nhà ông trốn đi, nhưng là một người anh em, vì đã cùng chia sẻ một sự sống với mình, một phẩm vị làm con cái Thiên Chúa như chính ông.

Mối tương quan giữa chủ và người giúp việc, chủ và tớ đã trở thành tương quan mới, tương quan huynh đệ anh em trong đức tin, trong Chúa Giêsu Kitô. Đây là một điều mới mẻ trong xã hội thời các thánh tông đồ, một xã hội còn duy trì tập tục nô lệ. Đây là điều khó có thể thực hiện một cách cụ thể đối với ông Philêmôn, bởi vì ông phải nhận lại một người giúp việc đã bỏ ông ra đi, rồi bây giờ nhận lại không phải như người giúp việc nữa mà như anh em trong Chúa. Không những ông phải tha thứ những lỗi lầm, phiền phức của người giúp việc gây nên khi bỏ ông ra đi, nhưng còn phải vui vẻ tiếp đón như một người ngang hàng, một người anh em cùng một phẩm vị con người như mình. Philêmôn đứng trước một thách thức, một lời mời gọi hãy kính trọng nhân quyền, kính trọng phẩm giá con người. Nếu không có sức mạnh và ơn gọi soi sáng của Chúa thì có thể ông Philêmôn sẽ không thực hiện được.

Chúng ta có thể kết luận ở đây rằng, để kính trọng nhân quyền, kính trọng anh chị em như đồng phẩm vị với mình thì trước hết cần phải kính thờ Thiên Chúa, phải nhờ đến sức mạnh của đức tin Kitô, phải chấp nhận sự hiện diện của Chúa trong đời sống mình. Phong trào kính trọng phẩm vị và quyền lợi của con người sẽ thất bại, nếu không nhờ đến sức mạnh của lòng tin Kitô để đổi mới tâm thức cũng như cư xử của mỗi cá nhân.

Từ bài đọc II chúng ta bước sang bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không xứng với Ta”. Nhìn trong viễn tượng kính trọng nhân quyền chúng ta có thể nói xem ra như có sự xung đột giữa quyền lợi của Chúa và quyền lợi của con người khi Chúa Giêsu đã nói: “Ai không từ bỏ cha mẹ, anh em, vợ con mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”.

Quyền con người có cha, có mẹ, có anh em, nói được là quyền lợi tự nhiên của con người, thế mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ để theo Ngài, đặt quyền lợi của Ngài trên chúng ta. Phải chăng đây là sự xung đột không thể chấp nhận được? Nhưng sự xung đột đây không phải là sự xung đột thật, đây chỉ là xếp đặt thứ tự trước sau mà thôi. Quyền lợi của Thiên Chúa là điều trước nhất, cần đặt Thiên Chúa vào chỗ đứng thứ nhất trong đời sống chúng ta, để rồi nhờ đó mà chúng ta mới có thể chu toàn những quyền lợi của mình. Thiên Chúa là bạn của sự sống, là bạn của con người, Ngài không ganh tị với con người khi con người được điều tốt lành.

Quan niệm lệch lạc của con người về Thiên Chúa như là một đấng hay ganh tị của con người, quan niệm lệch lạc này không phải là quan niệm Kinh thánh về Thiên Chúa. Thiên Chúa chân thật được mạc khải trong Kinh Thánh là một vị Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, để con người được triển nở hoàn toàn tốt đẹp nhân cách của mình, để được sống hạnh phúc. Con người lỗi lầm làm hại phẩm giá mình, xúc phạm đến Thiên Chúa thì Ngài không dùng mọi phương thế để phục hồi phẩm vị làm người cho con người, đến độ Ngài ban Con Một Mình xuống chịu chết thay cho con người để nâng con người lên. Một vị Thiên Chúa như vậy, một khi được con người chấp nhận tôn thờ, đặt vào chỗ đứng thứ nhất thì sẽ giúp con người phát triển hơn là đè bẹp con người.

Kính trọng quyền lợi của Thiên Chúa, yêu mến Ngài trên hết mọi sự, đó là con đường hữu hiệu nhất để kính trọng nhân quyền. Kính trọng con người, yêu thương anh chị em như Chúa đã yêu thương đến độ chấp nhận hy sinh cho người mình thương, đó là điều khó. Mỗi người chúng ta cần suy nghĩ cho nghiêm chỉnh khi dấn bước theo Chúa, chúng ta có thật sự muốn theo Chúa, muốn làm người Kitô đích thực chăng? Đó là vấn đề mà mỗi người chúng ta cần phải điều chỉnh lại để việc dấn thân theo Chúa của chúng ta mỗi ngày được trọn vẹn hơn.

 

46. Tự do hay là chết – Như Hạ, OP

Con người khao khát tự do, nhưng cũng cần một hướng để xác định rõ mục tiêu cuộc sống. Nếu không, cuộc đời sẽ phí phạm và vô nghĩa. Ðức Giêsu đem lại cho nhân loại một phương hướng giải thoát hoàn toàn.

GIẢI THOÁT HOÀN TOÀN.

Tự do vẫn là khát vọng muôn đời. Nhưng cho tới nay, con người vẫn chưa đạt được giấc mơ đó. Bởi vậy, Ðức Giêsu mới đến để mạc khải cho mọi người biết tự do là một hồng ân của Thiên Chúa, chứ không phải của con người. Thực vậy, “chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5:1) bằng cái chết trên thập giá. Nhờ đó, Người trở thành Môsê mới đưa Dân Chúa vào Ðất Hứa. Người được tôn làm Ðức Chúa. “Người đã lên cao dẫn theo một đám tù” (Ep 4:8) tức là nhân loại trong vòng xiềng xích quỉ ma. Nếu không trút bỏ hoàn toàn mạng sống, Người đã không thể nào giải thoát toàn thể nhân loại.

Thầy đã vạch đường. Muốn làm môn đệ, phải bước theo Thầy. Ðúng là “trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ.” (Mt 10:24) Ðó là lý do tại sao Ðức Giêsu quyết liệt đòi hỏi: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14:16) Có đòi hỏi nào khủng khiếp hơn không?! Ðiều kiện theo Người quá khắt khe ! Thực ra, “dứt bỏ” chỉ là giá phải trả cho tự do. Dứt bỏ những liên hệ gia đình phải chăng làphủ nhận những giá trị lớn lao đó? Không phải thế. Nhưng đòi hỏi như thế, Người muốn mạc khải mình là một giá trị tuyệt đối, vượt trên mọi giá trị trần gian. Không có một giá trị nào cao cả và thân thiết hơn Người. Bởi vì tất cả mọi giá trị đều tương đối và mau qua. Chỉ một mình Người mới toàn hảo, toàn chân, toàn mỹ. Trong Người có thể tìm thấy mọi sự. Người mở lối vào Ðất Hứa.

Trên đường về Ðất Hứa, nhiều mối nguy hiểm chất chồng. Nguy hiểm lớn nhất là cái tôi của mình. Thập giá có mặt khắp nơi và đủ mọi chiều kích. Tin hay không, con người vẫn phải vác thập giá. Nhưng có nhiều người vác thập giá theo cái tôi của mình. Không lối thoát. Cả một cơn hỏa mù dầy đặc. Trái lại, khi vác thập giá theo Ðức Giêsu, người ta có thể có một hướng đi lên tới tận nguồn sống. Vì chỉ có Người “là con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14:6) Không thể có con đường giải thoát nào khác ngoài Ðức Giêsu Kitô.

Người chính là một bảo đảm lớn lao cho sự tự do của con người. Ðúng hơn, Người là suối nguồn tự do. Thật vậy, “Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống” (Cv 2:33) trên tất cả những ai tin vào Người. Vậy mà, “ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do.” (2 C 3:17) Bởi thế, nếu đòi hỏi môn đệ “dứt bỏ”, Ðức Giêsu chỉ muốn người môn đệ hoàn toàn tự do, thoát khỏi mọi vướng mắc tình cảm và của cải. Người quả quyết: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”(Lc 14:33) Còn bám víu vào những giá trị trần thế đó, con người không thể bay bổng theo Người.

Bay bổng không có nghĩa là xa rời thực tế. Trái lại, Ðức Giêsu nhấn mạnh: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14:27) Thập giá là những thách đố rất thực tế trong hoàn cảnh và thân phận con người. Tuy nhiên trong Tin Mừng Luca, Ðức Giêsu mới chỉ đòi hỏi hi sinh mạng sống, quyền sở hữu và những thứ tình cảm bên ngoài. Ngay cả mạng sống cũng chưa phải là điều gì thâm sâu lắm. Nhưng trong Tin Mừng Mathêu và Marcô, Ðức Giêsu quyết liệt hơn: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình.” (Mt 16:24; Mc 8:34) Từ bỏ chỉ là mặt trái của tự do. Càng từ bỏ càng thanh thoát. Như vậy, khi từ bỏ, con người hoàn toàn tan biến trong Ðức Giêsu. Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu xa về sự thật đó: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2:20) Nghĩa là, khi đã từ bỏ hoàn toàn, thánh nhân cảm thấy mình như bay bổng trong bầu trời tự do là Ðức Giêsu.

Trong tinh thần đó, thánh nhân đã đề nghị với ông chủ Philêmôn nhận lại người nô lệ Onêsimô như “một người anh em rất thân mến, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa.” (Plm 16) Nếu không cùng chia sẻ một niềm tin nơi Ðức Kitô, làm sao thánh nhân dám nói như vậy? Thánh nhân còn nhấn mạnh: “Nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.” (Pl. 17) Thực tế, niềm tin Kitô mạc khải cho chúng ta thấy: “Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hi lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô.” (Gl 3:28) Còn phân biệt tức là chưa từ bỏ để hòa mình với mọi người.

Chưa hòa mình với mọi người chưa thể làm môn đệ Ðức Kitô. Vì Ðức Kitô đã chết là để hòa giải muôn loài (x. Cl 1:20) Muốn tiếp nối sứ mạng đó, người môn đệ phải tìm hiểu rõ ý Chúa. Trong khi sách Khôn Ngoan băn khoăn về thánh ý Thiên Chúa (Kn 9:13), thì Ðức Giêsu quả quyết: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời.” (Ga 6:40) Sứ mạng người Con đã được xác định rõ: “Nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do.” (Ga 8:36) Tại sao được chia sẻ sứ mệnh cao cả như thế người môn đệ lại phải lệ thuộc vào những ranh giới chủng tộc, văn hóa, quốc gia. để không thèm nhìn đến người anh em? Ðó là một phản chứng tệ hại nhất trong hàng ngũ những môn đệ Chúa Kitô. Tất cả sứ mệnh lớn lao đều tùy thuộc chứng từ hòa giải này.

GIẢI PHÁP THỰC TẾ.

Chứng từ hòa giải đó đang gặp khủng hoảng ngay chính trong cộng đồng dân Chúa. Khủng hoảng vì con người chỉ biết luẩn quẩn trong cái tôi của mình. Chẳng hạn, theo ÐHY Cormac Murphy-O’ Connor, não trạng thời nay cho rằng: “chỉ có cái gì tôi thích mới tốt, chỉ mình tôi mới có những quyền đó và chỉ có một cuộc sống có ý nghĩa hay giá trị đó là cuộc sống tôi muốn chọn cho chính mình.” (CWNews 6/9/2001) Thật là một bế tắc. Bế tắc đó bắt nguồn từ “một cuộc khủng hoảng đức tin đang ảnh hưởng tới toàn thể cộng đồng Kitô giáo.” (CWNews 6/9/2001) ÐHY nói về Giáo hội Anh quốc trước Hội Nghị Linh Mục Quốc gia tại Leeds như sau: “Giới trẻ ngày nay, và không phải chỉ có bạn trẻ, đang thờ ơ trước những giá trị Kitô giáo và Giáo hội.” (CWNews 6/9/2001) Nói khác, các bạn trẻ đang mất hướng. Sau khi đã nhận định như thế, ÐHY dí dỏm: “Chúng ta tự hỏi phải chăng vì chúng ta chưa cố gắng xem chính xác dân đang ngứa ở chỗ nào. Và họ đang ngứa thật.” (CWNews 6/9/2001) Muốn đáp ứng nhu cầu cấp thiết của thời đại, theo ÐHY, phải thiết lập các nhóm nhỏ học Thánh Kinh và cầu nguyện. “Các cộng đồng tí hon này là bí quyết cho tương lai Giáo hội.” (CWNews 6/9/2001) Vì từ chính những cộng đoàn tế bào đó, dung nhan Ðức Kitô sẽ hiện rõ nét hơn và tiếng Chúa sẽ nghe rõ hơn. Một cộng quá lớn sẽ loãng. Tiếng Chúa như rơi trong sa mạc. Lời Chúa chỉ triển nở trong nơi sâu đậm tình người. Từ đó, những đòi hỏi của Ðức Giêsu mới đạt tới cường độ như Chúa muốn.

 Ðòi hỏi môn đệ phải “từ bỏ hết những gì mình có” và cả “mạng sống mình”, Ðức Giêsu muốn họ thi hành sứ mạng giải thoát nhân loại. Phải chăng đó là một tính toán khôn ngoan? Dưới cái nhìn trần thế, hi sinh như vậy chỉ là ngu si và ngông cuồng. Nhưng “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người.” (1C 1:25) Huống nữa, sự khôn ngoan của Thiên Chúa là chính Ðức Giêsu (x. 1 C 24) còn lớn lao hơn gấp mấy ! Chính “nhờ Ðức Khôn Ngoan (đó) mà (loài người) được cứu độ” (Kn 9:18)!

 

47. Kính mến Chúa trên hết mọi sự – Cao Huy Hoàng

Vượt qua

Mỗi giây phút trong cuộc sống, có thể nói được là một cuộc vượt qua, liên tục những cuộc vượt qua, nối dài thành một cuộc vượt qua to lớn nhất đối với mỗi con người đó là vượt từ sự sống hữu hạn đến cuộc sống vô biên, vĩnh cửu. Vì, được sinh ra trên trần gian, là để vượt qua cái trần gian nầy mà trở về với nguồn cội duy nhất là Thiên Chúa. Nhưng để vượt qua được những lớp hàng rào cản dày đặc của những giá trị trần thế, và nhất là của chính cõi lòng mơ màng ảo tưởng của ta thì không dễ chút nào, bởi vì những giá trị ấy luôn có sức cuốn hút lạ kỳ đến nỗi ta kéo ta chùng xuống, giam hãm ta trong cõi hồng trần, làm cho ta nặng nề không thể cất cánh bay lên được, không thể vượt qua được.

Từ bỏ tiêu cực

Có thể nói một cách tiêu cực rằng: Dù cho mọi thụ tạo trên trần gian có giá trị đến đâu, có xinh đẹp và đầy quyến rũ đến đâu, có ý nghĩa đến đâu, kể cả thân xác mình…nếu ta cố bám víu lấy nó, nếu ta không buông bỏ nó, thì nó cũng đã bỏ ta trước. Không ai giữ được cho mình cái mình đang có cho đến ngàn thu, bởi vì tất cả những gì mình đang có đều có thời hạn của nó: thời hạn của sắc đẹp, thời hạn của sức khỏe, thời hạn của kinh tế tài sản vật chất và kể cả thời hạn của một hạnh phúc gia đình trần gian. Có thể mỗi người đếu đã có một trải nghiệm về sự phủ phàng của thời gian, của tình yêu, của tiền bạc và của tất cả những gì có thể gọi được là “không gì cả”. Vâng khái niệm hư không, và sự phũ phàng, bội ước của của cải vật chất thế gian trong cựu ước và của một vài tôn giáo mới chỉ dừng lại ở một mức tiêu cực: hãy buông bỏ tất cả, vì ta không buông bỏ nó, nó cũng rời xa ta; tất cả chỉ là phù vân.

Từ bỏ tích cực

Trong trang tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa chúng ta lên một tầm cao mới về tính tích cực của sự từ bỏ: Không đợi các giá trị trần thế bỏ ta, nhưng chính chúng ta phải từ bỏ những giá trị trần thế ấy trước khi sự phũ phàng xảy đến. Từ bỏ Cha Mẹ, vợ con… và cả mạng sống mình, không phải vì không có giá trị, không phải vì Cha Mẹ, vợ con và mạng sống mình là xác đất vật hèn hay hư nát, nhưng vì để dành trọn chính mình cho Thiên Chúa, và cho sứ vụ Ngài giao: Cứu rỗi mình và cứu rỗi nhân loại…. Tính tích cực của Tin Mừng cũng cho thấy tính triệt để dành cho người theo Chúa Kitô- một Thiên Chúa Ngôi Hai đã từ bỏ Ngôi Vị của mình là Thiên Chúa, để mặc lấy một con người thật, nhưng là người mẫu công chính của Thiên Chúa Cha trong Nước Thiên Chúa. Tôi không muốn hiểu là phải bỏ cha bỏ mẹ theo kiểu hiểu của lương dân Việt Nam đối với giáo lý công giáo, nhưng tôi muốn hiểu là nếu cha mẹ anh chị và các giá trị trần thế làm vật cản tôi đến với Chúa và đến với ơn cứu rỗi thì chắc chắn là tôi phải triệt để tuân hành luật từ bỏ của Chúa. Cũng vậy, luật từ bỏ đòi hỏi tôi luôn đứng trước một sự chọn lựa giữa Thiên Chúa, với trần gian; giữa ơn cứu rỗi với sự chết ngàn thu, giữa cái thiện và cái ác, giữa điều có lợi cho cái vĩnh cửu và cái vô bổ vô ích…

Từ bỏ là tỉnh thức trước nguy cơ li tán

Một sự lựa chọn sáng suốt không dễ dàng tí nào, nếu tôi không trọn vẹn lòng tin cậy mến dành cho Thiên Chúa dưới ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần.Tôi phải tỉnh táo luôn luôn trước nguy cơ li tán giữa tôi và Thiên Chúa, vì các giá trị trần gian luôn lôi kéo lòng tin cậy mến của tôi về phía chúng nó. Một cha xứ miền quê nọ than phiền rằng: có điện thật có hại, vì khi có điện, ai nấy lo sắm cho mình một cái ti vi, mà chương trình ti vi chiều nào cũng có những cuốn phim tình cảm dài nhiều tập hay đáo để được phát vào ngay giờ lễ. Thế là nhà thờ trở nên vắng người tham dự thánh lễ, may ra còn giữ được lễ ngày Chúa nhật. Có một lần ngồi với anh em phan sinh trước sân nhà xứ, nhìn lên mái nhà, tôi thấy một mạng nhện thật lớn, có cả năm bảy con con ve sầu nằm chết khô trong trung tâm mạng nhện. Tôi nghĩ đến tôi. Có thể tôi cũng đang là một trong những con ve sầu ấy. Con nhện trần gian cuốn tôi vào và giam tôi chết khô trong đó. Nó đã giăng bẫy tôi, bắt đầu bằng những sợi tơ rất mong manh, nhưng khi đã vướng vào chỉ cần một sợi tơ khó thấy ấy, là tôi có thể lạc vào cả một huyệt động không đường thoát thân. Tình cảnh con ve sầu tôi thật bi đát. Như vậy, từ bỏ triệt để phải được bắt đầu bằng việc cắt đứt ngay những sợi tơ ban sơ, nhỏ nhất, mong manh nhất, khó thấy nhất, dễ lầm tưởng nhất. Đôi khi tôi tự mâu thuẫn, khi có những quyết định thật hoành tráng, quyết định yêu mến và dâng hiến trọn vẹn cho Chúa chẳng hạn, mà không cắt đứt nỗi một sợi tơ đam mê. Tôi đang nói dối mà tôi vẫn không hề hay biết.

Từ bỏ là vác thập giá

Thập giá trở thành Thánh giá cứu rỗi tôi, chỉ khi nào tôi biết thu hồi niềm tin cậy mến mà tôi đã đặt trọn vẹn vào những giá trị trần thế, để đặt lại đúng chỗ niềm tin cậy mến của tôi vào Chúa Giêsu Kitô cứu thế. Tôi không ảo tưởng là tôi có thể vác thập giá của Chúa, hay thập giá của anh em, khi tôi chưa vác nổi thập giá của tôi, chính là sự chiến đấu và chiến thắng các cuốn hút của những giá trị trần thế. Chúa Giêsu biết điều răn thứ nhất của Thiên Chúa đã dạy: “Kính mến Chúa trên hết mọi sự” là một thách đố lớn cho con người của mọi thời đại, nên, thiết nghĩ, Thập giá mà Chúa muốn người theo Chúa phải vác trên vai, chính là sự chấp nhận buông bỏ cách dứt khoát, cách triệt để những cái không-là-gì-cả so với sự sống vĩnh cửu, sự sống và sự sống giàu sang dồi dào trong Thiên Chúa, với Thiên Chúa. Chấp nhận buông bỏ tất cả không lưu luyến, không tiếc nuối, để dành cho Thiên Chúa, đúng là một thập giá thật nặng nề cho con người. Nhưng khi đã chấp nhận buông bỏ được tất cả, thì thập giá ấy lại là niềm vinh dự và là phần thưởng cao quí cho ta: Sống cuộc sống vĩnh cửu ngay khi còn trong tình trạng hữu hạn. Buông bỏ, vác thập giá, ngay hôm nay chính là vượt qua trước cái tình trạng hư vong để tiến vào cung lòng Thiên Chúa hằng sống, hằng hữu, để được hằng sống và hằng hữu với Ngài.

Lời Chúa Giêsu dạy cho chúng ta hôm nay, tưởng như nghe chói tai, kỳ cục, và bất thường với đời sống gia đình xã hội, nhưng thật ra là lời mặc khải tình yêu tha thiết của Thiên Chúa Cha, muốn quy tụ tất cả vào trong tình yêu của Ngài.

Lạy Chúa, xin cho chúng con chỉ tôn thờ và kính mến một mình Chúa. Xin thu hồi lại niềm tin cậy mến mà chúng con đã đặt lung tung vào những giá trị phàm trần hữu hạn. Xin cho chúng con chu toàn điều răn thứ nhất quan trọng: ” Kính mến Chúa trên hết mọi sự”. Amen.

 

48. Từ bỏ.

Con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta biết điều kiện đó, là phải từ bỏ tất cả: của cải, cha mẹ, vợ con, anh chị em và chính bản thân mình. Đó là điều kiện gắt gao, cho nên cần phải tính toán, suy xét thật cẩn thận. Điều kiện này không phải Chúa chỉ nói với các môn đệ mà với tất cả đám đông đang nghe Chúa giảng dạy. Và như vậy đây là điều kiện cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong hoàn cảnh của nền văn minh vật chất hiện nay.

Trước hết, Chúa Giêsu cho biết: muốn đi theo Chúa, muốn làm môn đệ Chúa phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả chính bản thân cũng như vinh quang và của cải trần gian này. Đây là một đòi hỏi mang tính chất khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: Cũng như người muốn xây tháp hay xây nhà: trước khi xây phải tính toán cẩn thận: có xây hay không? Xây lúc này hay xây lúc khác? Xây ở đâu? Để làm gì? Rồi vấn đề tiền bạc, công thợ, vật liệu thế nào? Có giải quyết được những vấn đề đó mới nên khởi công, bằng không thì thôi. Thà đừng xây còn hơn là xây rồi mà bỏ dở dang. Cũng vậy, một ông vua hay một ông tướng sắp lâm trận, phải biết lượng sức mình, đánh giá đúng khả năng của mình: so đo lực lượng hai bên, phải biết tinh thần quân sĩ, phải nắm vững tình thế: thiên thời, địa lợi, nhân hòa… Có nắm vững được những yếu tố thuận lợi cho mình mới nên cất quân đi đánh giặc, bằng không phải tính toán cách khác, kẻo cất quân đi đánh mà bị thua thì vừa mất quân vừa thiệt hại.

Những người muốn đi theo Chúa cũng vậy, phải biết tính toán cẩn thận và chọn lựa dứt khoát. Tại sao vậy? Bởi vì con đường theo Chúa là con đường từ bỏ: từ bỏ hết, từ bỏ tất cả, từ bỏ hoàn toàn. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn xây tháp, xây nhà phải có tiền. Muốn thắng trận, phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết, nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Từ bỏ tất cả để theo Chúa, nghĩa là coi Chúa hơn tất cả mọi người, hơn tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa mà thôi.

Điều kiện này có khó quá không? Dĩ nhiên là khó. Nhưng không phải là không thực hiện được. Bằng chứng là các tông đồ Chúa kêu gọi, các ông mau mắn, dứt khoát đi theo Chúa, dù phải bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Tiếp theo các tông đồ, từ xưa cho đến nay, biết bao nhiêu người đã sống đời tận hiến, bước đi theo Chúa trong ơn gọi linh mục, tu sĩ, cống hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân… Có biết bao người đã sẵn sàng chịu đau khổ, thử thách và hy sinh cả mạng sống vì danh Chúa Kitô như các thánh tử đạo.

Nhưng đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, vợ con, nghề nghiệp để đi tu. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết từ bỏ mình. Từ bỏ mình không có nghĩa là hành hạ mình, nhưng là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu của ý chí, những lời nói cay chua của cơn tức giận, những tư tưởng kênh kiệu độc đoán của thái độ tự phụ bất chính. Nói khác đi, từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏ tham, sân, si. Tham là tính tham lam: tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau. Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác. Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa, còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong xấu xa, thối nát. Đối với nhà Phật, phải diệt tham lam, diệt sân nộ, diệt mê si. Diệt là dứt bỏ, dứt bỏ dần dần và rồi hủy bỏ dứt khoát. Đối với chúng ta là từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý thích ý muốn của mình khi điều đó trái với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm: sống là lựa chọn, mà lựa chọn tức là từ bỏ những cái mình không chọn. Thái độ từ bỏ và dứt khoát đó lại càng cần đối với việc chọn Chúa, chọn nước trời, chọn những việc đẹp lòng Chúa và làm chứng cho Chúa. Bấy lâu nay chúng ta có thái độ dứt khoát đó không hay chúng ta muốn ôm đồm tất cả và cũng tiếc rẻ tất cả? Bấy lâu nay có phải chúng ta đã theo Chúa để tìm lợi cá nhân, tiền bạc, danh vọng hoặc địa vị và một số những cái lỉnh kỉnh khác, chứ thực sự chưa có thái độ lựa chọn dứt khoát vì Chúa, vì tình thương, vì tình người, vì nước trời… có phải vậy không?

Trong xã hội chạy theo văn minh vật chất và thích hưởng thụ này, có những người giàu, có chức vị, có tiền của, có nhiều phương tiện, nhờ có tinh thần từ bỏ mình, quên mình, đã biết lợi dụng những cái đó để làm ích cho kẻ khác, để xây dựng công ích, để mở Nước Chúa. Trái lại, cũng trong hoàn cảnh như vậy, kẻ không có tinh thần từ bỏ, quên mình, thì đã lợi dụng của cải, tiền bạc, tự do, tiện nghi, để hưởng thụ cho chính bản thân mình, đã không làm lợi cho kẻ khác, cho Hội thánh, cho đồng bào, cho đất nước… Chúng ta vào số người nào?

Để từ bỏ được chính mình như thế, cần phải có thật nhiều ơn Chúa và một sự can đảm vô bờ. Vì khi từ bỏ là chúng ta sẽ cảm thấy như bị thua thiệt rất nhiều ở đời này. Vì thế, từ bỏ được mình, quên mình, nói thì dễ nhưng thực hành thì không dễ dàng, nếu không có ơn Chúa trợ giúp thì không ai có thể thực hành được. Cho nên, chúng ta phải cầu xin Chúa và cố gắng rất nhiều.

 

49. Cuộc xuất hành mới – Đỗ Lực, OP

Theo Tin Mừng Luca, chúng ta đồng hành với Ðức Kitô về Giêrusalem. Ðó là lúc Chúa hướng tới cuộc Khổ nạn và mầu nhiệm Vượt qua, tới cuộc “vượt qua” như đã nói trong trình thuật Hiển Dung: Ðức Kitô biến hình “đàm đạo với ông Môsê và Êlia về cuộc xuất hành chắc chắn sắp xảy ra tại Giêrusalem.” (x. Mt 17:1-8; Mc 9:2-8)

Chính trên chặng đường này, Ðức Giêsu đưa ra những lời khuyên rõ ràng cho những ai muốn theo Người: “Nếu ai muốn theo tôi…” (Lc 14:26-27) Những lời Chúa nói tuần này thực khó nghe ! Ðó là những lời khiến chúng ta phải “xuất hành,” nghĩa là phải dứt bỏ thế gian để được giải thoát và sống tự do, theo kiểu xuất hành khỏi Ai cập và thoát khỏi ách nô lệ xưa.

Vậy đâu là những lời Ðức Giêsu khuyên những người muốn theo Người?

LÊN ÐƯỜNG

Chắc chắn khi lên đường trốn khỏi Ai cập, dân Chúa đã phải bỏ lại tất cả sự nghiệp, của cải, nhà cửa, có khi cả người thân lại đằng sau. Nếu không nhẹ gánh, họ không thể lên đường nhắm thẳng tới Ðất Hứa. Muốn theo Ðức Kitô, người môn đệ cũng phải làm một cuộc xuất hành tương tự. Trước hết, họ phải dứt bỏ những mối liên hệ gia đình. Ðây là một cuộc dứt bỏ sâu xa nhất và khó khăn nhất. Cuộc dứt bỏ này không mang tính tiêu cực hay phủ nhận những giá trị căn bản của con người. Nhưng cuộc dứt bỏ này cần thiết như một khởi điểm giúp người môn đệ có thể hướng thẳng về Ðất Hứa. Không dứt bỏ gia đình, không thể tự do theo Chúa. Chỉ khi nào nhận ra Chúa là giá trị tuyệt đối, vượt trên mọi liên hệ gia đình, con người mới có thể hoàn toàn dồn hết tâm lực vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Quyết định làm môn đệ Chúa Kitô đòi hỏi một lựa chọn tuyệt đối, không khoan nhượng. Tin Mừng hôm nay mạnh mẽ nhắc lại điều đó. Ðề nghị của Chúa Giêsu không nhằm tách biệt những người thợ Nước Trời khỏi gia đình. Ðối với Ðức Giêsu, điều quan trọng là phải mở rộng tầm nhìn tới những chân trời rộng lớn hơn. Chính lúc yêu mến Chúa Kitô hơn cha mẹ, anh em, chúng ta có khả năng yêu mến họ một cách khác, yêu họ bằng một tình yêu vô vị lợi và sạch hết mọi dấu hiệu chiếm đoạt hay ích kỷ thường hay chi phối các mối liên hệ của chúng ta. Chọn Chúa Kitô là đáp trả lại lời mời gọi rất mạnh bạo, không cho ta trì hoãn một giây phút nào. Phải luôn cấp thiết đáp trả lại lời mời gọi của Tin Mừng. Trì hoãn chỉ xoi mòn hay làm hư con người, những khát vọng, đam mê, ơn gọi của mình.

Gia đình vẫn chưa phải là giá trị lớn nhất người môn đệ phải từ bỏ. Giá trị lớn nhất có lẽ là chính cái tôi của mình. Có thể tất cả mọi sự đều trở thành vô nghĩa trước cái tôi. Bởi thế, Chúa mới đòi hỏi gắt gao: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14:27) “Thập giá mình” lộ diện khi búa rìu dư luận xối xả bổ xuống đầu chúng ta. Một sớm một chiều tất cả thanh danh có thể tan ra mây khói. Làm sao chịu đựng nổi khi phải chịu “xỉ nhục” hay mất hết tiếng tăm vì Ðức Kitô, mà “không hổ thẹn vì Người”? Sống giữa xã hội Hồi giáo hay Âu Mỹ đang tục hóa, các Kitô hữu can đảm chừng nào mới có thể hy sinh theo Ðức Kitô ! Theo thánh Ghêgôriô, cứu cánh đời người là “làm cho mình nên giống Thiên Chúa.” Muốn thế, cần phải có “một cuộc hành trình lâu dài, một cam kết kiên định. Nhờ đó, tín hữu chiến đấu không ngừng để thực hành các nhân đức và đạt đến ân sủng lớn lao hơn. Ðó là một tiến trình “Thiên Chúa liên lỉ mở rộng những khả năng cho linh hồn.” ÐGH Bênêđictô nói, thánh Grêgôriô khuyên dạy các môn đệ noi gương Ðức Kitô “hình ảnh tuyệt hảo của Chúa Cha, là mẫu điển hình và là thày chúng ta.” [i] Khi tâm hồn có những khả năng vô giới hạn, thì cái tôi của mình không có lý do gì ngừng lại để tự mãn với chính mình.

Trong cuộc đời thường, ai không cần của cải để sống? Nhưng ở đây, Chúa đòi hỏi người môn đệ phải dứt khoát quyết liệt hơn, vì về một phương diện nào đó, của cải cản trở con đường loan báo Tin Mừng. Làm sao dồn tất cả chí thú vào của cải con người còn có thể gắn bó với Ðức Kitô? Làm sao đã coi tất cả của cải là phương tiện duy nhất bảo đảm cuộc sống, con người lại có thể hoàn toàn phó thác cho Chúa Kitô để trở thành môn đệ đích thực của Người? Nếu Ðức Kitô là tất cả, người ta không thể sở hữu hay chiếm hữu tất cả mà vẫn hướng về Người. Thực tế, có rất nhiều người đã hy sinh gia đình và bản thân, nhưng lại không thể bỏ của cải. Trái lại, họ còn sẵn sàng dùng mọi mưu kế lừa gạt và trù dập anh em để bước lên đài danh vọng. Chưa dứt khoát với của cải, làm sao có thể theo Chúa Kitô đi giải thoát nhân loại?

Muốn theo Ðức Kitô, cần phải biết Chúa dẫn mình tới đâu và phải có những điều kiện nào. Không từ bỏ tất cả, cuối cùng con đường sẽ dẫn tới ngõ cụt hay luẩn quẩn mãi với cái tôi của mình. Cuối cùng, nhìn lại chẳng thấy Chúa đâu, chỉ thấy mình mà thôi ! Bởi thế, phải tính toán thật kỹ, y như xây nhà và đánh trận vậy ! Xây nhà hay đánh trận, cả hai đều cần thiết cho cuộc sống. Cả hai đều cần có những tính toán rất cẩn thận. Nếu không, sẽ ảnh hưởng tới mọi người, từ trong gia đình đến ngoài xã hội.

Công cuộc xây dựng Nước Thiên Chúa còn lớn lao hơn. Một tay phải xây dựng. Một tay phải lo chiến đấu. Bởi thế, người môn đệ càng cần đến sự khôn ngoan Thiên Chúa. Sự khôn ngoan đó chính là Thánh Linh do Ðức Kitô trao ban. Chỉ Thánh Linh mới có thể ban cho chúng ta sự khôn ngoan sáng suốt và sức mạnh chu toàn sứ vụ. Thực thế, Thiên Chúa quan phòng để “con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.”(Kn 9:18) Nếu không, con người sẽ lạc hướng và đánh mất cứu cánh cuộc đời.

TỰ DO THEO CHÚA

Nhờ Thánh Linh, sau khi từ bỏ mọi sự, người môn đệ mới có thể tự do bay trên đường theo Chúa. Có tự do, con người mới có thể hy sinh đáp lại ơn gọi của Chúa một cách tự nguyện và vui tươi. Tự do là một hồng ân cao quý nhất của con người. Chính Tin Mừng đem lại tự do và ý nghĩa cho cuộc sống. Chính vì muốn bảo vệ tuyệt đối giá trị cao cả đó, Ðức Giêsu đã có những lời đinh tai nhức óc cho các môn đệ: “Nếu không ghét cha mẹ, vợ con, của cải và cả mạng sống, bạn không thể làm môn đệ tôi.” (Lc 14:26) Lý do, vì những thực tại này dễ dàng cầm chân môn đệ.

Giữa hoàn cảnh không ai thèm đếm xỉa hay vi phạm trật tự kinh tế, xã hội, pháp lý, chính trị, người môn đệ phải phấn đấu tới mức nào mới đủ khả năng giải thoát đồng loại? “Những hoàn cảnh mù quáng và bất công đó làm tổn thương đời sống đạo đức và làm cho những người khỏe mạnh cũng như đau yếu sa chước cám dỗ mà phạm tội nghịch đức bác ái. Khi sống xa luật đạo đức, con người xâm phạm tự do của mình, tự nhốt chính mình, phá vỡ tình đồng loại và chống lại chân lý Thiên Chúa.”[ii] Tất cả đều do bất công.

Không gì phi nhân và trái đạo đức bằng những hành vi bất công xã hội. Bởi đó, “đẩy xa bất công là cổ vũ tự do và phẩm giá con người: tuy nhiên, “việc phải làm trước tiên là kêu gọi cá nhân vận dụng khả năng tinh thần và đạo đức cũng như cần liên tục sám hối nội tâm, nếu người ta muốn thực hiện những thay đổi về kinh tế và xã hội để thực sự phục vụ con người.”[iii] Nói khác, tất cả mọi cải tổ đều bắt đầu từ nội tâm. Không xây trên nền tảng đạo đức, mọi tiến bộ đều trở thành vô nghĩa và vô ích.

Cái gì bảo đảm những tiến bộ hôm nay đem lại lợi ích sâu xa, thực tiễn và lâu dài cho nhân loại? Không theo hướng đạo đức, các tiến bộ khoa học chỉ nô lệ hóa và trở thành mối nguy cho nhân loại. Không phải nhân loại thiếu kỹ thuật hay nhân sự, nhưng thiếu chính linh hồn cho nền văn hóa và văn minh nhân loại hôm nay. Không đạo đức, tiến bộ đi đến chỗ phi nhân, cuồng loạn. Xã hội gồm toàn những con người cô đơn, bệnh hoạn. Bởi thế, “trong thời đại toàn cầu hóa, muốn ổn thỏa thống nhất toàn bộ, con người phải bảo vệ nhân quyền. ‘Về phương diện này, không những hình ảnh chưa được hoàn chỉnh về một công quyền quốc tế hiệu lực để phục vụ con người, nhưng thực tế còn nhiều do dự trong cộng đồng quốc tế về bổn phận phải tôn trọng và thực thi đầy đủ nhân quyền. Chúng ta đang chứng kiến một khoảng cách đáng lo ngại giữa một loạt những ‘quyền’ mới được cổ vũ trong các xã hội tân tiến – hệ quả sự phồn thịnh và kỹ thuật mới – và các quyền làm người cơ bản còn chưa đạt được trong hoàn cảnh kém phát triển.’”[iv] Nhân loại đang nỗ lực xây dựng một tòa nhà chọc trời, nhưng không lo chuẩn bị một ông chủ xứng đáng cho ngôi nhà đó. Kết quả rỗng tuếch.

Vì quá chú tâm làm giàu về mọi phương diện, con người quên mất hướng sống cần thiết cho cuộc đời. Ngược lại, vì muốn trang bị cho các môn đệ một khả năng giải thoát nhân loại, Chúa Giêsu kêu gọi từ bỏ mọi sự theo Người. Nếu không, lịch sử nhân loại sẽ đi đến chỗ bế tắc. Muốn tạo lập ý nghĩa và giá trị đích thực cho cuộc sống, con người phải tìm đến Người. Thực vậy, “Chúa Giêsu là nguyên mẫu và nền tảng của nhân loại mới. Trong Người, chúng ta thấy sung mãn “hình ảnh Thiên Chúa.” (2 Cr 4:4) Thiên Chúa đã làm sáng tỏ trên cây thập giá của Ðức Kitô tất cả chứng từ dứt khoát của tình yêu.

QUÊ HƯƠNG CHẮP CÁNH

Ngày nay quá nhiều chợ trời đang họp trên mạng. Giữa cảnh bát nháo đó, Tin Mừng rao giảng cho ai? Có ai còn nhớ Chúa Kitô không?! Người ta nhằm đích danh từng người anh em để hạ nhục và bôi nhọ. Làm như thể chỉ mình mới là người công chính, còn những kẻ khác đều phải ăn năn sám hối, vì không cùng lập trường với mình.

Nếu là môn đệ đích thực của Chúa Kitô, chúng ta phải đấm ngực mình trước tiên. Kêu gọi người khác sám hối theo chiều hướng mình, chứ chắc gì theo Chúa Kitô, người ta đã vô tình làm hại đến danh dự Giáo Hội và sỉ nhục thánh danh Chúa Giêsu. Người kêu gọi chúng ta theo Người, chứ không theo bất cứ ai, dù người đó có quyền chức cao sang và thánh thiện tới mấy.

Muốn theo Chúa Kitô, phải hoạt động tranh đấu cho nhân quyền. Thực vậy, “nơi Người lịch sử giữa Thiên Chúa và con người được hoàn thành. Nói khác, Ðức Giêsu bày tỏ rõ ràng và dứt khoát đường lối Thiên Chúa hành động cho con người, cả nam lẫn nữ,”[v] có đủ tư cách làm người. Thiên Chúa lo lắng cho từng người.

Trước tình trạng đất nước hôm nay, những người con của Mẹ Việt nam phải làm gì? Tới nay, tiếng Chúa vẫn vang lên: “Ai muốn theo tôi…”

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết từ bỏ mọi sự để tự do theo Chúa trên mọi nẻo đường. Amen.

————————————————-

[i] CWNews.com 05.09.

[ii] Giáo Lý Công Giáo, 1740

[iii] Hội Ðồng Giáo Lý Ðức tin, Giáo Huấn Libertatis Conscientia, 75: AAS 79, trích lại từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.

[iv] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 365.

[v] Ibid, số 28.

 

50. Từ bỏ.

Nếu có dịp đọc kỹ các sách Tin Mừng chúng ta thấy: Một trong những đòi hỏi dường như khó khăn nhất của Chúa Giêsu đối với những môn đệ hay những kẻ theo Ngài có lẽ là việc từ bỏ. Quả thật, từ bỏ một ít, hay từ bỏ những cái phụ thuộc bên ngoài xem ra còn dễ, nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đòi hỏi những ai theo Ngài không những phải từ bỏ những tình cảm sâu xa nhất, tình nghĩa ruột rà máu mủ, mà còn phải từ bỏ cả chính bản thân của mình: “Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể là môn đệ của Ta”. Chắc hẳn đây là một thách đố rất lớn và thật khó hiểu đối với mỗi người chúng ta, mặc dù chúng ta là những người đã dấn thân theo Đức Kitô. Thế thì chúng ta phải hiểu lời Chúa Giêsu nói hôm nay như thế nào?

Trước tiên, chúng ta thấy những lời Chúa Giêsu nói hôm nay được lồng vào cuộc hành trình lên Giêrusalem, và bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía đám đông cùng đi đường để dạy họ bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ Ngài.

Thật vậy, chỉ đến với Đức Giêsu thôi chưa đủ. Đi theo Ngài bao gồm phải chấp nhận để cho những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta: cách riêng trong phạm vi những mối liên hệ gia đình, và sử dụng của cải vật chất là đề tài quen thuộc của Luca. Ở đây, chúng ta sẽ nói tới “liên hệ gia đình”.

Về vấn đề này, Đức Giêsu tuyên bố không úp mở: Những ai đến với Ngài mà không ghét bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ngài. Ở đây, Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa là “ghét bỏ” để diễn tả một lối nói nguyên thủy bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là dứt bỏ, hay “thương ít hơn”. Như thế từ ghét bỏ ở đây không có nghĩa thù ghét, loại trừ như chúng ta quen dùng, nhưng ghét bỏ ở đây có nghĩa là “thương ít hơn”. Thánh Matthêu nói cách rõ ràng hơn: “Kẻ nào yêu cha mẹ, yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta”.

Như vậy tất cả những mối liên hệ của nhân loại dù chính đáng và thâm sâu đến đâu, ngay cả đến mạng sống con người đi nữa, đều phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức Kitô.

Hiểu như thế, chúng ta thấy việc từ bỏ để đi theo Đức Kitô không phải là gánh nặng, không phải là một sự liều lĩnh đến nỗi phải đi ngược lại với tình cảm tự nhiên vốn có nơi con người. Điều Đức Giêsu đòi hỏi ở đây là phải dành cho Người địa vị ưu tiên hàng đầu, ưu tiên số một, nghĩa là phải yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đòi hỏi của Đức Giêsu ở đây không cho phép chúng ta xem nhẹ những liên hệ gia đình, liên hệ giữa người với người, nhưng Ngài muốn kêu gọi mỗi người chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm đó xuyên qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa.

Như thế, trở lại với cuộc sống đời thường, mỗi người Kitô hữu chúng ta cần có thái độ như thế nào và tâm tình gì trước lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay?

Chúng ta biết rằng: Kitô hữu là những người đã chọn con đường bước theo Đức Giêsu, chấp nhận đi theo Ngài là chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường từ bỏ. Ngài đòi hỏi chúng ta đặt mọi sự dưới Ngài, yêu Ngài trên hết mọi sự, trên những người thân yêu, trên cả của cải, tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại và tương lai. Những điều này thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Kitô hữu là người phải sống từ bỏ như Đức Giêsu: “Ngài vốn là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế”. “Ngài đã vâng phục ý Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết ô nhục trên thánh giá: “Nếu có thể được thì xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”.

Ngoài ra khi nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có biết bao tấm gương khác đã đi trọn con đường từ bỏ này: một Phanxicô Assisi, một con người có thể nói được là sống trên nhung lụa, nhưng đã từ khước tất cả, cả ý định của người cha, và cuối cùng dám lột bỏ cả y phục của mình trả lại người cha để bước theo tiếng gọi của Đức Giêsu. Hay là như một Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, để theo đuổi lý tưởng tận hiến cho Đức Kitô, và cuối cùng đã trở thành một vị đại thánh của Giáo Hội. Gần và cận kề chúng ta hơn có lẽ phải nói tới vị anh hùng tử đạo Việt Nam, thánh Nguyễn Hy Mỹ, trước tòa án Nam Định, các quan dùng tình nghĩa vợ chồng con cái để làm lung lạc tình yêu ngài, nhưng vị tử đạo trả lời: “Vợ con tôi, tôi yêu thật, song tôi còn hy vọng sum họp với gia đình thân yêu trên thiên đàng”.

Tất cả mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây, chắc chắn mỗi người có hoàn cảnh riêng, khả năng riêng, và một sở thích riêng… không ai giống ai, nhưng mỗi người chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để dấn bước theo Ngài. Chắc chắn Chúa không đòi hỏi chúng ta làm gì vượt quá sức của chúng ta. Điều mà Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta hãy sống tốt giây phút hiện tại của đời mình trong tương quan với thế giới, và với mọi người xung quanh xuyên qua tình yêu của Ngài.

Cầu chúc tất cả anh chị em luôn sống trong tình yêu Chúa, và lấy Chúa làm đích điểm cho đời mình, để trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có thể thốt lên như lời của thánh tông đồ Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.

 

51. Điều kiện làm môn đệ Chúa Kitô

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, tuy ngắn, nhưng có một câu được lập lại ba lần: “thì không thể làm môn đệ tôi được”. Lời tuyên bố trên của Đức Giêsu hướng dẫn bài suy niệm của chúng ta hôm nay về những điều kiện phải có để trở thành môn đệ của Người.

“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa… Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Đây là một trong những đoạn Tin Mừng khó hiểu và khó nghe: làm thế nào để dung hòa được tình yêu bao la của Thiên Chúa với sự tàn nhẫn của đoạn văn vừa nghe mà chúng ta phải loan báo như một Tin Mừng? Làm thế nào để dung hòa được lòng nhân hậu của Đức Giêsu với những lời tuyên bố làm cho chúng ta liên tưởng đến một số đầu óc bè phái phải từ bỏ ý muốn riêng để nghe theo một cách mù quáng thủ lãnh của mình?

Để dung hòa những điều trên có vẻ mâu thuẫn, chúng ta cần phải hiểu thế nào là đi theo Đức Giêsu, để trở nên môn đệ Người. Câu tuyên bố của Đức Giêsu, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen, nhưng theo nghĩa bóng. Chúa không bảo chúng ta ích kỷ, coi thường cha mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em mình và bao điều tốt đẹp khác! Chúa cũng không muốn chúng ta chểnh mảnh bổn phận đối với gia đình và xã hội. Chính Đức Giêsu đã nhắc lại điều răn thứ bốn Thiên Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ” (Mt 15:4).

Từ bỏ mọi sự để theo Chúa không có nghĩa là từ bỏ hạnh phúc của mình. Chúa muốn những ai theo Người phải biết đặt bậc thang giá trị trong tình yêu: yêu Chúa trước nhất, rồi sau đó mới đến các tình yêu khác; tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa phải là nguồn mạch các liên hệ tình cảm khác. Một khi đã gắn bó mật thiết với Chúa Kitô thì hẳn nhiên chúng ta sẽ có một thái độ khác đối với các liên hệ gia đình, bạn bè và xã hội, đối với của cải vật chất và đối với chính mạnh sống của mình.

Hai dụ ngôn “xây cây tháp” và “cuộc giao chiến” cho chúng ta biết thế nào là dấn thân theo Chúa Kitô. Không ai khởi sự xây nhà nếu biết mình không đủ vật liệu để hoàn tất. Một ông vua không nên đi giao chiến nếu biết quân địch đông và mạnh gấp đôi quân của mình. Đời sống Kitô hữu giống như một cuộc xây dựng phải hoàn thành, và đồng thời giống như một cuộc giao chiến trường kỳ. Hai công việc khó khăn nhưng rất quan trọng nầy đòi hỏi sự suy nghĩ chín chắn và kiên trì.

Chúng ta thường làm tổng kết cuối năm, biết tính toán và dự kiến cho những công việc loài người, nhưng chúng ta có biết thỉnh thoảng ngồi lại một mình hoặc với người khác, để suy nghĩ, kiểm điểm đời sống đạo đức, để phân định được những hành động của mình có đúng với giáo huấn của Chúa Kitô hay không? Đó là mục đích của các cuộc tỉnh tâm (Linh thao, Cursillo, v…v…).

Tùy theo ơn gọi riêng của mỗi người, tất cả chúng ta đều được kêu mời bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ Người, vì chỉ có Người mới có thể đem lại niềm vuui, bình an và hạnh phúc thật sự.

 

52. Từ chối – Lm. Vũ Đình Tường

Kinh nghiệm bị từ chối ai cũng có. Ai cũng có lần bị từ chối và cũng có lần từ chối người khác. Ta vừa là nạn nhân vừa là người gây tổn thương cho người khác. Dù là gì chăng nữa thì cũng có lí do biện hộ cho hành động của mình. Khi bị chối từ như thế nhẹ nhàng thì bỏ qua rồi quên bẵng trong chốt lát; nặng thì để nó đeo sau lưng thời gian ngắn và nặng nhất là ôm ấp ủ nó trong lòng. Sung sướng gì khi phải ôm đá tảng trong lòng, ngày đêm sầu khổ. Điều rõ ràng từ chối hay bị từ chối là một thực tế trong cuộc sống, không ai tránh khỏi. Đau buồn do bị từ chối gây nên là điều không thể tránh. Có khác chăng là người đau buồn nhiều và dai dẳng hơn trong khi lại có người đau buồn ít và cũng để cho cho qua mau hơn. Người để cho đau buồn đến và đi nhanh là người có tinh thần cởi mở và khiêm nhường. Chính cởi mở và khiêm nhường giúp học biết đau thương vì bị từ chối có giá trị tích cực riêng của nó. Khi nhận biết giá trị tích cực của từ chối là biết đón nhận điều lợi ích cho bản thân. Người đó dùng kinh nghiệm trên để xét mình, tự tìm hiểu và sát hạch chính mình từ đó rút ra kinh nghiệm riêng biệt, làm giầu gia tài kinh nghiệm thực tế, sống động cho tương lai. Trái lại, không chấp nhận chỉ trích, từ chối là tự làm cho vấn đề trầm trọng hơn và từ những suy nghĩ trong đầu làm cho vấn đề đáng chán ghét trở nên kinh tởm hơn.

Kinh nghiệm của những kẻ mong trả đũa cho thấy họ đau khổ, mất bình an. Phúc âm thuật lại Đức Kitô sai các sứ giả của Ngài đi loan báo tin Ngài đến làng của người Samaritanô. Khi nghe tin này dân làng không muốn đón tiếp các sứ giả tỏ thái độ bực dọc vì bị từ chối. Để trả đũa cho sự việc các ông xin cho lửa trời xuống thiêu rụi, giết chất dân trong thành. Trước thái độ hằn học trả đũa của các sứ giả Đức Kitô đã nghiêm cấm các ông không được hành động lỗ mãng đồng thời Thầy trò đi sang làng khác Lk 9,54

Điều may mắn người được sai đi không phải là các môn đệ mà là những sứ giả. Những vị này đã tin theo Đức Kitô, nghe Ngài giảng dậy, mong trở thành môn đệ chân chính. Tin và theo Đức Kitô chưa đủ biến các ông thành người môn đệ chân chính bởi vì tin và theo chưa biến đổi tâm hồn và trái tim các ông. Người môn đệ chân chính là người cần có tâm tình của Đức Kitô, cần có trái tim của Đức Kitô. Khi nào có được trái tim sẵn sàng tha thứ, yêu thương mới là môn đệ thực thụ, ngoài ra thì còn phải học rất nhiều.

Để giúp các ông tránh khỏi nơi thị phi Thầy trò lánh sang làng khác. Bước khỏi nơi thị phi thì hoàn cảnh và vật cảnh chung quanh thay đổi dẫn đến thay đổi tâm tình. Ra khỏi chốn thị phi chỉ là cách giải quyết tức thời. Để giải quyết vấn đề tận gốc rễ Đức Kitô giáo huấn các ông nếu người ta từ chối đón nhận thì đi nơi khác, không cần phải tức tối, bực dọc. Thực tế cuộc đời là thế luôn có người từ chối lại cũng luôn có người đón nhận. Tìm chưa đúng nơi, đúng chỗ, đúng người thì không cần bực dọc.

Chính Đức Kitô cũng có nhiều kinh nghiệm bị từ chối. Phúc âm hôm nay cho thấy cả ba người muốn đi theo Ngài nhưng cả ba đều có những lí do riêng và điều kiện kèm theo. Đức Kitô không chấp nhận điều kiện kèm theo cho việc phục vụ Tin Mừng. Bao lâu ngưòi ta chưa coi việc rao giảng Tin Mừng quan trọng hơn tất cả mọi sự thì việc đi theo vẫn là nửa vời. Để được tâm tình ưu tiên rao giảng Tin Mừng việc đầu tiên là cần bỏ chính mình, ý riêng mình và lối sống quen thuộc, thay vào đó là tâm tình cởi mở, khiêm nhường, dấn thân, tha thứ và học nơi Đức Kitô. Không cần học nơi ai khác.

 

53. Đồ bỏ – Lm. Vũ Đình Tường

Chúng ta sống trong thời đại tạm gọi gọi là phí của bởi vì các hãng sản xuất chủ trương làm sản phẩm có giới hạn thời gian. Sau thời gian ấn định máy móc tự nó hư hỏng. Mua được bộ phận thay thế đã khó, tiền công sửa tốn gần bằng mua máy mới vì thế thảy nó vào thùng rác là khôn hơn cả. Những quốc gia tiên tiến trở thành những thùng rác lớn. Người ta sống trong bãi rác, trên bãi rác vì nhà nào cũng có thùng rác lớn nhỏ trong nhà, ngoài ngõ.

Có lẽ xài xong rồi dục xuất phát từ những nhà thời trang. Mùa đông bắt đầu người ta chuẩn bị quảng cáo bán đồ mùa hè và cứ thế nối tiếp nhau hết mùa này sang mùa khác. Cạnh tranh thương mại, sản phẩm rẻ, hàng hoá trưng bày bắt mắt là một cám dỗ lớn với người có khả năng mua sắm. Cám dỗ lớn hơn nữa là cách chưng diện trên người, dấu chỉ của người theo kịp thời đại. Người ta nhìn nhau, định giá trị con người bằng những thứ chưng diện trên người. Hàng hoá mới có mặt trên thị trường bao giờ cũng đắt đỏ. Người có khả năng quàng nó lên người trước thiên hạ ngấm ngầm hãnh diện. Họ là những người đáng thương đói khát lời khen, tâng bốc của người khác. Dấu chỉ của một nội tâm yếu kém.

Mua sắm trở thành nhu cầu của một vài giới và vì mua nhiều nên cần phải thải bớt dành chỗ cho đồ mới mua. Đồ bỏ không phải là hư hay dở mà là lỗi thời nên cần loại bỏ. Chạy theo thời trang trở thành lối sống mới và lối sống đó ảnh hưởng nhiều đến đời sống tâm linh. Canh tân nhà cửa bằng cách dục bỏ đồ cũ trong nhà và thay bằng những thứ mới. Nhiều nhà ngày nay coi treo hình tượng ảnh Chúa và các thánh là lỗi thời. Gia đình không có dấu chỉ đức tin hay biểu tượng đức tin quanh nhà. Bên ngoài như thế đời sống nội tâm cũng không kém. Từ bỏ nhà thờ, từ bỏ kinh sáng tối và thay vào đó là những chương trình vui nhộn khác. Nghèo khổ, đói khát tâm linh nên chạy theo những xu nịnh, lời khen, nịnh hót bên ngoài mà muốn có những điều đó thì cần phải khoe ra để người biết mà ca tụng.

Có người cho rằng đức tin Kitô giáo là sản phẩm của khối óc. Mà là sản phẩm nên có lúc hết hạn, hết thời nên cần phải bỏ. Đức tin Kitô giáo được coi là hàng thời trang. Thời trang nào cũng có thời, thích hợp cho một số nên bỏ khi không còn cảm thấy thích hợp. Đức tin Kitô giáo trở thành thứ yếu khi người ta quá chú trọng bề ngoài, coi thường, lơ là nhu cầu tâm linh. Đức tin Kitô giáo là sản phẩm của khối óc. Đây không phải là óc của nhân loại mà là óc của Con Thiên Chúa giáng trần. Đó là sản phẩm của tình yêu Thiên Chúa. Một tình yêu vị tha, không vị lợi có giá trị bất biến, có giá trị đời đời. Đức tin Kitô giáo không phải là thời trang mà là nhu cầu của tâm tinh, giúp sống an vui, hạnh phúc. Tâm hồn an vui tìm bình an nội tâm mà không quá chú trọng đến vật chất bề ngoài, lời khen chê, bình phẩm.

Đức Kitô nhắc nhở chúng ta cần loại bỏ, vất vào thùng rác những gì nguy hại cho đức tin. Không dính bén đến những gì cản trở mến Chúa, yêu người. Cần loại bỏ ngay người hay những vật mình yêu mến nếu chúng ngăn cản ta đến với Chúa. Điều căn bản cần giữ là tình yêu Chúa thể hiện qua đức ái. Hãy mặc lấy tâm tình yêu thương nơi Thiên Chúa và làm cho tình yêu đó sống động mãnh liệt trong cuộc sống qua. Chân lí thực và lợi ích tích cực đức tin mang lại giúp ta sống an vui, tự tại.

 

54. Xiềng xích.

Dostoyevsky chỉ mới 20 tuổi khi ông viết cuốn sách đầu tiên nhan đề Người Nghèo. Cuốn này đạt được thành công lớn. Ông đã mau chóng trở thành nổi tiếng. Sự tâng bốc này có thể dẽ dàng làm ông trở nên ngông cuồng nhưng cũng do sự kiện ấy, không bao lâu sau, ông đụng chạm với chính quyền. Bị buộc tội một cách sai lầm là một người vô chính phủ, ông bị bắt giữ và cùng mấy người khác bị kết án tử hình. Tuy nhiên, bản án giảm xuống thành án tù và cùng với các bạn, ông bị đày đến Xibêri. Dostoyevsky trải qua bốn năm lạnh lẽo ở đó. Mười năm trôi qua trước khi ông cầm bút trở lại.

Kinh nghiệm ấy, thay vì làm ông cay cú và tàn phá đời ông, đã làm ông phong phú rất nhiều. Giờ đây, ông đã có mười năm đau khổ để rút tỉa sức mạnh và quyền bính cao cả. Bất cứ lúc nào có người đến gặp ông và nói: “Ông lấy quyền gì để nói thay cho dân chúng?” Thì ông chỉ việc kéo ống quần cao lên và chỉ cho người ta thấy những vết sẹo mà xiềng xích còn để lại. “Đây là quyền của tôi” ông nói. Và những người đã hỏi ông phải im lặng.

Đối với những người tỏ vẻ ái ngại về mọi đau khổ mà ông đã chịu đựng, ông nói “Nhà tù đã cứu tôi. Vì có nhà tù, tôi đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Xibêri và sự giam giữ đã trở thành một niềm vui to lớn đối với tôi. Chỉ ở đó, tôi mới có thể sống một đời sống thanh khiết và hạnh phúc. Chỉ ở đó, tôi mới nhìn thấy mình rõ ràng và đó là nơi tôi học biết Đức Kitô. Đó là một trường học tốt. Nó làm đức tin tôi mạnh mẽ và làm tỉnh thức lòng yêu thương những người phải chịu đau khổ với lòng nhẫn nại. Nó cũng làm mạnh mẽ tình yêu của tôi đối với nước Nga, và mở mắt tôi để tôi thấy những phẩm chất cao cả của dân tộc Nga”.

Phaolô cũng khoe mình về lòng tin của một môn đệ Đức Kitô. Ông cũng bị giam cầm và buộc phải mang xiềng xích (Bài đọc 2). Điều này đã cho ông quyền bính khi ông nói về việc đi theo làm môn đệ Đức Kitô.

Khi các thanh niên đến gặp mẹ Têrêxa và bày tỏ ước muốn gia nhập cộng đoàn, mẹ không giấu giếm những việc mà họ sẽ phải tham gia. Mẹ nói: “Công việc của chúng tôi rất nặng nhọc. Chúng tôi phục vụ người nghèo và người không nhà hai mươi bốn giờ mỗi ngày”.

Cùng một cách ấy, Đức Giêsu đã không giấu giếm những khó khăn, gian khổ và hy sinh mà Người đòi hỏi nơi những ai đi theo Người. Bằng những lời lẽ rõ ràng. Người nói với họ rằng công việc đó không dễ dàng gì. Vì thế sau này họ không thể than phiền: “Ôi, chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng nó lại như thế này”.

Có cái gì đó giống như lòng can đảm của người mù. Nhưng Đức Giêsu không biện hộ cho điều đó. Thật vậy, Người làm cho người ta nản lòng. Người nói, khi đi theo Người phải suy xét với lương tri, với sự thận trọng, tính toán cái giá phải trả, nhận định xem mình có thể đảm nhận được việc gì.

Việc quan trọng nhất khi bắt đầu là tự biết mình. Chúng ta không thể đảm nhận công việc vượt quá khả năng của mình. Dĩ nhiên, chúng ta không biết trước mình có khả năng gì. Chúng ta có thể đánh giá cao hoặc đánh giá thấp chính mình. Và chúng ta cần có thách đố để điều tốt nhất trong chúng ta xuất hiện.

Chúng ta có thể rút ra từ gương sáng của các tông đồ một sự khích lệ. Tin Mừng cho chúng ta thấy họ phải chiến đấu ở mọi điểm để tin theo Đức Giêsu. Tuy nhiên, Người không loại bỏ họ. Và rõ ràng họ đã học hỏi từ những sự thất bại của họ. Chỉ sau khi Đức Giêsu từ sự chết sống lại, họ mới thật sự là những môn đệ của Người.

Khi nhìn vào các tông đồ, chúng ta khám phá sự bất toàn của chúng ta. Tin Mừng ban niềm hy vọng cho những Kitô hữu thất bại. Sự sám hối và một cơ may thứ hai luôn luôn có thể có. Đức Giêsu bằng ân sủng của Người, Người luôn luôn quảng đại với những người cố gắng đáp lại lời kêu gọi của Người.

 

55. Môn đệ Đức Giêsu- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Ai cũng được mời gọi trở thành môn đệ Đức Giêsu, nhưng không phải ai cũng là môn đệ Ngài. Để trở thành môn đệ của Chúa, phải chọn Thiên Chúa và từ bỏ những gì trái với Ngài.

Từ bỏ chính mình

Đám đông đi theo Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả là môn đệ của Ngài: “nếu ai đi theo tôi mà không từ bỏ chính mình, thì không thể theo tôi được”.

Từ bỏ chính mình, là cách nói khác của thái độ chọn Chúa trên tất cả. Không có sự trái nghịch giữa giữa việc đi theo Chúa và đạo hiếu, vì giới răn thứ tư Chúa dạy: “thảo kính cha mẹ”; nhưng giả như cha mẹ hay bất kỳ ai đó có những đòi hỏi trái với luật Chúa, thì phải chọn Thiên Chúa trên tất cả. Thiên Chúa không muốn con người phải chết, nhưng muốn con người được sống và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; nhưng giả như có trường hợp phải chọn giữa Thiên Chúa và mạng sống mình, chẳng hạn như trường hợp bách hại đạo, thì phải chọn Thiên Chúa trên cả mạng sống mình.

Chọn Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả. Chọn Chúa, là yêu thương cha mẹ thật sự, là giữ đạo hiếu tuyệt hảo. Thí dụ, cha mẹ của một ai đó ép con mình lấy người nó không yêu không thương; thì theo đạo hiếu “thiển cận”, người con phải vâng lời lấy người cha mẹ muốn; nhưng nếu chỉ một thời gian ngắn sau cha mẹ người đó chết mà người con phải sống khổ cả đời vì đã vâng lời cha mẹ lấy người mình không thương yêu, thì nếu cha mẹ người đó biết con mình không sống hạnh phúc, chắc cha mẹ đã không ép con mình làm như vậy; nên trong trường hợp này không làm theo ý cha mẹ, là có hiếu hơn nghe theo lời cha mẹ. Nói như vậy, không có nghĩa là coi thường ý kiến của cha mẹ về vấn đề hôn nhân cho con cái. Con cái phải trân trọng ý kiến của cha mẹ, vì thường cha mẹ chỉ muốn cho con cái mình hạnh phúc; nhưng giả như có trường hợp khác, thì phải chọn Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn tôi làm điều đúng, và Ngài muốn tôi sống hạnh phúc.

Chấp nhận chính mình

“Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi”. Con người, ai cũng có những giới hạn.

Chẳng hạn, một người không được thông mình như chúng bạn mình, một người không đẹp như bạn mình, một người có một tật nào đó về thể lý hoặc tinh thần. Nếu con người không chấp nhận chính mình, luôn càm ràm Thiên Chúa “tại sao Chúa dựng nên con xấu như vậy, tại sao con lại không được thông mình bằng người khác, tại sao răng của con như vậy, tại sao mắt của con như vậy,…”, muốn làm “tài khôn” cho Chúa, thì người đó không thể làm môn đệ của Chúa được. Chấp nhận con người mình, chấp nhận những giới hạn của mình, đó là vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu. Chấp nhận con người mình như mình là, đã là vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày rồi. Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (2 Cor.12, 7-9).

Chấp nhận chính mình, là chấp nhận để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên mình. Đó là thái độ cần thiết để một người có thể sống hạnh phúc trên trần gian này. Nếu ai không hài lòng với chính mình, không nhận ra được gì hay nơi con người mình để tạ ơn Chúa, thì thật bất hạnh cho người đó.

Chấp nhận tha nhân trong yêu thương

Thiên Chúa là nhất đối với Phaolô. Con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa và đối với con người. Trở nên con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, là một hồng ân vô cùng lớn mà không gì có thể so sánh và mua được.

Onesimus, người nô lệ của Philemon đã được ơn trở lại qua Phaolô. Phaolô chấp nhận Onesimus như một người với tất cả giá trị của con người, cho dù người đời có phân biệt nô lệ và tự do. Phaolô mời gọi Philemon, người môn đệ của mình, nhận ra và chấp nhận phẩm giá của Onesimus, và đối xử với Onesimus, người nô lệ của mình, như người anh em trong Chúa. Để làm được điều này, Philemon phải chọn Chúa trên hết, coi trọng người tông đồ đã rao giảng Lời Chúa cho mình, đặt nhẹ lợi lộc trần gian, và nhận ra giá trị đích thực của con người không tựa vào nô lệ hay tự do theo kiểu trần thế.

Chọn Thiên Chúa trên tất cả, chấp nhận con người của mình như mình là, từ bỏ tất cả thậm chí cả bản thân mình, là điều kiện của người môn đệ Đức Giêsu. Xin cho chúng ta được ơn trở thành môn đệ Đức Giêsu trong cuộc sống.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Có sự xung đột giữa những bổn phận đối với Thiên Chúa, cha mẹ và vợ chồng không? Xin bạn cho thí dụ và chia sẻ cái nhìn của bạn?
  2. Bạn có đồng ý với quan điểm “chọn Thiên Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả” không? Đâu là quan điểm của bạn?
  3. Liệu con người có thể từ bỏ chính mình được không? Tại sao?

 

56. Đường dễ đi là ngõ cụt.

Chúng ta thường gặp thấy người khác và cả chính chúng ta vẫn thường tìm cách để làm việc sao cho dễ dàng. Ở tại thành phố Honolulu, ở tiểu bang Hawaii, nếu các bạn đi xa lộ Pali, và đi cho đến đèo Pali, và rẽ vào con đường Park, đi thêm một chút nữa, các bạn sẽ gặp con đường với cái tên là Easy Street. Thế nhưng, nếu bạn đi thêm một tí nữa sẽ là ngõ cụt.

Trong bài Phúc Âm hôm nay cũng như ở nhiều chỗ khác, Chúa Giêsu cảnh cáo với chúng ta rằng nếu chúng ta đi tìm con đường dễ dàng để theo Ngài thì chúng ta sẽ bắt gặp ngõ cụt. Nếu chúng ta muốn theo Ngài, chúng ta phải vác thánh giá mình hằng ngày. Nếu chúng ta muốn làm môn đệ Ngài, Chúa Giêsu nói rằng chúng ta phải biết trước cái giá phải trả (Lc 14:27-28).

Khi một người thanh niên và thiếu nữ đứng trước bàn thờ để tuyên lời thề hứa hôn nhân, họ đồng ý là sẽ chung sống yêu thương nhau suốt đời. Họ thề hứa là sẽ yêu nhau cho đến chết. Nếu đó là một cuộc hôn nhân tốt thì cả hai sẽ nên một và mối tình của họ sẽ khắng khít với nhau mãi. Tuy nhiên, thường xảy ra là sau những tuần trăng mật, thì là những chuỗi ngày buồn chán. Cả hai bắt đầu nhận ra rằng sống chết với nhau phải trả một cái giá rất đắt.

Một đứa bé đi nhà thờ với mẹ của nó. Hôm đó, vị giảng thuyết hùng hồn nhắc đi nhắc lại một đề tài đó là “Thế nào là một người Kitô hữu?” Mỗi lần nhắc đến câu này là tay ông vung lên và đập xuống giảng đài. Thằng bé thấy vậy run run thì thầm hỏi mẹ nó, “Mẹ ơi, mẹ có biết câu trả lời không?” Mẹ nói trả lời, “Biết chứ, nhưng giữ thinh lặng đi con.” Sau đó một vài phút, vị giảng thuyết lại hùng hồn cất tiếng và vung tay lên và đập xuống giảng đài, thằng bé sợ quá, liền la lên, “Nói cho ổng biết đi mẹ ơi, nói cho ổng biết đi!”

Thế nào là một người Kitô hữu? Chúng ta có thể trả lời là một người đã được rửa tội trong đức tin; người tin một Chúa tạo dựng nên trời đất; người tin rằng Thiên Chúa yêu thương con người quá đỗi và đã ban Con Một Mình để cứu chuộc; Kitô hữu là một phần tử của cộng đoàn dân Chúa tụ họp để cầu nguyện nhân danh Chúa Kitô để ngợi khen, cảm tạ, chúc tụng, cầu xin Chúa; Kitô hữu là một người tin rằng qua sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa ban cho dân Ngài quyền năng và sức mạnh và giáo huấn để họ có thể nhận biết Ngài.

Đó là một danh sách không diễn tả hết nổi câu hỏi thế nào là một Kitô hữu, nhưng ít ra nó cũng cho chúng ta nhận ra mối liên hệ giữa ta với Chúa Kitô theo nghĩa của tuần trăng mật. Tiếp theo sau đó, người Kitô hữu phải biết rằng họ phải trả một cái giá rất cao để vâng lời của Chúa Giêsu truyền dạy, “Yêu thương kẻ thù!” (Gn 15:12).

Chúa Nhật này đến Chúa Nhật khác, chúng ta tụ họp lại nơi đây để trả lời cho câu hỏi, “Thế nào là một Kitô hữu?” Chúa Nhật này đến Chúa Nhật khác, nhiều người chúng ta đến đây để liếc nhìn Sự Sống mới của Chúa Kitô, mà không mấy tích cực đi sâu vào. Thật là một điều đáng tiếc cho chúng ta khi nhìn thấy những cái tuyệt hảo như thế mà lại không biết đón nhận và làm cho cuộc sống của mình thêm phong phú.

Chúa Giêsu đã phán rằng nếu chúng ta muốn Sự Sống Mới thì chúng ta phải biết yêu thương nhau. Điều đó chẳng hệ chi nếu chúng ta yêu thương những kẻ đáng yêu. Tuy nhiên, khi chúng ta phải đối diện với những áp lực nặng nề là yêu thương kẻ không đáng yêu, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ mình, tha thứ cho kẻ thù mình, thì chính là lúc mà tuần trăng mật đã chấm dứt. Đó chính là lúc mà chúng ta phải trả cái giá vác thánh giá và từ bỏ chính mình để theo Chúa Giêsu.

Có lẽ các bạn mong muốn nhìn lại cuộc đời mình trong quá khứ, hoặc nhìn về tương lai để xem mình đang đi đâu. Tuy nhiên, nếu các bạn còn chưa nhìn vào giây phút hiện tại, nếu các bạn thấy mình còn chưa có vác thánh giá và yêu thương kẻ thù mình, thì các bạn chưa bắt đầu sống sống đời Kitô hữu.

Nếu các bạn thật sự muốn cho mối liên hệ của mình với Chúa Kitô được mật thiết, sâu xa hơn, thì các bạn hãy nghĩ đến một người nào đó mà các bạn không ưa thích và làm một điều gì tốt cho người đó. Tuần tới khi các bạn đến đây, các bạn hãy báo cáo cho Chúa Giêsu biết kết quả. Khi kể lại bản báo cáo đó, bạn hãy chia sẻ với Ngài niềm vui được thoát khỏi con đường ngõ cụt.

 

57. Vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu- JKN.

Câu hỏi gợi ý:

  1. Muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ tất cả (kể cả cha mẹ, và những người thân yêu nhất). Từ bỏ như thế thì làm sao sống được trên đời? Làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình vô nghĩa? Cần phải hiểu hai chữ “từ bỏ” theo nghĩa nào?
  2. Tại sao Đức Giêsu lại yêu cầu những người theo Ngài phải lượng sức mình: có từ bỏ tất cả mọi sự được thì hãy theo, không thì thôi?
  3. Không lượng sức mình mà cứ theo Chúa, thì đã sao? Có tai hại gì đâu? Khối người theo Chúa có phải từ bỏ gì đâu, họ còn được thêm là đằng khác?

Suy tư gợi ý:

  1. Muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ tất cả

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói lên một cách quả quyết, rõ ràng và dứt khoát là: muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng từ bỏ tất cả: người, vật, ý riêng, thậm chí những người thân yêu nhất như cha mẹ, vợ con, và ngay cả bản thân hay mạng sống mình nữa. Sự rõ ràng và dứt khoát ấy trở nên rất rõ nét nhờ hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và một ông vua muốn chiến đấu. Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không, kẻo đang xây dở dang mà hết tiền, thì sẽ không có nhà ở! Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý định theo Chúa, thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể từ bỏ được như Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau đó bị dở dang “thầy không ra thầy, thợ không ra thợ”, lỡ việc, lỡ cả cuộc đời, và có thể lỡ cả đời sau.

  1. Cần phải hiểu “từ bỏ” theo hai nghĩa

Khi Đức Giêsu đòi hỏi những người theo Ngài phải từ bỏ, điều ấy không có nghĩa là những kẻ theo Ngài luôn luôn phải rời xa cha mẹ, vợ con, và sống như người không có gì. Hiểu theo nghĩa đen như thế không hẳn là sai, nhưng chỉ đúng với ơn gọi của một số ít người. Từ bỏ ở đây nên hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Nghĩa là người theo Chúa cần phải có tinh thần từ bỏ. Có tinh thần từ bỏ là luôn luôn coi Chúa và những việc của Chúa là quan trọng hơn tất cả mọi sự khác, nên sẵn sàng hy sinh những cái không quan trọng cho cái quan trọng khi thực tế đòi buộc như vậy. Từ bỏ không phải là không quí những điều mình từ bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quí nhỏ cho cái quí to. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn… đều là những thứ mà người theo Chúa phải quí trọng, thậm chí rất quí, nhưng đối với người theo Chúa, thì phải coi tất cả những thứ đáng quí ấy không quí bằng việc thực hiện Nước Thiên Chúa.

Và khi đã có tinh thần từ bỏ, thì tinh thần ấy sẽ được thể hiện thành hay hành động từ bỏ. Nếu những hành động từ bỏ không phát xuất từ tinh thần từ bỏ thì không có giá trị lắm. Tuy nhiên, nếu tinh thần từ bỏ mà không được thể hiện thành những hành động từ bỏ cụ thể, thì chắc chắn đó không phải là tinh thần từ bỏ đích thực.

  1. Phải lượng sức mình khi theo Chúa

Có thể Chúa không đòi hỏi tất cả mọi người phải có tinh thần từ bỏ như thế. Nhưng Ngài đòi hỏi những ai theo Ngài phải có tinh thần ấy. Vì thế, trong hai dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa yêu cầu những ai theo Ngài phải lượng sức mình xem mình có thể có được tinh thần từ bỏ như vậy không. Nếu không có, thì đừng theo Ngài, Ngài không trách phạt những người bình thường nếu họ không có tinh thần ấy. Nhưng Ngài sẽ trách phạt những ai theo Ngài mà lại không có tinh thần từ bỏ ấy. Chính vì thế, mà cần phải lượng sức mình kẻo có hại cho sự phát triển hay vinh quang của Nước Chúa, đồng thời cho chính bản thân mình.

Rất tiếc là tinh thần từ bỏ này chưa được đặt nặng đúng mức nơi những người mang danh là theo Chúa. Trong nhiều Giáo Hội địa phương, những người mang danh theo Chúa lại được nhiều đặc quyền đặc lợi hơn những người bình thường (được hết sức kính trọng vì danh nghĩa là người theo Chúa chứ không vì tài đức bản thân, dễ dàng có quyền hành, địa vị, chức tước, tiền bạc hơn người bình thường…) Vì thế, có biết bao người theo Chúa vì những động lực trần tục ấy. Theo Chúa, thay vì từ bỏ hay mất đi nhiều thứ mình đang có, thì lại có thêm hay chiếm hữu được nhiều thứ mình chưa có. Do đó, với tinh thần chiếm hữu thay vì từ bỏ, những người mang danh theo Chúa ấy không thể thực hiện được những bổn phận hay trách nhiệm mà những người theo Chúa phải gánh vác trong những hoàn cảnh cụ thể mà Nước Chúa đòi buộc (chẳng hạn phải tranh đấu cho người nghèo, cho người bị áp bức, chống lại sự ác, bất công…) Họ không dám từ bỏ, không dám dấn thân, không dám hy sinh trong những việc đòi hỏi họ phải chấp nhận nguy hiểm đến mạng sống, đến sự an toàn bản thân, đến danh dự, đến quyền lợi… Đương nhiên họ vẫn có thể hy sinh trong những việc nhỏ, miễn sự hy sinh ấy đừng lớn hơn cái lợi trần gian họ đạt được. Cũng như một người đi buôn sẵn sàng hy sinh tiền bạc, công sức để thu vào một cái lợi lớn hơn.

Những người theo Chúa kiểu ấy sẽ rất bỡ ngỡ vào ngày sau hết, khi Chúa bảo họ: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13,27). Và lúc ấy họ sẽ lên tiếng thắc mắc: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26). Hoặc “Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” (Mt 7,22). Chính vì thấy trước viễn tượng ấy, mà Đức Giêsu đã yêu cầu những ai muốn theo Chúa phải lượng sức mình. Nếu không thể từ bỏ mọi sự được như thế (nên hiểu theo nghĩa tinh thần), thì nên rút lui sớm kẻo vừa hại cho Nước Chúa vừa hại cho phần rỗi của mình.

  1. Một đề nghị

Trong các Giáo Hội Á châu, việc Giáo Hội khuyến khích giáo dân tôn kính và dành nhiều đặc quyền đặc lợi cho những người theo Chúa có rất nhiều điều hay, nên làm, nhưng thiết tưởng cũng nên ý thức và quan tâm tới mặt trái của nó để hành xử cho khôn ngoan. Sự tôn trọng của giáo dân và những đặc quyền đặc lợi mà Giáo Hội dành cho những người theo Chúa có thể khiến cho những Ki-tô hữu không có tinh thần siêu nhiên, sẽ theo Chúa không phải vì Chúa, vì Giáo Hội hay các linh hồn, mà vì một động lực trần tục.

Thật vậy, nếu những ai mang danh theo Chúa mà lại được tôn kính, trọng vọng một cách mặc nhiên bất chấp họ có xứng đáng hay không; nếu những điều kiện sinh sống của họ cũng mặc nhiên trở nên dễ dàng gấp bội so với những giáo dân bình thường chỉ vì họ mang danh hiệu đó mà thôi, thì việc mang danh theo Chúa sẽ trở nên rất hấp dẫn đối với những ai thiếu tài đức nhưng lại ham muốn trèo cao và muốn có điều kiện sống dễ dàng hơn mọi người mà đỡ vất vả. Nếu những điều kiện để được mang danh là theo Chúa lại dễ dàng hơn những điều kiện để mang những danh hiệu khác ngoài đời, thì số người “muốn theo Chúa” với động lực trần tục sẽ đông lên gấp bội. Điều ấy sẽ ảnh hưởng rất xấu đến chất lượng của những người mang danh theo Chúa. Nếu những người theo Chúa vì động lực trần tục chiếm đa số, thì thật là tai hại cho Giáo Hội. Họ sẽ không thể dấn thân thật sự cho Giáo Hội khi Giáo Hội cần đến sự dấn thân ấy. Giáo Hội sẽ đầy gương xấu đến từ giới được coi là ưu tú nhất, và bị đình trệ không phát triển được. Và những người muốn theo Chúa thật sự (chiếm thiểu số) sẽ nản lòng và sẽ chẳng hoạt động hữu hiệu được, thậm chí sẽ không muốn vào, mà lại muốn ra khỏi hàng ngũ ấy để … khỏi bị thiên hạ đánh giá kiểu “cá mè một lứa”!

Vì thế, những người hữu trách trong Giáo Hội nên tìm cách tránh cho Giáo Hội tình trạng đồ giả lan tràn như ngoài đời. Làm đồ giả vừa thực hiện dễ dàng lại vừa kiếm được nhiều lợi nhuận hơn làm đồ thật, nên thị trường tràn lan đồ giả. Đồ giả càng tinh vi thì bên ngoài càng giống đồ thật, thậm chí nhiều loại đồ giả còn “có vẻ thật” hơn cả đồ thật. Đương nhiên chất lượng của đồ giả thì luôn luôn kém cỏi. Nếu không có biện pháp xử lý khôn ngoan, thì trong Giáo Hội cũng có thể lan tràn những người có vẻ theo Chúa, nghĩa là theo Chúa một cách “hữu danh vô thực”, không có tinh thần “từ bỏ” làm bảo chứng.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin ban cho Giáo Hội ngày càng tăng số người muốn theo Cha thật sự, nghĩa là những người sẵn sàng chấp nhận tinh thần từ bỏ mà Cha đòi hỏi và mong muốn. Xin cho chúng con dù là giáo dân hay giáo sỹ, cũng có tinh thần từ bỏ đích thực để xây dựng Nước Thiên Chúa tại trần gian, đặc biệt trên quê hương con. Amen.

 

58. Ai xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

“Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi… Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27-33). Những điều kiện Chúa Kitô đặt ra trên đây là cho hết mọi người chứ không riêng gì một ai. Tin Mừng Luca ghi rõ là khi ấy có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu và Người đã nói những lời ấy với tất cảm đám đông. Kitô hữu chúng ta có lẽ quá quen với hình ảnh thập giá và cả sự từ bỏ nhờ các cử hành Phụng Vụ, đặc biệt trong mùa Chay thánh. Phải chăng vì quen quá nên hóa nhàm? Và hệ quả kéo theo là không nắm được, đúng hơn là không hiểu đúng, chưa hiểu hết nội hàm của thập giá cũng như sự từ bỏ.

Nếu hiểu được thập giá và sự từ bỏ đúng như sự tự hủy và như thập giá của Chúa Kitô, đó là chịu án bất công, là chẳng còn hình tượng người ta nữa, là nên như người bị phỉ nhổ, như người bị Thiên Chúa đoán phạt… thì có lẽ khó có ai dám trả lời cách hiên ngang là con muốn theo Chúa, con muốn làm môn đệ của Chúa. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn tiên liệu nhiều khó khăn mà những ai muốn theo Người, muốn làm môn đệ Người phải chịu, nên đã căn dặn rằng cần khôn ngoan suy xét cẩn thận. Đừng để chuyện “xôi hỏng, bỏng tay” xảy ra vì thiếu khôn ngoan cân nhắc sự tình cũng như định lượng sức mình. Đừng mạo hiểm khởi công xây tháp mà không hoàn thành nổi để rồi bị người ta chê cười! Đừng mạo hiểm đem quân lính đánh nước người khi không đủ sức để rồi mang lấy thất bại thảm hại! Ai? Ai trong chúng ta, từ người hèn kém tội lỗi đến người tài cao, đức đầy dám nói mình đủ sức làm môn đệ của Chúa Kitô? Ai có thể tự nhận mình đủ đức, đủ tài, đủ khả năng để đi theo Chúa Kitô trên con đường thập giá?

Vậy thử hỏi phải làm sao đây? Bản thân kẻ hèn này xin tự thú nhận mình thật bất tài và bất xứng. Với sức riêng mình, tôi không thể nào làm môn đệ Chúa Kitô được. Với khả năng và cả đạo hạnh riêng mình, tôi không thể nào vác được thập giá mình, cũng không thể nào từ bỏ hết những gì mình có để theo Chúa Kitô. Thế thì phải làm sao đây? Không lẽ rút lui hoặc giơ tay xin hàng?

Với Thiên Chúa thì không có sự gì là không thể được. Ngay đêm Tiệc Ly, Chúa Kitô đã mở cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh bế tắc này. Chính Người đã tự nguyện rủ bỏ vị thế là Thầy và là Chúa để cúi xuống với từng người trong các môn đệ (x.Ga 13). “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ mà là bạn hữu” (Ga 15,15).

Hãy biết khôn ngoan làm bạn của Chúa Giêsu. Đỉnh cao của mạc khải là ở đây. Thiên Chúa không muốn con người làm tôi tớ hay làm môn đệ mà là bạn hữu của Người. Cái hình ảnh Giavê Thiên Chúa ngày ngày đi dạo với tổ tiên Ađam- Evà gợi mở thực tại tốt đẹp này. Có được người bạn là Giêsu Kitô thì chuyện thập giá mình sẽ không còn là vấn đề. Vì chính người bạn Giêsu luôn sẵn sàng nâng đỡ, đồng hành và có khi vác thay thập giá cho ta. Bài thơ “vết chân trên cát” của thi hào Tagor là một cảm nghiệm về một chân lý trong tình bạn. Con ơi, những lúc bão cát nổi lên, con chỉ còn thấy một dấu chân, đó là dấu chân của Ta, vì những lúc ấy là lúc Ta đang cõng con trên vai Ta.

Khi đã là bạn hữu thì không có gì là khoảng cách, là bí mật. “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết bởi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.” (Ga15,15). Khi ta biết mở cõi lòng, biết bày tỏ mọi bí ẩn tâm can cho Giêsu, từ chuyện tốt đến chuyện xấu, từ những việc lành đã làm đến những sự dữ xấu xa đã phạm thì ta đang trao dâng hết những gì ta có, cho người bạn Giêsu. Và đây chính là lúc ta thực sự bỏ hết những gì mình có (Avoir – To have). Chính khi ta mở tâm trí đón nhận chân lý Chúa Kitô tỏ bày và sống theo chân lý ấy thì chúng ta đã thực sự từ bỏ những gì chúng ta là (Être – To be).

Ý định của Chúa nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi Thần khí thánh” (Kn 9,17). Nếu Chúa Kitô không tự nguyện cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, nếu Người không minh nhiên tỏ bày rằng Người không còn gọi các môn đệ là tôi tớ mà là bạn hữu, chắc hẳn con đường về trời, con đường theo chân Chúa Kitô quả là vượt quá tầm tay, vượt quá khả năng loài người chúng ta.

Vấn đề đặt ra là khi nào và làm sao chúng ta có được sự chắc chắn, dù tương đối, rằng chúng ta đang là bạn hữu của Chúa Giêsu? Một trong những cách thế hữu hiệu để làm bạn Chúa Giêsu đó là hãy làm như Người đã làm (x.Ga 13,15). Đó là nhận nhau như người anh em thân thuộc, như là bằng hữu nghĩa thiết. Đây là nội dung chính những dòng thư của Thánh Phaolô gửi đến ông Philêmon. Ngài xin Philêmon đón nhận lại Ônêsimô, không phải như một người nô lệ mà như một người anh em rất thân mến, dù cho Ônêsimô đáng phải chết vì là nô lệ mà đã bỏ trốn khỏi nhà của chủ. (Bài đọc 2). Đón nhận nhau như là anh em, như là bằng hữu thì không chỉ loại bỏ những hành vi đàn áp, bất công, quan liêu kẻ cả… mà còn phải thực tâm chia sẻ những gì mình đã có được, đã nghe biết, đã hưởng nhận… cho nhau.

Giả như đang còn đó những sự việc, những sự thật đáng nói, cần chia sẻ mà các vị bề trên còn giữ kín với người bề dưới thì người bề dưới vẫn chỉ mãi là những nô lệ hay tôi tớ mà thôi. Một thực tế khó chối cãi đó là khi sự giữ kẻ, sự giữ bí mật xuất hiện trong đời sống vợ chồng thì người giữ kẻ, giữ bí mật cách nào đó không còn xem người phối ngẫu là bạn trăm năm, là bạn đời, chưa kể có trường hợp chỉ xem nhau như người tôi tớ.

Chưa nhận nhau làm bạn trong cách sống, trong cung cách đối xử, thì chắc chắn chúng ta chưa thật sự là bằng hữu của Chúa Kitô. Và cũng khá chắc chắn rằng quá trình vác thập giá mình, quá trình từ bỏ chính mình của chúng ta đang trong cảnh tình “đơn thương, độc mã”. Độc mã, đơn thương để chiếm được Nước Trời, để có được hạnh phúc thật quả là một sự liều lĩnh thiếu khôn ngoan và không lượng sức.

Biết sống, biết hành xử với nhau như là bạn hữu thì chúng ta luôn là bạn hữu của Chúa Kitô. Có người bạn Giêsu đồng hành thì chuyện vác thập giá, chuyện từ bỏ chính mình cho dù vẫn là khó nhưng luôn là có thể được. “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Có người bạn có thể làm được mọi sự luôn ở bên ta, đồng hành với ta thì không có gì là không thể.

Đôi bạn trẻ đã đính hôn xem ra khá hạnh phúc chỉ một nổi vóc dáng bên ngoài như đôi đũa lệch. Chàng ta “ngắn tầm” hơn cô nàng gần 20 phân (20 cm). Sau buổi học giáo lý hôn nhân, được sự đồng ý của cô nàng, anh chàng bèn trao nụ hôn đầu đời cách say đắm trong cái thế phải đứng trên viên đá chẻ của công trình đang xây dựng, để cho vừa tầm cao. Sau đó anh chị bên nhau đi về. Cô nàng thoáng thấy người yêu dáng đi hơi nặng nhọc mà chưa hiểu nguyên do. Có lẽ vì trời tối. Đi được một quãng anh chàng thỏ thẻ xin lặp lại “việc yêu” như ban nãy. Gật đầu chấp thuận thì cô nàng chợt thấy người yêu dừng lại, đặt viên đã lớn đã giấu sau lưng, mang theo nãy giờ, rồi đứng lên trên bày tỏ tình yêu. Được yêu nhưng xem chừng quá vất vả. Không biết kiên trì được bao lâu. Bỗng khi tay trong tay, anh chàng nghe cô nàng thầm thĩ: “Anh ơi, đừng cố vất vả quá! Em cúi xuống một chút là ổn thôi”.

Làm bạn của Giêsu thì hơn làm môn đệ của Người. Một kiểu khôn ngoan mà rất nhiều vị thánh như Gioan Thánh Giá, Têrêxa Avila, Têrêxa Hài Đồng Giêsu… đã chọn lựa.

 

59. Môn đệ Đức Kitô- Lm. Bùi Quang Tuấn.

Lin Chi là bậc thiền sư nổi tiếng về đức độ. Rất nhiều người nhận ông làm sư phụ. Một hôm có bậc vị vọng trong nước ghé thăm tu viện và kinh ngạc khi nghe biết có khoảng 10 ngàn người đang tu học ở đó. Vì muốn biết đích xác con số nên vị khách đã lên tiếng hỏi Lin Chi: “Ngài có tất cả bao nhiêu môn đệ?” Lin Chi trả lời: “Chừng 4 hay 5.”

Lạ thật! Với hàng chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ chính tông. Không biết đó là chuyện đáng vui hay đáng buồn.

Nếu hôm nay có người hỏi Chúa: Ngài có chính xác bao nhiêu môn đệ? Không biết Chúa sẽ trả lời ra sao. Phải chăng Ngài cũng phải xác nhận rằng nhiều người “có tiếng mà không có miếng.”

Nhưng tại sao lại như thế? Phải chăng tiêu chuẩn Ngài đưa ra quá cao? Có lẽ không ít người trách Chúa chẳng chịu ‘nhẹ tay’ đôi chút. Ít nữa là hứa hẹn những gì hấp dẫn, kích thích thị hiếu con người. Đàng này những điều Ngài nói lại chẳng lôi cuốn lắm: “Ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làmôn đệ Ta” (Lc 14:26). Thật là chói tai!

Nhưng đó lại là chân lý. Và khi trình bày chân lý, Đức Giêsu đã không bôi dầu trét mật hoặc mài dũa cho bớt góc cạnh hầu dễ nuốt. Trái lại, Ngài rao giảng đầy đủ, trọn vẹn, và rõ ràng. “Những Điều Kiên Làm Môn Đệ Đức Kitô” được ghi nhận trong Tin Mừng của Thánh Luca là một ví dụ cụ thể.

Bước theo Đức Giêsu là phải từ bỏ nhiều thứ, từ của cải vật chất cho đến ý riêng, từ quan hệ gia đình cho đến mạng sống. Đồng thời phải chấp nhận xung vào cuộc chiến, trực diện với kẻ thù có khi còn mạnh và đông gấp đôi mình. Gian nan cam go vô cùng. Thế nên rất cần một sự cân nhắc kỹ càng, không thể cứ làm tùy hứng, kẻo “khởi sự xây cất mà lại không hoàn thành nổi,” hoặc xung trận mà lại nắm chắc phần… thua trong tay thì không xứng hợp với Nước Thiên Chúa tí nào.

Thế nhưng mới nhìn thoáng qua, có người đã cảm nhận thiệt thòi quá nhiều. Chưa thấy lợi đâu, trước mắt đã phải đương đầu với từ bỏ, mất mát, khó khăn. Phải chăng vì thế mà nhiều người sợ theo Chúa. Hoặc có theo, thì chỉ theo xa xa, theo kiểu “hữu danh vô thực,” vừa gặp gian nan là bỏ Chúa chạy trốn tức thì.

Có lẽ vì nhìn thoáng qua nên người ta chỉ thấy được bề mặt của từ bỏ mà không nhận ra chiều sâu của sự sống. Không cuộc sống nào phong phú và ý nghĩa nếu không có xây dựng và chiếu đấu. Hai dụ ngôn “Người Xây Tháp” và “Vua Ra Trận” đã khẳng định điều đó. Dù là ơn gọi tu sĩ hay gia đình, dù là dấn thân hoạt động hay ẩn mình tại gia, tất cả đều phải mang tinh thần dựng xây và chiến đấu mới mong đem lại giá trị cao quí và bền lâu cho cuộc đời.

Xây tháp thì cần thời gian. Ra trận là phải chấp nhận đổ máu. Cả hai điều đó đã làm nên những thách đố trường kỳ, khiến bao tâm hồn phải lao đao, bao bước chân phải rã rời. Thời gian có thể xao dịu và hàn gắn thương tích, nhưng cũng là yếu tố làm nản lòng bao nhiệt tình, nồng thắm của phút giây ban đầu. Thế nên vẫn cần luôn một tấm lòng quả cảm và một tinh thần kiên trung.

Xây là xây đến xong. Đánh là đánh cho đến cùng. Nhưng để được như thế lại phải ngồi xuống suy tính. Cả hai dụ ngôn đều nhắc đến thái độ cần thiết đó: “Ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? “ và “Vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ, xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng?”

“Ngồi suy nghĩ” hay “ngồi tính toán” đều diễn tả chung một hình ảnh: ngồi cầu nguyện. Thế ra, cầu nguyện chính là bí quyết đưa đến đời sống vững chắc và kiện toàn. Qua cầu nguyện tôi có được sức mạnh bên trong, làm nền cho bao hành động “chiến đấu” và “xây dựng” bên ngoài.

Phải chăng những biến cố nhảy rào, những thất bại đau thương, những dang dở chua xót… trong các thứ ơn gọi, tu sĩ hay gia đình, phần lớn là do người ta không biết “ngồi suy tính”, hầu có được một chọn lựa đúng đắn và đón nhận sức mạnh đỡ nâng từ Thiên Chúa.

Bất cứ chọn lựa đúng đắn nào cũng đòi hỏi một lòng kiên trung thi hành. Người ta không thể lấy nhau một thời gian rồi thôi hoặc khấn hứa vài ba năm rồi bỏ. Thế nên, cần phải “ngồi xuống” cầu xin để có được sự bền đỗ trong ơn gọi. Bởi vì, như Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận có nói, “Một người thánh mà không cầu nguyện là thánh giả. Con đợi xem, họ sẽ sụp đổ không mấy hồi”. (Đường Hy Vọng 131).

Nếu tôi không muốn làm thánh giả, nếu tôi không muốn hành trình xây tháp bị dở dang, nếu tôi không muốn “giữa đường phải đứt gánh”, nhưng muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô, tôi cần phải “ngồi xuống” thường xuyên để xét lại đời mình trong tin yêu và cầu nguyện. Chắc chắn nhờ đó, ánh sáng Tin mừng sẽ soi chiếu bước chân và tăng sức tâm hồn, giúp tôi vượt qua chông gai thử thách và cập bến bình an.

 

60. Con đường theo Chúa

(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương)

Các Bài Đọc Sách Thánh hôm nay mời gọi chúng ta hãy từ bỏ mọi sự để có thể theo Chúa trong cuộc hành trình gian khổ trần gian tiến về quê hương thật Nước Trời.

Bài đọc I (Sách Khôn Ngoan 9:13-19): Con người luôn phải mang tính xác thịt nặng nề, hướng về tội lỗi mất lòng Chúa và xúc phạm đến tha nhân; vì thế phải nhờ sự khôn ngoan do Thánh Thần Chúa hướng dẫn và sửa đổi, chúng ta mới có thể đạt tới ơn cứu độ. Bài Đọc II (Thư Philêmon 9-10,12-17): Khi chúng ta giúp đỡ anh em, chúng ta hãy tự nguyện làm với cả tấm lòng yêu thương, vui vẻ, làm vì Chúa. Bài Phúc Âm (Luca 14:25-33): Muốn trung thành theo Chúa, chúng ta phải hy sinh từ bỏ tất cả những gì đi ngược lại giới răn Chúa, và nhiều khi phải hy sinh cả mạng sống mình như các Thánh Tử Đạo; đó là tình yêu trọn vẹn. Chính Thiên Chúa, vì yêu thương chúng ta, đã xuống thế làm người và hy sinh chết trên Thánh Giá để cứu chuộc tội lỗi chúng ta.

Vậy muốn theo Chúa, tức là muốn sống theo Tin Mừng Chúa Giêsu đã giảng dạy, chúng ta phải quyết tâm từ bỏ mọi sự. Nhưng “từ bỏ mọi sự” là từ bỏ những gì?

Nói chung, đó là từ bỏ tất cả những gì đi ngược lại với giáo lý Chúa Giêsu đã giảng dạy và các Thánh Tông đồ cũng như Giáo Hội, tiếp nối các thánh Tông Đồ, hướng dẫn chỉ bảo chúng ta.

Trước hết là từ bỏ những đòi hỏi bất chính của con người chúng ta do lòng ham danh, ham lợi, và ham lạc thú. Lòng ham danh, ham địa vị đưa đến tranh chấp, gây nên hận thù, bất hòa, chia rẽ. Lòng ham lợi đưa đến gian tham, biển lận, lừa dối, bóc lột người khác; chính vì lòng ham lợi mà xẩy ra những tranh chấp đưa đến bao cuộc chiến tranh từ trước đến nay. Chiều theo lạc thú xác thịt đưa đến những đam mê tội lỗi, làm cho chúng ta say đắm các thú vui thể xác và làm hạ phẩm giá con người mà Chúa đã dựng nên theo hình ảnh Chúa. Vì thế, sách Khôn Ngoan, trong Bài Đọc I hôm nay, đã nhắc nhở chúng ta “tính xác thịt nặng nề làm tâm hồn hư đốn và lý trí tối tăm” không thể nhận ra “đường ngay, nẻo chính,” nên dễ đi đến chỗ sai lạc và đi vào con đường đưa đến diệt vong.

Theo Chúa nhiều khi cũng đòi hỏi chúng ta dám đi ngược lại với những ý muốn trái ngược với đường lối Chúa, dù những ý muốn đó là của chính cha mẹ, của vợ, của chồng, hay anh chị em ruột thịt trong gia đình chúng ta. Đây là ý nghĩa lời Chúa nói “ai muốn theo ta phải từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em…” Tất nhiên Chúa không bảo chúng ta phải ly tán gia đình, hay chống lại cha mẹ mới có thể theo Chúa.

Theo Chúa cũng có ý nghĩa là phụng sự Chúa và sẵn lòng giúp đỡ tha nhân lâm cảnh khốn khó, và vì thế Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay nhắn nhủ Philêmon cũng như mọi người chúng ta ” hãy làm việc thiện với lòng tự nguyện chứ không làm vì bị ép buộc.”

Nhiều khi vì muốn trung thành với Chúa mà chúng ta phải hy sinh cả địa vị, cả nghề nghiệp như trong bài viết trước đây, chúng tôi đã nêu ra trường hợp Giáo Sư Kenneth Howell, nhiều bác sĩ, y tá… bị đe dọa mất địa vị, mất công việc vì muốn đi theo con đường của Chúa do Giáo Hội chỉ dẫn.

Hơn nữa, khi chúng ta được ơn đặc biệt Chúa gọi, chúng ta cũng phải “sẵn sàng từ bỏ mọi sự” để hiến thân phụng sự Chúa qua đời sống chuyên môn làm tông đồ cho Chúa, như các linh mục, tu sĩ, và nhiều giáo dân đang dấn thân trên cánh đồng truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới hiện nay. Cuộc sống tận hiến này cũng đòi hỏi phải luôn ý thức “từ bỏ mọi sự” để dâng hiến toàn thời giờ phụng sự Chúa, rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cho mọi người, làm các công việc xã hội, mở mang văn hóa ở các nơi cần sự hiện diện của chúng ta.

Đặc biệt hơn nữa, từ thời Giáo Hội sơ khai đến giờ đã có biết bao những vị dám hy sinh chính mạng sống mình để trung Thành với Chúa, như trường hợp các Thánh tử đạo mọi thời và mọi nơi. Ở ngay trên quê hương Việt Nam chúng ta thời xưa và thời nay, cũng vẫn có bao người dám hy sinh mạng sống mình để bảo vệ sự thật, công lý, và đức tin tinh tuyền.

Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung cho nhau, xin Chúa nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu, giúp chúng ta luôn biết sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Chúa là “Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống” và yêu thương phục vụ mọi người, nhất là những người lâm cảnh khó khăn, thiếu thốn.

 

61. Điều kiện làm môn đệ Chúa Kitô.

(Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hoà)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, tuy ngắn, nhưng có một câu được lập lại ba lần: “thì không thể làm môn đệ tôi được”. Lời tuyên bố trên của Đức Giêsu hướng dẫn bài suy niệm của chúng ta hôm nay về những điều kiện phải có để trở thành môn đệ của Người.

“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa… Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Đây là một trong những đoạn Tin Mừng khó hiểu và khó nghe: làm thế nào để dung hòa được tình yêu bao la của Thiên Chúa với sự tàn nhẫn của đoạn văn vừa nghe mà chúng ta phải loan báo như một Tin Mừng? Làm thế nào để dung hòa được lòng nhân hậu của Đức Giêsu với những lời tuyên bố làm cho chúng ta liên tưởng đến một số đầu óc bè phái phải từ bỏ ý muốn riêng để nghe theo một cách mù quáng thủ lãnh của mình?

Để dung hòa những điều trên có vẻ mâu thuẫn, chúng ta cần phải hiểu thế nào là đi theo Đức Giêsu, để trở nên môn đệ Người. Câu tuyên bố của Đức Giêsu, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen, nhưng theo nghĩa bóng. Chúa không bảo chúng ta ích kỷ, coi thường cha mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em mình và bao điều tốt đẹp khác! Chúa cũng không muốn chúng ta chểnh mảnh bổn phận đối với gia đình và xã hội. Chính Đức Giêsu đã nhắc lại điều răn thứ bốn Thiên Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ” (Mt 15:4).

Từ bỏ mọi sự để theo Chúa không có nghĩa là từ bỏ hạnh phúc của mình. Chúa muốn những ai theo Người phải biết đặt bậc thang giá trị trong tình yêu: yêu Chúa trước nhất, rồi sau đó mới đến các tình yêu khác; tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa phải là nguồn mạch các liên hệ tình cảm khác. Một khi đã gắn bó mật thiết với Chúa Kitô thì hẳn nhiên chúng ta sẽ có một thái độ khác đối với các liên hệ gia đình, bạn bè và xã hội, đối với của cải vật chất và đối với chính mạnh sống của mình.

Hai dụ ngôn “xây cây tháp” và “cuộc giao chiến” cho chúng ta biết thế nào là dấn thân theo Chúa Kitô. Không ai khởi sự xây nhà nếu biết mình không đủ vật liệu để hoàn tất. Một ông vua không nên đi giao chiến nếu biết quân địch đông và mạnh gấp đôi quân của mình. Đời sống Kitô hữu giống như một cuộc xây dựng phải hoàn thành, và đồng thời giống như một cuộc giao chiến trường kỳ. Hai công việc khó khăn nhưng rất quan trọng nầy đòi hỏi sự suy nghĩ chín chắn và kiên trì.

Chúng ta thường làm tổng kết cuối năm, biết tính toán và dự kiến cho những công việc loài người, nhưng chúng ta có biết thỉnh thoảng ngồi lại một mình hoặc với người khác, để suy nghĩ, kiểm điểm đời sống đạo đức, để phân định được những hành động của mình có đúng với giáo huấn của Chúa Kitô hay không? Đó là mục đích của các cuộc tỉnh tâm (Linh thao, Cursillo, v…v…).

Tùy theo ơn gọi riêng của mỗi người, tất cả chúng ta đều được kêu mời bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ Người, vì chỉ có Người mới có thể đem lại niềm vuui, bình an và hạnh phúc thật sự.

 

62. Từ bỏ trên con đường theo Chúa

(Suy niệm của Lã Mộng Thường)

Nếu xét theo nghĩa từ chương, chúng ta đã không ai tuân giữ lời dạy, “Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta” (Lc. 14:26). Thêm vào đó, Chúa Giêsu rõ ràng tuyên bố, “Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta” (27) trong khi nơi khác Ngài lại nhắc nhở, “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không?” (Mt. 6:25-27) (Bản dịch 1994). Thử hỏi, bất cứ ai nghe được những lời này họ sẽ nghĩ thế nào? Đâu là chân lý Chúa muốn dẫn dắt chúng ta tới và vì lý do chi những câu nói đối nghịch nhau như nước với lửa đã hai ngàn năm lẻ vẫn bền vững ngự trị nơi Phúc Âm.

Thử để ý nhận định nơi tâm hồn của mình đã bao nhiêu lần nghe công bố lời Phúc Âm, cố gắng chấp nhận những lời giảng giải coi bộ hợp lý, hợp tình, nhưng vô tình chợt nghĩ lại, chắc chắn cũng có câu Phúc Âm nào đó mang nghĩa chống nghịch hẳn lại. Có lần nói chuyện với một người bạn trên điện thoại, ông ta nhắc đến câu truyện Phúc Âm về mười nàng trinh nữ, năm cô được gọi là khờ dại và năm cô khôn ngoan. Ông ta nói rằng, nếu năm cô khờ dại đứng lỳ đó đi theo đoàn rước dâu nào ai dám ngăn cấm vì dẫu sao thì các cô cũng đã được chọn. Tôi chợt nghĩ, ông bạn này nhìn sự việc theo quan điểm dân chủ tây phương vào thời điểm này, bất chấp hình thức, lề thói ngày xưa của dân Do Thái. Dẫu không giải thích, tôi vẫn nghĩ rằng năm cô phù dâu được gọi là khờ dại chỉ vì nghe bảo sao làm vậy. Các cô bị từ chối không được tham dự tiệc cưới, nói cách khác, không được chọn làm cung tần mỹ nữ nơi hoàng cung chỉ vì thiếu suy nghĩ, không tự đặt vấn đề tại sao mình làm vậy, tại sao mình chấp nhận như vậy, và tại sao mình tin như vậy.

Đồng ý rằng, được sinh sống nơi thế kỷ 21, chúng ta thông minh, biết nhiều sự việc hơn những người sống đồng thời với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, tại sao chúng ta vẫn còn mang tâm trạng Lời Chúa tự đối nghịch; câu nọ phản ngược lại câu kia. Thử hỏi, cứ theo như truyền thống tốt lành, “Vâng lời trọng hơn của lễ,” và cứ nghiêm cẩn thực thi đúng đắn lời dạy, “Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta,” có lẽ ngay từ khi còn nhỏ, chúng ta đã bị bố mẹ tống cổ ra khỏi nhà. Đàng khác, nếu thực thi một cách đơn sơ chất phác như thế, sao có thể thực hành, “Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta;” Đồng thời, sao tâm hồn có thể bay bổng nơi cuộc sống vô tư, hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa hầu thể nghiệm lời dạy, “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể,” hãy cứ thảnh thơi, an hưởng cuộc đời như chim trời tự do tự túc nơi khoảng không gian vô hạn định.

Mở rộng lòng nhận xét về chính mình, chúng ta đành đấm ngực nhận chân rằng sở dĩ cảm thấy bối rối bởi sự nghịch lý theo nghĩa từ chương được viết nơi Phúc Âm chỉ vì chúng ta đã không suy nghĩ; chúng ta đã tưởng rằng cứ ngoan ngoãn tuân theo lề luật hoặc lặp lại những gì được dạy bảo là quá đủ, quá tốt lành trước mặt Thiên Chúa. Thực tâm nhận xét, thiếu suy nghĩ hoặc không suy nghĩ Phúc Âm, chúng ta đã tự minh chứng mình khinh chê Lời Chúa. Tất nhiên, chẳng có tội nào lớn lao hơn tội này nơi cơ hội làm người được may mắn biết đến Lời Chúa, được nghe Lời Ngài, và có thừa thông minh để nghiệm chứng cũng như thể nghiệm.

Thử hỏi tự đáy lòng mỗi người; những gì được coi là thân thiết đối với chúng ta hơn cha mẹ, vợ chồng, hoặc con cái, tài sản? Chúng ta đã bao nhiêu lần nghe hoặc lặp lại câu Phúc Âm, “Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi ở đó,” nhưng thử tự đặt vấn đề, chúng ta sẽ thấy chưa chắc; bởi thực tâm nhận định, lòng dạ của chúng ta đang để tâm để trí theo đuổi ước muốn ước mơ nào đó. Nhiều người cho rằng vợ chồng, con cái là những gì thân thiết nhất đối với họ. Vậy thử hỏi họ có thể nhớ được đã bao nhiêu lần những rắc rối, phiền hà, giận dỗi xảy đến nơi gia đình họ. Lý do gì phát sinh những sự thể phiền hà này? Xin thưa, ông cho ông là đúng; bà bảo bà là mẫu mực; thế là cái đĩa bay, cái nồi bể khiến cơm không lành, canh không ngọt, nhưng vẫn thân thiết bởi sau những cơn mưa thì trời lại sáng.

Nếu để tâm suy nghĩ, chúng ta thấy Lời Chúa nói đến trường hợp nào đó đã xảy ra nơi tâm hồn của mình. Lời Chúa nói về chính mình, nói về sự thể diễn tiến nơi tâm tư mà chúng ta đã không kiểm chứng nên chưa gặp. Những diễn tiến tâm hồn này được gọi hành trình đức tin, hành trình nghiệm chứng để thực sự nhận biết, thực sự cảm nhận sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người.

Bởi nơi cuộc sống, con người đã quá quen với lối suy nghĩ thế nhân nên Phúc Âm dùng những sự việc, sự thể thế tục mong dẫn dắt tâm trí chúng ta xét lại tâm hồn của mình hầu đạt tới cảm nhận và từ đó thăng tiến nơi hành trình nghiệm chứng đức tin. Như vậy, Phúc Âm đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo, hoặc phương thức để chúng ta áp dụng nghiệm xét tâm hồn chính mình. Đây là phần nào ý nghĩa lời dạy của Chúa Giêsu nơi Phúc Âm, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống.”

Chẳng hạn chúng ta tự hỏi; tại sao câu nói, “Ai có tai thì nghe” được Phúc Âm lặp đi lặp lại những tám lần, Nơi Matthêu ba lần (Mt. 11:15; 13:9, 43), Marcô ba lần (4:9, 23; 7:6), và ở Luca hai lần (8:8; 14:35). Trước hết, chúng ta quá quen với lối nói “tai nghe, mắt thấy,” và đương nhiên chấp nhận như thế không gì nghi ngờ, khúc mắc. Nhưng chúng ta đã thử bao giờ tự hỏi tai mình có nghe và mắt mình có nhìn hay không? Ai là người sinh ra không có tai ngoại trừ trường hợp hiếm hoi đặc biệt, thế sao lại phải nhắc tới vấn đề có tai thì nghe. Như vậy, lý do gì câu nói được ghi lại.

Khi đã tự đặt vấn đề tại sao lại nói có tai thì nghe và để ý phân định, chúng ta nhận ra điều hiển nhiên mà đã bao lâu nay không để ý. Đó là đôi tai không thể nghe; cặp mắt chẳng thể nhìn. Sự thể hiển nhiên là đã biết bao người từ xưa tới nay qua đi, khi linh hồn đã rời khỏi xác thì cho dù người nào đó có đôi mắt đẹp và sáng đến mấy thì chúng chẳng còn có thể nhìn thấy gì; đồng thời dẫu cho tai họ thính đến mấy khi còn sống thì cũng chẳng còn có thể nghe gì nữa. Sự chết chứng minh rõ ràng trước mắt chúng ta; tai không thể nghe tự nó, và mắt chẳng thể nhìn tự nó, nhưng chúng chỉ là phương tiện cho linh hồn con người hoạt động, cho linh hồn liên hệ với thế giới chung quanh. Chính cái hồn nhìn, cái hồn nghe; đôi tai, cặp mắt chỉ là phương tiện.

Câu nói quá đơn giản nơi Phúc Âm mà chúng ta thường chấp nhận, nay để tâm nghĩ lại, quả thật không đơn giản chút nào. Xét thế, câu “Ai có tai thì nghe” nói về thực trạng tâm hồn, thực trạng linh hồn nơi mỗi con người. Ai để tâm trí nghiệm chứng, suy tư Phúc Âm thì mới có thể cảm nghiệm được Lời Chúa nói về sự thể nào đã và đang xảy đến nơi mình. Phúc Âm dùng sự việc, sự thể diễn tiến nơi cuộc đời để nói về thực thể diễn tiến nơi tâm hồn mỗi người chúng ta và giúp chúng ta nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh.

Nhận ra phương pháp, cách thức Phúc Âm áp dụng để dẫn dắt chúng ta qua câu “Ai có tai thì nghe,” Lời Chúa qua bài Phúc Âm tuần này, chủ nhật 23 C, nhắc nhở, “Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta” (Lc. 14:26), và “Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta” (27). Phúc Âm dùng sự thể thân thiết nhất đối với một người theo con mắt thế tục để khuyến khích chúng ta đặt lại vấn đề nơi tâm hồn. Cũng một suy luận tương tự, câu hỏi được nêu lên, vậy điều gì, sự gì thực sự được coi là thân thiết nhất đối với lòng dạ, tâm hồn một người? Xin thưa chính là ước muốn, niềm mơ, khát vọng, ý định, quan niệm.

Nhưng làm sao chứng minh? Chúng ta thử thẳng thắn nhìn lại diễn tiến cuộc sống. Nếu nói rằng mối tương quan nhân sinh giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái trong gia đình là thân thiết nhất thế tại sao những cãi lẩy, giận hờn, đôi khi đĩa bay, chén bay, và nồi cũng tan luôn đã không chỉ một lần mà những bao nhiêu lần xảy đến trong liên hệ thân thiết của chúng ta? Đặt vấn đề như thế, chúng ta thấy những rắc rối trong gia đình được phát sinh từ bất đồng ý kiến, đối nghịch quan niệm.

Biết được sự thể thân thiết nhất đối với một người là ý nghĩ, quan niệm, ước muốn, ước mơ, chúng thân thiết với một người hơn tình nghĩa vợ chồng, hơn liên hệ cha con, bố mẹ. Thực tại nơi lòng mỗi người chứng minh như thế. Đem áp dụng vào lời dạy của Chúa GiêSu, “Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta” (Lc. 14:26), chúng ta nhận thực được Lời Chúa muốn nói với chúng ta điều gì. Như vậy, Lời Chúa dạy chúng ta, khi suy nghiệm Lời Chúa, lời Phúc Âm, nếu chúng ta còn bị lệ thuộc, còn để ý niệm, quan điểm, ước mơ thế tục ảnh hưởng, làm mẫu mực tất nhiên không thể nào nghiệm được Lời Chúa nói gì. Chúng ta cần dứt khoát; mọi ý nghĩ được dẹp sang một bên, lòng mở rộng đón nhận Lời Chúa để đặt vấn đề về mọi mặt sao cho có thể thực sự áp dụng nơi mọi trường hợp nơi cuộc đời bằng cách hồi tâm xét lại Lời Chúa muốn nói về sự thể nào đã xảy ra trong cuộc đời chúng ta nơi quá khứ. Chúng ta có thể chấp nhận Lời Chúa trong trường hợp nào, và chuyện gì đã xảy đến được Lời Chúa nhắc nhở như thế.

Tóm lại, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta nên chấp nhận cuộc đời và mở rộng tâm hồn nghiệm chứng đồng thời áp dụng trong cuộc sống theo sự hướng dẫn của Phúc âm.

Nguyện xin Thánh Thần của Chúa Giêsu luôn soi sáng cho chúng ta biết nghiệm suy lời Ngài, và xin Chúa chúc lành nơi mọi người.

 

63. Niềm vui lớn hơn – Lm. G. Nguyễn Cao Luật

Cuộc đời, chọn lựa và từ bỏ

Trên báo chí, người ta vẫn đọc thấy chuyện về các vận động viên phải hy sinh một số những điều mình ưa thích, chẳng hạn phải kiêng một món ăn nào đó để khỏi tăng trọng lượng, bỏ một thói quen nào đó không phù hợp với môn thể thao mình đang theo đuỗi. Và rồi, họ phải dành nhiều thời gian, nhiều sức lực để tập luyện, nhờ đó thành tích thể thao càng lúc càng được nâng cao.

Trong việc kinh doanh sản xuất, cũng có những người bỏ cả sản nghiệp của mình để mong làm giàu hơn nữa. Đôi khi người ta giật mình vì có những người bỏ ra hằng trăm triệu để làm vốn kinh doanh. Hoặc có những người nghèo, nhưng say mê một công việc nghiên cứu nào đó, cũng đành phải bán những vật dụng thân thiết nhất của mình để có phương tiện tiếp tục công trình dang dở.

Cuộc đời là như thế, vẫn có những hy sinh, những từ bỏ, vẫn có những lựa chọn, những phiêu lưu. Hy sinh, từ bỏ là chấp nhận mất mát, chấp nhận thiếu thốn và cũng có lúc phải đau khổ, đau khổ xé lòng. Những hy sinh, những từ bỏ ấy có một mục đích: đáp ứng điều mình lựa chọn và tin chắc rằng đó là điều cao hơn, và điều ấy sẽ thành công. Đó cũng là cuộc phiêu lưu bởi vì sẵn sàng bỏ ra những gì mình đang có để đạt tới điều cao cả hơn.

Từ ý tưởng đó, xin trở lại với bài Tin Mừng. Đức Giêsu đi “lên” Giê-ru-sa-lem. Phía sau, phía thấp hơn là Na-da-rét, là gia đình thân thuộc, và cả miền Ga-li-lê, nơi Người cảm thấy như nhà của mình, và cũng ở đó, dân chúng đã nghe Người giảng dạy, đã tin Người một phần nào. Phía trước, ở trên cao, là thành đô, nơi những kẻ chống đối Người thường lui tới. Tuy nhiên, Người phải “đi lên”, phải đến thành đô, vì tại nơi chốn biểu tượng này, tất cả những điều Người thực hiện từ lâu nay sẽ đi đến kết thúc. Người phải đi lên để chu toàn trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, và hoàn tất sứ mạng đã được trao phó. Trước mặt Người là những nguy hiểm đang đợi chờ, cả mối đe doạ đến mạng sống. Người biết rằng ở Giêsu-sa-lem, các đối thủ của Người đang tìm cơ hội, tìm lý lẽ để hại Người. Đã nhiều lần Người phê phán các hành vi của họ, tố cáo thói giả hình, và cũng đã từng xô đỗ những đặc quyền của họ. Người làm những điều đó vì lòng yêu thương, vì muốn đưa họ đến chân lý, nhưng họ lại coi Người là một đối thủ nguy hiểm, một kẻ phản loạn.

Tất cả những nguy cơ này, Đức Giêsu biết rõ. Người đi lên Giê-ru-sa-lem, chấp nhận những hiểm nguy. Người không chỉ bằng lòng với những điều đã đạt được ở Ga-li-lê, Người phải thực hiện những điều đó tại Giê-ru-sa-lem nữa, và làm cho những điều Người loan báo đạt tới kết cục toàn vẹn. Người sẵn sàng “bỏ vốn” để đạt được thành công cuối cùng, thành công dứt khoát. Vốn liếng của Người chính là mạng sống chứ không phải điều gì khác.

Đây thực là một mẫu gương về sự dấn thân. Người Kitô hữu được mời gọi đi lên Giê-ru-sa-lem thiên quốc, bỏ lại những gì mình đang nắm giữ, và đem cả con người mình bước vào con đường hẹp, con đường phiêu lưu với Thiên Chúa.

Chọn Đức Giêsu hơn tất cả

Trên con đường đi lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu suy nghĩ về tất cả những điều sắp xảy ra. Phía sau Người là các môn đệ, những người đã được Người mời gọi, quy tụ để theo Người và làm chứng cho Người. Như môn đệ của nhóm Pha-ri-sêu, các ông đi theo Người, sẵn sàng lắng nghe những giáo huấn của Thầy. Các ông là những người được Đức Giêsu tỏ lòng yêu mến. Nhưng liệu các ông có hiểu rõ sứ mạng của Người cũng như những việc Người cần thực hiện?

Trong tâm trí các ông, Đức Giêsu đi lên Giê-ru-sa-lem để đón nhận vinh quang, Người sẽ hoàn thành Vương quốc Người đã từng loan báo, và như vậy, chắc hẳn các ông cũng sẽ được thông phần. Các ông đã bỏ mọi sự, cả gia đình thân thuộc, nghề nghiệp và tương lai của mình để đi theo Người, nên lúc này, tâm hổn các ông tràn trề hy vọng sẽ được đền bù xứng đáng. Đọc lại câu chuyện các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất, và lời thỉnh cầu của bà mẹ các con ông Dê-bê-đê (xem Mt 20,21), người ta hẳn thấy rõ điều ấy.

Thực ra, đó cũng là chuyện bình thường của con người. Ai chẳng mong rằng những vất vả của mình được đền bù, người nào bỏ vốn ra làm ăn mà không mong thu lời. Thế nhưng, chương trình của Thiên Chúa lại khác. Đoạn đường các ông đã đi, chưa phải là tất cả. Còn có những khó khăn, những nguy hiểm lớn hơn đang chờ các ông ở phía trước. Như Đức Giêsu, các ông sẽ còn trải qua những đau khổ ghê gớm hơn nữa, và phần thưởng không phải là cuộc sống vinh quang ở trần gian, nhưng là ở trong Nước Thiên Chúa.

Bấy giờ, Đức Giêsu biết được những điều đang ám ảnh các tông đồ, Người quay lại và đưa ra một lời cảnh cáo rất ghê gớm: đi theo Người, tức là chấp nhận chương trình của Người, đồng thời chấp nhận luôn những đòi hỏi nằm trong chương trình đó. Những đòi hỏi ấy như thế nào?

Trước hết là yêu mến Đức Giêsu hơn tất cả, và mang lấy thập giá của mình. Điều này không có gì là phi nhân bản. Đức Giêsu biết rằng trong cuộc đời vẫn có những chọn lựa nền tảng buộc đặt vấn đề lại. Vào những lúc như thế, người ta thường đưa ra những tình cảm chính đáng nhất như cái cớ để tránh những chọn lựa cần thiết.

Không thể là môn đệ của Đức Kitô khi vẫn sống theo tính ngẫu hứng, theo một hệ thống tư tưởng. Cần phải ý thức về thân phận của mình, đảm nhận thân phận ấy trong cuộc sống thường ngày, và hoàn thành thân phận ấy, không để cho bất cứ điều gì làm lung lạc, làm biến chất hay tiêu diệt. Đi theo Đức Giêsu là một cuộc sáng tạo trường kỳ, không được quay lại đàng sau, dù bất cứ vì lý do gì.

Như thế, tính cách độc đáo của Nước Trời đòi buộc nằm ngay ở trong nội tâm mỗi người. Đó không phải là một việc này việc nọ thành công, cũng không phải là vinh quang vì được người đời nhắc đến. Tính cách này không buộc người ta phải trở thành những anh hùng, nhưng là vượt qua chính mình; nó cũng không kêu gọi con người sống cách tuỳ thích, nhưng kêu mời trao tặng. Trong việc lựa chọn này, lý do căn bản luôn luôn được gợi hứng từ tình yêu.

Sau nữa, đi theo Đức Giêsu là chấp nhận phiêu lưu, là đánh đổi cả đời mình. Người ta không biết trước điều gì sẽ xảy ra, nên Tin Mừng mời gọi những người muốn trở thành môn đệ Đức Kitô phải sẵn sàng, phải biết dự liệu: biết sử dụng những phương tiện để đạt tới mục đích. Nếu không dự liệu trước, không những công cuộc này bị thất bại, nhưng còn phá huỷ cả điều đã lôi cuốn, đã hấp dẫn, đã mời gọi con người bước theo. Ở đây, điều đáng nhấn mạnh là cần phải đạt tới Nước Trời. Đức Giêsu đã báo trước điều này: Người không có ý làm những người nghe nản lòng, nhưng muốn họ nhận định rõ ràng về tầm mức của công việc. Họ phải đánh đổi tất cả để được tất cả, phải đem tất cả của cải và sức lực của mình vào cuộc, phải chấp nhận những hy sinh lớn lao, bởi vì ơn cứu độ là một cuộc phiêu lưu mà không có gì so sánh nỗi.

Niềm vui tiến về phía trước

Năm 1992, cả thế giới hân hoan mừng kỷ niệm 500 năm khám phá ra Châu Mỹ. Để có được thành công này, Christophe Colomb đã đem toàn bộ gia tài của mình ra để thực hiện chuyến đi, đồng thời phải lấy uy tín và ảnh hưởng của mình để thuyết phục nhà vua. Cuối cùng sự liều lĩnh và gan dạ của ông đã đem lại kết quả tuyệt vời: khám phá ra Tân thế giới.

Người môn đệ đi theo Đức Giêsu cũng phải liều lĩnh và gan dạ. Họ chấp nhận phiêu lưu với Đức Giêsu, chấp nhận chương trình của Người, đồng thời sẵn sàng và vui vẻ mang lấy thập giá của mình. Họ tin tưởng vì những nỗ lực của họ không uổng phí. Họ vui vẻ bước đi vì biết rằng những gian truân hiện tại không đáng kể gì so với tương lại rực rỡ ở phía trước. Đây là nét đặc trưng của Kitô giáo, trong đó có dấu ấn của nhà nghệ sĩ đồng thời là một người khám phá. Không gò bó, không an phận; họ sẵn sàng bỏ lại đàng sau tất cả những gì đã có để lao mình về phía trước, và đó là niềm vui, niềm vui của sự từ bỏ, niềm vui của những đỉnh cao mới.

Nước Thiên Chúa vẫn ở phía trước, vẫn có một khoảng cách vô tận, nhưng đồng thời vẫn trong tầm tay.

* * *

“Hồng ân quý giá, đó là kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng.

Vì kho tàng ấy, người ta sẵn lòng đem bán tất cả những gì mình đang có.

“Hồng ân quý giá, đó là viên ngọc quý.

Vì viên ngọc ấy, người lái buôn sẵn sàng đem cả tài sản ra đánh đổi.

“Hồng ân quý giá, đó là vương quốc của Đức Kitô.

Vì vương quốc ấy, con người sẵn sàng vứt bỏ con mắt gây sa ngã.

“Hồng ân quý giá, đó là lời mời gọi của Đức Kitô.

Vì lời mời ấy, các môn đệ bỏ chài lưới để đi theo.

“Hồng ân quý giá, đó là Tin Mừng mà người ta phải khám phá luôn.

Đó là ân huệ mà người ta phải cầu xin.

Đó là cánh cửa mà người ta phải gõ.”

theo D. Bonhoeffer

 

64. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng.

Muốn theo Chuá phải từ bỏ và vác thập giá

Đa số người công giáo được rửa tội từ nhỏ và đã theo Chúa nhiều năm. Cái cách thế mà họ theo Chúa làm môn đệ gắn liền với hoàn cảnh mỗi người: vào thời giờ, công ăn việc làm, hoàn cảnh gia đình, phương tiện và khả năng có thể. Cũng đa số chúng ta theo Chúa trong đời sống người giáo dân: có gia đình, có vợ chồng, con cái. Bài Phúc âm hôm nay nói về cái giá mà người ta phải trả để theo Chúa: Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi (Lc 14:26). Ở đây ta tự hỏi: dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em có nghĩa là gì? Chúa có bảo ta phải ghét bỏ cha mẹ không? Chắc là không, bởi vì làm như vậy là lỗi Giới răn Thứ tư là thảo kính cha mẹ.

Giới răn Thứ tư dựa trên Sách Xuất hành và Sách Đệ Nhị luật mà Chúa trích trong phúc âm Thánh Mathêô (Mt 15:4) để dạy ta: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ để được sống lâu trên đất mà Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi (Xh 20:12; Đnl 5:16). Chúa còn trích sách Lêvi để cảnh giác người chửi bới cha mẹ: Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì bị xử tử (Lv 20:9). Như vậy thì ta không thể từ bỏ Cha mẹ theo nghĩa không còn nhận cha mẹ như là cha mẹ mình nữa. Tuy nhiên ta phải đặt đúng chỗ cho cái bậc thang giá trị của người Kitô giáo. Ta phải đặt Chúa lên hàng ưu tiên hơn cha mẹ. Đó chính là điều mà Chúa nói ở nơi khác trong Phúc âm thánh Mathêô: Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thày thì không xứng với Thày. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thày, thì không xứng với Thày (Mt 10:37-38).

Đọc lịch sử giáo hội ta thấy có những vị thánh vì muốn theo Chúa làm môn đệ hay sống đời tu trì, đã phải từ khước những lời cha mẹ khuyên lập gia đình. Chúa còn bảo ta phải từ bỏ cả mạng sống. Đó là điều các vị anh hùng tử đạo đã làm là từ bỏ mạng sống mình để được trung thành với đức tin vào Chúa.Chúa không giảm thiểu những đòi hỏi của Phúc âm để mong bắt được mẻ cá lớn của những người theo Chúa. Chúa đòi những người theo Chúa phải vác thập giá mình (Lc 14:27). Người theo đạo Chúa trong thế giới ngày nay ở những nước có tự do tôn giáo có thể không còn bị bách hại và tử đạo như xưa nữa. Tuy nhiên người theo đạo Chúa vẫn còn bị bách hại bằng những cách thế khác nhau. Khi sống trung thành với đường lối phúc âm, người ta có thể bị hiểu lầm, tẩy chay, chê cười và nhạo báng; người ta có thể bị mất việc làm, mất bạn bè.. Và đó là những thánh giá mà ta có thể phải mang vác.

Ngoài ra còn phải kể đến thánh giá của bệnh tật, của cảnh gian nan vất vả, nghèo đói, thánh giá của cảnh chia ly đổ vỡ…Cuối Phúc âm Chúa kết: Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14:33). Ta tự hỏi ta phải từ bỏ những gì? Từ bỏ những gì mình có gồm việc từ bỏ những đam mê tội lỗi, những thú vui bất chính, những tính mê nết xấu, những mê tín dị đoan.. Nói tóm lại là từ bỏ con người cũ để mặc lấy con nguòi mới. Không từ bỏ thì không thể vác thập giá theo Chúa được. Do đó Chúa nêu ra hai ví dụ để ta lượng sức. Trước khi xây nhà, người thợ xây phải tính toán xem có đủ vật liệu xây cất không? Và trước khi đi giao chiến, ông vua cũng phải lượng sức xem mình có thể đủ sức đương đầu với đối phương không? Ta có thể nhớ lại hồi còn nhỏ, ta làm cuộc chạy đua với trẻ hàng xóm.

Trước một cái rãnh hay cái hố, ta phải quyết định hoặc nhảy qua hay dừng bước. Lúc này ta phải lượng sức xem mình có thể nhảy qua được không? Nếu quá tự tin, thì thay vì nhảy qua bờ bên kia, ta lại rớt xuống hố hay xuống rãnh. Rớt một vài lần, ta học kinh nghiệm, rồi tập luyện để cuối cùng có thể nhảy qua. Và đó là cái tiến trình của việc làm môn đệ.Để theo Chúa, người ta phải sẵn sàng đổi mới lại thứ tự cho cái bậc thang giá trị của loài người cho phù hợp với đường lối phúc âm. Như vậy cái giá của việc làm môn đệ đòi hỏi một quyết định của lý trí và việc đổi mới của con tim.

 

65. Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh.

ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA KITÔ

Những năm gần đây, nhiều cá nhân hay nhóm người sống nhờ làm tiếp thị. Họ là những ruổi khắm nơi để chỉ làm mỗi một việc là quảng cáo một sản phẩm nào đó. Nơi tôi đang ở, hầu như mỗi ngày đều có ít nhất một hay hai người đi tiếp thị. Họ quảng cáo đủ mọi hình thức, không trừ một sản phẩm nào, từ đôi đũa, chai dầu gội đầu, cái cốc uống nước đến cái bàn ủi, đầu máy may, máy giặt… Tất cả họ đều có chung một cung cách: Những gì họ tiếp thị đều tốt, rất tốt. Họ ca tụng hết lời, dường như trên đời trời đất không còn bất cứ cái gì bằng những gì họ đang quảng cáo. Họ chỉ biết ca ngợi, không hề chê bai. Ca ngợi từ sản phẩm mà họ tiếp thị đến người được họ tiếp thị. Ví dụ, bạn muốn mua một đôi dép, dù là kiểu nào, màu nào đi nữa, nếu thấy bạn xăm xoi, ngắm nghía, những anh chị em ấy đều cho rằng chúng phù hợp với bạn.Dẫu sao tôi vẫn nghi ngờ lắm. Càng nghi ngờ hơn nữa, khi những anh chị em ấy rày đây mai đó, chẳng biết đâu mà tìm. Nhưng ngôn ngữ của quảng cáo là như thế: chỉ ca tụng, không bao giờ bài bác.

Bạn và tôi là những người theo Chúa. Ta cảm nhận rằng, bước theo Chúa sao mà khó quá, bởi ta sẽ phải từ bỏ, không chỉ là của cải vật chất, mà còn từ bỏ cả những cái là căn cội của cuộc đời mình như cha mẹ, mạng sống. Không chỉ có thế, sự từ bỏ còn đi tới mức độ cao hơn, mạnh hơn: Chúa đòi ta từ bỏ để nhận thập giá: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đúng là một đòi hỏi quá dứt khoát và triệt để.

Vì thế, nếu Chúa Giêsu làm quảng cáo, chắc chắn Chúa thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sáng lạn nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không còn gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá.Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy? Theo mà đều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lỏng, xa lạ.

Thế nhưng không đúng! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn thực tế mà lịch sử Giáo Hội đã ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau. Bởi đã 2000 năm, nhưng Lời Chúa Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy đã quả cảm bước theo Chúa Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình. Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Chúa Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lỏng mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ. Họ là ai? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn.

Đặc biệt, trong số ấy, còn có vô số anh chị em hiến dâng đời mình sống ơn gọi tu trì. Những anh chị em ấy đã đáp lại lời mời gọi bỏ mình, vác thập giá, theo Chúa Giêsu. Hoặc biết bao nhiêu vị thánh, họ là những người có thể đã được Giáo Hội tôn phong, hay chưa tôi phong, cũng có thể sẽ không bao giờ tôn phong trên bàn thờ Giáo Hội. Tất cả những vị thánh ấy có chung một tấm lòng: Đã vì lời mời gọi từ bỏ mà suốt đời sống nghèo khó, chỉ có tình yêu là giàu có mà thôi. Và trong số những người ấy, biết bao nhiêu người đã nhìn lên Thánh giá Chúa Kitô mà không tiếc mạng sống mình, hiến dâng cho Thiên Chúa toàn thân đến giọt máu cuối cùng như của lễ toàn thiêu. Các thánh Tử đạo là những người đã sống và chết như thế. Hóa ra, lời mời gọi từ bỏ và vác thập giá của Chúa Giêsu, với cái nhìn của loài người, tưởng chừng khắc nghiệt, sẽ trở nên vô vọng, lại có một sức mạnh thu hút lạ thường. Lời mời gọi ấy là lẽ sống vô song để những ai tin nhận và sống theo, đặt trọn niềm hy vọng của mình. Đó cũng là lời mời gọi làm nên căng tính của tất cả những ai theo Chúa Kitô. Nhờ đó, người ta nhận ra họ là môn đệ của Người. Vì theo Người chỉ có mỗi một con đường duy nhất là từ bỏ và chấp nhận thập giá đời mình như Người.

Vì hơn ai hết, những anh chị em dám dấn thân làm môn đệ của Chúa hiểu rằng, chính khi từ bỏ là lúc nhận lại chính mình. Chính lúc quên mình, đó là lúc nhận lại bản thân. Chính lúc chết cho thân phận tội lỗi, chết cho sự tha hóa có thể lôi kéo ta hướng chiều về sự dữ, là lúc ta vui sống muôn đời (ý nghĩa của thánh Phanxicô- kinh Hòa Bình). Bởi vậy, chính lúc chấp nhận thập giá, là chính lúc ta tiến vào vinh hiển của Đấng Phục Sinh.Bạn thân mến, muốn dấn thân cho một điều gì, ta phải yêu điều ấy. Cũng vậy, để được tự do và tự nguyện chấp nhận sự từ bỏ và vác thập giá, đòi ta phải có lòng yêu mến. Vì với tình yêu, thập giá sẽ nhẹ hơn, dễ hơn. Một người mẹ thức trắng đêm để may xong chiếc áo cho con sớm mai đến trường, người mẹ ấy là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả. Bởi đó bạn và tôi hãy yêu thánh giá Chúa Giêsu và yêu lối sống từ bỏ để nên giống Người.Bản tính tự nhiên của con người, thích chọn lối sống dễ dãi. Nhất là cuộc sống văn minh hôm nay, lại càng đặt ta trước nhiều chọn lựa. Nếu không biết yêu thánh giá và chiều theo thói quen của bản thân, ta dễ chọn cái tầm thường hơn những điều cao cả; chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền; chọn lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể.

Bởi vậy, biết mình dễ chọn cái xấu, đồng thời cảm nhận sâu xa Lời mời gọi của Chúa Giêsu, yêu thánh giá Chúa, yêu lối sống từ bỏ, bạn và tôi hãy làm lại chọn lựa của mình để dễ dàng dấn thân cho sự từ bỏ và thập giá, qua từng việc nhỏ nhặt trong đời thường của mình như: bỏ nghiện thuốc lá, ma túy, rượu chè, trụy lạc… Hoặc ta dành ngày Chúa nhật để tôn thờ Chúa, học hỏi giáo lý, lo các việc bổn phận đạo đức. Cương quyết rời chiếc giường êm để đi dự lễ sáng; tắt tivi để đọc kinh tối gia đình; bỏ bớt những giờ táng gẫu trong quán cà phê để cầu nguyện nhiều hơn… tất cả những điều đó, đòi sự tập luyện lâu dài trong từng ngày sống của mình. Hãy khắc ghi Lời Chúa dạy: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.

 

66. Theo Chúa

Chúa Giêsu đưa điều kiện làm môn đệ Chúa có khó quá không? Nếu ai đến với Tôi mà không bỏ cha mẹ, vợ con thì không thể làm môn đệ Tôi. Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được…. Và hãy suy nghĩ kỹ xem, nếu theo thì theo cho tới cùng, đừng theo nửa chừng sẽ không được gì. Theo Chúa phải từ bỏ của cải mình có.

Theo Chúa phải từ bỏ tất cả, rồi chúng con sẽ được gì? Thánh Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu câu hỏi này. Chúng ta hãy nghe Chúa trả lời: ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.(x. Mt 19, 29)

Để được phần thưởng nước Trời là phần thưởng vô cùng trọng đại, chúng ta cần biết bỏ những thứ tạm bợ, cho dù đó là tình cảm ruột thịt. Tất nhiên, chúng ta phải hiểu chữ “từ bỏ” ở đây không phải là cắt đứt tình nghĩa, nhưng là biết chọn theo Chúa ưu tiên hơn những liên hệ khác. Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh Điều răn thứ 4: phải thảo kính cha mẹ. Nhưng vì phần rỗi linh hồn của anh em mình, chúng ta phải hy sinh những tình cảm cá nhân để có giờ lo cho nước Chúa. Đối với thanh niên, vì nghĩa vụ với đất nước mà họ tạm xa cha mẹ, có dịp thỉnh thoảng về thăm và rồi sẽ có ngày được đoàn tụ vui vẻ. Môn đệ Chúa Giêsu cũng vì phần rỗi nhân loại có thể tạm xa gia đình nhưng tình nghĩa không phai, rồi cũng sẽ đoàn tụ trên Thiên Đàng.

Tuy nhiên, người trần mắt thịt làm sao hiểu được giá trị vô cùng cao quý của Nước Trời, của ơn làm con Chúa, làm môn đệ Chúa. Theo Chúa mà phải từ bỏ nhiều quá thì nhiều kẻ thấy tiếc, nhất là những ai có quá nhiều của cải. Vì vậy, cần có ơn Chúa, nhất là ơn Chúa Thánh Thần soi sáng giúp sức cho.

Trong bài đọc I, bài trích sách Khôn Ngoan cho thấy ý định của Thiên Chúa thì vượt trên sự thiển cẩn của con người. Ý định của chúng ta mập mờ, loài người chưa hiểu được ý định tốt lành của Chúa. Tại sao? Vì thân xác chúng ta chỉ thấy những chuyện dưới đất, lo lắng chuyện trần gian làm cho linh hồn ra nặng nề. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan cho chúng ta hiểu được giá trị của hạnh phúc Thiên Đàng. Làm con của Chúa thì còn gì hơn nữa, làm môn đệ của Con Thiên Chúa là một ơn vô cùng trọng đại, đáng đánh đổi tất cả mọi của cải trần gian này như thánh Ambrôxiô đã nói: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì.” Vì vậy ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta, giúp chúng ta can đảm từ bỏ của cải, danh lợi trần gian để thuộc trọn về Chúa. Có Chúa là có tất cả, vì Chúa là nguồn hạnh phúc vô biên, không có gì ở trần gian này có thể sánh bằng. Chúng ta cầu xin Chúa cho anh em chúng ta biết nhận ra của cải trần gian là hư không và phúc Thiên đàng là vô giá, để lòng trí chúng ta không quá bám vào của cải vật chất đời này, nhưng biết đầu tư cho Nước trời. Chúa đã dọn sẵn một chỗ cho chúng ta trên quê trời. Ai tin giữ lời Chúa sẽ không phải thất vọng bao giờ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn thật tâm giữ đạo, năng cầu nguyện với Chúa để hiểu được tấm lòng của Chúa là yêu thương vô cùng từng người chúng con, hầu chúng con đáp trả tình Chúa thương con cho cân xứng. Amen.

 

67. Làm môn đệ Chúa Kitô những điều kiện phải có

(Suy niệm của Lm. Gioan Bt. Bùi Ngọc Điệp-TSVN)

I.- DẪN NHẬP

Khởi đi từ tính cấp bách của công trình cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi con người cộng tác với Ngài để mở mang Nước Thiên Chúa. Một phần là mời gọi mọi người, không phân biệt ai để trở nên Môn đệ của Ngài trong Đức Tin và Phép Rửa; một phần mời gọi một số người làm Môn đệ thiết thân, cộng tác với Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ.

Chúng ta có thể nhận thấy sự tuyển chọn của Chúa Giêsu dường như không theo bất cứ một tiêu chuẩn nào của thông lệ đời thường như: có bằng cấp, có năng lực, có địa vị xã hội, hay giàu sang quyền quý, v.v… Có người bảo rằng: tiêu chuẩn của Chúa Giêsu là không tiêu chuẩn và điều kiện của Ngài là vô điều kiện.

Nói thế nhưng không phải thế. Cả hai bài đọc và bài Tin Mừng đều cho chúng ta thấy việc chọn Chúa và để được Chúa chọn là cả một quá trình tích cực với những đòi hỏi thật gắt gao:

– Phải có đức khôn ngoan đích thực từ nơi Thiên Chúa, để Nhờ đức khôn ngoan mà biết được ý Chúa, thi hành ý định của Chúa để được ơn cứu độ (x. Bài đọc I: Kn 9,13-18).

– Phải có một tình yêu bao dung với hết mọi người, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa (x. Bài đọc II: Plm 9b-10.12-17).

– Phải biết từ bỏ hết những gì mình có và phải vác thập giá mình (x. Lc 14,25-33).

Những điều đó đã cho chúng ta thấy, theo Chúa là phải dành cho Chúa một địa vị tối ưu. Nhưng không phải là chuyện liều mình mù quáng, mà là một hành động và quyết định nghiêm túc: cần phải suy nghĩ, tính toán kỹ càng, cũng như ông vua kia trước khi đi giao chiến hay gia chủ nọ trước khi bắt tay xây dựng một mái nhà, thì việc dấn thân đi theo Chúa Giêsu cũng đòi hỏi một sự lựa chọn khôn ngoan và dứt khoát (x. Lc 14,25-33). Tin Mừng nhiều chỗ cho biết thêm, theo Chúa thì phải thực hiện điều này: “Phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực; và yêu mến người thân như chính mình” (Lc 10,27; Mt 22,37-38; Mc 12,30-31).

Theo Chúa và làm Môn đệ Chúa quả thật không đơn giản chút nào. Nhưng ngược lại những điều mà Chúa hứa ban cho người Môn đệ trung tín lại không gì sánh bằng: “Vì phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Lc 18,29-30; Mt 19,29).

II.- MÔN ĐỆ, NGƯỜI LÀ AI?

Môn đệ, Tông đồ, và nhóm Mười Hai là những danh từ quen thuộc trong các sách Tân Ước, đặc biệt là bốn sách Tin Mừng. Có bản Tin Mừng gọi Nhóm Mười Hai là các Tông đồ, để các ông ở với Chúa Giêsu và để Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng (x Mc 3,13-19); có bản Tin Mừng gọi Nhóm Mười Hai là những người được tuyển chọn trong số các Môn đệ (x. Lc 6,12-16); cũng có bản tin Mừng gọi Nhóm Mười Hai với cả hai danh xưng, vừa là Tông đồ vừa là Môn đệ, khi Chúa Giêsu gọi 12 Môn đệ lại, ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết mọi bệnh hoạn tật nguyền (x. Mt 10,1-4). Còn trong bản Tin Mừng theo Thánh sử Gioan thì danh từ Tông đồ hầu như không hề được nói đến mà hầu hết tất cả những người trong Nhóm Mười Hai đều được ngài gọi là Môn đệ.

Quả thực, hai danh từ: Tông đồ và Môn đệ trong bốn bản Tin Mừng không thống nhất với nhau, và như vậy cũng nảy sinh một số câu hỏi: phải chăng danh từ Tông đồ và Môn đệ có cùng một nghĩa? Và Nhóm Mười Hai là Tông đồ hay Môn đệ hay cả hai?

Để giải quyết cho vấn đề này, tôi xin chia sẻ với bạn đọc một quy ước, không dám nói là có thể sử dụng cho mọi bản văn, nhưng ít là để làm sáng tỏ và để sử dụng cho trình thuật Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.

1). Môn đệ: là những người tin Chúa, theo Chúa và ước ao lãnh nhận Phép Rửa. Khi lãnh nhận Phép Rửa, họ trở nên Môn đệ của Chúa Kitô, là Kitô hữu và là anh chị em trong Chúa Kitô. Vì thế, từ ngữ “Môn đệ” trong các sách Tân ước, đã trở thành từ quen thuộc để gọi những người Kitô hữu.

2). Tông đồ: là những người ban đầu nhằm để chỉ Nhóm Mười Hai, nhưng danh từ này càng ngày đã được hiểu rộng hơn theo sự phát triển của Hội Thánh Công Giáo, cả về chất lẫn về lượng. Nhưng thường được coi như một danh từ chuyên môm, nhằm vào việc tuyển chọn những người có ơn gọi tham dự vào sứ vụ của Chúa Giêsu, tiếp tục sứ vụ lãnh đạo Dân Chúa, rao giảng Tin Mừng và cử hành ơn thánh qua các Bí tích.

Trong hai danh hiệu trên, ơn gọi làm Môn đệ Chúa Giêsu là ơn gọi căn bản nhất của người Kitô hữu. Một khi chúng ta là Kitô hữu, chúng ta không thể thờ ơ hay quên mất căn tính và ý nghĩa của Bí tích Rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận là:

– Thanh tẩy mọi tội lỗi, đặc biệt là tội tổ tông truyền.

– Làm cho ta trở nên con cái Thiên Chúa.

– Là cửa ngõ để ta lãnh nhận ân sủng và các Bí tích khác.

– Ban các ơn chức phổ quát: Vương đế, Tư tế và Tiên tri.

– Ban ấn tích để tham dự vào ơn cứu độ…

Nhắc lại mấy căn tính và ý nghĩa của Bí tích Rửa tội như vậy, là vì có khá đông Giáo dân thường nghĩ rằng chỉ có các Linh mục, Tu sĩ mới là Môn đệ Chúa Kitô, còn mình chỉ là các tín hữu bình thường không xứng đáng với danh hiệu “Môn đệ Chúa Giêsu Kitô”. Cho rằng, danh dự lớn lao kia là của các Linh mục, Tu sĩ; nên giáo dân cũng cho rằng việc Tông đồ, việc truyền giáo là trách nhiệm của các vị ấy, chứ không phải của mình.

Vì thế mà nhiều người Kitô hữu đã đánh mất căn tính và danh hiệu của mình, không nhận ra mình là Môn đệ của Chúa nữa, nên sống thờ ơ với việc Loan Báo Tin Mừng Cứu Độ, chẳng màng chi đến việc xây dựng và phát triển Hội Thánh, và đôi lúc có người cũng có tinh thần tích cực mà không dám làm vì vẫn cho rằng không phải việc của mình.

Ở đây, xin được một lần xác quyết: mọi Kitô hữu đều được gọi làm Môn đệ Chúa Giêsu Kitô. Không chỉ có các Tông đồ mà tất cả chúng ta đều được Chúa Giêsu, đều được Thiên Chúa mời gọi, để trở thành Môn đệ đích thực của Ngài, vì chưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa hằng sống, Đấng thực hiện công trình Cứu độ xuyên qua mọi thời đại và cho mọi dân, mọi nước. Ngài muốn chia sẻ công việc của Ngài với mỗi người chúng ta. Hay có thể nói gọn hơn: ơn gọi làm Môn đệ Chúa Giêsu Kitô là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu bất kể người đó là Giám mục, Linh mục, Tu sĩ hay Giáo dân.

Khi biết rõ mình là Môn đệ Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận tiến đến việc hoàn thiện con đường theo Chúa, học cùng Chúa, sống cùng Chúa, làm như Chúa và hiến thân vì Nước Trời như Chúa…

III.- MUỐN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA THÌ PHẢI BIẾT TỪ BỎ

  1. Từ bỏ để đi theo Chúa:

Trong bốn sách Tin Mừng, có nhiều trình thuật nói về việc các Môn đệ từ bỏ: nào là nghề nghiệp, gia đình, của cải, ruộng vườn, vợ con… để đứng dậy đi theo Chúa Giêsu. Có người từ bỏ cách dứt khoát, không chút luyến tiếc, đứng dậy đi theo lập tức không do dự; có người suy tính rồi mới đi; có người còn xin được về từ giã người thân hay sang ngượng của cải rồi mới đến theo Chúa… Thái độ nào cũng tốt, nghĩa cử nào cũng tích cực. (x. Mt 4,19; Mc 1,17; Lc 5,10; Ga 21,3; Mt 9,9; Mc 2,14; Lc 5,27; Mc 8,34; Lc 9,23; 14,27; Ga 1,43)

Nhưng cũng có những người xin theo làm Môn đệ Chúa mà chẳng muốn từ bỏ chút nào. Phải chăng là quá dính bén với chức vị, gia đình, của cải, và muôn vàn lý do khác níu kéo bước chân theo Chúa của họ. (x. Mt 8,22; 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22)

Ngày nay, một số người khi nghe những bài Tin Mừng có nội dung về việc từ bỏ, lại vặn vọ hỏi rằng: “Từ bỏ để theo Chúa, phải chăng là nghề nghiệp không có giá trị gì, địa vị cũng không có giá trị, gia đình cũng không có giá trị, của cải cũng không nốt, mọi thứ đều vô nghĩa, vô lý, vô giá trị, bỏ hết…? Cũng có người nói rằng: vậy chẳng cần phải đi học, chẳng cần có nghề nghiệp, chẳng cần gia đình vợ con hay chẳng cần làm ra của cải vật chất… để trở nên kẻ vô sản, kẻ trắng tay, chẳng còn gì để bỏ, chẳng có gì để mất, chẳng có gì để luyến tiếc, như vậy sẽ dễ dàng theo Chúa hơn, có Chúa là có tất cả “Đạo Chúa có lúa ăn hoài” Hay “Theo đạo kiếm gạo mà ăn” như thế chẳng phải là tiêu cực lắm sao?”

Hiểu như thế thì đúng là tiêu cực thật rồi. Vì từ bỏ để theo Chúa phải đồng nghĩa với việc tự hiến và phó thác để xây dựng Nước Trời. Theo Chúa Kitô là đi theo tiếng gọi của tình yêu hiến dâng. Những ai muốn theo Chúa phải biết sống tình yêu, một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa, yêu Ngài hơn tất cả và yêu mến Thiên Chúa hơn tất cả, để những thứ khác chỉ là phụ thuộc là hàng thứ yếu mà thôi. Và việc từ bỏ ở đây là để trở nên trọn lành như Chúa đã từng đòi hỏi: “Phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực; và yêu mến người thân như chính mình” (Lc 10,27; Mt 22,37-38; Mc 12,30-31).

Có nhà truyền giáo ví rằng: theo Chúa giống như người đi leo núi, nếu mang theo những thứ nặng nề lỉnh kỉnh thì sẽ không leo nhanh được, dễ mệt, dễ nản, khó lên được đến đích, thậm chí còn có thể bỏ cuộc. Theo Chúa cũng ví như người vào cửa hẹp, nếu mang theo nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bị vướng bận, của cải níu kéo người đó ở ngoài cửa, khó mà vào được cửa hẹp.

Từ bỏ để theo Chúa như Tin Mừng vừa kể: phải bỏ “cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình”. Ý Chúa muốn nói tới những điều thiết thân nhất của mỗi người. Không phải bỏ như kiểu người nọ bỏ nhà ra đi hoang đàng – đàn điếm hay như kiểu bỏ của chạy lấy người, mà là bỏ hết, nếu như những thứ ấy làm vướng bận cho việc đi theo Chúa.

Gia đình là tốt, mạng sống là cần. Gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống là điều chính đáng không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào những thứ đó cản trở hay làm vướng bận con đường theo Chúa, thì người Môn đệ phải can đảm từ bỏ để đặt Chúa lên ưu tiên hàng đầu.

Từ bỏ ở đây còn có nghĩa là từ bỏ tội lỗi, những quyến rũ bất chính, những ràng buộc và nô lệ của vật chất, tiền tài, danh vọng, hưởng thụ… để chấp nhận sống xả kỷ hy sinh, phục vụ và quảng đại biết cho đi, biết chia sẻ… Và nếu khi nào bị hiểu lầm hay bị kết án, bệnh tật hoặc tai ương… chúng ta can đảm vác lấy thập giá. Để hoàn tất trên thân xác mình những gì còn thiếu nơi Nhiệm Thể Chúa Kitô, như Thánh Phaolô đã trải nghiệm: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Chúa Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).

Vì thế, Chúa Kitô đòi hỏi những ai theo Ngài thì phải coi những đối tượng khác cho dù đó là cha mẹ, vợ chồng, hay địa vị, của cải vật chất… cũng chỉ là thứ yếu so với Ngài: “Vì ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm Môn đệ Tôi được” (Lc 14,33).

Đồng thời từ bỏ cái tôi ích kỷ, nhỏ nhen, dấn thân đón nhận thập giá. Vì mục đích là Nước Trời. Những gì chúng ta hy sinh từ bỏ sẽ trở thành lễ vật hiến tế, tiếp tục nối dài hy tế của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ trần gian.

  1. Từ bỏ để được ban ơn:

“Ai chấp nhận từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Lc 18,29-30; Mt 19,29).

Có rất nhiều người mến mộ theo Chúa Kitô, nhưng không phải ai cũng trở thành Môn đệ của Ngài, nếu như Chúa Cha không ban ơn cho người ấy (x. Ga 6,44a.65). Chính Chúa Giêsu cũng đã nói rõ ràng: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16); và Thầy ở đâu, thì anh em cũng sẽ ở đó. (x. Ga 12,26; 6,44b)

Vậy, điều mà Chúa muốn con người từ bỏ mọi sự để theo Ngài là một đòi hỏi quyết liệt, dứt khoát và tự nguyện để vâng theo Thánh Ý Chúa, thực thi bác ái yêu thương và phục vụ, để trở nên một với Chúa Kitô và để trở nên hoàn thiện như Chúa Cha là Đấng hoàn thiện. Đòi hỏi này, nhắm đến một mục đích là: chúng ta cùng nhau xây dựng Nước Chúa mau trị đến.

IV.- MUỐN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA THÌ PHẢI VÁC THẬP GIÁ MÌNH

Tại sao muốn đi theo Chúa thì nhất thiết phải vác thập giá? Thưa rằng: Đây là điều có liên quan tới việc từ bỏ. Vì khi từ bỏ, ta không còn vướng bận hay bị cản trở điều gì cả, khi ấy ta có thể thong dong vác thập giá mình mà theo Chúa. Ý nghĩa của việc này là để trở nên hạt lúa, chấp nhận sự mục nát như lời Chúa Giêsu dạy rằng: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).

Mỗi người Kitô hữu đều có một cây thập giá của mình, vừa sức mình, do mình tạo nên. Nó tượng trưng cho tính tự hủy, sự hy sinh, sự đền tội, để vượt qua chông gai thử thách gian khổ, để được cộng tác với cây thập giá của Chúa Giêsu đã vác thay cho nhân loại. Cùng với Chúa Giêsu mỗi người vác cây thập giá của mình đến đỉnh đồi của ơn cứu độ. Qua thập giá mới đến vinh quang, qua gian khổ mới thành người vẹn toàn. Đó là tiêu chuẩn và là công cụ để Chúa muốn tuyển chọn và huấn luyện mỗi người chúng ta. Như có đoạn thư của Thánh Phaolô gửi cho dân Dothái rằng: “Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2,10); Còn Chúa Giêsu khi kêu gọi những người Dothái đi theo Ngài thì đã minh định rằng: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).

Theo Chúa Giêsu là chấp nhận vác thập giá mình đến chỗ tự hiến vì Nước Trời. Ai thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu thì cũng được Chúa Cha ban cho phần phúc tuyệt hảo và bất diệt với Ngài, hưởng chính đời sống mà Thiên Chúa đang sống: “Nhờ vinh quang và sức mạnh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những ơn rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã (vác thập giá mình) thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2Pr 1,4).

Quả đã rõ rằng: đi theo Chúa Giêsu không những chỉ “tháp tùng” đi theo, sống cuộc sống “có đạo” mà cho là đủ. Đã có nhiều người có đạo mà thái độ sống hâm hẩm, uể oải, hưởng thụ… “Công giáo mà sống hệt ma giáo” thua xa những người ngoại đạo không biết Chúa; và nhiều khi “người lương dân lại sống rất lương tâm”, vì họ biết yêu thương, biết sống công bằng, hòa nhã, từ tâm bác ái.

Đặt ý nghĩa của cuộc “sống đạo” trong ý nghĩa vừa kể, chúng ta sẽ hiểu được những lời thúc dục mạnh mẽ của đoạn Tin Mừng hôm nay.

Theo Chúa Giêsu không có nghĩa chỉ là “có đạo”, được Rửa tội, thỉnh thoảng đi nhà thờ, xem lễ, lần hạt Mân Côi, sống đời sống “bình thường” là đủ. Nhưng phải trở nên giống Chúa Giêsu, từ tâm tư cho đến thái độ và hành động. Một trong những điều mà ý Chúa đòi buộc chúng ta phải thi hành là: từ bỏ tất cả để vác thập giá mình mà theo Chúa, để sống gắn bó với Chúa và chia sẻ sứ mạng được sai đi của Chúa. Ý nghĩa này đã được Thánh Phaolô diễn tả bằng một câu rất thi vị: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: Đây là lời đáng tin cậy và là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8; 2Tm 2,11).

V.- MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU LÀ NGƯỜI THI HÀNH THÁNH Ý CHÚA CHA

Công trình cứu độ của Chúa Giêsu từ khi nhập thế cho đến khi về trời có thể được tóm gọn trong lời vàng thước ngọc này là: “Thi hành Thánh Ý Chúa Cha”. Và những ai theo Ngài, làm Môn đệ Ngài, cùng Ngài thực hiện công trình cứu độ thì cũng phải thi hành Thánh Ý Chúa Cha. Kinh Thánh kể rằng: Có lần Chúa Giêsu đang trên hành trình rao giảng Tin Mừng thì Đức Maria tìm đến muốn gặp Ngài và người ta báo cho Ngài biết: “Có Mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy”. Chúa Giêsu đáp lại: “Mẹ Tôi và anh em tôi, chính là những ai lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (x. Lc 8,19-21; Mt 12,46-50; Mc 3,31-35).

Ai thi hành Thánh Ý Thiên Chúa, người ấy sẽ sinh được nhiều hoa trái tốt lành. Người ấy sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Ngài về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn (x. Cl 1,10). Hoa trái ấy chính là hoa trái của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (x. Gl 5,22-23a). Như thế, thi hành Thánh Ý Thiên Chúa cũng chính là để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa (x. Pl 1,11; Ga 15,8).

VI.- KẾT LUẬN

Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Luca đã sử dụng những cụm từ rất khéo léo và rất có ý nghĩa, đó là “đi theo và làm Môn đệ”; “từ bỏ và vác thập giá”. “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm Môn đệ Tôi được… Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm Môn đệ Tôi được” (Lc 14,27.33). Đoạn văn song đối này có thể diễn tả cách khác như sau: “Có thể được làm Môn đệ Chúa Giêsu, nếu người ấy từ bỏ hết những gì mình có và vác thập giá mình mà theo Chúa”.

Rõ rằng, có rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là “Môn đệ” của Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là Môn đệ mà thôi. Người đi theo chưa hẳn là người Môn đệ; cũng như người nói “Lạy Chúa lạy Chúa” chưa hẳn là người thi hành Thánh Ý Chúa.

Hành trình theo Chúa Kitô không đơn giản vì phải đối diện với nhiều thử thách và cám dỗ. Do đó, người Kitô hữu phải biết khiêm tốn cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp. Vì không có ơn Chúa, chúng ta không thể làm được việc gì, chứ chưa kể là việc đi theo Chúa, là việc trọng đại có tầm cỡ cứu độ. (x. Ga 15,7-16; 16,23-28)

Theo Chúa Kitô là một chuyện nghiêm túc cả đời người, phải biết để tâm lưu ý và cân nhắc kỹ lưỡng; phải biết suy nghĩ tính toán; phải biết khôn ngoan chọn lựa; không thể làm một cách nửa vời, hời hợt. Hành động suy tính, và tự do-tự quyết này là điều kiện để con người thể hiện đặc ân khôn ngoan và tự do, mà Thiên Chúa đã ban cho con người từ khi tạo dựng, đó là đặc ân giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,27).

Vì thế, đã theo Chúa thì phải theo cho đến cùng, quyết tâm dấn thân trọn vẹn. Mỗi người Kitô hữu phải là một Môn đệ chính hiệu, nghiêm túc và thực hành những đòi hỏi luân lý của Chúa; phải luôn nỗ lực phấn đấu không ngừng; phải kiên trì trung thành với đức tin, nếu không, chỉ một cám dỗ nhỏ của mưu ma, chước quỉ, của tính xác thịt và thế gian cũng đủ làm lung lay và sa ngã bỏ Chúa. Vì Chúa đã dạy rằng: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62).

Vấn tâm:

– Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy xem lại mối tương quan của mình với Chúa Kitô và với Hội Thánh thế nào?

– Chúng ta có thật sự theo và trở nên người Môn đệ chính danh của Chúa hay không?

– Tình yêu mà mỗi người chúng ta dành cho công trình cứu độ có hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực không?

– Ưu tiên hàng đầu của chúng ta có phải là nỗ lực sống và thực thi Lời Chúa không?

 

68. Từ bỏ và vác Thập Giá

  1. Chúng ta đã từng tham gia, hay qua phim ảnh chúng ta dễ nhận ra rằng để có thể tham gia leo núi, nhất là những ngọn núi cao, thì những người tham dự cần phải có hành trang, nhưng càng gọn nhẹ càng tốt, nên người ta chỉ mang theo những thứ thật cần thiết và bỏ lại những thứ gây cản trở, nặng nề cho việc leo núi này. Đồng thời người leo núi thường có cây gậy để dò đường, để chống đi. Đời sống của người Kitô hữu có thể nói là một hành trình leo núi, tiến về đỉnh núi thánh là nhà Cha trên trời. Để có thể tiến về quê hương vĩnh cửu một cách tốt đẹp thì đòi hỏi người môn đệ Chúa phải biết từ bỏ những gì làm cản trở và phải được nâng đỡ bằng sức mạnh thập giá của Đức Kitô.
  2. Chỉ trừ một số người dâng mình cho Chúa trong ơn gọi tu trì phải chia tay với gia đình, nghề nghiệp… để bước theo Chúa, còn đa phần nhân loại vẫn sống với gia đình và cần phải có nghề nghiệp để mưu sinh, thì phải hiểu lời Chúa dạy về “từ bỏ” như thế nào?

“Từ bỏ” để theo Chúa, không có nghĩa là ta không gắn bó, không quý những điều mà ta từ bỏ, mà nên hiểu là không quý bằng một thứ khác đáng quý hơn. Thật vậy mạng sống của ta, cha mẹ, vợ con… đều là những thứ mà người môn đệ Chúa phải trân trọng, thậm chí rất quý; nhưng người môn đệ Chúa đúng nghĩa, thì phải coi những điều đáng quý ấy không quý cho bằng việc tuân theo thánh ý Chúa. Như vậy, Chúa đòi hỏi người môn đệ phải gắn bó với Chúa trên tất cả mọi người, mọi sự. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy Đức Giêsu không có ý phế bỏ giới luật thứ tư:” Thảo kính cha mẹ”, hay giới luật thứ năm: “tôn trọng giữ gìn mạng sống”. Đức Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh tình yêu con người đối với Thiên Chúa mà thôi chứ Người không phá huỷ những giới luật từ xưa mà Thiên Chúa đã thiết lập.

  1. Thế nhưng trong cuộc sống, lắm khi chúng ta lại đảo lộn bậc thang giá trị! Thích chọn điều có giá trị thấp hơn là điều có giá trị cao, chọn cái phù du hơn cái vững bền…! Như đi du lịch nhiều ngày với người thân trong gia đình hay ngồi quán cà-phê hàng giờ với bạn bè mà vẫn thấy vui, nhưng lấy làm khó chịu khi dành một ít thời giờ để học hỏi giáo lý! Có thể dành suốt ngày, suốt tuần cho công việc làm ăn buôn bán, nhưng lại tiếc một hai giờ đồng hồ để tham dự thánh lễ Chúa nhật! Hay xem tivi dường như suốt ngày, nhưng cảm thấy tiếc khi phải tắt nó để dành mươi phút đọc kinh tối gia đình.v.v…! Nếu cuộc sống của chúng ta như thế, nghĩa là chúng ta không dám từ bỏ, hoặc bớt đi những thú vui trần thế để dành một ít thời gian cho Chúa, thì làm sao ta có thể là môn đệ đích thực của Chúa được?!
  2. Khi từ bỏ như thế làm ta khó chịu, đó là một hình thức vác thập giá; nhưng thập giá này lại là chìa khóa, là cậy gậy dẫn đường để ta vào nước trời. Đức Giêsu chỉ được tôn vinh khi Người đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta, và nhất là khi hiến mạng sống vì lòng yêu mến Chúa Cha và nhân loại. Con đường mà Đức Giêsu đã đi qua, đó cũng là con đường của người môn được mời gọi bước theo. Để chinh phục đỉnh núi cao thì người leo núi phải cố gắng đeo bám để tiến lên, có khi phải va vào đá trầy da, chảy máu; nhưng nếu không muốn tiến nữa mà muốn sa xuống vực sâu thì chẳng cần cố gắng chi cả, chỉ buông tay thế là xong!
  3. Từ bỏ và vác thập giá không phải chỉ ngày một, ngày hai. Hành trình của người Kitô hữu theo Chúa đòi hỏi phải hy sinh, cố gắng một cách liên lỉ. Để minh hoạ cho điều nầy Chúa dùng 2 hình ảnh, một người muốn xây tháp và một vị vua muốn đi giao chiến với đối phương. Xây tháp thì phải tính toán kỹ lưỡng, đã khởi sự ắt phải hoàn thành. Giao chiến cũng phải tính toán để nắm phần chắc so với đối phương. Với hai dụ ngôn trên, Chúa không có ý bảo ta phải trù tính lựa chọn có nên theo Chúa hay không, vì muốn vào Nước Thiên Chúa thì tất nhiên phải theo Chúa. Nhưng Chúa chỉ muốn dạy ta phải bền chí theo làm môn đệ Chúa cho tới cùng, đừng nản lòng trước những khó khăn vất vả.
  4. Như người leo núi kiên trì sẽ tới đích; cũng vậy, ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi, đó là phần thưởng cho người môn đệ trung tín. Nhưng người chinh phục được ngọn núi cao không thể ở mãi trên đó, vậy mà họ lại cố gắng chinh phục. Đôi khi việc chinh phục đó có thể được ghi vào sách kỷ lục thế giới, nhưng rồi kỷ lục nầy sẽ phải nhường chỗ cho kỷ lục khác. Kỷ lục cũ không còn và người lập nên nó cũng không thể trường thọ để được tôn vinh. Vậy mà người ta lại đua nhau lập, không sợ hao tốn, hy sinh vất vã. Khi suy nghĩ như thế người môn đệ Chúa càng có lý do để từ bỏ những gì cản trở và phải chấp nhận những khó khăn trong hành trình tiến về nhà Cha trên trời, nơi trú ẩn và hạnh phúc bền vững của con người.

 

69. Suy Niệm Chúa Nhật 23 Thường Niên

(Trích dẫn từ ‘Tin Vui Xuân Lộc’)

Làm sao đồng hành với Chúa Giêsu, làm sao dám tự xưng là môn đệ của Ngài khi không yêu mến Ngài “hơn” tất cả mọi sự, kể cả mạng sống mình? Đó là một sự lựa chọn đòi nhiều dấn thân, một sự lựa chọn đầy khó khăn mà người ta không thể thực hiện một cách hời hợt. Làm sao có thể sống sự sống của Đức Kitô mà không để tình yêu của Ngài đảo lộn các mối tương quan xã hội của chúng ta đến chỗ tiếp nhận một người nô lệ như một người anh em yêu quý? Chỉ có Thánh Thần mới có thể mở rộng tâm hồn chúng ta trước những đòi hỏi của tin mừng để cho chúng ta hiểu biết đường lối và Thánh ý của Chúa.

Kn 9,13-18

Người Hi lạp coi sự Khôn Ngoan như là kết quả của cố gắng con người; còn người Do thái lại coi đó là hoa trái ơn ban của Thiên Chúa dành cho người mở rộng tâm hồn đón tiếp Người. Thánh Phaolô sẽ có một suy tư tương tự, đã không ngần ngại nói rằng cách thức hoạt động của Người là điều điên rồ đối với lòai người, không thể hiểu được đối với những người tự cho có thể đạt được sự khôn ngoan.

Thánh Vịnh 89

Thánh vịnh nầy là một lời cầu nguyện dâng lên Chúa xin Người chấp nhận đưa con người vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Plm 9b-10.12-17

Bức thư nầy được sánh ví như hạt trân châu của lòng từ tâm đầy tế nhị. Thánh Phaolô viết cho một người bạn Kitô hữu để xin ông tiếp nhận lại một người nô lệ đã trốn thoát, đang ẩn náu nơi nhà của Phaolô, đã được Phaolô rửa tội để trở thành Kitô hữu.

Tin mừng Lc 14,25-33

NGỮ CẢNH

Ở đây bắt đầu phân đọan dài, trong đó Luca gom lại các giáo huấn của Chúa Giêsu về một vài chủ đề đặc biệt hướng tới nhiều lọai thính giả khác nhau:

– nói với đám đông về điều kiện để làm môn đệ của Ngài (14,25-35).

– nói với người Pharisêu về sự cần thiết phải hoán cải để tiếp nhận những tội nhân (15,1-32).

– với các môn đệ, về việc sử dụng tiền của (16,1-13)

– với người Pharisêu về giá trị và giới hạn của Lề luật (16,14-31).

– một lần nữa với các môn đệ, về cuộc sống huynh đệ, đức tin và phục vụ (17,1-10).

Đoạn đầu tiên gồm ba lời dạy của Chúa Giêsu, dùng hình thức phủ định để trình bày các đòi hỏi dành cho người muốn đi theo Ngài:

– yêu mến Chúa Giêsu hơn tất cả và chính mình (14,26; Mt 10,37),

– vác thập giá (14,27),

– từ bỏ tất cả (14,33).

Đòi hỏi cuối cùng được chuẩn bị và minh họa bằng hai dụ ngôn ngắn (14,28-32) và tất cả kết thúc bằng một lời cảnh giác qua hình ảnh muối (14,34-35).

TÌM HIỂU

Rất đông người: đám người nầy đang đi theo Chúa Giêsu (x. 11,29) trên đường lên Giêrusalem (9,51). Nhưng Ngài muốn họ suy nghĩ về điều mà Ngài chờ đợi nơi các môn đệ. Ngài nói những lời nầy với tất cả mọi người, vì không dành riêng cho một ơn gọi đặc biệt nào cả.

Nếu ai đến với tôi: kiểu nói “nếu ai..” (14,26), “ai” (14,27), “bất cứ ai” (14,33), được Cựu Ước dùng để diễn tả lề luật Is ra el, được Chúa Giêsu xử dụng để cho thấy ý muốn của Ngài khi qui định luật mới.

Không ghét (dứt bỏ): kiểu nói dễ gây hiểu lầm trong thời Chúa Giêsu và ngày nay, thậm chí trong ngữ cảnh, động từ nầy có nghĩa là “yêu mến ít hơn” hoặc “chuộng hơn”, như trong thư Phaolô: “Khi các con bà (Êsau và Gia cóp) chưa sinh ra, và do đó chưa làm gì tốt hay xấu, thì Thiên Chúa đã nói với bà: ‘Thằng anh sẽ làm tôi thằng em. Như vậy là để giữ vững kế họach Thiên Chúa đã tự do chọn lựa, mà chọn không dựa vào việc người ta làm, nhưng dựa vào ý muốn của Thiên Chúa là Đấng kêu gọi. Như có lời chép: ‘Ta yêu Gia cóp mà ghét Ê xau” (Rm 9,12-13).

Ở đây, sự ưu ái dành cho Chúa Giêsu chỉ ngầm ý chứ không được giải thích rõ bằng ở Mt 10,37.

Để giải thích kiểu nói nầy, xin đọc lại Ga 12,25: “Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. X. thêm Lc 16,13.

Cha mẹ: Mt (10,37) chỉ nói tới cha mẹ và con cái; còn Lc kể ra tất cả những liên hệ gia đình. Dù chính đáng (18,20), những liên hệ ấy nhiều khi tạo nên một tình cảm quá mật thiết đến nỗi không còn chỗ dành cho sự ưu tiên của Nước Trời và của đức tin.

Tuy nhiên, Lc nghĩ đến nhóm xã hội hơn là các cá nhân. Lời nói của Chúa Giêsu có thể được soi sáng bằng ví dụ ông Abraham, đã bỏ đất đai và người nhà của mình, vì được Chúa kêu gọi (St 12,1-4). Và nhiều vị tử đạo đã làm chứng cho sự ưu ái đối với Chúa Giêsu. Có lẽ cũng có một ám chỉ đến sự đoạn tuyệt cần phải có trong sứ mạng nơi người dân ngọai: cần phải chấp nhận đoạn tuyệt với thế giới quen thân Híp pri (x. 12,51-53).

Cả mạng sống mình: “Không ai có một tình yêu nào lớn hơn là thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Điều mà Chúa Giêsu đã làm gương, Ngài đề ra cho các môn đệ của Ngài bắt chước. Phục vụ Nước Trời đòi hỏi người ta quan tâm tới Thiên Chúa hơn là chính bản thân mình.

Vác thập giá mình: x. c. 9,23. Kiểu nói chỉ có ý nghĩa nếu qui chiếu đến thập giá Chúa Giêsu: do đó nó được tác giả sách tin mừng xử dụng cho các độc giả mới học biết các mầu nhiệm Vượt qua. Người môn đệ dấn thân với Chúa Giêsu phải chấp nhận đi đến cùng là thập giá. Đây còn là một lời mời gọi có tính cách tín lí hơn là một lời khuyên luân lí: chấp nhận chường kì thập giá Chúa Giêsu, tin rằng thập giá là con đường đưa đến sự sống. Từng người môn đệ được mời gọi dấn thân vào mầu nhiệm ấy (x. Gl 2,19; 1Cr 1,23;2,2).

Chúng ta còn có thể dùng kiểu nói của Phêrô để giải thích kiểu nói ngược lại: “mang lấy ách” lề luật (Cv 15,10). Trong trường hợp nầy, chấp nhận thập giá Chúa Giêsu cứu độ có thể là đi ngược lại với sự gắn bó với lề luật không thể cứu độ. Ách của chúng ta không phải là ách của lề luật, mà là ách của thập giá Đức Kitô.

Môn đệ: kiểu nói “không thể là môn đệ của ta” được lặp lại đến ba lần (14, 26.27.33).

Xây: cả hai dụ ngôn đều mời gọi suy nghĩ trước khi hành động. Cách diễn tả vay mượn từ kho từ vựng Kinh Thánh, hoặc từ cách phòng thủ tự vệ riêng (tháp canh trong vườn nho hoặc tự vệ trong xưởng thợ, x. Mc 12,1), hoặc từ quân đội (áo giáp, vua).

Trong cả hai trường hợp, vấn đề là phải bắt đầu đo lường trước tầm mức công việc trước khi thực hiện để đảm bảo thành công. Nhưng trở thành môn đệ Chúa Giêsu vượt xa tất cả những gì thuộc thế giới con người và đòi phải gặp Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thập giá của Ngài. Khác với cách suy nghĩ bình thường, không phải khí giới cứu sống con người, nhưng là chính đức tin vào Thiên Chúa (x. Tv 33,16-20); điều quan trọng không phải là sở hữu, nhưng là bỏ tất cả mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu đến độ trút bỏ hết mọi sự trên thập giá (x. Pl 3,7). Cả hai thí dụ trên đòi phải từ bỏ những dự định sử dụng quyền lực, cũng mang nhiều ý nghĩa.

Những gì mình có: điều nầy cho thấy tính cách tuyệt đối trong giáo huấn của Chúa Giêsu theo Luca: đây là việc bỏ tất cả, không chỉ là những của cải vật chất, mà tất cả mọi khả năng của con người. Người ta không chinh phục sự cứu độ bằng chính sức mạnh của trí khôn của mình hoặc trả giá bằng tiền bạc, nhưng lãnh nhận sự cứu độ bằng sự khó nghèo và trong ý thức mình bất lực hòan toàn. Kiểu nói trên là một tổng hợp các điều kiện đi trước. Đây là việc đoạn tuyệt với một cuộc sống được điều khiển bằng ý muốn riêng của mình, chấp nhận để Chúa Giêsu hướng dẫn và gắn bó với Ngài cho đến thập giá. X. Ga 21,18.

SỨ ĐIỆP

Bài tin mừng chủ nhật hôm nay phải được gọi theo thánh Phaolô là “sự điên rồ của Thiên Chúa”. Sự điên rồ đã thúc đẩy Người đến độ hóa thân làm người và chết cho tất cả những người tội lỗi. Những ai chọn theo Đức Kitô không còn có thể ở lại trong bình diện lí luận nữa, mà phải đi vào tình yêu. Và chỉ như thế chúng ta mới thể lắng nghe và đón nhận lời mời gọi của Đức Kitô hôm nay:

“Nếu ai muốn theo Thầy mà không yêu mến Thầy hơn cha, mẹ, vợ con và ngay cả cuộc sống riêng của mình thì không thể làm môn đệ Thầy”.

Nghe lời ấy, chúng ta rất dễ bị cám dỗ muốn so sánh Chúa Giêsu với một người độc tài áp đặt những đòi hỏi phi lí.

Nhưng để hiểu lời mời gọi ấy của Đức Kitô, chúng ta phải thay đổi cái nhìn của chúng ta về Thiên Chúa. Tòan bộ sách Thánh Kinh mạc khải cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là tất cả cho con người. Chính vì thế mà Đức Kitô có thể đòi hỏi nơi chúng ta một đức tin tuyệt đối và một tình yêu không giới hạn. Anh em Hồi giáo nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa thật vĩ đại”. Người vĩ đại hơn vũ trụ tạo thành, vĩ đại hơn tất cả mọi quyền hành con người. Thiên Chúa là Tuyệt đối. Ngài luôn luôn siêu vượt mọi hình ảnh mà chúng ta có thể có về Người và tất cả những gì mà chúng ta có thể nói về Người. Người xứng đáng được con người tặng ban tất cả và hiến dâng trọn vẹn cuộc sống.

Vì thế mà bài tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta yêu thương Đức Kitô hơn hết mọi sự. Nếu Ngài đã hiến dâng cuộc sống mình trên thập giá ấy là bởi vì Ngài muốn cứu chuộc chúng ta và giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi, và vì chúng ta có giá trị nhất trong ánh mắt của Ngài. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu điên dại. Một lời đáp trả lời cân xứng với tình yêu ấy mà Ngài chờ đợi nơi chúng ta chỉ có thể là: “Chỉ có Chúa mới đáng kể”. Tình yêu điên dại ấy đã gợi lên trong suốt nhiều thế kỉ những lời đáp trả và dấn thân cũng mãnh liệt như thế. Như suốt đời giam mình trong bốn bức tường cao trong một tu viện kín hoặc hiến thân phục vụ những người nghèo khổ nhất ở Calcutta hoặc ở các nơi khác.

Chấp nhận để cho Chúa Giêsu vượt lên trên tất cả không phải là điều dễ dàng. Dành cho Ngài ưu tiên trên những của cải mà chúng ta đang có thì tương đối còn dễ, nhưng làm sao chấp nhận để tình yêu Chúa Giêsu lấn át mọi tình yêu đối với những người thân yêu nhất, như một người chồng, một người vợ và con cái? Thế mà, đó lại là lời dạy trong Tin mừng.

Chúng ta là những người Kitô hữu, chính Chúa Giêsu là đấng mà chúng ta phải dành ưu tiên. Nhưng tình yêu ưu tiên ấy không lọai trừ tình yêu mà chúng ta dành cho những người thân cận. Đức Kitô không đòi chúng ta phải ghét họ, nhưng đặt tình yêu dành cho họ đúng chỗ. Yêu thương tha nhân, là không phải thần thánh hóa họ hay biến họ thành thần thánh. Nhưng là cho phép họ thực hiện chính mình, trở nên chính mình. Chúng ta được mời gọi yêu thương người khác vì họ chứ không vì chúng ta. Ngang qua những người khác, chính Thiên Chúa đang hiện diện. Khi chúng ta đã khám phá điều đó, chúng ta sẽ nhận ra rằng Ngài trở nên “con đường sáng đưa ta tới khám phá vô biên”.

Trong bài tin mừng hôm nay, chúng ta có hai dụ ngôn ngắn hỗ trợ cho lời mời gọi ấy: khi muốn xây một tháp canh, phải tính tóan mọi phí tổn xây dựng. Trong tư tưởng của Israel, muốn xây dựng một tháp canh là toan tính của người muốn chế ngự. Nếu không làm xong, thì xấu hổ biết bao. Rồi Chúa Giêsu kể cho chúng ta nghe câu chuyện của ông vua muốn đi giao chiến chống lại vua khác. Chính ông cần phải lượng định cho đúng sức mạnh quân sự của mình và của đối phương nếu không muốn thất trận.

Ai chọn theo Chúa Giêsu thì cũng phải tính tóan, nhưng không giống như thế. Ngài đòi chúng ta phải yêu Ngài hơn tất cả những của cải trần gian và tất cả những gắn bó gia đình của chúng ta.

Dành cho ngài chỗ nhất trong cuộc sống, điều đó không lọai trừ các phần tử trong gia đình chúng ta; nhưng chỉ có nghĩa là dành cho họ vị trí thứ hai. Điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa; điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân. Tình nầy không thể có nếu thiếu tình kia. Khi chúng ta đặt những tình yêu của chúng ta vào đúng chỗ, thì chúng ta có thể mở ra cho tình yêu hoàn toàn không tính tóan dành cho Đức Kitô. Ngài trở thành người thứ nhất được yêu thương, được mong muốn, được phục vụ.

Theo Chúa Giêsu là đi ngược lại những cách sống của thời đại chúng ta. Sự chọn lựa của tin mừng có thể kéo theo những đoạn tuyệt đau đớn. Nó sẽ quấy rầy chúng ta trong các thói quen, tiện nghi chúng ta. Đó là trường hợp của những người sẵn sàng hi sinh thời giờ để giảng dạy giáo lí, coi sóc một nhóm trẻ hoặc tham dự vào các hội đòan và làm việc phục vụ giáo xứ. Vị trí ưu tiên dành cho tình yêu Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, đặc biệt cho những người bé nhỏ, những kẻ đau yếu, những người bị lọai trừ. Ngài mời gọi tất cả chúng ta đi theo Ngài để trở thành chứng nhân trong thế giới hôm nay.

Nếu chúng ta yêu thương Chúa Giêsu thì hãy để Ngài đi vào trong cuộc sống của chúng ta. Sự hiện diện của Ngài là một luồng Ánh sáng đến ở trong cuộc đời chúng ta và biến đổi từ bên trong. Khi cử hành Thánh lễ, chúng ta có thể múc tận nguồn để tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta đi theo Đức Kitô. Chúng ta hãy cầu xin Ngài ban cho chúng ta sức mạnh để trở thành nhân chứng nhiệt thành cho tình yêu của Người trong cuộc sống hôm nay.

 

70. Điều kiện làm môn đệ Chúa Giêsu

Chúng ta đang ở vào những ngày mà các bậc làm cha mẹ trên cả nước quan tâm nhiều cho ngày tựu trường của con em mình. Tôi có đứa cháu đang học cấp 1. Những ngày gần đây, tôi quan sát thấy bữa thì nó về xin cha mẹ mua cho tập năm ô li, ngày thì nó về kêu cha mẹ mua cho nó hộp dụng cụ học toán, hôm thì nó nói cha mẹ mua sách này sách nọ… Đối với một học sinh cấp 1 vì muốn học tốt, mà còn phải chấp nhận những điều kiện thầy cô đưa ra như thế huống hồ gì với một người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu.

Hôm nay, Chúa Giêsu bảo: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được ” và “ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được “.

Có vẻ, đây là những điều kiện khó khăn và mâu thuẫn. Chính Chúa dạy phải thảo kính cha mẹ, phải biết bảo vệ, gìn giữ mạng sống, phải yêu thương ngay cả địch thù huống hồ đây là vợ con, anh chị em… Còn ở đây Chúa Giêsu lại bảo phải dứt khoát từ bỏ hết. Chúng ta phải hiểu thế nào đây?

Chúa Giêsu là Đấng đến thế gian để thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha. Do đó, những gì Người dạy chắc là không thể mâu thuẫn nhau được. Chúa Giêsu nói có vẻ mạnh mẽ là vì muốn cho chúng ta biết cần phải coi trọng ai hơn. Cha mẹ, vợ con, anh chị em, mạng sống và những của cải… dù cho quý giá đến đâu thì đến có lúc cũng sẽ không còn gần chúng ta hay chính chúng ta phải chia tay. Bởi lẽ, mọi sự trên thế gian sẽ qua đi chỉ có Thiên Chúa tồn tại vĩnh viễn.

Là những tín hữu, chúng ta tin sau cuộc sống đời này sẽ còn một cuộc sống khác. Cuộc sống ấy bền vững và tốt đẹp hơn. Hơn nữa, đời sau con người sẽ như các thiên thần (Lc 20, 36) nếu như ngay đời này biết chuẩn bị tốt.

Chuẩn bị tốt là gì nếu không phải là chúng ta hết lòng gắn bó với Chúa ngay từ khi còn ở đời này? Chúa Giêsu đã nói: “Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó ” (Mt 24, 28). Nghia là nếu chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa là trên hết thì ngay đời này lòng trí chúng ta sẽ luôn hướng về Chúa. Khi lòng trí luôn hướng về Chúa thì mọi việc làm và cả đời ta cũng sẽ biết phó thác vào tay Chúa. Vì chúng ta tin chính Chúa mới là cứu cánh thật của đời mình. Còn cha mẹ, anh chị em… chỉ có thể giúp chúng ta đạt được cứu cánh ấy trong Chúa Kitô.

Chúng ta cũng thấy, trọn cả cuộc đời của Chúa Giêsu luôn vâng theo ý Chúa Cha. Để được như vậy thì Người phải chấp nhận từ bỏ những ý riêng mà đi trọn vẹn con đường thập giá: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39). Vì ơn cứu độ của ta mà Chúa đã phải đi con đường thập giá. Cho nên, không có lý do gì mà chúng ta có thể từ chối con đường ấy.

Thật ra mà nói, những điều kiện trên có vẻ gắt gao nhưng không phải chúng ta không thực hiện được. Khi chúng ta quyết tâm chọn Chúa trên hết trong cuộc đời thì ơn Chúa sẽ giúp luôn. Hãy xin Chúa cho chúng ta nhận ra chính Chúa là trên hết trong đời mình.

 

71. Những điều kiện để bước theo Đức Giêsu

(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Được đặt vào trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, cuộc nói chuyện của Đức Giêsu trong bữa ăn tại nhà một thủ lãnh người Pharisêu (Lc 14,1) nay đã đến lúc kết thúc. Tác giả Tin Mừng III lại giúp độc giả để ý đến bước tiến của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như đến đám đông đang cùng đi với Người. Tác giả cho thấy Đức Giêsu nói về những điều kiện để làm người môn đệ đích thực (14,25-33). Khi tìm lại văn cảnh trước đó, ta gặp một lời mời gửi đến mọi người trên mọi nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ dậu, đến dự tiệc vương quốc, để “người ta vào đầy nhà cho ta” (c. 23). Nay Đức Giêsu thêm một nhận định mới: điều kiện phải giữ để được làm môn đệ trong Vương quốc. Để được vào Vương quốc, phải đáp ứng những điều kiện riêng, và phân đoạn 14,25-33 ở trong thế song đối đối nghĩa với phân đoạn 14,15-24. Nếu đặt vào trong ngữ cảnh rộng lớn hơn, là bài tường thuật về hành trình, phân đoạn này với nhiều chi tiết nói về việc bước theo Đức Giêsu, bước đi đàng sau Người, lên kế hoạch chuẩn bị cho một công trình, … cung cấp cho tác giả những chi tiết để ngài phác ra đời môn đệ của Đức Kitô.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Mở đầu (14,25);

2) Điều kiện để đi theo Đức Giêsu (14,26-27);

3) Hai dụ ngôn (14,28-32):

  1. a) Dụ ngôn Người xây tháp (cc. 28-30),
  2. b) Dụ ngôn Vị vua ra trận (cc. 31-32);

4) Kết (14,33).

3.- Vài điểm chú giải

– dứt bỏ (26): dịch sát là “ghét” (miseô), ngược lại với agapaô, “yêu thương”. Động từ miseôđã được dùng ở Lc 6,22.27 để mô tả thái độ của những người ở ngoài đối với các môn đệ Đức Giêsu. Bây giờ động từ này lại được dùng để nói về tình yêu ưu tiên người ta phải dành cho Đức Giêsu.

– môn đệ tôi (27): Các môn đệ Đức Giêsu đã được nhắc đến ở Lc 5,30; 6,1.13.17.20; 8,9.22; 9,14.16.18.40.43b.54; 10,23;12,1.22. Sau đó họ lại được nhắc đến ở 16,1; 17,1.22; 18,15; 19,29.37.39; 20,45; 22,11.39.45. Trong sách Cv, từ ngữ mathêtai, “các môn đệ”, trở thành từ quen thuộc để gọi các Kitô hữu (6,1.2.7; 9,1.10.19.26.38; 11,26.29; 13,52; 14,20.22.28; 15,10; 16,1; 18,23.27; 19,1.9.30; 20,1.30; 21,4.26 (2x).

– một cây tháp (28): Đây là một tháp canh để bảo vê một ngôi nhà, một mảnh đất, một vườn nho.

– từ bỏ (33): Động từ Hy Lạp apotassomai, như ở 9,61, có nghĩa là “kiếu từ, từ giã” (say good-bye, say farewell). Lời khuyên này làm vọng lại lời khuyên ở 12,33, và sẽ được nhắc lại ở 18,22.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Mở đầu (25)

Điểm nổi bật nơi Đức Giêsu là sự cương quyết chấp nhận số phận bằng cách nhất định tiến về Giêrusalem. Trên đường đi, có rất nhiều người đi theo Người. Họ muốn ở với Người. Họ tưởng rằng Người có điều gì đó chắc chắn mà nói với họ và có điều gì đó bền vững mà ban cho họ. Họ bị Người thu hút. Đức Giêsu không xua đuổi họ. Nhưng Người cũng không muốn họ đi theo Người với những nỗi niềm chờ mong sai lạc. Người nói với họ rõ ràng.

Chúng ta thấy Đức Giêsu đã ba lần nêu lên những yêu cầu cho những ai muốn đi theo Người, và mỗi lần Người đều kết luận như nhau, “… thì không thể làm môn đệ tôi được” (cc. 26.27.33). Người khiến chúng ta có ấn tượng là Người muốn họ bỏ Người thay vì lôi kéo họ đến với Người.

* Điều kiện để đi theo Đức Giêsu (26-27)

Ai gắn bó với Đức Giêsu, thì cần biết mình phải đáp ứng những yêu cầu nào. Các điều kiện Người nêu ra không chỉ được đề nghị riêng cho một ít người tuyển chọn, nhưng cho tất cả những ai đang đi với Người.

Trước tiên, Người yêu cầu phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Chẳng phải là điều răn yêu thương người thân cận đã bị đảo lộn rồi sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự ghét bỏ đối với họ? Nhưng ý nghĩa của từ “ghét” ở đây được làm sáng tỏ nhờ Mt 10,37: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Điều này có nghĩa là ai muốn đi theo Đức Giêsu thì phải yêu mến Người hơn tất cả những người khác, kể cả những người gần gũi với mình nhất. Người ấy lại còn phải yêu mến Người hơn cả chính bản thân mình. Đức Giêsu yêu cầu người ta dành cho Người một vị trí đặc biệt và duy nhất. Vì thế, “ghét” đây cũng có thể phải hiểu là “dứt khoát” với những quan hệ nào đó nếu can, để có thể trung thành với Tin Mừng. Chính tương quan duy nhất với Đức Giêsu sẽ điều hành mọi tương quan của ta với những người khác.

Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, mà là cái tôi, là tính ích kỷ, là tình yêu đối với chính mình. Cả cái tôi và sự sống của ta cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu. Ai muốn đi theo Đức Giêsu, thì phải vác thập giá của chính mình, phải đi theo Người trên con đường thập giá. Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Người thích. Nhưng Người vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa.

* Hai dụ ngôn (28-32)

Rất có thể Đức Giêsu nhận thấy rằng nhiều thính giả bắt đầu nghĩ rằng Người phóng đại. Để giúp họ hiểu Người muốn nói gì, Người kể cho họ nghe hai dụ ngôn ngắn, đơn giản. Dụ ngôn thứ nhất nói về một người muốn bảo vệ hoa mầu khỏi trộm cướp và dã thú phá phách. Ông đã quyết định xây một cái tháp trong cánh đồng của mình. Trước khi bắt đầu công việc, ông đã tính toán phí tổn, để xem ông có đủ tiền mà thực hiện chăng (cc. 28-30). Dụ ngôn thứ hai nói về một vị vua quyết định ra trận. Tuy nhiên, ngay lúc đầu, ông phải lượng định về sức mạnh của đoàn quân của ông (cc. 31-32). Vào thời của Đức Giêsu, có một câu tục ngữ: “Nếu bạn muốn săn sư tử, hãy phóng cái lao của bạn xuống đất. Nếu bạn không thể phóng cái lao thật sâu, thì đừng đi săn sư tử!”. Bài học rất rõ: đừng tự lừa dối chính mình; bạn không phải là môn đệ Đức Giêsu chỉ nhờ nghe Tin Mừng của Người và cảm thấy hứng thú đối với Tin Mừng ấy. Bạn phải xem bạn có thể làm chăng những điều Người yêu cầu bạn.

Qua hai dụ ngôn, Đức Giêsu khuyên những người đang đi theo Người đừng quyết định làm môn đệ, nếu trước đó không cân nhắc kỹ càng trước. Người ta phải cứu xét đến không những các đòi hỏi phải thực hiện, nhưng cả những hậu quả của chuyện mới bắt đầu thì đã bỏ dở dang vì không có sức đi tới cùng. Các môn đệ phải xem lại là mình có những sức mạnh và tài nguyên nào.

Sau hai dụ ngôn, Đức Giêsu nêu ra điều kiện thứ ba: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (c. 33). Vấn đề không chỉ là bỏ ra một ít tiền để làm việc bác ái, mà là phải bỏ hết mọi sự.

* Kết (33)

Sau hai điều kiện (cc. 26.27), câu kết này là điều kiện thứ ba (c. 33), một đòi hỏi triệt để. Đức Giêsu kêu mời người ta từ bỏ tất cả các của cải vật chất, để có thể làm môn đệ Người.

Có những người đã giải quyết khó khăn này bằng cách chia các Kitô hữu thành “những người hoàn thiện” (linh mục, tu sĩ) một bên, còn bên kia là tất cả các Kitô hữu còn lại, những người có thể giữ tất cả những gì họ có và chấp nhận làm “Kitô hữu bất toàn”. Cách làm này đã chia họ các môn đệ Đức Giêsu thành hai, đánh mất sự hợp nhất thiêng liêng của họ. Nhưng lệnh đó được ban cho tất cả những ai muốn nên “xứng đáng” với Đức Giêsu. Để không một ai hiểu sai ý Người, Đức Giêsu đã nhắc lại giáo huấn này nhiều lần (Lc 12,33; 18,22; x. 5,11.28).

+ Kết luận

Ai muốn đi theo Đức Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vì trân trọng ý muốn của Ngài, người ta phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, bị khinh bỉ và tất cả những gì đối lập lại với một cuộc đời thú vị, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Hẳn là chúng ta muốn tạo ra một hình thái Kitô giáo vừa tầm với chúng ta, làm chúng ta vui thích. Đức Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể bước theo Người theo những điều kiện của Người. Ai muốn thuộc về Đức Giêsu, thì phải quyết định theo Đức Giêsu toàn thể, với trọn con đường của Người.

Đức Giêsu không nói rằng nếu ai muốn đi theo Người mà không từ bỏ những người than, mạng sống và mọi của cải, thì không thuận lợi bao nhiêu, mà nói là hoàn toàn vô ích, như muối không còn vị mặn nữa (x. Lc 14,34-35).

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu, muốn thực sự làm Kitô hữu, thì cần phải biết các điều kiện được đề ra, và phải suy nghĩ xem mình có khả năng đáp ứng chăng. Nếu dừng lại giữa đường rồi bỏ cuộc, thì chẳng nghĩa lý gì. Đức Giêsu muốn người ta đi theo Người cách ý thức và có cân nhắc. Các điều kiện được nêu ra không chỉ có giá trị cho một thiểu số ưu tuyển, nhưng cho mọi người. Bước theo Đức Giêsu có nghĩa là tuyệt đối không bám víu vào các của cải vật chất, và phải sử dụng chúng tùy theo dây liên kết chúng ta với Đức Giêsu.
  2. Dây liên kết người ta với Đức Giêsu phải có quyền ưu tiên hơn mọi liên hệ khác. Tình yêu đối với Người không loại trừ tình yêu đối với loài người, trái lại là đàng khác. Đức Giêsu muốn chúng ta yêu thương người thân cận. Và tình yêu đối với Người đòi hỏi chúng ta chu toàn ý muốn của Người. Nhưng tương quan với người thân cận phải được qui định bởi tương quan với Đức Giêsu và phải được tháp nhập vào trong tương quan này. Nếu phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và một người gần gũi với ta, ta phải chọn Đức Giêsu. Đàng khác, ta phải đào luyện tương quan của mình với người thân cận thế nào để không gây rối cho tương quan của ta với Đức Giêsu. Tiêu chuẩn tối hậu của đời sống chúng ta không phải là nguyện vọng hoặc ý muốn của người thân cận, hoặc sở thích của người ấy, hay là sự hòa hợp với người ấy, nhưng là ý muốn của Đức Giêsu và con đường trên đó Người đang đi mà dẫn dắt chúng ta. Người Kitô hữu không được tìm cách sống hài hòa với người thân cận ngược lại với ý muốn của Đức Giêsu, nhưng là với và trong sự lệ thuộc ý muốn đó.
  3. Bước theo Đức Giêsu: hoặc là một cuộc bước theo trọn vẹn, hoặc chẳng phải là mộtcuộc bước theo. Người ta không được chỉ chọn ra một vài nét thuộc về hành trình của Đức Giêsu mà người ta thích. Hoặc là người ta sẵn sàng đi với Người trọn chuyến đi, hoặc có bắt đầu cũng chẳng ích gì. Thập giá của Đức Giêsu là dấu chỉ cụ thể về sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha, với định mệnh của Người và với sứ mạng của Người. Đối với Người, sự trung thành này còn quý giá hơn chính mạng sống Người.
  4. Cộng đoàn Giêrusalem đã góp mọi sự lại, nên không còn có ai bị nghèo túng ở giữa họ (Cv 2,44-45; 4,32-35). Hẳn là các Kitô hữu hôm nay cũng có thể thứ những nẻo đường mới. Chắc chắn nếu chúng ta chọn bước theo Đức Kitô, chúng ta phải thay đổi thái độ của chúng ta đối với của cải của thế gian này.

 

72. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin.

MỜI GỌI TỪ BỎ

Hoạt cảnh hoàn toàn thay đổi. Cuộc hành trình tiếp tục. Các địch thủ tạm khuất dạng một chốc lát; nói với đám đông người cùng đi đường với Ngài, Chúa Giêsu dạy cho họ một bài giáo lý về điều kiện phải có để làm người môn đệ. Những lời dạy của Ngài tương phản với dụ ngôn ở trên, bởi vì chúng nêu lên trước một đề tài lúc đó được hiểu ngầm: những ai đón nhận lời mời đi vào Vương Quốc phải tuân thủ một số đòi hỏi.

Giáo huấn được mở đầu bằng hai lời liệt kê những điều kiện để trở thành môn đệ; thực thế, đến với Chúa Giêsu chưa đủ (cc.26-27). Điều thứ nhất đòi hỏi người ta ghét gia đình và cả đến mạng sống mình nữa (c.26). Chắc hẳn trong Do Thái giáo có nhiều trường hợp những người đã cưới vợ bỏ tất cả để theo phục vụ một ông thầy và học hỏi Lề Luật với ông, mà một trong những việc phục vụ là đi theo Thầy khắp nơi (x. đã có Êlisê đi theo và phục vụ Êlia, 1V 19-21). Tính cách độc đáo của lời Tin Mừng gồm có hai điểm. Trước hết, với một ngôn ngữ triệt để (“ghét”) người ta được yêu cầu phải từ bỏ, theo gương Chúa Giêsu (8,19-21; 11,27-28), mọi quyến luyến với gia đình là thứ gây cản trở (trường hợp người vợ mới cưới, x. 14,20). Mọi liên hệ hoàn toàn chính đáng này cũng như tình yêu hợp lý đối với chính mạng sống mình, không được chiếm chỗ ưu tiên. Điều mới mẻ thứ hai: rời bỏ gia đình không có mục đích là học luật nhưng để gắn bó với chính bản thân Chúa Giêsu và theo Ngài lên Giêrusalem để chia sẻ số mệnh của Ngài. Chỉ là môn đệ đích thực những ai có khả năng có được quyết định triệt để và khó khăn này: loại bỏ tất cả những gì ngăn cản họ bắt chước Chúa Kitô. Tiếp theo đó là giáo huấn về con đường khổ giá, giáo huấn này đưa ra hai điều kiện: vác thập giá mình và đi theo Chúa Giêsu. Như trong giáo huấn song song ở 9,23, có một ám chỉ đến cách thức mà Chúa Giêsu sẽ phải chết. Không có một chỗ nào khác trong Luca, Chúa Giêsu nói về việc Ngài bị đóng đinh.

Hai dụ ngôn, được gắn liền với những gì đi trước bằng một từ kiên quyết”quả thế”, mời gọi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh: không có vấn đề dấn thân một cách nhẹ dạ theo Chúa Giêsu hay làm việc nửa vời, phải đảm bảo có thể tiếp tục công trình cho đến hoàn thành (cc.28-32). Các hình ảnh rút từ cùng môt lĩnh vực: vấn đề về xây cất (một cây tháp) và về lực lượng vũ trang; trở thành môn đệ cũng gần như gia nhập một đạo binh trong thời chiến…

Khi nói về việc áp dụng dụ ngôn, có một lời giáo huấn đưa ra một điều kiện mới rất được Luca yêu thích: người môn đệ phải từ bỏ hết những gì mình có (cc.26.27.33). Ai không quyết định từ bỏ mọi sự, kể cả chính mạng sống mình, sẽ thất bại một cách nhục nhã. Tính toán đến tài nguyên và sức lực của mình chính là, một cách nghịch lý, vất bỏ tất cả những gì gây trở ngại.

Bài diễn từ kết thúc bằng một câu châm ngôn bình dân (cc.34-35). Trong thời thượng cổ muối vừa được dùng để bảo tồn thức ăn vừa là gia vị. Vì có thể giữ thức ăn khỏi bị hư thối, nó tượng trưng cho sự bền vững; bởi vậy nó rất cần thiết cho việc hy tế (Lv 2,13). Ở Palestin người ta thường dùng muối có phẩm chất kém, pha trộn nhiều tạp chất, nên nó thường bị mất mặn đi sau một thời gian. Mà muối, dùng để ướp thức ăn cũng như của lễ chẳng hạn, thì chính nó không thể được ướp bằng thứ muối nào nữa, nếu nó mất khả năng ướp măn thì chẳng có muối nào làm nó mặn lại được. Vậy mà, giáo huấn về muối này lại được nói ở phần cuối của một bài giáo lý về điều kiện phải có của người môn đệ. Do bởi ý nghĩa kép của từ Aram tiềm ẩn, câu của Luca có nghĩa”nếu chính muối đã điên rồ” (nhưng”nhạt” ở Mc 9,50) và màu sắc tâm lý này làm cho việc áp dụng giáo huấn được dễ dàng. Nếu những liên hệ giữa môn đệ và Chúa của mình lỏng lẻo, thậm chí bị cắt đứt, thì làm sao tái lập được? Người tín hữu lạt lẽo là kẻ điên rồ; kẻ vô tích sự này bị quẳng đi bởi vì họ bị mắng không thể là môn đệ (c.33). như thế đừng theo Thầy thì tốt hơn là theo cách lừng khừng hay ngừng lại giữa đường (xc. 28-32). Như Chúa Kitô nói trong sách Khải huyền:”Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi ‘lạnh hẳn hay nóng hẳn’, nhưng vì ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15-16).

 

73. Chú giải của Noel Quesson.

Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ

Chúng ta vẫn đang trên con đường lên Giêrusalem, ở đó Luca đã tập hợp các tài liệu gốc mà ngài đã thu thập bởi các nguồn thông tin của riêng ngài. Người ta có thể nói rằng đây không chỉ là một bài tường thuật cụ thể mà hơn thế nữa là lịch sử cao cả của Đức Giêsu Kitô trong mọi thời đại. Những “đám đông người” cùng đi với Đức Giêsu không chỉ là vài trăm người ở Palestine trong thời đại đó, mà là vô số người, đàn ông có, đàn bà có đã bắt đầu đi theo Đức Giêsu qua bao thế kỷ. Vậy ngày hôm nay, Đức Giêsu hướng về phía chúng ta để đặt cho chúng ta một vài câu hỏi: “Anh em nói rằng anh em là những môn đệ của Thầy nhưng anh em có biết điều đó có nghĩa gì không? Anh em có biết đi theo Thầy sẽ dẫn anh em đi tới đâu không?”.

Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được

Yêu sách đầu tiên của Đức Giêsu đúng là làm người ta phải hốt hoảng và nếu cần một lần nữa minh chứng rằng Giêsu Na-da-rét có ý thức Người không phải là “một người bất kỳ nào đó”. Vậy thì Người là ai, nếu không phải là một người điên, lại yêu cầu toàn thể nhân loại phải dứt bỏ tình cảm đến như thế, để gắn bó với bản thân của Người?

Ai có thể hiểu được ngôn ngữ của các vì sao,

Ai có thể nhận ra âm nhạc của các linh hồn,

Ai với trái tim có đủ tự do

Sẽ biết yêu mến Thầy trên hết và đi theo sau Đấng, Lời của sự sống?

Tấm lòng cần phải rất tinh tế để hiểu biết Đức Giêsu.

Dĩ nhiên Đức Giêsu là ngôn sứ của tình yêu chứ không phải của lòng thù hận. Công thức gay gắt của Người không có nghĩa chúng ta bỏ rơi những mối liên hệ gia đình. Không nhằm biện minh cho thói ích kỷ, trái lại Đức Giêsu kêu gọi một sự từ bỏ triệt để bản thân mình. Vả lại, cần phải yêu mến Đức Giêsu hơn cả mạng sống mình. Như thế, thay vì phá vỡ một cách ích kỷ mọi quan hệ nhân bản thiêng liêng nhất của chúng ta (tình yêu phụ tử, hôn nhân, bằng hữu), Đức Kitô mời gọi chúng ta, mỗi người phải làm cho tình cảm ấy được sinh động và xuyên suốt bởi tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa… Và trong trường hợp hạn chế, thật vậy, vẫn phải là: “bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Và chính Đức Giêsu đã buộc mình phải dứt bỏ gia đình riêng trước khi yêu cầu điều đó với chúng ta, khi Người hiến dâng cả hồn và xác cho việc rao giảng Tin Mừng (Lc 8,19-21; 11,27-28).

Mỗi Người, tùy theo hoàn cảnh và ơn gọi của mình, phải vui lòng đón nhận yêu sách phi thường ấy trong đời sống cụ thể. Những từ bỏ tuyệt đối nào được đặt ra cho tôi để phục vụ Nước Thiên Chúa?

Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được

Ở đây có hai công thức: Vác thập giá và đi theo Đức Giêsu. Vậy vấn đề trước tiên không phải là từ bỏ mà là tình yêu. Người nào đã thật sự tìm thấy Đức Giêsu, Người ấy đã tìm thấy giá trị phát triển nhất trong mọi trường hợp. Tất cả những gì làm chúng ta đau khổ, có thể trở thành “sự hiệp thông của tình yêu”. Mọi người vác thập giá đi theo Đức Giêsu là đi theo Đấng đã vác thập giá đi đầu. Nếu chúng ta suy nghĩ thấu đáo, khi chúng ta lảo đảo dưới sự thử thách thì Đức Giêsu đã ở đó, kề bên chúng ta, đi trước chúng ta, chính Người cũng đang lảo đảo trên con đường thập giá dẫn Người đến niềm hoan lạc của sự sống lại! Simon, gốc Kyrênê, được đặt thập giá lên vai vác theo sau Đức Giêsu là hình ảnh của người môn đệ chân chính (Lc 23,26). Ai đã khám phá điều đó, đã tìm ta một bí mật; bí mật của một hạnh phúc mà không gì có thể phá hủy được. Không gì. Phúc cho người nào có cái nhìn xuyên thấu điều vô hình để tìm kiếm khuôn mặt của Người!

Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc!”.

Dụ ngôn này là của riêng Thánh Luca: “Bổn phận phải ngồi xuống!” Dụ ngôn này nói lên khó khăn to lớn mà người ta phải chấp nhận khi cồ quyết định bắt đầu đi theo Đức Giêsu. Đây là một cuộc phiêu lưu dài ngày; và phải có thể đi đến cùng!

Đức Giêsu đã không bao giờ tìm cách quảng cáo, khi tạo ra tâm lý thành công giả tạo ở xung quanh Người. Thay vì che giấu những nguy cơ của công việc, Người nhấn mạnh chúng như để làm nản lòng ngay tức khắc những nhiệt tình bồng bột và chóng qua; như thể sự rút lui dọc đường còn tệ hơn là chưa bao giờ khởi sự? Điều này phải làm chúng ta suy nghĩ một cách thật nghiêm túc tính chất trầm trọng của việc từ bỏ đức tin khi việc từ bỏ này cố tình và có ý thức. Thôi không theo “Đức Giêsu nữa, khi người ta đã bắt đầu đi theo Người…” phải chăng trầm trọng hơn việc chưa từng biết Người? Trách nhiệm vô cùng của việc Tuyên xưng Đức Tin là thế. Nếu không nghiêm túc thì đừng làm? Trước khi tuyên hứa phải ngồi xuống, dùng thời gian mà suy nghĩ.

“Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”.

Hai dụ ngôn này “xây tháp” và “chiến đấu để thắng trận” là thành phần của các bản văn mà Luca đã có chủ ý tập hợp trong “đường lên Giêrusalem”. Hai câu chuyện này đặt song song, dễ nhớ, với văn phong nói và lặp lại. Cùng một bài học được làm nổi rõ, được gấp đôi để không ai quên: Đời sống Kitô hữu chính là “xây dựng” và “chiến đấu”. Hai công việc gian nan đòi hỏi phải suy nghi và kiên trì. Chúng cũng yêu sách sự tiên liệu và tổ chức. Anh em phải ngồi xuống để suy tính!

Một đôi khi tôi có hoàn thành lời yêu cầu này của Đức Giêsu không?

Tôi có dùng thời gian để suy nghĩ cuộc đời tôi về những cam kết của tôi? Chúng ta đều biết làm các bảng tổng kết, tính toán, tiên liệu cho các công việc của con người vậy có khi nào chúng ta dừng lại một mình hay trong nhóm với những người khác để nhận định xem chúng ta đã thật sự sống những công việc của con Người trong đường lối của Đức Kitô? Đó là mục đích của việc “xét lại đời sống”: Hãy nhìn, phán đoán, hành động, cầu nguyện trong ánh sáng của Tin Mừng.

Đi nghỉ hè về, lời mời gọi của Đức Giêsu đến đúng lúc. Một năm mới đây rồi, trước mặt chúng ta. Tất cả sẽ lại tiếp tục: Nghề nghiệp, trường học, tập đoàn, hiệp hội. Để không sống hời hợt với mình và với mọi việc, nguyện gẫm là bí quyết cửa đời sống sâu sắc và thật sự hiệu quả. Ngày hôm nay Đức Giêsu yêu cầu chúng ta không nên sống một cách hời hợt nông cạn.

Lạy Chúa, người nào mà Thần Khí Chúa cư ngụ, người ấy sẽ tiếp nhận những bí mật của Chúa Cha.

Trong ba năm của đời sống hoạt động, Đức Giêsu hầu như đã làm nhiều hơn mọi người hoạt động của thế gian.

Một bà mẹ trẻ trong gia đình, bề bộn công việc, một ngày nọ nói với tôi: “Những ngày nào con càng phải làm nhiều việc thì con càng cảm thấy nhu cầu phải ngừng lại, phải ngồi xuống mười phút để nguyện gẫm: và con được lời thời gian!”

“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.

Vậy đây là lần thứ ba trong ít dòng trở lại cùng một điệp khúc sắc bén như dao thái thịt: “Không thể làm môn đệ của tôi được”.

Và đối với Luca, điệp khúc như là kết luận của hai dụ ngôn nói trên. Cũng chính vì thế mà cần phải “ngồi xuống”. Người ta không theo Đức Giêsu trong sự dễ dãi. Ai không sẵn sàng đi đến cùng tốt hơn đừng nên khởi sự: Hãy từ bỏ tìm kiếm chính mình trong tình cảm, từ bỏ đời sống của riêng mình, từ bỏ của cải… bởi tình yêu. Lời mời gọi sự lột bỏ triệt để này, để sống nghèo khó, không phải là một “lời khuyên” dành riêng cho những Kitô hữu thượng hạng, các tu sĩ nam nữ như đôi khi Người ta thường hiểu như thế… Sự từ bỏ chính là điều kiện của mọi đời sống Kitô hữu như Đức Giêsu đã nói. Phải như thế để trở thành một “môn đệ đơn sơ”. “Anh em không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền bạc” (Lc 16,13). Một lần nữa, thay vì phải quan niệm những lời ấy của Đức Kitô như những lời quá đáng, hãy dùng thời gian để cảm nhận chúng như những lời thật sự giải phóng và làm triển nở. “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà cho em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).

Nhưng để hiểu được điều đó, dĩ nhiên Thiên Chúa phải tràn ngập trong một tâm hồn. Chúng ta có tiếp tục hướng về “cái có” một cách tham lam hay không? Chúng ta có khám phá và nghĩ ra một cách sống sung sướng trong tình bạn, sự chia sẻ và tính đơn sơ không?

“Xã hội tiêu thụ không làm cho con người hạnh phúc”.

Đức Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ ở Công viên các Hoàng Tử. Họ đã vỗ tay tán thưởng. Họ đã đồng ý. Nhưng thế thì sẽ có những kết luận thực hành nào về phương diện mua sắm, nhịp độ của đời sống và sử dụng tiền bạc… để được tự do hơn. Và thật đơn giản, để “đi theo Đức Giêsu”, để giống Người đôi chút.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Anh Nghèo, vinh quang đời đời của Thiên Chúa ở nơi Ngài!

 

74. Chú giải của R. Gutzwiller

KÊU GỌI và LỰA CHỌN (14, 15-24)

Dụ ngôn sau cùng về bữa tiệc hiển nhiên ám chỉ cuộc sống vĩnh cửu. Người ta hiểu được như vậy căn cứ vào lời một thực khách: ‘phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong Nước Thiên Chúa’. Đức Giêsu soi sáng vấn đề những kẻ được chọn trong Nước trời đã thành hình khi Ngài kể dụ ngôn các thực khách dự tiệc cưới.

  1. Mời gọi.

Trong tất cả các dân tộc, Israel là dân tộc được mời dự tiệc cưới trước tiên. Câu ‘xin mời đến vì mọi sự đã dọn sẵn’, hàm chứa lời mời của Chúa khi Ngài đến nhập thể làm người. Những gì có trước đó chỉ là chuẩn bị. Giai đoạn chuẩn bị đã chấm dứt, bữa tiệc đã sẵn sàng. Thời chuẩn bị đó chính là việc xuất hành khỏi Ai cập để về Canaan và chinh phục đất hứa; là giao ước trên núi Sinai, là toàn bộ lề luật, là sấm ngôn quan trọng của các tiên tri, là đền thờ. Ngoài ra còn là hình ảnh của những vị vua tiêu biểu, là những khổ nhục thời lưu đầy, rồi là vị Tiền Hô, sau cùng là những lời giảng thuyết và phép lạ của chính Đức Giêsu.

Giờ đây, mọi sự đã sẵn sàng. Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để nhận quyền làm chủ thành thánh. Ngài tự hỏi: không biết với những cái chuẩn bị đó, dân của Ngài đã thực sẵn sàng chưa?

Giáo Hội với công việc của mình, cũng là một sự chuẩn bị. Dĩ nhiên, đây là giai đoạn hoàn tất giao ước cũ, những vẫn là chuẩn bị đối với sự ứng nghiệm dứt khoát. Phép rửa, một cuộc tái sinh, chuẩn bị cho đời sống mới bắt nguồn từ biến cố Phục sinh. Tiệc Thánh Thể chuẩn bị cho tiệc vĩnh cửu trên trời.

Cho nên, chúng ta cử hành tiệc Thánh Thể cho tới khi ‘Chúa lại đến’. Bí tích Hôn phối chuẩn bị đi đến một cộng đồng vĩ đại, sống và yêu thương dưới quyền quản trị của Thiên Chúa. Bí tích Thống hối chuẩn bị việc Chúa đến, ân sủng chuẩn bị cho vinh quang. Sau cùng, đau khổ chuẩn bị cho cuộc khải hoàn thêm vĩ đại và cái chết chuẩn bị cuộc sống chân thực.

Giáo Hội chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa, hay đúng hơn Giáo Hội là Nước Thiên Chúa còn phôi thai.

  1. Những người kiếu từ.

Trong dụ ngôn, các thực khách được mời không sẵn sàng. Vì cho rằng còn có những việc còn quan trọng hơn, họ đã khước từ việc thiết yếu. Họ lo lắng đến những điều phụ thuộc và vì thế bỏ qua việc chủ chốt.

Lời thoái thác của người thứ nhất biểu hiệu não trạng duy vật. Một miếng đất mới tậu đối với y còn giá trị hơn một lời mời danh dự. Israel muốn có một vị Thiên Sai đem lại cho họ của cải vật chất. Đối với dân chúng, cơm bánh và vui chơi quan yếu hơn cả Tôn giáo. Trong Giáo Hội cũng có rất nhiều người lấy việc thủ đắc đất đai quan hệ hơn thủ đắc Nước Thiên Chúa. Đất đáng giá hơn trời, tiền bạc hơn tinh thần, tạm bợ hơn vĩnh cửu.

Người thứ hai viện cớ bận việc. Họ phải thử mấy cặp bò mới tậu. Đúng ra, họ có thể nhận lời nhưng phải là lúc khác. Bây giờ, họ rất bận bịu. Chúng ta thấy hạng người này ở nhiều nơi, nhiều lúc. Họ bị nô lệ cho công việc; tâm hồn không có lúc nào thư thái.

Bị lôi cuốn vào guồng máy hoạt động họ không còn thì giờ và thảnh thơi để lo đến việc trọng đại đời đời và nghĩ đến vận mệnh đích thực của mình.

Sau cùng, những nhu cầu của tình yêu và xác thể được người thứ ba đưa ra để kiếu từ. Nơi nhiều người, tình dục thắng lướt cả những nhu cầu thiêng liêng, và bản năng đã ràng buộc họ. Họ hoàn toàn chìm đắm trong dục tình và không còn gì là linh thiêng nữa. Với họ, tôn giáo hình như là một vùng đất xa xăm, một thực tại lạ lùng.

  1. Những người được tuyển chọn

Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa cuối cùng cũng phải thành hình. Điều mà Đức Giêsu đòi hỏi gia chủ trong đoạn trên thì chính Ngài sẽ thực hiện. Những người ‘ăn xin, què quặt, mù loà và bất toại được mời vào dự tiệc’. Hạng người đáng thương bị các luật sĩ khinh bỉ có cơ hội ở trong Nước Thiên Chúa. Những người bị các biệt phái bài bác, thực tế lại là những kẻ được chọn.

Lời mời được tống đạt một lần nữa, dọc theo đường đi và các bờ rào mà đến với những người không quen, những người ở xa, những người chẳng có liên hệ gì cả. Trường hợp của Israel đã đưa đến biện pháp hoạt động sứ vụ nơi dân ngoại. Họ gia nhập từng đoàn. Trong thư gửi tín hữu Rôma, th. Phaolô bình luận mầu nhiệm này:

Theo lối so sánh của thánh nhân thì: ngành cây Israel đã bị chặt khỏi thân cây Ô-liu (tượng trưng cho Đức Kitô). Nhưng gốc cây không mất sinh lực. Ngành cây dân ngoại được tháp vào đó và như thế cây Ô-liu đã sinh hoa kết trái không ngờ. Ở đây, mầu nhiệm Thiên Chúa chọn lựa được bày tỏ rõ ràng.

Đó cũng là điều khích lệ các Kitô hữu. Trong tiệc cưới trên Nước trời, người ta sẽ thấy có những người vắng mặt: giáo hoàng, giám mục, linh mục, đan sĩ, tu sĩ, giám đốc hội đoàn, các chức sắc trong Giáo Hội, những người nhiệt tâm hoạt động; việc họ không có mặt khiến người ta ngạc nhiên, nhưng có tìm cũng vô ích thôi.

Bù lại, người ta thấy có những kẻ không ngờ, họ không gia nhập Giáo Hội hữu hình, nhưng nối kết với Đức Kitô trong tâm hồn mà không ý thức, như vậy cũng là thuộc về Giáo Hội. Trong Giáo Hội, có những người bề ngoài chưa được tốt, nhưng vì có ý thức tội lỗi của mình nên đã tìm được con đường về với Thiên Chúa nhờ hối cải và sám hối.

Cũng có những người đơn sơ, ngây thơ, sống âm thầm mà vác thánh giá, đồng thời cố gắng chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống thường nhật. Những kẻ được chọn thực sự lại khác với những người thiên hạ thường nghĩ. Và nhà của Chúa cũng sẽ đầy người…

Trong khi Chúa tiến về Giêrusalem, và cảm thấy sức đề kháng của quần chúng. Lời huấn dụ của Ngài ngày càng có tính chất trang trọng và nghiêm khắc, tuy nhiên vẫn có mầu sắc lạc quan. Vì căn nhà Chúa đến để xây dựng thì Ngài sẽ dành cho những người biết đền đáp tình thương của Ngài.

TỪ BỎ (14, 25-33)

Nếu trong đoạn trước, khung cảnh bên ngoài của bữa tiệc khiến đoạn văn được thống nhất, thì ở đây, mọi lời Chúa nói đều quy về một ý niệm sâu xa là sự thoát ly và từ bỏ.

Nhiều đám đông dân chứng dấn bước theo Thày. Họ tưởng là noi gương Thày cũng dễ thôi, và trong lúc hăng say nhất thời, mọi chuyện họ đều coi là thường. Chính vì lẽ đó, Chúa Kitô, một cách từ tốn nhưng không kém phần nghiêm trọng, đã đặt ra cho thính giả đang nghe Ngài, là các môn đệ, một điều kiện gắt gao.

  1. Yêu sách

Người nào muốn theo Ngài hẳn phải cởi bỏ mình khỏi những gì ràng buộc mình nhất. Người đó phải cắt đứt liên hệ với gia đình,, tức là những liên hệ huyết nhục: ‘cha mẹ, vợ con, anh chị em’. Tình gia tộc huyết thống đã được ghi khắc trong bản tính loài người, và thêm đậm đà thắm thiết nhờ những tháng dài chung sống với nhau.

Thế nhưng Thiên Chúa còn quí giá hơn gấp bội, và hết thảy mọi quyền lời phàm nhân đều phải nhường bước trước những quyền lợi Thiên Chúa. Quyền lợi của Thiên Chúa ràng buộc con người đến độ mọi thứ liên hệ khác hoá ra vô hiệu.

Theo kiểu diễn tả lạ kỳ của Kinh Thánh, thì Chúa là Thiên Chúa hay ghen. Tình yêu mà Ngài đòi hỏi phải toàn diện và tuyệt đối, để về phần Ngài, tình yêu của Ngài cũng làm mãn nguyện những kẻ được tuyển chọn. Người ta chỉ có thể hiểu được bí nhiệm trọng đại đó, chỉ có thể tiến sâu vào ngôi thánh điện này một khi hoàn toàn thoát ly khỏi tạo vật. Người ta chỉ vào phòng loan với Chúa một thân một mình mà thôi.

Còn hơn thế nữa: con người đó lại phải từ bỏ ‘chính bản thân mình’. Thân phận con người hoàn toàn tự nhiên, với những ước muốn, những nhớ nhung, bản năng tự cao tự đại, lòng ham sinh uý tử, địa vị của mình trong xã hội và đồng loại, tất cả những cái đó phải được từ bỏ hoàn toàn.

Như cánh bướm kia thoát thân từ caí kén, con người mới sẽ một lần nữa rời bỏ cung lòng người mẹ để tái sinh trong cuộc sống mới. Đức Kitô còn đòi hỏi hơn nữa: con người đó phải ‘ghét’ tha nhân cũng như chính mình vậy. Như thế không chỉ có ý nói đến sự xa cách về không gian, sự chấp nhận những thua thiệt, sự từ bỏ tiệm tiến và hầu như không cảm thấy, nhưng đây là một sự từ khức mãnh liệt, có ý thức, đớn đau ở mọi nơi mọi thời.

Khi gặp phải chống đối hoặc ngay cả khi Thiên Chúa hay những nhu cầu linh thiêng coi như dửng dưng xa cách, lúc đó con người sẽ phải lựa chọn, phải quyết định trước một ngã ba đường nan giải.

Còn phải đi xa hơn nữa: ‘Ai không vác khổ giá mình, ắt không thể là môn đệ Ta’. Bị đóng đinh có nghĩa như bị xã hội coi như là nguy hiểm và đại ác. Thập giá đem lại cái gì? Thưa, bị bạo lực nghiền nát, bị hành hạ, xua đuổi, chết chóc, một cuộc đời kết thúc ô nhục và đẫm máu.

Trên tất cả, có một lời soi sáng và biện minh cho yêu sách tiệm tiến đó: ‘Kẻ nào theo Ta, kẻ nào muốn làm môn đệ của Ta’. ‘Ta’ và ‘của Ta’ ở đây ám chỉ Chúa Kitô. Theo Ngài là bước đi trong con đường của Ngài, là được làm môn đệ của Ngài, là được dõi bước theo Ngài. Ngài là một vị Thày thật cao cả, tình yêu thương của Ngài quá mạnh mẽ,những điều Ngài đòi hỏi quả chính đáng, uy thế của Ngài mãnh liệt đến độ mọi cái khác đều phải lùi bước.

Khi đã tận hiến hoàn toàn cho Chúa, không thể nào sống dễ dãi, tiện nghi nữa, mà chỉ còn Thiên Chúa độc quyền đòi hỏi và tình yêu hướng về đối tượng độc nhất.

  1. Soi sáng

Giáo huấn này thật là quan trọng, khiến Chúa Giêsu phải soi sáng bằng ba ví dụ. Thứ nhất: việc xây tháp. Cũng như không thể xây một cái tháp mà không có một đồng xu dính túi, thì người ta chẳng thể xây dựng đời sống theo Đức Kitô một cách tươi vui khi không có sự từ bỏ hoàn toàn. Sự hy sinh phải được coi là điều kiện tiên quyết, một giả thuyết nền tảng.

Thí dụ thứ hai là cuộc chiến. Ông vua cần có binh lính mới chinh phục được chỗ này chỗ nọ; người môn đệ cũng cần phải có sự từ bỏ để chiến đấu chống lại thù địch của Thiên Chúa. Trong trận chiến trần gian, binh giáp là điều kiện tiên quyết thì hy sinh cũng là điều kiện rất cốt thiết cho cuộc chiến đấu thiêng liêng: ‘Ai trong anh chị em không từ bỏ hết thảy của cải mình đi thì không thể làm môn đệ của Ta’. Trong hai thí dụ trên đây có một sự đảo lộn giá trị. Tiền bạc là một động lực hữu hiệu để xây tháp cũng như muốn chiến tranh cần phải có ba quân chiến sĩ.

Ta cũng phải kết luận rằng: muốn phục vụ Đức Kitô, con người cần phải có những giá trị tích cực. Nhưng hai hình ảnh lại có ý nghĩa trái ngược. Đối với thế gian, chiếm hữu là cơ bản; còn trong việc theo gương Chúa Kitô, sự không-chiếm-hữu, sự từ bỏ mới chính là điều quan trọng hơn hết. Chúa Kitô là và phải là tất cả. Từ bỏ đối với Đức Kitô không nghĩa là một tặng phẩm với hậu ý được đền đáp.

 

75. Chú giải của Fiches Dominicales

NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Để đi đến cùng.

“Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía “đám đông cùng đi đường” với Người, để dạy cho họ bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người.

Chỉ “đến với” Đức Giêsu thôi không đủ. Đi theo Người bao gồm việc phải chấp nhận để chó những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta: cách riêng trong phạm vi những mối liên hệ gia đình và sử dụng của cải vật chất, là đề tài quen thuộc của Luca.

Những “liên hệ gia đình”:

Đức Giêsu tuyên bố không úp mở “ai đến với tôi, mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Ở đây, Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa “là ghét bỏ” để diễn tả lối nói nguyên thuỷ bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là ‘dứt bỏ’ hay “tai ương ít hơn”, “không thương hơn.”: Tất cả những mối liên hệ nhân loại, dù chính đáng và thâm sâu đến đâu ngay cả đến “mạng sống” con người đi nữa, đều phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức Kitô. N. Quesson giải thích ngay. “Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu là một vị Ngôn sứ của tình thương chứ không phải của thù ghét.

Lối nói thẳng thừng của Người ở đây không có nghĩa là cho chúng ta được phép xem nhẹ những liên hệ gia đình. Thay vì biện minh cho tính ích kỷ Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải có một sự từ bỏ mình triệt để. Hơn nữa, còn phải mến yêu Đức Giêsu hơn cả chính mạng sống mình. Cho nên không hề dạy người ta phải đoạn tuyệt một cách ích kỷ với mọi liên hệ nhân loại thiêng liêng nhất (như lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng, tình bằng hữu…), Đức Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm trên xuyên qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa. Quả thực, có những trường hợp người ta đành “phải” bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái “vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Đó là sự từ bỏ của Đức Giêsu đối với chính gia đình của Người. Người đã tự nguyện làm thế trước khi đòi hỏi chúng ta, lúc Người hiến trọn thân xác và linh hồn cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. (“Parole de Dieu pour chaque dimanche. Năm C, Droguet Ardant, trg 268).

Ngay sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Vấn đề là người môn đệ phải đi theo con đường của Đức Giêsu, dẫn đến Giêrusalem và dẫn đến thập giá, dù phải bỏ mạng ở đó. Bởi vì điều thiết yếu là phải đồng số phận với Thầy mình. Và đó chính là thân phận của người môn đệ.

Đối với các Kitô hữu thời thánh Luca, cũng như đối với chúng ta hôm nay sau 20 thế kỷ, lời dạy của Đức Giêsu vẫn là tiếng gọi thiết tha hãy đi theo người trên con đường Canvê, hãy đích thân chia sẻ mọi đau đớn, khổ nạn là cái chết của Người (J Seynave, “Assemblées du Seigneur”, số 54, trg 70-71).

Những của cải vật chất:

Đức Giêsu kết luận: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được “. Từ chối không tôn thờ của cải vật chất, bằng cách sẵn sàng chấp nhận mất tất cả để trung thành với đức tin, đó chính là một đòi hỏi của Tin Mừng cho ai muốn đi theo Đức Giêsu.

  1. Meynet chú thích, “Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trữ bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Người” (L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique”, tập 2, Cerf, trg 157).
  2. Trước tiên phải ngồi xuống tính toán:

Sau đó, để tránh mọi hàm hồ, Đức Giêsu ngỏ với những người đang nghe hai dụ ngôn nhỏ, nhằm cảnh giác họ phải coi chừng một kiểu dấn thân hời hợt: dụ ngôn người đàn ông nọ định xây một cái tháp và dụ ngôn vị vua kia sắp đi giao chiến với một vua khác. Cả hai đều sử dụng dạng câu hỏi: Ai trong anh em muốn xây một cái tháp?… Có vua nào đi giao chiến…?, để kêu gọi người ta phải trước tiên ngồi xuống suy tính đã, rồi mới dấn thân và chấp nhận mạo hiểm bước theo Đức Giêsu.

Theo tạp chí ’Célébrer’ số 251, trang 42, chắc đây là hai dụ ngôn nhỏ vốn nằm riêng rẽ, nay được Luca xếp chung lại với nhau trong bài viết của Ngài. Trong bối cảnh quãng đời công khai của Chúa, cũng giống như một số dụ ngôn khác tương tự có thể gọi chung là “những dụ ngôn về sự quyết định”, chúng là công cụ được Đức Giêsu sử dụng để giúp cho các thính giả của người có dịp suy nghĩ, mời gọi họ cởi mở tâm hồn với Người, sẵn sàng sám hối trở về. Luca đã lấy lại hai dụ ngôn này là hướng ý nghĩa của chúng về mối bận tâm chính của ngài: phải dứt khoát rõ ràng, để làm môn đệ Đức Giêsu ở đây và lúc này. Có hai phạm vị áp dụng chính: tiền bạc và liên hệ gia đình. Cần phải suy tính đo lường giá phải trả, đừng liều lĩnh nhắm mắt đưa chân.

BÀI ĐỌC THÊM

  1. Động lực duy nhất hướng đến sự sống.

“Trước lúc lên đường làm một chuyến leo núi, bạn phải ngồi tính toán xem nên mang theo những gì trong bị: lương khô kẹo bánh, đường,.. Tóm lại, tất cả những gì là cần thiết, tuy nhiên chỉ những gì phải có để leo tới đỉnh núi rồi xuống. Chẳng ai dại gì ôm đồm nhiều cho nặng hay vướng vít khó đi, bỏi vì vấn đề là làm sao đi đến nơi về đến chốn an toàn. Muốn bước theo Đức Giêsu, cũng thế bạn đừng để mình vương vấn bất cứ cái gì? “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa…”. Đúng là một danh sách dài! Chuyện này có khả thi hay không? Lẽ nào Đức Giêsu, một con người rất mực nhân lành, dịu dàng, lại có thể đòi hỏi một chuyện như thế? Ngộ nhận, gây vấp phạm? Không thiếu kẻ đã bị dội trước những lời yêu sách quá đáng này. Một số môn đệ và ngay cả các tông đồ đã không đi theo Người đến tận đỉnh Gôngôtha. Họ run sợ khi thấy chính quyền và dân chúng lồng lên chống lại Người. Họ nhát. Họ chẳng dám liều mạng. Phải chăng họ có lý? Hy sinh, chết để mà chết, có ích gì?

Phải đợi đến sau biến cố Phục sinh họ mới sẵn sàng đón nhận cái chết. Khi đó, họ mới hiểu rõ rằng chết không phải là uổng đời, và cái biện chứng “chết – sống” chính là động lực duy nhất đưa đến sự sống. Sống cho tình yêu phải chăng là chết đi liên lỉ mỗi ngày trong suốt cuộc đời? Yêu mến Đức Giêsu hơn cả cha mẹ, vợ con, đâu phải là chê bỏ lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng? nhưng là yêu thương bằng một tình yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn, nhân danh Đức Giêsu Kitô.

Đi theo Đức Giêsu chính là bước vào quỹ đạo của tình yêu tự trao ban đến cùng”.

  1. Thiên Chúa, Đấng duy nhất tuyệt đối:

Đức Giêsu đã đảo lộn tất cả mọi ý niệm về giá trị và tình cảm của chúng ta khi Người truyền phải yêu mến Người hơn cả cha mẹ, vợ con… Chúng ta vốn nhạy cảm với cái nghĩa thiêng liêng của gia đình nên không dễ gì hiểu ngay được lời mời gọi của Tin Mừng. Đối với chúng ta, cũng như đối với mọi định chế trong xã hội, có gì hiển nhiên cho bằng trước hết phải thương yêu vợ con mình? phải làm tất cả cho người thân trong gia đình mình?

Dường như Đức Giêsu đang có ý thách thức chúng ta. Người đề nghị cho chúng ta một lối đi đầy ngỡ ngàng, đòi phải có niềm tin lẫn quyết tâm. Người như muốn nói với chúng ta rằng chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối mà thôi. Trước đòi hỏi gắt gao của Đức tin, chúng ta thường có xu hướng biện minh: mình phải lo cho gia đình, công việc, cửa nhà, ruộng đất… đã chứ!

Đi theo Đức Giêsu là phải dám đảo lộn lại trật tự mọi sự và mọi việc. Phải có can đảm đặt Thiên Chúa ở hàng đầu, ở trung tâm cuộc sống. Đúng chỗ của Người. Khi đó, chúng ta sẽ thấy mình yêu thương người thân cách chân thực hơn. Chu toàn mọi công việc có kết quả đích thật hơn. Lo lắng cho gia đình đúng nghĩa hơn.

Những gì chúng ta có thể làm cho mái ấm của mình, cho sự tôn trọng quyền con người, cho việc bảo vệ sự sống, cho sự nhìn nhận kẻ khác với lòng bao dung, cho cuộc đấu tranh chống lại mọi hình thức ngược đãi, cho tự do và dân chủ… chúng ta hãy qui tất cả một cách trọn vẹn vào mối tương quan với Thiên Chúa. Trong thái độ của Đức tin, chúng ta đặt Người vào trọng tâm của tất cả, ở nguồn mạch tất cả, nơi tận cùng của tất cả. Như là Đấng Tuyệt đối.

Nhận ra Thiên Chúa là cái “nền” của toàn thể nhân loại, chúng ta mới gặp gỡ được ý định của Người. Khi đó chúng ta mới phục vụ và làm thăng tiến nhân loại.

 

76. Suy niệm của William Barclay.

Trong khi Chúa Giêsu đi hướng về thành Giêrusalem, dân chúng đi theo càng ngày càng đông và sự náo nhiệt phấn khởi càng tăng. Dân chúng tưởng rằng Ngài sắp lập một nước vinh quang đầy quyền uy, họ mong được dự phần trong vinh hiển ấy. Để đánh tan hiểu lầm, Chúa Giêsu quay lại phán bảo họ những điều kiện chính yếu để làm môn đệ Ngài. Bằng cách rất sinh động, Ngài bảo họ rằng theo Ngài không phải là để được quyền thế và vinh quang của thế gian này, nhưng phải có lòng trung thành đến độ sẵn sàng chịu khổ như sự thống khổ của kẻ bị treo trên cây thập giá. Chúng ta không nên hiểu lời Chúa Giêsu theo một nghĩa đen lạnh lùng, thiếu óc tưởng tượng. Ngôn ngữ Đông phương bao giờ cũng sinh động tới độ cao nhất của trí khôn loài người. Khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ghét những kẻ gần gũi và thân thiết với mình là Ngài không có ý nói theo nghĩa đen. Ngài chỉ muốn nói rằng tình không có tình yêu nào trên đời này có thể so sánh với tình yêu mà chúng ta có đối với Ngài được. Có hai chân lý nổi bật trong đoạn này:

  1. Có thể là người theo Chúa Giêsu mà vẫn không phải là đầy tớ của Ngài, có thể là kẻ theo trại quân mà vẫn không phải lính của vua, có thể là kẻ bám víu vào một đại sự mà vẫn không dấn thân gì cả. Có người nói với một giáo sư về một chàng thanh niên rằng: “Anh ta nói với tôi rằng anh ta là học trò của ông”. Vị giáo sư thẳng thắn trả lời: “Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi, nhưng không phải là một trong số học trò của tôi”. Có sự khác biệt giữa một người trong lớp và thực sự làm học trò. Thật rất đáng buồn cho Hội Thánh khi trong Hội Thánh có quá nhiều kẻ theo Chúa cách xa xa và có quá ít người thực sự là môn đệ Chúa.

Những lời Chúa phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ nghe chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều: tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong trái tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy. Thánh Grêgoriô Cả giải thích câu “khó nghe” này, ngài viết: “Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khoát là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu: Chúa trên hết.

Thật ra những lời này cũng chỉ là lặp lại yêu sách mà Đức Giêsu đã đặt trong toàn bộ giáo huấn của Ngài (x. Lc 6,27-35). Đây quả là lời đanh thép. Dầu động từ ghét hay khinh thì cũng không diễn tả đúng được ý của Chúa, nhưng dầu sao những lời của Chúa cũng rất mạnh, và không thể giản lược vào “ít yêu hơn” như có người muốn để cho nó nhẹ đi. Lời rất khủng khiếp không phải vì nó được diễn tả trong thể phủ định, nhưng vì Đấng nói ra cũng là Đấng từng yêu tha nhân như chính mình và là người hiến mạng vì loài ngừơ. Lời Ngài chỉ phải hiểu đơn giản rằng đối với Chúa không có thái độ nửa vời. Người ta có thể diễn dịch lời Chúa bằng yêu hơn, yêu nhiều, hay đừng yêu bằng, một tình yêu vị kỷ cũng đừng yêu nửa vời: chúng ta phải yêu bằng chính tình yêu của Thiên Chúa” (Escriva). Chính Công Đồng Vaticanô II cũng dạy các tín hữu: “Phải chuyên lo làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn đẹp lòng người ta, luôn sẵn lòng bỏ mọi sự vì Chúa Kitô và chịu bách hại vì sự công chính”. (TĐ 4) và trong hiến chế Mục vụ Công Đồng dạy: “Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Ngài nêu gương để chúng ta theo vết chân Người, nhưng Người còn mở đường mới để nếu chúng ta theo thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới” (MV 22). Đường của người Kitô hữu đi là theo chân Đức Kitô, là nên giống Ngài. Không có con đường nào khác để theo Ngài ngoài con đường gúp Ngài vác thập giá. Kinh nghiệm cho hay rằng đau khổ luôn có sẵn và bất hạnh cũng kèm theo nếu thiếu một phản ứng với tinh thần đạo Kitô. Thập giá đâu phải là tấn bi kịch, thập giá là phương pháp sư phạm Chúa dùng để thánh hóa ta qua đau khổ, để liên kết ta vào Chúa Kitô và để ta được xứng đáng với vinh quang. Thế nên Đấng Đáng Kính Escriva đã reo lên: “Chúc tụng đau khổ! Đáng yêu thay đau khổ! Thánh thay đau đớn!”

  1. Phải tính cái giá phải trả khi theo Chúa. Không muốn làm nản lòng những kẻ theo Ngài, nhưng Ngài bảo họ phải tính toán trước cho kỹ. Ngài minh giải điều đó bằng hai hình ảnh về người xây tháp và vị vua lâm chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cà vườn kẻo trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương. Chúa Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ.

Qua những hình ảnh minh họa này, Chúa cho chúng ta thấy nếu con người khôn ngoan cần phải tiên liệu các rủi ro đi kèm theo với bất cứ công việc nào, thì người Kitô hữu còn có lý do hơn để mà tự tình và quảng đại ôm lấy thập giá, vì nếu không thế sẽ không theo Chúa Kitô được: “Người này bắt đầu mà lại không hoàn thành nổi”. Lời phẩm bình không ai muốn nghe, mà nếu bạn muốn bạn sẽ không bao giờ là đối tượng, vì bạn có đủ mọi phương tiện để hoàn thành việc nên thánh: “ơn dư dật của Chúa và ý chí của bạn” (Escriva).

Nếu trước đó Chúa có nói tới việc ghét cha mẹ và đến hiến mạng sống, thì giờ đây cũng vẫn đòi hỏi cao độ ấy với sự từ bỏ của cải vật chất. Câu này là phải được áp dụng cho cả hai dụ ngôn nêu trên. Cũng như một vua nhất định giao chiến dầu biết tình hình ít quân là thiếu khôn ngoan, cũng thế một người đến theo Chúa mà lại không từ bỏ của cải là điên khùng. Từ bỏ của cải ở đây phải thực tiễn và cụ thể: tấm lòng phải cởi bỏ mọi trói buộc của cải trần gian mới có thể bước theo Chúa như Chúa nói sau này một người không thể vừa thờ Chúa vừa thờ tiền bạc (Lc 16,13). Không thiếu trường hợp Chúa đòi hỏi một số người sống đời nghèo khó tuyệt đối và tự nguyện; còn đối với tất cả, Chúa mong muốn một sự từ bỏ thực sự và quảng đại trong sử dụng. Nếu người Kitô hữu còn phải sẵn sàng từ bỏ đến cả mạng sống, còn nói chi đến việc từ bỏ của cải: “Nếu bạn là người của Chúa. Phải khinh chê của cải một cách cố chấp cũng như người thế gian ngoan cố trong việc tìm kiếm nó” (Escriva).

Ngoài ra vì tâm hồn muốn được đầy tràn Chúa, trước hết cần phải tống khứ ra ngoài tất cả những gì cản trở: giáo lý Con Thiên Chúa đến trần gian dạy là phải khinh chê tất cả các tạo vật, để thích ứng ta tiếp nhận Thần Thiên Chúa. Bao lâu tâm hồn ta không từ bỏ được các tạo vật, thì không thể nào đón nhận được Thần Linh Ngài và không thể biến đổi ta trong Ngài” (Gioan thánh giá, Montre du Cormel). Nhưng nếu có ai sợ hãi trước tất cả những đòi hỏi ấy thì nên nhớ rằng mình không phải chiến đấu cô đơn đâu, Đấng đã kêu gọi chúng ta vào con đường hẹp, sẽ đi cùng chúng ta trên con đường đó, và Ngài sẽ ở cùng cuối đường để đón tiếp chúng ta.

 

77. Tính toán – Trầm Thiên Thu

Người ta nói: “Làm không biết tính, thính không có mà ăn”. Quả thật, dù điều to hay nhỏ, dù việc bình thường hoặc quan trọng, thì cũng đều phải tính toán – dù mức độ có khác nhau. Tính toán chứ không mưu mô, lọc lừa, lươn lẹo, ranh ma, vụ lợi hoặc thực dụng… Thế nhưng người ta cũng nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Còn Thánh Phaolô xác định: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3:6). Đó mới là vấn đề! Với Thiên Chúa, tính toán không nhằm tư lợi mà là từ bỏ chính mình. Cách tính toán của Thiên Chúa thật là độc đáo! Đúng vậy: “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi” (Kn 11:20).

Chuyện đời sống, chuyện sinh hoạt hằng ngày, ai cũng phải biết tính toán đã đành, lớn tình chuyện lớn, nhỏ tính chuyện nhỏ. Chuyện tâm linh cũng cần biết tính toán sao cho hợp Ý Chúa, hợp với hoàn cảnh của mỗi người. Sống đúng bậc mình trong hoàn cảnh hiện tại là biết tính toán để nên thánh, là biết làm đẹp lòng Chúa.

Tính toán có thể là cộng, trừ, nhân hoặc chia. Nhưng phải tính toán sao có lợi cho tha nhân: CỘNG lại tình người, TRỪ đi hận thù, NHÂN lên yêu thương, CHIA sẻ lòng thương xót, và đừng bao giờ CHIA rẽ. Tác giả sách Khôn Ngoan thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi? Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững” (Kn 9:13-14). Và rồi tác giả nhận định: “Thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề” (Kn 9:15). Thực tế quá phũ phàng, nhưng sự thật là vậy, không ai có thể chối cãi. Có lần Chúa Giêsu cũng nói: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Phàm nhân là cát bụi, quá mỏng dòn, quá yếu đuối, thế nên mới phải cố gắng tỉnh thức kẻo sa chước ba thù – ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Thứ nào cũng ghê gớm, dữ tợn, đủ sức làm chúng ta đắm chìm trong vũng lầy tội lỗi. Do đó mà luôn phải cẩn trọng, tỉnh thức. Tỉnh thức cũng là một cách tính toán vậy!

Tác giả sách Khôn Ngoan đại diện chúng ta thân thưa với Chúa: “Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” (Kn 9:16-18).

Quả thật, cuộc đời là thế. Có những điều tưởng chừng dễ như trở bàn tay, ấy vậy mà chúng ta phải vất vả lắm mới may ra làm được; và có những điều tưởng như trong tầm tay, thế mà lại vuột khỏi tầm tay khiến chúng ta buồn não lòng. Tính toán chi li, tính toán rất kỹ, thế mà chẳng nên công cán gì, y như “dã tràng xe cát biển Đông” vậy! Vì thế, dù chuyện to hay nhỏ đều phải nhờ ơn Chúa: Tất cả đều là Hồng ân.

Thánh Gióp nhận định: “Chúa có thể giết tôi, tôi chẳng còn gì để hy vọng, nhưng trước nhan Người, cách sống của tôi, tôi phải biện hộ. Đó chính là điều sẽ cứu tôi, vì trước nhan Người, ác nhân sẽ không dám xuất đầu lộ diện” (G 13:15-16). “Tâm phật, khẩu xà” đúng là Pharisêu chính hiệu. Cách sống thường nhật của chúng ta đối với tha nhân quan trọng hơn động thái khúm núm trong nhà thờ. SỐNG ĐẠO quan trọng hơn GiỮ ĐẠO. Từ cửa nhà thờ trở ra mới chứng tỏ ai là môn đệ đích thực của Đức Kitô, chứ không phải chỉ từ cửa nhà thờ tới bàn thờ.

Tác giả Thánh Vịnh nói rằng “Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi” khi Ngài phán bảo: “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!” (Tv 90:3). Đối với Thiên Chúa chỉ có hiện tại, không có quá khứ hoặc tương lai, không có khái niệm thời gian hoặc không gian, không có khái niệm dài hoặc ngắn: “Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!” (Tv 90:4). Thời gian là của Chúa, ngay cả sự sống và những gì chúng ta sở hữu cũng không thuộc quyền của chúng ta, mà chúng ta chỉ là người được Chúa trao cho quyền quản lý. Tất nhiên chúng ta phải chịu trách nhiệm. Khoảng trăm năm đời người xem chừng dài lắm, nhưng cũng chỉ như thoáng chiêm bao, tựa bóng câu qua cửa sổ, không khác đóa phù dung hoặc con thiêu thân: “Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn” (Tv 90:5-6). Quả thật, tuổi đời càng tăng thì người ta càng cảm thấy thời gian như ngắn hơn trước, dù một giờ vẫn đủ 60 phút, một thực tế bất biến. Qua đó, chúng ta hiểu và chắc chắn rằng Thiên Chúa bất biến, chỉ tại nhân loại biến thiên mà thôi.

Tác giả Thánh Vịnh cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12). Đó là tỉnh thức, là biết lo liệu, là biết tính toán. Sẵn sàng như vậy nên người ta khát khao được ngụp lặn trong Biển Tình Yêu của Chúa: “Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca” (Tv 90:13-14).

Chúng ta quản lý cuộc đời mình một cách tốt đẹp nếu biết cầu xin Chúa phù trợ: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv 90:17).

Chắc hẳn vì thế mà Thánh nữ Faustina xác định: “Tôi không tìm hạnh phúc ngoài nội tâm nơi Chúa cư ngụ. Tôi hạnh phúc khi Chúa ở trong tôi. Tôi ở với Ngài mãi mãi. Đó là nơi thân mật của Ngài và tôi. Tôi an toàn ở bên Ngài. Đó là nơi không bị loài người dò xét. Đức Mẹ khuyến khích tôi giao tiếp với Chúa bằng cách này” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 454). Hay quá! Nhưng chúng ta thường LỢI DỤNG CHÚA hơn là TÍN THÁC vào Ngài – mà miệng lưỡi hoặc bề ngoài chúng ta vẫn oang oang: Con tín thác vào Chúa. Hãy cẩn trọng kẻo bị ảo tưởng, vì sự lợi dụng và lòng tín thác rất “gần” nhau, khá giống nhau. Có lẽ nhiều người đang lâm tình trạng này mà không biết đấy!

Trong thư gởi cho Philêmôn, Thánh Phaolô viết: “Tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi là một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô” (Plm 1:9-10). Thánh Phaolô PHẢI kêu gọi BÁC ÁI vì người ta thường lầm lẫn các cạnh của “tam giác yêu thương”. Đó là Bác Ái, Công Bình, và Bố Thí. Ba cạnh có vẻ “giống” nhau và “đều” nhau, nhưng thức tế không phải vậy. Ví dụ, trong âm nhạc, “nửa cung” có vẻ giống nhau, dù gọi là bán-cung-dị hoặc bán-cung-đồng (có vẻ rất giống nhau khi dùng piano – thực tế rõ ràng với phím ĐEN và TRẮNG – theo bán cung Tây Phương, nhưng thực tế hai nửa cung ấy hoàn toàn khác nhau, nếu xét theo kiểu bán cung của Ấn Độ, và bán cung Việt Nam cũng tương tự).

Chuyện có vẻ riêng tư khi Thánh Phaolô gởi thư riêng cho Philômôn, nhưng thực sự vẫn là chung, cái riêng ở trong cái chung, và cái chung ở trong cái riêng: “Tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Thiết tưởng không cần nói gì thêm, vì quá rõ ràng rồi!

Bác ai là yêu thương. Yêu thương bằng hành động chứ không thể nói suông bằng đầu môi chót lưỡi. Dễ hay khó? Vừa khó vừa dễ. Tùy. Cái từ “TÙY” này mới thật là “đáng sợ” đấy! Vấn đề là đừng “đạp trên”, đừng “đội dưới”. Nghĩa là đừng mặc hai loại áo, một loại vạt trước dài và một áo vạt trước ngắn. Nói thẳng ra là đừng nịnh trên mà hù dưới. Kiểu này nhiều người “mắc” lắm!

Một hôm nọ có vẻ “đẹp trời”, thấy có rất đông người cùng đi đường, Đức Giêsu quay lại bảo họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26-27). Nghe “choáng” quá, vì “sốc” ghê đi. Người ta chỉ thích “vội vàng vơ vét về” (5 V) thế mà Đức Giêsu lại bảo phải “BỎ”, phải “BIỆT” dù “BIẾT” – toàn là “bờ”. Chán chết được! Ấy thế mà có “chết” được đâu!

Chúa Giêsu rất khoái dụ ngôn, cái gì cũng dụ ngôn, nhưng ngụ-ngôn-thực-tế chứ không ngụ-ngôn-bịa-đặt. Ngài vừa truyền thống vừa tân kỳ, cứ thản nhiên “bổn cũ soạn lại” khi phân tích: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà” (Lc 14:28-32).

Chúa Giêsu chỉ là thợ mộc, đục đẽo thôi, chứ không hề là thợ xây, không là thầu khoán, thế mà lại nói chuyện xây dựng. Nghe mà “chói tai”. Mà “chói” thật, vì bọn thầu khoán cũng phải tâm phục khẩu phục chứ nói chi lũ thợ xây, thợ hồ.

Còn nữa, Chúa Giêsu cũng chẳng kinh nghiệm làm vua ngày nào, thế mà lại tính chuyện giao chiến như một tướng quân. Thủ tướng hoặc đại tướng quân sự cũng phải tôn Ngài làm Đại Sư thôi. Lạ thật!

Cuối cùng, Đức Giêsu Kitô nói thẳng: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:33). Cái chữ B này “to” lắm. Nó có thể là BIÊN GIỚI (bờ cõi quốc gia), là BIỆT DANH (cõi riêng tư), là “bới bèo ra bọ” (bề trên tìm cách triệt hạ bề dưới, bề dưới tìm cách hạ bệ bề trên), là BAO CHE (phe cánh), là BƯỚNG BỈNH (kiêu ngạo, tôi luôn là “số dzách”). Nếu vậy thì… BỎ!

Nhưng lưu ý: Chữ BỎ của Chúa là “bỏ mình”, mang nghĩa khiêm nhường, còn chữ BỎ của chúng ta là “vứt bỏ” mang nghĩa kiêu ngạo, là mặc kệ. Ranh giới giữa hai chữ BỎ ấy chỉ nhỏ bằng sợi tóc. Hãy nhớ câu này: Cẩn tắc vô ưu. Cẩn trọng cũng là một dạng tính toán vậy!

Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sống đúng ý nghĩa tích cực của chữ BỎ mà Chúa Giêsu đã sống, BỎ MÌNH chứ không BỎ NGƯỜI KHÁC. Xin giúp chúng con biết tính toán cho đúng phép tính của Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

78. Theo Chúa, phải từ bỏ tình cảm tự nhiên

(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)

Trên hành trình lên Giêrusalem để thi hành sự vụ cứu độ con người qua cái chết của mình, Đức Giêsu thấy người ta theo mình rất đông. Có những người theo Ngài chỉ vì tính hiếu tri, tò mò; lại có những người theo vì mong được chứng kiến hay trực tiếp lãnh nhận được một vài phép lạ như Chúa đã làm; lại có những người theo vì hy vọng Đức Giêsu thiết lập một vương quốc oai hùng theo kiểu trần gian; tuy nhiên, cũng có những người theo Chúa vì muốn được ơn cứu độ. Ngài biết rõ họ. Vì thế, như một mẫu số chung, Đức Giêsu đưa ra một điều kiện tiên quyết cho hết mọi người, hầu giúp họ trắc nghiệm lại thái độ theo mình của đám đông: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được”(Lc 14, 26-27).

Vậy điều kiện đó của Đức Giêsu có hợp lý không?

  1. Đi theo và làm môn đệ

Đi theo ai là làm môn đệ cho người ấy. Đi theo Chúa tức là tôn nhận Chúa làm chủ của mình. Đi theo Chúa cũng là lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; sống cuộc sống như Ngài đã sống, và cùng chung số phận như chính Ngài đã chịu.

Đây là đặc tính của người môn đệ, đồng thời cũng là điều kiện cần để theo Chúa. Thấy được tính hệ trọng của sự việc, Đức Giêsu đã quay lại và bảo họ, hay đúng hơn là nhắc cho họ về thái độ cần có khi đi theo mình. Tinh thần đó chính là sự dứt khoát, tiên quyết để thoát ra khỏi mọi ràng buộc của cuộc sống hầu xứng đáng trở thành môn đệ.

Thật thế, hành trình đi theo Chúa của người môn đệ được ví như người leo núi, hay đi qua cửa hẹp. Nếu muốn leo lên núi được, cũng như qua được cửa hẹp, thì người lữ hành phải thanh thoát và nhẹ nhàng, phải vứt bỏ lại tất cả những thứ cồng kềnh làm cản bước chân và hành trình của mình. Cũng vậy, theo Chúa thì cũng phải có thái độ như thế, tức là phải từ bỏ mọi sự để chỉ nhìn thẳng vào Chúa và nhắm tới đích mà tiến bước: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được”.

Đây có phải là đòi hỏi thái quá không? Và có đi ngược lại với sự thảo hiếu với cha mẹ và nghĩa vụ đối với gia đình không?

Thưa không! Bởi vì Chúa không đòi hỏi người môn đệ phải bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách vô lý, nhưng ý Ngài muốn nói rằng, nếu vì điều đó làm cho chúng ta không thể theo Chúa được, hay làm cho chúng ta mất ơn cứu độ thì hãy từ bỏ, bởi lẽ mọi sự sẽ qua đi, nhưng có Chúa là có tất cả, có Chúa là có cả một gia tài, thấy được rồi thì phải tìm mọi cách mà giữ lấy (x. Mt 13,44-52).

Như vậy, con người không chỉ có cuộc sống hiện tại, mà còn có cuộc sống mai sau, mà cuộc sống đời đời mới là cứu cánh tối hậu của mình. Khi hiểu như thế, thì chữ “dứt bỏ” đồng nghĩa với chữ “nghét” ở đây phải hiểu theo nghĩa “yêu thương”, tức là cần có một sự lựa chọn ưu tiên, lựa chọn cái tốt hơn. Điều này được sáng tỏ nhờ Lời Chúa phán: “…ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi” (x. Mc 12:28-34). Khi hiểu như thế, ta thấy tình cảm dành cho cha mẹ, vợ con và anh chị em…là những người ta phải yêu thương, nhưng họ cũng là con của Chúa, cũng là thụ tạo như chúng ta. Vậy thì khi phải lựa chọn, ta phải chọn Đấng đã tác thành và trao ban họ cho ta. Có một thái độ như thế, ta mới xứng đáng trở thành môn đệ của Chúa được. Đây là một sự lựa chọn mang tính thứ bậc: Chúa là trên hết, mọi sự là thứ yếu, nên cần phải vượt lên trên tình cảm tự nhiên để làm môn đệ của Chúa.

Khi có thái độ như thế, người môn đệ biết yêu Chúa trên hết mọi sự, từ bỏ mình là từ bỏ ý riêng và thay vào đó là thánh ý Thiên Chúa, mà ý Thiên Chúa chính là yêu Ngài trên hết mọi sự và yêu thương người thân cận như chính mình. Như vậy, khi từ bỏ mọi sự để theo Chúa, ta lại được Chúa và mọi người nhờ vào tình yêu mà ta dành cho Chúa, thật đúng như lời Chúa nói: “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này …”

  1. Theo Chúa là vác thập giá hàng ngày mà theo

Tuy nhiên, theo Chúa là từ bỏ mọi sự không thôi thì chưa đủ, nhưng còn phải vác thập giá mà theo thì mới trọn vẹn ý nghĩa là người môn đệ của Đức Giêsu.

Thập giá trong đời sống hằng ngày của người môn đệ được ví như cây gậy của người leo núi, như chiếc đèn của kẻ đi đêm, như biển chỉ dẫn của khách lộ hành. Không có gậy, người leo núi sẽ mệt và đôi khi không có thể làm điểm tựa khi đã mỏi gối chùn chân. Không có đèn đi trong đêm, người ta dễ dàng sa xuống hố hoặc vấp ngã. Không có biển chỉ đường, người ta dễ lạc lối. Như thế, thập giá hằng ngày chính là những hy sinh thử thách giúp con người trưởng thành và sống có ý nghĩa hơn. Quả vậy, khi suy tư về vấn đề này, Đức cố Hồng Y Thuận, vị Tôi Tớ Chúa đã nói: “thánh mà không vượt qua thử thách là thánh giả”; “thánh lâm thời”.

Ơn cứu độ của chúng ta có được là nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa. Như vậy, vác thập giá mà theo Chúa tức là đón nhận tất cả những hy sinh, gian khổ vì Chúa và phần rỗi của mình cũng như anh chị em: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27).

Điều kiện để theo Chúa thật khó khăn và cam go như thế, nên Đức Giêsu muốn kẻ đi theo mình phải lựa sức, phải cẩn trọng. Vì vậy, Ngài kể cho họ nghe hai dụ ngôn của người xây tháp và ông vua đi giao chiến. Nếu muốn xây tháp, mà không biết chọn chỗ nào cho phù hợp, mục đích của việc xây tháp là gì, và cần bao nhiêu thợ, cát, đá, sắt, gạch…hay khi giao chiến mà không biết mình có bao nhiêu quân, địch bao nhiêu, những thuận lợi, khó khăn của ta và địch, nói chung là không biết tính toán trước thì thật là một kẻ dại dột, và như thế, thất bại là lẽ đương nhiên. Cũng vậy, lựa chọn theo Chúa là một chuyện khó, nhưng sống sự lựa chọn đó, tức là làm chứng cho Chúa còn khó hơn gấp bội. Đức Giêsu biết được điều đó, nên một mặt Chúa đòi hỏi phải dứt khoát, từ bỏ mọi sự để theo thì mới xứng đáng, nhưng đàng khác, Ngài cũng cảnh báo chúng ta phải suy tính cho cẩn thận, kẻo rồi dở đi mắc núi, dở lại mắc sông: “Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”.

  1. Sống lời Chúa hôm nay

Lời Chúa ngày hôm nay dạy chúng ta rằng: phải yêu Chúa trên hết mọi sự, và như một sự phát sinh, hệ quả…, yêu Chúa thì phải yêu người và yêu chính ta. Nếu chỉ yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối. Nói cách khác, tình yêu với Thiên Chúa bao trùm mọi tình cảm khác của con người, và như ngọn hải đăng soi sáng cho mọi người nhìn thấy nhau thế nào, thì khi yêu Chúa, ta cũng dễ nhận ra nhau là anh chị em của ta. Nói cách khác, khi yêu Chúa, ta sẽ thăng hoa được mọi thứ tình cảm tự nhiên, và như thế, ta lại được lại mọi người như là cha, mẹ và anh chị em của ta.

Chính vì thế, mà khi cần, tức là những tình cảm tự nhiên làm cho ta bị chậm trễ hay cản bước ta đến với Chúa và đi theo Chúa thì cần phải loại bỏ hết tất cả để đi theo Chúa và thi hành điều Chúa truyền. Đây chính là định luật ưu tiên trong đời sống của người Ki tô hữu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Xin cho chúng con nhận ra chân lý này, để sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Xin ban ơn trợ giúp, để chúng con luôn đủ sức mạnh, hầu vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa cho nên. Amen.

 

79. Trung thành theo Chúa

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Báo “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” số 10-8/2013 có bài viết “Lời khuyên máu” của Bác sĩ Nguyễn Lan Hải, kể chuyện cuộc đời Thánh Nữ Gianna Baretta Molla.

Ngày 24-4-1994, ĐGH Gioan Phaolô II đã tôn phong Bà Gianna lên bậc Chân Phước trong dịp mở đầu Năm Quốc Tế về Gia Đình. Ngày 16-5-2004, ĐGH Gioan Phaolô II đã long trọng nâng Ngài lên bậc Hiển Thánh.

Bà là một nữ bác sĩ 39 tuổi, đã có chồng và có ba con, và đang mong đón đứa con thứ tư. Nhưng tin vui mau chóng đã trở thành nỗi lo: bà bị khối u phát sinh trong tử cung vào cuối tháng thứ hai của thai kỳ và phải mổ. Trong nghề y, Gianna hiểu rõ giới hạn của khoa học thời đó. Để cứu người mẹ, bệnh viện bắt buộc phải nạo thai và cắt cục bướm. Mổ cắt khối u để cho bào thai phát triển là điều vô cùng nguy hiểm cho tính mạng người mẹ, nhất là giai đoạn cuối khi sinh con, nhưng bà đã quyết định giữ con mình trong niềm tin tưởng phó thác.

Trước ngày sinh, Gianna tâm sự với cha linh hướng: “Con cầu nguyện liên miên trong những ngày này. Với niềm tin và hy vọng, con phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng. Con sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của con”. Trước khi lên bàn mổ, bác sĩ phẫu thuật hỏi lần cuối: “Tôi phải cứu ai bà hay con bà?” – Gianna trả lời: “Cứu con tôi và đừng lo gì cho tôi”. Vị giáo sư người Do Thái, mặc dầu không đồng ý với Gianna, đã làm theo ý bà, và ông đã thốt lên: “Thật đúng là người mẹ Công Giáo”.

Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1962, Gianna chuyển dạ. Bà nói với một Nữ Tu làm y tá trong nhà thương: “Chị yêu quý, hôm nay tôi biết chắc tôi sẽ chết, nhưng không sao, miễn con tôi được sống”. Đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, bác sĩ đã mổ và cứu cô bé an toàn khỏe mạnh, mang tên Emanuela “Chúa ở cùng chúng ta”. Sau ca mổ, Gianna rất đau đớn, nhưng bà vẫn can đảm phó thác, dâng mình cho Chúa như một của lễ hy sinh, với một tâm hồn khiêm tốn tin tưởng. Gianna muốn kết hợp sự đau đớn của mình với sự Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Một tuần lễ sau Phục Sinh, Gianna đã nhắm mắt vĩnh viễn về Trời với Chúa, miệng luôn lẩm bẩm: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu Chúa”.

Trong nghi lễ phong thánh, ĐGH Gioan Phaolô II ca ngợi Thánh Nữ: “Ngài được hồng ân Chúa ban cho một gia đình đầm ấm, một đức tin và tình yêu sung mãn. Ngài là một người mẹ hạnh phúc, nhưng khi thọ thai đứa con thứ tư, ngài đã trải qua cơn thử thách lớn lao. Trong cuộc dằn co giữa hai lựa chọn, hoặc là cứu lấy mạng sống mình, hoặc là bảo toàn sự sống của thai nhi trong bụng mình, ngài đã không ngần ngại tự hy sinh mình. Ngài quả đã cho chúng ta một chứng tá hào hùng, để lại cho chúng ta bài ca tán dương sự sống để chống lại trào lưu suy tư thoái hóa ngày nay đang lan rộng khắp hành tinh này.”. Thánh nữ đã noi gương Chúa Kitô “yêu thương những người thân của mình còn trong thế gian và yêu thương họ cho đến cùng”.

Trang Tin Mừng hôm nay có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là ‘đi theo’ và ‘làm môn đệ’: “Khi ấy có rất đông người ‘đi theo’ Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi. Ai không vác thập giá mình mà ‘đi theo’ tôi thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi được”.

Quả vậy, có rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” của Ngài; chỉ những ai đi theo mà biết “từ bỏ” và “vác thập giá” thì mới thực sự “là môn đệ” của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu nói những lời rất thẳng thắn và chân thành với “đám đông những người” đang đi theo Ngài: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Người ta đi theo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ, có khi là những lý do rất trần tục. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với họ, theo Ngài thì phải từ bỏ, bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống, và lại còn phải vác thập giá nữa. Từ bỏ mình và vác thập giá mình luôn là điều không dễ thực hiện chút nào. Thế nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy, thì mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài.

Cuộc đời Thánh Gianna Beretta là một hành trình đi theo Chúa, làm môn đệ của Chúa. Gianna sinh ở Magenta nước Ý vào ngày 4-10-1922. Cô là con thứ mười trong gia đình mười ba người con, có một người anh làm linh mục. Bố mẹ Gianna rất đạo đức, luôn dạy con cái biết cầu nguyện và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngay từ buổi thiếu niên, Gianna đã lãnh nhận một niềm tin hiến dâng và một nền giáo dục kitô giáo sâu đậm. Nền giáo dục này đã dạy cô coi cuộc sống là sự dâng hiến tuyệt diệu cho Thiên Chúa, tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài và xác tín vào sự cần thiết hiệu nghiệm của lời cầu nguyện. Trong những năm còn học trung và đại học, bên cạnh việc chăm chỉ học hành, Gianna đã diễn tả niềm tin của mình bằng nhiệt tâm dấn thân vào công tác tông đồ cho giới trẻ trong tổ chức ‘Action Catholique’ của Ý. Cô cũng tham gia vào tổ chức từ thiện của Hội Dòng Bác Ái Thánh Vinh Sơn Phaolô, đặc biệt chăm sóc trẻ em, người già cả và người nghèo

Gianna là một thiếu nữ tài giỏi bước ngành y khoa. Năm 1949 cô lấy bằng bác sĩ y khoa và giải phẫu tại Đại Học Pavia. Năm sau, cô mở một dưỡng đường ở Mesero, gần Magenta. Hai năm sau đó, cô có bằng về chuyên khoa nhi đồng của Đại Học Milan. Sau đó, bác sĩ Beretta chuyên chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh, cũng như người già và người nghèo.

Bác sĩ Gianna đảm trách công việc y khoa không vì lý do tài chánh, hay ngay cả lý do từ thiện. Đối với bà, hành nghề y khoa là một “sứ vụ.” Trong những năm theo học, bà đã tình nguyện phục vụ người già, người bệnh tật với tư cách là một thành viên của tổ chức Thánh Vinh Sơn Phaolô. Là một bác sĩ, bà gia tăng sự phục vụ độ lượng dưới một hình thức của “Công Giáo Tiến Hành”: giáo dân tình nguyện làm việc theo nhu cầu và tinh thần của Giáo Hội. Bà là một phụ nữ trẻ hăng say và đầy nhiệt huyết, một người thích leo núi mạo hiểm và trượt tuyết.

Cuộc hôn nhân vào năm 1955 đã đem lại cho Bác Sĩ Gianna một cơ hội để phát triển “sứ vụ” của bà. Ông bà Gianna và Pietro Molla là một đôi vợ chồng vui vẻ. Là một phụ nữ quân bình và có lương tri, bà đã thành công khi hài hòa sự nghiệp của một người mẹ, một người vợ và một bác sĩ.

Khi gặp nghịch cảnh phải phá thai để được sống, bà Gianna phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của mình. Sự từ bỏ như thế là cách diễn tả một tình yêu. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu mới có cơ may phát minh và sáng chế… Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng.

Laura con gái của thánh nữ đã nói về mẹ mình như sau: Mẹ tôi là một người đàn bà hạnh phúc. Mẹ tôi yêu cuộc sống cho đến chết và biết chấp nhận mọi sự Chúa ban, ngay cả đau khổ. Mẹ Gianna đã đón nhận thập giá bằng tình mẫu tử cao quý.

Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người. Tình yêu như là điểm giao thoa giũa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.

Ba điều kiện: từ bỏ, vác thập giá, bước theo Chúa Giêsu thật không dễ dàng chút nào. Phải phấn đấu thường xuyên, phải chiến đấu từng ngày cho nên bao giờ cũng gây nên đau khổ thể xác và tinh thần. Bằng tình yêu vượt qua đau khổ để nên môn đệ Chúa Giêsu là niềm hạnh phúc và là một vinh dự.

Thánh Gianna là chứng nhân sống đạo thời nay, người có tâm hồn giàu cảm thương đối với những người bệnh tật đau khổ, hy sinh mạng sống vì người mình yêu, phản ánh tình thương trên Thánh Giá của Chúa Giêsu.

Ai là người có thể khẳng định mình đã hoàn toàn theo Chúa Giêsu? Ai muốn đi theo Chúa Giêsu phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và bản thân mình.Thập giá của Chúa Giêsu là dấu chỉ cụ thể về tình yêu và sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha.

Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.

Xin Chúa giúp mi người chúng con được trưởng thành trong đức tin, đức cy và đức mến, và xin Chúa giúp chúng con được trung thành cho đến cùng là đi trn con đường tình yêu như Chúa đã đi. Amen.

 

print