Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 3 Thường Niên A

print

Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 3 Thường Niên A

Lời Chúa: Is 8,23b – 9,3; 1Cr 1,10-13.17; Mt 4,12-23

MỤC LỤC

  1. Galilê, vùng dân ngoại. 4
  2. Bước theo Ánh Sáng. 7
  3. Khởi điểm truyền giáo – ViKiNi 10
  4. Vì Nước Trời… – Dã Quỳ. 12
  5. Chúa Nhật 3 Thường Niên. 16
  6. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến. 29
  7. Ơn Cứu Độ. 33
  8. Đức Giêsu đến ở Caphácnaum.. 37
  9. Ánh sáng trần gian – Lm. Minh Vận, CRM… 42
  10. Ánh sáng. 46
  11. Chúa Nhật 3 Thường Niên. 49
  12. Ánh sáng thế gian. 53
  13. Ơn gọi. 55
  14. Con người phục vụ. 57
  15. Theo như ý Chúa. 60
  16. Hiệp nhất trong Đức Kitô – Lm Bùi Quang Tuấn. 63
  17. Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM… 67
  18. Chúa chọn Galilê. 69
  19. Ánh Sáng huy hoàng – Anmai 76
  20. Chúa Giêsu là ánh sáng thật 82
  21. Lựa chọn của Chúa Giêsu. 84
  22. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền. 87
  23. Ơn cứu độ cho mọi người 92
  24. Được cứu độ bằng tình yêu – Lm. HK.. 94
  25. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến. 97
  26. Ơn cứu độ phổ quát – R. Veritas. 101
  27. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. 104
  28. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ. 109
  29. Đừng ngủ mê trong tội 112
  30. Chúa Kitô là ánh sáng. 115
  31. Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến. 119
  32. Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An. 123
  33. Nước Trời đã đến gần – Jos. Hồng Ân. 126
  34. Suy Niệm Chúa Nhật 3 Thường Niên. 129
  35. Chọn Chúa – Sống với Chúa. 132
  36. Dọn lòng đón Chúa Xuân đến với gia đình. 136
  37. Từ bỏ. 140
  38. Ánh sáng hiệp nhất – Lm Phạm Quốc Hưng. 143
  39. Bóng tối và ánh sáng. 148
  40. Ơn gọi đâu dành để riêng ai!. 151
  41. Mọi người là con Chúa cả!. 155
  42. Được gọi – Mar. Phạm Hoàng Đăng. 161
  43. Suy niệm của André Sève. 164
  44. Nước Trời đang đến. 168
  45. Suy niệm của Charles E. Miller. 172
  46. Trung tín với Chúa và trung tín với con người 175
  47. Tiếng gọi của Chúa. 177
  48. Ánh sáng muôn dân. 181
  49. Ánh sáng. 184
  50. Ngư phủ. 187
  51. Sống đức tin. 189
  52. Ðón nhận ánh sáng. 191
  53. Sám hối 193
  54. Sám hối 196
  55. Khởi điểm.. 198
  56. Họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa. 201
  57. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối của tử thần – JS. 205
  58. Suy niệm của JK.. 207
  59. Suy niệm của nhóm Đồng Hành. 213
  60. Chương trình hoạt động của Đức Giêsu. 216
  61. Suy niệm của Noel Quession. 229
  62. Chú giải của Fiches Dominicales. 235
  63. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 242
  64. Tích cực giãi ánh sáng tin yêu cho tha nhân. 250
  65. Sám hối thì mới được cứu độ. 261
  66. Sám hối để biết mình và biết Chúa. 266
  67. Buông theo Thần Khí – Huệ Minh. 271

1.     Galilê, vùng dân ngoại.

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Nim

Khi Gioan b bt, Đức Giêsu đã lánh qua Galilê.

Galilê là vùng ven, ít nguy hiểm cho Ngài. Dân cư ở đây phần đông là dân ngoại. Người Do Thái ở đây bị coi là những kẻ sống bên lề Dân Chúa. Nhưng Galilê lại là nguyên quán của Ngôi Lời làm người, và là nơi Đức Giêsu chọn để bắt đầu thi hành sứ vụ.

Từ Galilê, Ngài sẽ sai môn đệ đi khắp thế gian (Mt 28,19).

Đức Giêsu rời bỏ Nadarét, để đến cư ngụ tại Caphácnaum. Caphácnaum là địa bàn hoạt động được Ngài ưa thích. Có lúc nó được gọi là thành của Ngài (9,1), dù bất xứng (11,23).

Galilê, Nadarét, Caphácnaum chẳng có chút tiếng tăm (Ga 1,46), nhưng Đức Giêsu vẫn là một ngôn sứ xuất thân từ đó (Mt 21,11).

Hãy ngắm nhìn Đức Giêsu trên những nẻo đường.

Ngài rút về Galilê, Ngài đến Caphácnaum, đi dọc theo bờ biển. Khắp miền Galilê in dấu chân của Ngài (Mt 4,23), Ngài không vào hoang địa như Gioan, rồi gọi người ta đến. Ngài đích thân đến với con người ngay giữa đời thường. Ngài cứ đi không nghỉ, không đóng đô ở một chỗ. Nhu cầu quá lớn không cho phép Ngài dừng lại (Mc 1,38). Đức Giêsu chuyển động và kéo người ta chuyển động theo Ngài.

Những người đầu tiên là các ngư phủ mà Ngài quen biết. Tuy là những người ít học, không giàu có hay địa vị, nhưng đối với Ngài, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Ngài.

Sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi. Sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung. Sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh. Khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ.

“Các anh hãy theo Tôi”: một lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Tôi và chia sẻ thao thức của Tôi.

Để lên đường cần bỏ lại cái êm ấm được phép, êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới.

Theo Chúa là chấp nhận ra khơi hay đúng hơn là chấp nhận lên bờ, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, là để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người, và tận tụy cho sứ mệnh loan báo Nước Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần bên.

Để đón lấy quà tặng đó, cần sám hối, hoán cải.

Hoán cải là để Ngài kéo vào một chuyển động, là quay lại, là bỏ con đường mình đã quen từ lâu, để đi cùng chiều với Chúa và ngược chiều với cái tôi ích kỷ.

Đức Giêsu gieo rắc niềm vui khắp nơi.

Niềm vui cho người nghe, niềm vui cho người khỏi bệnh. Bước chân không mỏi, lời nói thiết tha, trái tim gần gũi?

Hôm nay Hội Thánh vẫn sống giữa những Galilê dân ngoại.

Chúng ta có đủ niềm vui để làm Galilê bừng sáng không?

Gi Ý Chia S

Đi kèm với lời giảng, Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo ý bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần phải làm gì kèm theo, để dễ được người nghe đón nhận?

Đức Giêsu đã gọi bốn bạn trẻ khi họ đang tất bật với cuộc sống. Có khi nào Chúa gọi bạn lúc bạn đang vất vả kiếm sống không?

Cu Nguyn

Ly Chúa Giêsu, các sách Tin Mng chng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vn cười khi thy các tr em qun quýt bên Chúa. Chúa vn cười khi hn nhiên ăn ung vi các ti nhân. Chúa đã c giu n cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa gi v mun đi xa hơn na.

N cười ca Chúa đi đôi vi Tin Mng Chúa ging. N cười y hòa vi nim vui ca người được lành bnh.

Ly Chúa Giêsu, có nhng nim vui Chúa mun trao cho chúng con hôm nay. Có s bình an sâu lng Chúa mun để li.

Xin dy chúng con biết tươi cười, c khi cuc đời chng mm cười vi chúng con.

Xin cho chúng con biết mến yêu cuc sng, dù không phi tt c đều màu hng.

Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nn, nhưng xin đừng để n cười tt trên môi chúng con.

Ước gì chúng con cm thy hnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyn tình thương y. Amen.

 

2.     Bước theo Ánh Sáng

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Trong những Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã dừng lại ở khái niệm “Ánh Sáng”. Khởi đi từ những chứng từ Cựu ước, chúng ta đã chiêm ngắm Ánh Sáng là Đức Giêsu Kitô. Khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, Giáo Hội muốn khẳng định, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, cùng bản thể với Thiên Chúa Cha và từ nơi Chúa Cha mà đến.

Dưới cái nhìn của tác giả Tin Mừng thánh Matthêu, việc Chúa Giêsu xuất hiện và rao giảng Tin Mừng đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia của thời Cựu ước. Qua lời giáo huấn của Chúa Giêsu, “Toàn dân đi trong tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Bài đọc I, trích từ sách ngôn sứ Isaia, là bài đọc mà chúng ta đã nghe trong lễ Đêm Giáng sinh, chính là nguồn mà Thánh Matthêu trích dẫn. Với nét văn chương hùng hồn, trang trọng và gợi hình, đoạn sách thánh này là một trong những áng văn chương tuyệt vời của Cựu ước. Cùng với Thánh Matthêu và cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai, Giáo Hội hôm nay tiếp tục tuyên xưng Đức Giêsu là Ánh Sáng trần gian.

Chúa Giêsu là Ánh Sáng của trí tuệ. Người là sự Khôn ngoan của Chúa Cha. Đức Khôn ngoan đã nhập thể làm người. Người đến trần gian để mở trí cho con người của mọi thời đại, giúp họ nhận biết Chúa là Cha của gia đình nhân loại và nhận biết mọi người cùng là anh chị em với nhau. Lời giảng của Chúa Giêsu về đề tài ánh sáng, được chứng minh bằng phép lạ chữa người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng Thánh Gioan đã khẳng định: Chúa Giêsu khai sáng trí tuệ và nhận thức của con người, giúp họ thoát khỏi sự vô tri, đồng thời nhận ra con đường Chân lý và nhờ đó được ơn Cứu độ.

Chúa Giêsu là Ánh Sáng của Lòng Thương Xót của Chúa Cha. Người là gương mặt thương xót của Chúa Cha. Nơi Người, con người cảm nhận được tình thương của Chúa Cha. Tình thương ấy giúp họ vượt lên những chông gai của cuộc sống, để rồi giữa thế gian đầy cạm bẫy và khó khăn, họ vẫn tin vào lòng thương xót của Chúa, được tiếp thêm nghị lực siêu nhiên và chỗi dậy sau mỗi lần vấp ngã.

Chúa Giêsu là Ánh Sáng của lòng nhân ái. Giáo huấn của Chúa nhằm giúp con người nhận ra mọi người đều là anh chị em với nhau. Không ai là một hòn đảo. Người ta cũng không thể hiện hữu một mình, nhưng hiện hữu với người khác, nhờ người khác và cho người khác. Chỉ khi đó, cuộc sống mới có ý nghĩa. Giới răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu dạy chúng ta, đó là giới răn yêu thương. Nhờ yêu thương mà cuộc đời này trở nên đẹp đẽ, đáng yêu và đáng sống. Đức yêu thương tô điểm cho cuộc đời này và làm cho nó có ý nghĩa. Thánh Phaolô đã khuyên giáo dân Côrinhtô dẹp bỏ những chia rẽ trong nội bộ, kể cả những chia rẽ dựa trên những khái niệm giáo huấn. Quả vậy, vào thời đó, giữa nội bộ cộng đoàn Kitô hữu, có những người nhận mình là môn đệ của Phaolô, người khác lại nói mình thuộc về Kêpha (tức là Phêrô), người khác nữa lại nói mình thuộc Apôlô. Thánh Phaolô đã giải thích để mọi người hiểu: Phaolô, Kêpha hay Apôlô chỉ là những phương tiện để chuyển tải thông điệp Tin Mừng của Chúa. Chính Chúa Giêsu mới là Thày và là Chúa, đồng thời là Đấng đáng cho mọi người tôn thờ.

Thánh Matthêu kể lại việc Chúa Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên, cũng là hai cặp anh em. Đó là anh em ông Simôn và Anrê; anh em ông Giacôbê và Gioan. Đây là những thành phần trụ cột trong số những ông đồ sau này. Họ là những cộng sự viên của Đức Giêsu. Họ đã trung thành cho đến cùng để phụng sự Thày mình và đã chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa Giêsu. Theo Thánh Matthêu, hai cặp anh em được kêu gọi đều sẵn sàng và nhiệt tình bước theo Chúa Giêsu. Họ là những người đã bước theo Ánh Sáng và được Ánh Sáng chiếu soi, để rồi đến lượt họ lại trở nên ánh sáng cho trần gian.

Hôm nay cũng là ngày mồng Hai tết Canh Tý, là ngày cầu cho Ông Bà, Cha Mẹ. Yêu mến cha mẹ không chỉ là bổn phận để đền đáp ơn sinh thành, nhưng còn là những nghĩa cử đẹp lòng Chúa, xứng đáng được Ngài ban ơn và cho sống trường thọ trên dương gian. Yêu mến và hiếu thảo với cha mẹ, cũng chính là thi hành Luật Chúa. Cầu nguyện cho cha mẹ chưa đủ, chúng ta còn phải hiếu thảo, yêu mến và tôn trọng vâng lời cha mẹ. Khi cha mẹ tuổi già, con cháu cần phải chăm sóc chu đáo.

Nếu Chúa Giêsu là Ánh Sáng của trí tuệ, tình thương và lòng nhân ái, thì mỗi tín hữu là những người được mời gọi bước theo Ánh Sáng. Hãy đón nhận Ánh Sáng, đồng thời để cho Ánh Sáng chiếu soi, ngõ hầu cuộc đời của mỗi chúng ta trở nên ánh sáng chiếu soi trần gian.

 

3.     Khởi điểm truyền giáo – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Chúa Giêsu khởi đầu truyền giáo bằng 3 việc: Đề tài hối cải, môi trường thích hợp và chọn nhân sự hợp tác.

+ Hối cải là đề tài quan trọng của Gioan tiền hô (Mt. 3. 2) của Chúa Giêsu và của Phêrô (Cv. 2, 28) lúc bắt đầu rao giảng Tin mừng. Hối cải là bước dứt khoát đầu tiên tiến vào nước trời, là sức mạnh nhạy bén biến đổi đời người nên mới. Nền tảng sự hối cải là khiêm tốn, nhìn nhận sự lầm lạc, tội lỗi của mình trước Thiên Chúa. Đề tài hối cải rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngoại tới cư ngụ, buôn bán ở Caphanaum.

+ Môi trường thích hợp: Caphanaum là thành phố thương mại phồn thịnh và quan trọng, nằm trên đường từ bắc qua trung đến nam nước Do Thái, là đường liên lạc giữa các nước Địa Trung hải đến các nước Trung Đông như: Libăng, Jorđanie, Irak, Iran, Ả rập, cho nên Đế quốc Roma đã đặt đồn quan thuế ở đây. Caphanaum còn là thành phố nằm trên bờ biển hồ Tibê, rất thuận tiện cho việc giao thông, chuyên chở, đi lại.

Chúa Giêsu chọn Caphanaum làm trung tâm vì ba lý do:

Thứ nhất để thực hiện đúng lời tiên Isaia đã loan báo từ 732 năm trước cho các chi họ sống chung đụng với các dân ngoại.

Thứ hai, Caphanaum là quê hương của bốn môn đệ đầu tiên, mà có lẽ nhà Phêrô là nơi thuận tiện cho việc truyền giáo.

Thứ ba, đây là lý do quan trọng nhất: để cho muôn dân được thấy “một ánh sáng huy hoàng”

+ Nhân sự hợp tác: Ánh sáng đó đã bắt đầu bừng lên trong những thanh niên chài lưới có tâm hồn cường tráng, trong một thân xác tráng kiện “mens sana in corpore sano”, nên họ vừa nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy theo Ta”, Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan liền bỏ chài lưới đi theo Người. Họ đã dứt khoát đổi đời, tiến bước theo Người. Họ đã bỏ hết của cải, thuyền bè, chài lưới, bạn bè, gia đình, cha mẹ, mọi thứ thân yêu nhất ở đời. Họ không thắc mắc tương lai sẽ ra sao? Sướng hay khổ, vinh nhục, giàu nghèo? Hoàn toàn tin tưởng vào Thầy đi theo cái một.

Lạy Chúa Giêsu, biết bao lần Chúa đã gọi con từ bỏ tham lam, danh vọng, tội lỗi, biết bao lần Chúa đã gọi con làm một việc bác ái, một hy sinh nho nhỏ, một giờ hồi tâm, một nửa giờ lễ, một phút cầu nguyện, nhưng con chẳng đáp lời. Lạy Chúa xin tha thứ, xin cho con biết hối cải, biết đổi mới cuộc đời, quyết tâm theo tiếng gọi của Chúa như Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan.

 

4.     Vì Nước Trời… – Dã Quỳ

Trong cuộc sống, khi làm bất cứ công việc gì, người ta cần phải có mục đích. Việc càng lớn hay quan trọng thì càng cần phải lên kế hoạch và chương trình hành động rõ ràng thì mới mong có thể thành công. Trong bài Tin Mừng hôm nay, hơn ai hết, Chúa Giêsu đã có một chương trình thật rõ cho sứ vụ của Người: Chúa đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kêu gọi người ta sám hối; mời gọi và chọn một số người để huấn luyện các ông trở thành môn đệ tiếp nối sứ mệnh của Chúa; an ủi và chữa lành cho dân. Những việc Chúa làm nói lên mục đích Người đem ánh sáng cho muôn dân, cho những ai còn ngồi trong bóng tối và cứu độ nhân loại. Với mỗi người Kitô hữu hôm nay, Chúa cũng mời gọi ta lắng nghe Lời Chúa dạy, đi theo Chúa và tiếp bước sứ mạng của Chúa.

Chúa Giêsu di chuyển, thay đổi nơi chốn và rời làng quê mà Người đã từng sống và lớn lên ở đó, để đến một làng khác cần Người hơn. Người sẽ có những hàng xóm mới, những người thân quen mới và những tương quan mới. Chính ở nơi miền đất này, vùng đất dân ngoại mà Chúa đã bắt đầu sứ mạng “Này đất Dơvulun và Náptali… hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng…” Chúa đến, Người muốn gặp gỡ muôn dân còn đang ngồi trong bóng tối, những người đang mong chờ ánh sáng Chúa chiếu rọi. Chính vì thế, Chúa đã rảo bước trên đường, từ thành này sang làng khác để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Vậy đâu là chủ đề trong lời giảng đầu tiên của Chúa và Người nói về điều gì? Đâu là điều cốt yếu trong lời giảng dạy của Chúa?

“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Đó là tất cả sứ điệp Tin Mừng Chúa muốn nói với chúng ta lúc này. Ta hãy lắng nghe lời Chúa nhắn nhủ “Nước Trời đã đến gần”. Chúa Giêsu-hiện thân của Nước Trời đã đến, Người ở đó với chúng ta, nếu ta biết và muốn đón tiếp Người. Và để đón nhận Nước Trời, sống theo tinh thần Nước Trời, Chúa mời gọi chúng ta “Anh em hãy sám hối”, hãy thay con tim, đổi lối sống, quay trở về với Thiên Chúa và với lòng mình.

Tất cả có thể trở nên tốt đẹp khi ta biết hoán cải và đó là một tin vui, một điều tuyệt hảo. Nếu chúng ta không biến đổi, lời rao giảng của Chúa chỉ là lời giảng dạy đạo đức khuyên ta làm điều này, tránh điều kia. Sám hối không phải là sự bi quan sầu não của kẻ thất vọng mà là một niềm hy vọng, một sức lực mới giúp chúng ta vươn lên. Vì Nước Trời, ta ăn năn cải thiện đời sống. Thế nên, sám hối thực lòng là thay đổi cách sống của ta sao cho phù hợp với Tin Mừng, là sống yêu thương, tha thứ, nhân hậu, quảng đại, bác ái… với anh chị em; là thay đổi não trạng, lối suy nghĩ ích kỷ, độc đoán để biết đón nhận điều mới và giáo lý mà Chúa Giêsu dạy dỗ. Vì vậy, sám hối là điều kiện cần thiết để nhận ra tình thương xót thứ tha của Chúa, để đón nhận ơn cứu độ và để trở nên những môn đệ trung tín của Chúa.

Tiến trình giảng dạy của Chúa được tiếp nối bằng việc Chúa gặp và chọn gọi bốn môn đệ đầu tiên “Người đang đi…, thì thấy hai anh em kia…Người bảo các ông: ‘Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá…”( x. Mt 4,18-19.21) Ở đây, thánh Matthêu cho chúng ta thấy việc chọn gọi và huấn luyện các môn đệ thật quan trọng cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúng ta sẽ không còn thấy Chúa Giêsu giảng dạy trước đám đông dân chúng nữa, nhưng các môn đệ qua mọi thời vẫn còn tiếp tục sứ vụ của Chúa.

Vì thế, ơn gọi môn đệ là sáng kiến của Chúa và là chương trình của Chúa cho chúng ta. Chúa muốn người môn đệ đến, ở lại với Chúa, lắng nghe lời Chúa dạy, thụ huấn với Chúa những bài học cuộc sống khi ở cùng, và đi theo sát kề Chúa. Đón nhận tình yêu và tất cả mọi biến cố cuộc đời của Chúa “Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn…để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (x. Mc 3,13-14) Như vậy, người môn đệ chỉ còn một lòng sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi và tức khắc lên đường theo Chúa “Lập tức, hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.” Chọn cuộc sống của Chúa làm của mình, thực sự trở thành thừa tác viên của Chúa, cộng tác với Chúa trong mọi sứ vụ truyền giáo, thực hiện chương trình của Chúa, làm việc cho công trình của Người và giúp Người cứu độ nhân loại.

Trong sứ vụ của Chúa, những hành động đi kèm lời giảng dạy là việc “chữa lành tất cả mọi bệnh hoạn tật nguyền của dân.” Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương và bày tỏ tình xót thương của Người. Đây là dấu chỉ Thiên Chúa ở với dân Ngài, với tác phẩm Ngài tạo nên. Chúa giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời để chữa trị tâm hồn và thỏa cơn đói khát tinh thần của con người. Chúa còn chữa lành biết bao bệnh tật, an ủi và nâng đỡ những con người đau khổ, bị khinh miệt gạt ra lề tôn giáo và xã hội, là “Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần.” Chúa yêu thương chúng ta, thấu hiểu chúng ta và chỉ muốn ta được hạnh phúc.

Thế nhưng, trong thế giới mà chúng ta sống hôm nay đang là một thế giới ô nhiễm về nhiều mặt, từ bầu khí ô nhiễm tinh thần qua tin, sách báo, phim ảnh… đang len lỏi vào cuộc sống, đến ô nhiễm về không khí, nước, thực phẩm và sản phẩm… Đâu đâu cũng thấy sự nhiễm độc và nguy hại sinh ra bao bệnh tật hiểm nghèo. Tình trạnh thê thảm này là trách nhiệm của chúng ta và cũng đang là thách đố của chúng ta! Hãy cầu xin Chúa dạy ta biết sám hối về chính những gì ta đã làm, đã sống không phù hợp với tinh thần của Chúa và Tin Mừng Chúa dạy. Hãy cải thiện lối sống để thực thi đức công bằng, bác ái với tha nhân và sống lương thiện trong sản xuất, buôn bán, sử dụng,…

Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng là sứ mạng của mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay. Ước gì chúng ta biết lắng nghe lời Chúa dạy, sẵn lòng theo Chúa trong việc thực thi Tin Mừng và năng ở với Chúa, gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, qua các Bí tích. Thật lòng trở về với Chúa và thành tâm sám hối những yếu đuối, lỗi lầm, sa ngã. Khi đã đón nhận, nghiệm thấy tình thương Chúa, ta cũng biết lên đường rao truyền Lời Chúa, nói về Chúa cho anh chị em, và thể hiện niềm vui được Chúa yêu thương cho những ai ta gặp gỡ. Xin cho từng Kitô hữu Việt Nam luôn biết dấn thân, hăng hái lên đường, đem ánh sáng Chúa Kitô cho anh chị em trên quê hương vẫn còn ở trong cảnh tối tăm, để tất cả cùng được ánh sáng Chúa chiếu dọi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã đến với chúng con. Xin chiếu dãi ánh sáng Tin Mừng của Chúa vào trong chúng con. Xin biến đổi số phận của tất cả nhân loại, cho chúng con được hưởng hạnh phúc và ơn cứu độ. Amen.

 

5.     Chúa Nhật 3 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Vào ngày lễ kính thánh Giê-rô-ni-mô vừa qua (30/09/2019), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ban Tông Sắc Aperuit Illis (“Ngài đã mở trí cho họ”) để thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha, Đức Cha Vinh Sơn chủ tịch Ủy Ban Kinh Thánh ấn định Chúa Nhật III Thường Niên dành riêng để cử hành, để suy tư và để công bố Lời Chúa.

Thật ra, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta tôn kính Lời Chúa là nguồn sống của các tín hữu rồi. Hiến Chế Mặc Khải viết: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Hiến Chế Mặc Khải, số 22).

Vì thế, khi thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu ý thức nhiều hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc sống của mình khi đề nghị “các linh mục ở giáo xứ có thể tìm ra hình thức tương xứng nhất để đặt cuốn Kinh Thánh, hay một trong các sách của bộ Kinh Thánh, cho toàn thể cộng đoàn, để làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc bản văn trong đời sống hàng ngày, để đào sâu bản văn và để cầu nguyện với Kinh Thánh, trong khi tham chiếu bằng cách thế đặc biệt theo cách đọc Lectio Divina” ( “Tông Sắc Aperuit Illis, số 3”)

Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A, Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sứ vụ khởi đầu của Đức Giê-su: chính ở Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại, Đức Giê-su chọn để công bố Lời Ngài, trong khi Bài Đọc I ghi lại lời kêu gọi khẩn thiết của thánh Phao-lô về sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu.

Is 8: 23; 9:3

Ngôn sứ I-sai-a tiên báo với dân Ga-li-lê bất hạnh, nạn nhân của chính sách cai trị hà khắc của đế quốc Át-sua vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, rằng sẽ đến ngày một ánh sáng huy hoàng rực rỡ sẽ chiếu sáng trên họ.

1Cr 1: 10-13, 17

Trước nạn bè phái, thánh Phao-lô khẩn khoản kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Đó cũng là nỗi bận lòng lớn lao của Giáo Hội là kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện cho các Ki-tô hữu trên thế giới được nên một với nhau. Thánh Phao-lô công bố tính bất khả phân của Đức Ki-tô.

Mt 4: 12-23

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mát-thêu trích dẫn bản văn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I) để chứng tỏ rằng chính nơi Đức Giê-su mà Kinh Thánh được ứng nghiệm: Đức Giê-su đã chọn Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê làm cứ điểm truyền giáo của Ngài. Ở đó, Ngài đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên của Ngài, họ là những ngư phủ.

BÀI ĐỌC I (Is 9: 1-4)

Bài Đọc I trích từ một trong ba sấm ngôn vĩ đại của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất về sự sinh hạ của một Hài Nhi, tên biểu tượng của con trẻ là “Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ba sấm ngôn này được gặp thấy trong các chương 7 đến chương 12 của sách I-sai-a, các chương này hình thành nên một tuyển tập được gọi là “sách về Đấng Em-ma-nu-en”. Sấm ngôn thứ nhất (7: 10-14) loan báo sự sinh hạ của một Hài Nhi, sấm ngôn thứ hai (8: 23b-9: 6) mô tả vài nét đặc trưng của triều đại Hài Nhi này, và sấm ngôn thứ ba (11: 1-9) bày tỏ triều đại của Hài Nhi là triều đại của những ân ban siêu nhiên, và là kỷ nguyên của hòa bình và cứu độ.

Đoạn văn hôm nay là phần thứ nhất của sấm ngôn thứ hai, nói về sự tương phản giữa cảnh đời gian truân tăm tối trong hiện tại với những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai.

  1. Cảnh đời tăm tối trong hiện tại

Về phương diện lịch sử, tự ngồn gốc vùng Ga-li-lê được phân chia cho hai chi tộc Dơ-vu-lun và Nép-ta-li, khi dân It-ra-en vào Đất Hứa. Nhưng hai chi tộc này không bao giờ thành công trong việc đánh đuổi dân bản địa Ca-na-an nên ngay từ đầu dân cư Ga-li-lê đã là dân tạp chủng. Về phương diện địa lý, vùng đất Ga-li-lê tiếp giáp với các quốc gia ngoại bang, vì thế không thể tránh khỏi ảnh hưởng văn hóa và tư tưởng của dân ngoại chung quanh. Hơn nữa, những con đường lớn của thế giới đều đi ngang qua miền Ga-li-lê, trong khi xa tít về phía Nam, miền Giu-đê thu mình vào một góc, cô lập, khép kín như câu thành ngữ: “Giu-đê không có đường đi đâu hết, còn Ga-li-lê đi khắp nơi”. Vì thế không lạ gì miền Ga-li-lê đã trở thành miếng mồi xâm lăng của các dân ngoại chung quanh và các đế quốc hùng mạnh thay nhau cai trị vùng này.

Sấm ngôn I-sai-a ám mô tả số phận bi thảm giáng xuống trên dân cư của vương quốc miền Bắc (cũng được gọi là “vương quốc Ít-ra-en”) dưới cuộc xâm lăng của đế quốc Át-sua vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Cuối cùng vương quốc miền Bắc hoàn toàn bị diệt vong, thủ đô là Sa-ma-ri bị chiếm, một số lượng lớn dân cư bị lưu đày, những dân ngoại bang thế chỗ. Sự đàn áp tàn bạo đến mức vị ngôn sứ mô tả rằng chỉ có sự can thiệp của Thiên Chúa vào triều đại của Vua Mê-si-a, vùng đất này mới có thể được giải thoát.

Quyền lực của đế quốc Át-sua sẽ ngự trị trên vùng đất này cho đến năm 612 trước Công Nguyên cho đến khi bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm. Như vậy, sau thời kỳ phục dịch đế quốc Át-sua, dân Ít-ra-en sẽ làm tôi đế quốc Ba-by-lon. Họ chỉ gặp lại cuộc sống thanh bình nhờ sự giải thoát của đế quốc Ba-tư. Dưới thời đô hộ của đế quốc Ba-tư, dân Ít-ra-en được hưởng một chính sách cai trị mềm dẻo, nhưng sự giải thoát nửa vời này không là điều vị ngôn sứ nghĩ đến: cái nhìn của ông còn đi xa hơn thế nhiều. Quả thật, khi đề cập đến những biến cố đương thời của mình, vị ngôn sứ nói: “Trong thời gian đầu”, diễn ngữ thời gian này ám chỉ đến hoàn cảnh hiện nay và mở ra một tương lai xa mà ông thoáng thấy. Vì thế, niềm phấn khởi của ông trước ánh sáng rạng ngời trên miền Ga-li-lê được xem như lời sấm mang chiều kích thiên sai: sấm ngôn này, một trong những sấm ngôn giàu hình ảnh, loan báo Tin Mừng cứu độ và sứ mạng của dân Ga-li-lê, dân thụ hưởng vinh quang của Đức Chúa.

  1. Những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai

Chính trong cảnh đời tăm tối không lối thoát trong hiện tại mà vị ngôn sứ loan báo những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai. Cặp đối lập “ánh sáng / bóng tối” là chủ đề Kinh Thánh nổi tiếng chạy xuyên suốt toàn bộ lịch sử cứu độ, kể từ ngày Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối (St 1: 3-4) cho đến ngày chung cuộc, khi những ác nhân bị ném ra ngoài vào trong bóng tối hãi hùng. Qua toàn bộ lịch sử này, ơn cứu độ, niềm vui, niềm tin, chung chung được diễn tả bằng hình ảnh ánh sáng. Ở đỉnh điểm của tiến trình này, Đức Giê-su tự giới thiệu mình: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8: 12).

Trong thị kiến của vị ngôn sứ, ánh sáng biểu tượng niềm vui cứu độ. Niềm vui này sẽ rạng ngời trên khắp miền Ga-li-lê và được mô tả bằng những hình ảnh như niềm vui của nhà nông vào ngày thu hoạch mùa màng sau công việc đồng án gian lao vất vả và như niềm vui của những lính chiến chia nhau những chiến lợi phẩm sau cuộc chiến gian khổ.

Nguyên do của niềm vui này chính là thời phục dịch sắp chấm dứt, kẻ hà hiếp sắp bị đánh bại. Khúc ca khải hoàn này được sánh ví như ngày chiến thắng quân Ma-đi-an (Tl 7: 1-25), một cuộc chiến thắng quá vẹn toàn, đạt được nhờ quân số quá nhỏ bé (300 chiến binh) đến nỗi chiến công này không hề phai nhạt trong ký ức của dân chúng như tiêu biểu cho hành động của Thiên Chúa.

Như vậy, Ga-li-lê, miền đất dân ngoại, có sứ mạng chiếu giãi ánh sáng của Thiên Chúa đến các dân ngoại. Sấm ngôn của vị ngôn sứ đã được ứng nghiệm bảy thế kỷ sau đó, khi Đức Giê-su công bố sứ điệp của Ngài ở miền Ga-li-lê dân ngoại này. Đó chính là điều mà trong số các tác giả Tin Mừng, thánh Mát-thêu quan tâm bậc nhất trong việc minh chứng con người và sứ mạng của Đức Giê-su đã được các ngôn sứ loan báo, chúng ta không thể nào bỏ qua.

BÀI ĐỌC II (1 Cr 1: 10-13, 17)

Bài Đọc II được trích từ “Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô” giúp chúng ta nắm bắt những nguyên do sâu xa của cuộc khủng hoảng mà Giáo Đoàn non trẻ này gặp phải.

  1. Nạn bè phái (1 Cr 1: 11-12)

Bốn phe phái đối đầu với nhau ở lòng Giáo Đoàn Cô-rin-tô:

– Phe theo thánh Phao-lô: Thánh Phao-lô cũng có nhiều ủng hộ viên trong cộng đoàn này.

– Phe theo ông A-pô-lô: Nhờ vào sách Công Vụ 18: 24-28, chúng ta biết rằng ông A-pô-lô là một người Do thái quê ở A-lê-xan-ri-a, thủ đô của kiều bào Do thái giáo và một trong những thủ đô trí thức của thế giới vào thời đó. Nhờ có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh, ông rao giảng rất thành công ở Ê-phê-xô. Từ đó, ông đã sang miền A-khai-a dùng tài hùng biện của mình mà phục vụ Giáo Hội. Thánh Phao-lô, khi từ biệt Cô-rin-tô, đã giao phó cho ông A-pô-lô Giáo Đoàn non trẻ này. Tuy nhiên, ông A-pô-lô đã không lưu lại lâu ở Cô-rin-tô, nhưng cũng để lại ở đây một ảnh hưởng mạnh mẻ. Chắc hẳn, tài hùng biện chói sáng của ông làm lu mờ đi cách rao giảng đơn sơ và bộc trực của thánh Phao-lô (x. 1Cr 2: 1, 3, 5). Kết quả là một sự chia rẽ giữa những người theo phe ông A-pô-lô và những người vẫn trung thành với thánh Phao-lô.

Việc nhắc đến ông A-pô-lô ở cuối thư gửi tín hữu Cô-rin-tô này cho phép chúng ta khẳng định rằng ông A-pô-lô không để cho sự thành công lôi cuốn mình và cương quyết tự xóa mình trước thánh Phao-lô cho đến khi hoàn cảnh được tái lập: “Còn về anh A-pô-lô, tôi đã tha thiết xin anh ấy đến thăm anh em cùng với các anh em khác. Nhưng lúc này anh ấy nhất định không chịu đi, anh ấy sẽ đi khi có dịp thuận tiện” (1 Cr 16: 12).

– Phe theo thánh Phê-rô: Có thể chính thánh Phê-rô, hay một trong những cộng sự viên thân cận của thánh nhân, đã đến Cô-rin-tô. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng những Ki-tô hữu gốc Do thái tìm kiếm nơi thánh Phê-rô một điểm tựa để bênh vực những lập trường duy Do thái của họ chống lại lập trường bao dung của thánh Phao lô đối với dân ngoại (x. Gl 2: 1-14).

– Phe theo Đức Ki-tô: Có thể đó là những Ki-tô hữu vẫn ở trong chính lộ (x. 1Cr 1: 13) hay những người tự phụ là mình gắn bó với Đức Ki-tô mà không nhận uy quyền của bất kỳ vị Tông Đồ nào.

  1. Câu trả lời của thánh Phao-lô (1 Cr 1: 10, 13, 17)

Đối diện với nạn bè phái, thánh Phao-lô kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất và trình bày giáo huấn về tính bất khả phân của Đức Giê-su: tính duy nhất của Hy Tế Thập Giá, Phép Rửa, và Tin Mừng.

– Kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất

Thánh Phao-lô kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Lời mời gọi dứt khoát, nồng nàn và khẩn thiết này được đặt ngay ở đầu, thậm chí trước khi viện dẫn hoàn cảnh của những chia rẽ. Thư gửi tín hữu Phi-líp-phê (Pl 2: 1-11) cho chúng ta lời giải thích lý do tại sao phải “một lòng một ý” với nhau.

Chính “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô” mà các tín hữu Cô-rin-tô được mời gọi hiệp nhất với nhau, bởi vì những gì đụng chạm đến cộng đoàn là đụng chạm đến chính con người của Đức Ki-tô (Cv 9: 5). Như vậy, chia rẽ là phân chia chính Thân Thể Đức Ki-tô (x. 1Cr 12: 12t; Gl 3: 28).

– Tính bất khả phân của Đức Ki-tô

Sự sai lầm của các tín hữu Cô-rin-tô chính là đặt Tin Mừng trên cùng một bình diện với tất cả những khôn ngoan mà họ thường nghe các môn đệ của các triết gia nổi tiếng như Platon, Aristote, Zénon… truyền bá. Đối diện với những trào lưu triết học này, người ta có thể tranh luận không dứt và quyết định theo phe này hay phe kia (x. 1Cr 3: 3-4). Tin Mừng thì hoàn toàn khác. Tiên vàn, đây là công bố một sự kiện: cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô. Đức tin không là một sự gắn bó với một giáo thuyết, nhưng tận hiến bản thân mình cho Đức Ki-tô. Người môn đệ loan báo Tin Mừng không gì khác hơn là người loan báo Đức Ki-tô, vì thế người môn đệ là môn đệ của Đức Ki-tô, chứ không là môn đệ của bất kỳ Tông Đồ nào. Người môn đệ ấy sống cuộc sống của Đức Ki-tô, chứ không cuộc sống của bất kỳ Tông Đồ nào. Người ấy được cứu độ nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô chứ không nhờ cái chết của bất cứ Tông Đồ nào. Người ấy đã được rửa tội nhân danh Đức Ki-tô, chứ không nhân danh một ai khác (Cv 2: 38; 8: 16; 10: 48; vân vân).

Để tránh triệt để sự ngộ nhận, lời dạy của thánh Phao-lô được trình bày ngay tức khắc hoàn toàn khác với lời dạy của các triết gia hay các nhà hùng biện. Không cốt trình bày những lập luận có sức thuyết phục đối với tư tưởng này hay tư tưởng kia, nhưng chỉ cốt công bố mầu nhiệm của Đức Ki-tô chết trên Thập giá và sống lại. Vì thế, Tin Mừng không là đối tượng của sự chứng minh, nhưng ngỏ lời với đức tin.

Ngôn từ của thánh Phao-lô trong thư không cốt nhấn mạnh sự nối tiếp giữa những quan niệm ngoại giáo Hy lạp như ở A-thê-na (Cv 17: 16-33), nhưng đúng hơn trình bày thẳng thắn sự điên rồ của Thập Giá là sự khôn ngoan cao vời khôn sánh của Thiên Chúa tương phản với tất cả sự khôn ngoan của phàm nhân.

TIN MỪNG (Mt 4: 12-23)

Tin Mừng Mát-thêu được trích trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A gồm bốn phần: Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 12-16), lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17), thu nạp các môn đệ đầu tiên (4: 18-22), và sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 23).

  1. Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 12-16)

Dấu ấn của thánh Mát-thêu in đậm đặc biệt trong đoạn văn này, nếu chúng ta so sánh với những đoạn văn liên hệ của các tác giả Nhất Lãm khác.

Sau khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả (Mt 3: 13-17), đoạn trải qua những chước cám dỗ trong sa-mạc (Mt 4: 1-11), và cuối cùng nghe tin “ông Gioan Tẩy giả đã bị nộp” (4: 12), Chúa Giê-su biết đã đến lúc Ngài bắt tay vào sứ vụ: nhiệm vụ dọn đường của Gio-an Tẩy Giả đã hoàn tất, vai phụ rút lui vào hậu trường để nhường chỗ cho vai chính là Đức Giê-su. Thánh Mát-thêu cũng như thánh Mác-cô sẽ dùng cùng một diễn ngữ “bị nộp” để nói về việc Đức Giê-su bị bắt. Như vậy, Gioan Tẩy Giả loan báo về Đức Giê-su không chỉ bằng lời rao giảng, nhưng còn bằng cuộc sống nữa. Qua động từ: “bị nộp”, thánh Mát-thêu muốn nói rằng số phận của ông Gioan Tẩy Giả báo trước số phận tương tự đang chờ đợi Đức Giê-su.

Sự kiện Đức Giê-su lánh sang miền Ga-li-lê khi nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị nộp khiến chúng ta nghĩ rằng Đức Giê-su không còn cảm thấy an toàn ở miền Giu-đê. Tuy nhiên, vị vua đã tống giam Gioan Tẩy Giả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa lúc đó cai trị xứ Ga-li-lê. Dường như lý do sâu xa của việc Đức Giê-su chuyển dời miền đất hoạt động của mình sang miền Ga-li-lê được gặp thấy trong Tin Mừng Gioan: “Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gio-an. Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê” (Ga 4: 1-3). Thánh Lu-ca nói một cách đơn giản: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê” (Lc 4: 14).

Còn thánh Mát-thêu thì trình bày quyết định của Đức Giê-su bằng những từ ngữ như quyết định của thánh Giu-se khi quay trở về từ Ai-cập đến cư ngụ ở Na-da-rét: “Khi nghe tin Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó… ông lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ” (Mt 2: 19-23). Cũng một cách thức như vậy trong bài trình thuật này: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a”. Việc kể tên hai địa danh xa xưa “Dơ-vu-lun và Nép-ta-li” rõ ràng dọn đường cho lời trích dẫn sấm ngôn I-sai-a. Hai địa hạt này chiếm phần lớn miền Ga-li-lê, bị đế quốc Át-sua sát nhập, bị Hy lạp hóa vào thời cai trị của đế quốc Hy lạp, vì thế phần lớn là người ngoại bang đến định cư. Lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a về cuộc giải thoát được thánh Mát-thêu thấy ứng nghiệm nơi sứ vụ của Đức Giê-su.

Đức Giê-su đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê. Thành Ca-phác-na-um được hưởng một hoàn cảnh ưu đãi, thành phố giáp ranh giới với ba nước: Pa-lét-tin, Phê-ni-xi và Xy-ri-a: thành phố này là một phần của miền Ga-li-lê được gọi là “miền đất của dân ngoại”. Đức Giê-su chọn thành phố này làm địa bàn hoạt động của Ngài. Dân bản địa chủ yếu là những ngư phủ, thợ thủ công và tiểu điền chủ.

Quả thật, kiểu nói: “Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại” hình thành nên trọng tâm của lời trích dẫn Is 8: 23-9: 1 và cũng của sứ mạng Đức Giê-su. Khi nói: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm” (Mt 4: 16), thánh ký ám chỉ đến tình trạng tinh thần của dân Do thái vào thời ông, trong những miền dân cư tạp chủng. Như vậy, thánh ký nêu bật Đức Giê-su muốn chia sẻ cùng một cảnh ngộ với dân Ngài, như Ngài đã làm trong suốt thời gian ẩn dật cũng như khi chịu phép rửa. Chính vì dân Ngài, Đức Giê-su được sai đi trước tiên đến “những chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10: 6; 15: 24), nhưng cũng gặp gỡ dân ngoại, vì hoàn cảnh cụ thể của dân cư miền này đặt Ngài vào mối liên hệ với họ. Chính “những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần” này mà Đức Giê-su là “ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.

  1. Lời rao giảng của Đức Giê-su (4: 17)

Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17) lặp lại y nguyên lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3: 2). Tuy nhiên, cũng một lời kêu gọi sám hối nhưng do bởi hai nhân vật với hai vai trò khác nhau: Gioan Tẩy Giả, người có sứ mạng làm phép rửa trong nước để dọn lòng cho con người đón tiếp Đức Giê-su, Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần (Mt 3: 11). Vì thế, lời kêu gọi sám hối của Đức Giê-su trở nên khẩn thiết hơn, vì Triều Đại Thiên Chúa đã khởi sự ở nơi sự hiện diện của Ngài. Cõi vĩnh hằng đã đột nhập vào thời gian, Triều Đại Thiên Chúa đã xâm nhập vào cõi thế. Vì thế, điều quan trọng hơn cả là con người phải quay tầm nhìn của mình khỏi hạ giới mà hướng về thượng giới, đổi hướng đi để tiến gần đến Đức Giê-su. Muốn thế thì phải nghe và theo Đức Giê-su.

  1. Thu nạp các môn đệ đầu tiên (Mt 4: 18-22)

Lời rao giảng của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê được ghi nhận là đã gặp thấy lời đáp trả tích cực ở nơi bốn môn đệ đầu tiên. Bài trình thuật của thánh Mát-thêu về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên rất gần với bài trình thuật của thánh Mác-cô (bài trình thuật Lu-ca thì hơi khác). Câu chuyện thật đột ngột: hai anh em ông Si-mon và ông An-rê đang thả lưới bắt cá, liền bỏ nghề nghiệp của mình mà cất bước theo Đức Giê-su. Còn hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, sự đoạn tuyệt càng mãnh liệt hơn, họ không chỉ bỏ lại nghề nghiệp của mình, nhưng còn cả người cha mà họ có bổn phận phụng dưỡng nữa. Trước đây, chỉ vọn vẹn có ba từ: “Người bỏ Na-da-rét” gợi lên việc Đức Giê-su thoát ly gia đình, bạn bè, nghề nghiệp và làng quê thân yêu Ngài, giờ đây Ngài cũng sẽ đòi hỏi các môn đệ của Ngài một đoạn tuyệt như vậy.

Hai anh em Si-mon và An-rê cũng như hai anh em Gia-cô-bê và Gioan ở đây chưa được gọi là môn đệ. Đức Giê-su chỉ đòi hỏi họ đi theo Ngài, như ngôn sứ Ê-li-a đã làm như thế đối với Ê-li-sa (x. 1V 19: 20-21). Tuy nhiên, chúng ta có thể đọc thấy ở đây mối liên hệ của thầy với trò rồi, nhất là khi thêm vào “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”, Đức Giê-su ngay tức khắc liên kết họ vào sứ mạng của Ngài. Bài diễn từ sai đi (ch, 10) và dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển (13: 47-50) sẽ đem lại nền tảng vững chắc cho lời công bố bí nhiệm này. Khi gọi những cộng tác viên đầu tiên của mình và mời gọi họ thoát ly khỏi môi trường gia đình và nghề nghiệp của họ, Ngài muốn nói với họ tầm mức biểu tượng sứ mạng của họ: tiếp nối sứ mạng của Ngài, đồng thời biến đổi hoàn cảnh phàm nhân của họ. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh vừa sự nối tiếp lẫn sự đoạn tuyệt trong lời mời gọi theo Ngài.

  1. Sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 23)

Sau khi đã mô tả ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, thánh Mát-thêu lại tiếp tục trình bày sứ vụ của Đức Giê-su: “Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, loan báo Tin Mừng Nước Trời, và chữa dân chúng hết bệnh hoạn tật nguyền” (4: 23). Ở đây, chúng ta thấy ba khía cạnh sứ vụ của Đức Giê-su: giảng dạy – loan báo Tin Mừng Nước Trời – chữa lành. Chúng ta sẽ gặp lại đúng y nguyên trình tự này ở 9: 35: “Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”.

Phạm vi hoạt động của Đức Giê-su được ghi nhận “khắp miền Ga-li-lê”. Ngài không tự giới hạn vào việc quy tụ một nhóm nhỏ môn đệ, một trường đào tạo, theo cách thức của các kinh sư, nhưng với tư cách một nhà giảng thuyết lưu động, Đức Giê-su muốn rằng sứ điệp của Ngài phải đến với tất cả mọi người và được lan truyền ra khắp nơi.

 

6.     Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông Giorđan, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Người là: “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian ” (Ga 1, 29). Điều các ngôn sứ đã báo trước nay được thực hiện: “Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại” (Is 9, 1-4 (Hr 8, 23b – 9, 3). Ánh sáng vĩ đại ấy là ai nếu không phải là Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu xuất hiện giữa dân chúng, như ánh bình minh rạng ngời buổi sáng, xua tan bóng tối đêm đen. Dân chúng thấy Ngài như thấy ánh sáng huy hoàng… xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết (x.Mt 12, 16), ánh sáng ấy nay tỏ rạng công khai khi rao giảng: “Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến” (Mt 12, 17).

Ánh sáng ấy là Chúa Giêsu

Matthêu giải thích, Chúa Giêsu “rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali”. Với địa danh chính xác như thế, nhưng mục đích của tác giả không phải là cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn du lịch. Ý tưởng thần học của Matthêu được giải thích ngay: “Để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia” (Bài đọc I).

Ứng nghiệm điều gì? Giabulon và Nepthali là hai vùng thuộc miền Bắc lúc ấy đang bị sát nhập vào vương quốc Asyri. Thật là hổ người khi nhớ lại quá thất bại và bị đuổi ra ngoài. Tuy nhiên, vị tiên tri với niềm tin vững mạnh đã tuyên bố: “Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng”. Nói cách khác, Isaia muốn khơi lên niềm hy vọng nơi những người tin cậy Chúa, Đấng giải thoát họ, nên ông không ngần ngại nói về ơn cứu rỗi. Đó là sức mạnh của Lời Chúa, Lời thực hiện những gì đã tuyên bố, Isaia gợi lên niềm vui đến từ đức tin: “Dân chúng vui mừng trước nhan Chúa như nhà nông vui mừng trong mùa gặt”. Thánh Vịnh một lần nữa vang lời động viên: “Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa”. Niềm tin này khiến chúng ta vui mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện: “Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi”. Sự sáng ấy nay cụ thể hóa nơi con người Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu xác định: Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: “Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết”.

Bước theo Chúa Giêsu cần phải hối cải

Ánh bình minh đã ló rạng, từ trên cao chiếu soi dân ngồi trong bóng tối là chính Chúa Giêsu Kitô. Ai bước vào trong ánh sáng ấy cần phải: “Hối cải” nghĩa là đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ tội lỗi sang đời sống là con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng. Và Chúa muốn ánh sáng ấy chiếu soi mọi người; nên Chúa đã chọn các môn đệ như những người phụ tá.

Khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình “Hối cải”. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, dù thuộc về Phaolô, Phêrô hay Apôlô cũng chỉ có một Đức Kitô. Mọi con mắt phải hướng về Ngài, chính Ngài cứu chuộc chúng ta. Vì thế, khi gọi các môn đệ, là để các ông trở nên những chứng nhân của Tin Mừng, nên thánh Phaolô có thể nói: “Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không”. Phaolô được chọn, để loan báo một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh cho thế gian.

Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Ngài. Chúng ta hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu nguyện xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng.

Hối cải để hiệp nhất

Lời Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến”, vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Sự quyết tâm hoán cải, trở về cùng Chúa Kitô là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.

Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây: “Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Ðồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ như thánh Phaolô Tông Ðồ nói đến: “Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức” (1 Cr 1,10). Thực ra Thánh Tông Đồ đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: “Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?” (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.

Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.

 

7.     Ơn Cứu Độ

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

“Đức Chúa là ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ chi ai” (Tv. 27). Thiên Chúa không chỉ là Đấng cứu độ người, nhưng Ngài còn là Đấng đong đầy mọi khát vọng của con người. Nơi Ngài, con người được hạnh phúc trọn vẹn và đích thực.

  1. Ơn cứu khỏi chết và ơn được sống hạnh phúc

Một người cầm chắc cái chết, chẳng hạn bị bệnh nan y không thể chữa nổi nữa, hay bị tai nạn đắm tàu sắp chết chìm, nhưng nếu họ được cứu thoát chết: đó là ơn cứu mạng. Ơn cứu độ, là ơn cứu sống. Trong cuộc sống, ai cũng mang ơn cha mẹ sinh ra mình, đó là ơn sinh thành. Ơn sinh thành là ơn có một không hai; vì không ai được sinh ra về thể lý hai lần. Ơn cứu mạng, cũng quý như ơn sinh thành, vì nếu không người đó đã bị chết. Khi người nào cứu sống được ai đó, người đó sẽ được biết ơn đến như thế nào!

Tuy vậy, nếu sống mà không hạnh phúc con người cũng chẳng muốn sống. Có một số người sống không hạnh phúc, nên họ muốn tự tử. Trong cuộc sống có một số người thất tình, họ không muốn sống nữa! Có một số người vì bị bệnh nặng, đau đớn nhiều, họ cũng muốn chết. Có những người vì bị bệnh mà phải làm phiền người khác, họ muốn chết vì không muốn làm phiền người khác. Như vậy, sống chưa phải là một ơn trọn vẹn, nếu đó không phải là sống hạnh phúc. Ơn cứu độ hàm nghĩa ơn cứu sống, và cũng là ơn sống hạnh phúc nữa.

Hạnh phúc hay không phần lớn tùy ở mình. Tuy nhiên con người cũng bị ảnh hưởng bởi người khác nữa; chẳng hạn trong đời sống gia đình, nếu người vợ tuyệt vời mà gặp người chồng “không biết mình chẳng biết người”, thì người vợ đó cũng khó hạnh phúc. Trong đời sống tu trì, nếu có người cùng cộng đoàn khó tính và thiếu trưởng thành, thì đời sống của những người khác cũng bị ảnh hưởng. Tuy dù những yếu tố thể lý ảnh hưởng trên tâm lý, con người với hiểu biết đúng đắn, vẫn có thể hạnh phúc, hay ít nhất bớt khổ, trong một mức độ nào đó. Chẳng hạn nếu chấp nhận người khác và chấp nhận khả năng giới hạn của mình, con người sẽ hạnh phúc hơn.

Hạnh phúc là tình trạng và cảm xúc của một người, nên chính người đó là một yếu tố quan trọng không thể thay thế được! Hơn nữa, dường như ở trên trần thế này, không có hạnh phúc trọn vẹn. Vì khi sống trên trần thế này, mạng sống con người có thể bị người khác cướp đi, điều quý nhất của mình cũng có thể bị người khác lấy mất bằng vũ lực và cưỡng đoạt. Vậy làm sao mình có thể hạnh phúc được! Hơn nữa, với thời gian, con người biến đổi: già và bệnh tật. Lực bất tòng tâm. Làm sao con người hạnh phúc! Dường như hạnh phúc trọn vẹn chỉ có ở “đời sau”.

Hạnh phúc trọn vẹn chỉ có ở đời sau. Hạnh phúc con người cũng là một ơn Thiên Chúa ban cho người nữa. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn muốn con người sống hạnh phúc trọn vẹn với Ngài, bây giờ và mãi mãi.

  1. Thiên Chúa là Đấng cứu độ con người

Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người. Ngài luôn nghe tiếng con người khẩn nài và lưu tâm cứu giúp con người. Ngài trợ giúp con người ngay trong những gì thuộc phạm vi trần thế: Ngài cứu giúp dân Do Thái khi họ không còn có thể trông chờ nơi ai khác. Thiên Chúa bênh đỡ những người khốn khổ và bị áp bức, khi họ chỉ còn có thể trông chờ nơi Ngài thôi.

Lịch sử dân Do Thái cho thấy Thiên Chúa nghe tiếng dân cùng khổ khẩn cầu, và Ngài đã dùng Môsê để giải phóng họ. Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu xin của bà Anna người hiếm con, và cho bà người con trai rất tuyệt là Samuel. Thiên Chúa đã thương bà goá nghèo không lương thực, đã nuôi bà cùng người con và tiên tri Elia trong thời gian dài đói kém.

Thiên Chúa yêu thương yêu tha thứ tội lỗi cho con người. Ngài ban Đức Yêsu cho con người, để qua Đức Yêsu con người hiểu biết hơn về Thiên Chúa. Đức Yêsu là bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho con người. Qua Đức Yêsu con người cũng nhận ra con đường phải theo để sống hạnh phúc.

  1. Đức Yêsu là Đấng cứu độ: Đấng giúp con người sống hạnh phúc

Đức Yêsu, mẫu gưong giúp con người sống hạnh phúc. Đức Yêsu đã sống trong cảnh nghèo như những người nghèo đã sống; Ngài cũng hẩm hiu trong cảnh nghèo hèn ít học. Tuy vậy, Ngài vẫn “triển nở và hạnh phúc” trong cuộc sống. Người nghèo, chưa phải là người không hạnh phúc. Những em bé nghèo, không phải là những em bé bất hạnh hơn những em bé giầu. Có nhiều em bé nhà giầu, nhưng không được cha mẹ chăm sóc đủ, đã buồn phải bỏ nhà ra đi, và đôi khi hoang phí cả đời. Cũng có những em bé nhà giầu và được cưng chiều săn sóc quá mức, đã không có tự do để triển nở về mọi mặt.

Nhiều người không thành công, và Đức Yêsu cũng không thành công trên đường đời, trong giảng dạy. Lúc đầu Đức Yêsu có vẻ thành công, được người ta theo và nghe nhiều, nhưng với thời gian và đòi hỏi của Tin Mừng, người ta đã bỏ Ngài. Trong mọi trường hợp, Ngài vẫn yêu thương mọi người, ngay cả những người thù ghét Ngài. Ngài chấp nhận tất cả. Chấp nhận, là một yếu tố để sống bình an và hạnh phúc.

Cái chết trên thập giá của Đức Yêsu, một lần nữa cho con người biết rằng, hạnh phúc đích thực chỉ trọn vẹn ở đời sau. Hạnh phúc đích thực, là hậu quả và là phần thưởng cho những người sống theo gương Đức Yêsu. Thiên Chúa là ơn cứu độ cho tất cả mọi người.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Bạn có cảm nghiệm bất hạnh hoặc đau khổ bao giờ chưa? Xin bạn chia sẻ!
  2. Theo bạn, con người hạnh phúc nhất khi nào?
  3. Bạn có bí quyết để sống bớt khổ và hạnh phúc không? Xin bạn chia sẻ.

 

8.     Đức Giêsu đến ở Caphácnaum

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ rao giảng của Ngài. Ngài được Gioan Tẩy Giả giới thiệu. Sau khi Gioan bị cầm tù, Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng, nhưng Ngài muốn lánh mặt về xứ Galilê, tới thành Caphacnaum là một thành phố lớn để tránh gây xôn xao trong dân, vì việc Gioan bị tù ai cũng biết. Nhưng khi nói đến miến Bắc Galilê, thánh Matthêu không chỉ nói đến một chi tiết địa dư mà muốn nhấn mạnh đến tầm rộng lớn của sứ mệnh Chúa Giêsu. Vì thế thánh nhân đã dùng một câu của Tiên tri Isaia nói về các dân tộc đang “ngồi trong vùng bóng tối của tử thần” đã thấy một ánh sáng huy hoàng để cho thấy Tin Mừng phải được lan rộng đến mọi dân tộc. Ngay từ đầu, khi Chúa Giêsu mới bước ra rao giảng, thánh Matthêu đã cho thấy tính cách phổ quát của Tin Mừng và khi kết thúc sách Tin Mừng, thánh nhân cũng nói đến điều đó: “Chúng con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc”.

Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là tiếp nối công cuộc của Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Nhưng lời kêu gọi của Chúa không giống như của Gioan, xem Nước Trời như thời cuối cùng và là ngày xét xử. Kẻ lành, người dữ phải được xét xử phân minh. Người tội lỗi sẽ lãnh án phạt. Chúa Giêsu mời gọi ăn năn sám hối mà không đe dọa. Ngài thân tình mời gọi tất cả mọi người không trừ ai. Đó là con đường chắc chắn nhất để tìm Nước Trời. Chúng ta cũng như người Do Thái xưa, phải đi vào con đường hoán cải mới có thể nhìn thấy hồng ân Chúa.

Nghe nói đến Nước Trời, chúng ta thường nghĩ là một không gian nào đó, rộng lớn như nước Mỹ hay Trung Quốc. Không, Nước Trời chính là Chúa Giêsu, Đấng gánh tội trần gian, Đấng mang lại sự sống mới trong Thánh Thần, vì chỉ có một Danh duy nhất, vì “không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ Danh đó mà được cứu độ”. Muốn được Nước Trời đó, chúng ta phải đi vào con đường sám hối mà thôi. Chúng ta được sinh ra trong tội, chúng ta vẫn là người tội lỗi, chính Đức Thánh Cha vẫn tuyên xưng rằng ngài là người tội lỗi. Chúng ta cần hoán cải để được tha thứ, để đón chờ Nước Trời.

Nhưng ăn năn sám hối là gì? Chúng ta chỉ nói vài câu tỏ ra hối tiếc tội lỗi mình rồi thôi hay sao? Ăn năn sám hối đâu chỉ là một vài lời than thở, là một việc làm qua loa lấy lệ! Mà là một thái độ nội tâm thành thực, nhìn biết một cách rõ ràng tội lỗi của mình và thật tâm muốn từ bỏ những gì xấu xa mình đã làm và cương quyết muốn sửa đổi để nên tốt hơn, để sống theo lời Chúa hơn. Có thể nói là một cuộc đổi hướng để trở về với Chúa.

Người Do Thái chỉ biết lo buồn vì những lỗi phạm của họ, nhưng chúng ta thì khác. Việc sám hối của chúng ta mang một chiều sâu mới vì đã có Chúa Giêsu. Ăn năn sám hối là một hồng ân chứ không là một hành vi cá nhân của một người. Hồng ân này là do tình yêu. Hối nhân ăn năn vì muốn yêu mến Chúa thì chính Chúa sẽ ban cho họ một tâm tình thống hối chân thật trào dâng từ bên trong chứ không là những cảm giác bên ngoài. Ăn năn thống hối là một tâm tình phát xuất từ tình yêu. Ăn năn sám hối là từ bỏ những việc xấu xa để trở về với tình yêu của Chúa, đón nhận lại tình yêu mà chúng ta đã bỏ quên, đón nhận lại chính Đấng đã yêu chúng ta trước. Đó chính là ăn năn thống hối chân thực.

Chúng ta có cần ăn năn sám hối như Chúa đã kêu gọi không? Hay chỉ hời hợt nói vài câu than thở rồi yên tâm? Nhiều người không cảm thấy cần ăn năn gì cả vì họ nghĩ rằng họ không có tội gì nhiều, chỉ có một vài lỗi nhỏ thôi, và lại có rất nhiều công nghiệp như người Pharisêu kia, đứng trước bàn thờ Chúa huênh hoang tự đắc: tôi làm được nhiều việc lành, ăn chay, bố thí mà quên rằng có một khối kiêu căng khổng lồ đang che mất ánh sáng. Rất nhiều tín hữu đã rơi vào tâm trạng công chính giả hiệu đó mà không bao giờ biết thống hối ăn năn, tự cho mình bằng khen công chính.

Các thánh thường dạy chúng ta sống trong tâm tình thống hối luôn, không phải để bôi đen cuộc sống nhưng để làm cho nó luôn trong sáng càng ngày càng hơn. Các thánh cũng dạy chúng ta trở về với Chúa mỗi ngày để chỉ có Chúa là đích điểm chú ý của chúng ta mà thôi, căng thẳng về Chúa như vụn sắt hướng về nam châm, cuộc sống chúng ta mới sáng tươi rực rỡ. Đó là ý định yêu thương của Chúa. Chúng ta hãy nghe lời Chúa: “Hãy ăn năn sám hối”.

Sau đó Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển hồ và kêu gọi mấy người chài lưới. Thánh Matthêu nói hai lần: “Lập tức, các ông bỏ chài lưới… bỏ cha lại mà theo Người”.

Lập tức, nghĩa là không tính toán, không so đo hơn thiệt. Chúng ta có nghĩ rằng tại sao các ông dám theo một người mà họ chưa biết người đó là ai không? Tại sao họ có thể quyết định một cách bất ngờ như vậy? Không tính trước, không suy nghĩ. Trong tình trạng đó, chúng ta dám không? Họ nghĩ về người đó như thế nào mà dám liều như thế? Chúng ta không thể trả lời và đây phải chăng là một mầu nhiệm?

Theo Ngài để làm gì? Để lưới người. Họ chỉ biết bao nhiêu đó, và họ có biết lưới người là gì không? Họ không biết gì cả, nhưng họ tin vào người đã gọi họ. Họ nhìn nhận nơi người đó có một cái gì đó hấp dẫn họ. Tiếng gọi của Ngài như một mệnh lệnh chứ không chỉ là một lời mời gọi suông: “Hãy theo Ta”. Và họ bỏ mọi sự mà theo Ngài. Abraham chỉ nghe một tiếng nói: “Hãy ra đi” và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Môsê ít ra cũng còn thấy bụi gai trong đám lửa hỏa hào và một tiếng gọi. Ông vâng phục. Tiên tri Giêrêmia đã đối thoại với Chúa và sau cùng đã vâng theo. Tiên tri Isaia đã nhìn thấy vinh quang Chúa trong Đền thờ và Chúa đã kêu gọi ông, ông đã chấp nhận. Chúng ta có được kêu gọi không?

Chúa mời gọi mọi người tùy theo hoàn cảnh riêng của mỗi người, nhưng mỗi người đều được mời gọi. Ngày chúng ta được bước vào Giáo hội qua Bí tích Thánh Tẩy, đó là một tiếng gọi và mỗi ngày tiếng gọi ấy vẫn vang lên trong tâm hồn chúng ta: “Hãy theo Ta”. Chúng ta có lắng nghe không? Chúng ta có biết rằng Chúa vẫn ân cần mời gọi chúng ta đi theo Ngài để lưới người không? Chúa vẫn tôn trọng tự do của chúng ta, Ngài mời gọi mà không ép buộc. Nhưng lắm khi chúng ta không lắng nghe tiếng Ngài. Chúng ta ngại bỏ mọi sự, vì chúng ta không biết Chúa là ai, chúng ta tiếc hành tỏi, những nồi thịt ngon Ai Cập.

Có những người như các tông đồ, bỏ mọi sự mà theo Ngài, nhưng có những người theo Ngài mà vẫn sống trong môi trường của mình, trong gia đình, mà vẫn từ bỏ mọi sự, nghĩa là không bám víu vào trần thế. Họ vẫn sống cho Chúa trong thực tế của đời sống mình. Những người này là đa số, và chính họ là muối đất, là men trong bột. Giáo hội cần và rất cần những người đó. Ai nghe tiếng Chúa mời gọi và đi theo Ngài, dù ở đâu, trong môi trường nào, họ vẫn tham dự vào việc “lưới người ta” của Giáo hội. Mọi người đều được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa. Chỉ cần thiện chí và dấn thân. Dù là giờ thứ mấy Chúa vẫn có việc làm cho họ. Vinh dự cho chúng ta biết bao, dù chúng ta chỉ là những tay chài lưới nhỏ hèn Chúa vẫn có thể giúp ích cho các linh hồn!

Hôm nay, tiếng gọi ấy vẫn còn vang vọng trong mỗi tâm hồn. Hôm nay, chúng ta sẽ làm gì cho Chúa? Đừng mặc cảm vì chúng ta nhỏ hèn hay dốt nát. Trong tay Chúa, mọi người đều có giá trị. Chúa biết sử dụng những gì Ngài đã tạo nên, miễn là chúng ta không cưỡng lại tiếng gọi.

Hôm nay Ngài có mặt. Ngài mời chúng ta theo Ngài thì chính Ngài lại đến trong chúng ta, trở nên bánh để chúng ta ăn và nhờ tấm bánh thần linh này, chúng ta được mạnh sức, đủ can đảm để thưa với Ngài: “Này con đây, xin Chúa hãy sai con”.

 

9.     Ánh sáng trần gian – Lm. Minh Vận, CRM

Trong câu truyện tâm tình, một người bảo trợ, đúng hơn là một vị ân nhân người Mỹ, đã nói với hai vợ chồng anh chị người Việt Nam: “Không biết vì tội gì của cha ông các bạn, mà ngày nay người dân Việt Nam các bạn phải lưu lạc khắp thế giới, giống như dân Do Thái xưa vì tội giết Chúa Cứu Thế mà họ đã phải đầy ải đi khắp thế giới? Phải chăng vì tội của vua chúa các bạn đã bách hại Đạo Công Giáo, đã giết chết biết bao Tín Hữu? Điều đó không ai trong chúng ta dám quyết đoán, nhưng có một điều rất quan trọng mà tôi dám quả quyết là: Chúa dùng cách thế đó để gởi các bạn đến đất nước này, cũng như tới các dân tộc khác trên khắp thế giới, để các bạn đem Đức Tin, lòng đạo đức và lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria đến cho chúng tôi và cho các dân tộc khác. Cũng như Giáo Hội Công Giáo hồi sơ khai, các Tín Hữu bị vua chúa bắt bớ, tầm nã, cấm cách, nên đã phải trốn tránh nay đây mai đó, tản mát đi khắp nơi khắp chốn; bởi nhờ sự bắt bớ này, mà các Tín Hữu có cơ hội, đi tới đâu họ truyền bá Đức Tin, đem Tin Mừng Cứu Rỗi của Chúa tới đó, khiến các dân tộc được mau chóng nhận biết Chúa và tôn thờ phụng sự Người.

  1. CHÚA KITÔ ÁNH SÁNG CỦA THIÊN CHÚA

Bài sách tiên tri Isaia hôm nay đã tiên báo: Đang lúc các dân tộc bước đi trong miền u minh và bóng tối sự chết, thì xuất hiện một luồng sáng vĩ đại chiếu soi họ. Luồng sáng vĩ đại đó là chính Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai đã nhập thể làm người, đến trần gian để chiếu soi nhân loại đang ngụp lặn trong vực thâm u của mê tín, dị đoan, tin vơ, thờ quấy, tôn thờ tà thần ngẫu tượng… Ngài ban cho nhân loại niềm hân hoan phấn khởi và vui sướng, vì Ơn Cứu Độ của Chúa đã gần đến, như lời đáp ca chúng ta vừa nhắc đi nhắc lại: “Chúa là Sự Sáng, là Đấng Cứu Độ tôi! Chúa là Đấng Phù Trợ đời tôi, tôi sợ gì ai!”

Chúa Kitô đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”(Jn 14:6). Chúa đến để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực Satan hỏa ngục, tỏ cho chúng ta thấy con đường về với Thiên Chúa; Người cũng chỉ cho chúng ta biết những chân lý chúng ta phải tin để làm lẽ sống hướng dẫn cuộc đời, giúp chúng ta sống một cuộc sống có ý nghĩa, một cuộc sống có lý tưởng, để đạt tới một cứu cánh cao cả tuyệt đối. Người ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, sự sống siêu nhiên, sự sống ơn nghĩa thánh của con cái Thiên Chúa. Vì Chúa Kitô là Đàng chúng ta phải theo, là Sự Thật chúng ta phải tin kính, là Sự Sống chúng ta phải nương nhờ. Thánh Mathêu nhắc lại lời tiên tri Isaia để chứng minh Chúa Kitô là Ánh Sáng trần gian khi ngài viết: “Muôn dân ngồi trong bóng tối tăm đã thấy Ánh Sáng huy hoàng, Ánh Sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết”. Chính Chúa Kitô cũng đã quả quyết: “Ta là Ánh Sáng trần gian, ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ được Ánh Sáng ban sự sống soi chiếu” (Jn 8:12).

  1. CHÚNG CON LÀ ÁNH SÁNG TRẦN GIAN

Giáo Hội đã ý thức sứ mạng Chúa ủy thác là tiếp tục đem Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho các linh hồn, nên qua Công Đồng Vaticanô II, Giáo Hội đã tự nhận mình là Ánh Sáng các dân tộc” (Lumen Gentium). Sứ mạng đem Ơn Cứu Độ đến cho các linh hồn là bổn phận khẩn thiết của mỗi người chúng ta, vì chính Công Đồng đã quả quyết: “Ơn gọi làm Kitô Hữu tự bản chất cũng gọi là ơn gọi làm tông đồ” (Apos Act # 2). Công Đồng còn giải thích thêm: “Giáo Dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mạng Cứu Độ của Giáo Hội. Mỗi Tín Hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ qua việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy và Thêm Sức. Các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể thông ban và nuôi dưỡng trong họ Đức Ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người, nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ” (Lumen Gentium #33). Công Đồng còn nhấn mạnh hơn nữa sứ mạng Tông Đồ của chúng ta khi viết: “Mỗi Môn Đệ của Chúa Kitô tùy theo địa vị của mình đều có bổn phận góp phần truyền bá Đức Tin” (Lumen Gentium #17).

Đem Đức Tin đến cho tha nhân là mệnh lệnh Chúa truyền: “Các con hãy làm chứng nhân cho Thầy” (Lc 24: 48). Chúa cũng phán dạy chúng ta như đã phán với Thánh Pherô: “Con hãy củng cố Đức Tin cho anh em con”. Và: “Các con hãy đi làm vườn nho cho Thầy” (Lc 22:31-32). Hơn nữa, Chúa còn quả quyết với chúng ta: “Các con là muối địa cầu, là ánh sáng trần gian” (xem Mt 5:13-16).

Những lời Chúa truyền trên đây như mệnh lệnh cấp bách và thôi thúc, để chúng ta ý thức sứ mạng của chúng ta là phải nỗ lực thực thi thế nào cho xứng với ơn gọi và sứ mạng cao cả Chúa ủy thác. Làm vinh danh Chúa còn là bổn phận do Đức Công Bằng và Bác Ái đòi buộc chúng ta phải có đối với anh chị em đồng loại. Như Thánh Phaolô, chúng ta hãy tự răn mình: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng của Chúa cho anh chị em tôi, bằng chính đời sống gương mẫu thánh thiện của tôi” (xem 1 Cor 9:16).

Kết Luận

Chúng ta hãy thực thi lời Chúa đã truyền dạy: “Các con hãy làm việc thiện để cho nhân loại thấy các việc các con làm mà ngợi khen Cha các con trên trời” (Mt 5:16).

Cần thiết, chúng ta hãy lợi dụng mọi cơ hội, mọi hoàn cảnh thuận lợi để làm vinh danh Chúa, để xây dựng Cộng Đồng và Giáo Hội, bằng mọi phương thế Chúa ban và nhất là bằng đời sống thánh thiện gương mẫu của mỗi người chúng ta.

 

10. Ánh sáng

Trong một cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam, một chiến đấu cơ đã bị bắn rớt, và anh phi công bị bắt. Trong 6 tháng đầu, anh bị biệt giam trong một căn phòng hoàn toàn tối tăm. Chỉ sau 2 tuần, anh bắt đầu cảm thấy như mất trí, và hầu như không còn nghị lực để sống. Ngày kia, anh tình cơ nhìn thấy một tia sáng lờ mờ chiếu qua một lỗ rất nhỏ trên tường. Nhờ tia sáng lờ mờ đó, tâm trí anh từ từ trở lại bình thường, và anh tìm lại được sức mạnh để sống.

Ánh sáng rất cần thiết cho con người, đặc biệt cho con người ngày nay. Những ai đã từng pải chịu cảnh mất điện sau những cuộc động đất hay những trận bão mới cảm thấy khó chịu đến thế nào, nhất là phải chịu cảnh tối tăm khi màn đêm buông xuống.

Xét về mặt tự nhiên, con người đã cần ánh sáng, sự cần thiết ấy còn mãnh liệt hơn trong đời sống siêu nhiên. Từ khi con người phạm tội, nhân loại bị chìm sâu trong bóng đêm của tội lỗi và những hậu quả của tội. Họ mãi chờ mong cho đến ngày được giải thoát. Nhưng khi sự giải thoát đến trong Đức Kitô, thì con người lại chối từ ánh sáng Chúa ban, vì con người thích sống trong bóng tối tội lỗi hơn trong ánh sáng ơn nghĩa Chúa (Ga 3,19).

Ngày Adong và Evà phạm tội là khởi đầu của một lịch sử con người trốn tránh Thiên Chúa, thay vì tìm đến Ngài để được ơn tha thứ. Ma quỷ tinh khôn trong vấn đề kìm kẹp con người dưới xích xiềng của tội lỗi. Lúc đầu, hắn cám dỗ cho con người phạm tội. Sau khi phạm tội rồi, hắn gieo vào lòng tội nhân những tư tưởng thất vọng, vì cảm thấy không xứng đáng được ơn tha thứ hay không thể thoát vòng tội lỗi. Rồi từ đó, hắn làm cho tội nhân không còn cảm thấy áy náy khi phạm tội. Lần đầu đánh bạc, mất mấy chục đã cảm thấy chua xót, nhưng rồi từ từ mất xe, mất nhà cũng chẳng thấy áy náy là bao. Chính vì thế, để tiến vào ánh sáng, việc đầu tiên là phải nhận ra thực trạng tội lỗi và bất toàn của mình. Vì chỉ khi đó, con người mới được tận hưởng sự tự do của con cái Chúa, vì không những họ sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, mà còn được ánh sáng huy hoàng của Chúa đem hy vọng cho tâm hồn, đem ý nghĩa đến cho cuộc đời, và sau cùng, được dự phần vĩnh phúc quê trên trời.

Trước hết, ánh sáng Chúa Kitô giải thoát con người khỏi tội lỗi. Nhân loại từ nay đã đổi chủ. Trước kia, con người làm nô lệ cho tội lỗi; nay nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, Thiên Chúa đã bẻ gãy xiềng xích tội lỗi, để tuỳ nay con người có Thiên Chúa là Cha. Tin Mừng cứu độ của Chúa soi sáng cho con người biết đâu là thiện là ác, vì Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và Sự Sống. Trong mọi cảnh huống của cuộc đời, Chúa soi sáng cho tâm hồn biết chọn điều thiện và tránh điều ác. Chính Chúa cũng là sức mạnh giúp con người chiến thắng tội lỗi. Ánh sáng Chúa cũng đem lại niềm hy vọng cho những ai đang bị đè bẹp bởi những đau khổ của cuộc đời. Thế kỷ 21 này đem lại nhiều tiện nghi vật chất cho con người, nhưng những cảnh khổ đau, chiến tranh, hận thù, đói khát, vẫn còn xuất hiện khắp nơi. Chúa Kitô luôn kêu mời con người hãy đến với Người: “Hỡi những ai mỏi mệt và gánh nặng hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). Chúa ban niềm hy vọng cho những ai phải đón nhận số phận phải chết, vì Chúa hứa ban phúc trường sinh cho họ (Ga 6,40). Trong những giây phút khổ sầu này, chính ánh sáng Chúa sẽ đem lạ sự bình an và ý nghĩa cho cuộc đời con người.

Cũng như một tia sáng nhỏ cũng đủ đem lại hy vọng và sức sống cho một tù nhân, ước chi ánh sáng Chúa Kitô giải thoát chúng ta khỏi bỏ đàng tội lỗi, và đem lại nguồn hy vọng và sức sống cho cuộc đời của chúng ta.

 

11. Chúa Nhật 3 Thường Niên

Xét về địa lý thì nước Do Thái chia làm 3 miền. Miền Nam gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc gọi là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm mọi người tuôn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, nơi đây có dinh của thầy cả Thượng phẩm, các luật sĩ, Biệt phái….Người ta coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samaria vì coi Samaria là người ngoại giáo, vì Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garizim. Dân Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch, nhưng bị dân Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.

Vào thời Đức Giê-su, đạo Do Thái chỉ còn là cái vỏ bên ngoài. Đa số các tín hữu chỉ còn giữ đạo một cách hình thức. Họ đặt quá nặng việc tham dự những lễ nghi tôn giáo, những vẻ thấy được bên ngoài. Vì thế, lễ nghi thì ngày càng gia tăng vẻ long trọng, luật lệ ngày càng nhiều, càng phức tạp, các cơ sở vật chất cũng gia tăng. Họ coi thường giới răn mến Chúa yêu người. Các nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ còn là những người thích ăn mâm cao cỗ đầy, hưởng thụ những quyền lợi mà luật lệ tôn giáo đã dành cho (Mt 23, 6 – 7), nhiều khi lại cấu kết với thế quyền để đàn áp bóc lột dân chúng (Mt 23, 14). Họ dạy người khác làm những điều tốt đẹp mà chính họ lại không chịu làm (Mt 23, 3). Nhiều khi họ không biết cái nào là cái chính cái nào là cái phụ trong tôn giáo (Mt 23, 16 – 22) để dạy người ta giữ: nên cái chính yếu thì bị coi nhẹ, còn cái phụ thì lại được quan trọng hóa lên. Vì thế, họ trở thành những kẻ “dẫn đường mù quáng” (Mt 23, 24).

Khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã không Giêrusalem là điểm xuất phát, bởi vì các thầy thượng tế, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa, vì nơi đây là một vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc, đã biết mở rộng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, nhưng mọi người biết đón nhận lẫn nhau, sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa, vì đây là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Đức Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp.

Ngay từ buổi ban đầu Đức Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ,… Đó là đi sứ mạng của Đức Giê-su, sứ mạng canh tân tôn giáo trên tình yêu. Thế nên, các môn đệ mà Ngài chọn để làm cộng sự viên với Ngài trong cuộc canh tân này, cũng không phải là người Giuđêa mà đều là người Galilê. Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không chọn lựa môn đệ trong đền thờ, Người lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không lựa chọn bậc trí thức, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chày đơn sơ. Ý định truyền giáo của Người rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không do dự. Người lựa chọn những người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ được đi theo Chúa.

Các ông là những ngư dân ít học, mặc dù theo đạo Do Thái, nhưng biết rất ít những kiến thức tôn giáo. Đức Giê-su đến đã làm thay đổi: tinh thần mới, quan niệm mới, lề luật mới, cơ cấu mới, v.v… Sự thay đổi này đã gây nên một sự phản kháng mạnh mẽ nơi giới trí thức, giới lãnh đạo trong Do Thái giáo. Chắc chắn họ có lý của họ, và cái lý ấy cũng dựa rất chắc chắn trên nền tảng Kinh Thánh! Điều đó cho thấy không phải cứ có lý, có nền tảng Kinh Thánh là đủ, mà còn phải có tinh thần của Thiên Chúa, có tình yêu và sự chân thật (Mt 23, 23),

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: vừa được Đức Giê-su mời gọi, thì Phê-rô và An-rê ” lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người”. Gia-cô-bê và Gio-an cũng vậy: “lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người”. Họ mau mắn, không chần chừ tính toán ẩn tàng một chút liều lĩnh, phó thác, tin tưởng vào Đức Giê-su. Chính nhờ những đức tính này mà khi được Thánh Thần tác động, các ông trở nên có đủ mọi thứ đức tính, mọi thứ tài năng hơn người, trở nên những tông đồ can đảm, luôn luôn mạnh dạn làm chứng cho Đức Giê-su, không chút sợ hãi (Cv 4, 29. 31; 9, 27 – 28; 18, 26; 19, 8; 28, 31).

Những sự lựa chọn của Chúa Giêsu khiến cho chúng ta thấy: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hiền hoà, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Chỉ những thửa đất tốt đó cho hạt giống Tin Mừng nẩy mầm, đơm bông kết trái.

Ngày nay, Đức Giê-su vẫn tiếp tục cần rất nhiều người cộng tác với Ngài. Ngài luôn luôn mời gọi tất cả mọi Ki-tô hữu làm điều ấy. chúng ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi trong thẳm sâu tâm hồn không? Và chúng ta đáp lại thế nào? Chúng ta “lập tức” chấp nhận, hay còn phải suy nghĩ xem mình có đủ khả năng, có đủ thì giờ, có đủ đức độ không? Nếu chúng ta có đủ khả năng, đủ thì giờ, đủ đức độ như các kinh sư Do Thái xưa, thì chắc hẳn Ngài đã chẳng kêu gọi chúng ta đâu, vì chúng ta sẽ cậy vào sức riêng mình, chứ không nhờ cậy vào Ngài nữa! Chính vì biết chúng ta thiếu tất cả những thứ ấy Ngài mới kêu gọi chúng ta, như đã từng kêu gọi các tông đồ xưa. Điều quan trọng khi đi theo Ngài là chúng ta phải biết rằng mình thiếu những thứ ấy để chúng ta khiêm nhường cậy dựa vào sức của Ngài, chứ không phải sức của mình. Điều lạ lùng và hết sức nghịch lý nhưng lại là thực tế, đó là ta sẽ làm được tất cả khi thật tình nghĩ rằng “không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15, 5), nhưng “tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13), vì “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con bắt chước các tông đồ xưa, nghe Đức Giê-su kêu gọi là “lập tức” bỏ tất cả mà đi theo, không suy nghĩ, đắn đo, tính toán. Xin ban cho chúng con tinh thần tin tưởng và phó thác nơi quyền năng vô biên của Cha trong mọi sự. Amen.

 

12. Ánh sáng thế gian

Chiều hôm ấy, hai cậu bé rủ nhau vào rừng chơi. Thế rồi một trận mưa bất thần đổ xuống. Mưa dai dẳng suốt hai tiếng đồng hồ. Đến lúc tạnh thì trời đã tối. Hai cậu bé vừa lạnh lại vừa sợ. Nỗi sợ hãi càng gia tăng khi hai cậu bé không còn tìm thấy con đường dẫn về nhà. Nhưng rồi một ánh sáng bỗng xuất hiện từ xa. Hai cậu bé khấp khởi mừng thầm. Cả hai đều cố gắng vừa kêu vừa gọi. Thì ra người anh đang cầm chiếc đèn đi tim hai cậu bé. Và cuối cùng đã đưa hai cậu bé trở về an toàn.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta có thể xác quyết: Đức Kitô chính là người anh của chúng ta. Vâng lệnh Chúa Cha, Ngài đã xuống thế, thắp lên một ngọn lửa hầu dẫn đưa chúng ta trở về quê trời. Chính vì thế mà từ ngàn xưa, các tiên tri đã nói: Dân ngồi trong tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã xuất hiện cho những người ngồi trong bóng sự chết.

Thế giới như đang chìm trong tăm tối và nhân loại đã quên mất con đường để trở về nhà. Nhưng rồi Đức Kitô đã đến như một thứ ánh sáng chói loà, xé tan bóng tối hầu soi sáng cho tâm hồn chúng ta. Ngài chính là ánh sáng, như chúng ta đã nghe Kinh Thánh xác quyết: Dân đi trong tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng. Trong phần đáp ca, chúng ta đã thưa lên: Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi. Và cũng theo Kinh Thánh, thì ánh sáng được tựng trưng cho chính Thiên Chúa, như chúng ta vốn thường tuyên xưng: Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng. Chính Ngài cũng đã từng tuyên bố với dân chúng: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống.

Đức Kitô là ánh sáng cho mỗi người chúng ta như thế nào? Xin thưa: Tất cả những khó khăn của đời sống đều được giải quyết trong ánh sáng của Đức Kitô. Điều gì là thật và điều gì là giả. Điều gì là thiện và điều gì là ác. Làm thế nào để đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu? Thế giới này là gì? Bản thân chúng ta là ai? Chúng ta bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta tìm kiếm, Ngài soi sáng và hướng dẫn để chúng ta hiểu được những điều đã nêu lên. Với ánh sáng của Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy giải đáp thoả đáng.

Ai trong chúng ta cũng đều có những khó khăn, chẳng hạn như: sức khoẻ, kinh tế, cô đơn, tình yêu. Đưa ra vấn nạn thì dễ, nhưng giải quyết được những vấn nạn ấy mới là sự khó và đáng nói. Thế nhưng, một khi chúng ta bước theo Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy con đường phù hợp, bởi vì Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Hơn thế nữa, Ngài chính là ánh sáng soi đường dẫn lối cho chúng ta.

 

13. Ơn gọi.

Như chúng ta đã biết nỗi ưu tư số một trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian. Chính vì thế mà ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài đã chọn cho mình những môn đệ.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi Phêrô và Andrê: Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gioan. Thái độ của những môn đệ đầu tiên này thật là mau mắn và dứt khoát. Các ông đã bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già mà đi theo Chúa.

Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay Chúa không hiện ra để kêu gọi chúng ta hay truyền dạy chúng ta phải làm điều nọ, điều kia, nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm gởi đến với chúng ta qua các sự kiện, qua các biến cố cuộc đời. Bởi vì mỗi biến cố là một dấu chỉ của thánh ý Chúa. Mỗi sự việc là một bài toán mà đáp số là sứ điệp Chúa muốn chúng ta đón nhận. Vì thế, cần phải tỉnh thức để nhận ra ý Chúa và sứ điệp của Ngài.

Thực vậy có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa, một thứ tiếng vọng lên từ bên trong, tuy âm thầm nhưng rất rõ, mời gọi nhưng không kém phần thúc thách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh mới của đời mình và từ đó bản thân được đổi khác.

Ơn gi ca M Têrêsa Calcutta là mt thí d. M sinh năm 1910 ti Nam Tư. Năm 18 tui M nhp dòng Đức Bà Lorettô Ái Nhĩ Lan. Sau đó được c sang n Độ để vào tp vin. M đã cng hiến gn 20 năm tri cho vic dy môn địa lý ti mt trường ca nhà dòng dành cho các thiếu n thuc nhng gia đình khá gi. Nếu Chúa không lên tiếng gi, thì chc cuc đời M s trôi đi êm đềm bên đám hc trò giàu có. Thế ri vào mt ngày n, nhân đi qua mt đường ph Calcutta, M bt gp mt người đàn bà đang hp hi trên va hè. Chut và kiến đã kéo đến gm nhm con người bt hnh đó. M lin vc người thiếu ph ti nhà thương. M nht định c đứng trước cng cho đến khi người ta m ca đón nhn bnh nhân sp chết. T biến c này M cm nhn được li mi gi ca Chúa, mun M hiến mình cho nhng k b b rơi. Và thế là M xin ra khi dòng, đến sng mt khu vc tăm ti ca thành ph. Chc hn lúc đó, M không ng mình s là người sáng lp mt hi dòng mi chuyên lo vic bác ái, giúp đỡ nhng người nghèo kh.

Lắng nghe và tìm biết ý Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện đã đành. Điều quan trọng hơn là có dám đáp trả lời mời gọi của Ngài hay không. Nhiều khi chúng ta đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ như không hề nghe thấy tiếng Chúa, để khỏi phải đáp trả, khỏi phải từ bỏ. Bởi vì chúng có quá nhiều những sợi dây vấn vương quấn chặt lấy cuộc đời và bản thân, khiến chúng ta không dễ gì tháo gỡ được. Những sợi dây vấn vương ấy là tiền bạc, địa vị, vui thú… Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Chúa là giá trị tuyệt đối, vượt lên trên tất cả. Và như thế phải có tình yêu mãnh liệt mới có thể từ bỏ lập tực những gì chúng ta đang ôm ấp bởi vì từ bỏ là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Chúa.

 

14. Con người phục vụ

Anh chị em thân mến.

Trong thời buổi kinh tế thị trường, con người được phục vụ tối đa, vì người ta rất tôn trọng khách hàng, xem khách hàng như Thượng Đế, nên sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng.

Trở về quá khứ không xa lắm, mọi người rất vất vã trong việc trang trí nhà cửa, hay mua sắm những thứ hơi nặng nhọc thì cũng rất e ngại. Ngày hôm nay, tất cả mọi sự đều được phục vụ đến nơi đến chốn. Đồ đạc dù nặng nề đến đâu cũng có người mang đến tận nhà khi có nhu cầu. Việc phục vụ như thế có lợi cho cả hai. Trước tiên có lợi cho người phục vụ: họ được trả công xứng với công việc họ làm. Kế đến là khách hàng được đáp ứng đúng với những gì mình mong muốn. Mọi người biết đáp ứng nhu cầu cho nhau thì tất cả cùng có lợi.

Chúa Giêsu cũng đã nhìn thấy nhu cầu của con người, nên Ngài cũng đã đáp ứng. Không phải chỉ trong những ngày của thời đại hôm nay, mà đã từ rất lâu và rất lâu. Ngài đã đến với con người, không phải chỉ những người ưu tú nhất, nhưng đến với tất cả mọi người, kể cả những người bị khinh dể, bị chê bai và bị chà đạp. Ngài đã đến với họ, đến với những người còn trong u tối. Để như thế, Ngài từ bỏ kinh thành Jérusalem, từ bỏ noi cao sang quyền quý, từ bỏ cả nơi Ngài sinh sống để đến với tất cả mọi người. Đến để mang lợi ích đến cho người khác, đến mà không tìm lợi ích cho mình, đến để phục vụ, để mang ánh sáng chân lý, để cho con người được sống. Ngài đến vì yêu thương nên Ngài bất chấp tất cả. Đó là sứ mạng của Ngài đến trần gian. Những ai biết hối lỗi, biết lắng nghe và biết đón nhận ánh sáng chân lý thì họ sẽ được đáp ứng tất cả. Còn nếu những ai cứ ngoan cố trong pháo đài mình dựng nên, để rồi tự hào, kiêu căng không lắng nghe, không hối cải, thì Ngài đành phải rời bỏ nơi đó mà ra đi.

Là con người ai cũng đều mong ước được phục vụ theo nhu cầu. Nhưng nếu con người không có nhu cầu thì làm sao người phục vụ có thể đáp ứng được, hoặc con người không cần đến người phục vụ, mặc dù nhu cầu vẫn cần thiết nhưng con người không thấy, cũng không muốn được sự cần thiết, vì ngỡ mình đang đầy đủ, đang dư thừa, đang có tất cả nên không cần phải nhờ đến ai. Chính lúc đó, con người đang chết lần chết mòn trong sự thiếu thốn mà họ không biết. Họ bị xa rời tất cả: xa rời môi trường sống, không phải vì môi trường không đáp ứng được cho họ. Nhưng vì họ không cần đến môi trường. Xa rời những người thân, không phải vì những người thân không quan tâm đến họ, nhưng vì họ không cần đến người khác. Xa rời hạnh phúc và bình an. Không phải vì những điều đó không đến với họ, nhưng họ không nhận ra mình thiếu thốn, nên không biết đón nhận. Đó là tâm trạng của những con người mà Chúa Giêsu đã phải đau buồn mà rời xa để đến nơi khác. Họ đang ngoan cố trong sự lầm lạc của mình để không còn nhận ra điểu gì phải lẽ nữa hết.

Mỗi người trong chúng ta đang sống trong thời đại văn minh, chúng ta cũng được một môi trường tương đối thuận lợi để phát triển tài năng trí tuệ. Chúng ta cũng có những niềm tự hào về bản thân và về tất cả những gì mình đang có. Cũng chính vì những gì đang có đó mà nhiều khi chúng ta không còn nhìn thấy được những gì mình không có hoặc chưa có, nên cứ ngỡ rằng mình đang có đầy đủ và không còn thiếu gì hết, vì thế nên không cần phải thay đổi hay thêm điều gì nữa. Chính những lúc đó, chúng ta không còn biết lắng nghe, không còn nhìn thấy mình nữa, mà cứ ngỡ rằng mình đang tuyệt đối. Khi đó chúng ta đang mang tâm trạng của những người không chấp nhận Chúa Giêsu và Ngài đành buồn bã như nổi buồn đối với những người cách đây 2000 năm. Ánh sáng mang đến, nhưng không được tiếp nhận. Bình an mang đến, nhưng không có nhu cầu để cho sự bình an được phục vụ. Hạnh phúc bên cạnh, nhưng không ai biết dùng đến. Không lẽ chúng ta là những người tự hào đang sống trong thời đại mới, thời đại văn minh, mà không nhận ra được những nhu cầu cần thiết như thế sao? Như vậy lời kêu gọi: hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến; không phải là nói với chúng ta sao?

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người nhận ra được nhu cầu cần thiết của mình, để biết lắng nghe Tiếng Chúa và đến gần Chúa hơn.

 

15. Theo như ý Chúa

Anh chị em thân mến.

Nhìn những cánh đồng lúa xanh tươi bát ngát, một cảm giác êm nhẹ như len lén đi vào tâm hồn con người, tạo nên một nét thanh bình dịu dàng mà không một khung cảnh nào có thể sánh kịp. Nhưng nếu để một chút suy tư, chúng ta cũng dể dàng nhận thấy: nét thanh bình này cũng thay đỗi, cũng biến chuyển theo thời gian; từng đợt lúa xanh rồi chín vàng, được con người thu hoạch và những màu xanh cũng lại tiếp tục như thế. Khi những cây lúa xanh tươi kia đã hết kỳ hạn, nó phải nhường chỗ cho những cây lúa khác tiếp tục sứ mạng hiến màu xanh tươi tốt cho đời, đồng thời mang lại lợi ích cho con người. Từng thế hệ cây lúa nối tiếp nhau chu toàn sứ mạng đem sức sống cho đời. Nó phải chu toàn sứ mạng khi mưa cũng như khi nắng, khi thuận lợi cũng như khi bất lợi, nó vẫn phải mang đến cho đời những gì cần thiết.

Nếu có cây lúa nào đến thời kỳ thu hoạch mà nó không chịu rời chỗ của nó, nhường cho những hạt lúa khác có điều kiện nẩy mầm, thì số phận của những người hưởng nhờ sức sống từ cây lúa sẽ ra sao ? Còn mảnh đất nơi nó ngự trị có lẽ sẽ trở nên khô cằn.

Chúng ta vừa chứng kiến một sự thay đỗi:

Gioan đến thi hành sứ mạng, ông thi hành hết sức tốt đẹp, ông đem lợi ích đến cho nhiều người, nên ông tạo được uy tín cho mình, cũng tạo được niềm tin cho nhiều người tin vào những gì ông rao giảng. Đến mùa thu hoạch, kết thúc sứ mạng, ông không thể chần chừ thêm nữa. Đoạn kết sứ mạng có vẻ đau thương; trước mắt người đời, ông như bị Thiên Chúa bỏ quên. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, sứ mạng ông kết thúc, ông nhường chỗ lại cho sứ mạng khác, tiếp tục đem sức sống cho đời, sứ mạng cao trọng hơn ông.

Chúa Giêsu thi hành sứ mạng, đem sức sống mới cho đời, đem niềm vui của Thiên Chúa đến cho con người. Ngài thi hành sứ mạng theo Thánh Ý của Thiên Chúa chứ không phải theo ý con người, nên Ngài tránh xa những gì mà con người tìm trong hư danh.

Nếu Gioan cứ để cho mọi người ngưỡng mộ mình mà không chịu rút lui, thì chương trình của Thiên Chúa sẽ trục trặc với ông, và những người trông chờ ơn cứu độ cũng vất vả với ông. Nhưng ông biết vâng phục khi sứ mạng hoàn tất, nên lợi ích ông mang đến cho đời thật mãnh liệt.

Trong cuộc sống đời thường, ai cũng muốn chứng tỏ tài năng của mình cho mọi người nhìn thấy, để rồi mong muốn được mọi người ngưỡng mộ. Con người muốn tận hưởng niềm vui đó, nên không nhìn thấy được giới hạn của chính mình, càng không nhìn thấy được tài năng của người khác. Như thế thì con người làm sao biết được sứ mạng của mình phải hoàn tất để mang niềm vui và sức sống cho đời.

Mỗi người trong chúng ta, nhìn vào chính mình xem, có nhận ra được sứ mạng mà mình đang mang để đem niềm vui và sức sống cho đời. Chúng ta có lẽ cũng biết được những trách nhiệm trong cuộc sống, cũng có lý tưởng để mà bước đi, đôi khi cũng tìm được niềm vui trong phục vụ. Cũng có những lúc, chúng ta cũng tự hào về công việc của mình, nên cố hết sức, dùng tài năng để làm cho công việc được tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn, để được mọi người ngưỡng mộ khen tặng nhiều hơn, và chúng ta đã dừng lại ở đó. Chính vì dừng lại nên không còn nhìn thấy chính mình, không nhìn thấy người khác, nên không còn biết lắng nghe, không biết chấp nhận người khác, không bằng lòng với những gì trái ý mình. Những lúc đó mảnh đất con người của chúng ta đã trở nên khô cằn, vì những hạt giống mang lợi ích cho đời không thể nẩy mầm mới để mang lại sức sống mới được nữa, mà nó chỉ biết giữ lấy kết quả của thời quá khứ.

Nếu chúng ta nhìn thấy được thánh ý Chúa, biết chấp nhận, biết lắng nghe và thi hành trọn vẹn, cho dù có những đau thương hay mất mác, cho dù dường như người đời vô ơn bạc tình, nhưng đó là sứ mạng, là nhiệm vụ đem sức sống và hạnh phúc cho đời theo thánh ý Chúa chứ không phải theo ý của riêng mình. Được như thế thì cánh đồng lúa xanh tươi của con người sẽ từng thế hệ nối tiếp nhau, không bao giờ phải khô cằn hư hoại được. Như thế chúng ta đang bước đi trên con đường sứ mạng mà Gioan và Chúa Giêsu đã đi khi xưa.

Xin Chúa dẫn dắt chúng ta trong từng bước đi của cuộc đời.

 

16. Hiệp nhất trong Đức Kitô – Lm Bùi Quang Tuấn

Chuyện kể một nhà buôn nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Gặp kỳ cạnh tranh gay gắt trong công việc, anh ta càng gia tăng lời khẩn cầu gấp bội.

Động lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên hiện ra với anh và nói: “Thấy nhà ngươi thành tâm cầu xin nên ta không nỡ chối từ. Thôi thì bây giờ cứ cho ta biết ngươi muốn gì, ta sẽ ban cho… và đồng thời để tỏ cho nhân gian biết lòng quảng đại của ta thì hễ ban cho ngươi điều chi, ta cũng ban cho đồng nghiệp hay hàng xóm của ngươi như thế… và có khi gấp đôi luôn”.

Nghe thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ vui mừng hân hoan qua sầu buồn lo lắng. Anh tự nhủ: “Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn…chúng nó sđược hai chiếc. Ái dà, thế thì không được! Nhưng nếu mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm… họ sđược tới 10 triệu. Thế lại càng không được! Còn nếu mình xin cho có vđẹp con khôn thì coi chừng đồng nghiệp sẽ có vđẹp gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó được hai vợ, trong mình chỉ có một… Thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải làm sao cho hơn người chứ. Nhưng xin như thế thì làm sao mà hơn được”.

Chàng thương gia nhíu mày đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến quì xuống và thưa với thần: “Lạy ngài, xin vui lòng cho tôi đui một con mắt”.

Quả là một lời khẩn cầu quái lạ! Không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác trỗi hơn. Song lại xin cho mình rủi ro để kẻ khác sẽ bị tổn hại nhiều hơn. Xin cho mình đui một con mắt để kẻ khác mù luôn. Đây quả là tiểu nhân và quá dã tâm.

Thế nhưng, nếu thành thật rà soát lòng mình thì không chừng tính chất dã nhân và tiểu tâm kia, tức là những đố kỵ, ghen ghét, nhỏ nhen, tàn bạo lại đang ẩn nấp đâu đó trong người tôi, để rồi nếu được thành công may mắn hơn ai thì nó sẽ nằm im bất động. Thảng hoặc, nó còn tỏ ra “quảng đại” và “thương xót” kẻ không may. Nhưng nếu ai đó trổi vượt hơn mình thì cái chất tiểu tâm và dã nhân kia sẽ bùng lên khó lòng dập tắt.

Chính cái chất đố kỵ, ghen tương, so bì kia đã là mầm mống của boa chia rẽ, bè phái, tranh chấp, phân ly, giận hờn, đui chột, mù loà trong cộng đồng nhân loại. Lắm người chẳng chịu nhường bước ai; điều gì của mình cũng đúng hơn, đẹp hơn, tốt hơn, và như thế kẻ khác tất phải sai hơn, xấu hơn, và dở hơn.

Tình trạng hơn thua làm nảy sinh phe nhóm bè phái, cùng với bao tranh chấp ghét ghen, không chỉ xảy ra ngoài đời, trong các đoàn thể chính trị xã hội, nhưng phải đau lòng mà nói: có khi nó còn xuất hiện trong những tổ chức manh danh có đạo, hay thuộc về Giáo hội.

Và đâu phải chỉ có trong Giáo hội của thời đại hôm nay, nhưng từ thời sơ khai, hiện tượng tranh chấp, phe nhóm, cũng đã xảy ra: “Tôi, tôi về phe Appolo. Tôi, tôi về phe Phaolô. Còn tôi, tôi về phe Kêpha Phêrô”.

Sự phân chia phe nhóm trong cộng đoàn thế kia, một phần là do các sở thích và tình cảm cá nhân quá nặng. Một số thấy Phaolô là con người cương trực, ăn thẳng nói ngay, nên phục và mến lắm. Nhưng số khác thì không chịu nổi tính khí đó, nên đã chạy theo Phêrô, vị này vừa là thủ lãnh tông đồ lại vừa “dễ dãi, sao cũng được”. Thơ Galat có kể rằng khi vắng mặt các thành viên Do thái trong cộng đoàn thánh Giacôbê, Phêrô đã ngồi ăn chung, uống chung với dân ngoại, nhưng khi thấy họ đến thì ông lại tránh đi. Thế nên một lần kia Phaolô đã trách Phêrô trước mặt mọi người: “Nếu ông, một người Do thái, ông còn sống như người ngoại chứ không như người Do thái, thì làm sao ông lại thúc bách người ngoại sống như Do thái được?” (Gal 2:14).

Có lẽ vì Phêrô “dễ dãi” như thế nên nhiều người thích và đi theo ủng hộ. Trong khi đó một số người khác lại khoái Apollo. Ông này ăn nói lưu loát, có khả năng diễn thuyết hùng hồn, bao biện luận để minh chứng Chúa Giêsu là Đức Kitô thật là sắc bén và chí lý. Thế nên họ thích nghe hơn, và rồi cái gì Apollo nói cũng đúng, cũng hay; còn Phaolô thì cứng quá, và Phêrô lại mềm mỏng quá.

Những khuynh hướng lưu luyến và tình cảm nặng tính cá nhân đó đã tạo nên phân rẽ trầm trọng trong cộng đồng Dân Chúa thời sơ khai, đến nỗi Phaolô đã kêu lên: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng tâm hiệp ý với nhau. Đừng chia rẽ, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một thần trí và một tâm tình”. (1 Cor 1:10).

Thiết tưởng, lời kêu gọi đó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay, trong mọi cơ cấu tổ chức của giáo xứ, cộng đoàn, và gia đình. Hãy đồng tâm ý hiệp với nhau. Đừng vì khuynh hướng, sở thích, quan điểm, hay tình cảm cá nhân chi phối mà ủng hộ, hợp tác với người này người nọ hoặc chống đối, chê bai, lạnh lùng với người kia.

Lời thánh Phaolô vẫn còn đó: Đức Kitô bị phân chia rồi sao? Chân lý và Tin mừng của Đức Kitô bị xé mãnh rồi sao? Và Tin mừng làm sao có được trong ghen ghét, tị hiềm, đố kỵ, phân ly, xâu xé. Có chăng chỉ là tin buồn thôi.

“Nhân danh Đức Kitô, tôi nài xin anh em hãy liên kết trong cùng một thần trí và một tâm tình”. Thần trí đó là thần trí yêu thương, và tâm tình đó là tâm tình khiêm hạ. Chớ ao ước những điều bất chính, khổ đau cho kẻ khác. Đừng muốn mình chột để người ta bị mù. Nhưng hãy cầu cho nhau những sự may lành. Hãy “vui với người vui”, vì điều đó đôi khi còn khó hơn “khóc với người khóc”. Hãy tạ ơn Thiên Chúa cho nhau. Và điều quan yếu, hãy hiệp nhất với nhau.

Hiệp nhất chính là tinh thần và sứ mạng của Chúa Giêsu mà những ai tự xưng là môn đệ của Ngài phải tiếp nối. Bởi lẽ Chúa Giêsu đến thế gian không mục đích nào khác hơn là gieo trồng hiệp nhất: hiệp nhất con người lại với Thiên Chúa, hiệp nhất con người lại với nhau, hiệp nhất bao tan vỡ tâm hồn hầu qua đó tình thương của Thiên Chúa, bình an từ trời cao, và niềm vui ơn cứu độ được tuôn trào đến khắp trần gian.

Tình thương, bình an, và niềm vui đó cũng chính là phần thưởng muôn đời cho những ai can đảm bước trên con đường mà Đức Giêsu đã đi.

 

17. Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM

“Dân tộc ngồi trong bóng tối

đã thấy sự sáng” (Mt.4:12-17)

Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài sau khi Gioan chấm dứt phận sự của ông. Ngài không khép kín trong một quốc gia hay trong một dân tộc nào, nhưng cho toàn cõi trái đất.

Theo sử liệu thì Ga-li-lêa là miền phong phú, nơi tụ họp các dân tộc, các sắc dân, các tôn giáo. Nơi có nhiều môn phái tôn giáo như Pharisiêu, Sađukêu, Do Thái Jawher, tóm lại, nó tượng trưng cho một thế giới lớn mà Chúa muốn trao phó cho Giáo Hội của Ngài “Dân ngồi trong bóng tối đã thấy ánh sáng huy hoàng”.

Thánh Mathêu nói về 2 dân tộc Giabulon và Neptali thuộc chi họ Israel bị xâm chiếm và bị diệt chủng, bị đô hộ và nhập hóa. Họ giống như nước ta trong thời bắc thuộc: đàn bà phải lấy Tầu, đà ông phải đi lính cho chết. Nhưng người còn trung thành, còn yêu nước tìm cơ thuận tiện quật khởi. Họ nghĩ mình bị đè bẹp, bị ngồi chờ trong bóng tối sự chết.

Ngày nay tại quê hương, bao người Công Giáo cũng nghĩ mình đang bị đè bẹp trong bóng tử thần, nhưng họ cố trung thành, cố vươn lên bao nhiêu có thể.

Chúng ta nghĩ gì về số phận người trẻ công giáo trong thế giới hôm nay? Họ có phải đang bị tối tăm và sự chết thiêng liêng không? Thế giới này khác nào như Galilêa, đủ mọi sắc dân, đủ mọi tôn giáo, mọi phong tục, mọi lối sống làm người trẻ giữa thế giới này không bị cấm đạo, không bị lối sống dân tộc, không bị bách hại công khai, nhưng nếu nghĩ đến số phận con người, nghĩ đến giá trị tinh thần, nghĩ đến gia đạo, thì chúng ta cũng bị ảnh hưởng xã hội bằng sức mạnh của điện ảnh, của đam mê, của phong trào, của phong tục ngoại quốc làm cho chúng ta bị tiêu diệt.

Làm thế nào để Chúa là ánh sáng đời tôi?

Giáo Hội có sứ mệnh khơi dậy còn chúng ta có nhiệm vụ khai sáng. Hãy phơi bầy ý nghĩ ta trước mặt Chúa. Hãy hỏi xem cái gì là thật giả, cái gì là tốt xấu, là đúng sai. Đúng nhất là câu trả lời theo ánh sáng lương tâm Chúa soi dẫn. Hãy đặt đời sống mình dưới ánh sáng của Chúa và trung thành với lương tâm ngay thẳng.

Làm thế nào để trở nên ánh sáng? Để lấy lại ánh sáng chân thực này? Câu cuối cùng của bài Phúc Âm: Hãy ăn năn, hãy đổi chiều hướng, hãy đổi lại cõi lòng. Hãy xưng tội. Khi thấy mình xa ánh sáng Chúa soi dẫn, ta cần phải đặt vấn đề, phải hỏi để sửa lại.

 

18. Chúa chọn Galilê

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin mừng Mt 4: 12-23 Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới.

Địa dư Palestine có ranh giới:

– Đông giáp sa mạc Syria và Ả rập. – Tây giáp Địa Trung Hải. – Bắc giới hạn từ thung lũng núi Liban chạy đến núi Hermon. – Nam giáp ranh Iđumê, miền đất hoang vu Bersabê và Biển Chết.

Cựu ước thường dùng kiểu nói “từ Đan đến Bersabê” để chỉ miền đất Do thái cư ngụ. Chiều dài từ chân núi Liban tới Bersabê là 230 km; chiều rộng từ Địa Trung Hải đến sông Giođan là 37-150km. Diện tích phía tây Giođan là 15.643 km2, phía Đông (Transjordanie) là 9482km2. Tổng cộng là 25.124km2.

Palestina thời Chúa Giêsu chia làm bốn miền:

– Galilêa có thành Capharnaum, Nazareth.

– Samaria nằm giữa xứ Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc.

– Giuđêa là miền núi có thủ đô Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan.

– Phía Bắc là miền Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn hoá Hylạp.

Palestina có địa lý đặc biệt: Thung lũng Giođan chia Palestina làm hai miền: Palestina và Transjordanie. Thung lũng này là hiện tượng địa lý duy nhất trên địa cầu: bắt đầu từ núi Taurus, ngang qua Celesyria, đến Palestina, rồi tiếp tục theo phía Đông bán đảo Sinai tới Biển Đỏ. Phía Bắc (thành Đan) cao hơn Địa trung hải 550m; càng về phía Nam càng thấp xuống. Tibêriade thấp hơn Địa trung hải 208m; tới Biển Chết mực nước thấp hơn 392m. Sông Giođan phát nguồn từ núi Hermôn, chạy qua hồ El-Hule (dài 6000m, sâu từ 3-5m), rồi qua hồ Tibêriade, đổ vào Biển chết. Hồ Tibêriađê (gọi là Giênêzarét) dài 21km, rộng 12 km, sâu 45m, nước trong xanh và nhiều cá. Biển chết dài 85km, rộng 16km, nước biển nhiều độ mặn nên không vật nào có thể sống được. Miền Duyên hải từ núi Libanô đến núi Camêlô, rộng từ 2-6km. Từ núi Camêlô đến Gaza phía Nam, bờ biển rộng đều và thẳng với các hải cảng Akko, Haifa và Jaffa (Joppé). Giữa Haifa và Jaffa, vua Hêrôđê xây thêm hải cảng Cêsarêa. Từ núi Camêlô đến Jaffa là bình nguyên Sharon phì nhiêu. Từ Jaffa xuống phía nam là bình nguyên Sêphêla thuộc xứ Pelistin (danh xưng Palestina xuất phát từ chữ này). Bình nguyên Esdrelon từ phía Bắc núi Camêlô chạy theo hướng Đông Nam, chia phần đất phía Tây sông Giođan làm hai phần: Galilê phía Bắc, Samaria và Giuđêa phía Nam. Miền Galilê: phía bắc nhiều núi, nam là bình nguyên Esdrelon, miền duyên hải là đồng bằng, giữa là đối núi thấp dần về phía sông Giođan.

Bên kia sông Giođan(Transjordanie)là miền đồi núi, chia làm 3 phần:

– Trachonitide thuộc Đông-Bắc hồ Tiberiade.

– Miền Thập tỉnh phía đông-nam hồ.

– Pêrêa thuộc phía đông sông Giođan và Biển chết, đối diện với Samaria và Giuđêa.

Người Do thái không chiếm cứ hoàn toàn miền bên kia sông Giođan. Trước thời kỳ Hy hóa, đã xuất hiện tại mạn Bắc nhiều bộ lạc Aram. Thời Hy hóa, từ sau cuộc chinh phục của Alexandre đại đế, nhiều người Hy lạp đến đây cư ngụ. Thời Đức Giêsu, họ lập thành miền Thập tỉnh, có khoảng 10 thành liên minh với nhau. Các thành nổi tiếng hơn cả là Damascô, Hippos, Gadara, Gerasa, Pella, Philadelphia.

Thủ đô Giêrusalem là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của Dân tộc Do thái. Hàng năm, khắp mọi miền đất nước người ta đổ về Giêrusalem để dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, có dinh của Thầy Cả Thượng phẩm, có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Dân chúng ở Giuđê coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samari là dân ngoại vì dân Samari xây cất đền thờ trên núi Garizim. Dân Giuđê không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samari. Họ cũng khinh miệt dân Galiê vì đó là nơi pha tạp mọi sắc dân là đất của dân ngoại. Giuđê là vùng có đạo toàn tòng, là trung tâm của đạo Do Thái, còn Galilê là miền giáp ranh giữa ranh vùng có đạo và vùng ngoại đạo. Quả thực đây là vùng xôi đậu. Về mặt chính trị, vùng này chịu ảnh hưởng ngoại bang thật sâu đậm. Về mặt chủng tộc, ở đây người Do Thái sống lẫn lộn giữa dân ngoại. Về mặt tôn giáo, Galilê thua xa Giuđê, bị coi là ở bên lề của cộng đồng dân Chúa. Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ, nhà quê. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu không chọn rao giảng ở Giêrusalem mà chọn Galilê.

Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khoảng 60 cây số, dân cư sống đông đúc. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân. Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: “Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”.

Đặc tính bẩm sinh của người Galilê giúp việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Chúa Giêsu chọn Galilê làm trung tâm truyền giáo. Những tín đồ chính thống ở kinh đô chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc. Chúa Giêsu rao giảng tại Galilê, xa thói ngạo mạn, tính tự tôn và sự mù quáng của dân thành đô. Chúa chọn Galilê vì ở đây mọi người biết chấp nhận nhau chung sống hoà bình.

Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới. Các Tin mừng Nhất Lãm đã kết thúc thời kỳ đầu rao giảng tại Galilê của Chúa Giêsu bằng lời tuyên xưng của Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16). Sự chọn lựa miền đất Galilê có một ý nghĩa quan trọng theo Tin mừng Matthêu. Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Chúa Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha; Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Chúa Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần. Chúa Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những lương dân và những người vô thần.

Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bốn môn đệ đầu tiên ở biển hồ Galilê.

Chúa Giêsu đã gọi và chọn các tông đồ là những người chài lưới tầm thường. Đáng lý Chúa phải chọn những người ưu tú trong đám trí thức và được coi là đàng hoàng ở Giuđê mới phải. Tại sao Chúa lại chọn những người làm nghề chài lưới? Phải chăng Người ngụ ý dạy các môn đệ phải luôn luôn sẵn sàng rời bỏ đất liền và thế giới riêng của mình, nghĩa là rời bỏ cái khung cảnh an toàn và đóng kín của mình để ra khơi, giữa đại dương mênh mông vô bờ bến và đầy gian nguy, tức là đến với thế giới rộng lớn và xa lạ để cứu vớt thế giới?

Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh… nhưng ở giữa đời sống thường ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp. Các môn đệ ngư phủ tuy là những người ít học, không giàu có, không địa vị, nhưng đối với Chúa, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Người. Chẳng hạn, sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi; sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung; sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh; khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ. Cuộc gặp gỡ này đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ này là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới. Cuộc gặp gỡ làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.

Các ngài gặp gỡ và bước theo Chúa để học nơi Chúa. Họ nhận ra rằng: Chúa Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Người là Lời Chúa. Người không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Người là Sự Sống. Người không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống”, mà chính Người là Đường Sự Sống, là Ánh Sáng.

Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ. Các ngài đáp trả chân tình. Các ngài được sống thân mật với Chúa. Các ngài ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa. Đó là hành trình ơn gọi của các Tông Đồ. Đó cũng là hành trình ơn gọi của mỗi Kitô hữu.

Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc “chinh phục các linh hồn” cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm “vùng đất ngoại bang”, và noi gương của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới, những “vùng Galilê, miền đất của dân ngoại” mà Chúa sai chúng ta đến. Và hơn nữa “miền Galilê ngoại giáo” của ta là chính bản thân ta vì vẫn còn những vùng tăm tối ngay trong tâm hồn và cuộc sống của ta chưa được ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu và biến đổi. Chính Người vẫn còn nói với ta hôm nay, những kẻ đã tin theo Người: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15).

 

19. Ánh Sáng huy hoàng – Anmai

Chuyện kể rằng vào thời vua Akhát, con vua Giotham, cháu vua Útdigiahu, trị vì Giuđa, thì vua Aram là Rơxin, và vua Israel là Pecác, con ông Romangiahu, lên đánh Giêrusalem, nhưng không thể tấn công được. Tin dđến với nhà Đavít rằng: “Aram đã đóng quân ở Épraim.” Khi nghe được tin dấy lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió.

Thiên Chúa, mãi mãi yêu thương dân của Ngài nên rồi Ngài ra tay cứu dân. Ngài bảo với Isaia: “Ngươi hãy cùng với Sơa Giasúp, con ngươi, ra đón vua Akhát ở cuối kênh dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. Ngươi hãy nói với nhà vua: “Ngài hãy coi chừng, cứ bình tĩnh, đừng sợ, chớ sờn lòng trước hai cái đầu que củi chỉ còn khói đó, trước cơn giận sôi sục của Rơxin, vua Aram, và của người con Rơmangiahu. Vì Aram cùng với Épraim và người con Rơmangiahu đã mưu tính hại ngài và nói: “Ta hãy lên đánh Giuđa, làm cho nó khiếp sợ ta, và đặt con ông Tápên làm vua ở đó.”

Thiên Chúa không chỉ cứu dân Israel thoát khỏi bàn tay của Aram nhưng còn làm vẻ vang dân của Ngài ở miền bên kia sông Giođan – vùng đất của dân ngoại. Lời hứa ấy chúng ta vừa nghe Isaia thuật lại: “Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơvulun và đất Náptali, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Giođan, vùng đất của dân ngoại. Ơn giải thoát.

Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian”.

Có lẽ thời vua Akhát là thời mà dân cảm thấy hạnh phúc nhất vì lẽ không chỉ sống trong cảnh anh bình thịnh vượng mà còn được niềm vui. Niềm vui ấy tăng lên khi thắng trận mà còn được chia nhau chiến lợi phẩm, ách nặng không còn đè lên cổ và không phải chịu đòn roi của kẻ hà hiếp nữa. Và, hạnh phúc lớn nhất của họ là từ nay họ đã được ơn giải thoát, ơn cứu độ.

Hạnh phúc của dân thời ấy phải chăng cũng là hạnh phúc của vua Đavít? Ở Thánh Vịnh 27 – Thánh Vịnh đáp ca mà chúng ta vừa đọc, vừa nghe lại chính là tâm tình, là nỗi niềm hạnh phúc của Đavít khi ông nhận ra Chúa chính là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của đời ông.

Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,

tôi còn sợ người nào?

Chúa là thành luỹ bảo vđời tôi,

tôi khiếp gì ai nữa?

Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi,

ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,

lại lảo đảo té nhào.

Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.

Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.

Một điều tôi kiếm tôi xin,

là luôn được ở trong đền Chúa tôi

mọi ngày trong suốt cuộc đời,

để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang,

ngắm xem thánh điện huy hoàng.

Cuối tâm tình ấy của Thánh Vịnh 27, Đavit đã thốt lên:

Tôi vững vàng tin tưởng

sđược thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.

Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!

Hãy cậy trông vào Chúa.

Quả thật, nhìn lại cuộc đời của Đavít, chúng ta thấy hết sức hay và hết sức đặc biệt. Mang trong mình thân phận hết sức yếu đuối của con người, đã phạm trọng tội nhưng ông đã quay trở về với Thiên Chúa là Tình Yêu. Cảm nhận hay nói đúng hơn là xác tín của ông về một Thiên Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ là một xác tín mà chúng ta cần phải học hỏi, cần phải cảm nhận để nhìn nhận Chúa chính là nguồn ơn cứu độ và là nguồn ánh sáng thật của đời chúng ta chứ không phải là ai khác.

Thiên Chúa vẫn yêu thương, Thiên Chúa vẫn cứu độ con người bằng cách này cách khác. Thiên Chúa đã bày tỏ Tình Yêu của Ngài cho con người mọi lúc mọi nơi có thể được.

Một “ánh sáng” mà Thiên Chúa gửi đến cho cuộc đời đang lui vào bóng tối đó là Gioan Tẩy Giả thì một “ánh sáng” khác đó là Đấng Cứu Độ trần gian đã được gửi đến cho nhân loại.

Sau khi “ánh sáng” Gioan đến và làm chứng cho Ánh Sáng, cho Sự Thật đã bị thế gian đẩy lùi và thủ tiêu thì ánh sáng Giêsu đã đến để tiếp tục làm chứng cho Ánh Sáng thật, cho Sự Thật trên thế gian này.

Trước khi Chúa Giêsu nhập thể, thế gian ở trong tình trạng tối tăm và đáng sợ. Nhưng giữa tình trạng hãi hùng này đã vọng lên tiếng nói trấn an của Isaia, là vị tiên tri đã hứa với dân chúng rằng chẳng bao lâu nữa một ánh sáng vĩ đại sẽ xuất hiện để phá tan đêm tăm tối. Và lời hứa của tiên tri Isaia đã được thực hiện viên mãn khi Chúa Giêsu nhập thể.

Matthêu so sánh Chúa Giêsu đến và xuất hiện giữa cuộc đời như một ánh sáng huy hòang chiếu soi mọi người đang sống trong bóng đêm sâu thẳm. Matthêu thấy Chúa Giêsu là sự hòan thành lời tiên tri cao cả của Isaia: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hòang, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Chúa Giêsu đã từng vẽ nên sứ vụ của Ngài bằng những lời tương tự khi Ngài nói: “Ta là ánh sáng thế gian”.

Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống, riêng với con người thì không những ánh sáng cần cho sự sống của thân xác mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối thường làm cho con người cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc đời chúng ta: bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê. Càng giam mình trong những bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh họan. Người nào càng sống ích kỷ, và người nào càng nghiền ngẫm đắng cay hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình. Vì thế, chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người như để chữa trị những băng họai trong tâm hồn.

Lời của ngôn sứ Isaia nói xưa đã được Chúa Giêsu làm nên hiện thực. Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Ngài đến để soi sáng cho kẻ ngồi trong bóng tối, ban niềm vui, niềm hy vọng sống cho tất cả mọi người. Chúa cũng muốn chúng ta khám phá ánh sáng của Ngài. Chúa mời gọi chúng ta cũng trở nên ánh sáng cho những người mà chúng ta gặp gỡ.

Trong cuốn Justs for today người ta có kể lại: ông J. Keller, một nhà diễn thuyết nổi tiếng, đang nói truyện trước trăm ngàn thính giả tại vận động trường Los Angeles, Hoa kỳ, đang diễn thuyết, ông bỗng dừng lại và nói: “Bây giờ xin các bạn đừng sợ, tôi sắp cho tắt tất cả các đèn điện trong sân vận động này”. Ông vừa dứt lời thì cả sân vận động chìm trong bóng tối. Nhà diễn thuyết nói tiếp: “Bây giờ tôi xin đốt một que diêm, những ai nhìn thấy que diêm tôi đốt, xin kêu lên: “Đã thấy”. Cả sân vận động vang dội tiếng: “Đã thấy”. Rồi tất cả đèn điện lại được bật sáng. Diễn giả giải thích: “Ánh sáng của một nghĩa cử sẽ chiếu sáng trong đêm đen của nhân lọai như thế. Một lần nữa, tất cả đèn điện lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai ở đây có đem theo diêm quẹt hãy bật lửa, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc, cả sân vận động rực sáng. Diễn giả kết luận như sau: “Nếu tất cả chúng ta cùng hiệp lực với nhau, chúng ta có thể chiến thắng bóng tối của sự dữ, hận thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.

Ánh sáng Giêsu đến trần gian để xóa tan mọi hận thù, chia rẽ, tranh giành. Ánh sáng Giêsu đến thế gian để quy tụ tất cả mọi người nên hiệp nhất, nên một trong Tình Yêu của Ngài. Hiệp nhất, yêu thương cũng chính là tâm tình mà Thánh Phaolô mời gọi cộng đoàn Côrintô mà chúng ta vừa nghe: Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơlôe cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em. Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: “Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô.” Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?

Tâm tình Thánh Phaolô để lại hôm nay cũng là tâm tình hết sức dễ thương mà chúng ta phải học hỏi, phải bắt chước. Một khi đã nhận ra ánh sáng Giêsu trong đời mình thì khi ấy chúng ta cũng phải sống yêu thương, hiệp nhất, một lòng một ý với anh chị em đồng loại.

Hãy bắt đầu là ánh sáng của Giêsu ngay từ trong môi trường nhỏ bé là gia đình, là chòm xóm, là công sở, nơi xứ đạo của chúng ta.

Nguyện xin ánh sáng Giêsu đến và ở lại trên mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta cũng chiếu tỏa ánh sáng Giêsu trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.

 

20. Chúa Giêsu là ánh sáng thật

Thời gian gần đây người dân Việt Nam liên tục sống trong cảnh bị cúp điện. Những khi bị cúp điện làm cho người dân cảm thấy như ngột ngạt và tối tăm. Vì có người cho rằng thà rằng không có điện mà đã có rồi bị cúp làm cho sinh hoạt hằng ngày trong cuộc sống như tê liệt. Nhất là nhờ có điện mà việc thắp sáng cho sinh hoạt hằng ngày trở nên nhẹ nhàng và thoải mái hơn. Mà những ngày cúp điện tới khuya làm cho sinh hoạt của người dân vào lúc đầu hôm trở nên khó khăn hơn.

Nói như vậy để cho thấy ánh sáng là một trong những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống của con người. Ánh sáng của đèn dầu, của đèn điện, của mặt trời hay của mặt trăng có giới hạn của nó. Nó sẽ tan biến theo thời gian. Vậy có ánh sáng nào tồn tại mãi để soi bước cho người tín hữu chúng ta?

Đoạn Tin mừng hôm nay nằm trong khung cảnh sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa – biến cố Người chính thức ra đi thi hành sứ mạng của mình. Theo văn mạch của Tin mừng theo Thánh Matthêu thì những vùng đất được kể hôm nay là những vùng đất đặc biệt. Dân chúng nơi đang sinh sống trong những vùng đất này đang khao khát Đấng Cứu Thế. Vì Đấng Cứu Thế đến sẽ giải thoát họ.

Đáp lại nỗi lòng khao khát đó Chúa Giêsu đã đến với họ. Như lời tiên báo của tiên tri Isaia: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Mt 4, 16). Vậy, giờ đây họ đã được chiếu sáng bởi ánh sáng thật là Chúa Giêsu. Người đi đến đâu là sự giải thoát được thực hiện nơi đó.

Tuần trước chúng ta đã được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng đến gánh tội thay cho trần gian (Ga 1, 29). Thật vậy, những ai bước theo Chúa Giêsu và chọn Người làm gia nghiệp đời sẽ được sống dồi dào và hạnh phúc. Chính Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8, 12)

“Tôi chỉ tin một Ðức Kitô, Ðấng tôi hằng yêu mến”. Đó là lời tuyên tín của Thánh nữ Anê trước những lời dụ ngon dỗ ngọt và thậm chí là những lời răn đe của những người bắt bớ thánh nhân. Một thiếu nhi mới 13 tuổi ở độ tuổi mà người ta gọi là ăn chưa no lo chưa tới mà đã biết dùng chính mạng sống của mình để bảo vệ cho niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật soi dẫn chúng ta trên đường về với Chúa Cha. Hãy bảo vệ niềm tin và sống niềm tin của mình vào Người trong đời sống đạo của mình.

 

21. Lựa chọn của Chúa Giêsu

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.

Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.

Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.

Ly Chúa Giêsu, xin m lòng con để con đón nhn được Li Chúa và để Li Chúa sinh nhiu bông ht.

KIM ĐIM ĐỜI SNG

1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?

2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?

3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?

 

22. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền

Dn nhp đầu l:

Kính thưa ông bà anh chị em,

Nếu Chúa Nhật tuần trước phụng vụ giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô là Tôi Tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, là Đấng đến để phục vụ chương trình cứu độ trong tư thế của một Người Con khiêm nhu, vâng phục, hy sinh…, thì Chúa Nhật hôm nay, Phụng vụ giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô Ngôn Sứ, một Đức Kitô loan báo Tin Mừng, một Đức kitô truyền giáo, một Vị Thừa Sai, một Nhà Giải Phóng. Vâng, Đức Kitô đến để giải phóng chúng ta, để giải phóng nhân loại khỏi vòng tăm tối của quỉ ma, tội lỗi và sự chết, để đem tất cả vào sự sáng của niềm vui ơn cứu độ. Niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu-Kitô là như thế; và đó cũng chính là niềm hy vọng, là lẽ sống, là chân lý vĩnh hằng mà chúng ta sẽ không gặp được ở bất cứ một nơi nào khác.

Ging Li Chúa:

  1. Mt thế gii luôn có bóng ti

Sau biến cố Tổ tông loài người sa ngã, cửa địa đàng đóng lại, có thiên thần cầm gươm lửa đứng canh, tổ tông loài người bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng để lầm lũi bước đi trong thương đau khổ lụy… để rồi sau đó phải chứng kiến nào bạo lực, nào sẻ chia, nào hồng thủy, nào chiến tranh loạn lạc…

Mấy lời kinh thánh đơn sơ đó đã diễn tả thân phận loài người và thế giới mà loài người sinh sống ngay từ đầu đã mang dấu vết của bất toàn, của đổ vỡ, của lầm than của bóng tối.

Và mỗi ngày, trên hành tinh nầy, chúng ta chứng kiến bao nhiêu chuyện đáng buồn cứ liên tục xảy ra, liên tục phát triển: khủng bố, chiến tranh, phá thai, ly dị, cướp bóc, hận thù, và bao nhiêu tội ác ngập tràn… Quả thật, thế giới của chúng ta hôm qua, hôm nay và ngày mai là một thế giới đã hằn sâu vết thương của tội nguyên tổ, một thế giới đang bị những thế lực của bóng tối, của tội lỗi và ma quỷ quậy phá, lũng đoạn.

  1. Mt thế gii được nâng lên, được cu chuc:

Nhưng chính trong thế giới nầy, chứ không một thế giới nào khác, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm nguời, đã cắm lều cư ngụ giữa chúng ta:

– Ngài sinh ra trong chế độ của một bạo chúa: Hêrôđê.

– Ngài lớn lên trong một đất nước đang bị ngoại bang xâm lăng: It-ra-en đang thời bị đế quốc Rôma đô hộ.

– Ngài sống trong một xã hội mà tôn giáo đang xuống cấp và phân rẽ, bạo lực gia tăng, giàu nghèo cách biệt, bệnh hoạn tật nguyền tràn ngập khắp nơi…

Chính Tin mừng Matthêô hôm nay đã ấn chứng thêm điều đó khi tường thuật việc Chúa Giêsu đến với vùng dân ngoại bên kia bờ sông Giođan, dân Náp-ta-li, dân Dơ-vu-lon, để loán báo tin Mừng cho họ. Phải chăng đó cũng chính là điều mà bài đọc 1 hôm nay, I-sa-ia đã tiên báo: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiéu rọi…”

Chính trong bối cảnh đó, Đức Giêsu thành Na-da-rét đã công bố một Tin Vui: “Nước Thiên Chúa đã đến đây rồi”, “lời ngôn sứ hứa hẹn tiên báo ngày xưa nay đã trở thành hiện thực”. Và điều kiện để gặp được, để đi vào Vương Quốc đó lại chính là một cuộc “cách mạng nội tâm”, một cuộc “đổi đời từ căn bản”, một cuộc hoán cải trở lại, metanoia dứt dạc, tận cùng từ trái tim đến hành động, từ quan niệm đến thực hành:

– Thay vì ích kỷ thủ lợi cho mình hãy biết quảng đại cho đi

– Thay vì tham lam thu vén cho đầy túi hãy biết gạt bỏ để sống siêu thoát, khó nghèo giản đơn.

– Thay vì nhầy nhụa vẫn đục dâm ô, hãy vươn cao với cõi lòng thanh tao trong sáng.

– Thay vì khao khát nắm quyền để đàn áp bóc lột, cầm quyền sinh sát, hãy biết quỳ xuống khiêm hạ rửa chân và phục vụ anh em.

– Thay vì bạo loạn, gây hấn, chuốc oán hận thù, hãy làm lành làm phúc, xây dựng hòa bình…

Cứ chấp nhận những đòi hỏi ấy đi, cứ thực hành các nguyên tắc của “Tám Mối phúc thật” đi, tức khắc một thế giới mới sẽ được khai sinh, một nhân loại mới sẽ được cứu chuộc.

Kể từ buổi chiều Thứ Sáu cách đây 2000 năm trên ngọn đồi Can-Vê ngoại thành Giê-ru-sa-lem, khi Đức Kitô công bố Tin Vui cuối cùng: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với ta”, thì mỗi giờ, mỗi ngày đều có một thế giới mới được khai sinh, một “vương quốc của sự thật, sự sống, công bình và yêu thương” dần dần ló dạng ở cuối chân trời.

– Vâng, một thế giới mới khai sinh cùng với Hội Thánh khi Hội Thánh họp nhau cử hành phụng vụ.

– Một thế giới mới được khai sinh cùng với bao tâm hồn thánh thiện đã sống trọn vẹn con đường của Phúc âm.

– Một thế giới mới sẽ tiếp tục được khai sinh với bao thế hệ chứng nhân tông đồ hăng say lên đường thực thi sứ vụ truyền giáo.

– Và một thế giới được khai sinh cùng với bao cuộc đời âm thầm khiêm hạ chắt chiu từng giọt mến Chúa, từng giây yêu người trong những tăm tối đời thường nhưng vẫn hân hoan trong niềm tin yêu hy vọng.

Vâng, bao lâu còn có những người Kitô hữu, còn có những con người biết sống xả kỷ yêu thương, biết phục vụ quên mình, biết trung thành với ơn gọi và sứ mệnh là bấy lâu bóng tối của sự dữ sẽ bị đẩy lùi để nhường chỗ cho một thế giới mới tràn ngập ánh vinh quang của Thiên Chúa.

Sứ điệp phụng vụ hôm nay không cho phép chúng ta sống tiêu cực và nản lòng trước một thế giới đầy thương tích, một cuộc sống vẫn dở dang…Bởi vì Thiên Chúa không thể cứu độ con người theo kiểu “mì ăn liền”, mà Ngài gọi mời chúng ta cọng tác, dấn thân và lao mình về phía trước. Điều quan trọng cũng cần chúng ta lưu ý mà thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rinh-tô trong bài đọc hôm nay đang nhắc khéo đó chính là: phải hiệp nhất, yêu thương, nên một, phải liên kết như cành nho trong thân nho, như chi thể trong thân thể, để làm nên một sức mạnh tổng hợp, một thế đứng mạnh mẽ. Bởi vì không phải A-pô-lô hay Phaolô nhưng chính Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Ngài mới là cùng đích.

Sau hết, nếu chúng ta đã cố gắng hết mình mà sao thấy cuộc đời nầy, thế giới nầy vẫn chưa có gì chuyển biến, thì ta hãy học kinh nghiệm này của Ludovic Giraud qua mấy dòng cuối của lời kinh của ông:

Và khi trên cánh đồng truyn giáo

Con đã không ngng gieo vãi

Thế mà không thy gì mc lên,

Thì xin Chúa cho con gi trn nim vui,

Xác tín rng mt ngày nào đó,

Vào gi ca Chúa

Nh li nói và nhng c gng ca con,

Rt cuc thì Chúa s thng tr trên vũ hoàn. Amen.

 

23. Ơn cứu độ cho mọi người

Phật Giáo cho rằng đời là bể khổ. Nhưng tại sao khổ? Tại dục vọng hoành hành nên con người khổ. Mà dục vọng hoành hành do đâu? Phật giáo chưa giải thích rõ nguồn gốc này. Là người Kitô giáo chúng ta biết lý do. Trước kia, khi ông bà nguyên tổ của chúng ta chưa ăn trái cấm thì đời chưa khổ. Loài người lúc đó không phải đau khổ và không phải chết. Loài người lúc đó sống trong tình nghĩa với Chúa, hạnh phúc, tràn đầy sự hiểu biết và kính mến Chúa. Lúc đó, ước muốn của loài người luôn tùng phục ý chí cao thượng, luôn theo ý Chúa muốn. Từ khi loài người bỏ Chúa(ăn Trái Cấm), muốn sống ngoài sự kiểm soát của Chúa thì lý trí con người trở nên mờ tối, ý chí yếu ớt, dục vọng nổi dậy hoành hành.

Và vì nhiều người tìm cách phủ nhận đời sau, chỉ biết đời này, nên dục vọng càng được mạnh thế. Có người để sở thích điều khiển cuộc đời mình, có người coi tiền bạc là trên hết, có người cậy dựa vào quyền lực chóng qua, có người chìm đắm trong lạc thú, vô kỷ luật, bất chấp đạo đức truyền thống. Từ khi con người bỏ Chúa, con người trở nên ích kỷ, chỉ biết có mình, chỉ biết hưởng thụ. Những người này giống như những con thiêu thân. Họ đi tìm bã phù hoa, và họ cho đó là hạnh phúc. Nhưng kỳ thực họ đang lao vào ngõ bí. Tâm hồn họ trống rỗng và họ tìm cách lấp khoảng trống đó bằng những niềm tin không đâu như coi ngày, coi giờ, coi tuổi, coi bói, tìm cái lạ hoặc bỏ tiền vào các cuộc chơi phung phí. Loài người lạc đường, không biết đâu là hạnh phúc thật, đâu là những cái bẫy của ma quỷ hay thế gian đưa ra.

Vì thế, Chúa từ trời vì lòng thương xót loài người lầm lạc đã sai Con Một mình là Đức Giêsu Kitô đến dạy cho con người biết đường lên trời, cho con người biết Phúc Thật ở đâu. Phúc thật không phải ở nơi giàu có, tranh chấp, hơn thua, ức hiếp người khác. Nhưng là biết sống tinh thần nghèo, biết thương xót, biết nhận lỗi, là hiền lành tha thứ, là giữ lòng thanh sạch, là hoà thuận thương yêu và dám làm chứng cho chân lý.

Tất cả các mối phúc này thế gian cho là thua thiệt nhưng lại là có phúc thật. Người sống theo 8 mối phúc này thì lương tâm thanh thản, được coi là hiền nhân. Tuy nhiên, đôi khi họ bị thế gian coi là ngu dại hoặc có khi bị oán ghét vô cớ vì làm cho kẻ ác phải hổ thẹn, bị cắn rứt lương tâm vì họ không thông đồng với kẻ gian ác, không ủng hộ cho những hành vi trục lợi của kẻ xấu. Còn những ai biết suy nghĩ thì ca ngợi họ như những mẫu gương đáng cho mình học hỏi.

Con đường theo Chúa Giêsu là con đường bảo đảm dẫn về quê thật. Tuy nhiên, ai muốn đi trên đường này thì trước tiên phải có lòng chân thành, khiêm tốn nhìn nhận sự yếu kém, giới hạn của mình, biết hối cải và mở lòng ra cho Chúa chiếu dọi ánh sáng của Ngài vào lòng chúng ta, giúp chúng ta thắng vượt được tính ích kỷ và những xu hướng xấu.

Chúa Giêsu đã đến trần gian hơn 2000 năm rồi, nhưng nhiều người vì thành kiến đã không muốn tìm hiểu con đường Ngài dạy. Cũng có thể do chúng ta, tuy là môn đệ Chúa nhưng lại chưa sống lời Ngài, chưa làm chứng cho sự Phục Sinh của Ngài. Thế gian này vẫn còn nhiều sai lầm. Ước chi mỗi người biết khiêm tốn nhận ra những sai sót của mình mà chỉnh đốn cuộc sống, làm cho cuộc đời mình tràn đầy ý nghĩa, tràn đầy niềm vui thánh thiện, biết cống hiến những khả năng Chúa ban mà phục vụ anh em mình. Nhờ đó, mọi người sẽ nhận ra ơn Cứu Chuộc của Chúa Giêsu Kitô.

 

24. Được cứu độ bằng tình yêu – Lm. HK

Epictète là mt triết gia – nô l ti x Syracuse. Ông vua độc tài ca Syracuse đọc sách ca Epictète viết, thy hay quá nên mi ra quyết định cho Epictète không phi làm nô l na. Epictète tr li:

– Vua hãy t gii thoát chính mình đi.

– Nhưng ta là vua mà, ông vua độc tài ngc nhiên.

– Mt nhà độc tài là k phi làm nô l cho các dc vng ca mình, còn mt người nô l làm ch được các dc vng ca mình mi là mt người t do. Hi Đức Vua, hãy t gii thoát chính mình đi.

Ai cũng thấy rõ sức mạnh rất lớn của các dục vọng trong lòng mình, như cổ nhân đẽ khéo ví von: “Vũ vô kiềm toả năng lưu khách, sắc bất ba đào dị nịch nhân” (Mưa không xiềng xích vẫn lưu được khách, sắc chẳng ba đào dễ đắm lòng người).

Có dục vọng tốt nhưng cũng có dục vọng xấu lôi kéo con người và xích chặt tâm hồn họ vào tội lỗi. Trong Thánh Kinh, các dục vọng tội lỗi được diễn tả như bóng tối mịt mù ràng buộc và ngăn cản nhân loại trên đường tìm đến hạnh phúc đời đời: “Họ phải sống trong cảnh tối tăm mù mịt, kiếp lầm than xiềng xích gông cùm; vì họ chống cưỡng lời Thiên Chúa, dám khinh nhờn lệnh Đấng Tối Cao” (Tv 107,10).

Các dục vọng xấu là dư âm của cuộc sa ngã đầu tiên, khi người ta bị cám dỗ bước vào con đường vị kỷ, qui ngã, muốn trở nên Thiên Chúa.

Cái mất lớn nhất tính vị kỷ đã gây ra cho con người là làm cho họ mất khả năng nói lời yêu thương, tiếng nói của thần tính mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người. Sau khi sa ngã, Ađam và Eva đã quên đi tình liên đới, không còn biết đến niềm vui của sự cho đi: Ađam đã đổ tội cho Eva: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (St 3,12).

Để hoàn toàn loại trừ xu hướng vị kỷ, là bóng tối dẫn đến sự chết và là cái ách đè nặng lên cuộc sống con người, Đấng Cứu thế đã chiếu sáng thế gian bằng một tình yêu tuyệt đối, một tình yêu trút bỏ chính mình vì người khác: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8).

Tình yêu Đức Kitô là ánh sáng phá tan gông cùm của bóng tối sự chết luôn đè nặng lòng người. “Cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gẫy” (Is 9,1). Tình yêu đó làm thoả mãn được cái đói từ sâu thẳm trong lòng người, nên có sức lôi cuốn người ta bỏ tất cả đi theo Ngài … không hề có việc trả giá: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người… Lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,20.22).

Thế nhưng giữa người tin vào Đức Kitô vẫn còn đó những bóng tối vị kỷ ngay trong việc truyền bá tình yêu cứu độ. Thánh Phaolô đã cảnh báo về một tình yêu đã bị đánh mất vẻ đẹp, nơi những người muốn rao giảng một Tin Mừng của riêng mình: “Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ‘Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô”!

Vì thế, thánh Phaolô coi tình yêu quên mình của Đức Kitô chịu đóng đinh mới là tất cả những gì cần được rao giảng: “Đức Kitô … sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1Cr 1,12.17).

Đúng thế, thập giá Đức Kitô cũng có thể ra vô hiệu khi bị che chắn bởi bóng tối của lòng vị kỷ, tình yêu tinh tuyền của Đức Kitô bị lu mờ bởi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu. Vì thế mà thánh Phaolô tha thiết nài xin: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,2-4).

Khi làm việc trong bóng tối, điêu khắc gia đại tài Michelangelo thường gắn một cây nến nhỏ trên nón mình để cái bóng của ông không đổ lên bức tranh đang vẽ, lên pho tượng đang đắp. Điều đó làm cho F.L.McKean suy nghĩ: “chúng ta cũng phải hết sức cẩn thận, đừng để cho cái bóng của mình, những kẻ tìm kiếm tư lợi, đổ trên điều mà chúng ta đang làm cho Chúa Kitô”.

“Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết ở nhiệt thành, biết mến Chúa cho xứng đáng, biết thi ân mà không xá kể, biết chiến đấu mà không sđau thương, biết hoạt động mà không tìm an nghỉ. Tận tình với chức vụ mà không mong phần thưởng nào khác, một biết mình làm theo ý Chúa luôn. Amen” (thánh Ignatiô Loyôla).

 

25. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông Giorđan, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Ngài là: “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian ” (Ga 1, 29). Điều các ngôn sứ đã báo trước nay được thực hiện: “Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại” (Is 9, 1-4 (Hr 8, 23b – 9, 3). Ánh sáng vĩ đại ấy là ai nếu không phải là Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu xuất hiện giữa dân chúng, như ánh bình minh rạng ngời buổi sáng, xua tan bóng tối đêm đen. Dân chúng thấy Ngài như thấy ánh sáng huy hoàng… xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết ” (Mt 12, 16), ánh sáng ấy nay tỏ rạng công khai khi rao giảng: ” Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến” (Mt 12, 17).

Ánh sáng y là Chúa Giêsu

Matthêu giải thích, Chúa Giêsu “rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali”. Với địa danh chính xác như thế, nhưng mục đích của tác giả không phải là cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn du lịch. Ý tưởng thần học của Matthêu được giải thích ngay: ” để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia ” (Bài đọc I).

Ứng nghiệm điều gì? Giabulon và Nepthali là hai vùng thuộc miền Bắc lúc ấy đang bị sát nhập vào vương quốc A-sy-ri. Thật là hổ người khi nhớ lại quá thất bại và bị đuổi ra ngoài. Tuy nhiên, vị tiên tri với niềm tin vững mạnh đã tuyên bố: “Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng”. Nói cách khác, Isaia muốn khơi lên niềm hy vọng nơi những người tin cậy Chúa, Đấng giải thoát họ, nên ông không ngần ngại nói về ơn cứu rỗi. Đó là sức mạnh của Lời Chúa, Lời thực hiện những gì đã tuyên bố, Isaia gợi lên niềm vui đến từ đức tin:” dân chúng vui mừng trước nhan Chúa như nhà nông vui mừng trong mùa gặt. ” Thánh Vịnh một lần nữa vang lời động viên: “Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa”. Niềm tin này khiến chúng ta vui mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện: “Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi “. Sự sáng ấy nay cụ thể hóa nơi con người Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu xác định: “Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Ca-pharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: “Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết”.

Bước theo Chúa Giêsu cn phi hi ci

Ánh bình minh đã ló rạng, từ trên cao chiếu soi dân ngồi trong bóng tối là chính Chúa Giêsu Kitô. Ai bước vào trong ánh sáng ấy cần phải: ” Hối cải”nghĩa là đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ tội lỗi sang đời sống là con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng. Và Chúa muốn ánh sáng ấy chiếu soi mọi người; nên Chúa đã chọn các môn đệ như những người phụ tá.

Khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình “Hối cải”. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, dù thuộc về Phaolô, Phêrô hay Apôlô cũng chỉ có một Đức Kitô. Mọi con mắt phải hướng về Ngài, chính Ngài cứu chuộc chúng ta. Vì thế, khi gọi các môn đệ, là để các ông trở nên những chứng nhân của Tin Mừng, nên Thánh Phaolô có thể nói: ” Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không. ” Phaolô được chọn, để loan báo một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh cho thế gian.

Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Ngài. Chúng ta hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu nguyện xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng.

Hi ci để hip nht

Lời Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến”, vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Sự quyết tâm hoán cải, trở về cùng Chúa Kitô là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.

Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây: “Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Đồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ nhưThánh Phaolô Tông Đồ nói đến: “Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức” (1 Cr 1,10). Thực ra Thánh Tông Đồ đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: “Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?” (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.

Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.

 

26. Ơn cứu độ phổ quát – R. Veritas.

Đức Thánh Cha Phaolô II đã có lần mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo Hội tại Mỹ Châu, hãy tìm giải pháp cho những vấn đề trầm trọng đang tác hại tại lục địa này. Chúng ta hãy cùng lắng nghe một đoạn trong bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ cử hành tại Guadalupe, Mexico:

Giáo Hội đã có Tin Mừng sự sống và sự can đảm của tiên tri, Giáo Hội lại có các nền văn hoá của chết chóc. Ước gì đại học của hy vọng này cũng là đại học của sự sống, đấy là tiếng báo động lớn của chúng ta, hãy kiến tạo một cuộc sống mới xứng đáng cho tất cả mọi người, cho các thai nhi đã được cưu mang trong lòng mẹ, cho những trẻ em bụi đời sống ngoài đường phố, cho những người dân bản xứ, cho những người dân Phi Châu, cho những người di dân vì tị nạn, cho những người trẻ chiếm nhiều cơ hội để thăng tiến đời mình, cho những người già cả, cho tất cả những ai đang nếm trải sự nghèo khổ hay bị loại ra bên lề xã hội.

Đã đến lúc chúng ta phải nhất quyết loại trừ ra khỏi đại học Mỹ Châu này bất cứ sự tấn công nào chống lại sự sống. Xin đừng bao giờ có bạo lực, đừng bao giờ có khủng bố và buôn bán ma túy, đừng bao giờ có nạn tra tấn, hay những hình thức lạm dụng khác, cần phải chấm dứt việc kết án tử hình, đừng bao giờ có nạn khai thác bóc lột những kẻ yếu thế, đừng bao giờ có nạn kỳ thị chủng tộc, đừng bao giờ có những khu ổ chuột cùng khổ, đừng bao giờ có những tệ nạn như vậy. Đó là những tệ nạn không thể dung chấp được, những tệ nạn này kêu thấu đến tận Trời cao và mời gọi các tín hữu Kitô hãy có một nếp sống khác, hãy dấn thân vào trong xã hội, mục kích phù hợp hơn với đức tin của mình”.

Những lời trên đây của vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ là một tiếng vang của chính Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã mang đến cho nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm. Hiện nay tại các nhà thờ Anh Giáo bên Anh Quốc, người ta đang thấy trưng bày những tấm bích chương có vẽ hình Chúa Giêsu giống hệt dung mạo của nhà cách mạng nổi tiếng Thêghê Bara, ông là một bác sĩ, đã từng là bạn của chủ tịch Fidel Castro, người Cuba. Ông muốn quảng bá lý tưởng cách mạng bạo động cho toàn thể Châu Mỹ Latinh, thế nhưng ông đã ngã gục vào giữa thập niên sáu mươi.

Chúa Giêsu quả thật là một nhà cách mạng nhưng Ngài không hề có chủ trương dùng bạo động để thực hiện cách mạng. Hơn nữa, cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã thực hiện càng không có tính cách chính trị, kinh tế hay xã hội. Cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu thực hiện qua chính cuộc sống của Ngài và được Giáo Hội tiếp tục giảng dạy và thể hiện thiết yếu là cuộc cách mạng bản thân. Tính cách mạng ấy được Chúa Giêsu thốt lên khi bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài: “Hãy hối cải vì Nước Trời đã đến gần”.

Trong chương trình cách mạng ấy của Chúa Giêsu, chúng ta bắt gặp lẽ khôn ngoan nghìn đời của các nhà hiền triết Đông Tây: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Có tu thân nghĩa là cố sống cho ra người thì người ta mới có thể lãnh đạo gia đình, cai trị đất nước và mang lại thái bình cho thế giới.

Khi nghe lời kêu gọi hòa bình của Giáo Hội, nhà độc tài Stalin đã thách thức, thử hỏi xem Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Có thể Stalin đã quên lời nhận xét của người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản là Lênin như sau: “Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô nghèo, thì cũng đủ để cải tạo xã hội Nga”.

Quả thật ở bất cứ thời đại nào, thế giới cần nhiều vị thánh hơn là những con người tài ba. Khoa học và kỹ thuật đang tiến bộ với tốc độ nhanh chóng khiến chúng ta phải chóng mặt, các tiện nghi ngày càng tối tân, con số các nhà tỷ phú trên thế giới ngày càng gia tăng, của cải do con người tạo ra ngày càng ứ đọng, vậy mà tình hình thế giới được các phương tiện truyền thông đưa lên vẫn là một bức tranh xám xịt. Chiến tranh, chết chóc và nhất là đói khổ vẫn còn bao phủ phần lớn địa cầu của chúng ta. Bên này bán cầu thừa mứa của cải vật chất, thì bên kia bán cầu còn tới không biết bao nhiêu người đang lâm cảnh chết đói. Trong một quốc gia, một thiểu số nhỏ kẻ nắm giữ trong tay phần lớn của cải, còn số đông phải quằn quại trong khốn khổ. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy giải pháp cho vấn đề nằm ngay trong chính lòng con người, bao lâu vẫn còn có những người chiếm giữ quyền hành trong tay và chối bỏ những quyền cơ bản nhất của người khác thì bấy lâu vẫn còn có một số người phải quằn quại đói khổ. Bao lâu con người chưa hối cải và sống cho ra người thì bấy lâu thế giới vẫn không bao giờ có được hòa bình thật sự.

Hãy hối cải, hãy sống cho ra người, nếu chúng ta quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này của Chúa Giêsu trong môi trường sống của chúng ta hằng ngày, thì không những chúng ta đóng góp vào cuộc cải tạo xã hội mà còn chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng, Nước Trời thực sự đang đến.

Đó là niềm xác tín, đó là niềm tin của chúng ta, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau nài xin Chúa ban cho chúng ta niềm tin này.

 

27. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng

(Trích Radio Veritas Asia)

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu hai việc làm quan trọng của Ðức Giêsu, đó là: rao giảng về Nước Thiên Chúa (cc.12-17) và kết nạp những môn đệ đầu tiên (cc.18-22)

Rao giảng về Nước Thiên Chúa. – Tin Mừng Matthêu cho thấy Ðức Giêsu được công khai giới thiệu là Con Thiên Chúa về cuối trình thuật Người chịu phép rửa (3,13-17). Kế đến, Người đã tỏ ra hoàn toàn gắn bó với ý của Thiên Chúa qua các cơn cám dỗ nơi sa mạc (4,1-11). Chính qua thử thách Ðức Giêsu tỏ rõ Người mật thiết với Thiên Chúa như thế nào trong tư cách là Con Thiên Chúa.

Từ Giuđê, Ðức Giêsu xuống Galilê để thi hành thừa tác vụ của mình cách công khai (4,12-17). Sự kiện ông Gioan Tẩy Giả bị tiểu vương Hêrôđê bắt bỏ tù chưa phải là lý do chính yếu để Ðức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê thay vì tại Giuđê. Lý do chính yếu là ý của Thiên Chúa, như được loan báo trong sách ngôn sứ Isaia 9,1-2.

Cốt lõi của lời Ðức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa được tóm gọn trong câu 17: “Anh em hãy sám hối vì Nước Thiên Chúa đã đến gần.” Gioan Tẩy giả đã từng rao giảng nguyên văn cũng lời đó (3,2).

Sám hối (metanoia trong Hy ngữ) là thay đổi não trạng. Không chỉ dứt bỏ hành động tội lỗi nhưng dứt bỏ tâm trạng hướng ta tới hành động đó. Cần thống hối để trở về đường thiện, tức là trở lại (epistrephein trong Hy ngữ).

Nhưng tại sao cần phải sám hối? Lý do vì Nước Thiên Chúa đã đến gần. Nước Thiên Chúa chỉ về quyền lực và cuộc phán xét do Ngài, cũng như chỉ về quyền thống trị của Ngài trên mọi thọ tạo. Ta sẽ thấy cuộc chiến thắng tối hậu của Thiên Chúa được khai trương nơi tác vụ của Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Chính Thầy đã chọn anh em để anh em đi và mang lại nhiều hoa trái

Kết nạp những môn đệ đầu tiên. – Trình thuật của Matthêu về cuộc kết nạp này cũng giống như trong Mc 1,16-20. Theo kế hoach tổng quát, Matthêu giới thiệu ba môn đệ trở thành bộ ba thân cận nhất trong nhóm Mười Hai, đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bộ ba này sẽ có mặt khi Ðức Giêsu cho một người đã chết sống lại (Mc 5,37), khi Người biến hình trên núi (Mt 17,1) và khi Người cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37).

Các môn đệ sẽ là những người đến gần Ðức Giêsu khi Người giảng bài giảng trên núi, bài giảng này được kể như hiến chương về Nước Thiên Chúa (Mt 5,1). Chính từ những người được gọi là môn đệ, Ðức Giêsu sẽ thiết lập nhóm Mười Hai (Mt 10,1-4). Và nhóm Mười Hai này sẽ là nhóm được giao sứ mạng đi đến với muôn dân và làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Ðức Giêsu (Mt 28,19).

Giữa nhóm Mười Hai, nổi bật nhất là ông Simon, được Ðức Giêsu gọi bằng danh xưng mới là Phêrô. Khi ông Simon tuyên xưng Ðức Giêsu là “Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Ðức Giêsu liền nói với Simon: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt 16,16-18).

Vậy mọi Kitô hữu đều phải trở nên môn đệ của Ðức Giêsu, môn đệ theo nghĩa họ phải tuân giữ mọi điều Ðức Giêsu đã dạy. Những điều ấy nhóm Mười Hai có nhiệm vụ truyền lại cho muôn dân (Mt 28,20). Chính nhờ gương sáng của các tông đồ, là các môn đệ đầu tiên, người Kitô hữu nhận ra mình được mời gọi để tiến triển như thế nào trong ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu.

Cựu Ước hầu như không có ý niệm về người môn đệ theo cái nhìn của Chúa Giêsu. Trước thời lưu đày Babylon (597-538 B.C), dân Ít-ra-en còn có một số ngôn sứ với đồ đệ tháp tùng, như ngôn sứ Êlia có Êlisêu là môn đệ. Sau thời lưu đày, tại Ít-ra-en, người ta thấy xuất hiện các thầy Rápbi thay thế các ngôn sứ. Các thầy này dạy người ta các luật phải giữ trong Do thái giáo dựa theo các truyền thống khác nhau. Các thầy rápbi không chọn học trò để truyền kiến thức; chính các học trò chọn đến với thầy rápbi nào họ muốn.

Chính Thầy đã chọn anh em (Ga 15,16). – Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy chính Ðức Giêsu đã chọn các moan đệ đầu tiên (cc.19.21). Sau này, Người còn gọi ông Lêvi (Mt 9,9). Người cũng gọi ông Philipphê (Ga 1,43). Tóm lại, “Người gọi đến với Người những kẻ Người muốn” (Mc 3,13). Trong Tin Mừng Gioan, điều đó được Ðức Giêsu khẳng định rất rõ: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái anh em tồn tại” (Ga 15,16).

Với xã hội Do thái, chọn học với một thầy rápbi là xây dựng cho mình một nghề, nghề đó bảo đảm cho học viên chỗ đứng đáng ước ao trong xã hội. Với Ðức Giêsu, điều hứa hẹn khác hẳn. Trở nên môn đệ của Ðức Giêsu là để ở lại với Người để chia sẻ cuộc sống và sứ mạng của Người. Cốt lõi của ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là cuộc dấn thân vào sự sống và vào sứ mạng của Người.

Bước theo Ðức Giêsu là bước trên đường Thập Giá đưa tới vinh quang

Ðó chính là điều Chúa Giêsu phục sinh nói với hai môn đệ đi Emmau: “Nào Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (Lc 24,26). Ai đến học với một thày rápbi đạo Do thái, không bao giờ chấp nhận điều kiện như vậy. Người đó không buộc phải từ bỏ điều gì thuộc về nghề nghiệp và chỗ đứng của mình trong xã hội.

Ngược lại, người môn đệ Ðức Giêsu phải nhận lấy cái nhìn của Ðức Giêsu làm cái nhìn của mình về mọi sự. Lý do vì Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa đến thiết lập Nước của Ngài trên mọi thọ tạo. Toàn thể tạo thành phải được điều khiển theo ý Ngài và ý đó chính Ðức Kitô là Con Thiên Chúa, biết rất rõ: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.” (Mt 11,27).

Ðức Kitô mạc khải cho các môn đệ ý của Thiên Chúa không qua một bài báo hoặc một cuốn sách. Tất cả các sách Tân Ước sau này mới được viết ra. Ðó là khi trọn ý của Thiên Chúa đã được chu toàn qua lời nói và việc làm của Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Thánh Linh soi sáng, các môn đệ là những người được gọi để ở lại với Ðức Giêsu từ khi Người công khai rao giảng về Nước Thiên Chúa cho tới khi Người tắt thở và được phục sinh, khi ấy mới rõ ý Thiên Chúa đã trở nên sống động nơi cuộc đời của Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Nền giáo dục mà các môn đệ của Ðức Giêsu được hấp thụ là một nền giáo dục thiết thân với sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Ðức Giêsu. Các ông được khuyến cáo đảm nhận lấy nền giáo dục đó: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng nhân hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-29).

Luật Cựu Ước xưa trở nên ách nặng nề cho dân Thiên Chúa. Nay Ðức Giêsu là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa, đến làm cho mọi sự trở nên nhẹ nhàng nhờ sức mạnh của yêu thương. Chính Ngài hy sinh để muôn dân được hạnh phúc. Ngài mời gọi họ trở nên môn đệ Ngài và đi trên cũng một con đường yêu thương chính Ngài lãnh đạo.

Một số câu hỏi gợi ý

  1. Bạn hiểu thế nào về sám hối khi nói: Sám hối đòi ta không chỉ dứt bỏ hành động tội lỗi mà còn phải dứt bỏ não trạng hướng ta tới những hành động đó?
  2. Bạn hiểu thế nào khi nói: Bước theo Ðức Giêsu là bước trên đường thập giá đưa tới vinh quang?

 

28. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

(Để minh họa cho sứ điệp của Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử phác hoạ tâm trạng của Simon Phêrô khi được gọi làm tông đồ và được Chúa Giêsu trao trọng trách trong Giáo Hội)

Hôm y, ti thành Xêdarê Philípphê, sau khi Simon Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hng sng và được Chúa Giêsu long trng tuyên b trước mt các môn đệ: “Simon, Anh là Tng Đá, và trên Tng Đá ny, Thy s xây Hi Thánh ca Thy… Thy s trao cho Anh chìa khoá Nước Tri. Nhng gì Anh cm buc dưới đất, trên tri cũng cm buc, nhng gì Anh tháo ci dưới đất, trên Tri cũng tháo ci” (Mt 16, 13-19)… thì lin sau đó, Simon Phêrô đâm ra đăm chiêu nghĩ ngi. Simon vn nghĩ rng mt người thuyn chài quê mùa cht phác như mình thì chng làm được gì khác ngoài vic quăng chài hay kéo lưới.

Đêm y, trn trc không ng được vì nhng li Thy va công b và trong thinh lng ca màn đêm, Simon hi tưởng li bui sáng đẹp tri cách đó không lâu trên bin h Galilê, đang khi ông và An-rê đang quăng chài dưới bin thì Thy tiến đến. Thy giơ tay vy chào và ct tiếng gi mi: “Các Anh hãy theo tôi, tôi s làm cho các Anh thành nhng k lưới người như lưới cá!”

Li Thy có sc cun hút nhim mu. Thế là hai anh em b thuyn b lưới theo Thy.

Đi mt quãng na, Thy gp hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là Gioan. Hai ông này đang cùng vi cha là ông Dêbêđê vá lưới trong thuyn. Thy li ct tiếng mi gi, lp tc các ông b thuyn, b cha li mà theo Thy. (Mt 4, 18-22)

Thế là bn bn chài quê mùa x Galilê bng nhiên tr thành nhng môn đệ đầu tiên ca Thy Giêsu, được gi lên đường chinh phc thế gii…

Đang mơ màng vi dòng suy tưởng, Simon cht thy Thy mi tr v sau gi cu nguyn, Anh lin mi Thy ra ngoài góc sân và nói:

“Thy ơi! Ti sao sáng nay Thy li đề cao con quá vy? Con đáng sá gì mà Thy đặt con làm Đá Tng cho Thy xây Hi Thánh, con có là gì mà nm gi chìa khoá Nước Tri! Thy không nh con xut thân t mt gã thuyn chài ư? Sao Thy không chn nhng lut sĩ uyên bác? Sao Thy không tìm người lãnh đạo nơi hàng ngũ nhng người bit phái uy tín và đạo đức mà li chn dân chài như chúng con?

Chúa Giêsu ôn tn v vai Simon: “Simon, đừng lo! Đây không phi là vic ca con người mà là vic ca Thiên Chúa. Ri đây các Anh s là nhng người thay đổi b mt thế gii”.

* * *

Để chinh phục thế giới, Thiên Chúa đã chọn bốn người thuyền chài làm những môn đệ đầu tiên và lại giao cho ngư phủ Simon Phêrô thay Ngài lãnh đạo Hội Thánh.

Tại sao Chúa Giêsu lại trao cho hạng ngư phủ đảm nhận những cương vị hết sức hệ trọng nầy?

Phải chăng tiêu chí đầu tiên của Chúa Giêsu khi tuyển chọn môn đồ và những người kế vị mình trong sứ mạng cao cả và đầy gian truân là phải dạn dày sương gió, là không ngại khó, sẵn sàng đối đầu với bão tố cuồng phong? Ngư phủ là những người vốn có những tố chất như thế trong máu thịt mình.

Nếu không có những con người dạn dày sương gió như thánh Phanxicô Xavie vượt đại dương đi đến với các dân tộc xa lạ trên lục địa châu Á mênh mông, không có những người xâm mình mạo hiểm như các nhà thừa sai Paris đến rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam trong thời kỳ cấm cách và bắt bớ… thì làm gì có hạt giống đức tin triển nở dồi dào trên các vùng đất Á Châu cũng như ở Việt Nam!

Và hôm nay, Giáo Hội Việt Nam đang khựng lại trên con đường truyền giáo, số lượng những người theo Chúa không thể tăng lên trong suốt nhiều thập kỷ qua, cũng chỉ vì thiếu những con người dạn dày sương gió bất chấp nguy khó để loan báo Tin Mừng.

* * *

Ly Chúa Giêsu, Giáo Hi Vit Nam cũng như Hi Thánh Chúa trên khp hoàn cu đang cn nhng con người nhit thành, mo him, cn đến nhng người dám lìa b b bến an toàn để dn bước ra khơi.

Xin Chúa tiếp tc ro bước trên quê hương chúng con và kêu gi thêm nhiu tâm hn thin chí để b sung vào đội ngũ các môn đệ tiên phong ca Chúa ngày xưa.

Xin cho ngn la ca Chúa Thánh Linh trong ngày l Ngũ Tun tiếp tc cháy lên trong lòng các môn đệ Chúa để cho Tin Vui, Tin cu độ ca Chúa được loan báo cho hết mi người.

 

29. Đừng ngủ mê trong tội

(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)

Tiếng bà vợ dịu ngọt nói chồng: Anh ơi đi xưng tội đi. Lâu rồi không thấy anh xưng tội.

Anh chồng đáp: Xưng xong có chừa được đâu mà xưng.

Cô vợ: Thế thì hôm nay anh đừng ăn nhé

Anh chồng: Không ăn mà chết đói à!

Cô vợ: Vì ăn xong rồi cũng đói, thế thì ăn làm gì cho mệt.

Anh chồng!

Con người thường ít muốn thay đổi. Cho dù cuộc sống của hđang chìm ngập trong tội lỗi. Họ vẫn ngại đến với tòa giải tội. Họ sợ phải đối diện với sự thật. Vì sự thật sẽ phơi bầy toàn bộ hành vi bất chính, tội lỗi của họ. Họ vẫn sống chai lỳ trong điều gian ác mà vẫn không áy láy lương tâm. Chính vì lối sống mất ý thức về tội lại không dám đối diện với sự thật khiến họ lao mình vào cuộc sống với những đam mê hưởng thụ bất chấp luân thường đạo lý, hay lao vào tìm kiềm danh lợi thú bất chấp thđoạn tàn bạo. Điều này đã làm cho xã hội tội lỗi tràn lan đến mức độ chưa bao giờ tội pham nhiều như ngày nay.

Ngày 03.01.2014 một phiên tòa lưu động có số bị cáo đông nhất Việt Nam từ trước đến nay đã diễn ra tại sân trại giam của công an tỉnh Quảng Ninh tổng cộng đến 89 bị cáo dính đến 4 đường dây mua-bán, vận chuyển trên 4,400 bánh heroin hiện diện tại phiên tòa dự tính kéo dài ba tuần lễ.

Theo báo Tiền Phong, phiên tòa nói trên cũng quy tụ số luật sư biện hđông nhất từ trước đến nay: 41 người. An ninh phiên tòa lưu động được xiết chặt, vì người ta dđoán có thể tới 66 bản án tử hình sđược tuyên.

Án tử hình rất nhiều nhưng xem ra không ý thức về tội, không có lòng sám hối nên tội phạm vẫn gia tăng. Ngay cả các tội nhân tại tòa cũng thường ít nói lời xin lỗi vì mình đã gây nên những đau khổ cho xã hội bởi hành vi bất chính của mình. Thậm chí cả người nhà tội nhân còn bênh vực cho hành vi tội lỗi của con cái mình.

Mới đây trong một phiên tòa khi tòa tuyên án kẻ cầm đầu bọn cướp chuyên nghề chặt tay cướp xe thì tiếng la hét đanh đảnh của một người mẹ đã hét lên không chấp nhận sự thật ấy. Bà quát to rằng: con tôi không giết người sao lại tử hình con tôi? Bà còn quay lại chỗ những người bị hại mà con bà chặt tay để cướp của nói rằng: Biết con tao tử hình thì tao đã cho người giết chết chúng mày! Xen lẫn tiếng bà là tiếng người chị gái bảo rằng: “ai bảo chúng này đi xe đẹp đeo nhẫn vàng làm gì?”

Hóa ra đi xe đẹp, đeo nhẫn vàng cũng có tội? Có phải tình yêu thì chẳng cần quan tâm đến đạo đức. Người ta nhân danh tình yêu để hại người, để vào hùa và bênh đỡ nhau như gia đình bị can “chặt tay cướp SH” chăng?

Là người đều có những lầm lỗi hay có những lần vấp ngã, điều quan yếu là biết nhận lỗi và đứng lên làm lại cuộc đời. Không nhận ra sai lỗi. Không cảm nhận sự vấp ngã. Con người cũng mất ý thức về tội. Con người càng mất lòng sám hối ăn năn. Thực ra, nhân vô thập toàn. Con người cần biết giới hạn của mình để sám hối từng ngày, để canh tân từng phút. Có sám hối, có canh tân con người mới thăng tiến từ tinh thần đến vật chất.

Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu không kêu gọi chống bất công hay đòi quyền lợi mà là kêu gọi sám hối canh tân. Chúa kêu gọi con người phải sám hối vì cội rễ của bất công, của sa đọa, tội lỗi là con người mất ý thức về giá trị cuộc sống. Con người không tuân theo luân thường đạo lý thì làm sao có một xã hội văn minh tình thương. Con người cần phải sám hối để nhận ra những lỗi lầm của mình đã gây nên thiệt hại tinh thần lẫn vật chất cho tha nhân. Chính hành vi tội lỗi mình đã làm cho sự dữ lan tran, xã hội loạn lạc lầm than.

Nhưng đáng tiếc nhân loại ngày hôm nay không ý thức việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân. Con người vẫn nhân danh tự do cá nhân để hành xử thiếu văn hóa, thiếu trách nhiệm với tha nhân. Con người vẫn nhân danh hạnh phúc cá nhân để loại trừ hạnh phúc cuả tập thể, của xã hội. Nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người thì sẽ không có những vụ tham nhũng lớn như Dương Chí Dũng, Bầu Kiên hay Huyền Như… Tất cả vì lợi ích cá nhân mà gây nên biết bao hậu quả tai hại cho xã hội và đất nước.

Ước gì là người ky-tô hữu chúng ta hãy biết xét mình hằng ngày, hãy ăn năn từng giờ để đừng ngủ mê trong tội lỗi, nhưng biết thay đổi đời sống cho phù hợi với tin mừng. Xin đừng vì quyền lợi cá nhân mà gây thiệt hại cho xã hội. Xin đừng đề cao tự do cá nhân để làm mất trật tự cho xã hội và cộng đồng. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân để nhờ ơn Chúa mà canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.

 

30. Chúa Kitô là ánh sáng

(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có lúc nào đó trong cuộc sống chúng ta tự hỏi lòng mình: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này để làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của đời người, nó quyết định phận số của một con người. Đau khổ hay bất hạnh. Lạc quan hay bi quan. Sống có trách nhiệm hay lười biếng, buông thả? Sống có ích hay trở thành gánh nặng cho xã hội đều tùy thuộc vào chọn lựa căn bản này của từng người chúng ta.

Nhìn vào xã hội hôm nay chúng ta thấy, có người chủ trương cho rằng con người là loài vật nên chẳng cần luân thường đạo lý, chẳng cần tự chủ bản thân, sống buông thả theo đam mê nhục dục như muôn loài sống theo bản năng của mình. Có người chủ trương cho rằng sống là để hưởng thụ nên luôn tranh giành lẫn nhau, luôn lấn áp với nhau theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Họ chà đạp lên nhau chỉ vì danh lợi thú trần gian. Có người chủ trương cho rằng chết là hết nên chẳng cần ăn ngay ở lành, chẳng cần tích đức đời sau nên sinh ra đạo tặc, dâm ô và biết bao tệ nạn đau buồn khác. Hằng ngày trên truyền hình, truyền thanh vẫn luôn cập nhật những thông tin đáng buồn như cướp dật, hoang dâm, xì ke, ma tuý, tham nhũng, giết người… Tại sao vậy? Tại sao xã hội có luật pháp mà vẫn còn đó những tội phạm? Tại sao bóng tối của sự dữ vẫn còn đầy rẫy trong xã hội văn minh hôm nay? Tại sao lương tâm không bằng lương thực? Tại sao nhân phẩm không bằng nhu yếu phẩm? Tại sao tình người không bằng đồng tiền? Tại sao vì tiền, vì quyền, vì tình mà nhiều người đã đánh mất nhân tính của mình? Có lẽ chỉ vì đã nhìn nhận sai về căn tính con người, về ý nghĩa cuộc đời nên dẫn đến biết bao hệ luỵ khổ đau cho con người.

Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: loài người thuở xa xưa khi chưa biết soi gương trang điểm nên dường như cũng chẳng hề biết khuôn mặt mình tròn méo thế nào. Vì thế mới có chuyện đau lòng xảy ra giữa đôi vợ chồng trẻ miền quê hẻo lánh. Một lần anh chồng có việc phải lên kinh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cái đầu. Nhưng khốn nỗi anh chàng nhà quê chưa một lần nhìn thấy cái trâm cài đầu nó như thế nào? Cô vợ nhìn lên bầu trời đêm thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói: “Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên, anh cứ nhìn lên ánh trăng thì sẽ nhớ”. Người chồng đã ra đi. Kinh đô quả thật khác lạ so với anh. Cái gì cũng mới. Cái gì cũng hay. Anh chồng đã say sưa, mải miết tham quan những cảnh lở kinh thành cả mười ngày sau mới về. Lúc này anh mới chợt nhớ lời vợ dặn, anh liền nhìn lên bầu trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm. Anh vào cửa hàng tạp hoá và anh mua một cái gương soi mặt vì nó hình tròn giống như ánh trăng. Lòng vui rộn ràng anh quay trở về với vợ hiền. Anh vui mừng trao món quà cho cô vợ bé nhỏ của mình. Cô vợ mở quà ra xem. Ngạc nhiên tại sao lại là hình ảnh của một cô gái ở trong món quà. Bởi lẽ, cđời cô chưa hề biết gương là gì, nên khi thấy bóng dáng một người con gái trong gương cô đã tức giận và quát tháo nên rằng: “Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh đem về cho tôi một đứa con gái nào đây?”. Anh chồng lúc này mới nhìn vào gương và thấy khuôn mặt một người đàn ông trông giống như bố mình ngày xưa, nên anh cãi rằng: “Không phải, đây là bố tôi”. Và anh dành lại cái gương, miệng không ngớt kêu lên: “Ơ bơi! Quả thực là bố hiện về với con”. Cô vợ tức quá giựt lại và bảo: “Bố ông bao giờ, đây là con nào rõ ràng mà ông còn chối cãi được sao?”. Anh chồng xem ra không cãi nổi vợ, bèn buồn bã bđi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi nàng dâu, và người con dâu đã đưa cho mẹ chồng xem bằng chứng về sự dan díu của chồng mình. Mẹ chồng xem qua rồi đi đến kết luận: “Thôi đừng ghen tương làm chi cho khổ, tao thấy con này nó cũng già quá rồi!”

Vâng, xem ra cái nhìn tiên tri của ngôn sứ Isaia vẫn đúng cho thời đại hôm nay, vì “đoàn dân đang ngồi trong bóng tối” cũng chính là hình ảnh của nhân loại hôm nay. Một thế giới đầy những bong tối của tội lỗi, của sa đoạ, của ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù quáng chạy theo những đam mê lầm lạc và dìm mình trong bong tối của danh lợi thú trần gian. Họ đã lạc mất hướng đi đời người. Họ chẳng cần biết mình là ai? Họ chỉ cần tiền. Họ không cần đạo đức hay phẩm giá con người. Điều họ cần là làm sao có tiền để hưởng thụ. Vì có “tiền mua tiên cũng được”. Vì mải miết chạy theo đồng tiền họ đã đánh mất hướng đi đời người. Cuộc sống không có định hướng, không có mục đích là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn: cướp giật, tham nhũng, xì ke ma tuý và mại dâm cùa thời đại hôm nay.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy sám hối”. Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ghen tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sang của yêu thương và hiệp nhất. Sám hối để bước ra khỏi vũng lầy của đam mê nhục nhục, của tha hoá đạo đức để sống cao thượng theo đúng phẩm giá con người là “nhân linh hơn vạn vật”. Sám hối để nhìn nhận những sai trái của mình đã gây nên những bất công, những khổ đau cho anh em và quyết tâm thay đổi đời sống theo đúng đòi hỏi của Tin mừng mà Chúa Kitô đã loan báo. Vì Chúa Kitô chính là ánh sáng đã chiếu giãi trên thế gian. Từ nay Tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, ai bước theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.

Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của Tin mừng sẽ phơi bầy bộ mặt thật của mình nên họ luôn tìm cách che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tỗi lỗi vẫn tràn lan. Con người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính những điều gian ác, bất công của mình gây nên.

Xin Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự sống giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ của danh lợi thú trần gian để chúng ta sống trong tự do của con cái Chúa. Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn dắt chúng ta đi theo chân lý vẹn toàn ngõ hầu chúng ta luôn sống đúng với phẩm giá cao quý của con người là hình ảnh của Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở thành ánh sáng để dẫn dắt anh chị em chúng ta bước đi trong ánh sáng lề luật và phúc âm của Chúa. Amen.

 

31. Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 4: 12-17 Và đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm…

Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khỏang 60 cây số. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân (khoảng 4.400.000). Galilê không những là khu đông dân cư mà dân ở đó còn có một cá tính đặc biệt: Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: ”Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích tranh cãi. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”. Đặc tính bẩm sinh của người Galilê khiến việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Đức Giêsu chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo.

Nội dung việc rao giảng: thánh Matthêu đã tóm gọn nội dung việc rao giảng của Đức Giêsu trong một câu :”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.

Và đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngọai cư ngụ, buôn bán ở Capharnaum.[1]

”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.

Nguyên gốc của từ sám hối là quay trở lại.

“Hãy sám hối và quay trở lại cùng Thiên Chúa”: Một từ diễn tả chính xác lòng sám hối đó là ăn năn thống hối.

Từ ăn năn (contritio) phát xuất từ tiếng La Tinh conterere: nghiền nát, chà đạp, tan thành miếng nhỏ. Đó là quả tim chai đá của chúng ta, mà Kinh Thánh nói đến, đang tan vỡ.

Từ thống hối (compunctio), từ đồng nghĩa conpungere: châm, đâm. Vào một lúc nào đó, quả tim chúng ta cuối cùng bị tổn thương, bị đâm thủng. Từ vết thương lòng đó, một dòng nước sẽ phun ra những giọt lệ thống hối.[2]

Một câu chuyện minh họa cho giọt lệ thống hối:

Một tên sát nhân vào xưng tội và cha giải tội ra việc đền tội: Con hãy cầm lấy chiếc lọ này và việc đền tội của con là đổ nước cho đầy vào chiếc lọ đó. Thế nhưng trong cả hàng mấy chục năm không làm sao đổ đầy được chiếc lọ đó.

Anh bị tù, rồi một hôm anh vượt ngục.

Trời đã về tối, anh trốn vào một nghĩa trang. Tuyệt vọng và cô đơn. Anh nhớ về câu chuyện đã nghe từ lâu lắm, không biết ai kể, ở đâu. Chuyện kể về một người cha có đứa con đi hoang nhưng suốt đời chẳng tiến thân được, sau cùng nó lần mò về nhà cha thú nhận tội lỗi và sự bất lực của nó. Và cha nó đã ôm nó vào lòng. Hình ảnh tình thương ấy làm anh rơi lệ.

Anh ngước nhìn lên cây thập tự lớn trên ngôi mộ. Anh thấy mình nhỏ bé, yếu đuối và trần trụi. Trong cơn đau khổ cùng cực, anh nhìn lên thập giá khóc sướt mướt. Vô tình, giọt nước mắt rơi vào miệng lọ rồi từ từ nước dâng đầy.

Anh không hay biết gì, cứ ôm lấy thập giá như một người có sức đem lại cho anh nguồn an ủi.

Khóc nhiều hơn, càng khóc thì anh càng thấy vơi đi những buồn phiền.

Anh nhìn lên tượng Chúa dâng một lời nguyện, lời nguyện đầu tiên sau mấy chục năm sống trong tội ác. Lời nguyện như có sức nhiệm mầu cho anh thanh thản.

Anh không hiểu rõ những gì xảy ra trong tâm hồn, nhưng anh biết có một sự thay đổi, có điều gì đó khác lạ.

Anh muốn đem câu chuyện về chiếc lọ để nói với thập giá. Khi anh đưa chiếc lọ lên trước tượng chịu nạn thì anh ngạc nhiên kinh hoàng. Nước đã đầy. Anh cho tay vào lọ để thử, đúng là nước. Nước tràn ra bên ngoài.

Anh không tin ở mắt mình, anh dốc ngược chiếc lọ, nước trong lọ chảy xuống thấm vào lòng cát khô. Anh nghe xôn xao trong tâm hồn. Vừa đưa miệng lọ ngửa lên, giọt nước mắt vô tình rơi vào lòng chai, nước lại từ từ dâng lên.

Anh sửng sốt vì hiện tượng lạ lùng, nhưng chính lúc ấy trí khôn anh trở nên minh mẫn. Anh hiểu vì sao lọ đã đầy. Chỉ có nước mắt mới làm chiếc lọ đầy.

Và rồi hình ảnh câu chuyện người con hoang đàng lại trở nên sống động trong tâm hồn anh. Và anh đã hiểu tại sao chỉ có nước mắt mới làm đầy cái lọ.

Và Lời cha già năm xưa trong tòa giải tội lại vang vọng bên tai: tội của con được tha khi con đổ nước đầy cái lọ này!”

Anh nhìn lọ nước sóng sánh đầy nước. Một cảm xúc mãnh liệt dâng trào ứ ngập tâm hồn. Anh chạy đến ôm lấy tượng chịu nạn không nói được lời nào, xúc động cực độ. Anh nức nở khóc, khóc như một đứa trẻ: Lạy Chúa, xin thương xót con.

Đang khi đó, ở các thành phố lân cận, người ta treo hình anh khắp nơi, họ đang lùng bắt một tên tù vượt ngục.[3]

Kính thưa ông bà anh chị em, đó là câu chuyện giọt lệ của lòng sám hối. Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến. Amen

————————–

[1] Giuse Đinh Lập Liễm

[2] André Louf, Au gré de sa grâce (buông theo ân sủng),trg.97

[3] Nguyễn Tầm Thường, Đường về Thượng trí trg.111-117

 

32. Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An

Khủng hoảng là cơn bệnh da diết và trường kỳ của mọi người, mọi gia đình, mọi tôn giáo, mọi quốc gia và trong mối bang giao quốc tế. Khủng hoảng kinh tế khi gia đình hay cộng đồng hoặc quốc gia thiết hụt vì chi trội hơn thu và nạn thất nghiệp cao. Khủng hoảng tinh thần khi gia đình, xã hội có những cuộc tranh cãi, chia rẽ và hận thù. Khủng hoảng an ninh khi tranh chấp xẩy ra và hai nước cùng động binh chuẩn bị chinh chiến. Khủng hoảng đức tin khi tín hữu coi nhẹ luật mến Chúa và yêu tha nhân để dấn thân vào công tác chống đối, chỉ trích, xuyên tạc, tạo tị hiềm, và gây chia rẽ từ hạ tầng cơ sở là cộng đoàn và giáo xứ, lên đến giáo phận và giáo đô Rôma. Khủng hoảng tu trì khi cảnh “cá đối bằng đầu” thịnh hành theo thuyết tự do cá nhân; khi mục đích tối thượng là “nên thánh theo lời khuyên Phúc âm” bị sao nhãng và đặt nhẹ; khi tam đức như đức khó nghèo, vâng phục và trinh khiết không còn được tôn trọng và tuân giữ. Khủng hoảng mầu da hay sắc tộc khi các sắc dân đứng lên tranh đấu, bạo động, chém giết.

Mỗi năm vào ngày thứ Năm tuần thánh tại một số nhà thờ Chính toà trên nước Mỹ, đang khi Giám mục và các linh mục đồng tế bên trong thì bên ngoài, phong trào tranh đấu biểu tình và đòi quyền cho phái nữ được tham dự vào chức linh mục thừa tác như nam giới trong Giáo hội hò la và giận dữ. Cuộc khủng hoảng này đang được đội lốt dưới chiêu bài “trọng nam khinh nư “và “đòi bình đẳng” trong Giáo hội. Nhiều lần Đức Giáo hoàng đã kiên nhẫn lắng nghe, giải thích và dùng hình ảnh tuyệt vời và thế đứng đặc biệt của Đức Maria như mẫu mực và hướng đi cho phụ nữ. Maria không là linh mục, nhưng là mẹ của linh mục. Maria là phàm nhân, nhưng là Mẹ Thiên Chúa. Maria không là Cứu Chúa, nhưng là Đấng Đồng công cứu chuộc. Maria không dám tự nhận hay đòi một danh xưng cao sang nào, trái lại Maria khiêm tốn thưa “này tôi là tớ nữ Chúa, tôi xin vâng nhận Thiên ý.” Khủng hoảng trong lòng Maria như thế được giải kết trong vâng phục ý Chúa và trong ý thức thân phận hèn mọn của mình.

Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai đã vạch mặt chỉ tên những người lạm dụng và thao túng tôn giáo. Họ tạo cuộc khủng hoảng bè phái và dùng tôn giáo như khí cụ đấu tranh. Họ chia thân thể mầu nhiệm Đức Kitô ra những phái nhóm khác nhau để thủ lợi. Họ dùng tên các tông đồ để gây thanh thế cá nhân và tạo mâu thuẫn, đối kháng và chia rẽ trong cộng đồng và giáo hội. Cơn khủng hoảng giáo phái từ đó tiến triển theo cấp số nhân và hôm nay trong cộng đồng Kitô hữu (Tin lành, Công giáo và Chính thống) có khoảng chừng 400 giáo phái khác nhau. Trong Giáo hội Công giáo, tuy sự hợp nhất còn duy trì được, nhưng cũng có khoảng vài trăm dòng nam nữ biệt lập. Tất cả đều vì Chúa và các linh hồn. Tất cả đều được nuôi sống nhờ lòng hảo tâm và dâng cúng của các tín hữu. Cơn khủng hoảng muôn đời sẽ không giải quyết được vì tín hữu thì cầu cho được “hằng ngày dùng đủ”, và họ xử dụng cái dùng đủ ấy để cung cấp sự giầu sang và xây dựng các lâu đài, cơ sở cho các dòng. Từ đó các dòng trở nên gánh nặng cho tín hữu. Thế hệ nầy sang thế hệ khác tiếp nối nhau giúp đỡ, và dâng cúng cho Giáo hội nói chung và làm giàu cho các dòng nói riêng mà vẫn không sao dập tắt cơn khát.

Thần học cứu rỗi của Đức Kitô khai mạc bằng lời “hãy hối cải vì nước Trời đã gần” quả thật đang bị khủng hoảng do sự thiếu khả năng và thiện chí rao giảng. Đồng thời hình ảnh nước Trời đang lu mờ và mất hút trong cơn sốt vật chất miên man và vô độ của con người. Tiên tri Isaia đã phóng lên không trung ánh sáng vĩ đại của Đức Kitô (bài đọc1). Ánh sáng ấy đáng lẽ phải giải thoát nhân loại và đưa nhân loại vào cõi sống. Nhưng khủng hoảng là ách đang đè trên vai họ, là gậy của kẻ lạm thu họ chưa bị bẻ gẫy và đang thao túng nên ánh sáng chưa tỏ rạng đủ cỡ. Ánh sáng ấy sẽ chỉ thực sự tỏ soi khi những giầy trận, những áo choàng rướm máu, những ách gông nặng hay nói chung là các khủng hoảng trở thành mồi lửa. Khi ấy mọi dân và cả những ai đang ngồi trong bóng tối sự chết mới thấy một ánh sáng vĩ đại và huy hoàng. Hoa trái của ánh sáng huy hoàng sẽ là “đồng tâm hiệp nhất… “và kết đoàn trong một thần trí và một tâm tình (bài đọc 2). Thiếu đồng tâm, hiệp nhất, một thần trí và một tâm tình thì tứ phương còn đang bị thiêu đốt bởi khủng hoảng!!!

 

33. Nước Trời đã đến gần – Jos. Hồng Ân

Loan báo Tin Mừng Nước Trời là sứ điệp quan trọng, nên Chúa Giêsu đã quên ăn, quên ngủ, không quản chi mệt nhọc, vất vả đi khắp các làng mạc, thành thị loan báo Tin Mừng, mời gọi mọi người ăn năn sám hối, đón nhận Nước Trời để được ơn cứu độ. Chúa còn chọn gọi và sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân nước.

Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17). Chúa Giêsu muốn cho thấy tầm quan trọng của Nước Trời, điều kiện căn bản để đón nhận Nước Trời là phải sám hối, không sám hối thì không thể vào được Nước trời, Nước Trời chỉ dành cho những ai biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, sửa đổi đời sống để nên hoàn thiện và cầu xin Chúa tha thứ. Điệp khúc này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong các lời giáo huấn của Ngài. Có trở về, có thay đổi, có sám hối con người mới vào được Nước Thiên Chúa. Sám hối là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin Kitô giáo. Sám hối còn là chìa khoá để vào Nước Trời.

Chúa Giêsu dạy chúng ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết, còn mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau (x. Lc 12, 31). Ngài còn dạy: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12, 33). Nước Thiên Chúa là cùng đích đời người nên có giá trị tuyệt đối, phải đặt lên trên hết mọi sự, phải sẵn sàng hy sinh tất cả và bằng mọi giá để vào được Nước Trời (x. Mt 13, 44-46). Thánh Phaolô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Vì vậy, để vào được Nước Trời, chúng ta cần phải sám hối, từ bỏ những gì là xấu xa tội lỗi, từ bỏ những gì ngăn cản ta tìm kiếm Nước Trời. Từ bỏ những gì nước trần gian, nước của sa tan lôi kéo chúng ta như: tiền của vật chất, danh vọng địa vị, thú vui xác thịt. Chúng ta phải luôn chiến đấu với ba thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt.

Sau khi kêu gọi dân chúng sám hối để đón nhận Nước Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ, để các ông đi theo Người, cộng tác với Người rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Ngài bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 18-19). Các ông không so đo tính toán, không ngần ngại lên đường đi theo Chúa: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4, 20). Chúa gọi các ông đi theo Người, không phải để thành lập một tập đoàn kinh tế hay chính trị. Nhưng là để các ông học hỏi nơi Người cách sống và làm việc, tất cả vì công cuộc loan báo Tin Mừng Thiên Chúa, tất cả vì hạnh phúc, vì phần dỗi của con người.

Chúa đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Ngài không chỉ rao giảng trên môi miệng, mà còn bằng việc làm cụ thể, “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 4, 23). Chúa rao giảng và chữa lành bệnh hoạn, tật nguyền phần hồn, phần xác, để giúp con người nhận ra giá trị đích thực của Nước Trời là được bình an hạnh phúc, không còn đau khổ, bệnh tật, không phải bom chen, cạnh tranh… Vì đó là sứ điệp quan trọng, nên trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).

Ngày nay, tiếng Chúa nói “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” vẫn còn vang vọng bên tai của chúng ta. Chúa vẫn kêu gọi, vẫn chữa lành để ta nhận ra chân giá trị của Nước Trời. Vậy mà ta vẫn bưng tai bịt mắt không nghe cũng chẳng nhìn, cho là Nước Trời còn xa tít trên chín tầng mây, nên không quan tâm, không để ý, không xem xét, vẫn mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, không đáp lại lời mời gọi của Chúa, không chịu sám hối, vẫn tiếp tục đi trên con đường tội lỗi, vẫn tìm kiếm khoái lạc, tìm hưởng thụ, sống bất công, điêu ngoa, gian dối, lừa lọc, giận hờn ghen ghét, mưu mô sảo quyệt, đội trên đạp dưới làm hại anh em. Nhiều khi đi làm tông đồ cũng dựng bè kéo cánh, cũng tranh giành sự ảnh hưởng, tranh giành chỗ đứng, tranh giành nơi làm việc, dèm pha, nói xấu đủ điều…

Là Kitô hữu, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa, biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, từ bỏ tất cả những gì là tội lỗi xấu xa, quay trở về với Chúa, cầu xin Người thứ tha, để ta đón nhận Tin Mừng Nước Thiên Chúa và hưởng ơn cứu độ Người ban. Chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa ra đi loan báo Tin Mừng, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để đón nhận Nước Trời.

 

34. Suy Niệm Chúa Nhật 3 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)

Tin mừng Mt 4: 12-23 Đối với Chúa Giêsu sám hối là hành động phải khẩn trương không chờ đợi, là việc làm thường xuyên…

  1. Lời của Thánh Phaolô ngay ở đầu thư thứ nhất gởi cho cộng đoàn Côrintô trong phụng vụ Lời Chúa của chúa nhật hôm nay, bộc lộ nỗi niềm chua xót của Thánh nhân về sự rạn nứt chia rẽ trong cộng đoàn tín hữu Côrintô. Tông đồ Phaolô cho biết giữa các Kitô hữu có chuyện bè phái với nhau: “có những luận điệu như: tôi thuộc về Phaolô, tôi thuộc về Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô” ( 1 Cr 1, 12).

Đứng trước bóng tối đang che phủ cộng đoàn Kitô hữu Côrintô, thánh Phaolô khuyên họ can đảm phá tan bóng tối đang bao trùm ra khỏi cộng đoàn. Sức mạnh để chiến thắng bóng tối đó là đời sống hiệp nhất, thánh Phaolô nói: “thưa anh em, nhân danh Đức Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau”(1 Cr 10,10).

  1. Các mối chia rẽ trong cộng đoàn Kitôhữu là thái độ rất nguy hiểm sẽ làm tổn thương nặng nề đến thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Hơn nữa tình trạng sống chia rẽ tự bản chất luôn đi ngược hoàn toàn với ước muốn của Đức Kitô, khi Ngài cầu nguyện cùng ChúaCha cho các môn đệ: “Xin cho chúng nên một”(Ga 17,22). Vì hiệp nhất là khát mong của Đức Kitô, nên thánh Phaolô mạnh dạn nói cho tín hữu Côrintô biết rằng: Đức Kitô không thể nào bị chia năm sẻ bảy (X 1 Cr 10, 13). Bởi vì thánh Phaolô không chấp nhận một người nào khi tự xưng mình thuộc về Đức Kitô, lại xô đẩy người anh em cùng niềm tin với mình ra khỏi cộng đoàn, coi mình như là mẫu mực để phán đoán đức tin và việc làm của người anh em. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự đổ vỡ tất cả mọi nỗ lực của Giáo Hội, trong việc xây dựng tình hiệp nhất.
  2. Bài Tin mừng hôm nay thuật lại sự xuất hiện công khai của Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng Tin mừng. Và những lời nói đầu tiên của sứ điệp Ngài rao giảng đó là sự sám hối: “Anh em hãy sám hối, vì nước trời đã đến gần” (Mt 4,17). Đối với Chúa Giêsu sám hối là hành động phải khẩn trương không chờ đợi, là việc làm thường xuyên trong thời gian của cuộc sống, là thước đo nói lên thái độ thiện chí và khiêm nhường của người môn đệ Chúa Kitô. Hơn nữa sám hối là con đường sẽ hàn gắn mối hiệp thông của người môn đệ với Thiên Chúa là nguyên lý sự hiệp nhất cũng như với anh chị em của mình, là điều kiện để chữa lành vết thương chia rẽ trên thân mình Hội Thánh là nhiệm thể Chúa Kitô.
  3. Hằng ngày khi sống giữa anh chị em lương dân, người môn đệ Chúa Kitô luôn cảm thấy mình mang lấy trách nhiệm rất nặng nề là phải nỗ lực trở thành ánh sáng cho lương dân. Đây là tâm tình mà Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất kêu mời: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9, 1). Thật là nghịch lý khi phải mang trong mình sứ mạng thao thức trở nên ánh sáng mà vẫn còn có sự thù hận, xúc phạm, bè phái, phân biệt giữa các cá nhân, các hội đoàn, các xứ đạo với nhau…. Thái độ này sẽ là cản trờ khủng khiếp cho việc rao giảng sứ điệp Tin mừng về sự hiệp nhất, là sức mạnh tàn phá mọi nỗ lực của Hội Thánh trên con đường xây dựng sự hiệp nhất,là vết thương đau đớn hằng in sâu trên thân mình Giáo Hội.
  4. Như vậy để xây dựng sự hiệp nhất với nhau, để niềm khát mong trở thành ánh sáng cho muôn dân, người môn đệ Chúa Kitô hãy can đảm thực hiện cuộc hành trình, đó là hãy để sứ điệp Tin mừng của Chúa Kitô hướng dẫn và ăn rễ sâu vào đời sống hằng ngày là: “hãy sám hối”.Khi sám hối chúng ta sẽ được nhìn thấy tội lỗi của mình, được Chúa tha thứ những bất toàn. Khi biết sám hối chúng ta sẽ có nhiều cơ hội đón nhận tâm tình hòa giải và lời tha thứ của anh chị em, vết thương chia rẽ trong cộng đoàn dễ dàng được hàn gắn. Quyết tâm sám hối chúng ta còn phải không ngừng nỗ lực thực hiện cuộc hành trình sống như Đức Kitô mà thánh Phaolô đã mời gọi: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có tâm tình như Đức Kitô” (Pl 2, 5). Tâm tình như Đức Kitô là:“nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau” (1 Cr 1, 10).

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta kiên trì đi trên cuộc hành trình sám hối và không biết mệt mỏi sống tâm tình như Đức Kitô, nhờ đó những nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất trong Hội thánh luôn được tiến triển tích cực, cũng như giữa thế gian chúng ta sẽ trở nên ánh sáng cho muôn người. Amen.

 

35. Chọn Chúa – Sống với Chúa

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Ấy mà, khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem, bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác, lại nữa, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người. Cho nên, Chúa Giêsu đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người và mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Đặc biệt, việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Cụ thể, bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi Phêrô và Andrê: “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gioan. Thái độ của những môn đệ đầu tiên này thật là mau mắn và dứt khoát. Các ông đã bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già mà đi theo Chúa.

Rõ ràng, Chúa Giêsu lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa. Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến chúng ta hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.

Còn mỗi người Kitô hữu chúng ta thì sao? Ngày hôm nay Chúa không hiện ra để kêu gọi mỗi người chúng ta nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm mời gọi mỗi người chúng ta qua các sự kiện, qua môi trường chúng ta đang sống; và qua những biến cố xảy đến trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Bởi vì qua mỗi biến cố trong cuộc đời là một dấu chỉ của thánh ý Chúa. Mỗi sự việc, mỗi biến cố sứ điệp Chúa muốn chúng ta đón nhận. Vì thế, mỗi người chúng ta cần phải tỉnh thức cần phải mau mắn và dứt khoát để nhận ra ý Chúa và đón nhận sứ điệp của Ngài mà sống. Vậy, chúng ta hãy nhận ra Chúa vẫn đang hiện diện trong những biến cố sự kiện ấy, trong thế giới, giữa cuộc sống chúng ta, để rồi chúng ta tiếp tục đón nhận được niềm vui và ánh sáng chân lý và Tin Mừng của Người. Đức Kitô vẫn đang đến gặp chúng ta ngay giữa những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi phiền sầu của chúng ta, để mời gọi chúng ta đi theo Chúa. Chúng ta được thúc bách rời bỏ chính mình, từ bỏ tính ích kỷ, từ bỏ đi sự cứng cỏi, từ bỏ những thói hư tật xấu để sống với Người mỗi ngày trong mọi sự và qua mọi người chúng ta gặp gỡ. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên dạy: “Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau”.

Với người việt nam, trong những ngày đầu năm mới Canh Tý, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm mới. Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà,v.v… Có người quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạn. Có quyết tâm đó, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm tâm hồn chúng ta. Là Kitô hữu, mỗi người chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa, biết sám hối, biết nhìn nhận tội lỗi của mình, cầu xin Người thứ tha, để ta đón nhận Tin Mừng Nước Thiên Chúa và hưởng ơn cứu độ Người ban. Chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa ra đi loan báo Tin Mừng, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để đón nhận Nước Trời. Đồng thời, hãy dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta chào đón năm mới bình an.

– Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.

– Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình Yêu của Ngài.

– Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người trong đó có ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta. Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới với mọi người xung quanh còn vang vọng trong tâm hồn và cả đời sống của chúng ta. Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một năm mới với cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta. Amen.

 

36. Dọn lòng đón Chúa Xuân đến với gia đình

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Hàng năm cứ vào khoảng ngày 24, 25 tháng Chạp, nhiều gia đình người Việt Nam đi tảo mộ. Người ta ra mộ để đi thăm viếng, vun lại những nấm mồ, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu bổ phần mộ của những người quá cố trong gia đình và các vị tổ tiên nhiều đời trước đó. Vì sao họ phải đi tảo mộ một năm một lần? Vì người ta tin rằng “cao nấm ấm mồ”. Hơn nữa, sửa sang nấm mồ cũng là một trong những việc hiếu đạo của con cái, thể hiện lòng kính trọng đối với đấng sinh thành và các bậc tổ tiên đã khuất. Cho nên, đi tảo mộ mỗi dịp xuân về cũng là thể hiện của tình cảm hướng về với nguồn cội vì “Con người có tổ có tông. Như cây có cội, như sông có nguồn”.

Lời Chúa trong Thánh Lễ Chúa nhật cuối cùng của năm Bính Thân dạy bảo chúng ta hãy chuẩn bị bên trong tâm hồn vì Chúa mùa xuân vĩnh cửu đang đến từng người trong gia đình chúng ta. Cụ thể, Tin Mừng Matthêu kể rằng: “Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Rõ ràng Chúa Giêsu nói sám hối rồi mới tin vào Tin Mừng. Như vậy, việc làm đầu tiên của đức tin là sám hối, ăn năn. Vì chưng con người không ai là trọn lành chỉ mình Chúa là Đấng trọn lành. Chính Thánh vua Đa-vít đã khẳng định: “Lạy Chúa, Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51,7). Cho nên, Chúa Giêsu trước khi về trời, Chúa căn dặn rằng: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).

Như vậy, sám hối chưa phải là tấm vé để vào Thiên Đàng nhưng là điều kiện để có đức tin. Đức tin có đó nhưng nó sống hay chết là tùy thuộc cung cách sống đạo, tức sống Lời Chúa ở nơi mỗi người chúng ta trong cuộc sống và trong gia đình chúng ta hằng ngày. Hôm nay, chúng ta quy tụ về đây để dâng Thánh lễ Chúa nhật để cùng với Chúa nhìn lại 365 qua, nhìn vào chính mình, nhìn lại cuộc đời Kitô hữu của mình 365 qua mình sống đức tin như thế nào trong tương quan với Chúa và với tha nhân, nhất là với những người trong gia đình chúng ta? Đức tin của chúng ta đã thật sự sống động chưa? Có nghĩa rằng đã sống trọn lành như lòng Chúa Giêsu mong muốn chưa? Nếu tốt rồi, hãy tạ ơn Chúa, nếu chưa tốt còn nhiều thiếu sót, lầm lỗi thì hãy ăn năn sám hối thật lòng để rồi đến hòa giải với Chúa và với anh em vì Chúa mùa xuân đang đến. Thiết tưởng cũng nhắc anh chị em rằng căn nguyên của sám hối là làm hòa với Chúa và với tha nhân. Đặc biệt năm nay là năm Giáo Hội Việt Nam mới gọi mọi gia đình hãy sống ơn gọi Hôn Nhân Gia Đình, vì vậy, chúng ta cùng nhìn lại đời sống gia đình của chúng ta hầu xin Chúa tha thứ và làm hòa với nhau đó là một hình thức dọn lòng đón Chúa xuân đến gia đình chúng ta trong mùa xuân này và mãi mãi.

Thứ nhất đối với Chúa, hãy sớm đi lãnh nhận ơn hòa giải và dốc lòng chừa tội lỗi để nói như Lời Chúa trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia nói rằng Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta niềm vui hoan hỷ và tăng thêm nỗi vui mừng cho chúng ta vì chúng ta đang đi trong bóng tối tăm nay nình thấy ánh sáng.

Thứ hai hãy làm hòa với những người trong gia đình. Đối với vợ chồng thì vợ chồng là cùng xương cùng thịt với nhau, vợ chồng sống chung với nhau từng giây phút trong đời mà sống chung là có đụng, mắc lỗi là thường tình. Cho nên, khi hai người mắc lỗi với nhau thì ai cũng cảm thấy khó tha thứ. Khi ấy, họ dễ dàng chối bỏ nhau, coi nhau như kẻ thù: “chồng gì anh vợ gì tôi, chẳng qua cái nợ đời chi đây”.  Nhưng bất cứ hôn nào cũng đặc trên nền tảng vững bền là tình yêu. Mà “Yêu nhau vạn sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”. Vì vậy, trong đời sống gia đình chuyện mắc lỗi với nhau, đổ nát là chuyện thường tình vì con người chứ đâu phải là thánh. Xin nhớ cho rằng trong chuyện đổ nát ấy nếu vợ chồng biết tha thứ, biết thông cảm cho nhau thì tình yêu gia đình ấy bền chặt và thăng tiến. Cho nên, ông bà có câu: “tưởng rằng đá nát thì thôi, ai ngờ đá nát nung vôi là nồng”. Còn Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy: “Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau”. “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,12-14).  Còn đối với con cái, ông bà ta có câu: “Nước mắt chảy xuống, hổ dữ không ăn thịt con”, các ngài muốn nói rằng cha mẹ luôn yêu thương con cái và sẵn sàng tha thứ vô điều kiện. Còn Lời Chúa dạy: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,1-9). Vậy, hỡi những kẻ làm con, hãy xét mình xem, chúng mình đã thi hành điều răn thứ 4 một cách trọn hảo chưa, nếu có ở mức độ nào? Nếu chưa thì mau mau ăn năn và xin lỗi cha mẹ, làm hòa với cha mẹ mình đi để được Chúa mùa xuân giáng phúc cho chính chúng ta.

Cuối cùng, đối với chính mình, tôn tử dạy các đồ đệ mình rằng: “tri kỷ tri bỉ”, biết mình biết ta trăm trận trăm thắng. Biết mình tức luôn sống trong tư thế sẵng sàng, tỉnh thức mọi lúc để khỏi sa chước cám dỗ, khỏi phạm tội với Chúa và tha nhân. Nếu có lỡ phạm tội hãy tỉnh thức, sám hối ăn năn trở về với Chúa để được hòa giải với chính mình và với Chúa.

Xin cho Lời Chúa hôm nay thúc bách mỗi người hãy siêng năng sám hối để Nước Chúa luôn ngự trị trong từng gia đình trong giáo xứ chúng ta nhờ đó mỗi thành viên trong gia đình là hoa thơm trái ngọt cho Chúa, Giáo Hội và xã hội trong những ngày xuân và mãi mãi. Amen.

 

37. Từ bỏ

Nếu phân tích việc kêu gọi của Đức Giêsu, ta thấy Thánh sử Mátthêu đã sử dụng thể văn kêu gọi đã được sử dụng trong phần Cựu Ước, chẳng hạn việc kêu gọi ngôn sứ Êlia, Êlisê. Trình thuật này không nhắc đến cũng như không hề quan tâm đến khía cạnh tâm lý nhằm làm nổi bật đến lời kêu gọi của vị tôn sư, và việc đáp trả đầy gắn bó và tin tưởng của các môn đồ. Chỉ cần một lời bảo: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành lưới người như lưới cá”. Cũng thế, người môn đệ lý tưởng, kẻ từ bỏ mọi sự không chút do dự, không một lời biện bạch, mà tuyệt đối tin theo và nhanh chóng đáp trả, được thể hiện qua hai chữ “lập tức”. Nhưng để trở thành một môn đệ lý tưởng, trở thành “ngư phủ bắt người”, nghĩa là thành kẻ rao giảng và chứng nhân nước trời. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ tương lai trước tiên phải biết hy sinh từ bỏ.

Điều nổi bất nhất nơi các môn đệ được Chúa kêu gọi đó là sự từ bỏ, được thể hiện qua việc đáp trả của các môn đệ. Sau khi nghe Đức Giêsu kêu gọi hai môn đệ Phêrô và Anrê “đang quang chài” lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Cũng thế, ông Giacôbê và Gioan đang vá lưới với cha cũng lập tức bỏ thuyền, bỏ cha lại mà đi theo Người. Chúng ta dễ dàng thấy được các tông đồ không những chỉ từ bỏ vật chất, mà còn từ bỏ cả bản thân từ bỏ cả tình cảm.

Trong một xã hội văn minh vật chất, sống một nếp sống chỉ biết hưởng thụ, làm cho con người chỉ còn biết mình chỉ còn biết chủ nghĩa cá nhân, biết phung phí tiền bạc như nước mà không bao giờ màng đến hay quan tâm đến nhu cầu của tha nhân. Một nền văn minh hưởng thụ đó được đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là “nền văn minh sự chết”. Thử hỏi nền văn minh như thế sẽ đưa con người đến đâu, bao nhiêu người dám từ bỏ để nghe theo tiếng Chúa gọi mà quảng đại hy sinh cho lý tưởng cao cả như các tông đồ xưa. Các ngài cũng có nghề nghiệp, có người thân, và có người còn có cả gia đình vợ con…nhưng sau khi nghe tiếng Đức Giêsu gọi các ngài đã “Lập tức” từ bỏ để đi theo Người, không cần một điều kiện, không cần một đòi hỏi. Một điều thật hay là khi đáp trả tiếng Chúa gọi các ngài vẫn chưa biết Đức Giêsu là ai, nhưng nếu có cái nhìn sâu xa chúng ta sẽ thấy họ bị thúc đẩy bởi mãnh lực thốt ra từ lời nói của Đức Giêsu, làm họ không thể cưỡng lại được. Đó chính là động lực Thánh Thần cùng nỗ lực bản thân đã biến đổi các ông từ ” ngư phủ lưới cá” thành “ngư phủ lưới người”.

Khi nói đến sự từ bỏ bản thân, thì người ta cứ nghĩ mình đã hy sinh cho một lý tưởng cao cả lắm, mình đã dâng cho Chúa nhiều lắm… Thật ra, đó chính là ảo tưởng, vì những gì chúng ta đang có là của Chúa. Thử nghĩ xem, cuộc sống này, thời gian này, vật chất này… tất cả đều do Chúa ban mà có. Nếu chúng ta có hiến thân mình là chúng cũng chỉ là trả lại cho Chúa mà thôi, hay nói đúng hơn từ bỏ là dâng hiến lại cho Chúa những gì thuộc về Ngài mà từ trước đến giờ ta cứ ngỡ là thuộc về mình, mà vô tình hay cố ý chúng ta đã giữ lại cho mình. Vì thế, chính lúc thờ ơ không đáp trả chính là lúc chúng ta đang sống bất công đối với Chúa.

Nhìn lại qua dòng lịch sử của Giáo Hội, có rất nhiều mẫu gương đã tự bỏ mình để Chúa biến đổi thành công cụ trong lòng bàn tay của Người. Đó là những vị thánh đã đi bước trước để chúng ta bước theo. Các ngài đã được biến đổi khi mau mắn đáp trả tiếng Chúa. Từ sự đáp trả này mà các ngài đã trở thành sứ giả Tin Mừng, sứ giả của Chân Lý, thành dụng cụ của tình bác ái. Nhìn vào đó chúng ta có thể khẳng định: mỗi người đều có thể trở thành dụng cụ hữu ích trong lòng bàn tay của Chúa, khi biết chấp nhận theo ý Người trong cuộc sống của mình, như thánh Biển Đức đã mang lại cho thế giới Tây phương về đời sống tiết độ, về sự khôn ngoan và công chính. Thánh Phanxicô đã giải thoát mình khỏi sự ràng buộc vật chất để lòng được thanh thoát phục vụ người nghèo và hết tình yêu mến Chúa. Còn chân phước Têrêsa Calcutta sống với đau khổ bệnh tật quên mình cho đến chết…Vì thế với khả năng Chúa ban chúng ta đừng bi quan, chỉ cần nỗ lực, cộng thêm tình yêu và lòng nhiệt thành thì tất cả chúng ta đều có thể trở thành thành nhân trong cuộc sống ngày nay.

Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta trong mọi hoàn cảnh nhưng chúng ta đã đáp trả chưa, khi Ngài mang đến cho chúng ta lời đề nghị của tình yêu, chúng ta có sẵn sàng đón nhận lời mời gọi của Người để dấn thân phục vụ Giáo Hội và cộng đoàn của Người như những người chài lưới xưa kia ở Galilê không? Hay chúng ta còn qúa cẩn thận rào đón, hoặc chúng ta còn e sợ vì tương lai mông lung khi bước theo Chúa chăng? Nếu có như thế vì chúng ta còn qúa ích kỷ chỉ biết lo cho cái tôi của mình.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thể hiện tình yêu đối với Chúa và tha nhân bằng việc làm cụ thể đó là sự hy sinh và dâng hiến, xin cho ngày càng có nhiều người dám quảng đại dâng mình trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Và nhất là cho giới trở ngày nay biết sống cho người khác và vì người khác hơn nữa. Amen.

 

38. Ánh sáng hiệp nhất – Lm Phạm Quốc Hưng

“Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong bóng tối sự chết, một ánh sáng đã rạng lên”.

Ngày nọ, một vị linh sư gọi các đệ tử của mình lại và hỏi họ: “Khi nào thì ta biết đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?” Các đệ tử liền lần lượt trả lời: “Khi ta có thể thấy được sự khác biệt được giữa con trâu và con bò”; “Khi ta có thể phân biệt được con vịt và con ngan”; “Khi ta có thể nhận dạng được trái cam và trái táo.” Vị linh sư gật gù và nói: “Các con đang nói về ánh sáng tự nhiên như yếu tố phân biệt ngày và đêm. Nhưng chúng con có biết khi nào thì chúng ta có ánh sáng tâm linh để ra khỏi bóng đêm của tâm hồn không?” Thấy họ bối rối, ngài liền nói: “Khi chúng ta nhận ra những người xung quanh thực sự là anh chị em của mình để yêu thương và giúp đỡ họ”.

Trong Tin mừng hôm nay, khi thuật về việc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời truyền giáo công khai và kêu gọi các tông đồ đầu tiên, thánh Matthêô đã giới thiệu Chúa Giêsu như Đấng đã làm trọn lời ngôn sứ Isaia đã nói trước đây: ” Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong vùng bóng tối sự chết, một ánh sáng đã rạng lên” (Mt 4:16 & Is 9:1).

Theo đó, Chúa Giêsu chính là ánh sáng đem lại sự sống thần linh và tình yêu hiệp nhất cho nhân loại, ánh sáng tâm linh mà vị linh sư muốn nói đến trên đây, như chính Chúa đã tuyên bó sau này: “Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Jn 8:12) Thực vậy, Chúa Giêsu đã dạy mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha duy nhất và hết thảy mọi người là anh chị em của nhau nên phải thực sự yêu thương hiệp nhất với nhau.

Sứ điệp đầu tiên của Chúa Giêsu thực là ngắn ngủi vì được tóm gọn trong một câu: “Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4:17)

Sự hối cải mà Chúa Giêsu muốn mói đến ở đây chính là việc chúng ta phải bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sáng ban ngày của yêu thương và hiệp nhất. Vì tội lỗi suy cho cùng chính là sự phá hủy liên hệ yêu thương hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, để từ đó dẫn đến sự chia rẽ rạn nứt nơi chính nội tâm con người và giữa con người với nhau.

Chúa Giêsu đến trần gian không có mục đích gì khác hơn là khôi phục lại sự hiệp nhất hài hòa giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa con người với nhau, và chính nơi tâm hồn mỗi người. Sự hiệp nhất trong tình yêu này chính là lý tưởng của Chúa Giêsu và là điều Ngài hằng tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha để trở nên hiện thực như lời cầu nguyện hiến tế của Ngài: “để hết thảy chúng nên một” (Jn 17:21)

Và Chúa Giêsu đã phải trả giá cho sứ mạng này bằng sự sống, sự chết và sự sống lại của chính Ngài. Ngài đã trở thành chính sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, cũng như là nguyên lý tạo thành sự hiệp nhất giữa con người với nhau và nơi chính bn thân mỗi người. Chấp nhận Chúa Giêsu có nghĩa là chấp nhận ánh sáng sự sống, ánh sáng dẫn ta bước đi trên con đường yêu thương hiệp nhất.

Các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi trong Tin mừng hôm nay là những người được mời gọi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất ấy. Thời gian các ông theo Chúa là thời gian các ông được Chúa huấn luyện để hối cải từ một lối sống chia rẽ, ghen tương, đố kỵ đến một cuộc sống yêu thương hiệp nhất. Dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô cũng không gì khác hơn là tình yêu hiệp nhất: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau” (Jn 13:35). Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng được đánh dấu bằng tình yêu hiệp nhất này: “Ngày ngày họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân, lòng hân hoan, dạ đơn thành” (Acts 2:46)

Theo gương Chúa Giêsu, trong bài học hai của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô – vị tông đồ dân ngoại – đã kêu gọi các tín hữu tiên khởi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất trong đời sống cộng đoàn và tỏ dấu quan tâm về sự chia rẽ bè phái đang diễn ra nơi họ. Thánh Tông đồ viết: “Hỡi anh em, nhân Danh Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng ý với nhau hết thảy, đừng để có sự chia rẽ trong anh em, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một tâm trí, cùng một quan điểm” (1 Cor 1:10).

Trong ánh sáng của Chúa Kitô, thánh Phaolô nhận ra tất cả tín hữu đã liên kết chặt chẽ với nhau và làm nên một thân thể duy nhất nơi Chúa Kitô nhờ Thần khí Người. Tất cả mọi sự chia rẽ trong cộng đoàn Hội thánh đều là những hành động chia cắt chính Chúa Kitô. Sự chia rẻ bè phái xảy ra trong Hội thánh ở Corinthô là vì các tin hữu không đặt trọn niềm tin vào Chúa Kitô nhưng lại dựa vào uy thế của các vị lãnh đạo khác nhau. Đây là dấu chỉ cho thấy đức tin của các tín hữu ở đây còn là một đức tin ấu trĩ què quặt, một đức tin chưa trưởng thành vì không dựa vào Chúa Kitô mà chỉ bám vào tình cảm cá nhân dành cho người này hay người khác.

Mới đây, một giáo dân ở một giáo xứ nọ cho tôi hay là bà và gia đình cảm thấy chán nản buồn rầu bỏ cả xưng tội chịu lễ như muốn mất đức tin chỉ vì có sự thay đổi cha xứ, vì linh mục ở giáo xứ bà không làm gương về sự yêu thương hiệp nhất như các ngài thường giảng, và vì có sự chia rẽ bè phái trong giáo xứ.

Tâm sự của bà đã cho thấy niềm tin của bà chưa phải là một niềm tin trưởng thành vì còn lệ thuộc quá nhiều vào tư cách của các chủ chăn mà chưa đặt trọn nơi Chúa Kitô. Nhưng sự kiện này cũng cho thấy sự yêu thương hiệp nhất là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của một cộng đoàn Kitô hữu. Thiếu yêu thương hiệp nhất, đời sống cộng đoàn trở nên buồn nản và có thể dẫn đến sự tan rã của cộng đoàn. Vì vậy, bổn phận của mỗi người trong cộng đoàn Kitô hữu là phải dấn thân hy sinh để xây dựng tình thương và hiệp nhất trong gia đình và cộng đoàn, phải quên mình và từ bỏ những ý riêng để gìn giữ sự hiệp nhất trong Chúa với tha nhân.

Khi thấy sự hiệp nhất yêu thương của gia đình, cộng đoàn hay giáo xứ bị suy thoái và tổn thương, mỗi người cần phải xét mình và cố gắng từ bỏ tất cả những gì có thể làm thiệt hại đến sự hiệp nhất yêu thương. Việc bỏ bê các việc đạo đức hay các sinh hoạt trong cộng đoàn và nhất là việc nói hành nói xấu nhau lúc này không giúp ích gì mà chỉ gây thêm tội trước mặt Chúa. Trái lại, đây là lúc mỗi người trong cộng đoàn càng phải khiêm nhường và khoan dung nhẫn nại hơn trong cách đối xử với nhau, phải nỗ lực tha thiết hơn trong đời sống cầu nguyện, và phải siêng năng đến với Chúa Giêsu Thánh thể là nguyên lý của sự hiệp nhất trong cộng đoàn để xin Ngài tái tạo và củng cố sự hiệp nhất nơi cộng đoàn.

Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng tái tạo hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người cũng như hiệp nhất giữa con người chúng con với nhau, nhờ lời Mẹ Maria chuyển cầu, xin Chúa giúp chúng con được ơn hối cải đểtừ bỏ tất cả những cảm nghĩ, lời nói và hành động nào có thể làm tổn thương sự hiệp nhất của chúng con với Chúa và với nhau. Xin Chúa giúp chúng con biết nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất trong mọi môi trường chúng con sống. Xin soi sáng cho chúng con nhận biết rằng mọi người chúng con là anh chị em với nhau vì có cùng một Cha trên trời, và cùng là chi thể của nhau, để chúng con luôn sống như những người con thảo của Chúa Cha và những chi thđích thực của Nhiệm thể của Chúa. Amen.

 

39. Bóng tối và ánh sáng

Mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp những động từ diễn tả những hành động xem ra rất bi quan như: bị nộp, lui về, rời bỏ. Ai mang những hành động bi quan đó. Thưa chính là Gioan và Chúa Giêsu: Gioan thì nộp cho vua Hêrôđê, Chúa Giêsu thì phải âm thầm rút lui khỏi Galilê và rời bỏ Nazareth . Có vẻ như Gioan và Chúa Giêsu là những con người thua trận trong một trận chiến giữa bóng tối và ánh sáng.

Gioan là người công chính. Suốt cuộc đời, ông đã sống và làm chứng cho sự thật. Ông không ngừng kêu gọi con người ăn năn sám hối , từ bỏ con đường tội lỗi, kịch liệt lên án những hành động loạn luân của vua Hêrôđê . . để rồi cuối cùng ông bị nộp vào tay kẻ gian ác như những con người thua trận bị bắt làm tù bình vậy. Gioan không phải là ánh sáng nhưng không thuộc về ánh sáng và chiến đấu cho Sự Sáng. Nhưng xem ra Bóng Tối đã chiến thắng Sự Sáng và khống chế Sự Sáng. Sứ vụ làm Tiền Hô, làm người dọn đường cho Đấng Thiên sai đến của Gioan chấm dứt với việc bị bắt vào tù và chờ đến ngày bị kẻ ác giết chết. Cuộc hiến giũa bóng tối và ánh sáng vẫn tiếp diễn. Khi sứ vụ của Gioan kết thúc, thì sứ vụ của Đức Giêsu bắt đầu. Sự khởi đầu của Đức Giêsu cho sứ vụ của mình xem ra cũng chẳng sáng sủa gì. Khi ở Giuđêa, Đức Giêsu bị nhóm Sa-đốc và Biệt Phái chống đối. Họ đã bắt giam Gioan Tẩy Giả thì cũng sẽ tới lúc họ sẽ bắt giam d. Vì thế, khi Gioan bị bắt, Đức Giêsu tạm lánh mặt khỏi vùng Giuđêa và lui về Miền Bắc là Gialilê.

Sự cứng lòng và thành kiến của Dân miền Giuđêa là căn cớ cho Đức Giêsu rao giảng cho dân ngoại trong vùng Duyên hải thành Capharnaum ở Galilêa. Nhưng khi đến Galilêa, Đức Giêsu cũng không chọn Nazareth là quê hương của Ngài để rao giảng mà ngài lại chọn Capharnaum. Lý do tại sao thì Tin mừng cũng đã cho chúng ta biết trong đoạn văn tường thuật về việc Chúa Giêsu về quê hương Nazareth của mình để rao giảng. Chính Ngài đã phải mở miệng nói rằng : “Không một tiên tri nào được đón tiếp và tôn trọng tại quê hương của mình”. Việc Gioan Tẩy Giả bị nộp cũng liên kết với việc Đức Giêsu bị nộp sau này, vì đó là chương trình của Thiên Chúa Cha. Thánh Mathêu cố ý dùng động từ “bị nộp” để nói về Gioan Tẩy Giả trong đoạn Tin mừng này, cũng như nói về việc Đức Giêsu “bị nộp” sau này (Mt 17, 22) cho ta thấy được Gioan và Đức Giêsu có cùng chung số phận; số phận của những con người một lòng sống cho sự thật và một lòng tuân theo Thánh ý của Chúa Cha.

Đức Giêsu khởi đầu ngay khi Thiên Chúa cho sứ vụ của Gioan Tẩy giả kết thúc. Điều này cho chúng ta thấy được là 2 sứ vụ của Gioan và của Đức Giêsu có liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một chương trình của Thiên Chúa. Việc Gioan Tẩy Giả bị nộp cũng liên kết với việc Chúa Giêsu bị nộp sau này, vì đó là chương trình của Chúa Cha. Thánh Mathêu cố ý dùng động từ “bị nộp” nói về Gioan Tẩy Giả trong đoạn Tin mừng này cũng như nói về Chúa Giêsu cũng sẽ bị nộp sau này nhằm cho chúng ta thấy được số phận của Gioan Tẩy giả cũng như của Chúa Giêsu, số phận đầy bị thương trước mặt người đời của những con người sống cho Sự thật và một lòng vâng theo thánh ý của Thiên Chúa.

Nhìn vào số phận của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giêsu, ta càng tin tưởng vào chương trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Mọi sự diễn ra trong cuộc đời này đều nằm trong sự quan phóng của Thiên Chúa. Là người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta rồi cũng sẽ đi trên con đường Đức Giêsu đi, chúng ta cũng sẽ chịu cùng chung số phận với Ngài trong những công việc nhằm minh chứng cho Sự thật hay thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha trong cuộc đời này. Sống cho Sự thật, chiến đấu cho Sư sáng, cho vinh quang của Nước Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ phải rất hy sinh và sẽ mang nhiều thương tích nơi mình, thậm chí có thể mất mạng sống của mình nữa. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào Đức Giêsu. Con đường mà Ngài đã qua chắc chắn làm cho nhiều người ngán ngại và tháo lui, nhưng vinh quang Phục sinh vô cùng vinh hiển của Ngài đang chiếu sáng khắp mọi nơi và đang mở rộng cửa để đón chờ những người con trung thành của Ngài tiến tới.

Đừng sợ bị chống đối, bị bắt bớ; nhưng hãy cầu nguyện sao cho chúng ta có đủ sức để chiến thắng trong cuộc chiến quyết liệt này. Hãy cảnh giác luôn vì ranh giới của Bóng tối và Aùnh sáng rất gần nhau. Đừng vì nhất đảm mà đầu hàng và tháo lui. Chọn lựa một con đường không có hy sinh, không có ừ bỏ, không có thập giá là chúng ta đã chọn một con đường mà Chúa Giêsu của chúng ta đã không đi qua và không có Chúa ở đó. Hãy bước trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi qua thì mới có thể đạt tới vinh quang Phục sinh và sự sống vĩnh cửu được. Hạnh phúc vĩnh cửu hay trầm luân đời đời là do quyết định của chúng ta bây giờ.

Ước gì đừng có ai trong chúng ta chọn lựa lối bước trên con đường rộng thênh thang mà Đức Giêsu đã không đi qua, nhưng hãy chọn lựa con đường mà Ngài đã đau đớn và cực lòng bước đi lên đồi Calvê ngày nào để được cùng Ngài hưởng vinh phúc Thiên đàng mãi mãi.

 

40. Ơn gọi đâu dành để riêng ai!

(Suy niệm của Lm Giuse Lê Quan Trung)

Có lẽ do khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai về Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã tuyền chọn bốn môn đệ đầu tiên: Simon Phêrô-Anrê-Giacôbê-Gioan, mà sau này cả bốn vị đều trở thành Đức Giám Mục với vị đứng đầu là Đức Giáo Hoàng tiên khởi Phêrô, mà từ đó rất nhiều người, hễ nghe nói tới ơn gọi, là họ nghĩ ngay đến ơn thiên triệu, ơn gọi giáo sĩ, tu sĩ, ơn gọi dâng hiến, ơn gọi “độc thân vì nước trời”!

Cũng từ đó, nhiều thảm cảnh đã xảy ra trong các gia đình, họ tộc: không chấp nhận những đứa con đã đi dự tu, đã vào chủng viện, đã vô nhà dòng, mà còn dám cả gan bỏ Chúa, dám trở lại thế gian để lấy chồng, lấy vợ!

Họ coi đó là một nỗi ô nhục, một vết chàm tím bầm mà muôn đời không cách nào tẩy xóa được. Giận cho họ mà cũng thương cho họ biết bao!

Ý Chúa nào phải chỉ tuyển một ơn gọi đóng khung! Một ơn gọi tách biệt! Một ơn gọi riêng lẻ! Chúa muốn tất cả mọi người đều trở thành người thợ trong vườn nho của Chúa tùy theo khả năng, tùy theo tấm lòng, tùy theo sự lựa chọn của tự mỗi người mà! Không hiểu đúng ơn gọi sẽ không chọn đúng ơn gọi. Không chọn đúng, không thể nào sống đúng! Và nỗi bất hạnh chắc chắn sẽ xảy ra,chỉ là sớm hay muộn thôi!

1) Hạnh phúc đâu chỉ trong đời dâng hiến:

Lựa chọn nào cũng có mất mát. Tuyển lọc nào cũng có rụng rơi. Hạnh phúc nào phải cũng trả giá. Mộng mơ một hạnh phúc vẹn tuyền, toàn hảo, không đau đớn, không đánh đổi, không hy sinh, là một ảo vọng! Ngay bước khởi đầu khi được Chúa gọi mời,với bản chất tự nhiên và nhân bản,ai dám bảo bốn môn đệ tiên khởi đều thanh thản, vui vẻ, phấn khởi lên đường liền? Cũng phải đớn đau từ giã mẹ cha. Cũng phải đắng lòng rời con xa vợ. Cũng phải bịn rịn chia tay bạn hữu. Tình người chia cắt, phải dễ đâu một sớm một chiều! Trình thuật của thánh Matthêu ngắn gọn (Mt 4, 18- 4,22), nhưng sự lựa chọn của các ngài, quyết tâm theo Chúa của các ngài, bỏ lại sau lưng tất cả thân bằng quyến thuộc của các ngài, thật không đơn giản chút nào nếu ta đọc hết cả bốn tin mừng mà bốn thánh sử Matthêu, Maccô, Luca và Gioan đã ghi lại. Không ít lần họ đã bị thử thách mà thử thách đến tận cùng: bằng chính cái chết để thể hiện, để bảo vệ, để giữ trọn và để phát triển niềm tin của mình.

Chúa gọi nhiều, chọn ít! Ai cũng biết điều đó. Nhưng “ít” đây không có nghĩa là loại trừ nhóm không được chọn! Với Chúa, mỗi người Chúa giao những nén bạc riêng, trong những hoàn cảnh riêng, môi trường riêng, khả năng riêng. Hạnh phúc nhất chính là khi ta tìm gặp niềm vui nơi chính ơn gọi, vị trí, chổ đứng của mình trong ý định của Thiên Chúa với sự cộng tác tích cực của mình. Khi mình yêu thích công việc ấy và biết chắc, dẫu lựa chọn đó sẽ có thể một lúc nào đó gây cho mình nhiều đớn đau, nhiều buồn tủi, nhiều cam go, nhưng rồi mình sẽ đủ sức vượt qua vì tình yêu và niềm vui đã đủ lớn để trợ lực cho sự lựa chọn của mình.

2) Hạnh phúc đâu chỉ nếp sống hôn nhân:

Chỉ những ai đã từng nếm trải cuộc sống hôn nhân mới cảm nghiệm rõ một điều: hôn nhân không chỉ toàn là đóa hoa hồng hạnh phúc! Mà trong đó cũng có đủ vị cay đắng ngọt bùi! Không ít người đã quyết tâm hiến dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân trong nếp sống tu trì, nhưng rồi nữa đường gãy gánh, vì không lường trước hết cái giá phải trả của nếp sống ấy. Bởi một chút nản chí sờn lòng vì nhiệt tình phục vụ của mình không được đón nhận hay đáp ứng một cách tích cực, không cậy nương vào Chúa, không đủ tình với Chúa… Bến bờ tựa nương của họ sẽ là những luật bù trừ: đặt tình yêu của mình vào một đối tượng khác! Để rồi khi cơn khủng hoảng dịu lại,qua đi, hiểu được chuyện thì đã muộn màng! Bởi họ không lường trước được: hôn nhân đâu chỉ là những đóa hồng tươi! Gặp lúc nắng, hồng tươi cũng héo!

Ngay thuở ban đầu, Chúa đã liên kết con người bằng tình yêu giới tính, bằng kết hợp âm dương, bằng tình yêu nam nữ. Chính ơn gọi đó đã dẫn dần đến ơn gọi hiến dâng. Ai sống đúng ơn gọi của mình, người đó sẽ tìm thấy hạnh phúc đích thực! Dù ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, cái nào cũng có niềm vui và nỗi buồn, đắng cay và ngọt dịu, khó khăn và dễ dàng của nó. Miễn là ta thực sự yêu chính đời sống của ơn gọi đó, thì mầm hạnh phúc không ở đâu xa.

3) Hạnh phúc còn ở nhiệm vụ Chúa trao:

Ơn gọi hiến dâng, ơn gọi gia đình, là những ơn gọi đặc biệt mà Chúa trao ban và ta tự đón nhận để tìm hạnh phúc cho đời mình. Đã chọn, đừng luyến tiếc! Đã chọn, đừng “bắt cá hai tay”! Đã chọn, đừng ngậm ngùi tủi phận, đừng ân hận dày vò, đừng đắn đo ngó lại! Hạnh phúc nhất là hiểu đúng lời Chúa dạy! Sống đúng lời Chúa trao! Làm đúng lời Chúa dặn! Không dễ, cũng không khó, nếu ta biết: hạnh phúc thật của đời ta không có điểm dừng, điểm tận cùng, điểm kết thúc ở đời này, mà là ở cuộc đời mai hậu.

Làm tròn bổn phận và tìm được niềm vui trong bổn phận, đó đã là hạnh phúc!

Chu toàn nhiệm vụ được giao,là ta đã đáp ứng thật tâm lời mời gọi của Chúa: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Bài ca sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời của một ngư phủ chuyên nghiệp, của một thợ vườn nho lành nghề chính là đời sống tỏa rạng niềm vui và hạnh phúc trong chính đời sống chứng nhân nơi ơn gọi mà mình đang sống, làm tròn những bổn phận: chủ chăn nơi cộng đoàn đức tin, cha mẹ con cái trong gia đình, ban mục vụ, ban hành giáo, ca đoàn, lễ sinh, giáo dân trong giáo xứ và thấy mình luôn bình an, luôn hạnh phúc dù gặp không ít những trắc trở khi sống khi thực hiện những nhiệm vụ đó, là mình đã không bị lệch hướng trên con đường đáp lại lời Người!

 

41. Mọi người là con Chúa cả!

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

Những chuyến đi của con người …

Thuở ban đầu, Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ, Ngài đặt tên cho họ là Adam và Eva. Đó là cộng đồng Dân Chúa đầu tiên, là xã hội đầu tiên của nhân loại. Con người được sống trong một môi trường bình an và hạnh phúc.

Nhưng con người đã bỏ Chúa mà đi.

“Người đàn bà thấy trái cây đó: ăn thì phải ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang đó với mình; ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.

Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa, là Thiên Chúa. (St.36-8).

Đó là chuyến đi đầu tiên của con người rời xa Chúa. Chuyến đi nội tâm đầy bất an và bất hạnh. Chúa vẫn ở bên con người, nhưng lòng con người đã khác, khoảng cách với Thiên Chúa đã xa. Và những ngày đầm ấm hạnh phúc bên Thiên Chúa đã lùi vào dĩ vãng.

Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đên để cày cấy đất đai, tđó con người được lấy ra. Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đên, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giđường đến cây trường sinh. (St.3,23-24).

Và dòng đời cứ thế trôi đi …

Con người lại tiếp tục vương những lỗi lầm, tiếp tục có những chuyến đi lìa xa Tình Chúa. Mầm móng kiêu căng và tham vọng tiếp tục sinh sôi nẩy nở trong thế giới nội tâm con người, Máu và nước mắt, khổ đau và tuyệt vọng tiếp tục tràn lan trong kiếp sống nhân sinh!

Đức Chúa phán với Ca-in: “Aben em ngươi đâu rồi?” Ca-in thưa: “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?” Đức Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giđây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em người, do tay ngươi đổ ra” (St.4,9-11).

Con người càng lúc càng lún sâu vào những suy nghĩ và hành động đen tối, tiến dần đến thái độ chối từ và chống lại Thiên Chúa. Và cũng vì thế, con người càng chia rẻ, phân tán. Không còn một nhân loại hiệp nhất, đệ huynh, quây quần bên Thiên Chúa.

“Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh Ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất”.

Đức Chúa xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây. Đức Chúa phán “Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa”. Thế là Đức Chúa phân tán họ từ chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không xây thành phố nữa. Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Đức Chúa làm cho xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất”. (St.11,3-9).

Và, con người mất dần hình ảnh Thiên Chúa trong lòng họ. Dần dần họ là trở thành Dân Ngoại, không còn niềm tin vào Thiên Chúa.

Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng hình ảnh Thiên Chúa đã bị hiểu sai lầm, lệch lạc, mờ ảo, nhạt nhòa.

Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa với tấm lòng thành tâm, thiện chí, nhưng không biết con đường, không nhận ra hướng đi.

Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng niềm tin hòa lẫn cùng lợi lộc thế tục. Trắng đen, hư thực pha trộn, không biết đâu là chánh, đâu là tà!

Những chuyến đi của Thiên Chúa…

Ngay từ buổi ban đầu, sau khi con người sa ngã, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người, dù rằng con người đã phản bội Thiên Chúa với quyền tự do chọn lựa của mình.

“Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St.3,15).

Để thực hiện chương trình cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn cho mình một “Dân riêng” để chuẩn bị một chuyến đi viếng thăm nhân loại. “Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta”.

Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể. Hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp. (Tv.33,12).

Và, Ơn Cứu Độ đã đến với mọi nước, mọi dân, khởi đi từ Do Thái, dân riêng của Chúa.

Vì Ơn Cứu Độ là của mọi dân tộc, là của con người, Chúa Giêsu không thể chấp nhận sự tự hào đến mức kiêu căng tự phụ của Do Thái, đặc biệt là những người Pha-ri-sêu về việc họ là dân riêng của Chúa. Thái độ ấy dẫn đến hình ảnh một Thiên Chúa chỉ biết đến họ vì chỉ có họ mới xứng đáng và loại trừ tất cả mọi dân tộc khác, những dân tộc mà người Do Thái liệt vào dân ngoại và không được Thiên Chúa đoái thương.

“Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Chúa Giêsu phán:“này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng đã đến giờ – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng người như thế. (Ga 4,19-23).

Chúa Giêsu đã đến với mọi người. Thiên-Chúa-làm-người cứu độ tất cả mọi chúng sinh tin tưởng vào Ngài. Ngài là ánh sáng muôn dân. Ngài đem đến cho nhân loại hình ảnh Thiên Chúa là Cha và rất mực yêu thương con người.

Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. (Mt.4,15-16).

Và, Chương Trình Cứu Độ được tiếp tục mãi cho đến ngày Chúa đến. Chúa Giêsu đã tuyển chọn 12 môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Tình Thương của Thiên Chúa đối với con người. Sứ mạng ấy cũng chính là sứ mạng đem mọi người về với Chúa, đem mọi người trở về địa vị cao cả nhất và nhân bản nhất, đó là được làm con Thiên Chúa.

Có một chuyến đi quyết định, đó là chuyến đi của “Thiên Chúa viếng thăm dân người”. Đó là chuyến đi khởi đầu cho những chuyến đi trên mọi miền đất nước Do Thái.

“Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. (Mt. 9,35-38).

Và, bước theo Thầy Chí Thánh, các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, nhân danh Ngài, các ông đã thực hiện những chuyến đi đến khắp cùng bờ cõi trái đất để làm chứng nhân cho Giêsu, Đấng quy tụ nhân loại về một mối.

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc.16,15).

Tất cả, là vì mục đích: “muôn dân được thuộc về Chúa”, con người được trở về thuở ban đầu: “được làm con cái Chúa”.

Cuộc hành trình niềm tin chỉ cần sám hối và tin vào Chúa Giêsu, Đấng dẫn dắt chúng ta về với Chúa Cha, bến bờ hạnh phúc trong Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa.

“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 18-20).

Cuộc trở về của con người.

Vườn Địa Đàng ngày nào, sau bao nhiêu năm “lưu lạc”, con người được quay trở về, được sống trong Tình Cha – Miền Đất Hứa – sau một đời lâm lụy ở trần gian.

Không còn là Dân Ngoại, Dân Riêng, tất cả là một trong Tình Yêu Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Ki-tô, con người được quay quần trong thế giới yêu thương huynh đệ. Không có con đường nào khác ngoài con đường Tình Yêu mà Thiên Chúa đã vạch ra cho loài người.

Tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng một thần khí để trở nên một thân thể (1Cr.17,21).

Đó là ước mơ của cả nhân loại sống hòa bình, hiệp nhất trong một Chân Lý Tình Yêu. Đó là Vườn Địa Đàng tìm thấy, hạnh phúc vô biên mà con người đã đánh mất ngày nào.

Chỉ một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người. (Ep.4,5-6).

Lạy Chúa,

Xin cho niềm tin vào Giêsu được lan tràn khắp địa cầu,

Xin cho mọi người chúng con

can đảm loan truyền niềm tin vào Thiên Chúa,

Xin hiệp nhất chúng con nên một,

trong tình yêu của Ngài. Amen.

 

42. Được gọi – Mar. Phạm Hoàng Đăng

Bài Tin Mừng ngày hôm nay được chia làm ba phần khác nhau, nhưng đều có mối liên kết cuối mỗi phần để tạo nên một bức tranh đẹp trong sứ vụ của người mục tử đang trên hành trình tìm kiếm đàn chiên của mình.

– Chúa Giêsu rao giảng – Ngài bắt đầu sứ vụ của Ngài

– Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên – Ngài chọn những trợ tá xứng đáng cho Ngài.

– Và Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng – nhưng thêm một chi tiết nữa, đó là chữa bệnh và trừ quỷ.

Cả ba phần đều chứa đựng nhiều cảm xúc của nguời đọc về lòng nhân từ, yêu thương của Chúa. Mọi người bị cuốn vào phần đầu tiên và phần thứ ba nhiều hơn khi Chúa rao giảng, chữa bệnh và trừ quỷ. Nhưng điểm chính trong bản văn Tin Mừng hôm nay lại ở phần giữa, phần mà Chúa gọi những môn đệ đầu tiên.

Lẽ dĩ nhiên không đơn giản mà đường đột Chúa đến gọi các vị ngư phủ mà họ theo, dễ gì phải không. Chúa Giêsu, Ngài biết rõ những nguời mình sẽ gọi là ai, gia cảnh thế nào. Đơn giản là trong những thời gian rao giảng xung quanh vùng biển hồ Galilê này, Người đã quan sát, đã nhận biết đối tượng mà Người sẽ chọn lựa là ai. Và dĩ nhiên ở chiều ngược lại, các ngư phủ cũng biết rõ về cái ông tên Giêsu mà hay đi lang thang dọc bờ biển rao giảng điều tốt lành đó như thế nào, ra sao,…hai bên đã hiểu nhau và giờ chỉ còn chờ một mẫu số chung nữa mà thôi.Rồi thì một ngày đẹp trời nọ, giữa họ đã có mẫu số chung, một mẫu số hoàn hảo.

Bản văn của Matthew không chỉ được đọc và nhìn như là việc gọi đơn thuần, nhưng cần phải được mỗi người để ý và khoanh tròn những động từ có sức cuốn hút mãnh liệt dành cho chính bản thân mỗi người đọc.

“ Thấy, gọi, bỏ, theo”

Những động từ dứt khoát, không do dự từ nơi người gọi và cả người được gọi. nhữngđộng từ đọng lại những suy tư trăn trở cho bất kỳ người Kitô hữu nào, trong bất kỳ bậc sống nào khi đã hiểu những động từ này gắn liền với cuộc đời mình.

Vợ chồng được Chúa thấy và mời gọi họ vào đời sống hôn nhân, và họ cần dám từ bỏ những ích kỷ, ghen tương, mâu thuẫn gia đình mà theo lẫn nhau. Theo với lời hứa chung thuỷ mà họ từng cầm tay nhau thề hứa trước Chúa. Theo để tha thứlầm lỗi cho nhau, để yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày suốt đời nhau.

Ở ơn gọi tu trì hay đời sống độc thân thì lời mời gọi nơi những động từ ở bài đọc hôm nay càng đuợc hiểu và đáp trả mãnh liệt hơn. Chúa đã thấy và mời gọi, Ngài gọi bằng tình yêu, bằng cái nhìn êm ái…và sự đáp trả để được nên thánh cũng bằng những động từ dứt khoát “Bỏ và Theo”. Bỏ -bỏ mọi sự- như ta biết rằng Thánh Phêrô cũng có gia đình, có vợ, con. Nhưng trong bản văn hôm nay thì ta thấy được một cụm từ “ lập tức bỏ” sự từ bỏ không lưu luyến, không vấn vương mà là “ lập tức”- rất dứt khoát.

Cũng có thể là đằng sau đó là một cuộc chia tay, cuộc gặp gỡ ngắn gọn, nhẹ nhàng “ em ở lại, anh đi nhé…”của Thánh Phêrô. Nhưng thực tế cho thấy một sự quyết định dứt khoát theo Chúa của Thánh nhân. Tương tự như với anh em của Giacôbê và Gioan, lại cụm từ “ lập tức bỏ” xuất hiện. hai anh em ông này cũng dứt khoát bỏ thuyền- vật chất thế gian, bỏ cha- tình thân ruột thịt mà đi theo Chúa.

Gần như chắc chắn sẽ có nhiều người phản ánh sự dứt bỏ phũ phàng của các ông. Nhưng điều cốt yếu ở đây và sự khẳng định cụ thể là các ông đã từ bỏ, từ bỏ thật sự để bôn ba cùng Thầy Giêsu. Sự bôn ba bắt nguồn từ việc họ đã được thấy và được gọi. Ánh mắt nhìn mãnh liệt và lời gọi êm ái nhưng dứt khoát.

Ngày nay, những động từ trên cũng vẫn tiếp tục được nhắc đến trong mỗi bậc sống của mỗi người chúng ta. Mỗi người được gọi, gọi từ ngàn xưa vì tình yêu bao la của Chúa. Người được gọi không có gì- không cần phải là đại gia, quan chức, nhưng là bất kỳ ai và vì họ xứng đáng được gọi. Lời mời gọi và đáp trả là của mỗi cá nhân. Chỉ khi bỏ và theo từ khi họ được thấy và được gọi thì họ mới nhận ra rằng họ được Thiên Chúa mời gọi. Cứ như càng học, càng quên, khi theo –khi đáp trả thì mới ngộ ra rằng mình đã theo. Và sự theo được thể hiện nơi lòng trung tín, yêu thương và tha thứ cho nhau trong mỗi bậc sống của mỗi người.

 

43.            Suy niệm của André Sève.

ĐỨC KITÔ Ở NƠI NÀO MÀ KHÔNG CÓ AI BỊ LOẠI TRỪ C

Matthêu thích tạo nên những toàn thể. Trước khi cống hiến cho chúng ta Bài Giảng Trên Núi đầy ấn tượng, ngài tổng hợp công việc truyền giáo của Chúa Giêsu trong cái bước đầu nhiều sóng gió, trong đó cái nhìn khám phá ra những chân trời càng ngày càng rộng lớn hơn. (Tôi đọc đến đoạn 23 bởi vì cắt đứt một bố cục hoàn toàn như vậy là điều đáng tiếc).

Động thái thứ nhất: Chúa Giêsu lui về Galilê, rời Nagiarét để lấy Caphanaum làm cơ sở hoạt động và bắt đầu giảng dạy.

Động thái thứ hai: Chúa Giêsu đi trên bờ hồ và nói với bốn người: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những kẻ đánh lưới người. Từ bỏ tất cả, họ theo Ngài”. Thế là khai sinh một Giáo Hội có bản chất truyền giáo.

Động thái thứ ba: Ngài rảo “khắp” miền Galilê. “Khắp” là từ mấu chốt. “Danh tiếng của Chúa Giêsu đồn ra khắp miền Syri; người ta đem đến cho Ngài tất cả những ai đau ốm; rất nhiều người theo Ngài”. Tầm nhìn không ngừng mở rộng ra và lời trích dẫn tiên tri Isaia rất có ý nghĩa: “Galilê của các dân tộc!”.

Galilê là ngã ba đường nơi có nhiều người qua lại, người ngoại giáo sống lẫn lộn với người Do Thái. Trong khi xác định rằng Chúa Giêsu chọn Galilê để truyền giáo, Matthêu muốn lưu ý ngay tầm vóc của sự cứu độ của Đấng Cứu Thế. Trước tiên được dành riêng cho người Do thái, sự cứu độ sẽ lan tỏa tới tất cả mọi người.

“Ánh sáng đã xuất hiện trên những người ngồi trong bóng tối và sự chết”.

Trước khi lắng nghe chi tiết những lời nói của Chúa Giêsu trước khi xem Ngài hành động, sự suy niệm của chúng ta cần phải có tầm cỡ cần thiết để không bao giờ thu hẹp bất cứ cái gì thuộc về sự cứu độ. Tôi không biết đã đọc ở đâu: “Chúa Kitô ở nơi nào mà không có gì đóng kín, nơi mà không có người nào bị loại trừ”. Tôi vui mừng, nhưng sau đó cảm thấy nực cười: trong lịch sử, nhân danh chính Chúa Kitô, có biết bao nhiêu là bức tường và biết bao nhiêu sự loại trừ.

Những người trẻ tuổi khó mà hiểu được những chia rẽ giữa những người Kitô hữu và những hình thức loại trừ. Ít nhất trên đểm này họ là những người thầy của chúng ta do sự cảm nhận Tin Mừng tế nhị hơn của họ. Biết bao lần tôi đã nghe những người Kitô hữu ở tuổi trưởng thành tỏ ra khinh bỉ một loại người nào đó. Họ nói “Bọn họ!”. Giống như thể có những người được Chúa thương riêng, những người Công Giáo và nhất là những người hành đạo, sau đó là vô số người bị Chúa quên lãng, những người mọi rợ, những quái nhân, những kẻ vô luân, những kẻ không tin có Chúa.

Không, “không tin có Chúa” chỉ có nghĩa khi nói về những người từ chối Thiên Chúa (nhưng họ từ chối Thiên Chúa nào?). Trước mặt Chúa, chỉ có những con cái của Ngài mà thôi. Điều này có khó chấp nhận hay không? Do đâu mà có sự loại trừ cuồng nhiệt như thế?

Có thể là do quan niệm “dân tộc được chọn” ít được giải thích cho sáng tỏ. Ở đây, tôi sẽ không tránh né một câu hỏi làm tôi luôn bối rối: ‘tại sao có sự chọn lựa của Thiên Chúa’. Tôi thường gặp câu hỏi này trong những bài phỏng vấn tôi, khi thì dưới dạng một sự khắc khoải, khi thì đầy tức giận. Người ta nói với tôi: ‘Bạn được sinh ra trong một gia đình Công Giáo, còn tôi được sinh ra trong một gia đình cộng sản triệt để vô thần. Do đó bạn có đức tin, còn tôi thì không. Tại sao Chúa của bạn cho những người này tất cả còn những người khác thì không cho gì hết?’. Tôi không trả lời được. Tôi không biết tại sao thế giới được chia ra thành người Do Thái, người Kitô hữu, người Hồi Giáo, người Phật Giáo, người theo thuyết không thể biết và người vô thần.

Tôi có thể nói lên hai điều. Trước hết khẳng định rằng Chúa ban tất cả hoặc không ban gì hết là sai. Những điều Ngài cho thì khác nhau và Ngài để cho những khác biệt đó hoạt động. Tạo vật của Ngài là một thế giới những sự khác biệt. Những nơi nào có con người hiện hữu thì nơi đó Chúa để mắt nhìn đến người đó. Ngài ban cho người đó những ơn sủng phù hợp với điều người đó làm nhằm hoàn thành nhiệm vụ làm người của họ, cho dù người đó sống vào thời kỳ nào, ở đâu và có nền văn hoá nào.

Tiếp đến, tất nhiên đã có một dân tộc được chọn: dân tộc Do Thái. Và một dân tộc thứ hai được chọn, đó là những người Kitô hữu nối tiếp dân tộc Do Thái (Matthêu nhấn mạnh rất nhiều trên sự liên tục này). Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế được các sứ ngôn loan báo. Ngài là Môisê mới của một dân tộc không biên giới. Người Kitô hữu chỉ được cứu độ để trở thành những kẻ cứu độ, để trở thành những dấu chỉ của sự cứu độ của Chúa Giêsu Kitô được trao ban và được sống bằng nhiều cách mà không có kẻ nào bị loại trừ cả.

Ý tưởng Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người sẽ giúp chúng ta tránh được việc co mình lại cố thủ và loại trừ. Chúng ta chỉ có quyền gọi Chúa Giêsu là “Đấng Cứu độ chúng con” nếu điều đó muốn nói với chúng ta: Đấng Cứu độ mọi người. Trong miền Galilê của các dân tộc đã bắt đầu một sự quy tụ mà không ai có quyền giới hạn cả.

 

44. Nước Trời đang đến

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Không thể phủ nhận một trong những chủ đề chính của lời rao giảng của Chúa Kitô đó là “hãy ăn năn sám hối” (x.Mt 4,17; Mc 1,15). Sám hối ăn năn không chỉ là nhìn nhận sự sai lầm trong thái độ, hành vi của mình, cũng không chỉ là ân hận về những lầm lỗi mình đã phạm, nhưng còn là một sự thay đổi tận căn lối sống của mình. Các nhà chú giải Kinh Thánh thường phân tích hạn từ “Metanoia”, nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng…để khẳng định ăn năn sám hối là thay đổi cách ăn, nếp ở, thay đổi hướng đi, để trở về với Thiên Chúa, sống theo đường lối Thiên Chúa chỉ dạy.

Làm cho một người thay đổi lối sống quả là không dễ chút nào, nhất là khi lối sống ấy đã trở thành nếp do một quá trình hình thành từ lâu. Tuy nhiên, với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể. Và một phương thế Thiên Chúa đã thực thi đó là chiếu giải ánh sáng tình yêu diệu kỳ. Sứ ngôn Isaia đã loan báo xưa: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng…”(Is 9,1). Ánh sáng ấy chính là tình yêu, là ân sủng mà Thiên Chúa đổ xuống trên họ, khi cho họ thoát khỏi ách gông cùm nô lệ. Thánh sử Matthêu đã lấy lại lời của sứ ngôn Isaia để áp dụng vào trường hợp dân chúng vùng Capharnaum, những người đang hưởng phúc lành của Chúa Giêsu, Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38).

Để mời gọi các nhà lãnh đạo cũng như dân chúng sám hối ăn năn, thay đổi đời sống, thì các ngôn sứ ngày xưa thường nghiêng chiều việc cảnh báo về các tai hoạ do Thiên Chúa sẽ đoán phạt nhiều hơn là tình yêu và lòng từ nhân của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước là Gioan tẩy giả cũng như vậy. Ngài nghiêm nghị cảnh báo nhiều người thuộc phái Pharisiêu và phái Sađốc: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống…cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt 3,7-10, x.Lc 3,7-18).

Chúa Giêsu thì trái lại, Người chủ yếu mạc khải về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa để con người cảm mến, tin tưởng trở về. Các Tin Mừng Nhất lãm tường thuật lời rao giảng của Chúa Giêsu khi Người khởi đầu sứ vụ như sau: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Nước Thiên đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15); “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17); “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đó là: ‘Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Tin Mừng thứ tư thì tuờng thuật việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon tại một tiệc cưới ở Cana cho dù trước đó Người nói rằng giờ của Người chưa đến (x.Ga 2,1-12).

Trời càng sáng thì những chỗ bẩn, chỗ nhơ càng lộ rõ. Ân phúc của Thiên Chúa là ánh sáng giúp con người nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa chính là ánh sáng dẫn đưa con người quay bước trở về. Khi biết mình được yêu, được tha thứ, được đón nhận thì tội nhân sẽ can đảm chỗi dậy và đổi thay. Trên con đường chiếu giải ánh sáng thiên linh, Chúa Giêsu mời gọi một số người cộng tác là các tông đồ, các môn đệ. Người đã sai các vị đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời bằng việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ và chia sẻ ơn bình an (x.Mt 10,1-16).

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban và sai Con của Người đến thế gian không phải để luận phạt thế gian nhưng để những ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời (x.Ga 3,16-17). Đến thế gian, một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô đó là mạc khải chân dung Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng đầy quyền năng và cũng là Đấng toàn thiện, toàn hảo, Đấng không chỉ “không dập tắt tim đèn còn khói, không bẻ gảy cây lau bị giập” mà còn “cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân”, Đấng khộng chỉ sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm một con chiên lạc đàn mà còn sẵn sàng giang rộng cánh tay đón nhận đứa con đi hoang trở về, cho dù lý do nó trở về là để kiếm chút cơm canh lót dạ mà thôi (x.Mt 6,43-45; Lc 15).

Có thể nói rằng đường lối của Thiên Chúa chủ yếu là tỏ bày tình yêu để con người cảm mến, tin tưởng mà hoán cải, đổi thay. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nhận ra đây là đường lối chung của Thiên Chúa dành cho người bé mọn, kẻ yếu đuối, người tội lỗi, thấp hèn. Còn với một số ít người xem ra cố chấp, tự hào về tài năng, chức quyền hay về chút công trạng của mình mà ở lỳ trong tội, thì Chúa Kitô có vẻ nghiêm khắc cách khác thường. Nhiều người biệt phái, luật sĩ hay tư tế Do Thái thời bấy giờ ở trong trường hợp này. Và Chúa Kitô đã dùng những kiểu nói đanh thép để cảnh tỉnh họ như “khốn cho các nguơi”, hay “vô phúc cho các ngươi” (x.Lc 6,24-26; 11,37-52; Mt 23,1-36).

Cũng như các môn đệ năm xưa, chúng ta hôm nay được Chúa Kitô mời gọi làm kẻ chài “lưới người như lưới cá”. Để mời gọi tha nhân hoán cải ăn năn không gì hơn là hãy cho họ thấy Nước Trời đang ở giữa họ (x.Lc 17,21), tức là nỗ lực dệt xây một môi trường sống trong tình thương và chân lý, trong bình an và sự liên đới hiệp thông, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thần dữ. “Nếu Tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,21). Khi chúng ta tích cực gieo rắc ân tình, thì một cách nào đó, chúng ta làm cho người yếu đuối, kẻ tội lỗi nhận biết họ vẫn được yêu thương, được đón nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quên mạnh mẻ cảnh báo những ai vì quá tham danh, hám lợi hay vì cao ngạo mà cố chấp và cố tình ở lỳ trong tội, đồng thời gây cớ vấp phạm cho kẻ bé mọn, gây thiệt hại cho những người cô thân, phận bé. Nước Trời thường được Chúa Giêsu ví như bữa tiệc đầy sơn hào hải vị mà Thiên Chúa ban cách nhưng không (x.Mt 22,1-10), nhưng Nước Trời cũng được ví như tấm lưới kéo từ biển lên, cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì bị vứt ra ngoài (x.Mt 13,47-48).

 

45. Suy niệm của Charles E. Miller

ĐỨC KITÔ GI ĐÍCH DANH TÊN CA CHÚNG TA NƠI PHÉP RA TI

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Ngày hôm nay thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi một số tông đồ. Ngài có thể kể câu chuyện này cách chung chung, nghĩa là chỉ thông báo cho chúng ta biết Chúa Giêsu tụ họp một số môn đệ ở chung quanh Người, thay vì ngài trình bày như thế, thánh Matthêu đã cho chúng ta biết tên của các vị tông đồ được Chúa Giêsu kêu gọi. Các tông đồ đó là Simon (sau này tên là Phêrô) và Andrê em của ông. Giacôbê và Gioan em ông. Có một điều gì đó đặc biệt nơi cái tên của chúng ta.

Trên một “sô” diễn trên tivi, có một bài hát diễn tả tình cảm thật đẹp khi chúng ta đi đến một nơi mà mọi người đều biết tên của bạn. Thật hồi hộp và cảm động biết bao khi bốn người dánh cá nghe thấy Chúa Giêsu gọi tên họ, mời gọi họ đi theo Người. Họ phải bịn rịn lắm khi từ bỏ nghề nghiệp, gia đình và nhà cửa để đi theo Chúa Giêsu. Họ đã thấy nơi Chúa Giêsu có điều gì đó rất khác với những chứng nhân trước đó. Phải có ánh sáng đức tin trợ giúp họ, để họ nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa. Nhưng lúc ban đầu ánh sáng ấy không mạc khải cách kỳ diệu như tiên tri Isaia đã tiên tri khi ông viết: “Dân chúng đi trong tối tăm nay đã thấy ánh sáng lớn lao”. Nhưng đó mới chỉ là một ánh sáng mờ nhạt, một ánh sáng cho phép họ có những lúc vẫn còn nghi ngờ ở Chúa Giêsu, có lúc còn chối Chúa, hay bỏ rơi Chúa trong cuộc thương khó của Người. Nhưng ánh sáng đó không hề tắt bao giờ. Đúng hơn, nó đang dần dần lớn lên và khi Chúa Thánh Thần ngự đến vào ngày lễ Hiện Xuống, ánh sáng đó đã trở thành một ngọn lửa chiếu sáng và ấm áp. Sự tận tuỵ đã thay đổi sự nghi hoặc.

Những điều đó cũng đã xảy ra cho chúng ta như thế. Qua Giáo Hội, lúc chúng ta chịu phép rửa tội, Đức Kitô đã gọi đích danh tên của mỗi người chúng ta. Người nói qua giọng vị linh mục: “Anna (hoặc Anrê) Linh (hoặc Long) (hay bất cứ tên nào) Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Chúng ta được trao cho một ngọn nến cháy sáng, biểu hiện cho đức tin của chúng ta. Cho dù lúc đó chúng ta là những đứa bé hay những người đã trưởng thành, chúng ta lãnh nhận ánh sáng đức tin. Đầu tiên ánh sáng ấy chỉ là một đốm sáng mờ nhạt nhưng với bí tích Thêm Sức, bí tích này kiện toàn phép rửa tội, ánh sáng đó trở nên sáng rực.

Với đức tin chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai đến trong thế gian, được thụ thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi tin Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa, Tin Mừng mà chúng ta vẫn tiếp tục lắng nghe Thánh Kinh và những lời giáo huấn khác của Giáo Hội. Chúng ta biết rằng sứ vụ truyền giáo đã dẫn Người lên Giêrusalem, nơi mà Người phải chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Đức tin của chúng ta dạy rằng nhờ việc chúng ta thông dự vào tiệc Thánh Thể, chúng ta được chia sẻ sự kỳ diệu của sự chết và sự sống lại của Con Thiên Chúa.

Chúng ta theo Đức Kitô bởi chúng ta là thành phần của thân xác Người, thân thể mầu nhiệm của Người là Giáo Hội. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tâm tình của Thánh Vịnh 27: “Chúa là ánh sáng và là Đấng Cu Độ tôi, tôi còn s chi ai? Chúa là nơi nương n ca đời sng tôi, tôi còn s gì ai?

Thánh Vịnh viết tiếp: “Mt điu tôi xin Chúa, mt đều tôi kiếm tìm, đó là được cư ng trong nhà Chúa sut đời tôi”. Chúng ta phải luôn luôn trung thành với ơn gọi phép Rửa của chúng ta, để được ở lại trong nhà Chúa là Giáo Hội của Người và đừng bao giờ nghi hoặc, hoặc bỏ rơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã kêu gọi đích danh tên chúng ta để chúng ta trở nên những người tiếp bước của Người.

 

46. Trung tín với Chúa và trung tín với con người

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Bài này cho thấy Chúa Giêsu khởi sự rao giảng Tin Mừng. Người bắt đầu loan báo Tin Mừng về Nước Trời. Việc này làm nổi rõ ngay từ đầu điều mà ta có thể gọi là lòng trung tín của Đức Kitô, trung tín với Chúa Cha và trung tín với con người. Thật vậy, Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng về Nước Trời, chớ không phải một sứ điệp giới hạn về một thứ giải phóng trần gian nào. Làm như thế, Người trung tín với Chúa Cha với chính mình, với Thánh Thần. Đàng khác, Người đi khắp Galilêa, nghĩa là tìm đến với con người tại nơi họ ở và như họ là, Người khai thông những khả năng tốt nhất của họ (kể cả khả năng trở nên Tông đồ). Trong điểm này, Người đã trung tín với con người. Ở đây ta gặp một vấn đề lớn lao, vấn đề này đã được đặt ra cho Giáo Hội trong suốt lịch sử. Đó là: làm thế nào cống hiến tất cả sự phong phú nhân loại cho Phúc Âm và làm thế nào sống toàn bộ Phúc Âm trong thực tại con người? Người Kitô hữu phải hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, đồng thời trọn vẹn là con người, hay nói đúng hơn, trọn vẹn con người bởi vì trọn vẹn thuộc về Đức Kitô. Phải dùng tinh thần Phúc Âm hoàn lại tất cả đời sống con người cho chân lý của nó sự trong sáng, sự sung mãn của nó. Vì Tin Mừng về Nước Trời được loan báo cho toàn bộ đời sống con người.

Đâu là những con đường mà việc loan báo này đi theo?

1) Hãy tr li, vì Nước Tri đã đến gn. Trở lại đi đôi với Nước Chúa điều đó có nghĩa gì? Phải chăng có nghĩa rằng Tin Mừng là lời loan báo về một cuộc thay đổi ách thống trị trên con người? Thật vậy, nếu theo bản chất con người được tự do chọn lựa ông chủ thống trị mình, thì nó luôn luôn có một ông chủ. Nếu nó không chọn Nước Chúa, nó tự buộc mình phải chịu những ách nô lệ (như bản năng, lòng ích kỷ, – tiền tài, quyền lực ma quỷ v, v…). Đức Kitô loan báo cho ta biết chọn lựa những điều giải phóng ta. Người gọi ta chọn lựa Thiên Chúa, tức là sự thống trị của Tình Yêu. Để phục hồi đời sống con người lại tình trạng nguyên vẹn của nó, phải từ bỏ ách nô lệ của sự ác và chọn lựa Chúa làm Đấng thống trị của Tình Yêu. Để phục hồi đời sống con người lại tình trạng nguyên vẹn của nó, phải từ bỏ ách nô lệ của sự ác và chọn lựa Chúa làm Đấng thống trị ta.

2) Cha lành mi bnh tt. Đức Kitô dùng quyền năng của lòng nhân hậu để hỗ trợ lời rao giảng của Người. Những vụ chữa bệnh phần xác, ngoài giá trị riêng biệt nó có, còn biểu thị sự hồi phục con người tinh thần, tức là con người tự gốc rễ của nó. Hành động Đức Kitô nhằm phục hồi trọn vẹn điều mà tội lỗi đã muốn làm hư hỏng, tổn thương yếu nhược, phá huỷ. Đức Kitô trung tín với con người ở chỗ Người hành động để con người trở lại tình trạng nguyên vẹn đầu tiên như Thiên Chúa đã nghĩ tưởng, và như thế Người cũng trung tín với Thân Phụ Người, Đấng đã muốn cho tất cả mọi người khởi đầu từ đó mà trở nên con cái Người.

 

47. Tiếng gọi của Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Năm 1950, mt hi ngh đại din 17 quc gia đã bu Albert Schweitzer làm “người hùng ca thế k. Hai năm sau (1952). Albert Schweitzer được gii thưởng Nobel hoà bình. Schweitzer được toàn thế gii tuyên dương là mt thiên tài đa dng: Ông va là mt triết gia lng danh, mt nhà thn hc ni tiếng, mt s gia đáng kính, mt nhc công sôlô trong dàn nhc và còn là mt bác sĩ tha sai na.

Nhưng đim ni bt nht nơi ông là nim tin Kitô giáo sâu sc. Chính nim tin này đã khiến ông thành “người hùng ca thế k: Năm 21 tui, Schweitzer t ha vi mình là s nghiên cu ngh thut và khoa hc cho đến năm 30 tui, ri s cng hiến cuc đời còn li cho nhng người thiếu thn bng mt hình thc phc v trc tiếp nào đó. Và thế ri, vào sinh nht th 30 ca ông, nhm ngày 13/10/1905, ông đến mt hp thư Paris gi mt s thư v cho b m và bè bn thân thiết nht, báo cho h biết ông sp sa ghi tên vào đại hc để ly bng y khoa, sau đó ông s đi Phi Châu sng như mt bác sĩ tha sai để phc v đám dân nghèo.

Nhng lá thư ca ông lp tc b phn đối ngay. Bà con và bè bn ông đồng lot phn đối d tính mà h cho là điên r ca ông. H bo ông là mt người đem chôn du tài năng đã được u thác cho ông… Tuy nhiên, Schweitzer vn khăng khăng thc hin nhng ý định ca mình. Năm 38 tui, ông tr thành mt bác sĩ y khoa thc th. Năm 43 tui, ông đến Phi Châu m mt bnh vin cnh b rng ca khu vc gi là Phi Châu xích đạo. Ti đây, ròng rã sut hơn bn mươi năm tri, ông đã dùng hết tài năng và sc lc để đêm ngày tn tu săn sóc nhng người dân bn x nghèo nàn bnh tt, vi tt c tình yêu thương và lòng nhân ái. Sau cùng ông đã chết đó vào năm 1965, hưởng th 90 tui.

Thưa anh chị em, động lực nào đã khiến ông Albert Schweitzer quay lưng lại với danh vọng và của cải trần gian để dấn thân làm việc cho đám dân cùng khổ nhất trong đám dân nghèo ở Phi Châu như thế?

Theo lời ông, thì một trong những động cơ thôi thúc ông làm điều đó chính là do ông suy gẫm Tin Mừng của Chúa Giêsu. Ông đã lắng nghe tiếng gọi của Ngài và quyết tâm đáp lại bằng cách dấn thân phục vụ dân nghèo ở Phi Châu. Ông nói: “Tôi không thể hiểu được tại sao tôi lại được phép sống một cuộc đời hạnh phúc như thế đang khi chung quanh tôi còn biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau khổ”.

Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục lên tiếng kêu gọi và đòi hỏi những ai đã nghe tiếng kêu gọi của Ngài phải có một đáp trả dấn thân cụ thể: Hãy sám hối! Hãy sống Tin Mừng Nước Trời! Hãy loan báo Tin Mừng cho đồng bào, cho nhân loại! Có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa gọi. Một thứ tiếng vang lên từ bên trong, nhẹ nhàng nhưng rõ nét, mời gọi nhưng không kém phần thúc bách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh của đời mình, và tứ đó đời mình đổi khác.

Chúa Giêsu gọi tôi như xưa Ngài đã gọi các môn đệ đầu tiên bên bờ hồ Galilê. Chúa vẫn hay gọi con người một cách bất ngờ. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó. Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan, bốn vị này đã từng quen biết ít nhiều với Chúa Giêsu, nghe lời Ngài giảng và thấy Ngài làm phép lạ, nhưng họ không ngờ là một ngày nào đó, Ngài sẽ gọi họ làm Tông đồ. Đức Giêsu đi dọc theo bờ biển như một sự tình cờ. Ngài tình cờ thấy bốn anh em đang làm việc, kẻ quăng chài, người vá lưới. Tất cả ở trong một bầu khí êm đềm và huynh đệ. Đức Giêsu biết việc Ngài sắp làm. Ngài gọi những người Cha muốn. Tiếng gọi của Ngài vang lên thật bất ngờ. Tiếng gọi đưa đến những chia cắt không thể nói là không đau đớn. Các môn đệ đầu tiên đã phải từ giã nghề chài lưới, nghề đã nuôi sống gia đình họ và đã giúp họ trưởng thành, nghề đã đem lại cho họ biết bao kỷ niệm vui buồn. Chấp nhận bỏ nghề là chấp nhận bấp bênh. Các ngư phủ nay phải sống trên bờ, để đi theo một ông thợ mộc cũng đã bỏ nghề! Hơn nữa, họ còn phải từ giã gia đình và họ hàng thân thuộc. Họ đã coi Chúa Giêsu hơn cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tương lai. Thái độ của các môn đệ đầu tiên thật đáng phục. Đó là thái độ lý tưởng của người nghe Chúa gọi, và sẵn sàng theo Ngài ngay lập tức.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu vẫn tiếp tục gọi mỗi người chúng ta hôm nay. Không phải một người đã chết từ 20 thế kỷ gọi chúng ta, nhưng là một Đấng đang sống. Ngài gọi đúng tên từng người trong chúng ta và Ngài muốn giao cho chúng ta một công tác đặc biết. Chúa Phục Sinh hôm nay vẫn cứ mời gọi từng người chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình vĩ đại, đó là chương trình cứu độ toàn thế giới. Tôi có nghe tiếng Ngài không? Tôi có muốn nghe được tiếng của Ngài không?

Nhiều khi chúng ta giả vờ không nghe tiếng Chúa để khỏi phải đáp lại, khỏi phải từ bỏ và đoạn tuyệt. Có nhiều tạo vật đang quấn lấy đời ta, không dễ gì gỡ được: Tiền bạc, sự ổn định, sự thoải mái tiện nghi, chút tiếng tăm địa vị, chút thoả mãn nơi thân xác… Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Ngài như giá trị cao nhất vượt trên mọi giá trị. Phải có tình yêu lớn lao mới có thể từ bỏ lập tức những gì chúng ta đang ôm ấp. Từ bỏ trở thành thước đo tình yêu của ta đối với Thiên Chúa. Đời người Kitô hữu là một cuộc lắng nghe không ngừng những tiếng gọi mời của Chúa. Chỉ những ai biết yêu mới nghe thấy và dám thực hiện ý Chúa tỏ lộ qua từng ngày, từng biến cố của đời mình.

Có thể nói, một trong những hoạt động chính của Chúa Phục Sinh là cất tiếng gọi con người. Ngài không ngừng mời gọi với một sự kiên nhẫn lạ lùng. Ngài gọi con người dưới trăm ngàn hình thức. Không phải chỉ là gọi ai đó đi tu, nhưng Ngài còn gọi cả giáo dân theo Ngài, theo Ngài bằng cách ở lại gia đình và môi trường xã hội để làm chứng cho Ngài, như một Albert Schweitzer, một Kitô hữu, một triết gia, một nhà thần học, một sử gia, một nhạc công sôlô và là một bác sĩ thừa sai. Chúa Giêsu vẫn cứ gọi và lay động trái tim mọi người, kể cả những kẻ chưa biết Ngài. Đời chúng ta là một chuỗi những tiếng gọi của Chúa. Tiếng gọi nào cũng mới mẻ và cụ thể. Nếu chúng ta đáp lại, Ngài sẽ đưa chúng ta đi xa hơn trong tình bạn, qua những tiếng gọi mới.

Các môn đệ đã đáp lại tiếng gọi của Chúa, không phải bằng lời nói, nhưng bằng hành vi từ bỏ thực sự. Chúa không mời gọi mọi người từ bỏ gia đình để sống đời thánh hiến, nhưng Chúa lại mời gọi tất cả chúng ta bỏ tính ích kỷ và cứng cỏi của mình để sống yêu thương tha nhân. Bỏ cái gì ngoài mình, không phải là điều quá khó. Nhưng bỏ chính bản thân mình với những dự tính, ước mơ, điều đó khó hơn nhiều.

Thưa anh chị em, nghe tiếng Chúa, đáp lại bằng cách từ bỏ và đi theo, đó là chu trình mà người tín hữu phải sống nhiều lần trong ngày, trong đời: “Hãy theo Thầy”. Chúa cứ nói với tôi câu đó hoài trong suốt đời tôi, và tôi hiểu rằng theo Chúa là được triển nở trong tự do yêu mến.

 

48. Ánh sáng muôn dân

Thiên Chúa là Ánh Sáng. Đúng thế, sách Sáng Thế Ký kể lại rằng: ngày thứ tư, Thiên Chúa dựng nên các tinh tú trên bầu trời. Ngài xếp đặt chúng để chiếu tỏa ánh sáng cho địa cầu và phân chia ngày đêm. Và như vậy, ngay từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng.

Trong Cựu ước, ánh sáng vốn thường được dùng để nói lên vinh quang của Thiên Chúa.

Thực vậy, Thiên Chúa đã hiện ra với ông Maisen trong bụi gai bốc cháy:

– Bấy giờ ông Maisen nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: mình phải lại xem cảnh tự kỳ lạ này mới được, vì sao bụi cây lại không cháy rụi?

Thiên Chúa cũng đã hiện diện giữa dân Ngài qua áng mây và cột lửa. Sách Xuất Hành ghi lại:

– Khi ra khỏi Ai Cập, Đức Chúa đi đằng trước họ, ban ngày thì ở trong cột mây để hướng dẫn, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy.

Ngày Thiên Chúa ký kết với dân Do thái giao ước tại Sinai, lúc bấy giờ ngọn núi rực sáng như bốc cháy. Sách Xuất Hành ghi lại:

– Bấy giờ mây bao phủ núi…Vinh quang Đức Chúa xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu, trước mắt con cái Israel.

Thế nhưng, Thiên Chúa không phải chỉ là ánh sáng tự nhiên bên ngoài, con mắt chúng ta có thể trông thấy, mà hơn thế nữa, Ngài còn là ánh sáng siêu nhiên bên trong để soi dẫn bước đường chúng ta đi và ban cho chúng ta sự sống.

Thực vậy, Thiên Chúa đã dùng luật pháp và lời các tiên tri để hướng dẫn đường đi nước bước cho con người. Ngài chính là đèn soi lối cho họ. Ngài là ánh sáng và là ơn cứu độ của họ.

Khi mở mắt chào đời, chúng ta nhìn thấy ánh sáng và chúng ta chính thức bước vào cuộc sống. Cũng vậy, nếu bước đi trong ánh sáng của Chúa, nếu bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ được vào cõi sống với vinh quang bất diệt.

Đối với chúng ta ngày hôm nay, Đức Kitô chính là nguồn sáng duy nhất.

Thực vậy, trong đêm Giáng Sinh, ánh sáng của Chúa đã bao phủ khi sứ thần loan báo tin vui. Thánh Luca ghi nhận:

– Kìa sứ thần Chúa đứng bên họ và vinhquang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.

Tiếp đến, ánh sáng của ngôi sao lạ cũng đã chiếu soi để dẫn đưa ba nhà đạo sĩ phương đông đến tìm gặp và thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem.

Khi Chúa biến hình trên đỉnh Tabôrê, khuôn mặt Ngài sáng ngời và y phục Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Đây phải chăng chính là một hình ảnh báo trước vinh quang phục sinh của Ngài, bởi vì Ngài chính là ánh sáng thế gian.

Sau cùng, Ngài đã dùng luồng ánh sáng chói lòa để quật ngã thánh Phaolô trên con đường Đamas, biến thánh nhân từ một kẻ thù địch trở thành một tông đồ nhiệt thành đem Tin mừng đến cho muôn dân.

Thế nhưng, điều quan trọng hơn nữa Đức Kitô chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa.

Thực vậy, ngày hôm nay khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, thánh Matthêu đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài:

– Đoàn dân ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.

Chính Ngài cũng đã xác nhận:

– Ta là ánh sáng thế gian, ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm.

Ánh sáng ấy sẽ dẫn chúng ta tới vùng đất của sự sống vĩnh cửu, nếu chúng ta biết bước theo sự soi dẫn của Ngài, có nghĩa là nếu chúng ta biết tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.

Hẳn chúng ta không thể nào quên được một hình ảnh sống động vào đêm thánh vọng Phục sinh, khi cây nến cháy được rước và tiến lên từ cuối nhà thờ trong bóng tối dày đặc, vị linh mục đã xướng:

– Ánh sáng Chúa Kitô.

Phải, ánh sáng Chúa Kitô đã chiếu dọi vào tâm hồn mỗi người, thế nhưng chúng ta có tiếp nhận ánh sáng ấy hay chúng ta lại ưa thích sự tối tăm? Giống như người đau mắt ghét bỏ ánh sáng, thậm chí có kẻ còn ra sức dập tắt ánh sáng ấy.

Cuộc đời chúng ta là một tấm bi kịch, một cuộc chiến đấu giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta phải có thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt: – Chọn ánh sáng hay bóng tối? Cố gắng trở nên con cái Thiên Chúa hay con cái thế gian?

Mỗi người phải thành thực trả lời với Chúa và chính câu trả lời ấy sẽ ảnh hưởng tới tương lai và ấn định số phận đời đời của chúng ta.

 

49. Ánh sáng

Dân ngi trong tăm ti đã nhìn thy ánh sáng huy hoàng.

Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ngày xưa có những nhân vật khôn ngoan và thông thái, tuy đã chết từ lâu, nhưng vẫn còn được người đời nhắc đến, chẳng hạn như Aristote, Platon, César…Đồng thời, có những dân tộc đã trải qua những thời đại hoàng kim của mình, chẳng hạn người Hy Lạp nổi tiếng về văn hóa, người La Mã nổi tiếng về binh đội…

Còn hôm nay, chúng ta cũng có những nhà bác học với những phát mình làm đảo lộn cách thức suy nghĩ và hành động thường tình, chẳng hạn như máy hơi nước, máy vô tuyến, điện lực, nguyên tử…Đồng thời cũng có những quốc gia giàu mạnh nắm giữ vai trò của một siêu cường như Hoa Kỳ, Nga…

Thế nhưng, tất cả mới chỉ nổi tiếng, mới chỉ giỏi giang về những sự việc trước mắt và ở đời này. Còn nhụ sự việc thiêng liêng về đời sau, về linh hồn, về Thiên Chúa, thì họ lại hoàn toàn chẳng biết gì và không hề nói tới. Không nói tới, bởi vì có biết đâu mà nói.

Chevreul, mt khoa hc gia, đã phát biu:

– Các bn khoa hc ca tôi tht tài gii trong nhng lãnh vc chuyên môn, thế nhưng trong lãnh vc tôn giáo, h không hơn gì nhng em nh mi được xưng ti rước l ln đầu. Mit mài vào công vic nghiên cu trong nhng lãnh vc chuyên môn y, h không cho tôn giáo là quan trng, nên không chu tìm hiu cũng như không chu sng theo nhng tiêu chun ca tôn giáo.

Đúng thế, lãnh vực của khoa học là lãnh vực của thực nghiệm. Khoa học khởi đi từ những hiện tượng, những sự việc cụ thể, để rồi dẫn tới những định luật và áp dụng những định luật ấy vào đời sống thực tế.

Còn quốc gia thì bận rộn với vấn đề chính trị, quân sự, ngoại giao và kinh tế, chỉ có tôn giáo mới lo đến linh hồn, đến đời sau, đến Thiên Chúa và đem lại lời giải đáp cho những vần đề đã từng làm chúng ta băn khoăn và thắt mắc.

May áo, chúng ta phải đến với thợ may. Đóng giày, chúng ta phải đến với thợ giày. Bắt điện, chúng ta phải đến với thợ điện. Về những sự đời này, chúng ta phải đến với những chính trị gia, những vị tướng lãnh, những nhà kinh tế…Còn về những sự đời sau, chúng ta phải đến với tôn giáo. Làm khác đi là đến với những nơi không có thẩm quyền, hoặc không đủ khả năng. Làm khác đi là đến lầm địa chỉ.

Một số vấn đề then chốt đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắt mắc, chẳng hạn: Tôi bởi đâu mà đến? Tôi sống ở trên đời để làm gì? Và chết rồi tôi sẽ ra làm sao? Kẻ bất lương và người lành thánh có gì khác nhau ở bên kia cái chết?

Đứng trước những vấn đề này, chỉ có tôn giáo và nhất là Kitô giáo mới đưa ra được những lời giải đáp thỏa đáng. Bởi đó, thánh Tôma tiến sĩ đã có lý khi nói:

– Một bà lão thuộc giáo lý có khi còn am hiểu hơn những nhà bác học tài giỏi.

Đạo là đường, là ánh sáng. Không có đạo và nhất là không sống đạo, thì dù có thông thái và khôn ngoan tới đâu chăng nữa cũng vẫn là những kẻ đáng thương còn ngồi trong tăm tối.

Tuy nhiên, có điều thật bẽ bàng và cay đắng, đó là ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không tiếp nhận ánh sáng. Sở dĩ như vậy vì họ không muốn bước đi trong ánh sáng. Họ giống như những người đau mắt, luôn ghét bỏ ánh sáng.

Vì thế, khôn ngoan về những sự việc ở đời này mà thôi chưa hẳn đã là khôn ngoan thực sự, trái lại nhiều khi còn dại đột và kém sáng suốt, bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:

Được li lãi c thế gian mà mt linh hn thì có ích li chi.

Hãy đón nhận ánh sáng của Chúa, có nghĩa là hãy lắng nghe và thực thi những điều Chúa truyền dạy, bởi vì lời Chúa chính là đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta đi.

 

50. Ngư phủ

Hôm nay Chúa Giêsu gọi bốn tông đồ đầu tiên trong số 12 vị: Simon Phêrô, Andrê, Giacôbê và Gioan. Đây chính là bước khởi sự thành lập Giáo Hội với sứ mạng phúc âm hóa. Một khởi điểm cho sự thành lập mầu nhiệm Vương Quốc Thiên Chúa như Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI gửi cho thế giới ngày nay: “Giáo Hội có một nhận thức sâu xa về lời của Đấng Cứu Chuộc “Ta phải công bố Tin Mừng về Vương Quốc của Thiên Chúa”.

Năm 1998, tại hội nghị có tên là “Thi Hành Công Lý” (Doing Justice), một trong những thuyết trình viên đã dùng bức tượng “Kẻ Nô Lệ Dở Dang” (Unfinished Slave) hay “Người Tù Tỉnh Thức” (Awakening Prisoner) của nhà nghệ sĩ vĩ đại Michelangelo để minh họa cho bài nói chuyện của mình. Bức tượng miêu tả một con người đang phấn đấu để được tự do thoát ra khỏi những giới hạn của một tảng đá cuội lớn mầu xám. Hình ảnh của con người được biểu lộ dần dần, qua những nhát búa đục đẽo đầy ân huệ của người nghệ sĩ. Nó bùng phá ra khỏi khối đá lao tù để đi vào sự tự do bằng việc trở nên làm con người hoàn toàn… Bình phẩm về kiệt phẩm này, thuyết trình viên đã nói:

“Hình ảnh của người nô lệ đang được giải thoát này xác định vị trí của chúng ta trong vai trò căn bản của Giáo Hội hôm nay: sứ mạng phúc âm hóa của Giáo Hội… Từ ngữ “phúc âm hóa” được rút ra từ tên gọi được ban cho một người nô lệ trong nước Hy Lạp cổ xưa. Người nô lệ được giao trọng trách mang tin mừng chiến thắng về cho dân chúng đang chờ mong ở nhà khi chiến trận xảy ra. Để đáp lại công lao loan báo tin mừng chiến thắng này của người nô lệ, dân chúng ban thưởng cho người nô lệ ân huệ được tự do”.

Người nô lệ thời Hy Lạp ngày xưa đã diễn tả cho chúng ta thấy rằng sự tự do không phải chỉ hệ tại một lời công bố, nhưng là một sự biến đổi ở chính bản thân con người. Bản thân người nô lệ được giải thoát khỏi sự lệ thuộc, được tự do chính là Tin Mừng.

Ngay từ ban đầu, các tông đồ đã không đi theo Chúa với cùng một mục đích như Chúa muốn. Họ theo Chúa Giêsu với những tư tưởng, ước mơ, và dự định riêng tư của mỗi người. Người muốn bỏ Giêrusalem để lên Rôma bằng mọi cách. Người khác muốn nhìn thấy vương quốc Israel được tái tạo theo như dòng tộc của nhà Đavid. Kẻ muốn ngồi bên hữu Chúa Giêsu trong nước Giêrusalem mới… Nhưng Ngài đã giúp họ vượt thoát ra khỏi những ý định riêng tư đó mà mang lấy sứ mạng làm “ngư ph bt người”, đi rao truyền Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu Kitô.

Các tông đồ đã trung thành với sứ mạng của mình. Sách Công vụ Tông đồ đã nói với chúng ta tất cả những điều họ đã làm: “H chuyên cn nghe các tông đồ ging dy, hip thông vi nhau, tham d l b bánh, và cu nguyn… Tt c các tín hu hp nht vi nhau, và để mi s làm ca chung… H đồng tâm nht trí…

“Giáo Hội đã gắn bó với chương trình phúc âm hóa từ trong bản chất thâm sâu”. Giáo Hội chỉ có một chương trình, một sứ mạng, và một mục đích duy nhất: “Trong Chúa Giêsu Kitô, con của Thiên Chúa làm người, đã chết, và sống lại từ cõi chết: sự cứu rỗi được trao ban cho mọi người, như là một ân sủng và lòng từ bi của Thiên Chúa”. Và ngày nay, mỗi người Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đến để tiếp tục bước theo con đường của Chúa Giêsu đã đi qua và đã dạy chúng ta.

 

51. Sống đức tin

V linh mc tuyên úy hi người thy th tr tui: “Ai đã dn đưa bn ti Chúa Giêsu Kitô?” Anh ta chn ch suy nghĩ, vì nghĩ rng phi s dng tên tui ca nhng nhà ging thuyết tr danh, bèn hi li v tuyên úy: “Thưa cha, chc không cn phi là người ging thuyết ch?” Ri anh nói tiếp: “Đó là s thc hành ca m con”. Hu hết chúng ta đã đón nhn đức tin t cha m. Khi ln lên không bao gi thc mc rng chúng ta đã không phi là Kitô hu. Chúng ta gi đức tin trong khi được dy cách làm du, đọc kinh Ly Cha, đi nhà th d l hc cách thc chào hi, l phép bi cha m, thy cô nơi trường hc. Do đấy, tt c mi người trong gia đình, cng đoàn hay xã hi đều được mi gi đóng góp vào s mng “ngư ph bt người”. Bn có tin được không, ngay c con chó cũng có th dn đưa mt người v vi Đức Kitô.

Mt ông lão không bao gi để ý gì ti Thiên Chúa, hay đời sng tinh thn, nhưng v ông li là mt Kitô hu rt đạo đức. Bà đã cu nguyn cho chng nhiu năm, nhưng dường như li cu xin ca bà chưa được đáp tr vì ông không bao gi chu đến nhà th chung vi bà. Người đàn bà đạo hnh đáng thương này đi l hng tun vi mt con chó già. Nó đi theo bà vào nhà th, ri ph phc nm im dưới gm ghế ngi. Khi người đàn bà chết, con chó có v bun bã lm. Mt vài ln, lão già chú ý thy con chó ri nhà vào mt gi nht định, ri tr v đúng gi. Mt bui sáng Chúa nht, ông lão đi theo con chó xem nó đã đi đến đâu. Con chó dường như có v hng khi và vui v khi có người cùng đi vi nó dc theo li b hành cho đến ca nhà th. Ông lão ngng li khi thy nó nhanh nhn nhy lên nhng bc thm ri đứng ch ông ca nhà th. Sau khi đứng li ngh ngơi giây lát, chưa quyết định phi làm gì, ông lão t nh: “Vào nhà th theo con chó cũng được. Đâu có hi gì!” Ông đã vào nhà th, đi theo con chó đến ngay ch v ông vn thường ngi. Nh đến v, ông ngi xung và lng nghe. Chúa nht kế tiếp, ông lão li đi đến nhà th vi con chó trung thành ca ông. Dn dn, người ta đã thy ông trong nhà th ngay ch v ông vn thường ngi vi con chó nm thinh lng dưới gm ghế. Sau cùng ông đã tham gia cng đoàn và cho phép Tin Mng thm nhp vào cuc đời ông.

Phúc âm hóa là công trình biến đổi con người trở nên giống hình ảnh của Chúa Kitô. Đó là công việc giải thoát con người khỏi tội lỗi. Sách Giáo lý Công giáo số 900 mời gọi chúng ta trong vai trò “ngư phủ bắt người” này như sau: “Cũng như tất cả các tín hữu đều được Thiên Chúa ủy nhiệm cho việc tông đồ, vì đã lãnh nhận phép rửa tội và phép thêm sức, các giáo dân có nghĩa vụ và có quyền lợi làm việc, từng cá nhân hoặc từng nhóm lại thành các hiệp hội, để sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa được mọi người trên trái đất biết tới và đón nhận”.

 

52. Ðón nhận ánh sáng

Một trong những điều cần thiết để con người có thể sống được đó là ánh sáng. Ánh sáng giúp cho con người làm việc được dễ dàng và thoải mái. Chẳng hạn ánh sáng giúp cho con người gặp gỡ nhau; Ánh sáng giúp cho các học sinh, sinh viên học bài và nghiên cứu sách vở…. Tuy nhiên ánh sáng đó sẽ trở nên vô dụng đối với những ai không biết đón nhận.

Tuần trước chúng ta đã được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”. (Ga 1, 29). Hôm nay, chúng ta tiếp tục được giới thiệu một nét quan trọng của Chúa Giêsu qua lời loan báo của tiên tri Isaia. Lời loan báo ấy lại được Thánh Mathêu nói đến: “Ðoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi ” (Mt 4, 16). Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật phát xuất từ Chúa Cha. Người đến trần gian để đem cho con người sự sống thật.

Trong bài ca Benedictus, ông Dacaria đã thốt lên: “…Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”. (Lc 1, 78 – 79)

Chính Chúa Giêsu cũng tự nói về mình: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống ” (Ga 8, 12).

Như thế, ai biết đón nhận Chúa Giêsu thì sẽ có được sự sống và bình an đích thật. Mở đầu đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đã: “lánh qua miền Ga-li -lê. Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li ” (Mt 4, 12 – 13) để rao giảng. Ðáng lẽ, Người phải rao giảng ở quê hương mình là Nagiaret trước nhưng vì họ đã không biết đón nhận. Cụ thể là họ đang bắt giam Thánh Gioan Tẩy giả – ng ười đến làm chứng cho Chúa Giêsu. Ðang khi đó những người ở những vùng đất này họ đang khao khát đón nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu mang đến.

Trong một lần cầu nguyện với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã thưa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất , con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25). Chỉ những ai biết khiêm tốn và thật sự khao khát đón nhận thì ánh sáng từ Chúa Cha mang đến mới có ích lợi và giá trị cho họ. Ðón nhận ánh sáng ấy chính là làm theo những dạy của Người. Bỡi lẽ “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi “. (Tv 118, 105)

 

53. Sám hối

Có mt v n sĩ n, sau bao nhiêu năm tu luyn bng thy hương thơm s thánh thin ca mình bay ta khp nơi, nhiu người tiến đến vn ký cũng như để xin ông cu nguyn cho. T đó v n sĩ thường hãnh din v tiếng tăm ca mình. Mt bui sáng n, ông đến thăm mt ngôi nhà th nm bên cnh mt dòng sông. Đi dc theo b sông, ông thy có mt người đàn ông đang ngi khóc lóc thm thiết. Đến gn, v n sĩ mi nhn ra đó là người đàn ông mà khi nghe nhc đến tên tt c mi người dân trong vùng đều phi run s, vì hn là mt tên cướp giết người không gm tay.

V n sĩ định làm ngơ b đi, nhưng người đàn ông tiến đến quì gi xung trước mt ông và xưng ti. Nghe xong mt danh mc nhng ti mà c đời ông không dám nghĩ ti, và khi so sánh vi cuc sng hoàn toàn trong sch ca mình, v n sĩ t nhiên ni gin. Ông nghĩ đến cơn gin thánh ca Chúa Giêsu khi vào Đền th Giêrusalem, thế là thay vì đưa tay ban phép gii ti, v n sĩ li to tiếng quát bo người đàn ông như sau: “Mt tên đầu trm đuôi cướp như ngươi mà hy vng được Chúa tha th sao? Ta nói tht cho ngươi: cây gy ta đang cm trên tay đây tr thành bông còn d hơn là vic Chúa tha th cho ngươi”.

Nói xong nhng li đó, v n sĩ b mc cho ti nhân chìm đắm trong tht vng và ông tiếp tc ct bước. Thế nhưng ông chưa kp đi được mười bước thì cây gy ca ông đang cm trong tay bng b cm sâu xung đất. Ông dùng tt c sc lc ca mình để kéo nó lên khi đat nhưng cây gy vn không nhúc nhích. Và l lùng thay, t thân cây gy, lá, cành và hoa trái t t mc lên. Ri nhà n sĩ li nghe có tiếng phán bo: “S tha th ca Chúa dành cho mt ti nhân sám hi còn d hơn mt cây gy tr bông. Mt người có ti biết ăn năn tr li được tha th còn d dàng hơn là mt k kiêu hãnh”.

Quả thực, trọng tâm của bài Tin mừng hôm nay chính là lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Đó cũng là mệnh lệnh đầu tiên của Chúa Giêsu khi Ngài bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng. Ơn cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo và thực hiện chính là việc giải phóng con người khỏi tội lỗi. Tất cả những bệnh hoạn, tật nguyền mà Chúa Giêsu thuyên chữa khi bắt đầu sứ vụ công khai là một dấu hiệu của tội lỗi. Cứu chữa con người khỏi những tật bệnh trong thân xác, Chúa Giêsu muốn cho con người thấy Ngài đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và tất cả những hệ lụy của nó. Nhưng tất cả những phép lạ mà Chúa Giêsu thực hiện không phải là những ảo thuật, bùa chú mà là sự gặp gỡ giữa con người với quyền năng Thiên Chúa, là một sự thi thố tình yêu không giới hạn của Ngài.

Do đó, con người chỉ có thể chứng kiến được phép lạ khi tuyên xưng quyền năng của Chúa Giêsu: “Chính lòng tin ca con đã cha con”. Chúa Giêsu đã không ngừng lập đi lập lại câu đó mỗi lần thuyên chữa một bệnh nhân. Lòng tin của con người được thể hiện qua việc con người tuyên xưng niềm tin của mình nơi quyền năng của Chúa Kitô.

Thiên Chúa mời gọi chứ không áp đặt. Ngài luôn chờ đợi sự ưng thuận của con người. Do đó, bước đầu tiên mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người chính là sám hối, nghĩa là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, và đó cũng là thái độ cơ bản và thường hằng trong cuộc sống con người. Bao lâu con người còn nhận ra thân phận yếu hèn của mình thì bấy lâu con người còn nhận ra sự cần thiết của ơn cứu rỗi mà Đức Kitô đã tặng ban. Trái lại, nếu con người phủ nhận thân phận tội lỗi của mình thì con người cũng sẽ khước từ ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.

Sám hối không chỉ là một tiếng khóc của thất vọng, mà phải là một sức bật mới giúp cho con người vươn lên: “Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến”. Nước trời chính là động lực của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực là phải quyết tâm hướng về thực tại của nước trời và những thực tại đó chính là hòa bình, bác ái, yêu thương, quảng đại, cảm thông, tha thứ. Thể hiện lòng sám hối chính là thực thi những giá trị ấy. Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến, hay đúng hơn hãy sám hối để cho nước trời được đến giữa mọi người.

 

54. Sám hối

Khi nghe tin Gioan tẩy giả bị bắt, Chúa Giêsu biết cuộc đời công khai của Ngài bắt đầu ý định cứu rỗi của Chúa Cha muốn thực hiện qua Ngài. Ngài rời bỏ Nagiarét, nơi Ngài sinh ra và lớn lên từ thời thơ ấu, đến miền duyên hải thành Caphácnaum, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali; và Ngài khởi sự rao giảng rằng: “Anh em hãy ăn năn sám hi, vì nước tri đã đến gn”.

Hãy ăn năn sám hi”, lời kêu mời của Chúa Giêsu nhắc lại lời mời gọi sám hối của Gioan Tẩy giả. Thiên Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường để rao giảng Tin Mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Ngài cần chia sẻ chính mình. Ngài đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần tìm về ơn cứu độ.

Nhưng để nhận ra ánh sáng đó, cần phải có lòng ước muốn. Ánh sáng cũng vô ích cho những ai không muốn thấy, bởi vì đối với người mù, ngay cả mặt trời chính ngọ cũng chẳng khác gì đêm tối. Ánh sáng chỉ thuận lợi cho những ai muốn và có thể sử dụng nó. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Ngài đến để giải thoát con người khỏi đêm tối tội lỗi, nhưng con người chỉ vui hưởng ơn cứu độ khi sẵn lòng đón nhận ánh sáng là Chúa Kitô. Ơn phúc nhưng không vẫn có đó, nhưng hiệu nghiệm hay không là tùy từng người. Điển hình là phản ứng của dân chúng thời đó: trong khi những người bình dân tin vào Tin mừng được lành bệnh thể xác và tinh thần, thì cũng có người như nhóm biệt phái, thay vì đón nhận ơn phúc, họ lại tìm cách bắt bớ Chúa.

Nguyện cho lời Chúa hôm nay hoán cải tâm hồn chúng ta, để ánh sáng Chúa lan tỏa trong chúng ta, đánh tan mọi ảnh hưởng của tội lỗi.

 

55. Khởi điểm

Chúng ta hết thảy đểu đã nghe những nhà bình luận thể thao la lên: Đây là một khởi điểm! Dù là một cuộc đua ngựa, trượt tuyết, chạy đường dài, người ta đều la lên: Đây là một khởi điểm! Chúng ta đã trông thấy những lực sĩ giương bắp thịt lên và mặt mày căng thẳng chờ dấu hiệu khởi hành, vì việc khởi hành là quan trọng. Khởi hành tốt tạo điều kiện cho phần còn lại của cuộc chạy đua.

Hôm nay, Tin Mừng kể lại cho chúng ta khởi điểm của Chúa Giêsu, bắt đầu sứ vụ của Ngài. Khởi điểm quan trọng vì nó cho hoạt động của Chúa Giêsu ý nghĩa của nó.

Ba nét nêu lên đặc điểm của bản văn này: chuyn động, nhng cuc ct đứt, mt s đip.

Việc Gioan Tẩy Giả bị bắt giam giống như một dấu hiệu khởi điểm đối với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chuyển động: Ngài rút lui về Galilê rồi từ giã Nagiarét để đến Capharnaum, rồi Ngài đi dọc theo bờ hồ và kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài kêu gọi họ bước theo Ngài.

Những cuộc di chuyển này của Chúa Giêsu gây ra những sự cắt đứt. Bước đi, bao giờ cũng để lại sau lưng mình những phong cảnh, những sự vật và những con người. Chúa Giêsu cắt đứt với ngôi làng thời thơ ấu của Ngài: Nagiarét, để đi đến một môi trường mới mẻ: thành phố Capharnaum quốc tế. Các môn đệ cũng cắt đứt với môi trường của họ để theo đuổi một cuộc mạo hiểm mới với Chúa Giêsu. Họ để lại đằng sau họ ngôi làng, nghề nghiệp, gia đình. Tất cả những chuyển động này không chỉ là di chuyển đơn thuần mà thôi. Chúng được hướng về một sứ điệp phải loan truyền. Một sứ điệp của Thiên Chúa: “Hãy sám hi vì nước tri đã đến gn”.

Nói cách khác, Thiên Chúa đến, Ngài đến gần anh em, Ngài mang đến cho anh em sự sống và hạnh phúc. Thiên Chúa mang ánh sáng đến cho những người xứ Galilê, Do thái và ngoại giáo, đến cho những người ngồi trong bóng tối. Thiên Chúa mang sự sống và hạnh phúc đến cho tất cả những ai ngồi trong bóng sự chết. Hết thảy mọi người đều được mời gọi hoán cải, đứng dậy, đón nhận hồng ân của Thiên Chúa. Đứng dậy, thay đổi cuộc sống vì Thiên Chúa làm những điều mới mẻ nơi Chúa Giêsu Kitô.

Những cuộc di chuyển này của Chúa Giêsu, những sự cắt đứt này, sứ điệp một Thiên Chúa gần gũi này có liên quan đến chúng ta hôm nay không? Dĩ nhiên rồi. Vì nếu Chúa Giêsu đã bước đi trên những nẻo đường xứ Galilê, là vì chúng ta. Nếu Ngài đã cắt đứt với ngôi làng của Ngài là vì chúng ta. Sứ điệp của Ngài liên quan đến chúng ta và không chỉ nhắm những người ở xứ Galilê mà thôi.

Bởi sự nối kết những thế hệ tín hữu, sứ điệp của Chúa Giêsu đã đến với chúng ta và chúng ta đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Trở thành môn đệ không phải là chỉ đón nhận Chúa Giêsu Kitô, mà còn trở nên trách nhiệm về sứ điệp của Ngài, tức là di chuyển để loan truyền nó. Sứ điệp này không phải là một quả bóng chúng ta giữ trong tay chúng ta, ta phải ném nó lại cho những người khác.

Làm sao di chuyển hôm nay vì Thiên Chúa và sứ điệp của Ngài? Bằng cách thực hành những giá trị của Tin mừng. Đây là ba giá trị khiến chúng ta phải di chuyển và dẫn đưa chúng ta đến những sự cắt đứt với các giá trị của thế gian này.

Thực thi tính nhưng không. Đây là một giá trị quan trọng của Tin mừng: Nếu anh em làm ơn cho những kẻ làm ơn cho anh em, nếu anh em chỉ cho những kẻ trả lại cho anh em… thì anh em bắt chước những kẻ tội lỗi. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cắt đứt với những thái độ tìm lợi nhuận, hoán cải theo tinh thần nhưng không.

Tha thứ. Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Ngài nói với chúng ta: “Hãy thương yêu k thù, hãy cu nguyn cho nhng k bách hi các con”. Có lẽ chúng ta không có kẻ thù, cũng không có những kẻ bách hại, nhưng một số người làm tổn thương chúng ta, tấn công chúng ta bởi lời nói, cử chỉ, thái độ của họ. Chúng ta phải cắt đứt với ước muốn trả thù của chúng ta, hoặc đơn giản hơn với sự khinh bỉ của chúng ta đối với kẻ khác.

Hủy bỏ những khoảng cách. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu lo lắng hủy bỏ những khoảng cách: “Ngài ngi ăn vi nhng k ti li và người thu thuế, Ngài để cho nhng người phong cùi đến gn Ngài”, tóm lại Ngài lui tới với những kẻ bên lề xã hội, đủ loại, vì sứ điệp của Ngài nhắm tới hết thảy mọi người như các môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải vượt các rào cản ngăn cách chúng ta với tha nhân, những người nhập cư, da đen, mắc bệnh Sida, người nghèo.

Những việc thực hành Tin Mừng này làm cho chúng ta trở thành những người di chuyển. Đi đến với những kẻ mà chúng ta không trông mong họ đền đáp gì cả, đi đến với những người làm ta đau khổ, đi đến với những kẻ khác với chúng ta.

Hôm nay, ta đừng sợ xét xem chúng ta có phải là những môn đệ di chuyển vì Thiên Chúa không. Vì Thiên Chúa không có đôi chân nào khác ngoài chân của chúng ta.

 

56. Họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa

Vào ngày nng h kia, có cu bé ra đường tình c nhìn thy mt đồng xu nhp nhoáng dưới chân mình. Cu bé nht đồng xu lên nm cht trong tay và khuôn mt cu bé t l rt là vui mng. Đồng xu kia thuc v chú bé mà không phi làm gì hết! K t ngày đó c h ra đường là đầu chú bé cúi xung vi đôi mt m to liếc nhìn khp ch để may ra v được thêm đồng tin nào chăng. Sut cuc đời chú bé kiếm được 302 đồng mt xu, 24 đồng năm xu, 41 đồng 10 xu, 8 đồng 25 xu, 3 đồng 50 xu, và t mt đô-la b rách, tng cng tt c là 12 đồng 80 xu. Tt c s tin thuc v chú bé mà không phi mt gì hết. Song chú bé y đã mt đi 35.127 ln nhìn xem hoàng hôn, 327 ln ngm nhìn cu vng, nhng cnh huy hoàng rc r ca lá phong đổi mu vào mùa thu, nhng áng mây trng trôi lang thang trên bu tri xanh ngt, chim bay thú chy, ánh mt tri cùng nhng n cười chào hi ca nhng đi qua li. Còn biết bao điu khác na mà chú bé đã b quên. Ý câu chuyn mun nói là trên thế gii này cũng có biết bao người như chú bé đã đi qua cuc sng trong tâm thc bđầy, b qua không biết bao nhiêu chuyn lý thú có th khám phá qua cuc sng dương gian này.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu thuật lại rằng: Chúa Giêsu đang đi bộ dọc theo bờ biển Galilê, chợt Ngài nhìn thấy hai anh em là Simon cũng gọi là Phêrô, và em là Anrê. Cả hai anh em đều là dân thuyền chài. Chúa Giêsu gọi họ, “Hãy theo Ta, Ta s làm cho các ngươi thành nhng k lưới cá người” (Mt 4,19). Ngài kêu mời họ vào cuộc thám hiểm kỳ bí lý thú trong chính đời sống mới, vào sự cảm nghiệm đời sống tình yêu của chính Ngài. Và ngay lập tức họ đã bỏ mọi sự, tầu bè, cha mẹ, để theo Chúa như Thánh Matthêu đã kể.

Simon Phêrô, và các tông đồ khác theo Chúa để học nơi Chúa. Chẳng bao lâu, họ nhận ra rằng Đức Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Ngài là Lời Chúa. Ngài không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Chúa Giêsu là Sự Sống. Ngài không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống”, mà chính Ngài là Đường sự Sống, là Ánh Sáng.

Ông Thomas Carlyle không nhng là s gia mà còn là mt nhà văn ni tiếng ca Scottish, có ln ông nhn được lá thư ca mt sinh viên tr mun tr thành thy giáo viết cho ông như vy: “Thưa ông Carlyle, tôi mun tr thành mt giáo viên. Ông có th ch cho tôi biết cách làm sao để nên mt thy giáo thành công không?” Ông Carlyle tr li: “Hãy nên như là mt hc trò, như anh mun người khác tr nên”. Còn mi cách khác ch là trò đùa vô lý!” Và đó chính là cách thc Kitô hu dy d. Điu gì Chúa Giêsu dy chúng ta làm thì chính Ngài đã làm trước. Ch có mt cách chc chn chúng ta có th “liên kết vi Ngài” là hãy sng như Ngài đã sng theo như Thánh Gioan Tông đồ đã viết (1Ga 1,5-6). Hơn na, chúng ta phi hi ci nếu như chúng ta mun sng ging Chúa Giêsu vì đó là cách duy nht.

“Để trở nên môn đệ Ta, thực hành điều Ta dạy, đón nhận Ta là gương mẫu sống, ôm ấp Đời Sống Mới mà Ta ban cho, biến đổi không chỉ đạo giáo của con nhưng là toàn bộ cuộc sống từ thói quen đến tương lai, con phải biến đổi– đặc biệt mọi cách thức của con nếu như con muốn theo Ta”.

Chúng ta đã biết Thánh Kinh, những lời giáo huấn của Chúa, và những cách thức Ngài đã làm gương…

Bạn có chúc lành cho những người chúc dữ mình không? (Lc 6,28).

Bạn có bố thí cho những ai xin bạn không? (Lc 6,30).

Bạn có làm điều tốt cho kẻ ghét bạn không? (Lc 6,27).

Bạn có thương kẻ thù bạn không? (Lc 6,27).

Bạn có từ bi với mọi người không? (Lc 6,36).

Khi thấy tha nhân cần giúp đỡ, bạn có nhìn nhận Chúa Giêsu trong họ không? (Mt 25,31-64).

Hãy để những vấn đề kể trên thành hành động và lối sống của bạn.

Chúa Giêsu đã sống giữa dân tộc Ngài, và rao truyền Tin Mừng về một Thiên Chúa Yêu Thương sẽ đem họ đến sự toàn hảo. Hình ảnh một Thiên Chúa Tình Yêu được biểu lộ qua Chúa Giêsu và những việc Ngài làm. Ngài tỏ lộ chính mình Ngài như một Gương Mẫu Tuyệt Hảo cho dân chúng noi theo để đáp trả Thiên Chúa đáng kính yêu của họ. Nhưng dân tộc Ngài lại ra án lệnh Ngài phải chết. Họ không chấp nhận giáo thuyết có một Thiên Chúa Yêu Thương ở giữa họ. Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng là nếu họ muốn theo Ngài thì phải thay đổi tất cả từ tâm linh đến cách sống của họ. Họ phải thay đổi cách đối xử với tha nhân cũng như người ngoại bang; và họ đã không thể chấp nhận những giáo huấn ấy.

Họ không muốn thay đổi những gì họ đang nắm giữ, vì thay đổi là đụng chạm đến an ninh, lòng tự ái, giáo điều và tinh thần nghiêm khắc của họ. Chúa Giêsu đến rao giảng một Thiên Chúa Yêu Thương đã ban tặng cho họ một cách thức tốt hơn. Đời sống sẽ được phong phú hơn bởi một tinh thần và một hệ thống giá trị mới hoàn toàn. Tất cả những điều ấy sẽ ban tặng cho ai thống hối và đi theo Ngài. Nhưng họ không thể chấp nhận lời kêu gọi để tiến tới sự cao siêu hơn; bởi đó họ đóng đinh Ngài và Ngài đã chết trong chính sự u mê của họ.

 

57. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối của tử thần – JS

Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước đã bị giao nộp. Số phận của ông Gioan cũng không hơn gì các ngôn sứ đi trước. Ông dám lên tiếng và đã trả giá cho sự thật. Ánh sáng chân lý tưởng chừng bị dập tắt để rồi mọi sự lại rơi vào bóng đêm của tử thần.

Đức Kitô chợt xuất hiện nơi miền Galilê dân ngoại. Người là ánh sáng đã bừng lên giữa những nhiễu nhương của tăm tối tội lỗi trần gian. Người đến công bố triều đại Thiên Chúa, đem đến ơn giải thoát cho những ai “đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần”.

Đức Kitô đến công bố sự thật về một “Nước Trời đã gần đến”. Lời Người làm vang vọng những lời của ông Gioan. Người xác định lại điều Gioan đã loan báo về Nước Trời đã gần đến. Người công bố với uy tín của Đấng “đến sau” nhưng “có trước”, “trổi vượt hơn”, vì Người là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.

Ngài mời gọi mọi người hãy có thái độ chuẩn bị tích cực nhất: “anh em phải sám hối”. Tính cấp bách của lời này không thua gì của Gioan. Người ta phải trở về với Chúa sớm nhất, không trì hoãn. Những ai không dứt khoát với con đường tối tăm, thỏa hiệp với sự dữ thì chẳng bao giờ xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Do đó, lòng dạ của Biệt phái, của? Hêrôđê rất xa vắng với Nước Thiên Chúa gần bên, nhất là khi họ bắt nộp và âm mưu giết hại Gioan. Chúa Giêsu không phải ngẫu nhiên mà đến rao giảng ở miền Galilê dân ngoại. Xứ Giuđê quá cứng lòng, đã khước từ sứ điệp của Gioan. Điều đó đã buộc Đức Giêsu đến ngỏ lời với dân ngoại miền Galilê.

Dọc biển bờ hồ Galilê đã có những tâm hồn mở ra cho Nước Thiên Chúa. Họ chỉ là những anh chài lưới nghèo nàn chất phác. Nhưng con tim họ thì quảng đại mạnh mẽ khác thường. Vậy là giữa khoảng không thinh lặng không lời đáp trả đã có những con người biết lắng nghe lời mời gọi của Đức Kitô. Họ không chỉ là những công dân mới của Nước Thiên Chúa. Họ còn mang lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nuớc Thiên Chúa cho muôn dân. Từ đây, thế gian tăm tối phải mở mắt thấy rằng nó có thể bịt miệng giết Gioan, hay đóng đinh Đức Kitô, nhưng chẳng thể ngăn nổi ánh sáng Lời Chúa chiếu tỏa trên môi miệng môn đệ Người.

Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan đã bỏ lại tất cả để theo Chúa. Hẳn là Đức Kitô phải hấp dẫn lắm và sự nghiệp Nước Thiên Chúa phải cao đẹp lắm mới khiến các chàng ngư phủ mau mắn theo Người như vậy. Vậy mà Chúa Giêsu chẳng hứa hẹn điều dễ dãi. Rồi số phận của Chúa Giêsu và các môn đệ cũng chẳng khác gì Gioan. Nhưng các ông và tất cả các môn đệ thuộc về Đức Kitô sẽ nhận ra cái logic của Tin Mừng khác với trần gian: “trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8, 37).

Mọi người chúng ta đang mang lấy ánh sáng Đức Kitô trong mình. Ánh sáng của Người đến xua tan những ngóc ngách tăm tối để lòng ta không ngừng thuộc trọn về Người. Chúng ta hãy mở cửa tâm hồn mình cho ánh sáng chân lý Chúa chiếu soi. Phải sám hối thật lòng để xứng đáng với Nước Thiên Chúa đến.

Như các môn đệ, Chúa mời gọi ta đem ánh sáng cứu độ Chúa cho mọi người. Nếu thế gian không có ánh sáng Chúa chiếu rọi thì sẽ mãi ở trong lầm lạc, vô phương giải thoát. Và nếu ánh sáng trong lòng ta đã tắt lịm thì sẽ chẳng thể thắp sáng cho ai được. Ta hãy xin Chúa ban cho ta ánh sáng của Người và mau mắn đáp trả sứ mệnh loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.

 

58. Suy niệm của JK

Câu hi gi ý:

  1. Theo bài Tin Mừng hôm nay, thì Galilê là vùng đất của dân ngoại, thế nhưng Đức Giêsu lại sinh trưởng và xuất thân từ vùng này. Các môn đệ của Ngài cũng thế. Điều đó có ý nghĩa gì không? Tại sao Ngài không sinh trưởng ở vùng đất của dân có đạo như Giuđê (Giêrusalem)?
  2. Tại sao để canh tân tôn giáo, Đức Giêsu không chọn các môn đệ là người có học thức, hay có nhiều hiểu biết về tôn giáo như các kinh sư, Pharisiêu, mà lại chọn những người ít học, đơn sơ, nghèo nàn, nhút nhát?
  3. Các môn đệ có những đặc điểm nào mà Đức Giêsu lại thích chọn họ hơn là các kinh sư? Có thể rút ra bài học gì cho chính bạn?

Suy tư gi ý:

  1. Đức Giêsu đến để canh tân li đạo Do Thái

Vào thời Đức Giêsu, đạo Do Thái chỉ còn là cái vỏ bên ngoài, bên trong thì trống rỗng. Các tín hửu chỉ còn giữ đạo một cách hình thức. Họ đặt quá nặng việc tham dự những lễ nghi tôn giáo, những vẻ thấy được bên ngoài. Vì thế, lễ nghi thì ngày càng rườm rà, càng gia tăng vẻ long trọng, luật lệ ngày càng nhiều, càng phức tạp và gây nên lắm phiền hà, các cơ sở vật chất cũng gia tăng. Còn tinh thần bên trong tức kính sợ Thiên Chúa và yêu thương đồng loại là hai điều răn lớn nhất trong lề luật (Mt 22,35-40) thì bị coi nhẹ. Và «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23) là yếu tố cốt tủy nhất của tôn giáo thì bị xem thường.

Các nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ còn là những người thích ăn trên ngồi trốc, hưởng thụ những đặc quyền đặc lợi mà luật lệ tôn giáo đã dành cho (Mt 23,6-7), nhiều khi lại cấu kết với thế quyền để đàn áp bóc lột dân chúng (23,14). Họ dạy người khác làm những điều tốt đẹp mà chính họ lại không chịu làm (23,3). Nhiều khi họ không biết cái nào là cái chính cái nào là cái phụ trong tôn giáo (23,16-22) để dạy người ta giữ: nên cái chính yếu thì bị coi nhẹ, còn cái phụ thì lại được quan trọng hóa lên. Vì thế, họ trở thành những kẻ «dẫn đường mù quáng» (23,24), «mù lại dắt mù» (Lc 6,39).

Thế nên sứ mạng của Đức Giêsu là đến để làm một cuộc đại canh tân và cách mạng về tôn giáo. Có thể nói Ngài lập nên một đạo mới trên chính nền tảng của đạo cũ, hoặc Ngài đưa vào đạo cũ một tinh thần mới. Điều này khiến ta phải tự hỏi: tình trạng sống đạo của người Kitô hữu hiện nay có cần canh tân hay cách mạng như thế không? Và ai có nhiệm vụ ấy?

  1. Nơi xut x và cng s viên ca Đức Giêsu trong vic canh tân và cách mng ca Ngài

Là một nhà cách mạng tôn giáo, nhưng Đức Giêsu lại xuất thân từ Nadarét, thuộc vùng Galilê (miền Bắc) là «miền đất của dân ngoại» (xem bài Tin Mừng), chứ Ngài không sống ở vùng Giu-đê (miền Nam) là vùng của Do thái giáo với kinh đô và đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vì thế, Đức Giêsu được gọi là «người Galilê» (x. Mt 21,10; 26,69; Lc 23,6; 26,59; Mt 21,11). Theo quan niệm của dân chúng thì Galilê chẳng phát sinh được điều gì đáng giá: «Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao?» (Ga 7,41). «Ông cứ nghiên cứu đi rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả» (Ga 7,52).

Các môn đệ mà Ngài chọn để làm cộng sự viên với Ngài trong cuộc canh tân này, cũng không phải là người Giuđê mà đều là người Galilê. Các ông là những ngư dân ít học, mặc dù theo đạo Do Thái, nhưng biết rất ít những kiến thức tôn giáo. Ngài không chọn làm môn đệ những người thuộc giới kinh sư hay luật sĩ của Do Thái giáo, là những người có rất nhiều kiến thức tôn giáo. Cách lựa chọn môn đệ của Ngài đáng cho chúng ta suy nghĩ. Tại sao Ngài không chọn các kinh sư giỏi giang làm môn đệ? (trừ Phaolô – được chọn sau này làm tông đồ thay thế Giuđa – là một kinh sư).

Để làm một cuộc canh tân, Thiên Chúa đã dùng những yếu tố hầu như hoàn toàn mới, vì «không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!» (Mc 2,22). Làm sao có thể đổi mới tôn giáo được với những con người cũ, có những quan niệm cũ, nề nếp suy tư cũ, lối sống cũ với nhiều sai lạc mà họ vẫn cố chấp cho là chân lý không thể thay đổi được? Bằng chứng: cho tới ngày nay, Đức Giêsu đến đã 20 thế kỷ rồi, nhưng đạo Do Thái vẫn còn đang trông chờ một Đấng Cứu Tinh!

Đức Giêsu đến đã làm thay đổi rất nhiều: tinh thần mới, quan niệm mới, lề luật mới, cơ cấu mới, v.v… Sự thay đổi này đã gây nên một sự phản kháng mạnh mẽ nơi giới trí thức, giới lãnh đạo trong Do Thái giáo. Chắc chắn họ có lý của họ, và cái lý ấy cũng dựa rất chắc chắn trên nền tảng Kinh Thánh! Điều đó cho thấy không phải cứ có lý, có nền tảng Kinh Thánh là đủ, mà còn phải có tinh thần của Thiên Chúa, tức «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23), và nhất là tinh thần phó thác và đổi mới theo Thánh Linh, Đấng luôn luôn đổi mới mọi sự (x. Tv 104,30; Ep 4,23; Kh 21,5).

Cuộc canh tân của Đức Giêsu phải được xây dựng trên những yếu tố mới mẻ, không thể dính líu nhiều với đạo cũ. Điều này khiến cho những ai thường tự hào mình là «đạo gốc» phải suy nghĩ. Là người «đạo gốc» mà cách sống đạo chẳng có «gốc» (=chẳng có nền tảng) là «công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23) thì thật đáng xấu hổ!

  1. Thiên Chúa cn nhng người cng tác

Đức Giêsu không thực hiện cuộc canh tân tôn giáo một mình, Ngài cần rất nhiều người cộng tác. Người cộng tác ấy không nhất thiết phải là người có học, thông minh, nhiều tài năng, hiểu biết nhiều về Kinh Thánh, hay có quyền thế, v.v… Các môn đệ Ngài tuyển chọn chẳng phải là hạng trí thức: «Họ ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và ông Gioan mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân» (Cv 4,13). Chính Đức Giêsu cũng chẳng phải là người có học: «Người Do thái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: “Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!”» (Ga 7,15). Về đức độ, các môn đệ cũng chẳng phải là hơn người: khi Đức Giêsu bị bắt, tất cả các ông đều bỏ trốn, để mặc Ngài chịu trận một mình, Phêrô thậm chí còn chối phắt Thầy mình. So với các anh hùng của dân tộc ta (như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ…) thì các ông thua xa.

Điều mà Ngài cần nơi những người cộng tác với Ngài là: mau mắn, không chần chừ tính toán. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: vừa được Đức Giêsu mời gọi, thì Phêrô và Anrê «lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người». Gia-cô-bê và Gio-an cũng vậy: «lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người». Sự mau mắn, không chần chừ tính toán được Matthêu diễn tả bằng hai chữ «lập tức». Nó đòi hỏi phải có một chút liều lĩnh, phó thác, tin tưởng vào Đức Giêsu. Chính nhờ những đức tính này mà khi được Thánh Thần tác động, các ông trở nên có đủ mọi thứ đức tính, mọi thứ tài năng hơn người. Từ những con người chết nhát, các ông đã trở nên những tông đồ can đảm, luôn luôn mạnh dạn làm chứng cho Đức Giêsu, không chút sợ hãi (xem Cv 4,29.31; 9,27-28; 18,26; 19,8; 28,31).

Ngày nay, để canh tân Giáo Hội, Đức Giêsu vẫn tiếp tục cần rất nhiều người cộng tác với Ngài. Ngài luôn luôn mời gọi tất cả mọi Kitô hữu làm điều ấy. Bạn có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi trong thẳm sâu tâm hồn không? Bạn đáp lại thế nào? Bạn «lập tức» chấp nhận, hay còn phải suy nghĩ xem mình có đủ khả năng, có đủ thì giờ, có đủ đức độ không? Nếu bạn có đủ khả năng, đủ thì giờ, đủ đức độ như các kinh sư Do Thái xưa, thì chắc hẳn Ngài đã chẳng kêu gọi bạn đâu, vì bạn sẽ cậy vào sức riêng bạn, chứ không thèm nhờ cậy vào Ngài nữa! Chính vì biết bạn thiếu tất cả những thứ ấy Ngài mới kêu gọi bạn, như đã từng kêu gọi các tông đồ xưa. Điều quan trọng khi đi theo Ngài là bạn phải biết rằng bạn thiếu những thứ ấy để bạn khiêm nhường cậy dựa vào sức của Ngài, chứ không phải sức của mình. Bạn không nghe thấy Ngài cầu nguyện với Cha Ngài như vầy sao? «Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha» (Mt 11,25). Điều lạ lùng và hết sức nghịch lý nhưng lại là thực tế, đó là ta sẽ làm được tất cả khi thật tình nghĩ rằng «không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5), nhưng «tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13), vì «đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được» (Lc 1,37).

Vậy, nếu nghe thấy Ngài mời gọi bạn cộng tác với Ngài, bạn nên mau mắn chấp nhận. Chính nhờ sự mau mắn này, bạn – cũng như các tông đồ xưa – sẽ được biến đổi để làm được tất cả những gì Ngài mong muốn.

Cu nguyn

Lạy Cha, nếu cần con cộng tác với Cha trong bất kỳ việc gì, thì đây con sẵn sàng, mặc dù con chẳng tài đức gì. Con chỉ muốn bắt chước các tông đồ xưa, nghe Đức Giêsu kêu gọi, là «lập tức» bỏ tất cả mà đi theo, không suy nghĩ, đắn đo, tính toán. Xin ban cho con tinh thần tin tưởng và phó thác nơi quyền năng vô biên của Cha trong mọi sự. Amen.

 

59. Suy niệm của nhóm Đồng Hành

Chi Tiết Hay

* Người Do Thái tránh dùng chữ “Thiên Chúa”. Thay vì nói “Triều Đại Thiên Chúa”, họ dùng “Nước Trời”.

* Qua Giáo Hội Chúa Kitô thể hiện với mọi người. Qua Giáo Hội Chúa Kitô kêu gọi mọi người tham gia vào công trình cứu độ vĩnh cữu. Do đó, cho đến khi Chúa Giêsu lại đến, Triều Đại Thiên Chúa hiện nay là Giáo Hội.

* Đức Giêsu là một chiến lược gia giỏi. Ngài có một nhận định sắc bén về địa thế, thời điểm, và con người:

* Galilê là một giao điểm lưu thông chánh của các đại lộ từ Ai-cập đến Xyria. Galilê là một vùng tuy nhỏ nhưng rất trù phú và đông dân cư. Một làng nhỏ nhất trong vùng này có đến 15.000 dân. Đức Giêsu chọn Ca-phác-na-um làm tâm điểm cho sứ vụ của Ngài. Đây là một làng phía đông bắc của Biển Hồ Galilê với nhiều chủng tộc khác nhau.

* Đức Giêsu kêu gọi các người chài vào lúc mùa đánh cá đã chấm dứt. Lúc ấy họ rảnh rỗi để có thể đeo đuổi những hoạt động khác.

* Trong Gioan 4:35-42, các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan đã gặp Đức Giêsu trước lúc này.

* Vì có Jerusalem, người Giuđê coi người miền Galilê là “nhà quê”. Nadarét là một làng trong vùng Galilê, do đó Đức Giêsu được coi là người Galilê.

* Ngành ngư nghiệp là một kỷ nghệ quan trọng của vùng Biển Hồ Galilê vào thời đó. Các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan có lẽ không phải là dân nghèo, nhưng mà là những thương gia với một sự nghiệp vững chắc và một đời sống ổn định. Lưới cá, thuyền bè và tình thân gia đình là những dấu hiệu của thành công trong mắt của các đồng nghiệp.

* Theo truyền thống, môn đệ chọn một người thầy (rabbi) để học Luật để trở thành một ông thầy. Trái lại, Đức Giêsu, một người thầy, lại tuyển chọn môn đệ. Các thầy khác dạy Luật, Đức Giêsu rao giảng về Triều Đại Thiên Chúa, và tìm sự thông hiệp với đường lối của Ngài.

* Hội đường (sygnagogue) là nơi người Do thái tụ họp cho những sinh hoạt cộng đồng và những nghi thức tôn giáo như là giảng dạy, trình luật và án phạt. Những lễ nghi cúng tế và thờ phượng chỉ được làm trong đền thờ.

Mt Đim Chính

ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA KITÔ XÂY DỰNG TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA

Đức Giêsu công bố khởi đầu Triều Đại Thiên Chúa. Triều đại ấy ở ngay trên thế gian này. Ăn năn và sám hối là điều kiện tiên quyết để vào triều đại này.

Triều Đại của Tình Yêu và Thánh Thiện này là cho cả nhân loại không phân biệt màu da hay chủng tộc. Đây là dấu chỉ Thiên Chúa can thiệp một cách đặc biệt để cứu rỗi nhân loại. Ngài cũng muốn chúng ta phải mở lòng cho ân sủng của Thiên Chúa và cải thiện đời sống chúng ta.

Chúng ta phải chọn hoặc theo Đức Giêsu hoặc chống lại Ngài. Qua sự kêu gọi các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan vào Triệu Đại Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta cùng đồng hành với Ngài để xây dựng Triều Đại Thiên Chúa. Đó là sứ mệnh.

Suy Nim

  1. Chúa Giêsu gọi Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan theo Người ngay khi Người ĐI NGANG qua, trong lúc họ đang lo chu toàn những trách nhiệm hằng ngày riêng của họ. Trong cuộc sống hằng ngày, tôi có thể nhận định được lời mời gọi của Chúa để làm bạn đồng hành với Đức Kitô không?
  2. Hãy suy gẫm về thái độ của các ông Simon, Anrê, Giacôbê, và Gioan khi Chúa Giêsu kêu gọi họ theo Người ngay khi Người ĐI NGANG qua. Tôi có thái độ nào để đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa?
  3. Triều Đại Thiên Chúa là Giáo Hội hiện nay. Cảm nghĩ của tôi ra sao về Giáo Hội? Trong khái niệm sứ vụ (ministry) và sứ mệnh (mission), tôi đã đóng góp những gì để xây dựng Giáo Hội?

 

60. Chương trình hoạt động của Đức Giêsu

(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ng cnh

Nói tổng quát, bốn chương đầu của Mt là Mở đầu cho toàn Tin Mừng I.

Về ngữ cảnh của đoạn văn chúng ta đọc hôm nay, chúng ta có thể xác định như sau: Trong ch. 1–2, sau khi đã dùng một thứ Diễn văn ngôn sứ rút ra từ Cựu Ước mà cho thấy làm thế nào Lời Chúa đưa lại ý nghĩa cho “xuất xứ của Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Abraham” (1,1-17) và thực hiện chương trình của Người xuyên qua lịch sử loài người (1,18-25), sang ch. 3–4, Mt cho chúng ta thấy rằng, khi đến tuổi trưởng thành, Đức Giêsu đã đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người trước nhan Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người. Những gì Kinh Thánh đã nói về Người, Người sẽ hoàn tất cách ý thức và tự do. Được đầy Thánh Thần, Người sắp được Chúa Cha bổ nhiệm làm Đấng Mêsia chân chính đi đáp ứng nỗi niềm chờ mong của dân chúng.

2.- B cc

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (4,12-16);

2) Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (4,17);

3) Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (4,18-22);

4) Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (4,23).

3.- Vài đim chú gii

Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã b np (12): Trong các đoạn Mt 10,4; 17,22; 20,18-19; 26,2, tác giả cũng nói rằng Con Người “bị nộp” (paredothê); như thế, Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu có chung mộtsố phận. Dạng bị động hàm ý biến cố thuộc về ý muốn của Thiên Chúa: chương trình của Thiên Chúa đã được hoàn tất trong cuộc đời Gioan, cũng như sau này, sẽ được hoàn tất trong cuộc đời Đức Giêsu. Hơn nữa, hai sứ vụ được liên kết với nhau trong chương trình của Thiên Chúa: Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai vào lúc Thiên Chúa cho chấm dứt sứ vụ của Gioan.

Người lánh qua (anachôreô, “lui về”) (12): Miền Giuđê là pháo đài của Do-thái giáo chính thức, với hai nhóm bảo vệ là Pharisêu và Xađốc. Đã bắt được Gioan, hẳn là họ sẽ tìm cách loại trừ cả Đức Giêsu. Vì thế, Người quyết định khởi đầu sứ vụ tại miền Galilê, nơi mà ảnh hưởng của Thượng Hội Đồng và của nhóm Pharisêu không mạnh bao nhiêu. Khi sử dụng động từ anachôreô ở đây như ở 2,12 (x. 9,24; 12,15; 15,21;…), rất có thể Mt cho hiểu rằng chính thái độ cứng tin của miền Giuđê (dưới ảnh hưởng của phái Pharisêu, tỏ ra bằng việc loại trừ Gioan) đã khiến Đức Giêsu phải ngỏ lời với “Galilê, miền đất của dân ngoại”.

b Nadarét (13): Không phải là Người bỏ rơi, nhưng là không chọn Nadarét làm khởi điểm cho sứ vụ. Đức Giêsu chọn Caphácnaum: Mt chuẩn bị đưa vào sấm ngôn Is 8,23–9,1. Caphácnaum chính là miền đất xưa kia hai chi tộc Dơvulun và Náptali đã cư ngụ (x. Gs 19,10-16.32-39). Mt trích sấm ngôn Isaia này là để trả lời vấn nạn vì sao Đức Giêsu chọn miền Galilê làm nơi sân khấu chính để khởi đầu hoạt động của Người: điều đó nằm trong chương trình của Thiên Chúa (như sấm ngôn Is đã loan báo).

Dơvulun … Náptali (15-16): Hai chi tộc này chiếm phần lớn miền Galilê, đã bị đế quốc Átsua thôn tính vào năm 734, và sau đó bị hy-hóa vào thời các triều vua dòng họ Sêlêukhô. Từ đó họ đã bị Dân Ngoại tràn ngập. Ngôn sứ Isaia (ch. 8 và 9) đã loan báo ngày giải phóng. Mt thấy chính Đức Giêsu sẽ giải phóng họ, không phải về phương diện chính trị quân sự, mà là về tôn giáo.

Galilê, đất ca dân ngoi (15): Đối lại với Giuđê tinh tuyền về giống nòi, Galilê trở thành biểu tượng của cuộc quy tụ phổ quát: đây là Đất Hứa đang mở ra với Đức Giêsu, là Israel chân chính, sau khi Người đã ở trong hoang địa và vượt qua sông Giođan. Chúng ta gặp mộtđề tài quen thuộc của Mt: Đức Giêsu ngỏ lời trước tiên với các chiên lạc nhà Israel (x. 10,6; 15,24).

mt ánh sáng huy hoàng (16): Ánh sáng này sẽ xuất hiện ra với các môn đệ vào cuộc Hiển Dung (x. 17,2) và còn xuất hiện huy hoàng rực rỡ hơn nữa vào Ngày Phục Sinh.

Anh em hãy hi ci, vì Nước Tri đã đến gn (17): Công thức này tương tự với công thức ở 3,2 (Gioan Tẩy Giả) và 10,7 (các môn đệ). Bằng cách đó, tác giả Mt khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng: việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Đức Giêsu.

Nước Tri (17): Đây là cách Mt nói quanh để tránh gọi tên Thiên Chúa, nên “Nước Trời” chính là “Nước Thiên Chúa” (nhưng cũng có bốn lần ông dùng cụm từ “Nước Thiên Chúa”: 12,28; 19,24; 21,31.43). Basileia có thể dịch ra là “triều đại, vương quyền, vương quốc”. Còn “trời” (tôn ouranôn) không có nghĩa là “Nước” này thuộc về thiên giới, nhưng có nghĩa là Đấng đang ở trên trời (5,48; 6,9; 7,21) thì đang trị vì trên thế giới. Do trung thành với truyền thống Cựu Ước, Mt biết rằng vương quyền luôn luôn thuộc về Thiên Chúa (x. Tv 22,29; 103,19; 145,11-13). Đây là sứ điệp chính của Đức Giêsu: Người loan báo “Nước” (Triều Đại) này đang/đã đến và chính Người thực hiện trong tư cách là Con Người (x. 26,64; Đn 7,13-14 [LXX]: Mt 28,18). Trong Mc và Lc, có những chỗ Đức Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa như là mộtthực tại thuộc về tương lai (x. Mc 14,25; Lc 11,2; …), và có những chỗ Người lại bảo đó là mộtthực tại đang có trong hiện tại nơi sứ vụ và nơi bản thân Người (x. Lc 7,18-23; 10,23t…). Do dựa trên loạt bản văn thứ nhất hoặc thứ hai mà có hai lý thuyết ở hai đối cực: “thời cánh chung đã đến” và “thời cánh chung đang đến”.

đã đến gn (eggiken, 17): Eggiken là thì hoàn thành của động từ eggizô, “đến gần”. Đây là mộttừ vẫn đang gây nhiều tranh luận. Các bản dịch khá khác nhau: “est tout proche” (BJ), “s’est approché” (TOB), “is at hand” (King James 1611; NAB 1988), “is fast approaching” (để nêu bật tính cấp bách: x. Albright trong Anchor Bible), “is near, is at hand” (Zerwick). C.H. Dodd cho rằng eggiken được dịch từ mộtđộng từ a-ram có nghĩa là “đạt tới; đến”. Vì thế, ông dịch là “Nước Trời đã đến”. Nhưng eggizô (do tính từ eggys, “gần”) có nghĩa là “đến sau; tiến lại gần”; do đó, đa số các nhà chú giải chọn cách dịch là “Nước Trời đã gần (đến)”.

Cc. 16-22: Truyện Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên được kể theo mẫu các ơn gọi ngôn sứ trong Cựu Ước (x. Êlisa: 1 V 19,19). Bài này không nói đến chiều kích tâm lý, nhằm làm nổi bật lời kêu gọi của Đức Giêsu và lời đáp gắn bó bằng đức tin hơn. Lược đồ này diễn tả tương quan tiêu biểu giữa Đức Giêsu và người môn đệ lý tưởng: Thầy vừa lên tiếng gọi, môn đệ bỏ mọi sự mà đi theo ngay, không lưỡng lự, không thắc mắc. Đức Giêsu chỉ yêu cầu các ông đi theo Người và sống với Người, và chỉ sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng sau Phục Sinh (khác với Mc 6,12-13 và Lc 9,6). Khi viết như thế, có lẽ Mt muốn ưu tiên nêu thật rõ dung mạo có một không hai của Thầy.

nhng k lưới người như lưới cá (19): Phải chăng đây là một ám chỉ đến sách Êdêkien (47,10)? Bản dịch TOB bảo hiểu Mt 4,19 và Lc 5,10 theo Mc 1,17 (chú thích c): hình ảnh tiêu cực và như đe dọa (x. Kb 1,15.17; Gr 16,16) để diễn tả rằng các tông đồ sẽ đi rao giảng Tin Mừng hầu quy tụ người ta lại mà chịu phán xét và được vào Nước Thiên Chúa (x. Mt 13,47-50). Nhưng nếu hiểu theo Lc 5,10, thì ý nghĩa tích cực hơn nhiều: động từ zôgreô (do zôos, “sống”, và agreô, “bắt”) có nghĩa là “bắt (mà cứu sống)” (Zerwick). Có lẽ cũng nên hiểu Mt 13,47-50 theo hướng này.

Dù sao, có thể nói rằng Nước Trời như đã được thiết lập khi Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, bởi vì Nước Trời chủ yếu là mộtcộng đoàn gồm những con người quy tụ quanh Đức Giêsu trong sự hiệp thông với Chúa Cha.

khp min Galilê (23): Đức Giêsu đến nhắm ngỏ lời với toàn thể dân Người trong khắp xứ (chứ không như các kinh sư Do-Thái).

ging dy … cha … (23): “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê / các thành thị, làng mạc / giảng dạy (didaskôn, participle) trong các hội đường của họ, rao giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.) hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối từ ch. 5 đến ch. 9. Năm chương này làm thành một đơn vị về văn chương và đề tài. Nội dung của đơn vị này sẽ nhắc lại và triển khai ba phân-từ (participle) chứa trong câu tổng hợp này.

Giáo huấn của Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10 phép lạ) là hai hình thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước Trời bằng lời nói (ch. 5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi minh họa đặc biệt những điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có thể nói Bài Giảng này nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng này như là lời đáp của con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).

cha hết mi k bnh hon tt nguyn trong dân (23): Nền văn chương khải huyền thời Đức Giêsu (x. Các Thánh vịnh Salômôn) đầy những ý tưởng về Thiên Chúa là Đấng che chở người công chính và tránh cho họ khỏi bệnh hoạn và những nghịch cảnh. Hoạt động chữa bệnh của Đức Giêsu đáp ứng mộtniềm chờ mong nơi dân chúng, nhất là thực hiện lời sấm Is về Người Tôi Trung của Đức Chúa mang lấy bệnh tật của dân (x. Is 53,4), mà ông đã áp dụng cho Đức Giêsu (x. Mt 8,17).

Còn toàn bộ Tin Mừng cho thấy rằng Đức Giêsu không chọn nguyên tắc là chữa tất cả các bệnh nhân, y như thể Người muốn cho người ta hưởng nhờ tối đa khả năng làm phép lạ của Người. Người chỉ thực hiện mộtsố phép lạ chữa bệnh có ý nghĩa liên hệ đến Nước Trời và quyền bính của riêng Người.

4.- Ý nghĩa ca bn văn

* Galilê, địa bàn hot động ca Đức Giêsu (12-16)

Đức Giêsu đã đến sông Giođan để được Gioan ban phép rửa cho; Người đã dừng lại ở phía nam Thánh Địa (x. 3,13–4,11). Thế rồi tại sao Người lại trở về để hoạt động tại miền Galilê, là miền không được coi là quê hương của Đấng Mêsia (x. Ga 7,41.42.52)? Tại sao Người không ở lại miền Giuđê và Giêrusalem, là trung tâm của dân Thiên Chúa? Mt cho biết là Đức Giêsu rút lui (lánh đi), Người cảm thấy bị đe dọa và nhường bước cho áp lực của những hoàn cảnh bên ngoài. Sự đe dọa đã khiến cha nuôi Người phải đổi chỗ ở vào đầu đời Người (2,13.14.22) và sẽ còn bó buộc Người liên tục rút lui cả trong thời gian hoạt động công khai (12,15; 14,13). Với các môn đệ sau này, Người dạy họ trốn sang thành khác, khi bị bách hại (10,23). Cũng như Người, họ phải bố trí đời sống dựa theo những hoàn cảnh bên ngoài. Nơi số phận của Gioan, đã bị vua Hêrôđê cho bắt và sẽ cho giết chết theo ngẫu hứng (x. 14,3-12), kết cục cuộc đời Đức Giêsu đã được loan báo: Người cũng sẽ bị giao nộp vào tay loài người (17,22), cho sự gian tà và độc ác của họ. Như thế, ngay trên bước khởi đầu hoạt động của Đức Giêsu, bóng tối của kết cục bi thảm đã được trương ra. Hoạt động của Người được triển khai dưới dầu chỉ là cuộc Khổ Nạn của Người. Tuy nhiên, tất cả những điểm này đều thuộc về chương trình của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa đã để cho Gioan và sẽ để cho Đức Giêsu “bị nộp”; sự kiện Gioan bị nộp là như tín hiệu Thiên Chúa dùng để báo cho Đức Giêsu biết đã đến lúc Người hoạt động.

Cũng như Người đã đến cư ngụ tại Nadarét (2,22t), nay Đức Giêsu đến hoạt động tại Galilê và Caphácnaum, do bị bó buộc bởi các biến cố bên ngoài. Trong cả hai trường hợp, tác giả ghi nhận là như thế, ý muốn của Thiên Chúa do các ngôn sứ loan báo được thể hiện. Cho dù nhiều lần phải điều chỉ do các bó buộc bên ngoài, hành trình của Đức Giêsu vẫn hoàn toàn ở dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Người đi về vùng ngoại biên Israel, vào “Galilê, đất của dân ngoại”, tại đó cũng có người ngoại cư ngụ và chung quanh là các miền đất Dân ngoại. Hoạt động của Người nhắm đến dân Israel (15,24), nhưng tại đây cũng lan tỏa ra các Dân ngoại và được họ nhận biết (x. 4,24t). Điều đã được loan báo bởi cuộc viếng thăm của các hiền sĩ (2,1-12) và điều sẽ được công bố trong sứ mạng cuối cùng của các môn đệ trong liên hệ với muôn dân (28,19), nay cũng được tỏ hiện tại các nơi chính mà Người hoạt động: Người cũng là ánh sáng cho Dân ngoại nữa. Tại nơi đã chỉ có bóng tối của tử thần, đã bừng lên mộtánh sáng. Đối với loài người chúng ta, mặc dù chúng ta biết nhiều, kết cục và ý nghĩa của đời sống hoàn toàn vô phương dò thấu và mờ mịt. Bằng sứ điệp của Người về Thiên Chúa, Đức Giêsu mang ánh sáng và khai mở sự sống viên mãn.

* Đối tượng chính ca li Đức Giêsu rao ging (17)

Các lời “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” tóm tắt toàn thể sứ điệp của Đức Giêsu. Tiếng gọi đi trước, nhưng hoàn toàn lệ thuộc lời loan báo, vì dựa trên lời này (“vì”). Thuật ngữ “Nước Trời” chỉ có trong Mt, tương ứng với “Nước Thiên Chúa” trong phần còn lại của Tân Ước. Theo cách dùng của người Do-thái, họ tránh từ “Thiên Chúa” và thay thế bằng “trời” (x. 21,25; Lc 15,18). “Nước Trời” chính là triều đại hoặc quyền chủ tể của Thiên Chúa như là vua. Tất cả hoạt động của Đức Giêsu quy chiếu về Triều Đại. Triều Đại không có nghĩa là mộtđiều gì khác và tách biệt với Thiên Chúa, nhưng là chính Thiên Chúa trong tư cách Chúa Tể và Vua của dân Người, cùng với các hậu quả của quyền chủ tể trên dân. Dân thì luôn luôn thuộc về nhà vua; quyền chủ tể vương giả có nghĩa là dấn thân với lòng tốt và sự quan tâm mà lo lắng cho đời sống của dân, như một mục tử lo lắng cho đời sống của đàn chiên (x. Tv 23,1).

Triều Đại này đã đến gần, chứ chưa hoàn toàn hiện diện. Đức Giêsu sẽ dạy họ cầu nguyện “xin triều đại Cha ngự đến” (6,10). Tuy nhiên, Triều Đại này đã đến gần vĩnh viễn. Thiên Chúa đã quyết định giương cao Vương quyền này trước mặt tất cả các thế lực khác và thực hiện Vương quyền này cách công khai và hết sức hữu hiệu. Không còn có thể quay lui, mà chỉ có thể bước tới cho đến khi Triều Đại này được tỏ hiện trọn vẹn. Thiên Chúa sẽ không trì hoãn và cứ ẩn mình mãi. Người sẽ không bỏ rơi loài người cho các thế lực của thiên nhiên và lịch sử, cũng như cho hoàn cảnh trong đó họ phải quy phục lẫn nhau. Người sẽ chấm dứt tất cả các thế lực này và chính Người sẽ trực tiếp là Vua và Chúa. Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ bản chất của Triều Đại này đặc biệt trong sứ điệp của Người về Thiên Chúa như là Cha và trong hoạt động bác ái của Người để chữa lành và giúp đỡ.

Trước lời công bố là lời mời gọi: “Hãy hối cải!”. Đức Giêsu mời các thính giả quay về với Thiên Chúa. Họ phải quay mặt về Người, chăm chú lắng nghe, với lòng tin tưởng và hy vọng. Con người chỉ có thể hoán cải nếu Thiên Chúa quay về cách nhưng-không với con người. Tuy nhiên, lời kêu gọi hoán cải được đặt ở đầu, bởi vì lời đáp của chúng ta với Thiên Chúa là điều tuyệt đối cần thiết, và có thể thất bại nếu không được nói ra. Hành động của Thiên Chúa thì đã chắc chắn; vì thế, Đức Giêsu đã nhấn mạnh nhiều trên sự cần thiết phải hoán cải.

* Nhng người đầu tiên được nhn li rao ging (18-22)

Một trong những điều kiện căn bản đề Đức Giêsu có thể hoạt động là Người có quanh mình mộtsố người để họ đi đường với Người thường xuyên, thiết lập với Người mộtsự hiệp thông đời sống và có thể trải nghiệm trọn vẹn hoạt động của Người. Đức Giêsu không hoạt động tùy hứng hay theo ngẫu nhiên, cũng không bắt hoạt động của Người lệ thuộc những cuộc gặp gỡ tình cờ và chóng qua. Người có mộtcộng đoàn môn đệ bao quanh. Lời kêu gọi “Hãy hối cải!” được nhắc lại và được làm sáng tỏ bởi tiếng gọi “Hãy đi theo tôi!”. Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ đầu tiên là Simôn và Anrê, Giacôbê và Gioan đi theo Người. Ta sống sự hoán cải trong khi đi theo Đức Giêsu. Ai theo Người thì tin tưởng vào Người, bởi vì Người biết kết cuộc và biết con đường phải theo. Ai đi theo Người thì gắn bó với Người và chấp nhận được Người hướng dẫn. Khi đi theo Người, các môn đệ được đưa vào trong sứ điệp về Nước Trời và vào trong việc hoán cải như là câu trả lời đúng đắn với sứ điệp này.

Những ai đi theo Đức Giêsu thì phải ra khỏi hoàn cảnh sống trước đó và gắn bó với Người. Tuy nhiên, dây liên kết này không tách họ khỏi những người khác, trái lại phải chuẩn bị họ cho mộtnhiệm vụ mới nơi loài người. Đức Giêsu gọi đi theo Người, đồng thời cho biết ý định của Người: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”(4,19). Xuyên qua cuộc cộng đồng sinh tử với Người, Đức Giêsu chuẩn bị họ tiếp nối sứ mạng của Người, trong tư cách là những sứ giả của Người (x. 9,36–10,42; 28,16-20).

* Các hình thái chính ca hot động ca Đức Giêsu (23)

Hoạt động của Đức Giêsu được triển khai khắp miền Galilê và được thực hiện qua giáo huấn, lời giảng và các phép lạ chữa bệnh (4,23). Lời dạy về sự hoán cải đúng đắn, lời loan báo và giải thích Tin Mừng về Nước Trời, và sự xác nhận các điều đó nhờ các cuộc chữa bệnh là những điểm chìa khóa của hoạt động của Đức Giêsu.

+ Kết lun

Là vị Tiền Hô của Đấng Mêsia, Gioan đã dừng chân tại hoang địa và ở tại sông Giođan mà làm phép rửa cho những ai đến với ông. Còn Đức Giêsu, Đấng Mêsia, đã sống đời “du thuyết”; Người rảo khắp miền Galilê mà công bố rằng Nước Trời đang đến. Ngay từ đầu, Người đã tỏ ra là vị Mục Tử tốt lành đi tìm “các chiên lạc của nhà Israel”. Và vì quan tâm bảo đảm cho hoạt động của Người được hữu hiệu lâu dài, Người đã quy tụ các “ngư phủ lưới người” đầu tiên, để họ sống với Người và với nhau. Sau này, các ông sẽ nối tiếp Người, đi loan báo Nước Trời khắp nơi, không phải chỉ cho dân Israel, mà cho mọi người thuộc mọi thời đại.

5.- Gi ý suy nim

  1. Vào ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn công bố sứ điệp về Nước Trời giữa lòng cộng đoàn cử hành Phụng vụ. Lời Người vẫn cấp bách như thuở nào: “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Thiên Chúa vẫn đang tìm cách hiển trị trong đời sống chúng ta mộtcách rõ nét hơn; Người có thể áp đảo chúng ta, nhưng Người không muốn, vì Người tôn trọng tự do của chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi xét lại tâm hồn mình, bỏ đi những trở ngại khiến trái tim chúng ta không mở rộng ra được với các viễn tượng phổ quát của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không loại bỏ được những trở ngại đó, là chúng ta như đang bị bệnh tật. Khi đó, chúng ta có thể xin với Đức Giêsu và Người sẽ chữa chúng ta lành.
  2. Các hoàn cảnh bên ngoài không phải chỉ là những bó buộc, nhưng thường cũng là những chỉ dẫn Thiên Chúa ban để chúng ta đi đúng đường lối của Người. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế. Các thánh cũng đã hiểu như thế, qua các cuộc mò mẫm tìm kiếm ý Chúa. Hôm nay, chúng ta được mời gọi lưu ý đến các hình thái này mà Thiên Chúa đang dùng để hướng dẫn chúng ta.
  3. “Hãy hối cải!”. Loài người không được quay lưng lại với Thiên Chúa, rời xa Người và tìm hạnh phúc và ơn cứu độ ở chỗ khác. Hành động Thiên Chúa đến với loài người đòi buộc họ đáp trả bằng cách di chuyển về phía Thiên Chúa. Họ không thể được Người đến gặp và nhận được các phúc lành của Triều Đại Người, nếu họ quay về với những người khác. Ngay từ đầu, lời rao giảng của Đức Giêsu đã nêu bật hai đề tài chính này: Người nói rõ là chúng ta có thể chờ đợi gì nơi Nước Thiên Chúa và đồng thời, Người trình bày cho thấy đâu là các hình thái của sự hối cải chân thật. Cả hai yếu tố này được trình bày rõ ràng trong các Mối Phúc (5,3-12).
  4. Đức Giêsu xuất hiện là đưa lại ánh sáng và niềm vui. Hôm nay, chúng ta có nhận ra Người vẫn đang hiện diện trong thế giới, giữa lòng cuộc sống chúng ta, để chúng ta tiếp tục đón nhận được niềm vui và ánh sáng? Đàng khác, chúng ta đã được chọn để nối tiếp sứ mạng của Người. Chúng ta đang chu toàn sứ mạng đó thế nào? Đức Kitô vẫn đang đến gặp chúng ta ngay giữa những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi phiền sầu của chúng ta, để mời gọi chúng ta đi theo Người. Có lẽ Người không lôi kéo chúng ta theo Người về mặt thể lý cho bằng về mặt thiêng liêng: chúng ta được thúc bách rời bỏ chính mình, bỏ tính ích kỷ, bỏ đi sự cứng cỏi, để sống với Người mỗi ngày trong sự từ bỏ và trong tình yêu.
  5. “Hãy theo tôi”. Tiếng gọi của Đức Giêsu nhằm mời gọi các môn đệ đầu tiên cũng là mộtlời mời hoán cải liên tục. Chúng ta được mời gọi lấy mộtquyết định cương quyết đầu tiên, đôi khi là mộtđoạn tuyệt đau đớn nào đó, rồi ngày qua ngày, kiên trì bước theo giáo huấn của Người, chúng ta sẽ thực hiện những bước hối cải mới để càng trở nên môn đệ hơn.

 

61. Suy niệm của Noel Quession

Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đi b np…

Chúng ta luôn nghĩ rằng thời đại của chúng ta là một thời đại xáo trộn nhất với những vụ bạo lực, bắt cóc tin, giết người tấn công có vũ trang. Vả lại, Tin Mừng của Matthêu giới thiệu với chúng ta thời đại của Đức Giêsu như một thời đại bi đát. Đúng vào lúc mà chính quyền bắt giam người anh họ của Người, không cho ông giảng dạy nữa, Đức Giêsu quyết định tiếp lục sự giảng dạy đó! Phải có lòng can đảm, Đức Giêsu mới dám lao vào một cuộc phiêu lưu cũng sẽ đưa Người đến cùng một số phận bi thảm. Ở đây Matthêu sử dụng cùng một từ ngữ như trong cuôc khổ nạn: “Nghe tin ông Gioan đã bị nộp”. Trong vài tuần lễ nữa, Đức Giêsu sẽ nói: “Này chúng ta lên Giêrusalem. Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư; họ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại” (Mt 20,18 – 26,2).

Đời sống của tôi cũng thế, có lẽ khó sống. Những cuộc xung đột mà tôi phải sống chẳng phải là cơ hội để tôi hiệp thông với Đức Giêsu sao?

Người lánh qua min Galilê…

Từ “lánh qua” lui về, là từ đặc biệt của Tin Mừng Matthêu. Thánh sử nhấn mạnh rằng Đức Giêsu (vốn là Thiên Chúa!) là một hạng người bị cấm cách, lưu đày lúc nào cũng phải chạy trốn, và bị những kẻ thù ghét truy nã (Matthêu 12,15 – 14,13 – 15,21). Cũng với những công thức ấy Matthêu đã cho thấy Giuse chạy trốn khỏi miền Giuđê lui về miền Galilê vì Áckêlao nguy hiểm đã kế vị vua cha (Mt 2, 22-23).

Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum. Một thành ven biển hồ Galilê. thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali.

Đức Giêsu dời chỗ. Người rời bỏ ngôi làng nhỏ nơi Người đã sống thời thơ ấu. Nói đến ở một “thành phố trong thế kỷ cơ động của chúng ta, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu cũng đã phải làm quen với những láng giềng mới, tạo ra các mối quen hệ mới, thay đổi môi trường! Vậy, Đức Giêsu đã chọn thành phố nào để ở như sau này người ta sẽ nói “thành phố của Người” (Matthêu 9,1). Caphácnaum! Đó là thành phố của Simon Phêrô. Nhưng sự khai quật gần đây đã khám phá ra ngôi nhà khiêm tốn của người ngư dân đó, rất gần cảng… Đức Giêsu đã đến cư ngụ trong ngôi nhà đó. Caphácnaum là một thành phố biên giới, nằm trên đường biên giới của hai quốc gia của Hêrôđê và của Philípphê. Thành phố này có một trạm thu thuế, rnột đội quân La mã đồn trú. Khác với Nadarét là một thị trấn nhỏ, nằm ẩn khuất sau những đồi núi, Caphácnaum là nơi qua lại và tụ tập nhiều dân là địa điểm quan trọng trên con đường ven biển nối liền Đamát, cửa vào sa mạc, đến Xêsarê cửa ra biển Địa Trung Hải. Đức Giêsu không dời chỗ mà không có lý do. Sự chọn lựa này có một ý nghĩa.

Để ng nghim li ngôn s Isaia nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hi con đường ven bin, và vùng t ngn sông Giođan, hi Galilê, min đất ca dân ngoi! Đoàn dân đang ngi trong cnh tt tăm đã thy mt ánh sáng huy hoàng. Nhng k đang ngi trong vùng bóng ti ca t thn nay được ánh sáng bng lên chiếu ri”.

Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Đức Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha: Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Đức Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người: vì thế có sáu mươi sáu lời trích dẫn của Cựu Ước trong Tin Mừng của Matthêu. Nhưng chúng ta có thể thấy ở đây một ý chí có cân nhắc Đức Giêsu: Người đi đến vi nhng người xa Thiên Chúa nht.

Miền đất Galilê là một tỉnh pha trộn nhiều sắc dân, một sứ sở mở rộng cho các đoàn thương nhân. Đức Giêsu đến ở đó! Người không định rao giảng trước tiên cho thành Giêrusalem, và miền đất thánh Giuđê… nhưng trong miền đất phía Bắc, mở ra cho các ảnh hưởng ngoại giáo và do đó bị giới lãnh đạo Do Thái nghi ngờ và khinh bỉ như miền đất lạc giáo không nhiều thì ít. Giáo Hội ngày nay có mang tính chất truyền giáo như Đức Giêsu không?

Phần tôi thì sao? Những phản ứng sâu xa của tôi là gì? Có phải tôi chỉ lui tới thân mật với những người suy nghĩ giống tôi? Có phải tôi tránh tiếp xúc với những người ngoại giáo và vô thần? Có phải theo bước Đức Giêsu. Tôi đến chỗ ngã tư đường chỗ giao lưu với dân ngoại? Có phải tôi sẽ mạnh dạn đến xứ sở của “bóng tối và sự chết”, để đưa vào đó một chút “ánh sáng”?

Tôi chiêm ngắm Đức Giêsu rời bỏ ngôi làng nhỏ của người… đến cư ngụ ở Caphácnaum…

T lúc đó Đức Giêsu bt đầu rao ging, và nói rng: “Anh em hãy sám hi vì Nước Tri đã đến gn”.

Đức Giêsu tiếp tục việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả không thay đổi một lời (Mt 3,2) Và Đức Giêsu đến lượt mình bị giết chết, Phêrô sẽ lặp lại cùng một sứ điệp (Cv 2,38). “Anh em hãy sám hối, hãy thay đổi!”. Chúng ta có xác tín rằng chúng ta một sự đổi hướng phải thực hiện không? Chúng ta không tự phát quay hướng Thiên Chúa, Tha Thể tuyệt đối cũng như về người khác… Theo tính tự nhiên, chúng ta lấy mình làm trung tâm. Nếu chúng ta sáng suốt, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta có một sự đổi hướng hoàn toàn phải thực hiện… để Thiên Chúa thật sự ngự trị trong lòng chúng ta… để Nước Thiên Chúa được ở đây trong đời tôi.

Một cách cụ thể, sự sám hối, hoán cải nào mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi trong lúc này?

Người đang đi dc theo bin h Galilê, thì thy hai anh em kia, là ông Simon, chúng gi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xung bin vì các ông làm ngh đánh cá. Người bo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi s làm cho các anh thành nhng k lưới người như lưới cá”.

Cảnh nầy lầ một cảnh tầm thường và hoàn toàn đơn giản theo thể cách của Matthêu. Không có gì là phi thường, đặc biệt. Theo Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một phép lạ nhưng là một lời kêu gọi. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội, cuộc cách mạng đã thay đổi bộ mặt của trời đất, đã bắt đầu như thế… trong hoàn cảnh tầm thường của các ngư dân làm công việc mỗi ngày của họ. Chúng ta hãy lưu ý tầm quan trọng đó: Đức Giêsu “kêu gọi” các tông đồ của Người không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh… nhưng ở giữa đời sống mỗi ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp!

Quả Đức Giêsu có sự táo bạo? Chính Người đã khởi xướng, chính Người đã kêu gọi. Xem ra Người hoàn toàn biết rõ Người muốn đi đến đâu! Người lôi kéo người ta đi theo Người. Người điềm nhiên nói rằng mọi người được dựng nên cho Người, phải đi đánh lưới họ, như người ta đi lưới cá.

Lp tc hai ông b chài lưới mà đi theo Người.

Ngày nay, có sự thiếu ơn gọi. Tin Mừng ngày hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Chắc chắn, Chúa vẫn tiếp tục gọi. Ai sẽ chấp nhạn sống cuộc phiêu lưu trong hoạt đọng tông đồ như trong thời kỳ đó? Lúc đó, những người được gọi đã đáp lại vô điều kiện… Còn tôi?

Đi mt quãng na: Người thy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng vi Cha lã ông Dêbêđê vá lưới trong thuyn. Người gi các ông, lp tc các ông b thuyn, b cha li mà theo Người.

Sự đáp lại ơn gọi quả mau lẹ đối với chúng ta xem ra như không có thật. Chúng ta chớ nên quên rằng những người như Gioan và Giacôbê đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị về mặt tâm lý và lịch sử. Vả lại đây không phải là lần đầu tiên họ gặp Đức Giêsu. Họ đã gặp Người ở bờ sông Giođan (Ga 1,35-50). Tuy nhiên, chúng ta không nên giảm nhẹ những yêu sách triệt để của Đức Giêsu: Câu chuyện được xây dựng trên sơ đồ ngôn sứ Êlisa cũng đã đốt cày của ông, nướng bò của ông “để không bao giờ còn quay lại đàng sau. Chúng ta không đơn thuần trong một quan hệ “bình thường” của môn đệ với rápbi hay giáo trưởng của họ. Không phải Giacobê và Gioan, cũng không phải Phêrô và Anrê đã tìm kiếm Đức Giêsu mà chính Đức Giêsu với sự cao cả của Người đã có sáng kiến mời gọi họ.

Và nếu đó là Thiên Chúa mời gọi tôi? Tôi sẽ làm gì?

Thế ri Đức Giêsu đi khp min Galilê, ging dy trong các hi đường ca h, rao ging Tin Mng Nước Tri, và cha hết các bnh hon tt nguyn ca dân.

Matthêu tóm lược ở đây mọi hoạt động của Đức Giêsu. Thánh sử nói lại nguyên văn câu này trước lúc Nhóm Mười Hai bắt tay vào việc truyền giáo (Mt 9,35). Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm trong thinh lặng và kéo dài về Đức Giêsu. Tôi tưởng tượng Người, đang bước đi trên mọi nẻo đường, từ làng này sang làng khác.

Người rao giảng Tin Mừng. Ở đây có từ ngữ “kêrussôn” mà nghĩa theo mặt chữ là cao rao (kêu gào) Tin Mừng. Từ này gợi ý một anh mõ làng (một người rao tin) đến gần để công bố một tin: Nước Thiên Chúa đã đến! Người cũng giáo huấn dạy dỗ. Từ dùng ở đây là “didaskôn” gợi ý một hoạt động được triển khai nhiều hơn và mang tính sư phạm nhiều hơn. Giờ đây chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu được vây quanh bởi những kẻ mà người kể cho nghe những dụ ngôn, ví dụ là như thế. Một số nhà chú giải Kinh Thánh nghĩ rằng Đức Giêsu đã sử dụng các phương pháp giảng dạy của các giáo trưởng thời đại Người… tức là bắt họ học thuộc lòng những bản văn mà họ không được quên. Sau cùng, Người chữa lành. Và chúng ta còn ghi nhận từ ngữ Hy Lạp mà người nào biết tiếp Pháp sẽ nhận biết dễ dàng: “thérapeuôn”. Đức Giêsu là một người đầy lòng nhân hậu, Người luôn chạnh lòng thương vì tất cả những đau khổ mà Người gặp trên con đường Người đi qua.

Lạy Chúa, xin chữa lành chúng con! Xin cứu chúng con! và làm cho chúng con thành những người cứu độ với Chúa.

 

62. Chú giải của Fiches Dominicales

TC KHC H B THUYN MÀ THEO NGÀI

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. T mt thi đại đã chm dt đến mt thi đại đang bt đầu.

Phần đầu bài Phúc âm Chúa nhật thứ III hôm nay (câu 12-16) được coi như đoạn kết chương nhập đề của Matthêu. Một đoạn kết đã phác hoạ những đề tài sắp khai triển.

Bắt đầu là một cuộc tĩnh tâm. Đức Giêsu rời bỏ sông Giođan, lui về ẩn ở miền Galilêa. Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, Matthêu đã giúp ta làm quen với lối “ẩn dật” chiến thuật này khi gặp đe doạ, bắt bớ. Hãy nhớ lại cuộc chạy trốn sang Ai Cập khi Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ vô tội, và khi trở về không về Giuđêa nơi bạo chúa Arkêlaô thống trị, nhưng, để được an toàn, đã về Nadarét, xứ Galilêa. Trong khi Đức Giêsu thi hành sứ vụ, ta sẽ thấy Người “ẩn mình” khi sức ép của địch thù quá căng thẳng, cho đến khi từ nơi ẩn dật Xêsarê Philipphê, Người bắt đầu chuyến đi lên Giêrusalem để đương đầu với đau đớn, khổ nạn.

Nguyên nhân của việc rút vào bóng tối này đã được thánh sử nói rõ: đó là việc Gioan Tẩy Giả bị bắt giữ.

Đó là dấu hiệu kết thúc một thời đại. Thời của Lề Luật và các tiên tri – Gioan Tẩy Giả qua đi có nghĩa là bắt đầu một thời đại mới, thời đại hoàn tất trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng cách kết thúc tác vụ của Người Tiền hô đã tiên báo chung cuộc dành cho Đấng mà Ngài có trách nhiệm loan báo việc ngự đến!

Trốn tránh sự thù địch của Hêrôđê Antipas, môi trường hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu sẽ là Galilêa. Tên Galilêa có nghĩa là: nơi hội tụ các dân tộc đã phiên dịch chính xác tính chất của miền đất biên giới nơi đủ mọi sắc dân chung sống, tràn ngập ảnh hưởng ngoại lai, vùng đất mà Giuđêa và Giêrusalem nghi kỵ nếu không nói là khinh bỉ.

Matthêu nhìn thấy ở đó cả một biểu tượng. Có chỗ tên gọi đó là miền đất thuộc Zabulon và Nephtali. Thực vậy; từ lâu không còn ai hài tên này ra nữa. Cl. Tassin giải thích: vì đối với các đôc giả của Matthêu cũng như đối với ta, tên ấy đã lỗi thời, không còn ghi trong sử sách. Việc hài tên chỉ cho thấy rằng: cùng với sự khai mạc tác vụ Đức Giêsu tại Galilêa, lời sấm Isaia loan báo từ thời 2 chi họ ấy bị sát nhập vào Assyrie, 734-732 trước Công nguyên, đã được thực hiện; “Dân đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng huy hoàng” (bài đọc I Chúa nhật này). Tin Mừng mà Đức Giêsu khởi sự rao giảng tại Galilêa, “nơi hội tụ dân ngoại không phải chỉ dành cho 1 dân tộc, nhưng cho tất cả mọi người, không phân chia, không loại trừ. Như một biểu tượng, Người đã hướng về dân ngoại và những kẻ bị loại trừ.

Cl. Tassin kết luận: “Ta có thế tóm tắt tư tưởng của Matthêu như sau: Đức Giêsu đã chọn Galilêa vì Galilêa tượng trưng cho thế giới dân ngoại. Quả vậy, trung thành với sứ mệnh clta Emanuel được sai đến với nhà Israel, Ngài vẫn ngỏ lời với dân Do Thái. Nhưng biểu tượng vẫn còn đó. Vào thời của tác giả Phác âm, các tên “Zabulon và Nephtali” nhắc lại cảnh lưu đầy, phân tán, vết thương mở ra niềm hy vọng mãnh liệt về một cuộc tập họp toàn thể dân Thiên Chúa. Ta thấy núi Galilêa nơi tất cả mọi người được mời đến tập họp: dựa trên cơ sở nào, bằng cách nào thì bài giảng trên núi sẽ cho ta biết”.

  1. Mt li làm ni lên mt dân tc mi.

Câu 17 mở ra một khía cạnh mới của Phúc âm Matthêu, dành cho việc Đức Giêsu khai mạc nước Trời. Một công thức đặc sắc được dùng để dẫn nhập: “Bắt đầu từ đó Đức Giêsu khởi sự…, một công thức mà ta sẽ gặp lại ở 16,21 khi Đức Giêsu khởi hành lên Giêrusalem “Bắt đầu từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giêrusalem, chịu đau khổ rất nhiều vì những bậc trưởng lão, các thầy cả và các luật sĩ sẽ bị giết, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Có thể nói rằng, ngay từ khi khai mạc, việc loan báo Tin Mừng đã di vào một lộ trình đau khổ. Trước hết Matthêu trình bày một bản đúc kết các lời giảng của Đức Giêsu, lời giảng này đôi khi nhắc lại lời giảng của Gioan Tẩy Giả: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.

+ “Nước Trời”: Một kiểu nói của người Do Thái, vì kính trọng, nên tránh hài tên Thiên Chúa ra. Riêng Marco đã dứt khoát nói về Triều đại của Thiên Chúa. Triều đại này không ở xa khuất trên mây xanh, nhưng ở “rất gần”.

+”Hãy hoán cải “: hiệu quả của Triều đại Thiên Chúa tuỳ thuộc vào sự đón nhận của loài người.

Kế đó, tác giả Phúc âm cho độc giả một cái nhìn bao quát về những hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ Galilêa. Di chuyển không ngừng nghỉ (l3, 21, 23, 24) Đức Giêsu tự đưa mình vào hoạt động Người mời gọi đến với Người, bước theo Người, trở nên môn đệ của Người.

+ Trước tiên, “Khi người đi trên bờ hồ Galilêa”. Người kêu gọi các anh em: “Simon còn gọi là Phêrô và Mátthêu hữu ý đặt lên hàng đầu những người được gọi và Matthêu trình bày như khuôn mẫu của những người theo Đức Giêsu “và André em ông”, “Jacobê, con Zebede và Gioan em ông”.

Ta có 2 tường thuật ngắn về ơn kêu gọi xây trên cùng một_ kiểu mẫu và hiển nhiên cảm hứng từ 1 Các vua 19,19: Êlia kêu gọi Êlisêô.

Đức Giêsu thấy có người. Đó là những ngư phủ đánh cá trong hồ.

Người bảo họ: Hãy theo Ta. Lập tức họ bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Người.

Cấu trúc 2 vế này có ưu điểm là làm nổi bật vừa sáng kiến của Đức Giêsu, Người kêu gọi, vừa câu trả lời nhanh nhẹn không ngần ngại của những người được gọi.

Đức Giêsu không chỉ muốn biến những người mà Người gọi đã bỏ nghề nghiệp mà theo Người thành những người ngưỡng mộ đơn sơ hoặc những thính giả thăm chú nghe giáo huấn của Người. Nhưng Người muốn họ trở thành những người cộng tác với người trong việc chinh phục con người: hãy theo Ta, Ta sẽ biến các người thành những kẻ chinh phục con người.

Claude Tassin giải thích: “Kiểu nói “chài lưới người ta đã ngầm loan báo sứ mạng Kitô hữu, thánh sử đã nhấn mạnh một điểm: Làm môn đệ chính là làm nhà truyền giáo. Ở đây, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, những người sẽ nghe lời Thầy Chí Thành và sẽ chứng kiến việc Người làm. Phêrô, Anrê, Gioan, Giacôbê quả là những tên gọi cao cả đối với Kitô hữu thuộc thế hệ thứ hai. Nhưng, Matthêu, ta kính trọng ký ức của họ ủi họ đã từng là môn đệ, đã được kêu gọi vô điều kiện bởi Đấng khai mạc Nước Trời”.

+ Sau đó, toàn miền Galilêa trở thành diễn trường cho Đức Giêsu rao giảng. Được cải hoá nhờ Tin Mừng, được chữa lành khỏi bệnh tật, những người trước kia không thể bước đi nay bắt đầu đi lại và tạo thành một “dân tộc “: tại miền “Galilêa, nơi hội lụ dân ngoại’, đã manh nha một dân mới của Thiên Chúa thuộc mọi chủng tộc mọi ngôn ngữ, mọi nước và mọi dân phát sinh nhờ lời rao giảng Tin Mừng.

BÀI ĐỌC THÊM

  1. Bình minh ca hy vng

(Mgr. L. Daloz, Le Régne de cieux s’est approché).

Đức Giêsu vào cuộc có nghĩa là ánh sáng đến với nhân loại. Trích dẫn Isaia không đơn thuần đem lại một chỉ dẫn về địa lý. Đó là một biểu tượng: là lối thoát của dân tộc Do Thái, sinh ở Bêlem, vì là dòng dõi David, trở thành người Galilêa ở Nazareth, Đức Giêsu đến đón rước các dân tộc. Tức thì sứ mệnh của Người mang lấy dáng vóc phổ quát. Tự bản thân chúng ta cũng phải cúi chào tia sáng đầu tiên này loé lên soi cho các dân đang sống trong bóng tối: Đức Giêsu đến gặp gỡ ta, đó là khởi đầu ơn cứu độ của ta, là bình minh của niềm hy vọng. Ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ánh bình minh này với lòng biết ơn rồi làm sống lại trong ta cảm giác kỳ diệu khám phá ra Đức Kitô, ánh sáng bừng lên soi chiếu vào mắt ta. Vâng, đối với ta vì cả mọi dân tộc, ánh sáng chính là Lời nói lạ lùng mà Phúc âm không cho ta biết đối tượng: Từ lúc ấy, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng: hãy năn sám hối, vì Nước Trời đã gần đến. Lời của Giêsu trên vũ trụ, vượt qua những biên cương của vùng đất hứa cho dân của Giao ước cũ, biến cả thế giới thành vùng đất hứa của Nước trời. Những nỗ lực và lực và toan tính của các vị truyền giáo đều phát xuất từ một lời duy nhất này. Bây giờ đến phiên chúng ta phải chuyển nhữngg từ Phúc âm tạo âm vang cho lời kêu gọi đầu tiên của Đức Giêsu khi Người đứng trước miền Galilê của các dân tộc, trên bờ sông thế giới.

  1. Cuc phiên lưu vĩ đại khi đi t mt vùng đất b khinh khi.

Đối với dân thủ đô, Galilêa chỉ là tỉnh lẻ. Đối với ai mộ đạo sùng tín, miền Bắc thực đáng ngờ vực. Đó là rniền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng phịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện giễu cợt hằng ngày.

Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Đức Messia Cứu Chúa, ánh sáng muôn dân, “tới cư ngự’ tại Capharnaum, bên bờ hồ”. Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ. Gioan Tiền hô, vị ngôn sứ của lòng thống hối, đã trở thành kẻ sách nhiễu, gây rối. Ông bị chém đầu. Từ đó Tin Mừng bị nghi ngờ và sứ giả Tin Mừng bị theo dõi gắt gao…Nhưng Đức Giêsu đã gặp những tâm hồn cởi mở đón tiếp nơi những người hiếu động và bé nhỏ nhất của dân Người.

Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn công việc chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Đức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Đúng là một nước cờ ngược lại mọi lôgic. Chính những người ít khả năng nhất, ít được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Đấng là “Đường, và Sự Thật và là Sự Sống”.

Ngay tức khắc, thành phần lao động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ, người rao giảng chẳng có danh nghĩa chính thức, người chạy trốn chính quyền hợp pháp câu nệ thói tục và lối giải thích của họ. Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ… và họ đã đi theo Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới đổi mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế, nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa…

Hôm nay cũng thế, Đấng Phục Sinh vẫn tiếp tục sứ mệnh của Người không theo cách người ta nghĩ. Người tỏ mình ra dạy dỗ, và kêu gọi không theo những chuẩn mực hay lý luận của người phàm chúng ta. Không khác gì vào thời của Đền Thở, Đức Giêsu không chỉ giam mình trong các truyền thống nhân loại, trong các tính toán của các chuyên gia, trong phán quyết của các quyến lực Người không bị giam hãm trong Giáo Hội của Người, Giáo Hội đang bị chia rẽ, nơi người thì tự cho mình là thuộc phe Phaolô và Giacôbê, Anrê, Matthêu như thể kitô đã bị chia cắt và như thể là giáo huấn của người không quan trọng bằng giáo huấn của môn đệ Người. Trong khi con cái trong nhà cãi cọ, xâu xé thân thể mầu nhiệm Đức Kitô và đóng đinh Người, Người chạy đến nơi “hội tụ dân ngoại và tìm được sự tiếp đón nồng hậu, tìm được môn đệ trong đám người bị khai trừ và những người sống ngoài lề xã hội.

 

63. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

TR V GALILÊ VÀ KÊU GI CÁC MÔN ĐỒ ĐẦU TIÊN

CÂU HỎI GỢI Ý

1) Thành ngữ “Galilê các dân ngoại (4,15) gợi lên điều gì đối với người đương thời của Chúa Giêsu và Matthêu? Phải chăng đó là một sự khai mở có tính cách phổ cập, theo viễn tượng đã được phác họa ở chương 2?

2) Matthêu muốn diễn tả gì khi đặt ngay đầu sứ vụ Chúa Giêsu trình thuật quá giản lược về việc gọi bốn môn đồ đầu tiên (4, 18-22)? Đặc biệt đâu là mối liên lạc giữa nó với bản toát lược hoạt động của Chúa Giêsu (4, 23-25) và với diễn từ kế tiếp (ch. 5-7)?

Xét về phương diện văn chương, đây là một bản toát lược trước hoạt động của Chúa Giêsu suốt cả giai đoạn tương ứng với phần đầu Tin Mừng Matthêu (4, 18-16, 20) Matthêu trình bày cho thấy Người khai mạc sứ vụ tại Galilê, sau biến cố quyết định là việc tống giam Gioan Tẩy giả. Chính trong giai đoạn sứ vụ tại Galilê này mà các tác giả Nhất Lãm đã thu gộp lại điểm chính yếu của những gì các ông tường thuật về ngôn hành của Chúa Giêsu.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

* “Nghe tin Gioan b tng giam”, dịch sát chữ: “Nghe nói Gioan đã bị nộp” (so sánh với Mt 10, 4; 17,22; 20, 18-19; 26, 2: trong tất cả các đoạn vừa kể, Matthêu dùng chữ “bị nộp”, parêdothê để nói về Con Người như ở đây, điều đó ngụ ý Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu có chung một số phận): Thể thụ động ngầm bảo rằng biến cố xảy ra do ý muốn Thiên Chúa; chương trình của Thiên Chúa hoàn tất nơi Gioan, như nơi Chúa Giêsu sau này. Hơn nữa, cả hai sứ vụ đều liên kết làm một trong chương trình Thiên Chúa: Chúa Giêsu khởi đầu hoạt động công khai của Người vào lúc Thiên Chúa chấm dứt hoạt động Gioan.

* “Người tr li”, dịch sát chữ: “Người lui về” (anachoreô): Tại Giuđê, Chúa Giêsu như ở trong pháo đài của Do thái giáo chính thức, mà đại diện là nhóm Saducêo và Biệt phái. Hạng người sau, tích cực hơn dịch thủ họ nhiều, hằng quan tâm gây ảnh hường tôn giáo trên dân và tỏ ra nghi ngại những ai không xuất thân từ trường của họ. Để chống lại Chúa Giêsu, họ đã vạch trần gốc tích Galilê của Người (x. Ga 7,52: “Không một ngôn sứ nào đến từ Galilê cả”). Việc tống giam Gioan Tẩy giả có thể đã khuyến khích họ loại trừ Người nữa luôn. Thấy mình ở trong một vùng bất an, Chúa Giêsu có lẽ đã quyết định khai mạc thực sự sứ vụ Người tại Galilê. Trong vùng này, là vùng cách biệt Giuđê về phương diện địa dư và chính trị, ảnh hưởng của Hội đồng Công tọa và của Biệt phái khá yếu ớt. Khi lại sử dụng ở đây động từ anachoreô (rút lui, lui về) có lẽ Matthêu muốn ngụ ý (như ở 2,12; 9,24; 12,15; 15,21 v.v) rằng sự cứng lòng của miền Giuđê (do ảnh hưởng Biệt phái), biểu lộ qua việc khước từ Gioan Tẩy giả, đã bắt buộc Chúa Giêsu phải ngỏ lời với “Galilê của dân ngoại”.

* “Ri Nadarét”, dịch sát chữ: “Bỏ Nadarét”, không có nghĩa là Chúa Giêsu, khi trở về Galilê, viếng Nadarét trước rồi sau đó bỏ quê hương. Matthêu chỉ nhấn mạnh Người “không” muốn chọn quê hương mình như khởi điểm xuất phát sứ vụ, nhưng là Capharnaum. Chi tiết này chắc hẳn không phải chỉ là một chú thích địa dư. Nó nhắm chuẩn bị cho sấm ngôn Isaia nơi các 13-14, y như chi tiết “ven bờ biển” vậy.

* “Trong địa ht Dabulôn và Nepthali”: Capharnaum ngày xưa nằm trong vùng định cư của hai bộ lạc Dabulôn và Nepthali (Gs 19, 10-16. 32-39). Vào thời Chúa Giêsu, không còn lối phân chia lãnh thổ như thế nữa; do đó sẽ chẳng hiểu được lời quy chiếu này nếu không có câu trích dẫn Isaia đi liền theo sau đề cập tới đất Dabulôn và đất Nepthali.

Sở dĩ Matthêu muốn móc nối với Isaia ở câu 14 như vậy, là vì muốn trả lời cho một vấn nạn về Galilê, khởi điểm và sân khấu chính của hoạt động Chúa Giêsu. Tại sao Chúa Kitô đã dành phần lớn thời gian Người cho cái vùng heo hút này, nơi đã chẳng có một ngôn sứ nào của Thiên Chúa xuất thân? Thưa vì theo kế đồ Thiên Chúa (được công bố qua sấm ngôn Isaia), Đấng Messia phải thi hành sứ vụ Người tại Galilê.

Các câu 15-16 trích dẫn Is 8,23 – 9,1 là đoạn trực tiếp liên hệ đến hay bộ lạc cổ Israel dã chiếm giữ phần lớn miền Galilê và đã bị quân Assyri sáp nhập năm 734. Dưới ách Hy-Lạp vào thời các vua nhà Séleucos, họ bị dân ngoại bao vây tứ bề. Công cuộc giải phóng mà ngôn sứ loan báo cho họ, Matthêu thấy được thực hiện trong sứ vụ Chúa Giêsu; Thật vậy, trong Isaia 8 và 9, không chỉ có vấn đề giải phóng quân sự và chính trị, nhưng còn giải phóng khỏi “tối tăm” và “sầu khổ” do việc các bộ lạc cổ ấy hoàn toàn bị lương dân xâm nhập. “Galilê các dân ngoại” là tên biểu thị đám dân hỗn tạp của vùng Galilê này, đối nghịch với chủng tộc tinh tuyền của miền Giuđê. Ở đây “Galilê các dân ngoại” xuất hiện như biểu tượng của việc triệu tập phổ quát: đó là đất hứa được phô bày cho Chúa Giêsu, Israel đích thực, sau thời gian Người cư trú ở hoang địa và vượt qua sông Giođan. Ta gặp nơi đây một trong các chủ đề ưa thích của Matthêu: sứ vụ của Chúa Giêsu trước tiên được dành cho “các chiên lạc nhà Israel” (10,6; 15,24) nhưng vẫn liên hệ sâu xa với dân ngoại. Câu “Dân ngi trong ti tăm” tóm tắt một cách tượng trưng tình trạng ngoại giáo hóa ấy của vùng Galilê, tức tình trạng thiêng liêng của những người Do thái trong vùng. Một ánh sáng lớn lao”: “ánh sáng” xuất hiện ở đây tại Galilê và tỏ lộ cho các môn đồ trong cuộc Biến Hình (17,2) là ánh sáng tiên báo cuộc Phục sinh của Chúa Kitô.

* “T by gi, Chúa Giêsu bt đầu…”: câu này đánh dấu khởi điểm chính thức của sứ vụ Chúa Giêsu và sự viên mãn của thời gian. Thành ngữ sẽ chỉ trở lại nơi 16,21 để loan báo cuộc khởi hành của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn. Do đó, đối với Matthêu, việc loan báo Nước Trời đã nằm vào trong lộ trình đau khổ.

* “Hãy hi ci vì Nước Tri đã gn bên”: Kiểu nói tổng hợp này của Matthêu giống y kiểu nói ở 3,2 (Gioan Tẩy giả) và ở 10,7 (huấn thị cho môn đồ sắp đi truyền giáo). Nó khẳng định tính cách liên tục giữa việc rao giảng của Gioan, là bước chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu rao giảng, với việc rao giảng của các môn đồ, là sự tiếp nối sứ điệp của Thầy họ.

Thành ngữ lạ lùng “Nước Tri” (hầu hết như vậy trong Matthêu) phản ảnh não trạng Do thái đương thời, cái não trạng tránh đọc tên Thiên Chúa vì tôn kính Ngài. Như thế có lẽ nó sao lại thành ngữ Chúa Giêsu đã dùng. Còn “Nước Thiên Chúa ” (Mc và Lc) hình như phát xuất từ việc sửa đổi thành ngữ nguyên thủy để thích ứng với thế giới Hy lạp. Chủ đề này có nét nổi bật là quyền cai trị của Thiên Chúa và do đấy đương nhiên bao hàm ý tưởng một cộng đoàn được Thiên Chúa điều khiển. Chúa Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa ấy sẽ đến (Mc 14,25; Lc 11,2..) nhưng cũng đã tới rồi trong sứ vụ và trong bản thân của Người (Lc 7, 18-23; 10,23tt…). Hai lý thuyết cực đoan hiện thời, cánh chung luận tương lai (hậu kết) vây cánh chung luận hiện tại, đều đưa vào loạt bản văn đầu hay loạt bản văn sau (về ý niệm nước Trời” này, xin xem chú thích dài của BJ).

Eggiken, thì quá khứ của động từ eggizô, là một trong những tiếng của Tân Ước được tranh luận nhiều nhất hiện nay. Phải dịch nó là “đã gn bên” hay “đã tới rồi”? Eggizô (do egguạ, “gần “) tự nó có nghĩa là “đến sau, tới gần”, nghĩa tán trợ cho lối dịch thứ nhất. Song C.H.Dodd lại quả quyết eggiken là tiếng phiên dịch. từ một động từ Aram có nghĩa “đến, đạt thấu”. Lối giải thích của Dodd, “Nước trời đã tới”, cũng có thể đúng, nhưng phần lớn các nhà chú giải thích kiểu dịch “Nước Trời đã gần” hơn.

* “Hãy hi ci”: Việc Chúa Giêsu khai mạc Nước Trời tạo thành giây phút tột đỉnh của lịch sử cứu rỗi. Trước lời mời gọi ấy của Thiên Chúa, mỗi người đều bị bó buộc phải dứt khoát chọn lựa. Việc đáp lại lời Ngài phải biểu lộ ra bằng lòng thống hối và đức tin.

Vic kêu gi các môn đồ đầu tiên (cc.18-22) được tường thuật lại với thể văn “kêu gọi ngôn sứ” của Cựu Ước, chẳng hạn việc Elia kêu gọi Elidê (IV 19, 19): Trình thuật này hoàn toàn loại trừ khía cạnh tâm lý (như cảm xúc của những kẻ được gọi, việc nhấn mạnh đến tính cách nghiêm trọng của giờ v.v…) để làm nổi bật lời kêu gọi của vị Tôn sư và câu đáp trả đầy gắn bó tin tưởng của các môn đồ. Do đấy có thể bảo bản phác họa này vẽ ra mối tương quan kiểu mẫu giữa Chúa Giêsu và người môn đồ lý tưởng, kẻ từ bỏ mọi sự không chút do dự hay biện bạch để theo Người ngay từ lời mời gọi đầu tiên. Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi các môn đồ tương lai trước hết hãy sống với Người và theo Người. Công việc tông đồ của họ sẽ bắt đầu sau này, lúc họ đã chứng kiến cuộc Tử Nạn-Phục Sinh của Người (trái lại Mc 6, 12-13 và Lc 9,6 thì có tường thuật một chuyến truyền giáo của các môn đồ trước Tử Nạn-Phục Sinh; Matthêu im lặng có lẽ vì muốn nhấn mạnh tính cách độc nhất của con người vị Tôn sư) Các sứ đồ sẽ thành “ngư ph bt người”, nghĩa là thành kẻ rao giảng và chứng nhân Nước Trời. Thành ngữ này có lẽ ám chỉ tới một sấm ngôn của Edêkien (Ed 47,10). Dầu sao, có thể bảo rằng, theo một ý nghĩa nào đó, Nước Trời đã như được thiết lập qua việc gọi các môn đồ đầu tiên ấy, vì Nước Trời tự bản chất là một cộng đoàn gồm những người quy tụ quanh Chúa Giêsu trong mối thông hiệp với Chúa Cha.

* “Khp x Galilê”: Việc du hành thuyết giáo này của Chúa Giêsu tương ứng với một khía cạnh quan trọng trong sứ vụ của Người; Người không nhắm mục đích xây dựng một nguyện đường khép kín với một nhóm môn đồ như các giáo sĩ, cũng chẳng phải là quy tụ các kẻ tinh tuyền vào sa mạc như ông Thầy phái Essêni, song là rao giảng cho toàn dân trong khắp xứ.

* “Ging dy… cha lành”: Lối tiếp liên này, được dùng lại với cùng những hạn từ trong 9,35, cho thấy phải hiểu cơ cấu toàn bộ của Tin Mừng Matthêu ra sao. Trái với quan niệm của nhiều nhà chú giải thừa nhận kiểu tiếp liên trình thuật-diễn từ vì muốn lấy các chương 5 – 7 soi sáng 3 – 4, và chương 10 soi sáng 8-9), hình như ta có thể bảo: qua thành ngữ “giảng dạy… chữa lành”, Matthêu muốn gợi ý rằng lối tiếp liên diễn từ-trình thuật là cơ cấu của Tin Mừng của ông, nên phải lấy các chương 8- 8, thay vì 3- 4, để soi sáng 5- 7, và lấy 11- 12 soi sáng chương 10 v.v.. Thật vây việc giải thích toàn bộ Matthêu theo cách thứ hai này xem ra thỏa đáng hơn nhờ ánh sáng của các cuộc nghiên cứu gần đây theo chiều hướng đó (Krentz, Rolland, Radennakers v.v…).

* “Cha lành mi tt nguyn bnh hon”: ý tưởng “Thiên Chúa bảo vệ kẻ công chính và cho họ khỏi bệnh tật rủi ro” đầy dẫy trong văn chương khải huyền thời Chúa Giêsu (x. Thánh vịnh Salomon). Thành thử hoạt động chữa bệnh của Người đáp lại một nỗi mong chờ nào đó của dân chúng, và đặc biệt thực hiện lời tiên báo của Isaia mà Matthêu áp dụng cho Chúa Giêsu (8,17) về Người Tôi Tớ mang lấy bệnh tật dân mình (53,4): Chính vì sấm ngôn ấy, mà quyền lực chữa bệnh của Chúa Giêsu làm cho địch thù Người khó chịu: bị bắt buộc phải thừa nhận sự kiện, họ không còn cách gì hơn là gán việc đó cho Bêelzêbul (12,24). Đừng tổng quát hóa lời minh xác Chúa Giêsu chữa lành mọi bệnh nhân; toàn bộ trình thuật Tin Mừng cho thấy Người không nhắm mục đích chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, như thể muốn cho thiên hạ hưởng nhờ quyền năng làm phép lạ của mình nhiều ngần nào có thể; đúng ra Người chỉ chữa trị một vài bệnh nhân để mặc khải ý nghĩa Nước Trời và uy quyền riêng của Người.

KẾT LUẬN

Trái với Gioan Tẩy Giả chuyên đứng bên bờ sông Giođan để làm phép rửa cho những kẻ đến với ông, Chúa Giêsu, ngay từ đầu sứ vụ, đã tỏ ra là một diễn giả lưu động, rảo khắp miền Galilê và đâu đâu cũng tuyên bố Nước Trời đến gần. Người muốn mình tức khắc là Mục Tử tốt nao nức đi tìm “chiên lạc nhà Israel”. Và vì ưu tư đảm bảo hiệu lực lâu bền cho công việc mình, Người đã quy tụ ngay các “ngư phủ bắt người”. Đầu tiên để họ tiếp tục việc loan báo Nước Trời khắp nơi, cho mọi người thuộc mọi thời đại.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Ngày nay Chúa vẫn còn loan báo Nước Người cho ta qua việc công bố Lời Người giữa lòng cộng đoàn phụng vụ. Ta biết rằng cách thức nghe lời đó là “hối cải”, là tiêu trừ những gì đê tiện, của lòng mình, là mở rộng con tim theo những viễn tượng, phổ quát của Người. Bấy giờ, việc loan báo ấy sẽ chữa lành tâm hồn ta và đổ vào đó một niềm hân hoan vĩ đại. Ta sẽ vượt lên khỏi chính mình và khám phá được ánh sáng rạng ngời của Thiên Chúa.

2) Chẳng phải các môn đồ đã chọn Chúa Giêsu, song chính Người đã chọn gọi họ, đã bắt lấy họ nơi họ đang làm lụng, nơi họ bận rộn với công việc trần thế. Ngày nay cũng vậy Chúa Kitô đến tìm ta giữa công việc, niềm vui, nỗi nhọc của ta. Người muốn lôi ta theo Người không phải bằng cách đòi ta bỏ mọi sự để rao giảng Nước Trời (điều ấy, Người chỉ xin một vài kẻ thôi) nhưng một cách thiêng liêng bằng cách yêu cầu ta từ bỏ chính mình, bỏ lòng ích kỷ và chai đá, để sống với Người cuộc sống hằng ngày của ta trong siêu thoát và tình yêu.

3) Việc hối cải Chúa Giêsu yêu cầu không phải là một cái gì có thể hoàn thành trong giây lát, trong một ngày và một lần thay cho tất cả. Chắc chắn ngay lúc đầu nó đòi hỏi một sự kiên định lập trường và đôi lúc một sự cắt đứt đau đớn. Nhưng nhất là nó đòi hỏi một cuộc lấy lại không ngừng chính mình để kiên nhẫn và khiêm tốn đi theo Chúa Giêsu, cho dù yếu đuối đến đâu. Vì tiếng nói của Chúa Giêsu vẫn luôn vang vọng trong cuộc đời chúng ta: “Hãy theo Thy”.

 

64. Tích cực giãi ánh sáng tin yêu cho tha nhân

(Suy niệm của Lm Đan Vinh)

  1. HC LI CHÚA

Ý CHÍNH:

Nghe tin Gio-an Tẩy Giả bị nộp, Đức Giêsu từ Giê-ru-sa-lem lui về Ga-li-lê để tránh bị theo dõi, và hoạt động trong môi trường có nhiều dân ngoại như Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Người chọn thành Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo và từ đây Người đi các nơi rao gảng Tin Mừng Nước Trời. Nội dung các bài giảng được tóm lại như sau: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Đức Giêsu cũng chọn 4 môn đệ đầu tiên gồm 2 đôi anh em. Một là Si-mon Phê-rô và An-rê đang thả lưới trên biển hồ. Hai là Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trong thuyền cùng với cha và các người làm công. Vừa nghe Đức Giêsu kêu gọi, các ông đã lập tức bỏ nghề lưới cá và từ giã người thân để cộng tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.

CHÚ THÍCH:

– C 12-13: + Nghe tin ông Gio-an đã bị nộp: Thánh Mát-thêu dùng từ “bị nộp” thay vì “bị bắt” khi nói về Gio-an, giống như khi nói về Đức Giêsu (x. Mt 10,4; 17,22; 26,2). Qua đó cho thấy số phận của Gio-an giống như Đức Giêsu. Dùng từ “bị nộp” ở thể thụ động là có ý nói biến cố xảy ra là do ý của Thiên Chúa. Đức Giêsu bắt đầu rao giảng khi Gio-an chấm dứt sứ mạng tiền hô dọn đường. + Người lánh qua miền Ga-li-lê: Khác với Gio-an Tẩy Giả, Đức Giêsu lui về Ga-li-lê là vùng đất có nhiều dân ngoại sinh sống, để khởi sự rao giảng Tin Mừng. Cũng tại Ga-li-lê, Người sẽ quy tụ các môn đệ lần cuối cùng để sai đi khắp thế gian, tiếp tục sứ mạng mà Người khởi sự hôm nay. + Người bỏ Na-da-rét đến ở Ca-phác-na-um: Đức Giêsu đã không chọn quê hương Na-da-rét, nhưng chọn Ca-phác-na-um để bắt đầu sứ mạng rao giảng. + Một thành ven biển hồ Ga-li-lê: Thành Ca-phác-na-um nằm trong vùng đất định cư của hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li (x. Gs 19,10.32-39).

– C 14-16: + Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói: I-sai-a tiên báo vùng Ga-li-lê thuộc hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, không những được thoát ách thống trị của quân Át-sy-ri về chính trị quân sự, mà còn được giải phóng khỏi cảnh “tối tăm sầu khổ” do bị dân ngoại chiếm cứ. + Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại: Ga-li-lê là nơi bị khinh dể vì là vùng đất có nhiều dân ngoại sống chung với dân Do thái, và chưa có vị ngôn sứ nào xuất thân ở đó (x. Ga 1,46). Điều này nằm trong chương trình hành động của Đấng Thiên Sai đã được Ngôn sứ I-sai-a báo trước. + Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm: Mát-thêu ứng dụng việc Đức Giêsu đến làm cho miền đất này khỏi bóng tối sự chết bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời. “Ánh sáng huy hoàng” là chính Đức Giêsu biểu lộ khi Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,2), và tiếp tục chiếu rọi khi Chúa Phục Sinh hẹn gặp các môn đệ để sai họ đi truyền giáo (x Mt 28,16-20).

C 17-18: + Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: Đối với Mát-thêu thì đây là thời điểm Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng cứu thế tại Ga-li-lê. Lời giảng được Mát-thêu tóm gọn trong câu: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Đây cũng là nội dung mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo (x. Mt 10,7). + “Anh em hãy sám hối”: Câu này giống như lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trước đó (x. Mt 3,2). + Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời, hay cũng gọi là Nước Thiên Chúa. Vì Mát-thêu viết Tin Mừng cho người Do thái, nên tránh gọi tên Thiên Chúa để biểu lộ lòng kính trọng Thánh Danh của Người như điều răn thứ hai dạy: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”. Nước Thiên Chúa là một cộng đoàn do Thiên Chúa cai quản. Nước này đã tới gần trong con người và sứ vụ của Đức Giêsu. + Biển hồ Ga-li-lê: Là một biển hồ hình quả trám dài 21 cây số, rộng 12 cây số, cũng có tên là hồ Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-a. + Si-mon cũng gọi là Phê-rô: Si-mon là tên của ông Phê-rô trước khi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đổi tên Si-mon thành Phê-rô nghĩa là “Tảng Đá” (x. Mt 16,18).

C 19-20: + Kẻ lưới người như lưới cá: Đức Giêsu sẽ trao sứ mạng đánh lưới các linh hồn của người ta, giống như việc chài lưới bắt cá trên biển. + Lập tức bỏ chài lưới: Đây là thái độ dứt khoát và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: bỏ nghề cũ để theo nghề mới.

C 21-23: + Gia-cô-bê: Có hai Tông đồ tên Gia-cô-bê. Đây là Gia-cô-bê theo Chúa trước nên được người ta gọi là Gia-cô-bê Tiền, phân biệt với Gia-cô-bê Hậu theo Chúa sau. Gia-cô-bê và em là Gio-an cùng Si-mon Phê-rô làm thành nhóm ba người thân tín của Đức Giêsu. Nhóm này được luôn theo sát Đức Giêsu và được chứng kiến Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,1). Trong cuộc khổ nạn, ba người này cũng được đi theo Người vào vườn Ghết-sê-ma-ni chứng kiến Người cầu nguyện trước khi bị bắt đang khi các ông khác phải ở ngoài vườn (x. Mt 26,37-46). + Lập tức các ông bỏ thuyền bỏ cha…: Cũng như Si-mon và An-rê đã bỏ ngay nghề cũ, Gia-cô-bê và Gio-an cũng dứt khoát từ bỏ tài sản là thuyền, và từ giã người thân là cha già mà đi theo làm môn đệ Đức Giêsu. + Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê: Việc truyền giáo cần phải năng động. Đức Giêsu và các môn đệ phải đi khắp miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân: Viêc chữa bệnh kèm theo việc rao giảng Tin Mừng vì là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Mt 10,8; 11,4-5).

CÂU HI:

1) Tại sao Mát-thêu dùng kiểu nói “Sau khi Gio-an bị nộp” thay vì “bị bắt”? 2) Gio-an Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối tại miền nào, và Đức Giêsu khởi sự rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại miền nào? 3) Đức Giêsu đã làm gì để chiếu soi ánh sáng huy hoàng của Người vào miền Ga-li-lê đang ở trong bóng tối sự chết? 4) Lời giảng của Đức Giêsu được tóm lại trong câu nào? 5) Tại sao Mát-thêu dùng từ “Nước Trời đã đến gần” thay vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” như Lu-ca? 6) Bạn biết gì về biển hồ Ga-li-lê? 7) Phê-rô là ai? Tên Phê-rô nghĩa là gì và ông được Đức Giêsu đổi tên khi nào? 8) Trong Nhóm 12 có mấy ông tên Gia-cô-bê? Hai ông Gia-cô-bê được phân biệt theo Chúa trước và sau thế nào? 9) Noi gương bốn môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta nên làm gì khi được Chúa mời gọi đi theo Chúa? 10) Đức Giêsu nêu gương nhiệt tình đi loan báo Tin Mừng ra sao? Người thi hành sứ mạng bằng những công việc gì?

  1. SNG LI CHÚA:
  2. LI CHÚA: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
  3. CÂU CHUYN: ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ ”NHÂN VT CA NĂM” 2013

Gần đây vào ngày 11 tháng 12 năm 2013, tạp chí Time, một tờ tuần báo Mỹ có uy tín hàng đầu thế giới, đã bình chọn Đức giáo hoàng Phan-xi-cô là nhân vật của năm 2013 với lời ca ngợi rằng chỉ trong 9 tháng đứng đầu Giáo hội Công giáo, ngài đã đem đến một tiếng nói và một nhận thức mới. Nhờ lối sống khiêm tốn giản dị và tầm ảnh hưởng tinh thần lớn lao ngài đã làm bừng lên một mùa xuân mới trong Giáo Hội Công giáo hoàn cầu, đặc biệt tại các nước Âu Mỹ. Giới truyền thông thế giới đã đặt cho ngài những danh hiệu cao quý như: “Giáo Hoàng của Người Nghèo”; “Giáo Hoàng của Quần Chúng”…

Theo Telegraph, Đức giáo hoàng Phan-xi-cô đã đánh bại các nhà lãnh đạo thế giới và người làm rò rỉ các bí mật động trời là Edward Snowden, để giành giải “Nhân vật của Năm” do tờ tạp chí danh tiếng Time bình chọn. Dù mới chỉ đảm nhiệm vai trò năm đầu tiên, cựu hồng y người Ác-hen-ti-na đã được ban biên tập của tạp chí Time chọn là người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2013.

Bà Nacy Gibbs, thư ký tòa soạn của tờ Time giải thích: “Hiếm khi nào một người mới xuất hiện trên thế giới đã lập tức thu hút được sự chú ý từ người già lẫn người trẻ, người sùng đạo lẫn người ngoại đạo, như Giáo hoàng Phan-xi-cô”, Giáo hoàng năm nay 76 tuổi, tên thật là Jorge Mario Bergoglio, sinh tại Bunenos Aires nước Ác-hen-ti-na. Ngài được tấn phong làm Tổng giám mục vào năm 1998, rồi trở thành Hồng y năm 2001 và đắc cử chức vụ Giáo hoàng trong cuộc mật nghị tại Vatican vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, thay cho Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô 16 xin về hưu. Giáo hoàng Phan-xi-cô nổi tiếng vì sự khiêm nhường và cam kết vì người nghèo từ rất lâu trước khi trở thành nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo.

Đầu tháng này, tạp chí Time đã thu hẹp danh sách chung kết gồm 5 người, trong đó có Tổng thống Syria Bashar Assad, Thượng nghị sĩ bang Texas Hoa Kỳ Ted Cruz và Nhà hoạt động vì quyền của người đồng tính Edith Windsor. Người thứ hai trong danh sách Nhân vật của Năm là Edward Snowden, cựu nhân viên Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA), người tiết lộ chương trình theo dõi bí mật của chính phủ Mỹ, hiện đang xin tị nạn chính trị tại Nga. Tạp chí Time bắt đầu bình chọn “Nhân vật của Năm” lần đầu vào năm 1927. Các biên tập viên tạp chí đã chọn ra người mà họ cho là có ảnh hưởng nhiều nhất đến tin tức trong một năm, bất kể xấu hay tốt. Năm ngoái, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã được Time bình chọn là nhân vật của năm 2012.

Những tin tức hình ảnh về Đức giáo hoàng đã thể hiện tình thương đối với người nghèo, người khuyết tật và tỏ ra gần gũi với người lớn trẻ em đều được báo chí và các hãng thông tấn quốc tế loan truyền rộng rãi. Đây cũng là niềm vinh dự cho Giáo hội Công giáo trong bối cảnh Giáo hội gần đây đang là tâm điểm cho những lời phê phán chỉ trích của giới truyền thông trên thế giới liên quan đến các vụ tai tiếng về các vấn đề ấu dâm, vấn đề tài chánh của ngân hàng Vatican hay sự rò rỉ thông tin mật của Tòa thánh…

Sự quyết tâm canh tân bằng lối sống đơn sơ nghèo khó và đổi mới nhân sự của Đức Phan-xi-cô bước đầu đã đem lại những thành quả nhất định cho Hội thánh Công giáo. Sự thành công này trở thành động lực thúc đẩy các tín hữu chúng ta cũng phải biết thanh luyện bản thân, đổi mới đời sống và cung cách phục vụ tha nhân, hầu loan báo tin mừng hữu hiệu hơn cho đồng bào Việt Nam thân yêu hôm nay.

  1. SUY NIM:
  2. Đức Giêsu hoàn thin Lut Mô-sê:

Đạo Do Thái thời Đức Giêsu đã xuống cấp trầm trọng: Các đầu mục Do thái là các kinh sư và người pha-ri-sêu quá câu nệ hình thức đạo đức, coi trọng kinh kệ lễ nghi bề ngoài mà coi thường tâm tình mến Chúa bên trong nên đã bị Đức Giêsu nặng lời khiển trách là bọn đạo đức giả như sau: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình”. Vì họ đã tỏ ra cố chấp không những không gia nhập vào Nước Trời do Người rao giảng, mà còn ngăn cản người khác không cho họ vào (x. Mt 23,13); Vì họ tìm cách thu gom tiền bạc bằng các lễ nghi kinh kệ dài dòng (x. Mt 23,14); Vì đã không lo dạy dỗ dân chúng (x. Mt 23,15), coi trọng những điều tùy phụ như nộp thuế thập phân hoa màu mà coi nhẹ điều cốt yếu là sự công bình, lòng nhân và thành tín (Mt 23,23-24)…

Đức Giêsu đến không hủy bỏ Lề Luật Mô-sê nhưng để kiện toàn, để canh tân bằng việc đưa vào Luật một tinh thần mới, tóm lại trong hai giới răn quan trọng là “mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu chính mình” (x. Mt 22,35-40); Người cũng bãi bỏ hy lễ và hiến lễ toàn thiêu bằng chiên cừu của đạo cũ bằng việc thiết lập một lễ tế mới là Người dâng mình là Con Chiên Thiên Chúa chịu sát tế trên bàn thờ thập giá để đền tội cho nhân loại (x. Dt 10,8-10).

  1. Đức Giêsu tuyn chn các cng tác viên:

Đức Giêsu không thi hành sứ mạng cứu thế cách đơn độc, nhưng đã kêu gọi nhiều người theo làm môn đệ để cộng tác với Người loan báo Tin Mừng Nước Trời. Người không chọn những người có học vị cao, có tài ăn nói lưu loát, có kiến thức sâu rộng… như các kinh sư và biệt phái làm môn đệ của Người, nhưng đã chọn những người thuyền chài ít học (x. Cv 4,13). Ngay chính Người cũng không xuất thân từ một trường danh tiếng như người Do-thái đã phải ngạc nhiên nói rằng: “Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!” (Ga 7,15). Các môn đệ của Đức Giêsu cũng không mấy trổi vượt về đức độ biểu hiện qua thái độ ganh tị nhỏ nhen, ham mê địa vị quyền hành đòi ngồi hai bên tả hữu của Thầy (x. Mt 20,23-24), tính tình nóng nẩy đòi tiêu diệt làng Sa-ma-ri không đón nhận Thầy trò (x. Lc 9,53-56) và hèn nhát chối Thầy ba lần (x. Ga 18,25-27) hoắc bỏ Thầy thoát thân khi Thầy gặp nạn (x. Mt 26,56). Nhưng ưu điểm của các ông là mau mắn dứt khoát đi theo Thầy, sẵn sàng bỏ nghề chài lưới bắt cá để học nghề chài lưới đánh bắt các linh hồn (x. Mt 4,19-20), lập tức bỏ thuyền bỏ cha mà đi theo Người (x. Mt 4,21-22), sẵn sàng đi con đường hẹp leo dốc là từ bỏ bản thân và vác thập giá mình mà theo chân Chúa (x. Mt 16,24), sẵn sàng từ bỏ vợ con, ruộng nương, nhà cửa… Sự mau mắn dứt khoát này đòi các ông phải liều lĩnh, tin cậy phó thác tương lai cuộc đời trong tay Đức Giêsu. Chính nhờ những đức tính này mà khi được ơn Thánh Thần tác động, các ông đã được biến đổi nên tốt với đủ các đức tính, tài năng ăn nói (x. Cv 2,4) và trở nên khôn ngoan mạnh dạn nói lời Thiên Chúa (x. Cv 4,31).

  1. Mau mn đáp li tiêng Chúa mi gi:

Ngày nay Đức Giêsu tiếp tục mời gọi mọi tín hữu cộng tác với Người loan báo Tin Mừng. Vậy chúng ta đã đáp lại ơn gọi của Chúa thế nào? Chúng ta có lập tức và dứt khoát đi theo Người hay nại đủ lý do đê trì hoãn như sợ không có đủ khả năng, không có thời giờ, thiếu tài đức… Nên nhớ rằng: Nếu chúng ta mà có đủ mọi điều kiện như các kinh sư Do Thái khi xưa, thì chắc Đức Giêsu cũng không gọi chúng ta đi theo Người, vì khi ấy chúng ta sẽ cậy dựa vào sức riêng của mình hơn cậy nhờ vào sức mạnh và ơn Chúa trợ giúp. Chính vì biết rõ chúng ta thiếu khôn ngoan thông thái nên Đức Giêsu mới kêu gọi chúng ta như Người đã cầu nguyện ngợi khen Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26). Vì không có Chúa, chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15,5b), như Tông đồ Phao-lô đã nói: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết!” (Pl 4,13). “Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10), và như sứ thần Gáp-ri-en nói với Đức Ma-ri-a khi truyền tin: “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Vậy, nếu nghe thấy tiếng Chúa mời gọi, mỗi người chúng ta cần phải mau mắn đáp lại như ngôn sứ Sa-mu-en xưa: “Lạy Chúa, xin cứ phán vì tôi tớ Chúa đang nghe” (1 Sm 3,9). Chính nhờ sự mau mắn này, mà cũng như các tông đồ xưa, chúng ta sẽ được ơn biến đổi để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.

  1. Tích cc góp phn loan Tin Mng ngay trong môi trường mình đang sng:

Mặc dù Chúa Giêsu đã về trời, nhưng Người muốn chúng ta tiếp tục sứ vụ của Người giữa trần gian hôm nay. Vậy chúng ta phải làm gì? Trước hết chúng ta ý thức Chúa gọi chúng ta như Người đã gọi những môn đệ đầu tiên. Chúa bảo chúng ta hãy tiếp tay với Người để “lưới người” như lưới cá. Chúa không đòi chúng ta phải đi đâu xa, nhưng thả lưới ngay nơi mình đang sống và làm việc. Tấm lưới chúng ta thả có thể là lời nói, việc làm phản ánh lối sống của Đức Giêsu và nói lên tình thương của Thiên Chúa. Nếu tấm lưới ấy lỡ bị rách, chúng ta cần phải vá lại. Cũng vậy, nếu đời sống chúng ta trở nên xấu xa tội lỗi, làm sao chúng ta có thể loan báo Tin Mừng và giúp chữa lành các thói hư cho tha nhân được. Vậy mỗi ngày trước khi ngủ đêm, chúng ta phải hồi tâm “vá lưới” bằng cách xét mình để nhận ra những lỗi lầm và sai sót để xin Chúa giúp canh tân noi gương Chúa làm và lời Người dạy.

Theo Chúa là chấp nhận ra khơi, chấp nhận cuộc sống nghèo khó nay đây mai đó, không nhà cửa, là phải lên đường đến với mọi nhà và gặp gỡ hết mọi người. Theo Chúa là sẵn sàng đón nhận những sự thù ghét bách hại vì danh Chúa, chấp nhận đi con đường hẹp và ít người muốn đi, nhưng lại là con đường chắc chắn dẫn đến hạnh phúc đời đời. Hôm nay các tín hữu chúng ta cũng đang sống giữa những bà con đại đa số là người lương, chúng ta sẽ làm gì để rao giảng Tin Mừng, để biến đổi vùng đất này bừng lên ánh sáng tin yêu của Đức Giêsu? (x. Mt 10,7-8). Hãy noi gương Đức Thánh Cha Phan-xi-cô sống đơn giản gần gũi người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi để chiếu ánh sáng tin yêu của Chúa như Người đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

  1. THO LUN:

1) Kèm theo lời giảng, Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần làm gì kèm theo việc rao giảng, để được người nghe dễ dàng đón nhận? 2) Hôm nay, bạn sẽ đáp trả tiếng Chúa thế nào khi được ai đó mời bạn tham gia vào các sinh hoạt hội họp cầu nguyện và làm công tác theo linh đạo của các hội đoan tông đồ giáo dân?

  1. NGUYN CU:

Ly Chúa Giêsu. Hôm nay xin Chúa dạy chúng con luôn biết chiếu ánh sáng của Chúa bằng việc tươi cười, ngay cả những lúc xem ra cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến cuộc sống, dù không phải lúc nào cuộc sống cũng màu hồng đáng yêu. Thực ra, chúng con luôn có nhiều lý do để lo âu chán nản và buông xuôi giữa chừng. Nhưng xin Chúa đừng để nụ cười bị tắt trên môi chúng con. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn!”. Ước gì chúng con luôn thấy mình thật hạnh phúc vì được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn mang niềm vui của Chúa, để làm cho gia đình, khu xóm, xí nghiệp hay trường học của con được tràn đầy niềm vui ơn cứu độ của Chúa.

  1. X) Hiệp cùng Mẹ- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

65. Sám hối thì mới được cứu độ

(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP.)

Trong 4 Tin Mừng được viết lại cuộc đời Chúa Cứu Thế, thì thánh sử Mátthêu đặc biệt nhắm vào người Dothái thời bấy giờ. Vì thế, ngài thường trưng dẫn những điều đã được tiên báo trong Cựu Ước để làm toát lên sự nối tiếp giữa Cựu Ước và Tân Ước, ngõ hầu hậu thuận cho việc chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai đã được các ngôn sứ loan báo trước đó.

Thế nên, hôm nay, thánh sử Mátthêu đã làm toát lên sự tiếp nối giữa Gioan và Đức Giêsu ngay sau khi Gioan kết thúc thì Đức Giêsu khởi đầu. Nhưng có lẽ lời giáo huấn về sự sám hối và sứ vụ truyền giáo là đề tài quan trọng hơn cả!

Chính vì điều này mà trình thuật Tin Mừng cho chúng ta thấy chủ đích của Đức Giêsu khi lựa chọn Capharnaum để loan báo Tin Mừng đầu tiên, đồng thời, cũng cho thấy được nội dung quan trọng của lời rao giảng này.

  1. Tại sao Đức Giêsu lại chọn Capharnaum là nơi khởi đầu sứ vụ?

Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu và cũng là khởi đầu hành trình truyền giáo, Đức Giêsu đã chọn Capharnaum là trung tâm truyền giáo. Có nhiều lý do để Ngài chọn nơi này mà không chọn nơi khác! Một trong những lý do chính là bởi vì dân này là một dân ngoại và đã được tiên báo từ thời Cựu Ước để đón nhận Tin Mừng: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Tại sao lại có lời loan báo này? Thưa, vì dân Capharnaum là một dân ô hợp từ nhiều nơi hội tụ về. Họ đến đây sau khi dân Israel bị lưu đày ở Babylon.

Chính vì là dân tứ xứ, nên họ bị coi là dân ngoại. Khái niệm dân ngoại đối với Capharnaum không chỉ về địa dư hành chính là cách xa đền thờ Giêrusalem, mà họ còn bị coi là dân ngoại khi những truyền thống của cha ông bị lơ là.

Thật vậy, người Galilê không mặn mà với những lễ nghi truyền thống của tổ tiên. Vì thế, lẽ tất yếu, họ bị những người Dothái coi thường và khinh bỉ vì đã không sống những tập tục của tiền nhân.

Tuy nhiên, điều đáng quý của người Galilê và đặc biệt là dân thành Capharnaum này chính là sự chân tình, cởi mở và hiếu khách. Chính vì điều này mà họ dễ dàng đón nhận Đức Giêsu cũng như tiếp nhận những giáo huấn mới mẻ của Ngài. Đây có lẽ là lý do chính yếu mà Đức Giêsu đã dễ dàng thâu nhận được 4 môn đệ đầu tiên tại nơi đây để cùng Ngài tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng.

  1. Nội dung của lời rao giảng

Đề tài sám hối chính là nội dung lời loan báo đầu tiên và quan trọng của Đức Giêsu khi khởi đầu sứ vụ.

Nếu Gioan đã loan báo về đề tài sám hối để chuẩn bị dân dọn lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài mời gọi họ không phải sám hối để đón Ngài ngự đến nữa, vì Ngài đã đến và hiện diện giữa dân của Ngài, nhưng Ngài mời gọi họ hãy sám hối vì “Nước trời đã đến gần”.

Sự tiếp nối của Gioan và Đức Giêsu về đề tài sám hối hé mở cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sứ điệp. Có thể nói: sám hối chính là điều kiện tiên quyết để được vào Nước Trời. Ngược lại, nếu không sám hối thì sẽ chẳng bao giờ thuộc về công dân của Nước Hằng Sống.

Vậy, tại sao phải sám hối?

Khi nói đến sám hối là nói đến sự trở về. Trở về tức là từ bỏ con đường, lối sống, cung cách, quan niệm cũ để đón nhận một cái gì đó mới và hợp hơn.

Thật vậy, có những người đi sai một con đường, cần phải trở về và khởi đầu lại thì mới có thể tới đích.

Cũng có người sống theo lối sống xưa kia mà nay không còn phù hợp, nên cần thay đổi.

Lại có người có những cách hành xử chỉ hợp với người này mà không hợp với người kia; chỉ hợp với nơi này mà không phù hợp với nơi khác, vì thế, cần thích ứng và hội nhập để cho phù hợp với đối tượng và nơi chốn mình hiện diện.

Và cũng không thiếu những người khư khư giữ quan niệm của riêng mình mà đâu biết rằng điều đó không thể áp dụng và hấp dẫn đối với thời cuộc…

Chính vì điều đó, nên cần trở về mới mong đạt tới đích, nếu không trở về, có lẽ sự phấn đấu của mình chỉ là công dã tràng! Ở điểm này, thánh Augustinô đã nói: “Chạy nhanh đấy nhưng lạc đường.

Đại triết gia thời cổ Hylạp xưa, ông Platon, đã nói: “Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không tới đích thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”.

Tuy nhiên, làm cách nào để sám hối có hiệu quả? Thưa, đơn giản, đó là: phải biết khiêm nhường nhìn nhận mình là người bất toàn, thiếu xót và bất xứng.

Đây cũng là điều kiện cần để mình được lớn lên theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, bởi vì, càng khiêm tốn, con người càng giống Thiên Chúa.

Khiêm tốn là biết mình. Biết những mặt mạnh và mặt yếu của mình. Cổ nhân thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”. Chính vì thế, ông Socrate đã mở đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même).

Có lẽ nhiều người vẫn tự hào rằng mình biết nhiều thứ, nhưng biết mình tưởng chừng là dễ dàng, bởi vì nó gần mình hơn ai hết, nhưng thật ra lại là khó nhất, bởi lẽ có nhiều người cả đời vẫn không biết mình!

Vì thế, không lạ gì khi có người nói: “Không ai biết khuôn mặt thật của mình bao giờ, họa chăng có biết là biết qua một trung gian chiếc gương. Tuy nhiên, điều đó cũng không phải thật 100%”.

Tương tự như thế, về phần linh hồn con người cũng khó có thể biết được nếu không có ơn Chúa và Giáo Huấn của Người soi dẫn. Như vậy, Lời Chúa và ơn Chúa Thánh Thần là điều cần thiết trong việc giúp cho con người nhận ra điểm yếu của mình để chấn chỉnh và sửa sang cũng như thay đổi, vì: “Lời Chúa là đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường chúng ta đi”.

  1. Sống Sứ điệp Lời Chúa

Trong đời sống đạo hiện nay của mỗi chúng ta, dù là cá nhân hay tập thể… nhiều khi rơi vào tình trạng ghen tương, đố kỵ, ích kỷ, dã tâm … tất cả do thói kiêu ngạo, hóng hách chỉ đạo. Đây cũng chính là mầm mống gây nên những chia rẽ, bất hòa trong gia đình, đoàn thể và xã hội.

Oái oăm thay! Sự thật ấy ít người biết đến, hay nếu có biết đến thì cũng cố chấp và không chịu thay đổi để đón nhận điều tốt hơn! Vẫn còn đó những người đang đi sai đường, trật lối nhưng thay vì quay trở về để khởi đầu một hành trình mới nhằm đạt tới đích, ngược lại họ tiếp tục lún sâu trong cái tôi ích kỷ của chính mình để rồi dẫn đến tình trạng nằm ù lỳ trong vũng lầy êm ái của tội và rơi vào tình trạng: “Mù dắt mù cả hai cùng sa xuống hố”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết sám hối để được cứu độ. Hơn nữa, cần phải sám hối để trở thành khí cụ của sự hiệp nhất và lòng thương xót của Chúa nơi anh chị em.

Ước mong sao lời mời gọi của Đức Giêsu khi xưa cho người đương thời với Ngài về lòng sám hối ăn năn, thì cũng là lời mời gọi, hối thúc cho mỗi chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, lời Chúa hôm nay đã khẳng đinh: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Xin cho chúng con hiểu rằng: “Nếu không sám hối thì không thể được cứu độ”. Vì thế, xin Chúa giúp cho chúng con nhận ra sự yếu đuối của bản thân, ngõ hầu có được một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu để đáng được hưởng dồi dào ơn thánh của Chúa và được đi trong đường lối của Người để đạt tới đích là quê trời vĩnh cửu. Amen.

 

66. Sám hối để biết mình và biết Chúa

(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)

Trong tiến trình phát triển của con người, bình thường khi đã đến tuổi trưởng thành, chúng ta sẽ lựa chọn cho mình một định hướng làm động lực để chúng ta phấn đấu. Ước mơ đó có thể là bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo… và chúng ta đều hy vọng cho ước mơ đó được thành hiện thực, để cuộc đời tương lai có ý nghĩa hơn.

Hôm nay, thánh Mátthêu thuật lại cho chúng ta biết Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai, Ngài đã kêu gọi dân chúng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17); đồng thời Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ đầu tiên để huấn luyện và sai các ông ra đi loan báo về Triều Đại đó của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa hay Triều Đại của Ngài chính là mơ ước hay mục đích của mỗi chúng ta.

  1. “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”

Khi nói đến Nước Trời hay Triều Đại của Thiên Chúa, nhiều người cứ nghĩ đó là một nơi chốn được định vị rõ ràng, nhưng không phải vậy, đây là một tình trạng. Tình trạng đó là con người được hạnh phúc, bình an và tràn ngập yêu thương. Như vậy, cũng có thể chúng ta đã đạt được hay đang trên đường đi tìm kiếm. Dấu chỉ của những người đã đạt được chính là hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Khi có Chúa là nguồn hạnh phúc thì lúc ấy, chúng ta mới có “sổ đỏ”, và “hộ khẩu thường trú” để trở thành “công dân của Nước Trời” đúng nghĩa.

Tuy nhiên, để được nhận tấm thẻ căn cước, giấy thông hành để được Nước Trời thì điều kiện cần phải có, đó là “sám hối”.

Khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng và nói: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17), lời mời gọi này như một động lực thôi thúc mạnh mẽ hơn sứ điệp mà Gioan đã mời gọi trước đó. Điều này cũng có nghĩa là Thiên Chúa chấm dứt họat động của Gioan Tẩy Giả (ông bị bắt cầm tù). Sứ vụ của Đức Giêsu được gạnh nối từ Gioan. Nếu Gioan loan báo về Đấng Mêsia, Ngài là Cứu Chúa, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài đã chứng minh cho mọi người thấy, Ngài chính là Đấng mà Gioan đã loan báo. Gioan chỉ đóng vai trò giới thiệu, còn Đức Giêsu thì chính là nội dung của lời giới thiệu đó. Vì thế khi Gioan bị bắt và bị cầm tù, nhiệm vụ của ông đã xong, vai phụ phải lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện.

Tại sao, hai con người, nhưng cùng chung một sứ vụ và đều mời gọi dân chúng sám hối vì Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần?

Thưa, vì thái độ sám hối là điều kiện cần để được cứu độ, nên tự nó cho thấy tầm quan trọng của hành vi sám hối. Quan trọng là vì: sám hối để biết Chúa là chân lý, là ánh sáng, là lẽ sống, là sự thật. Sám hối cũng chính là ý thức mình cần đến Chúa, đi theo Chúa và chọn Chúa là lý tưởng, là mục đích tối hậu của cuộc đời. Qua hành vi sám hối, con người dễ nhận biết mình yếu đuối, bất toàn, mong manh và mỏng dòn. Ý thức được điều đó, nên một triết gia lỗi lạc là Socrate đã mở đầu triết thuyết của ông bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même).

Sám hối còn là để xác định đúng hướng và đi đúng đường, nhằm trách đi lạc và không đạt được mục tiêu. Triết gia Platon, đã nói: “Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không tới đích thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”. Thánh Augustinô khen những người như vậy là những người “bene currit, sed extra viam – chạy nhanh đấy nhưng lạc đường”.

Thật vậy, người xưa thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”. Sám hối chính là để biết mà được sống.

Sám hối cũng là điều kiện cần để ta lên đường đi tìm một cái gì đó tốt hơn, ý nghĩa và đảm bảo hơn. Nếu bốn môn đệ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay, các ông không có hy vọng, không khiêm tốn thì không thể nào ngay lập tức, bỏ cha, bỏ lưới để đi theo Đức Giêsu được.

Nếu có sám hối và tin vào Đức Giêsu thì mới dứt khoát và sẵn sàng ra đi để trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Có sám hối thì mới không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc để toàn tâm toàn ý lo những việc chính yếu của sứ mạng.

Thật vậy, nếu không sám hối thì chúa tể của con người chính là cái bụng! Chỉ lo tìm kiếm những sự trần tục nhằm thỏa mãn xác thịt, cuốn theo những khuynh hướng thấp hèn, sa đọa, nhục dục mà quên đi Hạnh Phúc Vĩnh Hằng, còn sám hối và ý thức được thân phận giới hạn của con người thì mới biết:“ái mộ những sự Trên Trời”.

  1. Sống sđiệp Lời Chúa

Linh mục nhạc sĩ Ân Đức đã sáng tác bài hát “Biết Chúa, biết con”, trong đó có đoạn viết như sau:

“Biết Chúa là Thiên Chúa độc nhất là Cha là Chúa trời đất.

Biết Chúa Vua muôn loài, biết Chúa thương con người.

Biết Chúa là tạo hóa là Đấng sinh thành nên con.

Biết con là tạo vật, một đời sống kiếp con người.

Biết con không là gì, chỉ là bụi cát mà thôi.

Biết con thân phàm hèn, mỏng giòn, muôn vàn yếu đuối.

Biết con bao tội tình để lòng xao xuyến khôn nguôi”.

Khi biết Chúa là Đấng yêu thương như vậy, thì còn đâu chuyện chia rẽ, ghen ghét, còn đâu chuyện tôi nhóm nọ, anh nhóm kia… bởi vì trong những yếu đuối, lỗi lầm của anh em, thì chính mình cũng đều mắc phải hết. Vì thế, chính mình cần phải sám hối trước và xây dựng tình hiệp nhất huynh đệ trong yêu thương. Thấy được bản chất của con người là hiếu thắng, nên trong cộng đoàn của ngài có những chuyện gây chia rẽ, nên thánh Phaolô đã nói: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau” (1Cr 1,10). Khi cùng chung nhau một lý tưởng, một mục đích thì đâu còn có chuyện: “Tôi thuộc về Phaolô, tôi về phe Apôlô, còn tôi về phe Phêrô, và tôi thuộc về phe Chúa Kitô. Vậy Chúa Kitô bị phân chia rồi sao?” (1Cr 1,12-13a). Và, thánh Phaolô khuyên họ hãy hướng về Đức Giêsu để tìm ra con đường của mình mà đi tới chứ không phải nơi người này hay người kia.

Vậy, điều trước tiên, sám hối là quay trở về với Chúa, lấy Chúa làm mục đích cho cuộc đời mình mà vươn tới. Sám hối cũng là để xin ơn tha thứ và từ bỏ con đường tội lỗi, là một động tác gột rửa tâm hồn, để sống cho hợp với ý Chúa, đem lại bình an nội tâm và liên đới với mọi người.

Thứ đến, sám hối là làm mới lại tinh thần, canh tân đời sống và thay đổi não trạng cũ để đổi lấy tâm tình mới. Sám hối còn là trở nên trong sạch từ ý nghĩ đến hành động. Sám hối để xây dựng tình hiệp nhất, bác ái và yêu thương.

Cuối cùng, sám hối còn là để gắn bó với Chúa, hầu sẵn sàng ra đi loan báo Triều Đại của Thiên Chúa, trở thành những người chinh phục lưới người như lưới cá.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đáp lại lời mời gọi của Chúa để sống tinh thần sám hối thật lòng, hầu có thđón nhận Triều Đại của Thiên Chúa đến với chúng con cách trọn vẹn và sẵn sàng ra đi loan báo sứ mạng ấy cho mọi người. Amen.

 

67. Buông theo Thần Khí – Huệ Minh

Tin mừng Mt 4: 12-23 Ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên.

Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai tại miền Galilê. Sau khi chịu Phép Rửa của ông Gioan tại sông Giođan (Mt 3,13-17), Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào sa mạc để chịu thử thách (Mt 4,1-11). Sau đó, khi nghe ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê, rồi bỏ Nadarét, đến Caphácnaum và từ đó, Người bắt đầu rao giảng Tin Mừng (Mt 4,12-17). Ngay khi vừa bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Mt 4,18-22), và dân chúng rất đông ở khắp miền Galilê đến để nghe Người rao giảng và được chữa lành (Mt 4,23-25).

Và rồi Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ vụ ở miền Galilê bằng việc “rao giảng Tin Mừng Nước Trời” và “chữa lành hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”. Hành động này của Đức Giêsu là cách hiện thực hóa lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã được Tin Mừng trích dẫn: “Hỡi Galilê, miền đất dân ngoại, đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.

Ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Việc các ông lập tức từ bỏ mọi sự mà theo Người vô điều kiện là một cách đáp trả tận căn lời kêu gọi “hoán cải” trong lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu. Các ông là những người dấn thân trọn vẹn qua việc từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ, của cải vật chất, nghề nghiệp và cả những tương quan trần thế, kể cả cha mẹ và anh em ruột thịt để theo Đức Giêsu, trở thành những môn đệ “kề cận” của Người.

Ơn gọi này được khởi xướng từ Đức Giêsu, nhưng để thành sự thì hoàn toàn do thái độ đáp trả của người được gọi. Nhờ vậy, họ thiết lập với Đức Giêsu một sự hiệp thông sâu xa để có thể trải nghiệm được toàn bộ đời sống của Đức Giêsu qua các lời giáo huấn và hành động của Người, và tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời cho muôn dân để quy tụ mọi người về trong một Giáo Hội duy nhất, như quy tụ “cá vào trong lưới”.

Đức Giêsu bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.” Sự từ bỏ mọi sự này như là một đòi buộc cốt yếu đối với sứ vụ của người làm môn đệ Đức Giêsu. Nhờ đó, họ được tự do thanh thoát và có thể mở ra một tương quan mới rộng lớn hơn hướng đến mọi người và giúp mọi người được đón nhận ơn cứu độ. Tin Mừng Mátthêu đã xây dựng hình ảnh người môn đệ như một mẫu gương lý tưởng cho mọi Kitô hữu.

Sự dứt khoát của các ông cho thấy họ đã tìm được kho tàng, chân lý, lẽ sống đích thực là chính Chúa. Các ông cũng khám phá ra lý tưởng của cuộc đời. Vì thế, các ông đành mất hết và coi mọi sự là rơm rác so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa của các ông. Từ đây, các ông được sống cùng và sống với Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Thật là hạnh phúc cho bốn môn đệ đầu tiên này!

Vẫn một điều kiện tiên quyết mang tính quyết định, nên Chúa Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”.

Qua câu nói này, Chúa Giêsu nói cho người xin theo Ngài biết rằng: thái độ dứt khoát là yếu tố căn bản để trở nên môn đệ của Ngài. Theo Chúa là cần phải bỏ mọi sự, không lưỡng lự, không thể tiến thoái lưỡng nan, không chấp nhận nhập nhằng với những ràng buộc của cải, thế gian và tình cảm. Muốn là người thợ cày tốt thì người cầm cày phải nhìn thẳng về phía trước để đi, nếu không thì đường cày sẽ cong queo, không thẳng hàng được. Như vậy, theo Chúa, phải để lại mọi sự, kể cả những gì là thân thuộc, gắn liền với cuộc sống, ngay cả những quyến luyến tình cảm của gia đình…

Để đạt được Nước Trời, người môn đệ phải ưu tiên số một cho những đòi hỏi của Nước ấy. Phải từ bỏ tất cả quá khứ, quên đi dĩ vãng (x. 1 Pr 5,8-9), và nhắm thẳng vào tương lai để ta tiến bước. Điều này quan trọng hơn cả cha mẹ, anh chị em, vợ con và ngay cả mạng sống của mình nữa.

Theo Chúa là dâng hiến cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không thể cắt ngắn hay chọn lựa chỉ giữ những giới răn, lề luật hay những huấn giáo thích hợp với sở thích của chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở về giới luật yêu thương. Giới răn căn bản làm nền tảng là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Gal 5, 14).

Yêu thương thì chân thành, cảm thông và chia sẻ. Yêu thương là xây dựng, đoàn kết và hòa bình. Những sự chia rẽ, cắn xé, tranh dành và gây thù hận đều ngược lại với giới luật yêu thương: Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau (Gal 5, 15). Muốn nên là nhân chứng đích thực của Chúa chúng ta phải ước muốn những điều thuộc về Thần Khí của sự thật, tình yêu và bình an.

Khi gọi các môn đệ, Chúa Giêsu nói: Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta. (Mt 4, 19) Lập tức họ theo Người. Thật là lạ lùng! Nghĩ về các tông đồ cũng gợi ta nhớ về mình. Ta cũng trả lời tiếng gọi theo Chúa, nhưng đã phải đắn đo suy nghĩ rất nhiều rồi mới gật đầu. Có nhiều trường hợp sau khi cuộc đời trầy trụa ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh, rồi mới thấy tu là cõi phúc tình là giây oan, nhưng vẫn chưa trọn vẹn!

Muốn theo Chúa ta phải vượt lên trên những ràng buộc về quyền, tiền và sẵn sàng bước theo Chúa Giêsu trên hành trình loan báo này. Bao lâu chúng ta còn vướng bận quá nhiều trong những chuyện như cơm áo gạo tiền; còn đi tìm những điểm tựa danh vọng, an nhàn thư thái; còn lo lắng quá nhiều đến tình cảm riêng tư, thì bấy lâu con người chúng ta nặng nề và không thanh thoát trong việc làm vinh danh Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người được.

Có được tinh thần thanh thoát và nhẹ nhàng thì chúng ta mới nhạy bén để làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo xác thịt. Khi sống và lựa chọn như thế, ta mới xác định căn tính và mục đích của chúng ta, và Chúa mới là gia nghiệp của ta thực sự.