Các bài suy niệm Chúa Nhật 31 Thường Niên – B          

Các bài suy niệm Chúa Nhật 31 Thường Niên – B           

Lời Chúa: Đnl 6, 2-6; Dt 7, 23-28; Mc 12, 28b-34

MỤC LỤC

  1. Mến Chúa – Yêu người 2
  2. Mến Chúa yêu người. 3
  3. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người 4
  4. Mến Chúa yêu người. 7
  5. Điều răn đứng đầu. 8
  6. Mến Chúa và yêu người – ViKiNi 10
  7. Luật tối thượng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 12
  8. Yêu mến Chúa hết lòng. 13
  9. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu. 15
  10. Một cuộc tranh cãi hữu nghị – Maurice Brouard. 17
  11. “Tôi không biết điều tôi không thể”. 19
  12. Điều răn trọng nhất 20
  13. Chúng ta có hướng về tâm điểm không?. 28
  14. Một tình yêu duy nhất. 29
  15. Lề luật bóp chết con tim.. 31
  16. Sống Mến Chúa và Yêu Người đi đôi 33
  17. Suy niệm của Lm Gioan M Nguyễn Đức Hùng, CRM… 34
  18. Lòng kính mến Chúa. 36
  19. Mến Chúa Yêu Người 38
  20. Với cả tâm trí bạn – Gm. Arthur Tonne. 40
  21. Mến Chúa yêu người – Hiếu Nguyễn. 41
  22. Giới răn trọng nhất – Noel Quesson. 44
  23. Giới luật yêu thương. 45
  24. Chúa Nhật 31 Thường Niên. 47
  25. Yêu người. 48
  26. Suy niệm của Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách. 50
  27. Sống như con người. 52
  28. Mến Chúa yêu người. 53
  29. Thưa Thầy đâu là giới răn trọng nhất?. 54
  30. Hai giới răn. 56
  31. Thiếu sót. 57
  32. Hoàn hảo hơn. 58
  33. Cầu thang. 59
  34. Độc đáo. 61
  35. Mến Chúa, yêu người 62
  36. Suy niệm của JKN. 65
  37. Giới răn trọng nhất. 67
  38. Chú giải của Noel Quesson. 69
  39. Yêu thương bằng việc làm. 72
  40. Thánh thiện là đức ái trọn hảo. 75

1. Mến Chúa – Yêu người

Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi.

Đối với giới luật thứ nhất là kính mến Thiên Chúa, chúng ta có thể chấp nhận một cách dễ dàng, như một bổn phận đường nhiên. Còn đối với giới luật thứ hai là yêu thương anh em, những con người cụ thể với những giới hạn và khuyết điểm, thì quả thực có nhiều vấn đề cần phải đặt ra. Giới luật này chẳng những là một điều rất khó thực hiện, mà nhiều lúc còn là một thử thách rất lớn cho chính đức tin của chúng ta. Thế mà Chúa Giêsu lại nâng giới luật này lên hàng đầu, ngang bằng với lòng kính mến Thiên Chúa, và còn gọi tình yêu tha nhân là giới luật mới, là dấu chỉ của người môn đệ Ngài.

Sở dĩ được gọi là mới là do ý nghĩa thâm sâu mà Chúa Giêsu đã mang lại cho nó, khi Ngài liên kết con người với Thiên Chúa trong một tình yêu chung. Hai tình yêu ấy hòa nhập làm một hay trở nên hai mặt không thể tách rời của một tình yêu duy nhất. Con người, bất kể là ai, sang hay hèn, tốt hay xấu, đều có phẩm giá và phẩm giá này cần phải được tôn trọng. Phẩm giá ấy không phải do của cải hay địa vị xã hội tạo nên, nhưng nó đã được chôn sâu trong chính con người chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều là con cái của Ngài.

Bởi thế, yêu thương con người là yêu thương chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi họ, là yêu thương chính người cha đang ở với mỗi người con. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với con người. Ngài ẩn hình nơi mỗi con người. Vì thế, Ngài buộc các môn đễ của Ngài phải trọng kính và yêu thương mỗi con người: Ai cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ mình trần được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được thăm viếng, thì đó là người ấy đã làm cho chính Chúa được ăn, được uống, được mặc và được thăm viếng vậy. Như thế, tình yêu thương con người đòi hỏi một thái độ đức tin, đó là phải nhìn thấy Chúa trong những người anh em.

Và cũng chỉ có thái độ đức tin mới giúp chúng ta vượt lên trên những ác cảm, những khác biệt, những thù hằn để thương người như chính mình ta vậy. Và hơn thế nữa, với thánh Gioan, thì lòng thương người trở nên như một trắc nghiệm cho tình mến Thiên Chúa, nó chính là thước đo cho tình mến Chúa, bởi vì ai nhận mình kính mến Thiên Chúa, mà lại ghét bỏ anh em, thì kẻ đó chỉ là kẻ nói dối mà thôi.

 

2. Mến Chúa yêu người.

Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hai khía cạnh của một giới răn, đó là lòng mến Chúa và tình thương người.

Trước hết là lòng mến Chúa.

Trong Cựu ước Chúa phán bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.

Thánh Gioan vị tông đồ, thấu triệt được đường lối của Chúa Giêsu, đã viết: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai ở trong tình yêu thì người ấy ở trong Thiên Chúa. Và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy mặc lấy đức ái, là giềng mối mọi sự trọn lành.

Như thế, chúng ta thấy lòng mến Chúa là mục đích chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống trần gian hay nói cách khác, đó chính là sự thánh thiện vậy. Qua giòng thời gian, các thánh, là những người đã xác tín được cái chân lý ấy và đã ra sức thực hiện trong lòng cuộc đời của mình.

Thánh nữ Têrêsa đã viết: Tôi hiểu rằng Giáo Hội có một trái tim, trái tim ấy bùng cháy ngọn lửa tình yêu… Tôi hiểu rằng chỉ tình yêu mới làm cho các chi thể hoạt động. Nếu tình yêu mà lịm tắt, thì các vị tông đồ không còn đi loan báo Tin mừng, các vị tử đạo không còn đổ máu ra để làm chứng cho Phúc âm. Lòng mến này được biểu lộ qua việc chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa bằng những tâm tình cầu nguyện. Nhất là được biểu lộ qua việc chúng ta thực thi thánh ý Chúa, mỗi khi chúng ta làm một việc dù là nhỏ mọn nhất. Chúng ta hãy biết thân thưa với Chúa như thánh nữ Bernadetta: Lạy Chúa, xin cho con biết chu toàn mọi việc vì lòng yêu mến Chúa.

Người ta kể lại thánh Arcadio, khi bị dẫn tới pháp trường, ngài đã bình tĩnh chấp nhận bị khổ đau, rồi ngài nói với những người đứng chung quanh: Chết vì Chúa là được sống, khổ vì Chúa là được hạnh phúc.

Tiếp đến là tình thương người.

Trong Phúc âm Chúa phán: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi. Các ngươi hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.

Thánh Augustinô đã giải thích tư tưởng của Chúa như sau: Tình thương là dấu chỉ duy nhất để phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỉ. Mặc cho những ai cứ làm dấu thánh giá trên trán, cứ chịu phép rửa tội, cứ vào nhà thờ, nhưng chỉ có tình thương mới phân biệt được ai là con cái Thiên Chúa.

Đức Giám mục Bossuet cũng nhấn mạnh: Ai chối bỏ tình thương là chối bỏ đức tin. Ai chối bỏ đức tin là sống ngoài Giáo Hội. Bởi vì như lời thánh Gioan đã diễn tả: Anh em là những người họ trông thấy mà họ chẳng yêu thương, thì làm sao họ có thể kính mến Thiên Chúa Đấng mà họ chẳng hề trông thấy bao giờ.

Bên Âu Mỹ, người ta thử nuôi những trẻ sơ sinh bằng máy dưỡng nhi thay cho người. Với những máy móc ấy, con trẻ được nuôi một cách rất khoa học. Ăn uống đầy đủ, vệ sinh chu đáo. Thế mà đứa trẻ cứ mỗi ngày một ốm o gầy mòn, biếng ăn kém ngủ. Thế nhưng, khi người ta thêm vào trong phòng một cái máy phát ra những tiếng động như nhịp đập của trái tim người mẹ, thì các em trở lại bình thường, ăn ngon ngủ kỹ, da dẻ hồng hào. Như vậy cái yếu tố thiết yếu trong cuộc sống là yêu và được yêu.

Kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Thực hiện được hai điều ấy là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật, và mọi lời Chúa truyền dạy.

 

3. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)

Tình yêu là sự hoàn thiện của con người (Th. Augustinô).

Một nữ văn sĩ đã viết: “Cuộc đời con người vốn trống trải như một quán trọ. Không ai trên cõi đời này có thể sống mà không yêu một người nào hay yêu một cái gì. Bao giờ trái tim còn rung lên những nhịp đập, bao giờ đôi mắt còn nhìn thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn bên kia đồi, bao giờ còn khoảng cách mênh mông của những vì tinh tú trên bầu trời cao, con người còn phải yêu để sống”. Tư tưởng của nhà văn ngụ ý nói rằng tình yêu là một nhu cầu thiêng liêng và cao quý của kiếp sống hiện sinh nơi mỗi người chúng ta. Chỉ có gỗ đá và thú vật mới không biết rung cảm và yêu thương, còn đã là người, chúng ta cần phải yêu để có thể tồn tại. Đó là quy luật thiết yếu mà Thiên Chúa đã đặt để nơi cuộc sống mọi người.

Nhưng thật trớ trêu, người ta đã và đang lợi dụng cũng như bóp méo ý niệm thân quen này. Có những tình yêu đáng lẽ rất trong sáng, lại bị đánh đổi bằng chút ít tiền bạc. Có những tình yêu thoi thóp nơi những trái tim chỉ biết đợi, biết chờ mà không bao giờ được đáp trả. Có những bạn trẻ lao đầu vào những cuộc tình quái gở, vội trao ban những gì quý giá nhất của đời con gái để suốt đời phải ôm một nỗi sầu mênh mang. Có những con người điên điên khùng khùng rao bán tình yêu chỉ với vài ba chỉ vàng, hoặc dùng vốn tự có để đổi lấy một mảnh tình rách. Biết bao phũ phàng và xót xa vẫn đang xảy ra đặc biệt nơi các bạn trẻ, khi họ muốn vươn tới một tình yêu trong sáng nhưng không thể nào có được. Ai cũng biết và cảm thấu sự cao quý của tình yêu, nhưng tình yêu thực sự là gì?

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay vạch dẫn cho ta câu giải đáp. Những môn đệ của Đức Giêsu phải thâm tín rằng không thể có một tình yêu chân chính nếu không quy tập về chính Thiên Chúa, bởi lý do giản đơn như thánh Gioan tông đồ đã xác quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Nói cách khác, Thiên Chúa vốn tự bản chất là Tình yêu, đã thiết định một lề luật căn bản nơi nội tâm mỗi người, đó là luật yêu thương. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, con người càng trở nên hoàn hảo, và trở nên giống Thiên Chúa.

Giới răn quan trọng nhất

Mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư mà Tin mừng hôm nay thuật lại xoay quanh chủ đề ‘Đâu là giới răn quan trọng nhất’. Chủ đề này đã được Đức Giêsu lập đi lập lại khá nhiều lần, ví dụ qua bài giảng trên núi, hoặc khi Ngài nói chuyện với chàng thanh niên muốn nên trọn lành, và đặc biệt trong diễn từ Chúa nói với các học trò trước khi đi thụ nạn. Quả thật, Đức Giêsu đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo, nhưng để công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Ngài chính là bí tích biểu thị tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một Ngài” (Ga 3, 16). Đức Giêsu chính là nhịp cầu nối kết con người với Thiên Chúa, đồng thời cái chết của Ngài trên Thập giá chính là câu định nghĩa hoàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho ta. Tình yêu mà Ngài nói tới không phải là những biểu hiện tình cảm ngốc nghếch mà rất nhiều bạn trẻ thường hay nghĩ tưởng. Chúa nói với các môn sinh “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta phải học, phải hiểu và phải sao chép lại chính tình yêu mà Đức Giêsu đã diễn bày.

Tình yêu mà Chúa Giêsu khai mở và giải thích cho vị kinh sư khi ông ta đến hỏi Ngài gồm hai chiều kích: đối nhân và đối thần, tức yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại. Thực sự đây là hai cách diễn bày, nhưng tình yêu chỉ là một thực tại duy nhất. Thánh Giacôbê đã viết: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là người nói dối” Cụ thể, chúng ta không thể nào mở miệng thưa với Chúa: “Lạy Chúa con yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự”, mà lại không thể nở một nụ cười thân thiện với người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta vẫn mở miệng đọc kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con”, nhưng lắm khi chúng ta vẫn ôm nơi mình biết bao dao găm và lựu đạn khi đến nhà thờ cầu nguyện với Chúa. Những lời cầu nguyện như thế rất giả dối, nhằm đánh lừa Thiên Chúa và rốt cục chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.

Tình yêu là sự hoàn thiện của con người.

Thánh Phanxicô Salê, tiến sĩ về đức ái, đã viết: “ Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu”. Vì thế, càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng vươn đạt đến sự hoàn thiện theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành.” Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đến trần gian để khải thị cho ta Tin mừng về lòng yêu thương của Thiên Chúa. Khi nói chuyện với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã vén mở cho ông điều này. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là câu tóm kết toàn bộ sách Tin mừng, diễn tả sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Ngài đi vào trần gian để loan báo cho ta về tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu là tột đỉnh diễn bày tình yêu tuyệt vời này. Trong 3 năm rao giảng, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, ngôi trường đó mang tên Trường học Tình yêu. Ngài quy tập những người học trò để truyền thụ cho họ một môn học duy nhất, đó cũng chính là môn học về tình yêu. Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu để lại cho các môn sinh bản di chúc tối hậu: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”; “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau.”

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay cha nó ôm đón khi nó trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình thản ngồi tâm sự sát kề bên Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí một tên cướp khét tiếng, với một quá khứ đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, được chính Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, là một nghịch lý vĩ đại và tình yêu ấy trở thành khuôn mẫu nội tâm để tất cả chúng ta noi theo.

Yêu như Chúa yêu

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn căn bản về tình yêu. Tình yêu mà Đức Giêsu mời gọi không mang dáng vẻ lãng mạn và ủy mị như nhiều bạn trẻ thường hay mơ nghĩ. Chúa Giêsu đã sống tận căn mầu nhiệm tình yêu và Ngài mời gọi các học trò hãy sao chép lại tình yêu ấy. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái chết trên Thập giá là câu định nghĩa tuyệt vời nhất về tình yêu mà Đức Giêsu diễn bày, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta dần dần tiến sâu vào quỹ đạo yêu thương độc đáo này.

Thánh Gioan Tông đồ là chuyên gia về tình yêu. Khi tự giới thiệu về mình, vị tông đồ đã không theo kiểu cách thế gian. Ngài không khoe khoang chức vụ hay học vị của mình như người đời vẫn hay làm, ví dụ: ông Nguyễn Văn A, Tổng giám đốc, Tiến sĩ này, thạc sỹ nọ v..v. Thánh Gioan chỉ nói đơn giản về bản thân mình là ‘Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến’. Trong bữa tiệc ly, Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa, lắng nghe những nhịp đập từ con tim thổn thức của người Thầy quý mến. Đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria, Gioan cũng chứng kiến trái tim Chúa mở toang, vọt trào cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng, biểu tượng tình yêu dạt dào như một dòng chảy bất tận. Cảm nghiệm được tình yêu sâu xa này, nên trong Tin Mừng thứ tư và đặc biệt trong cả 3 lá thư Ngài viết, Thánh Gioan hầu như chỉ nói đi nói lại một chủ đề duy nhất, đó là tình yêu “ Hãy yêu như Thầy đã yêu.” Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái cũng nhắc đến hiến tế Thập giá của Đức Giêsu, như là nguyên mẫu cho tình yêu mà chúng ta được mời gọi sao chép lại.

Kết luận

Để kết luận, tôi xin trích dẫn một câu chuyện ngắn của tác giả Trường Long. “Sau khi ly hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ nó: Sao mẹ lại đuổi bố? Mẹ trả lời “Tại bố hư.” Để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, Người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chộp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên bắt đền. Mẹ nó dỗ: “Anh này hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần”. Đứa bé phụng phịu: “Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố? Bà mẹ trẻ nhìn xa xăm rồi thở dài: “Ừ, thì ra mẹ cũng hư.”

Chúng ta cũng dễ thường hay ‘hư’ như thế vì đã không sống triệt để mầu nhiệm tình yêu, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tình yêu đó đòi hỏi chúng ta phải biết sẵn sàng cho đi và biết quảng đại tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy lập lại tâm tình trong kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha….”. Chúng ta cũng nhớ lại lời dạy của Thánh Augustinô: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis).

 

4. Mến Chúa yêu người.

Vào một buổi sáng mùa đông, nhóm tù công giáo quây quần bên nhau, chia sẻ Lời Chúa với dụ ngôn về người Samaritanô nhân lành. Họ trao đổi với nhau và tìm cách áp dụng tinh thần yêu thương vào cuộc sống hằng ngày. Căn phòng không đủ ấm vì từng cơn gió lạnh thổi tới. Một tù nhân nghèo túng, trên người chỉ có một bộ quần áo mỏng manh, đang ngồi mà cứ run lập cập. Bên cạnh đó, một bạn tù khoác những hai chiếc mềm. Và thế là, trong lúc mọi người bàn luận về cách thức tương trợ lẫn nhau, người bạn tù đột nhiên đúng dậy, tiến đến và choàng một chiếc mềm lên người tù nghèo túng. Cử chỉ của người bạn tù đã gây được một ấn tượng mạnh mẽ cho cả nhóm hơn bất cứ lời nào họ nói ra để chia sẻ.

Và cũng từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, chúng ta thường nói: Con người đầu đội trời, chân đạp đất, vì thế sống trên đời chúng ta có hai bổn phận phải chu toàn, đó là mến Chúa và yêu người. Hai bổn phận này phải luôn luôn đi đôi với nhau, như hai mặt của một đồng tiền. Nói cách khác, đó chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, giới luật yêu thương. Chúng ta không thể cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa, nếu như chúng ta không đối xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động bác ái. Thánh Gioan Tông đồ đã xác quyết: Nếu ai nói rằng mình kính mến Chúa là lại ghét bỏ anh em, thì quả thật kẻ ấy chỉ là một tên nói dối, bởi vì hắn ta không thể kính mến Chúa là Đấng hắn chẳng hề trông thấy bao giờ, nếu hắn không yêu thương anh em, là những người hắn luôn thấy được. Chính Đức Kitô cũng đã dạy: Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em. Hai lệnh truyền này tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không yêu thương anh em thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn kính mến Thiên Chúa nữa. Có một câu danh ngôn đã bảo: Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng làm sao thấy được bởi vì Ngài là Đấng thiêng liêng. Thế nhưng khi tôi tìm kiếm người anh em, thì tôi sẽ gặp được chính Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với những người anh em nghèo khổ: mỗi khi chúng ta cho người đói được ăn, người khát được uống, người trần trụi được mặc, người đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.

Thế nhưng, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu thương những người thân cận ruột thịt, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ khó mà yêu thương những kẻ xa lạ cho được. Vậy chúng ta đã dành tình yêu thương cho những người thân cận trong gia đình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là chưa đậm đà cho lắm, thì có lẽ tình yêu thương chúng ta dành cho bà con lối xóm cũng sẽ chẳng khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu thương bà con lối xóm cho mặn nồng thì chắc chắn chúng ta cũng không thể kính mến Thiên Chúa một cách nồng nàn được.

Trái lại, nếu chúng ta yêu quý những người thân cận trong gia đình, thì chúng ta mới có thể yêu quý những người bà con lối xóm. Và một khi đã yêu quý những người bà con lối xóm, thì chắc chắn, chúng ta cũng sẽ dễ dàng kính mến Thiên Chúa. Dấu chỉ và bộ đồng phục của người môn đệ Chúa phải là lòng bác ái, và ngôn ngữ của người Kitô hữu, thứ ngôn ngữ mà nhờ đó bất cứ ai cũng có thể hiểu được về Thiên Chúa và về bản thân chúng ta, đó phải là ngôn ngữ của tình yêu thương.

 

5. Điều răn đứng đầu.

Suy Niệm

Đối với một số bạn trẻ, yêu chẳng có gì khó. Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau. Yêu là hẹn hò, viết thư, tặng quà sinh nhật. Nhưng dần dần quan niệm về tình yêu trở nên sâu xa hơn. Các bạn nhận ra yêu là trao hiến bản thân, là hy sinh chính mình để sống cho người khác.

Tình yêu đích thực không dễ như nhiều người lầm tưởng. Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.

Một vị kinh sư tốt lành hỏi Đức Giêsu về điều răn đứng đầu trong số 613 khoản luật. Ngài trích Ngũ Thư để tóm lại trong hai điều răn chính: yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến.

Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật. Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu.

“Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).

Thánh Âu-tinh phàn nàn là mình đã yêu Chúa quá muộn. Còn chúng ta lại thấy mình yêu Chúa quá ít và hời hợt.

Khi nghe Đức Giêsu nhắc lại lời kinh của người Do Thái: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với trọn cả trái tim ngươi, với trọn cả linh hồn ngươi, với trọn cả trí khôn ngươi, với trọn cả sức lực ngươi…”, ta mới thấy đòi hỏi quyết liệt của Thiên Chúa. Ngài muốn ta yêu Ngài bằng tất cả con người mình.

Cụm từ “với trọn cả” được lặp lại nhiều lần như nhắc ta chẳng nên giữ điều gì lại.

Sống điều răn thứ nhất là đặt Chúa lên trên hết, là dành ưu tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên. Coi Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa. Dành cho Chúa tất cả, để Chúa chiếm trọn mình.

Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất: yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng. Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha, là hình ảnh của Đức Kitô đang cần tôi giúp đỡ. Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí.

Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao. Đó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu, cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu: tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.

Đức Giêsu đã sống đến cùng hai điều răn Ngài dạy. Ngài sống để yêu và chết vì yêu. Tình yêu của Ngài là lễ toàn thiêu và hy tế.

Mỗi tối tôi lại xét mình về tình yêu để thấy mình còn yêu quá ít.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đâu là chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời bạn? Nếu bạn xếp hạng, bạn thấy Ngài bị đặt dưới những thụ tạo nào?

Bạn thấy yêu tha nhân có dễ không? Bạn làm gì khi phải sống với một người không hợp tính với bạn?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con. Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con. Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con. Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con. Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con. Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con. Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con. Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con. Trước khi con đặt Chúa lên trên hết, Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, Chúa luôn đi trước con. Chúa làm trước khi Chúa dạy. Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi. Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.

 

6. Mến Chúa và yêu người – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Tình yêu là đề tài được bàn đến nhiều nhất trên đời này. Những tác phẩm hay nhất thế giới là nhờ mô tả những chuyện về tình yêu. Thi phẩm Ôdyssê của Hy lạp nổi tiếng là nhờ ca tụng tình yêu của Ulyssê và Pênêlốp. Anh hùng ca Râmâyana của Ấn độ đã truyền tụng tình yêu tuyệt vời của hoàng tử Rama và công chúa Sita. Đại văn hào Shakespeare trở nên bất hủ là nhờ diễn tả tình yêu của Roméo và Juliette. Nguyễn Du được thời danh tới tam bách chu niên cũng nhờ diễn tả tình yêu trong truyện Kiều. Những lâu đài kỳ quan nhất thế giới cũng được xây dựng vì tình yêu. Như Kim tự tháp Ai Cập và Taj-Mahal Ấn Độ.

Tại sao tình yêu được nổi bật nhất trong văn hóa nhân loại như vậy? Thưa, vì không sinh hoạt nào, khuynh hướng nào trong con người mạnh mẽ, phong phú và bao la vô hạn bằng tình yêu, và con người được tạo dựng, được sinh ra cũng là do tình yêu.

Cảm xúc vui buồn thì chóng tan, trí khôn con người chỉ khám phá ra được những phát minh vật chất, ý chí của các thế hệ hiện đại mới chỉ tới được một vài hành tinh. Nhưng tình yêu con người có thể bao quát hết mọi người trong trời đất, yêu hết muôn vật trong vũ trụ, và vượt ra ngoài vũ trụ lên tới trời cao vô tận là Thiên Chúa, vì tình yêu con người đã được cưu mang, sinh ra do tình yêu Thiên Chúa. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (Ga. 4, 7). Vì thế, con người có thể vừa mến Chúa vừa yêu người. Nhưng làm thế nào đạt được tới tình yêu kỳ diệu đó?

Chính Đức Giêsu đã hướng dẫn ta:

  1. Mến Thiên Chúa thì ta phải:

Thứ nhất: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy … Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy … Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga. 14, 15-21. 23).

Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là người thực thi lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Lời Chúa được biểu lộ rõ ràng nhất trong bốn cuốn sách Tin mừng. Giới răn của Chúa được tóm gọn trong Mười Điều Răn và Tám Mối Phúc thật.

Thứ hai: Mến Chúa là sống kết hợp với Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 15, 5). Người ta nói: “Xa mặt cách lòng” – Không thấy nhau thì chẳng có thể yêu nhau. Không nhớ nhau thì đâu có luyến tiếc gì. Cho nên muốn yêu nhau thì ở gần nhau hay luôn tưởng nhớ nhau: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Đó là lời cầu nguyện của đứa con hiếu thảo tha thiết yêu cha mẹ, muốn sống với cha mẹ mãi mãi. Lòng yêu mến đó dù khi phải sống xa cha mẹ, vẫn không cách lòng: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Không lạ gì Đức Giêsu dạy ta mến Chúa theo cách thứ hai này: “Mến Chúa kết hợp với Chúa như cành với cây. Kết hợp với Chúa, không phải bằng thể xác, nhưng bằng tinh thần, đó là hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Kết hợp với Chúa đến tột độ hết sức lực ngươi. (Mc. 12, 30).

Thứ ba: Lòng mến Chúa hết sức lực phải được chứng tỏ bằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt. 16, 24).

Tình yêu thí mạng sống mình vì mến Chúa mới thật là mến Chúa hết sức lực. Đức Giêsu đã đòi Phêrô thực hiện tình mến Chúa đó, khi Người hỏi Phêrô ba lần: “Phêrô, con có mến Thầy hơn các người này không?”. Phêrô đã hết sức đáp lại ba lần: “Thưa Thầy có, Thầy biết con mến Thầy”. Nhưng mến Chúa không phải bằng môi bằng miệng mà bằng việc làm, bằng sống chăm sóc và thí mạng sống cho đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Cho đến khi về già, Phêrô sẽ phải giang tay ra trên thập giá như Thầy (Ga. 21, 15-18).

  1. Yêu người thì ta phải:

Thứ nhất: sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt. 7, 12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc. 12, 30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và ích lợi. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa vậy yêu người cũng phải làm những điều đó cho người.

Thứ hai, yêu người còn phải sống theo gương mẫu của Đức Giêsu mới đúng là yêu người một cách tuyệt hảo: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga. 15, 12-13).

Đấy mới là thước đo yêu người cách khách quan chính xác. Yêu người như chính mình, chỉ là thước đo chủ quan và còn nhiều thiếu sót, vì mình còn nhiều khuyết điểm, còn nhiều đam mê xấu tai hại. Nếu lôi cuốn người ta theo những tật xấu của mình, theo những gương mù của mình, thì đáng bị buộc cối đá vào cổ mà liệng xuống biển. Yêu người như chính Thầy, như chính Đức Giêsu đã yêu người, thì Đức Giêsu đã nên giống chúng ta, nên một xương một thịt với chúng ta, nhập thể vào loài người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (Ga. 1, 14 Dt. 2, 5-12; 4, 1-10). Để thông cảm với kẻ ngu muội, lầm lạc, để đồng bàn với kẻ tội lỗi là chúng ta “Ta đến để cứu chữa kẻ tội lỗi”, để phục vụ làm tôi tớ mọi người. “Các anh cứ về tường thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Mt. 11, 4-5).

Chẳng những người phục vụ, cứu chữa mà còn chịu chết đền tội cho chúng ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc. 10, 45). Người đã chết thay cho kẻ có tội, chết thay cho chúng ta, để chúng ta được sống và được sống dồi dào (Rm. 5, 1-11 ; 2Cr. 5, 14).

Đức Giêsu yêu người bằng phục vụ hy sinh đền tội bằng cứu chữa và ban sự sống dồi dào. Lạ lùng hơn nữa, Người còn cho chúng ta được nên giống Người, là bạn hữu của Người, là nên một với Người, như chi thể của Người, được đồng thừa tự với Người, được làm con Chúa Cha. Đức Giêsu yêu mến và tôn vinh con người đến chừng nào. Đó là tình yêu vô cùng, không thể diễn tả được.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tình yêu người của con tuôn chảy từ tình mến Chúa. Xin ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa bừng cháy lên khắp cả đầu đến chân con, khắp cả tâm hồn đến thân xác con, suốt từ sáng tới chiều, suốt cuộc đời từ trẻ tới già, thấu suốt tận nội cung riêng tư đến mọi phận sự và cộng đồng của con. Amen.

 

7. Luật tối thượng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:

Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.

Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.

Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không?

2) Tại sao ta phải yêu mến tha nhân?

3) Bạn hãy tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn thấy thế giới đó thế nào?

 

8. Yêu mến Chúa hết lòng

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng?

Đề tài được đem ra đây thảo luận vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù Cựu Ước. Thầy kinh sư am tường Sách Thánh và luật Mô-sê đặt cho Đức Giêsu một câu hỏi mang tính lý thuyết liên quan tới hiểu biết suy luận nhiều hơn: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Câu trả lời không khó, chỉ cần trích dẫn hầu như nguyên văn sách Đệ Nhị Luật chương 6 câu 4-5 là đã có được câu trả lời hoàn hảo: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh, hết lòng, hết dạ, hết sức anh” (Đnl 6:4-5). Ngay cả điều răn thứ hai mà Đức Giêsu muốn nối kết với điều răn đứng đầu cũng không xa lạ gì. Nó được tìm thấy trong sách Lê-vi chương 19 câu 18b: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Xét về mặt hiểu biết, ông kinh sư không thua kém gì Đức Giêsu, thậm chí ông còn xử dụng một đoạn Sách Thánh khác để bổ túc cho câu trả lời thêm rõ: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ ta” (I-sai-a 45:5; Đnl 4:35). Cuộc thảo luận lý thuyết đó rốt cuộc chẳng dẫn tới kết quả nào khả quan, ngoài lời khích lệ bâng quơ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”

Vấn đề mà nhiều người chúng ta đặt ra trong tư cách là Kitô hữu, không nằm trong phạm trù suy tư lý thuyết, nhưng cụ thể và hiện sinh hơn: làm cách nào mà tôi có thể ‘yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi’,ngay trong đời sống thường ngày? Thiết tưởng, khi Đức Giêsu đến trần gian và thành lập Hội Thánh, Người không nhằm mục đích dạy một điều, cho dầu rất căn bản đi chăng nữa, nhưng đã được ghi chép quá rõ ràng trong Sách Thánh Cựu Ước. Cuộc sống dương thế của Người, và nhất là cái chết Thập Giá, chính là để trả lời cho nghi vấn cụ thể mang tính hành động trên trên, điều mà Cựu Ước chỉ mới làm cách hết sức sơ sài.

Yêu mến, tự nó, không thể bị ép buộc bởi một mệnh lệnh từ bên ngoài: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa”; tình yêu không thể được điều khiển bằng lý trí! Hơn nữa, ngay cả Đệ Nhị Luật cũng chỉ dám khuyên ‘hãy yêu mến Đức Chúa’. Khi ban hành Thập Giới, Đức Chúa Gia-vê đã trưng viện lý do: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa cứu ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Chính Thập Giới cũng không đòi ‘phải yêu mến Thiên Chúa’, mà chỉ qui định việc ‘phụng thờ Người’; vậy thì, khi xác định ‘điều răn’ này hẳn Đức Giêsu phải dựa trên một lý lẽ lớn hơn việc ‘đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ rất nhiều. Đúng thế! tình yêu chỉ có thể bị cưỡng ép bởi tình yêu; vì chỉ có tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, một khi được biểu lộ và minh chứng cách cụ thể, mới có sức trói buộc mà thôi. Đức Giêsu hiểu rất rõ điều này nên Người hằng mơ ước giờ phút Thập Giá, giờ phút mà Người gọi là ‘kairos’, tức là ‘giờ của Người’; vì chỉ trên thập giá, Người mới cống hiến được bằng chứng về một tình yêu tự hiến trọn vẹn: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Bằng cái chết tự hiến đó, Người mới có thể cuốn hút mọi người vào giao ước tình yêu song phương; “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Chỉ như thế, điều răn “phải yêu mến Đức Chúa” mới có được cái sức ràng buộc thật sự!

Nói như vậy cũng đồng thời là lời giải đáp cho một trong các vấn nạn mà từ lâu nay nhiều tín hữu, thậm chí cả tu sĩ linh mục vẫn hằng ấp ủ: ‘làm thế nào mà tôi có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng’. Nếu tình yêu không thể bị ép buộc, thì dầu nỗ lực hay cố gắng tới mấy, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể yêu mến Thiên Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ mình! Điều duy nhất cho phép tôi ‘yêu hết lòng’ là nghiệm ra tình yêu Chúa hiến mình cho tôi càng sâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, để qua đó tôi sẽ cảm thấy mình bị thúc ép, bị lôi cuốn đáp trả tình yêu này. Phải chăng đó là nội dung của Giao Ước Mới: một ký kết tình yêu giữa Thập Giá và mỗi chúng ta? Tông đồ Gio-an đã dành nhiều nỗ lực để cảm nghiệm thứ tình yêu đó trước khi viết về giới luật yêu thương. Trong lá thư 1 ngài viết. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biệu lộ như thế này… Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Phao-lô cũng nói tới một thứ tình yêu thúc bách: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi… Vì Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15).

Vậy thì, ‘Yêu Chúa hết lòng’ phải xuất phát từ chiêm ngắm và cảm nghiệm Thập Giá! Mỗi khi cử hành Thánh Lễ, tôi có thật sự thâm tín rằng: đây là giờ phút tối ưu để tôi xây dựng ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ không?

Lạy Chúa, Chúa không đòi hỏi con làm điều không thể. Khi ban điều răn ‘phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn’ thì, chính Chúa đã hết lòng hết sức yêu thương con trước; xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, là bằng chứng tình yêu thương xót và nhân ái, tình yêu ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ Chúa đã dành cho con trước. Qua con đường chiêm ngắm này, con hy vọng sẽ ngày càng có thể tiến xa hơn trên con đường yêu mến Chúa. Amen.

 

9. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

Tin mừng theo thánh Mác-cô cho thấy Đức Giêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn hết sức lực, và yêu anh em như chính mình”. Đây thực sự là giới răn đem lại hạnh phúc cho con người.

  1. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng

Từ thời Môsê, khoảng thế kỷ 13 trước Công Nguyên, dân Do Thái đã nhận lãnh giới luật yêu mến Thiên Chúa: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Anh em hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực anh em”. Đến thời Đức Giêsu, khi một ký lục hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?” Đức Giêsu đã trả lời bằng cách lập lại giới răn Môsê đã truyền cho dân Do Thái ngày xưa: “Đây là giới răn thứ nhất: hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai: hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn những điều này”.

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực- nghĩa là- đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, chọn Thiên Chúa trên tất cả, lấy Thiên Chúa là đủ cho mình và không ao ước gì ngoài Thiên Chúa. Làm sao để điều này thành hiện thực khi con người chạy theo tiền tài danh vọng? Làm sao để những người cho rằng Thiên Chúa là một từ ngữ có một tương quan tình yêu thiết thân với Ngài? Con người được mời gọi nhận biết và cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người. Điều này, không phải con người làm nhưng chính Thiên Chúa làm cho con người; Thiên Chúa đang dùng con người để giúp Ngài làm cho con người nhận ra tình yêu của Ngài đối với họ.

Đức Giêsu được sai đến để thực hiện điều này: làm sao để con người yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực. Đức Giêsu đã làm mọi cách: đã nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương con người đến độ nào, và Ngài chờ mong con người trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng luôn săn sóc con người; Ngài sẵn sàng ban tất cả cho con người, ngay cả chính Con Ngài. Lời của Thiên Chúa mang trọn vẹn ý nghĩa khi con người, cụ thể nơi các tông đồ, nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chỉ với biến cố phục sinh, con người mới nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, và rồi, con người mới biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.

  1. Con người tự do chọn lựa

Con người là hữu thể tự do. Con người được tạo dựng để thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt để nơi con người một ước vọng hướng về Ngài như nguồn chân thiện mỹ. Con người luôn được mời gọi để hướng về Ngài, chọn Ngài qua những thực tại trần gian. Chọn điều tốt, chọn điều thiện hảo, chọn yêu thương tha nhân, là chọn chính Thiên Chúa. Chọn điều tốt lành thiện hảo, chọn Thiên Chúa, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc.

Làm sao con người có thể chọn điều thiện hảo tốt lành, khi mà thân xác con người cảm thấy cần tiện nghi vật chất, cần tiền bạc để thỏa mãn những nhu cầu vật chất? Thánh I-nhã Loyola cho rằng khi người ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa và tạo vật, khi người ta bình tâm trước tạo vật và chỉ đi tìm Thiên Chúa và ý định của Ngài, thì con người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu nói với các tông đồ: “giầu có khó vào được Nước Trời; lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. Nhưng làm sao để người ta nhận ra rằng điều đó là đúng, và làm sao để người ta chọn điều người ta thấy là đúng?

Tình yêu giúp người ta nhận ra sự thật. Tình yêu sẽ đưa người ta vào chính đạo. Tình yêu sẽ giúp người ta trở về với Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tác động trên con người, trên những trung gian con người mà Ngài dùng, đồng thời trên mỗi người để khao khát tiềm ẩn nơi họ được bừng sáng, để họ nhận ra con đường đích thực giúp họ bình an hạnh phúc. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc. Những người sống trong tình yêu sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ anh em mình.

  1. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn

Con người được gì khi yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực mình? Thiên Chúa là chân thiện mỹ; nếu một người chọn Thiên Chúa, chọn chân thiện mỹ, là chọn anh em mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa, thì sẽ tôn trọng quyền lợi của tha nhân. Người chọn Thiên Chúa và tha nhân sẽ sống an bình và hạnh phúc với tha nhân. Một người chọn tiền bạc danh vọng, sẽ dùng tha nhân và ngay chính anh em như phương tiện để đạt được mục đích của mình; như vậy họ gây khổ não cho tha nhân và ngay cả anh em họ. Nếu một người chỉ chọn họ và không để ý tới quyền lợi của tha nhân, người đó không thể sống hạnh phúc với người khác.

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, là đặt thực tại trần gian vào đúng chỗ của nó. Với những người này, Thiên Chúa và ý định yêu thương của Ngài đối với con người phải là trên hết, tha nhân phải được tôn trọng; và khi sống như vậy, chính người “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu anh em như chính mình” sẽ là người sống hạnh phúc, sống an bình và thuận hòa với chính mình và với người khác xung quanh họ.

Yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu mến tha nhân như chính mình, không chỉ là lề luật phải giữ mà còn là khuôn vàng thước ngọc, giúp người ta sống an bình hạnh phúc. Với những người chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, thì phải diễn đạt điều lề luật Do Thái nói trên bằng “mỗi người phải chọn chân thiện mỹ trên tất cả, tôn trọng và yêu mến tha nhân như chính mình”. Để đạt được điều trên, mỗi người cần ơn trên soi sáng và giúp đỡ; và trong mức độ con người, Thiên Chúa vẫn cần những con người cộng tác với Ngài để giúp con người hôm nay ý thức và sống lề luật này. Thiên Chúa cần những người mẫu cho con người hôm nay.

 

10. Một cuộc tranh cãi hữu nghị – Maurice Brouard.

Bối cảnh.

Sau cuộc rước vào thành Giêrusalem, thánh Maccô kể lại một loạt những cuộc tranh luận về uy quyền của Chúa Giêsu. Giữa những tranh luận này có một cuộc đối thoại xây dựng về giới răn thứ nhất.

Mở đầu.

Vài năm trước đây, trên truyền hình người ta đã nghe một cuộc đối thoại hữu ích giữa một nhà tư tưởng Mácxít xuất sắc và một đại thần học gia Công giáo. Các khán giả rất thích thú về cuộc thảo luận có tính soi sáng và trấn an này. Cuộc tranh luận của ký lục với Thầy Giêsu đối với chúng ta cũng như thế: Hai bậc Thầy tôn trọng nhau, ngợi khen nhau. Hôm nay chúng ta dừng lại trước hết ở câu trả lời của Chúa Giêsu.

  1. Một cuộc tranh luận luôn luôn có tính thời sự.

Các nhà thần học thời đó thích bàn cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trích từ Thánh Kinh, lối 248 giới luật tích cực và 365 giới luật tiêu cực, đâu là những giới luật quan trọng nhất hồi đó. Ngày nay chúng ta cũng cảm thấy cần những quy chiếu giúp hướng chúng ta về điều chính yếu. Vậy điều gì quan trọng nhất?

  1. Mến Chúa vì Ngài là Chúa “duy nhất”.

Trả lời câu hỏi của người ký lục: Giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do Thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi…” Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do Thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy… “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất… Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.

Đây là ý chính trong kinh Tin Kính của người Do Thái. Thiên Chúa đã chọn họ. Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất, đã mạc khải cho họ thánh danh của Ngài, đã ban cho họ lời hứa của Ngài. Nếu Thiên Chúa đã chiều chuộng họ đến thế, thì đáp lại Ngài rất xứng đáng được họ kính yêu. Như một người chồng là “duy nhất”, bởi vì không có người nào đẹp hơn, duyên dáng hơn, thông minh hơn… Thiên Chúa vẫn là “duy nhất” đối với dân Ngài.

Đối với chúng ta, những Kitô hữu, lý do khiến chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do Thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.

Thiên Chúa là Chúa duy nhất, không những vì chỉ có mình Ngài mà thôi, nhưng bởi vì Ngài là Đấng duy nhất thương yêu chúng ta bằng một lòng trìu mến vô biên.

  1. Thương yêu đồng loại như chính mình.

Phần thứ nhì trong câu trả lời của Chúa Giêsu đã khá quen thuộc với chúng ta: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”. Ta biết rằng Chúa Giêsu còn đi xa hơn giới luật của Cựu Ước nữa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Câu hỏi.

Đối với tôi Thiên Chúa có phải là Đấng duy nhất, có thể huy động tất cả những khả năng yêu thương, thông cảm, sống và hành động của tôi không? Trung tâm đời tôi là gì: Tôi, hay Thiên Chúa và tha nhân?

Lời Chúa và Thánh Thể.

Nếu tình yêu là động lực của đời chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi tham dự hy lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã vì yêu mà hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa và loài người. Lúc đó Thánh lễ sẽ trở thành đỉnh cao của cuộc đời chúng ta.

 

11. “Tôi không biết điều tôi không thể”.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).

Khi tổng thống Harding chết vào mùa hè 1923, phó tổng thống Calvin Coolidge, đang giúp cho cha ông ở nông trại tại Verment, cha của ông là một công chứng ở tòa án. Lúc vẫn còn ở nông trại ông đã chứng nhận lời tuyên thệ nhậm chức tổng thống cho con ông. Một người nào đó sau đó đã hỏi ông: “Ông có biết là ông đã chứng nhận lời thề tổng thống cho con ông không?”. Ông trả lời: “Tôi không biết điều tôi không thể”.

Một câu trả lời ngắn gọn đầy ấn tượng của Coolidges, đã diễn tả cảm tính của nhiều người mà chúng ta chia sẻ. Chúng ta muốn sự tự do. Chúng ta muốn tin rằng bất cứ những gì không bị cấm thì được phép. Có lẽ với sự ngạc nhiên của chúng ta là Chúa Giêsu cũng cảm thấy như thế, Người yêu thích sự tự do.

Câu hỏi và luật sĩ đã đặt cho Chúa Giêsu thì không phải là vô bổ: “Điều gì là quan trọng nhất trong các Lề Luật”. Dĩ nhiên ông ta đã suy nghĩ về những điều luật được tìm thấy trong Cựu Ước. Theo những thầy Rabbi giải thích luật đã quyết định rằng nó có 613 khoản luật, 248 khoản tích cực và 165 khoản tiêu cực. Vị luật sĩ đã chân thành khi ông hỏi: “Điều nào là điều quan trọng nhất”. Bởi điều mà ông ta muốn nói, điều luật nào là điều luật lớn nhất? Chúa Giêsu đã trả lời không do dự, Ngài lập tức trích dẫn sách Đệ nhị luật, bài đọc I mà chúng ta đọc trong ngày chúa nhật hôm nay: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”.

Chúa Giêsu đã không hề bối rối trước 613 khoản luật của các thầy Rabbi. Chỉ trong một khoảnh khắc, Ngài đã dạy rằng tất cả Lề Luật tóm tắt trong một điều luật lớn nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu đã không dừng lại ở đây, mặc dù câu hỏi là: “Điều luật nào trọng nhất?”. Thay vì chỉ có một câu trả lời, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm câu thứ hai: “Ngươi sẽ yêu mến tha nhân như chính mình”, luật này không phải Người trích từ sách Đệ nhị luật nhưng là từ sách Lêvi.

Chúng ta có thể cũng hỏi Chúa Giêsu: “Có một điều luật lớn nhất hay là hai?” Chúa Giêsu trả lời: “Chỉ có một điều luật duy nhất, bởi vì các con không thể yêu Thiên Chúa thật nếu các con không yêu mến anh em và các con không thể yêu mến anh em nếu các con không yêu mến Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã vươn ra khỏi sách Đệ nhị luật để đến với sách Lêvi và nối kết hai điều luật riêng biệt thành một.

Một số người Công giáo đã phàn nàn về những cáo thị của Công Đồng Vatican II nói về tình yêu tương quan. Họ muốn chúng ta đi trở lại với cung cách cũ, nhấn mạnh đến những điều luật và những quy tắc. Họ có một quan điểm. Chúng ta không hề coi nhẹ những Lề Luật trong Thánh Kinh và những quy tắc khác của Giáo Hội. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu không hề giảm nhẹ hay coi thường những Lề Luật của Cựu Ước. Ngài không hề nói chúng vô ích. Nhưng Người đã tiếp tục duy trì và tóm kết tất cả trong một Lề Luật của tình yêu. Thông thường dễ dàng hơn khi theo một Lề Luật, đó là yêu mến Thiên Chúa cách hoàn toàn và yêu mến tha nhân như chính mình. Tình yêu giải thoát chúng ta khỏi tính tự mãn, điều đó là nền tảng của mọi tội lỗi. Sự tự do thất không cho chúng ta làm những gì chúng ta muốn. Đó là sự tự do làm những gì mà chúng ta phải làm để yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân.

Theo truyền thuyết khi thánh Gioan đã già, ngài luôn luôn nhắc đi nhắc lại trong bài giảng của mình: “Hãy yêu mến Thiên Chúa, hãy yêu mến anh em của mình”. Khi một số môn đồ của ngài cảm thấy bực bội bởi ngài cứ nhắc đi nhắc lại điều duy nhất, đã hỏi ngài tại sao nhấn mạnh cùng một sứ điệp tình yêu như thế. Ngài trả lời: “Bởi vì nếu chúng ta tuân giữ nó thì điều đó đã đủ rồi”.

 

12. Điều răn trọng nhất

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

  1. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Từ hồi học giáo lý Rước Lễ Vỡ Lòng, chúng ta đã thuộc lòng câu “10 điều răn ấy tóm về hai điều này mà thôi, trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, Amen”. Tuy nhiên chúng ta đã không thực hiện đúng như điều ta đã thuộc: một mặt, chúng ta không ý thức rằng yêu thương là điều quan trọng nhất trong cuộc sống ; mặt khác, chúng ta cố gắng mến Chúa nhưng chưa cố gắng yêu người cho đủ.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta thực hành hai điều răn quan trọng ấy một cách trọn vẹn hơn.

  1. GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúng con chưa thực sự kính mến Chúa trên hết mọi sự.

– Chúng con lỗi phạm rất nhiều về điều răn yêu thương anh em.

– Rất nhiều lần chúng con hành động vì bị thúc đẩy bởi lòng giận ghét.

III. LỜI CHÚA

  1. Bài đọc I (Đnl 6,2-6)

Ông Môsê nhấn mạnh cho dân do thái thấy tầm quan trọng của điều răn kính mến Chúa bằng những chữ “hết” được lặp đi lặp lại nhiều lần: “Hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em”.

Trải qua bao thế hệ, người do thái đã cố gắng tuân giữ điều răn ấy. Tuy nhiên giáo huấn của Cựu Ước còn thiếu sót vì chỉ nhấn mạnh đến việc kính mến Chúa mà không quan tâm đủ đến việc yêu thương tha nhân.

Điều thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc.

  1. Đáp ca (Tv 130)

Thánh vịnh này là bài ca bày tỏ một tấm lòng yêu mến Chúa thiết tha.

  1. Tin Mừng (Mc 12,28b-34)
  2. Các luật sĩ tấn công Đức Giêsu: “Trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất?”. Đối với họ, đây là một câu hỏi hóc búa, vì Cựu Ước ghi lại rất nhiều giới luật nhưng không cho biết giới luật nào trọng hơn giới luật nào. Nguyên việc thuộc hết các giới luật đã là một chuyện rất khó, huống chi đánh giá và so sánh các luật đó.
  3. Nhưng Đức Giêsu trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: 2 giới luật trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình.
  4. Bài đọc II (Dt 7,23-28) (Chủ đề phụ)

Tác giả thư do thái so sánh chức Thượng tế trong đạo do thái với chức Thượng tế của Đức Giêsu: (1) Chức thượng tế do thái chỉ có một đời người, khi chết rồi thì mất ; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu là chức Thượng tế đời đời, tồn tại mãi mãi ; (2) Các thượng tế do thái cũng là người phàm với những tội lỗi ; còn Đức Giêsu là vị Thượng tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội ; (3) Các thượng tế do thái phải dâng lễ đền tội nhiều lần ; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.

  1. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Giới luật yêu thương, điểm độc đáo

Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của Đạo Công Giáo là gì?”. Giáo lý viên đáp: “là Yêu Thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên. Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau ; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương ; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra 2 kết luận hết sức bất ngờ: 1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn không có đạo ; 2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí!

Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao? Chúng ta phải tìm hiểu kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay mới được.

  1. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay là do thánh Marcô chép. Marcô thì quen chép ngắn gọn, nên đôi khi không đủ ý. Muốn đầy đủ hơn, chúng ta phải đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu, cũng chép về câu chuyện này, nhưng đầy đủ hơn. Theo bản chép của thánh Matthêu, để trả lời cho câu hỏi của một người luật sĩ xem điều luật nào trọng nhất, thì CG sau khi đưa ra luật mến Chúa, đã nói “Còn điều thứ hai cũng giống như điều trước” và CG đưa ra luật yêu người. Nghĩa là Đức Giêsu đã xếp luật Yêu thương người nặng với luật mến Chúa. Nói cách khác, CG đã nâng luật yêu người lên cao bằng luật mến Chúa.

Phía trên đã nói rằng mọi người, không phân biệt là có đạo hay không có đạo, đều trân trọng tình cảm yêu thương. Tuy nhiên tình thương của người ta có nhiều cấp bực khác nhau: thương một người bạn thì không bằng thương anh em ruột, thương anh em cũng không bằng thương cha mẹ, và thương ai cũng không thể nào bằng thương người tình của mình. Đối với một người có đạo, thì họ nghĩ phải thương yêu Chúa trên hết, kế đó mới là tình thương đối với những người khác. Còn CG thì dạy phải đặt tình thương người và tình thương Chúa ngang nhau. Nghĩa là ta thương Chúa bao nhiêu thì cũng phải thương người bấy nhiêu. Nói cách khác, ta phải coi người ta như Chúa vậy, và phải thương người ta như thương Chúa vậy. Đó chính là điểm độc đáo thứ nhất của Tình Thương Công Giáo.

2/ Nhưng thương người là thương ai? Về điểm này, chúng ta lại đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Luca để bổ túc cho đoạn của thánh Marcô quá ngắn gọn. Thánh Luca chép thêm rằng người luật sĩ ấy sau khi nghe CG nói về luật thương người, thì hỏi một câu tương tự như câu hỏi tôi vừa đặt ra: Nhưng thương người là thương ai? CG đưa ra dụ ngôn về người xứ Samaria tốt bụng đã tốn công tốn tiến cứu giúp một người Do thái, tức là một kẻ thù của dân Samaria. Ý nghĩa dụ ngôn ấy là: ta phải coi mọi người là người thân, do đó phải biết thương tất cả mọi người, cho dù đó là một người chưa hề quen biết, cho dù đó là một kẻ thù của chúng ta.

Thiết tưởng cũng cần giải thích về bối cảnh của đoạn Tin Mừng này. Người Do thái cũng có luật thương người, luật ghi rõ phải thương người thân cận. Theo lối hiểu của người Do thái, thì người thân cận tức là người cũng dân tộc, cùng tín ngưỡng với mình. Còn những kẻ thuộc dân khác, thuộc đạo khác thì không phải là người thân cận nên không buộc phải thương. Bấy giờ CG qua dụ ngôn về người Samaria đã thương yêu giúp đỡ một người Do thái khác dân tộc và khác tín ngưỡng, đã phá bỏ hàng rào ấy. Theo CG, tình yêu thương không có biên giới. Ta phải thương yêu mọi người, phải coi mọi người đều là kẻ thân cận. Nói cách khác đi, ta không chỉ thương người đồng bào, đồng đạo, đồng chí mà phải thương bất cứ ai ta gặp trên đường đời, bất cứ ai đứng bên cạnh ta trong cuộc đời, ta đều phải thương hết. Người ta thường vẽ ranh giới cho tình thương, người ta thường đặt hàng rào cho tình thương: ai ở trong ranh giới và trong hàng rào đó thì thương hết là thương, còn ai ở ngoài thì là người dưng, người lạ khỏi thèm thương. Đức Giêsu khi phá bỏ mọi hàng rào, mọi biên giới, tức là thêm một điểm độc đáo nữa cho Tình Yêu thương Công giáo.

3/ Và điểm độc đáo thứ ba, chúng ta thấy ngay trong đoạn văn của Thánh Marcô. “Yêu thương người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúng ta hãy chú ý đến hai chữ Hơn Là. Cho người nghèo một lon gạo, và dâng cho Chúa một bó bông huệ. Việc nào quý hơn. Nếu chưa đọc câu Tin Mừng này, chắc hẳn ai cũng bảo dâng bông huệ cho Chúa là quý hơn. Nhưng câu Tin Mừng này đánh giá ngược lại: cho người nghèo một lon gạo quý hơn. Đó là điểm độc đáo thứ 3 của Tình thương Công giáo.

Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người Giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng Tình yêu Thương của Đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả của người không có đạo. Lý do có lẽ là vì Giáo lý viên ấy không thấy 3 điểm độc đáo của Tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện 3 điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện 3 điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo. Xin nói rõ hơn để tóm lại và cũng là để kết thúc:

. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.

. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.

. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quý hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến Nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.

* 2. Hai giới răn đi đôi

Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa Mecca vì đây là nơi sinh của đức giáo chủ Mahomet.

Ngày xưa Vua các loài mèo cũng đi hành hương thánh địa Mecca. Khi ngài trở về, vị vua các loài chuột nghĩ rằng mình có bổn phận phải đến chúc mừng. Tuy nhiên các bề tôi chuột ái ngại cho tính mạng của vua mình. Họ tâu: “Mèo là kẻ thù của chúng ta. Không thể tin cậy được”. Nhưng vua chuột đáp: “Ông ta đã đi hành hương thánh địa, cho nên chắc là tâm tính của ông đã thay đổi”.

Thế là vua chuột tìm đến hoàng cung của vua mèo. Mới tới cửa thì vua chuột đã thấy vua mèo đang nằm mọp cầu kinh rất là sốt sắng. Vua mèo thấy an tâm, tiến vào gần hơn chút nữa. Đột nhiên vua mèo chồm lên định vồ lấy vua chuột. Rất may là nhờ nhanh hơn nên vua chuột kịp phóng ra ngoài thoát thân.

Khi vua chuột trở về nhà, các bề tôi hỏi: “Phải chăng là sau khi hành hương thánh địa trở về, vua mèo đã thay tâm đổi tính?” Nhưng vua chuột đáp: “Các ngươi đã đoán đúng, còn ta thì sai”.

Câu chuyện tưởng tượng trên muốn giúp ta thấy rằng thật là nguy hiểm nếu tách riêng hai giới răn mến Chúa và yêu người.

Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Một tôn giáo chỉ lo yêu Chúa mà không biết yêu người là một tôn giáo không hợp ý Chúa và không phải là tôn giáo thật.

Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu

Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu

Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài

Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi

Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba. (Viết theo Flor McCarthy)

* 3. Mến Chúa yêu người (Mc 12,28B-34)

Trong báo Los Angeles ngày 13-13-1997 có đăng lá thư của một độc giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký giả Ann Landers – người phụ trách mục “Giải đáp thắc mắc” như sau:

Bà Ann thân mến

…Ba tôi đi làm sáu ngày một tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy, cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không bộc lộ tình cảm hay nói những lời thương mến với chúng tôi.

Cuộc đời tôi đã thay đổi khi tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi. Tôi quá cảm động vì hành vi yêu thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi nghĩ: “Đây mới thực là cách lẽ ra ba mẹ phải làm cho mình”. Khi về nhà, tôi đã giận ba mẹ một thời gian. Nhưng vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn có của họ.

Đây là điều tôi đã làm để thay đổi tình hình: Tôi bắt đầu hôn mẹ tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng. Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện thoại, tôi nói: “Mẹ ơi! Con thương Mẹ!” Sau một thời gian, cuối cùng mẹ tôi cũng đã nói được với tôi: “Mẹ cũng rất thương con”. Tôi chưa được nghe như thế bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm mẹ, bà hỏi tôi: “Những cái hôn của mẹ đâu?” Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo: “Mẹ thương con. Con biết mà phải không?”

****

Đạo Do thái dựa trên 10 điều răn. Nhưng qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?” Người đáp: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Vậy Đức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”. Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga.4,20).

Vậy bắt đầu yêu thương từ đâu? – Trước tiên, hãy yêu thương những người trong gia đình mình, những người gần gũi thân thiết nhất trong trái tim ta. Không yêu được các thành viên trong gia đình, chúng ta không thể yêu thương người khác. Không yêu thương người khác, chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa.

Người đàn bà ở Sun City bằng những lời nói yêu thương, những cử chỉ âu yếm, những đón tiếp chân thành đã mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người thân yêu trong gia đình. Từ đó, như vết dấu loang tình yêu lan tỏa ra bên ngoài. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Hãy tử tế khi còn gần nhau để sau này khỏi hối hận khi đã xa nhau”.

Cũng thế với những lời nói yêu thương, những nghĩa cử chân thành, chúng ta sẽ làm tươi mát biết bao cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự hạn hẹp của tình yêu con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau. Thánh Augustinô mô tả: “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân”. Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Rosalie còn khẳng định: “Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.

****

Lạy Chúa, để gặp gỡ tha nhân chúng con phải mở to đôi mắt, để đón tiếp tha nhân chúng con phải dọn dẹp cho trống trải lòng mình, để yêu thương anh em chúng con phải biết quên mình.

Xin cho chúng con luôn xác tín: Chúng con chỉ kính mến Chúa khi thực sự yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

* 4. Thứ tội phạm nhiều nhất

Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.

Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: “Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm?” Anh đáp lại: “Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó”

Một nguy hiểm lớn cho những tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần.

Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót ; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người cùng sống chung với mình v.v. Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau.

Đức Giêsu nói với người kinh sư “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Ông đã biết liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một, đó là một bước. Ông chỉ cần bước thêm bước thứ hai nữa là vào được Nước Thiên Chúa, bước đó là thực hành điều ông biết. (Viết theo Flor McCarthy)

* 5. Các bậc thang yêu thương

Maimonides là một thầy giáo người do thái rất nổi tiếng ở Tây ban nha trong thế kỷ 20. Ông đã liệt kê 8 bậc thang yêu thương như sau:

. Bậc thứ nhất và cũng thấp nhất là cho, nhưng cho một cách miễn cưỡng.

. Bậc thứ hai là cho cách vui vẻ, nhưng không tương xứng với nhu cầu của người nhận.

. Bậc thứ ba là cho vui vẻ và tương xứng với nhu cầu người nhận, nhưng đợi người ta xin mới cho.

. Bậc thứ tư cho vui vẻ, tương xứng và không chờ người ta xin.

. Bậc thứ năm là cho một cách nào đó khiến người-nhận nhận được của cho đồng thời biết được người-cho, nhưng người-cho không biết người-nhận.

. Bậc thứ sáu là người-cho biết người-nhận nhưng người-nhận không biết người-cho.

. Bậc thứ bảy là cho, nhưng cả người-cho và người-nhận đều không biết nhau.

. Bậc thứ tám cao nhất, là thấy trước nhu cầu người-nhận nên cho để người-nhận khỏi rơi vào cảnh nghèo khổ.

* 6. Chuyện minh họa

Một người nghèo kia đi từ nhà này sang nhà khác để ăn xin. Nhưng chẳng ai cho ông một đồng hay một mụn bánh, trái lại ông còn nhận được rất nhiều lời xua đuổi, thậm chí chửi rửa.

Một ngày mùa đông, ông bị trượt té gãy chân. Có người đi ngang thấy thế đưa ông vào bệnh viện. Khi dân chúng hay tin có người nghèo bị té gãy chân và đang phải nằm bệnh viện, họ kéo đến rất đông, họ an ủi ông, họ đem thức ăn đến cho ông. Khi ông rời bệnh viện, họ còn cho ông những quấn áo ấm và cả một số tiền nữa.

Trở về nhà, người ấy nói với vợ: “Ngợi khen Chúa vì đã làm một phép lạ là cho tôi được gãy chân!”

Sớm giúp cho người ta khỏi té còn tốt hơn là khi người ta té rồi mới giúp.

  1. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy rằng: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình ; không có giới răn nào khác quan trọng hơn hai giới răn này. Chúa cùng cầu xin Chúa giúp chúng ta hiểu và sống đúng lời dạy của Chúa:

  1. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn thực thi đúng lời Chúa dạy / để chứng minh cho mọi người hiểu rằng: người công giáo mến Chúa là để yêu người / và yêu người là để chứng tỏ lòng mến Chúa.
  2. Xin cho mọi nhà cầm quyền trong xã hội hiểu biết rằng / lòng mến Chúa của người Công giáo không gây thiệt hại gì cho tình yêu đồng loại / trái lại còn giúp họ yêu thương đồng bào trọn hảo hơn.
  3. Xin cho mọi người đang thiếu tình thương, thiếu sức khỏe, không có công ăn việc làm / gặp được những người thật tình giúp đỡ vì lòng mến Chúa và vì lòng yêu thương họ.
  4. Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / biết bày tỏ lòng mến Chúa yêu người một cách thành thật và cụ thể / để loại trừ thói giữ đạo bề ngoài và giả hình.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con sau khi được bồi dưỡng lòng mến Chúa yêu người nhờ Thánh lễ, biết thực thi lòng mến Chúa yêu người đó với mọi người chung quanh trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.

  1. TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha đến câu “Và tha nợ chúng con”, chúng ta hãy chú ý đến phần kế tiếp “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

VII. GIẢI TÁN

Hai điều răn quan trọng nhất và đi đôi với nhau là mến Chúa và yêu người. Trong Thánh lễ, chúng ta đã bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Trở về với môi trường sống hằng ngày, chúng ta hãy thể hiện đức yêu người.

 

13. Chúng ta có hướng về tâm điểm không?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Vẻ độc đáo của Kinh Thánh là do ở điều này: Kinh thánh mạc khải thánh ý Thiên Chúa muốn làm cho con người trở nên như thể một người bạn ‘đôi lứa’ trong một liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, một liên hệ yêu thương mà nhân loại thụ tạo chúng ta sự sống, Người khai triển trong con người 1 khả năng nhận biết, nghênh tiếp và đáp ứng Thiên Chúa, khả năng này thần hóa con người. Cựu Ước từng công bố nhu cầu cấp thiết phải kính mến Thiên Chúa, một nhu cầu đưa đến hệ quả: phải yêu mến tha nhân. Do đó Cựu Ước chuẩn bị cho một mạc khải viên mãn mà Tân Ước đem đến cho nhân loại. Một luật sĩ chất vấn Chúa Giêsu. Hai bên đối đáp, đi tới chỗ ông phải đọc lên giới luật thứ nhất, và Chúa nói: Ông không xa nước Thiên Chúa đâu. Câu nói ngắn đó là chìa khóa để hiểu đoạn Phúc Âm hôm nay.

Thật vậy, Chúa loan báo rằng Nước Thiên Chúa được bao thế kỷ lịch sử Israel chuẩn bị cho người ta nghênh đón nay đã tới. Nước Thiên Chúa tới như thế nào? Tới trong con người Chúa Giêsu. Nói rằng luật sĩ không xa Nước Thiên Chúa, tức là nói rằng ông không xa bao nhiêu giây phút ông sẽ tân đồng, sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Đức Kitô làm cho sự mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa được đầy đủ, và Người đến với thế gian trong tư thế đó. Con người có một nhu cầu cấp thiết cho nhân loại và nhân loại được chuẩn bị nghênh đón Đức Kitô. Nếu ta thắc mắc: ‘Làm thế nào để đem giới luật kính mến Thiên Chúa vào cuộc đời chúng ta? Trường hợp đó ta phải chia câu hỏi trên thành hai câu hỏi khác: ‘Nghênh đón Đức Kitô thế nào, và trả lời Người thế nào?’

1) Nghênh đón Đức Kitô thế nào? Nghênh đón Người bằng niềm tin vào Người, tin vào sứ điệp của Người. Niềm tin ấy không dễ gì có được, mà phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Tại sao khó có được niềm tin ấy? Bởi vì nếu ta nhân định về chỗ đứng nhỏ mọn của mình trong vũ trụ; nếu ta ngó vào bản ngã mình mà chỉ thấy một thứ gì mong manh, chóng qua đi, nếu ta trông thấy đại dương mênh mông khổ ải và chết chóc, tất nhiên ta khó chấp nhận rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương từng cá nhân trong một đám chúng sinh. Vậy mà Đức Giêsu là Thiên Chúa, Người thương yêu chúng ta bằng một tình yêu hiện diện trong mỗi người. Người thân mật âu yếm gọi tên từng người. Chỉ có hành vi tin mới giúp ta nghênh tiếp Chúa Giêsu thân thiết ngự đến trong chúng ta.

2) Trả lời Chúa thế nào? Bằng cách chấp nhận để Chúa chiếm lấy chỗ của Người trong ý thức tôn giáo của ta: một cuộc điều tra của tổ chức SOFRES năm 1972 phát hiện rằng trong số 84 người Pháp tự nhận là công giáo, chỉ có 41 người tin rằng ngày nay Chúa Giêsu đang sống động. Người ta tự hỏi có gì trong một ý thứ Kitô hữu vắng bóng Đức Kitô sống động. Tình yêu theo Phúc Âm và thiếu nguồn mạch sống động sẽ biến thành gì? Điều cần thiết phải có, nếu thiếu sẽ mắc họa chết về phần hồn, là trong linh hồn, trong trí tuệ, trong trái tim chúng ta, chúng ta phải để Chúa Giêsu Kitô ngự ở tâm điểm. Bằng cách nào? Chúng ta chớ nên lấy làm thỏa mãn vì ta ấp ủ lý tưởng Phúc Âm, vì ta thuộc về Giáo Hội. Hễ là Kitô hữu, thì phải ý thức rằng một Đấng mời mọc chúng ta hãy liên hệ mật thiết với Người. Liên hệ đó là Thiên Chúa, Đấng vô biên, tự hiến cho con người qua Đức Kitô – và qua Đức Kitô, con người tự hiến cho Thiên Chúa.

 

14. Một tình yêu duy nhất.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Không dễ gì tìm được trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện chí như trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.

Luật sĩ đã tỏ ra đồng ý với Chúa Giêsu. Chính ông cũng đã lập lại: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ”.

Thưa anh chị em,

Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v… Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.

Yêu Chúa không hệ tại tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực, nếu không phát xuất từ tâm tình thâm sâu bên trong.

Yêu người cũng không phải là “cho của dư thừa”, cũng không chỉ là “cho cái mình có”, mà là trao thân hiến mạng cho kẻ khác, là chấp nhận bị tước đoạt, là xác tín rằng nơi con người có cái gì đó của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu, xứng đáng được phục vụ và yêu thương đến cùng.

Vì vậy, tình yêu Chúa phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích của nó. Hơn nữa, chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài. Ngay trong tình yêu vợ chồng, nếu không được nuôi dưỡng bằng tình yêu mến Chúa, một tình yêu quên mình, tha thứ, hy sinh, phục vụ người mình yêu, thì tình yêu vợ chồng cũng sớm phai nhạt và có nguy cơ tan rã… chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó với Ngài, chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân.

Thưa anh chị em,

Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ. Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân…

Cuối cùng, người Kitô hữu không yêu bằng lời nói, bằng môi mép, nhưng bằng hành động cụ thể. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong người ấy được?” (Ga 3, 17// Gc 14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác. Như Chúa Giêsu đã thí mạng cho nhân loại, người Kitô hữu cũng phải là những người dấn thân xây dựng công lý và hoà bình, để hết thảy, dù xa hay gần, đều đạt đến hạnh phúc Nước Trời.

Đối với chúng ta, yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan còn nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 3,16; 4,11).

“Đây là lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4, 20-21).

Nhìn ngắm Chúa Kitô trên thập giá và nhất là được hiệp thông với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cầu xin được thêm lòng yêu mến Cha trên trời và yêu thương anh em đồng loại như Ngài đã yêu thương chúng ta.

 

15. Lề luật bóp chết con tim

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ để người ta thống trị người khác. Lề luật bị lạm dụng đến nỗi không còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà nhằm bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lề luật không đưa đến sự an bình, hạnh phúc cho con người nhưng trở thành một gánh nặng, một nỗi sợ hãi cho số đông thấp cổ bé miệng.

Nhân danh lề luật họ răn đe người này, khủng bố người kia. Họ nhân danh Chúa để bôi nhọ người này, rêu rao lỗi lầm người kia. Điều tệ hại nhất là họ có thể nhân danh Chúa, nhân danh lề luật để loại trừ người khác. Cụ thể là những người bị coi là ô uế đều bị loại trừ thẳng tay như: người bệnh phong cùi, người phụ nữ ngoại tình, người vi phạm luật của Chúa mà theo luật đã trở nên ô uế thì đều bị loại ra khỏi sinh hoạt cộng động.

Họ cũng có thể nhân danh Chúa để ném đá, để đóng đinh kẻ đi ngược lại với quan điểm của mình. Lề luật trở thành phương tiện để họ lợi dụng, để họ vu khống, để họ hãm hại người khác. Đã có rất nhiều cái chết oan uổng chỉ vì ý đồ cá nhân. Đã có quá nhiều cái chết cay nghiệt của những người công chính bị hàm oan.

Điều đáng buồn là những người nhân danh lề luật để hãm hại người khác nhưng họ không hề tỏ lòng hối tiếc về hành vi gian ác của mình. Lương tâm họ đã bị lề luật trói buột. Trái tim họ đã bị lề luật làm tê cứng. Lề luật đáng lý giúp cho lương tâm trong sáng và trái tim nhân bản hơn, thế nhưng, vì quá chú trọng lề luật nên họ đã đánh mất đi trái tim yêu thương của con người chỉ còn lại những mưu mô xảo trá.

Cách đây ít năm Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.

Lương tâm của Gilgal Zamir đã bị lề luật làm cho trai cứng. Trái tim của anh đã bị băng giá bởi lề luật mà anh đã được giáo dục. Anh mến Chúa. Anh trung thành với lề luật nhưng anh không được giáo dục để có một trái tim yêu thương. Những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng hành xử như vậy. Họ nhân danh lề luật. Họ nhân danh Giavê Thiên Chúa để áp đặt và thống trị người khác. Chính họ đã làm cho lề luật trở thành gánh nặng cho dân.

Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Con người sống với Chúa và sống với tha nhân là nhờ tình yêu và cho tình yêu. Con người được sống nhờ tình yêu của Chúa nên con người cũng phải biết sống cho tình yêu một cách trọn vẹn: yêu Chúa hết mình và yêu tha nhân như chính mình.

Người Việt Nam thường có câu “sống có lý có tình”. Nếu cuộc sống chung chỉ có lý mà không có tình thì cuộc sống chung đó là một hoả ngục. Người ta chỉ rình mò kết án lẫn nhau. Người ta chỉ dựa theo lý để hành xử sẽ dẫn đến cảnh cá lớn, nuốt cá bé. Cuộc đời sẽ trở thành bãi chiến trường mà kẻ mạnh làm chúa, kẻ yếu làm tôi. Nếu cuộc sống chung chỉ dựa theo lý sẽ dẫn đến sa mạc hoá tình người. Người ta sẽ nại vào lý do này, nại vào lý do kia để từ chối giúp đỡ anh em của mình. Sống phải có tình mới có thể “chín bỏ làm mười”. Sống phải có tình có lý người ta mới quan tâm giúp đỡ nhau, người ta mới sống chân thành và cởi mở, chia sẻ với nhau đến độ “một con người đau cả tàu bỏ cỏ”.

Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi của cuộc sống đó là: con người có hồn có xác. Con người cần phải có tương quan và bổn phận với Chúa và tha nhân. Mến Chúa phải yêu tha nhân. Mến Chúa mà không yêu tha nhân điều đó hợp lý nhưng không hợp tình. Hợp lý vì con người là thụ tạo của Chúa thì phải thờ phượng và kính mến Chúa. Nhưng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên phải yêu mến tha nhân. Ngược lại yêu mến tha nhân mà không kính mến Chúa là vô ơn bất hiếu. Vì sự sống là của Chúa, những gì chúng ta làm được cho tha nhân đều xuất phát từ ân huệ của Chúa nên con người phải thờ phương kính mến Chúa. Yêu mến Chúa phải yêu hình ảnh của Chúa. Vì thế mà thánh Gioan bảo rằng: “ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến tha nhân đó là kẻ nói dối:.

Ước gì mỗi người chúng ta không chỉ yêu Chúa trên môi miệng mà yêu Chúa thật lòng, biết dành thời giờ phụng thờ Chúa và biết dùng khả năng để phục vụ hình ảnh Chúa nơi tha nhân. Amen.

 

16. Sống Mến Chúa và Yêu Người đi đôi

Thiên Chúa là tình thương. Ngài đã yêu thương đến cùng. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin theo Chúa. Vì thế, mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu ở trần gian mà chúng ta lãnh nhận và thực thi.

Chúa Giêsu đã sát nhập cả hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất, mến Chúa thì yêu người và yêu người thì mến Chúa. Tình yêu thương tha nhân phải được thể hiện qua sự quan tâm, yêu thương, qua những hành động cụ thể như cho kẻ đói ăn, khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó những vết thương cho những người không quen biết. Tình thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù nhỏ mọn.

Theo Chúa Giêsu thì còn lớn hơn những nghi lễ, những lễ vật mà người ta muốn dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Những cử chỉ của tình yêu thương có thể thay thế mọi nghi lễ. Như thế,

Yêu mến Chúa không hệ tại việc tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực nếu không phát xuất từ tâm tình sâu thẳm bên trong.

Yêu thương con người cũng không phải là cho của dư thừa, cho cái mình có mà là trao ban tình thương mà Thiên Chúa muốn. Vì thế, tình yêu phải là động lực, là điều kiện để chúng ta yêu người. Tình yêu bao giờ cũng phát xuất từ Thiên Chúa và đi đến tha nhân… Tuy nhiên chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, gắn bó với Ngài thì chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân đúng nghĩa nhất.

Giới luật yêu thương mà Chúa muốn các môn đệ và tất cả chúng ta thi hành giúp cải thiện mối tương quan nhân loại và là nền tảng xây dựng mối hoà bình hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa. Yêu thương người đồng loại không chỉ yêu thương kẻ sống chung quanh với mình, thích hợp với mình nhưng là một bước tiến tới với những người khác, những người có thể ở xa, có thể không phải là thân bằng quyến thuộc của mình. Bác ái vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có sự yêu thương triệt để và tích cực. Một tình yêu chân thật dẫn chúng ta dành hết khả năng của mình để phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu.

Vì thế, trong năm sống đức tin, đây là cơ hội để mỗi người Kitô hữu chúng ta rà soát lại lối sống đức tin của mình, can đảm tuyên xưng đức tin bằng đời sống mến Chúa và yêu người chưa?. Chúng ta cần xác tín rằng: yêu thương tha nhân là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan đã nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hãy yêu thương nhau” (1Ga 3, 16; 4, 11). Tóm lại, chúng ta hãy sống đức tin bằng tâm tình của Giáo Hội theo ý muốn của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương như chính Lời Chúa mời gọi. Chúng con phải yêu thương hết mọi người. Lòng yêu thương này bắt nguồn từ lòng yêu mến Thiên Chúa. Amen.

 

17. Suy niệm của Lm Gioan M Nguyễn Đức Hùng, CRM

GIỚI RĂN MỚI SIÊU THĂNG

VÀ HOÀN HẢO HÓA GIỚI RĂN CŨ

Từ trước tới nay tôi nghe và đọc nhiều bài giảng nói khá hay về giới răn cũ, nhưng lại thấy rất ít ai đề cập và đào sâu hơn một chút về giới răn mới, giới răn yêu thương của Chúa Giêsu, và điều đó làm tôi ngạc nhiên không ít.

Thưa các bạn,

Phải thú thực là yêu thương người khác được như chính mình như giới răn Chúa đòi dân Do Thái thời Cựu ước, thì cũng là khá trình độ và tuyệt vời rồi. Chúng ta thử tưởng tượng là, nếu các nước ngày hôm nay họ sống yêu thương, đối xử với nhau, lo cho nhau như lo cho chính mình họ, như lo cho chính gia đình họ, thì chắc hẳn là bầu không khí của giữa những con người với nhau, giữa các cá nhân, giữa các gia đình, giữa các quốc gia với nhau sẽ đẹp, thanh bình và hạnh phúc biết bao nhiêu!

Tất cả chúng ta đang được vinh hạnh sống trong thời Tân ước, thời mà Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta, Đấng đã từng phán: Hạnh phúc của Ta là được ở với con cái loài người. Chính Đấng ấy đã mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha, và kêu gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt.5,48). Như Cha là Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. (Mt.5,45).

Chúa Giêsu với tất cả tình yêu thương âu yếm,Ngài đến để bảo đảm hạnh phúc cho ta. Ngài bật mí cách thoải mái Tình Yêu Hiền Phụ của Thiên Chúa Cha đối với từng người chúng ta. Ngài dẫn chúng ta đi sâu vào tình thân mật đối với Cha Ngài; Ngài lại còn tỏ cho chúng ta biết phẩm giá vô cùng hạnh phúc lớn lao là chúng ta được nâng lên làm con Thiên Chúa, con đúng nghĩa hơn tất cả những người con với bố nó hợp lại;Ngài mặc khải cho ta về chỉ có Cha là Đấng Nhân Lành đúng nghĩa hơn hết, là Đấng yêu chúng ta chỉ vì Ngài muốn yêu,chứ không phải tại ta có gì tốt mà Ngài mới yêu, rồi khi ta không tốt nữa thì Ngài lại không yêu chúng ta nữa. Không, ngàn lần không, Tình Yêu của Ngài luôn bất biến, dù tình con người có thay đổi đổi thay, nhưng Tình Ngài muôn đời vẫn thế! Ngài say yêu ta, đối xử với ta rất tình Cha với ta,lại còn cho phép và rất muốn chúng ta đối xử thân tình dễ thương với Ngài như những đứa con bé nhỏ thảo mến ruột thịt. Đồng thời, Ngài phá bỏ mọi ranh giới giữa chúng ta với nhau,để nhận ra nhau đều là những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời.

Các bạn kính ái!

Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy luật cũ mà là kiện toàn, siêu thăng, hoàn hảo hóa lên, trình độ hơn, cao cơ hơn…

Thế thì, có phải không? Chúa Giêsu đã từng nói: Anh em đã nghe luật xưa dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em; nơi khác Chúa nói rõ hơn: Hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người ghét các con, chúc phúc cho người nguyền rủa các con, để các con nên giống Cha các con trên trời…Vâng, giới răn cũ và mới khác rồi đấy, các bạn ạ!

Trước đó Chúa còn nói: Luật xưa dạy rằng: Mắt thế mắt, răng thế răng; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác; trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy cho nó cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (Mt.5,38-41). Giới răn cũ và mới đã rất khác rồi đấy!

Chính vì thế mà Chúa đã tuyên bố nhiều lần, nhất là trước khi chịu chết là: “Thầy truyền cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc lại giới răn cũ khi người thanh niên đầy thiện chí hỏi Chúa. Sở dĩ Chúa nhắc lại giới răn cũ là bởi vì lúc đó Chúa chưa thiết lập giới răn mới là giới răn mà Chúa chỉ tuyên bố thiết lập khi Chúa đã dạy dỗ đủ điều và đã làm gương. Và Ngài đã chính thức thiết lập Giới Răn Mới trong bữa Tiệc ly, trước khi Chúa đi chịu chết để cứu chuộc nhân thế.

Như vậy bạn và tôi có lẽ chúng ta đã hiểu được tinh ý của Thầy Chí Thánh rồi. Ngài muốn chúng ta yêu nhau, yêu mọi người với mức độ như CHÍNH NGÀI đã yêu, chứ không phải là yêu như CHÍNH MÌNH nữa. Có phải khác biệt nhau một trời một vực phải không, thưa các bạn?

Các bạn ạ!

Cách đây gần mười năm, lúc đấy tôi còn là một ông thầy muôn năm. Hôm đó đi chia sẻ cho một nhóm quý anh chị đã tận hiến cho Đức Mẹ, chủ đề về đức Bác ái, một chị trưởng nhóm có hỏi tôi rằng: Thưa Thầy, ở vùng chúng con có một người đàn ông còn mạnh khỏe mà lại đi hành khất, ban tối lại thấy ông ấy vào nhà hàng để nhậu…,vậy lần sau ông đó đến nhà chúng con xin, chúng con có nên cho nữ hay không? Vì nếu cứ cho thì ra như cho để ông đi nhậu, lại còn vào nhà hàng mà có khi chúng con cũng không dám vào. Ông này cứ đúng như họ kể, thì có lần ban ngày, tôi đã trông thấy mang nạng, chân khèo khèo đi xin; lần khác, lại trông thấy ông vào ban tối, thấy ông vai vác hai cái nạng, ung dung đi đứng rất đàng hoàng như không có bị què gì cả…Vậy nếu người ta hỏi bạn, bạn sẽ giải quyết là nên cho hay không nên cho, hả bạn?

Hôm đó, tôi đã nại vào câu Chúa nói: Ai xin các ngươi cứ cho, ai vay mượn các ngươi đừng từ chối. (Mt.5,42), để trả lời là chúng ta cứ cho. Khi nghe tôi trả lời cứ cho, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên lắm! Và tôi nói tiếp, nếu căn cứ theo giới răn cũ (yêu nhau như mình) thì không cho là đúng, nhưng theo giới răn mới (yêu nhau như Chúa yêu) không cho là không đúng; vã nữa, Chúa bảo chúng ta là: Ai xin các con cứ cho cơ mà! Ai mà Chúa nói đây là tất cả mọi người,cả người tốt lẫn người xấu,cả người ngay lẫn người gian.., nên nhiều ít tùy chúng ta,nhưng cứ cho thì sẽ là yêu thương như Chúa yêu thương hơn,sẽ nhân đức hơn… Sau đó, tôi còn nói khôi hài một câu để cho mọi người cười cho vui vẻ là: chúng ta cũng phải để cho họ nhậu, họ bồi dưỡng họ mới có sức khỏe hôm sau đi xin tiếp chứ! Thế là mọi người cười rất to và nhận ra rằng tiền của người ta vất vả nắng nôi, lại còn đóng kịch giả bộ là mình tật nguyền để người ta thương hại mà cho.., là sở hữu của họ, họ muốn nhậu, muốn làm gì tùy họ chứ!

Như vậy là giới răn mới và giới răn cũ rất khác nhau đấy bạn nhỉ? Bạn và tôi, chúng ta đang được hân hạnh sống trong thời đại mới của Tân ước, và dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta sống theo luật mới của Tân ước mà thôi. Rượu mới phải được đổ vào bầu da mới mà, phải không bạn? Cầu chúc bạn tìm được nhiều niềm vui trong việc yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương và làm gương cho chúng ta.

 

18. Lòng kính mến Chúa

(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)

Giáo huấn Tin Mừng của Chúa truyền dạy chúng ta hôm nay rất cao cả và quan trọng, vì đó là một nghĩa vụ tuyệt đối khẩn thiết, một giới luật trọng đại nhất chúng ta phải chu toàn đối với Thiên Chúa, Chúa chúng ta.

  1. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI TUYỆT ĐỐI

Maisen thừa lệnh Chúa truyền dạy: “Hỡi Israel hãy nghe đây: Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa anh chị em hết lòng, hết linh hồn và hết sức anh chị em.

Những điều tôi truyền cho anh chị em hôm nay, anh chị em:

* Hãy ghi tạc các luật đó vào tâm khảm anh chị em,

* Hãy thuật lại cho con cháu anh chị em đến muôn đời,

* Hãy suy niệm các luật đó lúc ở nhà, khi đi đường, hoặc khi nằm nghỉ cũng như lúc thức giấc,

* Hãy buộc chặt các luật đó vào tay mình, như dấu hiện hữu và máy động trước mắt anh chị em,

* Hãy viết bằng chữ lớn các luật đó trên cột và trên mi cửa nhà anh chị em” (Deut 6:4-9).

  1. LÝ DO GIỚI LUẬT CHÚA TRUYỀN

Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên chúng ta, là Cha Nhân Từ, là vị Đại Ân Nhân của chúng ta; Chúa có quyền đòi buộc chúng ta phải kính mến Chúa; đó là giới luật công bằng hợp lý hợp tình. Nhưng chúng ta có kính mến Chúa, chúng ta cũng chẳng thêm gì cho Chúa, vì Chúa hoàn toàn sung mãn, không một thụ tạo nào có thể thêm bớt cho Người, Người hoàn toàn hạnh phúc. Chính vì muốn cho chúng ta được hạnh phúc mà Chúa đã truyền dạy chúng ta phải kính mến Chúa. Chúng ta hãy nghe tiếp huấn lệnh của Chúa, mà tổ phụ Maisen truyền lại cho chúng ta: “Anh chị em phải kính mến Chúa, tôn thờ Chúa là Thiên Chúa của anh chị em, hết linh hồn, hết lòng mình và tuân cứ các lề luật, lễ nghi của Người như ta truyền cho anh chị em hôm nay, để anh chị em được hạnh phúc” (Deut 10:13).

Thánh tổ phụ còn nhấn mạnh: “Hôm nay ta bày tỏ trước mặt anh chị em lời chúc phúc và lời nguyền rủa.

* Anh chị em sẽ được chúc phúc, nếu anh chị em tuân giữ các huấn lệnh Chúa truyền,

* Anh chị em sẽ bị nguyền rủa, nếu anh chị em bất tuân và đi trệch đường lối Chúa chỉ dạy” (Deut 11:26-28).

III. NHỮNG DẤU CHỈ LÒNG CHÚA YÊU THƯƠNG

Loài người chúng ta thường thán phục trước tấm lòng hào hiệp, thường cảm động tri ân trước tấm lòng quảng đại trao ban, thường tôn kính mến yêu những vị làm ơn lành cho mình. Vậy đâu là những dấu chỉ của lòng Chúa yêu thương chúng ta?

Đối với chúng ta, không những Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, ban cho chúng ta mọi ơn lành hồn xác, lại quan phòng gìn giữ chúng ta, không những như một Đấng Tạo Hóa, hay như một Vị Đại Ân Nhân, nhưng còn hơn nữa như một Người Cha Nhân Từ hằng hết lòng yêu thương, săn sóc, che chở chúng ta như con cái rất yêu dấu của Người.

Như một người Cha, trước khi dựng nên chúng ta, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ bao la với muôn loài muôn vật, muôn cảnh sắc huy hoàng lộng lẫy kỳ diệu, để chúng ta được hưởng dùng, được nhận biết và chiêm ngắm, mà ca ngợi uy quyền và tình thương của Chúa. Chẳng khác gì một bà mẹ trước khi sinh con, bà sắm sẵn các đồ dùng cũng như những nhu cầu cần thiết cho con, để khi con bà vừa chào đời, đã có sẵn mọi vật dụng cần thiết cho cuộc sống của con.

Như một bà mẹ thương yêu cưng chiều con bà thế nào, Chúa cũng thương yêu chúng ta như vậy, chính Chúa mạc khải điều đó qua lời tiên tri Isaia: “Các con được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, được nâng nui trên đầu gối; như mẹ hiền âu yếm con thơ, Cha cũng sẽ vỗ về âu yếm, yêu thương các con như vậy” (Is 66:12-13).

Chính Chúa Kitô còn nhắc lại tình âu yếm yêu đương đó trong Tin Mừng khi Ngài thương khóc thành thánh Jerusalem: “Đã bao lần Ta tụ họp con cái các ngươi như gà mẹ túc con dưới cánh, mà các ngươi không biết” (Mt 23:27). Tình Chúa yêu thương nhân loại đã được bày giãi trước mắt chúng ta, bằng muôn vàn cách thế tràn ngập trong vũ trụ, như những dấu chỉ minh chứng tấm lòng yêu thương của Người.

Thánh Têrêxa Hài Đồng một hôm đang đi dạo tại vườn hoa, Chị trông thấy một hình ảnh thơ mộng, một con gà mẹ âu yếm ấp ủ bày gà con dưới cánh, trước con diều hâu đang bay lượn tìm bắt… Chị đã nhớ đến lời Chúa phán trên đây và động lòng thổn thức tưởng nghĩ đến lòng Chúa yêu thương, đến nỗi Chị không thể tiếp tục đi dạo, trở về phòng ôm mặt khóc và hết lòng tri ân kính mến Người.

Nhiều vị Thánh khi đọc tới kinh “Lạy Cha”, các ngài cảm thấy lòng mình thổn thức rạo rực, rộn lên niềm hân hoan vui sướng, khiến đôi dòng châu lệ tuôn trào trước cái diễm phúc, vì mình có một người Cha Nhân Từ hằng yêu thương săn sóc, lo cho mình mọi sự, khiến các ngài được ngây ngất sảng khoái như cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng, đến nỗi không thể đọc hết lời kinh thơm xinh đó được nữa.

Đứng trước vũ trụ tràn đầy những kỳ công huyền diệu, những cảnh sắc tuyệt vời, ghi dấu tình Chúa yêu thương nhân loại, các Thánh được tràn đầy sung sướng, hết lòng ngâm ngợi ca khen tình Chúa yêu thương, khiến các ngài bùng cháy lên ngọn lửa mến yêu Chúa tha thiết, đến sẵn sàng hy hiến cả cuộc đời để phụng sự và yêu mến Chúa, nỗ lực làm tông đồ đến kiệt quệ thân xác để Chúa được tôn vinh, được phụng sự và yêu mến.

Kết luận

Xin Chúa ban cho chúng ta luôn nhận ra lòng Chúa yêu thương chúng ta, để chúng ta được chu toàn giới luật Chúa truyền dạy: “Phải kính mến Chúa”, hầu chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng ngay cả lúc chúng ta gặp rủi ro bất trắc, như gương Thánh tổ phụ Job xưa. Chớ gì chúng ta luôn nhớ thực thi lời Chúa dạy Chị Dòng Bénigna trong cả cuộc sống: “Con hãy đọc lời: “CHA YÊU CON” trên bánh con ăn, trên giường con nằm, trên nhà con ở, trên các dụng cụ con dùng”. Và, quyết tâm gắng sức hoạt động mọi cách làm cho nhân loại được nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa cách xứng đáng như Chúa đáng mến.

 

19. Mến Chúa Yêu Người

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.

Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm lại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Ki-tô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta.

Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: Tạ ơn Đức Ki-tô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Ki-tô và mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.

Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Ki-tô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Ki-tô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.

Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xoá mọi chuyện.

Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.

Cái hợp lý theo suy lụân của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.

Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.

 

20. Với cả tâm trí bạn – Gm. Arthur Tonne.

Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ của bà về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa? Con chưa bao giờ thấy Người”. Ít ngày sau, cô bé nhận được một bưu kiện, trong đó có một cuốn sách hình rất đẹp, trên trang bìa cuốn sách đề hàng chữ: “Tặng Maria thân yêu, Dì Rosa”. Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa và họ sống xa nhau hàng ngàn cây số. Khi Maria nhìn những bức hình đẹp trong cuốn sách, em nói với mẹ: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá! Dì cho con cuốn sách đẹp này”. Người mẹ phản đối: “Nhưng con chưa bao giờ thấy dì Rosa mà”. Maria trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì gởi cho con cuốn sách đẹp này”.

Nhiều người trong chúng ta có thể thắc mắc: “Làm sao chúng ta có thể yêu Chúa nếu chưa bao giờ chúng ta thấy Người?”. Tất cả chúng ta đã nhận quà của Chúa, những món quà này dẫn chúng ta yêu Đấng đã gởi tới.

Dĩ nhiên một cách nào đó, chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa trong hình dung của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa làm người. Hôm nay nói lại cho chúng ta rằng: Chúng ta phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa chúng ta hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn và hết sức lực. Sẽ giúp chúng ta hiểu và giữ luật này nếu hôm nay chúng ta chỉ nhìn một góc cạnh của giới răn: “Yêu Chúa… với tất cả tâm trí.

Để yêu ai, trước tiên chúng ta phải biết người ấy. Để biết ai, chúng ta phải dùng tâm trí. Làm sao chúng ta có thể biết Chúa?

Làm sao tôi biết một người trong các bạn? Tôi phải nói với bạn và lắng nghe khi bạn nói. Đối với Chúa, chúng ta gọi là cầu nguyện. Bạn hãy gọi như thế nếu bạn muốn. Chúng ta không thể biết Chúa, trừ khi chúng ta nói với Người. Đó là lý do tại sao Giáo Hội kêu gọi chúng ta cầu nguyện với Chúa, ít nhất là sớm mai và chiều tối. Đó là lý do bạn và tôi cầu nguyện với Chúa bất cứ lúc nào trong kinh nhật tụng, và nhất là trong Thánh Lễ.

Chúng ta biết một người do công việc họ làm hoặc họ là thợ mộc, là họa sĩ biếm họa hay một đầu bếp.

Chúng ta biết Chúa qua những việc Chúa đã làm. Cỏ cây, chim chóc, gió mây, sao trời… nói với chúng ta về Chúa. Tất cả những cái đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng lý trí.

Muốn hiểu một người, chúng ta cố gắng gặp người đó càng nhiều càng hay. Chúng ta gặp Chúa trong mỗi ngày, trong mỗi cuộc sống chung quanh, nhất là chúng ta gặp Chúa trong Giáo Hội, trong Thánh Lễ, rước lễ và các bí tích.

Chúng ta cũng biết một người do những điều một người khác biệt về người đó nói lại cho chúng ta. Linh mục của bạn, ngài đã dùng nhiều thì giờ học hỏi về Chúa, nói về Chúa. Các ngài có thể nói nhiều về Cha trên trời, về Thiên Chúa Làm người, về Chúa Thánh Thần cho bạn. Cha mẹ nói cho chúng ta về Chúa. Thực sự các ngài là thầy tốt nhất nói về Chúa. Giáo lý viên, báo chí, tạp chí và sách vở Công giáo nói với chúng ta nhiều sự thật về Chúa.

Sử dụng lý trí để tìm hiểu mọi cái về Chúa. Như thế bạn yêu Chúa với tất cả lý trí của bạn.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

21. Mến Chúa yêu người – Hiếu Nguyễn

CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA

  1. Chọn người kế vị

Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước, để mời gọi người đàn ông nào ưu tú đến ngài chọn. Ngài đưa ra tiêu chuẩn là kẻ ấy phải có lòng “mến Chúa yêu người.”

Một thanh niên thấy mình có điều kiện đó, nên định đến cho vua chọn. Nhưng khổ nỗi anh nghèo quá, đến mức không có áo quần tươm tất cũng chẳng có tiền mua sắm thức ăn để đi dự cuộc thi. Anh cầu xin Chúa giúp anh. Và sau đó anh đi ăn mày quần áo và lương thực cần thiết.

Lúc đi đến gần cung điện đức vua, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh, “Tôi đói và lạnh quá! Xin cậu thương…” Anh nhìn ông lão, lòng vô cùng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.

Và anh đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua, anh cúi đầu sâu chào ngài. Khi ngước mắt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên, “Thế là bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?” “Đúng vậy.” Anh ta ngạc nhiên hỏi, “Sao bệ hạ làm thế?” “Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng ‘mến Chúa yêu người’ không.”

  1. Tôi đi tìm Chúa

Các tu sĩ Ái nhĩ lan có kể giai thoại sau đây. Đêm nọ, vị tu sĩ lão thành thấy một thiên thần đang ngồi viết trong cuốn sổ vàng. Vị tu sĩ rón rén đến hỏi, “Ngài đang viết gì trong sổ đó?” “Tôi đang ghi tên những kẻ ‘Kính mến Chúa và yêu thương người’.”

Lo lắng hồi hộp, ông không biết mình có tên trong sổ đó không, nên hỏi, “Thưa ngài, ngài có ghi tên tôi trong sổ đó không?” Thiên thần lật từng trang mà không thấy tên ông. Ông nài nỉ, “Xin ngài ghi tên tôi như là một tu sĩ thương mến tha nhân.” Sứ thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.

Hôm sau sứ thần lại hiện ra, mở sổ vàng cho ông xem. Ông lại thấy tên mình dẫn đầu trong sổ những người yêu mến Chúa… Sau khi qua đời, các thầy xem nhật ký của ông, dòng chữ đầu trong nhật ký đó là, “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối. Không yêu mến anh em là kẻ mình thấy thì không thể kính mến Chúa là đấng mình không thấy.”

Và tiếp theo là lời ghi chú của ông, “Tôi đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi lại gặp Thiên Chúa và linh hồn tôi.”

  1. Tình yêu bắt nguồn từ gia đình

Một người ở Sun City, Hoa Kỳ, trình bày với người đảm trách “tâm lý trị liệu” như sau. Ba tôi đi làm suốt tuần, mẹ tôi bận việc nhà cả ngày. Ba mẹ tôi không khi nào bộc lộ tình cảm hay nói lời yêu thương với tôi. Vì thế tôi cảm thấy cô đơn buồn tủi mãi. Một hôm tôi có dịp đến ngủ ở nhà chị bạn tôi. Khi chúng tôi lên giường ngủ, mẹ bạn tôi đến hôn hai chị em chúng tôi. Cử chỉ đó làm tôi cảm động, đến độ tôi không ngủ được. Tôi nghĩ mãi chớ gì ba mẹ tôi đối xử với tôi như thế. Và tôi quyết định sẽ làm như thế đối với ba mẹ tôi.

Từ đó tôi bắt đầu hôn ba mẹ tôi thường xuyên. Khi có dịp, tôi nói với ba mẹ, “Ba ơi, con thương ba! Mẹ ơi, con thương mẹ!” Và mọi sự trong gia đình đều hoàn toàn thay đổi. Chúng tôi thương yêu nhau, sống vui tươi hạnh phúc. Tôi lập gia đình khi lên 17 tuổi và có hai con lúc chưa đầy 20 tuổi. Tôi thường hôn con tôi đến khi má chúng ửng hồng lên.

  1. Hạt giống tình yêu

Trong giấc mơ, người nữ kia thấy mình đang đứng trước một cửa hàng mới khai trương. Điều làm cho bà ngạc nhiên nhất là thấy Chúa Giêsu ngồi ngay ở quầy tính tiền. Bà liền hỏi, “Chúa bán những món hàng nào?” “Tất cả mọi món hàng mà con người ham thích.”

Vui mừng quá! Bà ta quyết định mua tất cả những món hàng mà người đời thường ham thích. Bà thưa với Chúa, “Con muốn mua, bình an, hạnh phúc, tình thương..” Chúa Giêsu mỉm cười, chậm rãi nói, “Con lầm rồi. Ở đây không bán hoa trái, mà chỉ có bán hạt giống thôi.”

  1. Lòng mến Chúa bị suy sụp

Một bà đạo đức cảm thấy lòng kính mến Chúa của mình ngày càng suy giảm mau chóng như sức khỏe thể xác của bà. Bà buồn quá, không biết làm sao nung đốt lại lửa mến Chúa trong lòng mình. Vì nay bà đã gần đất xa trời rồi, sợ với tình trạng tâm hồn nguội lạnh thế này thì khó vào được thiên đàng sau khi nhắm mắt lìa đời. Bà đến gặp linh mục lão thành Zossima, kể cho ngài nghe nỗi yếu kém sa sút của lòng mến Chúa của bà, và xin ngài cho phương cách chữa trị.

Cha Zossima chăm chỉ lắng nghe rồi nói, “Có một phương thế rất hiệu nghiệm.” Bà vui mừng hỏi ngay, “Phương thế nào, thưa cha?” “Bằng tình yêu. Hãy cố gắng yêu thương những người láng giềng của bà. Càng thương yêu họ, bà càng kính mến Chúa hơn. Bà chắc chắn được Chúa thưởng thiên đàng hơn.”

  1. Tiếng chiên con

Một buổi chiều đông giá rét, có người đốn cây trên đồi trở về vui với gia đình trong đêm Giáng sinh, sau bao ngày lao động xa cách gia đình…

Bỗng một cơn bão nổi lên, sấm chớp nổ vang trời, mưa đổ xuống như thác lũ… Anh đang chạy tìm chỗ trú ẩn thì một tiếng sét long trời nổ bên tai, cành cây đổ xuống trên mình anh, máu từ đầu chảy xuống, và anh ngã gục, nằm chờ tử thần!..

Có tiếng bê-bê từ đâu vọng lại. Đó là tiếng một con bê con đang gặp nạn như anh. Thọat đầu anh làm ngơ vì kiệt sức. Nhưng tiếng kêu mỗi lúc một tha thiết khiến anh tự nhủ: “Mình chỉ muốn chết, nhưng con bê kia muốn sống và chắc chắn nó đang cần mình”. Thế thì anh cố chỗi dậy, đi theo tiếng chiên kêu.

Anh tìm được nó trong một cái hang. Nó cũng bị thương và lạnh buốt. Anh ẵm nó vào lòng ngực để sưởi ấm cho nó”. Một sức sống mới đang vươn lên trong thân xác yếu ớt của anh. Anh cảm thấy muốn sống và muốn sống hơn bao giờ hết”.

*****

Chúa đến viếng thăm chúng ta, nên ánh sánh hy vọng của sự sống là bảo chứng của ơn cứu rỗi và là chiến thắng tiêu diệt sự chết..

“Chính lúc chúng ta có can đảm cởi mở tâm hồn đi đến với người khác đang cần được yêu thương giúp đỡ là lúc chúng ta sẽ được nhận lãnh sinh lực mới, sức sống mới, để sưởi ấm sự lạnh lẽo và giải thoát chúng ta khỏi cơ cực lầm than. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I)

  1. Chết vì yêu

Tạp chí bách Khoa Văn học số 6 năm 1991, có đăng câu chuyện “Mùi cọp”.

Có đôi vợ chồng trẻ: chồng là giảng sư đại học, vợ là diễn viên và là người tập luyện thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau, chồng thấy nghề dạy thú của vợ có cái gì không bình thường, nhứt là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc từ thân thể của vợ. Cái mùi cọp thật là khó chịu đối với người khác, nhưng đối với nguời dạy thú thì không thể thiếu mùi đó. Chính nhờ cái mùi đó mà bầy cọp mới nhận ra cô và ngoan ngoãn vâng lời.

Rồi hai người giận nhau, và tình trạng kéo dài. Cuối cùng người vợ chủ động làm lành. Cô tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ làm hòa với nhau.

Nhưng đêm sau người vợ đó chết. Cô chết vì con cọp dữ không nhận ra cô nữa, vì mùi cọp quen thuộc của cô đã biến thành mùi nước hoa xa lạ. Con cọp hoảng hốt trước mùi nước hoa lạ lẫm đó nên phải tự vệ bằng cách tấn công cô.

*****

Người vợ vì yêu chồng đã gội rửa chính mình và đã phải hy sinh mạng sống. Yêu đích thực không phải là chết đi một ít mà chết đi trọn vẹn. Đó là ý nghĩa của cái chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã yêu và yêu loài người đến cùng, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, và sống lại vinh hiển để đem lại nguồn sống bất diệt cho mọi người.

Tình yêu mời gọi tình yêu. Chúa Kitô yêu thương chúng ta, hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta. Người mời gọi chúng ta đáp lại tình yêu của Người, hy sinh vì Người và vì anh chị em chúng ta.

(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập IV).

 

22. Giới răn trọng nhất – Noel Quesson.

Ngày đầu tiên Betty vào trường nội trú. Cô bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Cô tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ loại này. Nhưng đến chiều, Betty gặp bà hiệu trưởng, cô thấy bà thật hiền hậu, dễ mến, bà có nụ cười đầy thiện cảm. Cô thấy mến bà, và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chả có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.

Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín đồ Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu. Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ: Yêu.

Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do Thái thì vẫn cần giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một Giao Ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.

Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng do liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta coi Thiên Chúa là cha, và mọi người là anh chị em ruột thịt.

Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên một trình độ tuyệt đỉnh. Phải yêu anh em như yêu Chúa: Ai giúp đỡ một người thấp hèn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.

Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Thiên Chúa như một người cha, nhưng tình yêu đó phải biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu anh em mới chứng tỏ mình mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.

 

23. Giới luật yêu thương.

Nếu chúng ta xem truyền hình hay nghe truyền thanh, chúng ta thấy chương trình nhiều lúc bị gián đoạn, xen vào đó là những khẩu hiệu của nhà nước, chẳng hạn:

– Thanh niên hăng hái làm nghĩa vụ quân sự.

– Đồng bào hãy tích cực đóng thuế.

Hồi trước năm 1975, người ta tổ chức những chương trình phát thanh thương mại, để quảng cáo các sản phẩm bày ban trên thị trường. Những lời quảng cáo ấy ăn sâu vào đầu óc thính giả đến nỗi ra chợ muốn mua một hộp kem đánh răng là người ta bèn nhớ ngay đến “anh bảy Chà Hynos”, muốn mua mấy viên thuốc bổ cho con, người ta bèn nhớ ngay đến Activit, “thuốc bổ gan bò tươi Hà Lan”. Sự lặp đi lặp lại đã tác động mạnh trên tâm trí và dẫn đến những hành động thích hợp.

Giáo hội là một người mẹ luôn để tâm giáo dục chúng ta, không phải là không biết đến cái định luật tâm lý ấy. Giáo hội đã áp dụng định luật ấy để mưu cầu phần rỗi cho chúng ta. Giáo hội không ngừng lặp đi lặp lại cho chúng ta biết cái bí quyết tạo hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Qua lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Giáo hội muốn nhắc cho chúng ta hai giới luật quan trọng, đó là mến Chúa và yêu người.

Hãy thử xét mình xem chúng ta đã thực hiện như thế nào? Hay chúng ta chỉ là những kẻ giả dối vì việc chúng ta làm không phù hợp với lời kinh chúng ta đọc. Ngày nào chúng ta cũng đọc kinh kính mến, chúng ta thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng… lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Chúng ta không cảm thấy ngượng ngùng khi đọc như thế hay sao?

Khi kính mến ai hết lòng, chúng ta tránh làm cho họ buồn lòng và cố gắng đem lại hạnh phúc cho họ. Đằng này, chúng ta không vâng lời Chúa, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta kính mến Chúa hết lòng. Chúng ta mong ước cho kẻ khác gặp phải tai ương. Chúng ta giận hờn họ, nói hành nói xấu họ, chúng ta không thèm chào hỏi họ, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta yêu thương họ như chính mình chúng ta.

Chúng ta tưởng rằng mình là kẻ ngoan đạo chỉ vì chúng ta chăm chỉ đi lễ, siêng năng đọc kinh và cảm thấy yên lương tâm. Nhưng nếu tạm gác những hình thức bề ngoài ấy để căn cứ vào tình bác ái: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau, thì liệu người ta có nhận ra chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hay không? Nếu chịu khó đọc lại những bức thư của thánh Gioan, chúng ta thấy ngài luôn luôn lặp đi lặp lại cái chủ đề yêu thương. Chính ngài đã xác quyết:

– Nếu ai bảo rằng mình mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em, thì họ chỉ là phường nói dối, vì ai không yêu thương kẻ khác là người mình trông thấy, thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa, Đấng mà mình chẳng nom thấy bao giờ. Phải chăng đó là một lời kết án gay gắt nhất cho những kẻ không yêu thương.

Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì lại khó, vì trong đời sống chúng ta có quá nhiều va chạm. Nào là cạnh tranh nghề nghiệp, củng cố địa vị, giành giật quyền lợi. Nào là những khác biệt về tính tình, tuổi tác và văn hóa… Vì thế, để yêu thương người khác, chúng ta phải cố gắng rất nhiều, nhất là phải cần đến ơn Chúa. Chúng ta phải nhớ rằng: Muốn chiếm đoạt nước trời, thì phải kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Tình Chúa và tình người là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta vào nước trời.

Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện như sau: Shirieda là một thanh niên Nhật Bản, trong phi đội Thần Phong, sống sót sau một lần ném bom khi phi cơ bị trúng đạn. Tuyệt vọng vì nước Nhật đầu hàng, khi quả bom nguyên tử rớt xuống Nagasaky. Để trả thù cho dân tộc, anh quyết định đi ăn trộm bất cứ cái gì của những người Âu Châu. Trưa hôm ấy, anh lẻn vào kho của nhà dòng Salésien, nhưng chẳng may bị phát giác. Anh định bỏ chạy, nhưng liền bị bắt. Anh thú nhận vì cần đanh mà anh đã ăn trộm. Cha bề trên dân anh trở lại nhà kho,lấy cho anh một túi đanh và bảo:

– Lần sau, nếu cần gì, anh cứ đến với với tôi.

Anh ngạc nhiên trở về nhà và suốt đêm hôm ấy anh đã suy nghĩ về hành động bác ái trên. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà dòng và nói với cha bề trên:

– Xin cha dạy con cũng biết sống yêu thương như cha.

Và cuối cùng, anh đã trở thành một linh mục Công giáo.

Hãy tuân giữ giới luật yêu thương, để chúng ta xứng đáng là những người môn đệ của Chúa. Và hơn thế nữa, chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn người khác đến cùng Chúa.

 

24. Chúa Nhật 31 Thường Niên

Anh chị em thân mến.

Khi đứng ngắm nhìn một ngôi nhà cao tầng, chắc mọi người không khỏi thán phục vẽ huy hoàng tráng lệ của nó. Ngôi nhà mà chúng ta đang xử dụng đây cũng thế. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những mảng tường, những gạch vụn không cùng liên kết với tổng thể, mà lại tách rời ra. Tôi chợt suy nghĩ: Ngôi nhà kia có được vẽ đẹp như thế, là nhờ những thứ dường như chẵng ra gì, nếu nó chỉ ở một mình. Chúng ta thử nghĩ, những viên đá nhỏ kia có thể làm được việc gì, chỉ là những thứ phải bỏ đi. Những hạt cát dơ bẩn kia cũng thế, nhiều khi chỉ làm cho chúng ta khó chịu vì sự hiện diện của nó bên cạnh chúng ta. Vậy mà khi chúng liên kết lại với nhau, nằm cạnh bên nhau, biết yêu thương giúp đỡ nhau, thì điều kỳ lạ đã xảy ra. Nếu có những hạt cát, hay những mãn gạch vụn tự tách lìa khỏi tổng thể đó, thì chính nó đã tự chọn con đường diệt vong, nó không thể tồn tại được. Nếu nó biết yêu thương giúp đở những bạn bên cạnh nó, thì nó cũng nhận sự giúp đở, để có thể vươn cao cùng các bạn. Nếu nó tự tách lìa, chỉ biết yêu thương có chính bản thân mình, không muốn yêu thương giúp đở các bạn ở bên cạnh, thì chẵng những nó không được yêu thương mà còn bị loại trừ ra khỏi cuộc sống.

“Điều răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây. Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu thương anh em như chính mình ngươi”.

Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố như thế để xác định lại qui luật sống cho những kẻ theo Ngài. Giới luật sống chỉ tóm gọn lại trong hai chữ Yêu Thương. Ngài đã yêu thương bằng hành động cụ thể, yêu thương bằng sự hòa nhập với người mà Ngài yêu thương, yêu thương để liên kết họ lại, để xây nên lâu đài của Tình Yêu. Nếu người nào muốn tách rời khỏi lâu đài tình yêu, chẵng những họ không được Yêu thương mà họ còn tự đi tìm con đường hủy hoại chính mình.

Chúng ta những con người đang sống, đang nắm vận mạng của vũ trụ, đang tận hưởng những tinh hoa của các bậc tiền bối, đang xây dựng lâu đài để truyền lại cho thế hệ tương lai. Chúa Giêsu nhìn chúng ta, mỉm cười nói rằng: “Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Nếu trong đời sống chúng ta có thể sống hòa nhập với mọi người, nhìn thấy được nhu cầu của người khác để sẳn sàng phục vụ với tất cả tấm chân tình. Nếu chúng ta biết lắng nghe những tiếng kêu than, những lời nói chân thực nhưng đôi khi khó nghe, để biết sửa đối chính mình cho tốt hơn. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn thấy những cảnh thương tâm, để biết mở rộng đôi bàn tay mà giúp đở, hành động những gì cần thiết. Nếu chúng ta biết nhìn lại chính mình từng ngày, từng giờ, từng phút của cuộc sống, để nhìn thấy những gì cần phải sửa đỗi cho tốt hơn và can đảm sửa đỗi. Nếu chúng ta làm được những điều đó, chúng ta rất xứng đáng nhận câu nói thấm đượm tình yêu thương của Chúa Giêsu. “Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Trái lại nếu trong đời sống, chúng ta không thể hòa nhập, hay vì sợ tổn hại bản thân, mà tìm những lợi ích riêng tư, khi đó chúng ta không khác gì hạt cát, cũng như những viên đá chỉ nằm riêng lẻ, cô đơn, không ích lợi gì, nó không thể cùng các bạn vươn cao trong ngôi nhà, hay lâu đài của Tình Yêu.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho những gì chúng ta đọc bằng môi miệng qua mười điều răn, cũng khắc sâu vào tâm hồn, để biến thành hành động Yêu Thương thiết thực trong cuộc sống.

Mười điều ấy, tóm lại hai điều nấy mà chớ,

trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự,

sau lại yêu người như mình ta vậy.

 

25. Yêu người.

Những ngày cuối cùng cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu ở Giêrusalem, Ngài luôn bị giới lãnh đạo Do Thái thay phiên nhau chất vấn để gài bẫy Ngài. Họ đã hạch hỏi Chúa lấy quyền gì mà xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ? Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêda không? Bài Tin Mừng hôm nay lại cho biết: một ông kinh sư hỏi Chúa điều răn nào đứng đầu? Sở dĩ ông ta hỏi Chúa câu này, là vì luật của Do Thái lúc ấy gồm 613 điều, chia ra 248 điều tích cực buộc phải làm, và 365 điều tiêu cực cấm không được làm. Nhưng giới lãnh đạo không đồng ý với nhau điều nào đứng đầu, tức là điều nào quan trọng nhất, mỗi nhóm đặt nặng một điều. Vì thế, ông kinh sư này muốn hỏi Chúa để biết quan điểm của Chúa ra sao. Chúa đã trả lời ngay bằng cách trưng ra một điều trong sách Đệ Nhị Luật: “Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức”, và một điều nữa trong sách Lêvi: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Câu trả lời của Chúa hay quá, đúng quá, khiến mọi người hết sức kinh ngạc, và Tin Mừng cho biết: “Từ lúc ấy không ai dám chất vấn Chúa thêm điều gì nữa”.

Như vậy, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: điều quan trọng nhất của đạo Chúa là mến Chúa và yêu người. Đây là hai mặt của một tình yêu, cả hai chỉ là một, bỏ một tức là bỏ cả hai. Nói khác đi, nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”: yêu Chúa và yêu người.

Yêu Chúa thì chắc chắn tất cả chúng ta đều có thể quả quyết dễ dàng chúng ta yêu Chúa. Nhưng lấy gì làm bằng chứng? đó là lòng yêu người, nghĩa là căn cứ vào tình yêu của chúng ta đối với tha nhân mà người ta biết chúng ta có lòng yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu đã có lần nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”. Vậy chỉ còn một vấn đề chúng ta cần tìm hiểu là chúng ta phải thực hiện lòng yêu người như thế nào.

Trước hết, chúng ta phải yêu thương bằng lời nói: yêu ai, người ta ca tụng họ, yêu mọi sự của họ, yêu cả nết xấu của họ nữa: “Yêu nhau yêu cả đường đi”. Nhưng ghét ai, người ta dùng ba tấc lưỡi để hành tỏi, nói xấu họ hết lời: “ghét ai ghét cả đường đi lối về”, “ghét cả tông chi họ hàng”. Cho nên, một thứ thước đo chính xác để biết mình có yêu thương người khác hay không là mình có nói tốt hay nói hành nói xấu họ. Người ta nói xấu nhau vì ghét nhau, vì không ưa nhau, vì thù oán nhau. Càng có nhiều liên hệ với nhau, người ta càng dễ nói hành nhau, mà cũng vậy, không gì đau khổ hơn và gương mù hơn khi những người thân thuộc nói xấu nhau.

Thể hiện tình yêu thương bằng lời nói, dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là yêu thương bằng việc làm. Việc làm đây là sự giúp đỡ bằng tay chân hành động, bằng sức khỏe, bằng thời giờ, bằng đời sống phục vụ… Đây là một cách thể hiện tình yêu thương rõ ràng và cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương trong lòng, bằng ước muốn tốt, bằng thông cảm… thì vô hình không kiểm chứng được; yêu thương bằng lời nói có thể bị coi là lý thuyết suông, đầu môi chót lưỡi. Nhưng yêu thương bằng sự tận tâm giúp đỡ, bằng sự chấp nhận những hy sinh phiền toái của phục vụ… thì mới là yêu thương thực sự và dễ gây được kết quả tốt. Chẳng hạn: khi làm việc, biết nhận lấy phần trách nhiệm nặng hơn, không dừa cho người khác, sẵn sàng cho vay mượn khi cần thiết, khi có khả năng, khi có dịp; coi công việc của người khác cũng là của mình. Có những người chỉ cần chúng ta giúp một quyết định, một an ủi, một khích lệ, một lời cầu xin, một sự thông cảm, một lòng tôn trọng, một sự tha thứ… Có biết bao nhiêu dịp và biết bao nhiêu cách chúng ta có thể làm để giúp ích người khác.

Sau hết, yêu người, yêu thương nhau là chứng tích cho người ta nhìn nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ đến nhà thờ để nghe nói đến tình yêu của Thiên Chúa, có nhiều người không bao giờ được thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, nhưng người ta xem thấy cách chúng ta yêu thương nhau thật mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương nhau thì không ai đánh giá sai lầm về đạo của chúng ta.

Vì thế, chúng ta hãy sống điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh. Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt nhưng lại thiếu sót đối với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống lịch sự, vui vẻ, yêu thương rất tốt đối với những người khác nhưng trong gia đình lại rất thiếu sót. Hơn nữa, tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt. Ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không? Tình yêu thương thật là biết dùng những lời nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau, và yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu Chúa của chúng ta.

 

26. Suy niệm của Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách

“NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN ĐỨC CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI”

ROME – Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về các bài đọc từ phụng vụ ngày Chúa Nhật 31 thường niên B như sau:

Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều nào đứng đầu và Chúa Giêsu trả lới, trưng những lời trong luật: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Nhưng Chúa Giêsu liền nói thêm có điều răn thứ hai giống như điều răn đó, là phải “yêu người thân cận như chính mình.”

Nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa câu hỏi của vị kinh sư và câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần ghi nhớ điều sau đây. Trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu có hai khuynh hướng đối nghịch.

Một đàng có một khuynh hướng nhân số mãi những điều răn và những lời giáo huấn của luật, tạo ra những qui tắc và những bắt buộc cho mọi chi tiết nhó nhất của sự sống. Đàng khác có sự ước muốn tím gặp dưới đống lộn xộn ngạt thở những qui tắc, những điều thật sự có giá trị cho Thiên Chúa, tinh thần của tất cả các điều răn.

Câu hỏi của kinh sự và câu trả lời của Chúa Giêsu được đặt gần những điều thiết yếu của luật, trong sư ước muốn không để mất trong hàng ngàn những giáo huấn tùy thuộc khác. Chính bài học này về phương pháp mà hơn hết chúng ta phải học từ bài tin mừng này. Có những sự trong đời sống là quan trọng nhưng không khẩn cấp (có nghĩa là không gì sẽ xảy ra nếu chúng ta để chúng qua một bên); và ngược lại, có những sự khẩn cấp mà không quan trọng. Nguy hiểm là chúng ta muốn hy sinh cách có hệ thống những điều quan trọng để theo đuổi những điều khẩn cấp nhưng thường là thứ yếu.

Làm sao chúng ta tránh được nguy hiểm này? Một câu truyện sẽ giúp chúng ta hiểu cách nào. Một ngày kia người ta xin một giáo sư già nói chuyện như một nhà chuyên môn với một số hiệp hội lớn Bắc Mỹ về sự quản lý thời giờ cá nhân.

Ong quyết định thử một thí nghiệm. Đứng trước một nhóm sẵn sàng ghi chú, ông kéo ra từ dưới bàn một bình thủy tinh to lớn, trống trơn. Ông bỏ một tá viên đá cỡ banh tennis trong bình đó cho đến khi đầy. Khi ông không còn khả năng thêm những viên đá nữa, ông hỏi những kẻ hiện diện:” cái bình xem ra đầy đối với các anh phải không?” và họ trả lời “Phải!” Ong chờ một lúc và sau đó hỏi: “Các anh chắc không?”

Ong lại khum mình xuống và kéo một bình đầy sạn từ dưới bàn và cẩn thận trút những viên sạn vào trong bình, lắc cái bình một chút cho những viên sỏi có thể chạm những viên đá ở dưới đáy. Ông hỏi: ” Lần này cái bình có đầy không?”

Thính giả của ông, trở nên khôn hơn, bắt đầu hiểu và nói: “Có lẽ chưa.” Rất tốt!” vị giáo sư già phúc đáp. Ông lại khum mình xuống và lần này rút ra một bao cát và đổ vào trong bình cẩn thận. Càt nhét đầy những không gian giữa những viên đá và những viên sạn.

Rồi ông hỏi lại: “Bây giờ cái bình đầy không?” Và tất cả mọi người trả lời không do dự: “Không!” “Chắc chắn là thế,” vị giáo sư già nói và, như họ trông đợi, lấy bình nước từ trên bàn và đổ nước vào trong bình cho tới miệng.

Lúc này ông nhìn thính giả của mình và hỏi: ” “Thí nghiệm này dạy chúng ta chân lý lớn nào?” Người gan dạ nhất của nhóm, suy nghĩ về chủ đề đường lối hành động–sự quản lý thời gian– trả lời: ” Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng cả khi chương trình làm việc đã đầy, với một chút cố gắng chúng ta luôn có thể thêm một công việc khác, một sự gì khác để làm.”

“Không,” giáo sư trả lời, “Không phải vậy. Thí nghiệm chỉ cho chúng ta một cái gì khác. Nếu các anh không để những viên đá lớn trong bình trước hết, thì các anh không bao giờ có thể để chúng vào sau.”

Có một lúc yên lặng và mọi người hiểu rõ sự khẳng định này.

Giáo sự nói tiếp: “Cái gì là những viên đá lớn, những ưu tiên, trong đới sống các anh? Sức khoẻ? Gia đình? Bạn hữu? Bảo vệ một vấn đề? Hoàn thành điều gì gần tâm hồn các anh?

“Điều quan trọng là để những viên đá lớn này trong chương trình nghị sự các anh trước hết. Nếu các anh dành ưu tiên cho hàng ngàn việc nhỏ khác-những viên sạn, cát-đời sống các anh sẽ tràn đầy sự vô nghĩa và các anh sẽ không bao giờ có giờ hiến mình cho những việc thực sự quan trọng hơn.

“Như vậy, đừng bao giờ quên đặt câu hỏi này cho chính các anh: ‘Những điều quan trọng trong đời sống của tôi là gì?’ hãy đặt những sự này trên đầu chương trình nghị sự của các anh.”

Lúc đó, với một cử chỉ thân hữu giáo sư già chào tạm biệt thính giả của mình và rời phòng.

Với ‘những viên đá lớn” do giáo sư nhắc tới-sức khoẻ, gia đình, các bạn hữu-chúng ta cần thêm hai cái khác, to nhất trong tất cả, hai điều răn lớn nhất: hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.

Thật vậy, yêu mến Thiên Chúa, còn hơn một giới răn, là một ưu tiên, một sự nhượng bộ. Nếu một ngày chúng ta gặp Người, chúng ta sẽ không thôi tạ ơn Chúa đã truyền chúng ta phải yêu mến Người và chúng ta sẽ không muốn làm gì khác hơn là bối đấp tình yêu này.

 

27. Sống như con người.

Hãy yêu thương nhau.

Có một ngôi làng kỳ lạ, trông từ xa thì quả là trật tự và đẹp đẽ. Chín mươi chín ngôi nhà trong làng đều được thiết kế giống nhau: một thửa vườn xanh um được một tường bức kiên cố bao bọc.

Nhưng điều đáng nói hơn cả là ở trước cổng, nhà nào cũng có một cái chuồng chó. Chín mươi chín con chó có nhiệm vụ bảo vệ nhà cửa và dân làng. Một bóng người thoáng qua trước cửa cũng đủ làm cho con chó sủa vang. Có khi cả chín mươi chín con cùng sủa một lúc.

Vì sống quá cách biệt, dân làng cũng chẳng có gì để nói với nhau. Âm thanh duy nhất mà họ được nghe suốt ngày là tiếng chó sủa. Dần dần âm thanh ấy trở thành quen thuộc đến nỗi người dân trong làng tưởng rằng đó chính là ngôn ngữ của họ. Mở miệng ra để nói với nhau thì ai cũng gào, cũng sủa.

Tình cờ có một người khách đi qua. Tếng chó sủa hàng loạt làm cho anh ta muốn tìm hiểu về ngôi làng. Anh ta đến gần một người đàn bà để hỏi chuyện, thế nhưng anh ta vô cùng ngạc nhiên bởi vì chính người đàn bà đã nói với anh ta bằng cách sủa.

Anh ta lại tiếp tục điều tra và càng ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy tiếng nói của bất kỳ ai trong làng cũng chỉ là tiếng sủa mà thôi. Và rồi anh ta đã kết luận:

– Chắc hẳn đây là một thứ bệnh dịch cần phải báo cho hội đồng làng để tìm cách chữa trị.

Gặp ông chủ tịch, anh đã đề nghị trước hết phải phá đổ những bức tường và cổng nhà. Tiếp đến là đưa chó vào rừng để săn bắn nhờ đó chúng sẽ trở nên hiền hòa hơn. Và sau cùng, tổ chức một ngày đại hội để mọi người làm quen với nhau và tập nói lại ngôn ngữ của loài người.

Vừa nghe xong, ông chủ tịch cũng chỉ thốt lên những tiếng gâu gâu như tiếng chó sủa. Anh ta buồn bã bỏ làng ra đi. Sau lưng còn vang vọng những tiếng sủa không phải của chín mươi chín con chó, mà còn có sự phụ họa của cả dân làng.

Trong cuộc sống chúng ta thấy quyền tư hữu là điều căn bản, nó gắn liền với sự sinh tồn. Xây một ngôi nhà, dựng một bức tường là để thể hiện quyền lợi ấy. Ai cũng muốn của cải của mình được an toàn.

Thế nhưng, sự phòng vệ nào cũng có thể đưa tới cực đoan. Thay vì phòng vệ để sống thì người ta chỉ còn sống để mà phòng vệ. Thay vì sống với người khác, thì họ chỉ sống để chống lại người khác. Cuộc đời dần dần mất đi ý nghĩa của nó, người ta không còn sống như con người mà chỉ còn sống với nhau như những con vật, đúng như một câu danh ngôn đã diễn tả:

– Người với người là chó sói của nhau.

Sống như con người hay sống như con vật đó là một thách thức ngàn đời của nhân loại. Muốn sống như con vật chúng ta chỉ cần trang bị cho mình ngôn ngữ và nanh vuốt dễ gầm gừ và cắn xé lẫn nhau. Còn nếu muốn sống như con người, chúng ta cần phải đánh đổ mọi bức tường ngăn cách, cần phải bẻ gẫy mọi nanh vuốt và nói với nhau bằng ngôn ngữ của tình yêu, của cảm thông, của tha thứ… Có nghĩa là chúng ta cần phải thực thi lời Chúa truyền dạy:

– Hãy yêu thương anh em như chính bản thân mình.

 

28. Mến Chúa yêu người.

Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.

Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều răn này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm hại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Kitô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và yêu thương chúng ta.

Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: tạ ơn Đức Kitô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Kitô và nhất là được hiệp thông với Ngài, chúng ta xin được thêm mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.

Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Kitô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Kitô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.

Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.

Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.

Cái hợp lý theo suy luận của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.

Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.

 

29. Thưa Thầy đâu là giới răn trọng nhất?

(Suy niệm của Lm Việt Toàn)

Vào thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ Do Thái truyền dạy không phải chỉ giữ 10 giới răn mà là 613 khoản luật. Trong số này có 365 luật truyền, luật tích cực, tương ứng với số ngày trong năm, và 248 luật cấm, luật tiêu cực, tương ứng với con số bộ phận trong cơ thể theo suy luận của người Do Thái. Đối với các luật sĩ thời Chúa Giêsu thì giới răn nào cũng quan trọng, bỏ 1 điều là bỏ cả lề luật.Thế nhưng trong thực tế,chẳng người Do Thái nào có thể giữ được tất cả 614 khoản luật. Vậy, làm sao có thể trở nên trọn lành? Người ta đã phải tìm xem khoản luật nào quan trọng hơn để cố gắng tuân giữ triệt để, còn khoản luật nào kém quan trọng thì giữ được chừng nào hay chừng ấy.

Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô ghi nhận lại cho chúng ta một sự việc trớ trêu. Một luật sĩ, giới người này thường tự hào về sự hiểu biết về luật, và có quyền giải thích luật lại đi hỏi Chúa Giêsu mà đối với người Do Thái không thuộc nhóm luật sĩ. Vì thế câu hỏi: “thưa thầy đâu là giới răn trọng nhất ” của luật sĩ này mang tính tra vấn xem Chúa Giêsu theo phe nhóm nào hơn là tìm kiếm chân lý.Phần Chúa Giêsu, bất chấp ý đồ của người hỏi, Ngài hướng mọi người nghe lời Ngài đến một điểm then chốt của lề luật, là Thánh ý Thiên Chúa:”Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình” và Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm:”không có giới răn nào lớn hơn các giới răn ấy”.

Xét một cách tổng quát, câu hỏi của luật sĩ trong Tin Mừng hôm nay cũng là câu hỏi quen thuộc của rất nhiều người vụ hình thức và ưa số lượng.

Đối với những việc phải làm, những điều phải tuân giữ, họ thường xét xem có quan trọng hay không. Nếu không quan trọng thì không làm, không giữ, hay chỉ làm và tuân giữ khi nào thuận tiện. Những công việc mà họ biết là quan trọng, thì họ còn cẩn thận xem xét tuân giữ và làm bao nhiêu là đủ, bỏ qua bao nhiêu lần thì không mắc tội trọng. Cách sống đạo như thế có khác gì luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu người đi dự lễ Chúa nhật thản nhiên đến nhà thờ sau bài đáp ca hay vội vã ra về khi cộng đoàn còn đang rước lễ vì lý luận rằng: chưa mất một phần quan trọng của Thánh lễ.

Đối với những điều luật cấm cũng vậy. Cố gắng lắm họ mới không phạm đến những điều họ biết là tội trọng. Còn nếu biết là chỉ mắc tội nhẹ thì họ yên trí. Chỉ nguyên đặt vấn đề:” làm việc này, việc kia có tội hay không ” đã là một bất xứng đối với một Kitô hữu chân chính rồi.

Thưa anh chị em, Lời Chúa dạy chúng ta sống mến Chúa yêu người và mọi người chúng ta đều thuộc lòng giới răn đó. Nhưng trong chúng ta vẫn có những người sống đạo như biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu. Lý do là vì họ thiếu tình yêu, hay đúng hơn họ chỉ yêu mình chứ không yêu Chúa và yêu thương người khác.

Vì không yêu Chúa nên người ta chỉ thi hành những điều Chúa dạy một cách miễn cưỡng, tắc trách, qua lần chiếu lệ.

Vì không yêu mến Chúa nên người ta không sợ làm phiền lòng Chúa trong những điều ít quan trọng. Có tránh phạm tội trọng chẳng phải là để kính sợ Chúa mà là vì sợ chết sa hoả ngục.

Vì lòng không yêu người cho nên trong cuộc sống không cần tôn trọng quyền lợi, danh dự, phẩm giá của bất cứ ai. Điều ngăn cản để người ta không xúc phạm đến anh em, không sa phạm vào tội ác, cũng chỉ là vì sợ phải sa hoả ngục. Còn nếu không tin có hoả ngục, thì dầu còn tin vào Thiên Chúa, người ta vẫn dám phạm đủ mọi loại tội trái nghịch với đức bác ái và yêu thương.Đó là một hậu qủa của một lòng đạo thiếu trái tim, thiếu tình yêu, không muốn tuân giữ giới răn mến Chúa và yêu người.

Tóm lại: chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới có thể yêu thương đến vô cùng. Chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay một người mất trí. Tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa sẽ đưa mỗi chúng ta về với anh em. Tình yêu anh em đòi mỗi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục yêu tha nhân trong Chúa và yêu Chúa nơi tha nhân.

 

30. Hai giới răn.

Một trong các công việc thiêng liêng nhất mà một người Hồi giáo có thể làm là thực hiện việc đi đến Méc-ca, nơi sinh của Môhamét. Đó là một trong năm điều căn bản nhất của đạo Hồi.

Ngày xưa có ông vua mèo thực hiện một cuộc hành hương đến Méc-ca. Khi ông vua mèo trở về, ông vua chuột thấy mình có bổn phận phải đến chúc mừng vua mèo. Nhưng khi những con chuột khác nghe được điều ấy, chúng lo sợ cho sự an toàn của nhà vua. “Mèo là kẻ thù của chúng ta, nhà vua không thể tin hắn được”. Chúng nói.

“Ồ, giờ đây ông ấy đã đi hành hương Méc-ca, ta hy vọng nhìn thấy một sự thay đổi lớn lao nơi ông ta. Ta nghe nói ông ta đã cầu nguyện năm lần mỗi ngày”, vua chuột đáp lại.

Thế là vua chuột ra đi. Khi đến vương quốc của mèo, vua chuột nhìn thấy đối thủ của mình từ xa và những gì vua chuột nhìn thấy thật ấn tượng. Vẫn còn mặc bộ y phục hành hương, vua mèo đang đắm chìm trong kinh nguyện. Tuy nhiên khi vua chuột vừa mới đến gần hơn, vua mèo đã nhảy đến để vồ chụp con mồi. May mắn là vua chuột đã nhanh chân trốn thoát xuống một cái lỗ. Sau đó nó gặp lại những con chuột khác.

“Nhà vua du hành thế nào”? Đám bề tôi chuột nóng lòng hỏi. “Có thật là kể từ lúc ông ta đi hành hương Méc-ca về, ông ta là một con mèo đã thay đổi?”

“Tôi e rằng anh em đã nói đúng”, vua chuột đáp. “Mặc dầu hắn cầu nguyện như một người đi hành hương, hắn vẫn cứ vồ chúng ta như bất cứ con mèo nào”.

Tách rời hai giới răn cao trọng thì dễ dàng biết bao và nghĩ rằng chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận.

Hai giới răn ấy có quan hệ qua lại với nhau một cách thiết yếu. Lòng yêu thương chân thành người lân cận trào ra từ lòng yêu mến Thiên Chúa; mặt khác, không thể có lòng yêu mến Thiên Chúa chân thành nếu lòng yêu mến này không được thể hiện bằng lòng yêu thương người lân cận. Điều này còn tốt hơn việc dâng của tế lễ. Người ta dễ dàng lấy nghi thức thế chỗ cho tình yêu thương. Và rồi người ta đi đến một thứ tôn giáo không có tình yêu thương.

Tội lớn nhất của chúng ta không phải là chúng ta không yêu thương người lân cận mà là chúng ta không thèm biết đến họ. Như thế, làm sao có thể là người lân cận của họ theo ý nghĩa của Tin Mừng? Điều tệ nhất là sự lãnh đạm, thờ ơ.

Kinh Thánh nói chúng ta phải yêu thương người lân cận và cũng phải yêu cả kẻ thù của mình. Theo G.K. Chesterton, lý do của điều này có lẽ là một cách tổng quát, họ cùng là một dân tộc. Và có một lý do nhân bản của điều đó. Chúng ta nghĩ về một người xa lạ trên con đường thẳng: thế thì chúng ta nghĩ về người ấy như một con người. Nhưng chúng ta không nghĩ về người ấy giống như người lân cận ở kế bên nhà chúng ta. Người ấy không là một con người mà chỉ là một môi trường: một tiếng chó sủa, hoặc tiếng mũi khoan hay tiếng dương cầm.

Nhiều người gặp các vấn đề khó khăn do một người đặc biệt gây ra. Người này có thể là một người láng giềng hoặc là một thành viên trong gia đình. Chúng ta có thể làm gì? Chúng ta nên tránh hành động kiểu ăn miếng trả miếng. Làm như thế chỉ làm cho tình tình xấu thêm. Chúng ta phải cố gắng duy trì sự liên lạc với người ấy, dù rằng chỉ là vấn đề nói một tiếng chào buổi sáng hoặc buổi tối. Và rồi chúng ta phải cầu nguyện cho người ấy. Nếu chúng ta có thể cầu nguyện cho một người một cách chân thành thì điều này giữ cho tâm hồn chúng ta khỏi chất chứa những điều đắng cay và thù hận.

Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy gieo trồng yêu thương và sẽ gặt được yêu thương.

Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy đem đến yêu thương và sẽ tìm thấy yêu thương.

Tôi tìm Thiên Chúa và đã không thấy Người.

Tôi tìm linh hồn tôi và nó tránh né tôi.

Tôi tìm người lân cận và đã tìm thấy cả ba.

 

31. Thiếu sót.

Thiếu sót tình yêu thương là thiếu sót lớn của Kitô hữu. Khổ nỗi, ít khi nó được xem như một tội. Người ta thừa nhận là có tội khi nó gây thiệt hại cho người lân cận nhưng không coi là tội khi thiếu sót hoặc từ khước yêu thương.

Người ta kể lại một câu chuyện về người bán chiếc xe “dỏm” cho một người nước ngoài, rồi đi xưng tội. Sau đó, người ấy gặp một người bạn cũ trong quán rượu. Khi người bạn này nghe nói ông ta đã đi xưng tội, liền nói “Tôi hy vọng anh đã kể lại cho linh mục nghe anh lừa gạt người mua xe như thế nào”.

“Đời nào tôi làm thế”, ông ta trả lời. “Tôi xưng ra các tội của tôi cho linh mục. Nhưng linh mục không có quyền biết công việc kinh doanh của tôi”.

Nguy hiểm lớn đe dọa người-đi-nhà-thờ là họ không biết mối liên quan giữa việc họ làm trong nhà thờ ngày Chúa nhật với việc làm trong quan hệ với người lân cận vào những ngày khác trong tuần.

Người ta có thể xem xét lương tâm mình nhưng không đụng gì đến toàn cảnh: Người có lương tâm làm tròn bổn phận của mình, lương thiện trong công việc làm ăn, công bằng, tôn trọng và hợp tác với những người sống cùng một mái nhà v.v… Với những người như thế, tôn giáo tách rời khỏi đời sống và trở thành một vấn đề riêng tư giữa họ và Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, một tôn giáo như thế giống là sự bóp méo, xuyên tạc. Tệ hơn nữa là một điều đáng ghét.

Phân ly hai giới răn lớn ấy là việc rất dễ dàng. Trong một ý nghĩa nào đó, chỉ có một giới răn duy nhất – giới răn của tình yêu. Nó giống như một đồng tiền, một thực thể có hai mặt. Không thể có mặt này mà không có mặt kia, không phải chúng ta ghét những người lân cận của chúng ta. Không, chúng ta không ghét những người lân cận. Nhưng chỉ vì chúng ta khước từ đưa họ vào trái tim chúng ta. Nếu sự thật được nói ra, chúng ta lãnh đạm và thờ ơ với họ.

Mọi người trong chúng ta có khả năng yêu thương to lớn, nhưng khổ nỗi, hiếm khi chúng ta sử dụng hết. Diễn viên Christopher Reeve, nổi tiếng về hình tượng siêu nhân mà ông thể hiện trong phim ảnh. Tuy nhiên, trong một tai nạn té ngựa, ông bị liệt từ cổ trở xuống và phải ngồi xe lăn. Ông nói ông đã nhận được 100.000 lá thư bày tỏ thiện cảm và sự ủng hộ của quần chúng. Điều này dẫn ông đến chỗ hỏi rằng: “Tại sao cần phải có một bi kịch trước khi chúng ta bày tỏ sự cảm kích của chúng ta đối với một người khác?”

Chúng ta bày tỏ điều đó quá chậm và đầy sự hối tiếc. Chúng ta chờ cho đến khi quá muộn để nói và tỏ cho người khác thấy rằng chúng ta yêu họ. Chúng ta bày tỏ quá muộn ý muốn sửa chữa một mối bất hòa, quá chậm nỗi vui mừng về sức khỏe và quà tặng của con cái hoặc cha mẹ chúng ta.

Đức Giêsu nói với người Kinh sư: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu!” Biết rõ về hai giới răn quan trọng nhất là bước đầu tiên. Đem chúng ta thực hành là bước thứ hai. Chúng ta không còn xa nước Thiên Chúa là bao – Chỉ cần thêm một bước nữa. Để thực hiện được bước này, chúng ta cần Thiên Chúa chạm tay Người vào tâm hồn chúng ta.

 

32. Hoàn hảo hơn

(Suy niệm của Lm. P. Huỳnh Ngọc Tiên)

Chúa Giêsu đã từng phán: “Ta đến không phải để phá luật lệ mà để làm trọn”. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay minh chứng điều đó: “Luật mới hoàn hảo hơn luật cũ.”

Phúc Âm, (bài đọc 3) kể lại người luật sĩ kia, có vẻ lúng túng vì luật lệ đạo cũ quá nhiều và phức tạp, đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Và Chúa Giêsu, sau khi kê hai giới răn, mến Chúa, yêu người, đã thêm rằng: “Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.” Chúa không đưa ra điều răn nào mới lạ cả. Điều răn thứ nhất rút ra trong sách Đệ nhị luật (bài đọc 1) ông Môisen bảo dân Do Thái: “Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi…” Điều răn thứ hai rút trong sách Lêvi (19,18): “Ngươi sẽ không báo oán cừu hờn với các dân ngươi, nhưng ngươi sẽ yêu mến đồng loại ngươi như chính mình…” Có điều mới lạ chăng? Là Chúa ráp hai giới răn đó lại làm một: vì quan trọng như nhau và không tách rời nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng mến Chúa thì càng yêu người. Yêu người, không những bà con bạn hữu mà lại cả kẻ thù nghịch nữa. Chính ông luật sĩ cũng đã tán đồng ý tưởng Chúa: “Đúng lắm! Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình và yêu người như chính mình, thì hơn mọi lễ hy sinh”.

Trong thơ gởi tín hữu Do Thái (bài đọc 2), Phaolô cũng minh chứng Giao Ước mới hoàn hảo hơn Giao Ước cũ. Thánh nhân lấy ví dụ người tư tế. Theo Cựu Ước, người tư tế và lễ vật hiến tế khác nhau. Theo Tân Ước, Tư tế và lễ vật cũng là một. Chúa Giêsu vừa là Thầy Tư tế vừa là Lễ vật. Chúa tự dâng mình làm lễ tế thượng tiến Chúa Cha. Xưa phải có nhiều tư tế: vì các tư tế hay chết, nên phải có nhiều để tuần tự nối tiếp nhau mà tế lễ. Nay một mình Chúa Giêsu, vì Người không chết nữa, là thượng tế đời đời. Lễ Misa hằng ngày cũng là lễ tế xưa Chúa truyền lại để nhắc đến Người: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Ta”. Vậy Phaolô quả quyết rằng: “Người làm việc ấy chỉ có một lần, khi hiến dâng chính mình. Vì lề luật thì đặt nhiều người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau lề luật, thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng Tế đến muôn đời”. Cho nên Lễ tế mới hoàn hảo hơn Lễ tế cũ.

Có xưa mới có nay, có cũ mới có mới, luật cũ, luật mới cũng đều do Chúa ban ra cả. Chúa dùng Môisen truyền rao luật cũ, Chúa sai Con Một mình là Đức Kitô rao truyền luật mới. Chúa dùng vật chất cụ thể đưa lần người ta đến trừu tượng thiêng liêng. Tân Ước chính là viên mãn Cựu Ước mà Chúa là tác giả chính: Vì chỉ có mình Chúa mới có quyền ra lề luật cho nhân loại.

Tân Ước hay Cựu Ước đều là Lời Chúa hay ban sự sống. Chúng ta có bổn phận phải lĩnh hội để được sống. Như Chúa Giêsu đã phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Ý thức như thế, âu là được Chúa cũng sẽ bảo như đã bảo ông luật sĩ: “Ông không xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”.

 

33. Cầu thang.

Chúng ta sống trong một thời đại nó khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử các ứng viên vào cơ quan công quyền thường gợi ý cho những người có quyền bỏ phiếu: “Ngày hôm nay, tôi có khá hơn bốn năm trước đây không?” Điều đánh vào ích kỷ cá nhân này thành công nhiều hơn khi hỏi các người có quyền bỏ phiếu: “Có phải xã hội hôm nay tốt hơn trước kia không?”

Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa quan tâm sâu sắc về cách đối xử của chúng ta với nhau. Ơn gọi của chúng ta là yêu thương. Và, bất chấp mọi việc, chúng ta được tác động bởi lòng vị tha. Chúng ta đau nỗi đau của người khác. Chúng ta cảm thấy mình được triển nở khi làm điều tốt lành, hơn cả khi tạo ra nhiều vật chất và tiền bạc. Tính quảng đại đem lại phần thưởng của chính nó. Niềm vui tuôn trào từ bên trong chúng ta khi chúng ta làm một việc tốt lành vì người khác. Nhưng khi chúng ta từ chối làm một việc tốt lành cho người khác, thì một nỗi buồn xa lạ chụp xuống chúng ta.

Maimonides là một vị thầy Do thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám cấp độ, hay tám bước trong cái gọi là cầu thang của bác ái.

  1. Cấp độ thứ nhất và thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng và hối tiếc. Đó là sự bố thí của bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm lòng.
  2. Cấp độ thứ hai là sẵn lòng bố thí, nhưng không tương xứng với cảnh khốn cùng của nạn nhân.
  3. Cấp độ thứ ba là sẵn lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu, nhưng không đến mức mà chúng ta được yêu cầu.
  4. Cấp độ thứ tư là sẵn lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu, nhưng đặt nó vào tay của người nghèo, bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một cảm xúc đau đớn và hổ thẹn.
  5. Cấp độ thứ năm là bố thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của bố thí mà không biết đến người cho và người cho cũng không biết họ.
  6. Cấp độ thứ sáu là biết người nhận của bố thí của chúng ta trong lúc không để cho họ biết chúng ta.
  7. Cấp độ thứ bảy là cho của bố thí cách nào để người cho không biết người nhận, hoặc người nhận không biết người cho.
  8. Cấp độ thứ tám và là cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước việc bác ái bằng cách ngăn ngừa sự nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách cho một món quà hoặc cho vay một món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc bằng cách dạy cho họ buôn bán hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ có thể kiếm sống một cách lương thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp đáng buồn là ngửa tay xin bố thí.

“Một trong những điều tốt nhất có thể xảy ra cho một người là làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị phát hiện bởi sự tình cờ”. (Mark Twain)

 

34. Độc đáo.

Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của đạo Công giáo là gì?”. Giáo lý viên đáp: “Là yêu thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên.

Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra hai kết luận hết sức bất ngờ:

1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn người không có đạo;

2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí!

Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao?

Nếu đọc lại Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy ba điểm mới lạ của tình yêu thương trong Kitô giáo như sau:

  1. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
  2. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
  3. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quí hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.

Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng tình yêu thương của đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả những người không có đạo. Lý do có lẽ là vì giáo lý viên ấy không thấy ba điểm độc đáo của tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện ba điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện ba điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo.

 

35. Mến Chúa, yêu người

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ (tiếng Việt), nhưng cũng chỉ là một: “Yêu”. Nghe chừng rất đơn giản, và nghe quá quen tai, thế mà sao khó thể hiện quá!

Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.

Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.

Thật ra Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, nói đúng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng về ý “mến Chúa, yêu người”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).

Những lời nói nghe chừng “nhẹ” mà “nặng” lắm, giản dị mà phức tạp, “xoa” mà “đau” quá! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”.

Thời Cựu ước, Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Đanien về việc triều chính.

Người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong mắt người khác. Người ghét không ai xa lạ là chính những người thât thiết nhất của mình: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, chỉ có người giỏi mới khả dĩ công nhận tài năng của người giỏi.

Ông Đanien “trổi vượt” hơn người khác nên bị ghét, âu cũng là lẽ thường. Trung thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy, nay cũng thế. Người đời “kèn cựa” nhau đã đành, người theo đạo Chúa cũng chẳng hơn gì! Thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều!

Ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Quá thâm độc!

Con người ngày nay vẫn đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo “phong cách” tân kỳ hơn, thế mà vẫn “hãnh diện”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo hội biết phải Tân Phúc Âm hóa, xét lại đức tin của chính bản tân mình trước rồi mới nói tới người khác!

Ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”. Những con người ấy vẫn kiên cường tín thác vào Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:4).

Trước mặt người đời, họ là kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm cầu nguyện và nương tựa vào Chúa. Họ hiên ngang nói: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như tác giả Thánh vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời” (Tv 18:51).

Thánh Phaolô nói: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).

Thư gởi giáo đoàn Do Thái xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế, nói tới thừa tác vụ. Nhưng không, rất “ăn nhập” đấy. Tại sao? Tư tế là những người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên. Vì thế, Chúa hỏi Phêrô không chỉ 1 lần mà hỏi tới 3 lần: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15). Đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thực hiện nghiêm túc, nhất là trong Năm Đức Tin này, để chứng tỏ lòng tin của mình.

Rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”, nhưng vấn đề không chỉ là thuộc lòng và đọc như vẹt, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động bằng hành động cụ thể. Không dễ đâu, tôi ơi!

Thánh Phaolô giải thích: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28).

Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành tấm bánh nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho người khác, nhất là trao cho những con người bé mọn.

Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31).

Nghe có vẻ “đã tai” nên ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trang như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện, còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa.

Thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, Đức Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Nói “mến Chúa” quá dễ, nói “yêu người” cũng quá dễ”. Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN, vì “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Đó mới là… “chuyện lớn”.

Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin vào Ngài qua Đức Kitô, xin giúp chúng con giữ vững và thể hiện đức tin qua từng động thái hằng ngày, bằng cách thật lòng chia sẻ mọi nỗi đau của tha nhân, nhất là những con người nhỏ bé nhất đang ở bên cạnh chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

36. Suy niệm của JKN.

Mến Chúa yêu người là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ

Câu hỏi gợi ý:

  1. Tại sao Đức Giêsu lại ghép hai điều răn khác nhau – mến Chúa, và yêu người – thành một điều răn duy nhất?
  2. Có thể mến Chúa mà không yêu người, hay yêu người mà không mến Chúa được chăng?
  3. Theo tinh thần Tin Mừng, thì giữa việc tham dự các nghi thức phụng vụ và việc thi hành giới răn «mến Chúa yêu người», việc nào cao quí và quan trọng hơn?

Suy tư gợi ý:

  1. Điều răn quan trọng nhất của Kitô giáo

Trong bài Tin Mừng này, ta thấy Đức Giêsu đã ghép hai điều răn được ghi ở hai nơi khác nhau trong Cựu Ước – điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật 6,4-5, điều răn sau trong sách Lêvi 19,8 – làm thành một điều răn duy nhất, một điều răn «kép», nghĩa là một điều răn nhưng hai đối tượng, hay hai mặt khác nhau. Và điều răn «kép» này là điều răn quan trọng nhất trong Do Thái giáo, nhất là trong Kitô giáo. Tại sao lại ghép hai điều răn ấy thành một điều răn duy nhất? Đó là điều đáng chúng ta suy nghĩ.

Thông thường, chúng ta hay phân biệt yêu Chúa và yêu người. Có người cho rằng yêu Chúa quan trọng hơn yêu người rất nhiều, có người lại cho rằng: Chúa thì trừu tượng quá, yêu không nổi, nên yêu người mới là quan trọng. Cũng có người cho rằng có thể yêu Chúa mà không yêu người, và ngược lại. Thực ra, giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là «phải yêu thương», nghĩa là phải có tình yêu, tình thương. Và tình yêu này phải hướng cùng một lúc về hai đối tượng: Thiên Chúa và tha nhân. Và hai đối tượng này không thể tách rời nhau, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: không thể có mặt này mà không có mặt kia. Nghĩa là không thể yêu Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại. Nói khác đi, hễ thật sự yêu Thiên Chúa thì tất nhiên sẽ phải yêu người, như thánh Gioan đã từng nói: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1 Ga 4,20). Và hễ yêu người thật sự thì cũng chính là đã yêu mến Thiên Chúa. Như vậy, tình yêu đối với tha nhân đã ngầm bao hàm tình yêu đối với Thiên Chúa, và ngược lại. Thật vậy, khi nói về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giêsu đã xác định rằng: yêu tha nhân là yêu chính Thiên Chúa (xem Mt 25,40.45). Và thánh Phaolô cũng đã viết: «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”» (Gl 5,14); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2).

  1. Yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa

Đoạn Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến tầm quan trọng tối thượng của giới răn yêu mến Thiên Chúa. Nếu xét một cách tách biệt hai mặt trong giới răn cao trọng nhất này, thì việc yêu mến Thiên Chúa quan trọng hơn việc yêu mến tha nhân. Và con người phải yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Nhưng trong thực tế, không thể có sự tách rời giữa hai mặt ấy được, vì hễ đã thật sự yêu mến Thiên Chúa thì tất nhiên phải đồng thời yêu thương tha nhân. Vì thế, nếu thật sự yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực», thì cũng phải yêu tha nhân «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Đó là điều tất yếu, không thể khác được.

Để tỏ lòng yêu mến, thuận phục và thờ phượng Thiên Chúa, người Do Thái xưa đã sát tế những con chiên, con bò làm của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, thay vì sát tế chính mình, để nói lên quyền tối thượng của Ngài trên mọi sự, trên cả mạng sống mình. Nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự cho Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho ta tất cả và có quyền lấy lại tất cả bất kỳ lúc nào. Ngày nay, chúng ta không còn sát tế chiên bò, cũng không phải sát tế chính mình để nói lên quyền tối thượng của Ngài nữa. Điều chúng ta nên làm, là sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để làm đẹp lòng Ngài, để tỏ ra ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự, nhất là hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… đó chính là một hình thức sát tế và thờ phượng Thiên Chúa cao cả nhất.

Nhưng theo tư tưởng của Đức Giêsu và thánh Phaolô, thì chắc chắn Thiên Chúa muốn ta thể hiện tình yêu của ta đối với Ngài bằng tình yêu dành cho tha nhân, một cách cụ thể là sẵn sàng hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… cho hạnh phúc và sự tốt đẹp của tha nhân.

  1. «Hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực»

Yêu «hết lòng, hết trí khôn» thì quả là một điều khá trừu tượng và xem ra có vẻ dễ thực hiện, vì lòng và trí khôn là thứ không thể đếm được, khó kiểm chứng, và dường như có thể dùng hoài, cho hoài không hết. Nhưng còn việc yêu «hết sức lực» thì quả thật là khó, vì lực là một cái gì mang tính vật chất, rất cụ thể, và rất hạn chế. Sức lực ở đây nói một cách cụ thể là thì giờ, tiền bạc, của cải, sức khỏe, công lao. Vì nó giới hạn, nên ta không thể cho một cách thoải mái được. Cho thì hao tổn, thì sẽ hết. Nhưng có yêu «hết sức lực» thì mới chứng tỏ được là đã «yêu hết lòng, hết trí khôn». Ai nói rằng mình yêu Chúa, yêu người «hết lòng, hết trí khôn» mà lại không yêu «hết sức lực» – cụ thể là sẵn sàng hy sinh thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công lao cho Chúa, cho tha nhân – thì người ấy nếu không nói dối thì cũng là kẻ ảo tưởng về chính mình. Chắc chắn Chúa muốn chúng ta thay vì hy sinh những thứ ấy cho Chúa, thì hãy hy sinh cho tha nhân, vì hy sinh cho tha nhân chính là hy sinh cho Chúa.

  1. «Điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ»

Rất nhiều Kitô hữu không hiểu được cốt yếu của việc giữ đạo là gì, họ cho rằng việc đọc kinh, đi lễ, chịu các bí tích là những điều quan trọng nhất. Và họ cố gắng thực hiện những điều ấy một cách toàn hảo. Nhưng thật ra, tất cả những thứ ấy chỉ là phương tiện để giúp người Kitô hữu thực hiện được giới răn quan trọng nhất là «mến Chúa, yêu người». «Mến Chúa, yêu người» chính là mục đích của những việc đạo đức trên. Nếu thực hiện những phương tiện ấy mà không đạt được mục đích của chúng thì thử hỏi việc thực hiện ấy ích lợi gì?

Trong bài Tin Mừng, ông kinh sư nói: «Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ». Lời đó đã được Đức Giêsu xác nhận là khôn ngoan, đúng đắn. Cứ theo tinh thần câu nói ấy thì yêu Chúa và thương người hết sức mình quan trọng và quí giá hơn việc tham dự các nghi thức phụng vụ, các bí tích, các kinh nguyện. Chính Đức Giêsu mạc khải cho ta biết điều ấy khi nói về ngày phán xét cuối cùng: Thiên Chúa không hề phán xét về việc ta có tham dự các nghi thức phụng vụ hay không, hay tham dự thế nào, mà chỉ xét về việc ta đã làm gì để tỏ ra mình yêu thương tha nhân mà thôi. Đức Giêsu đã tỏ ra trọng phong cách đối xử với tha nhân, sự hòa thuận với những người chung quanh còn hơn việc dâng lễ vật toàn thiêu cho Thiên Chúa nữa (xem Mt 5,23-25).

Biết bao người chu toàn hết sức tốt đẹp những nghi thức phụng vụ mà lại đối xử với tha nhân chẳng ra làm sao, chẳng có tình có nghĩa gì cả, thì thử hỏi đạo đức kiểu ấy có ích lợi gì cho họ trước mặt Thiên Chúa trong ngày phán xét?

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Đức Giêsu có nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy mới được vào mà thôi. Vì thế, trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ sao?” và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”» (Mt 7,21-23). Xin cho con hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời nói đó. Xin cho con nhận ra điều quan trọng nhất trong đạo của Cha mà con phải tuân giữ là thực hiện thánh ý Cha, mà điều cốt yếu nhất của thánh ý Cha chính là mến Chúa – cũng là yêu người – hết lòng hết sức. Amen.

 

37. Giới răn trọng nhất.

Ngày đầu tiên bé vào trường nội trú. Bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Bé tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ, đủ loại này. Nhưng đến chiều, bé gặp bà hiệu trưởng. Bé thấy bà thật hiền hậu, dễ mến. Bà có nụ cười đầy thiện cảm. Bé thấy mến bà và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chẳng có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.

Trong Do thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu, Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: Mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ YÊU.

Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do thái thì vẫn giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một giao ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong tình cha con. Chúng ta sống với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.

Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng dựa trên liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta nhận Thiên Chúa là cha và mọi người là anh chị em ruột thịt.

Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên mức độ tuyệt đỉnh: phải yêu anh em như yêu Chúa. Ai giúp đỡ một người bé mọn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.

Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Ngài như một người cha, nhưng tình yêu này phải được biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu mến anh em mới chứng tỏ mình yêu mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.

 

38. Chú giải của Noel Quesson.

Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi.

Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?

Đoạn Tin Mừng Chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện “cho các quốc gia” (Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,” Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn “cây vả bị khô héo”, Người đã nói “Con Người” đến tìm quả nhưng không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ họp, Đức Giêsu đã tranh luận, “bị tấn công”, “phản công”. Những cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị khích động mỗi lúc càng lên cao.

Những đề tài nóng bỏng nhất được đề cập:

“Do quyền lực nào mà ông thi hành những việc ông đang làm” (Mc 11,27-33).

“Chủ vườn nho sẽ làm gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình” (Mc 12,1-12).

– Có phải đóng thuế cho quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).

– “Số phận của những người chết bên kia thế giới như thế nào?” (Mc 12,18-27).

Chính trong bối cảnh này mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp tục hỏi Người.

Chúng ta có khuynh hướng “đóng khung” đời sống tôn giáo của mình trong vòng “riêng tư” trong việc “thờ phụng” không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố xá, nghề nghiệp chính trị?

Điều răn nào đứng hàng đầu?

Ham mê tha thiết của Israel là luật, bộ Thorab. Trong những “trường dạy Đức tin” gọi là Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành nhiều giờ để “nghiên cứu học hỏi”. Kinh thánh, và những lời chú giải trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo luận, người ta “chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn” của Thiên Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ để “nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?

Câu hỏi mà vị kinh sư đặt ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613 điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: “Những gì ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi” Rabbi Akiba hầu như cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu thương đồng loại.

Còn Ngài, hỡi Rabbi Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?

Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”.

“Phải phụng sự Chúa trước hết”. Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi? Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?

Phúc thay những kẻ biết lắng nghe Lời Hằng Sống!

“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe” Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết “lắng nghe”, và để cho Thiên Chúa giáo huấn.

Điều Chúa trích dẫn trên đây là kinh “Shema” Israel (Đnl 6,4-5).

Đó là kinh cầu nguyện hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.

Khẳng định chính yếu của đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của các Kitô hữu, của người Hồi giáo.

Rất tiếc là những dịch giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do Thái. Maccô đã không nói: “Thiên Chúa là Chúa duy nhất”. Ong nói thật đơn giản nhưng rất mạnh: “Thiên Chúa là một”. Những sách kinh thánh Do Thái thì dịch: “Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ “một” có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ “duy nhất”. Các bạn có cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn “hợp nhất”. Người sở hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn “lưu chảy”, làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống mới.

Người phải yêu mến Đức Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?

Thiên Chúa thật vĩ đại! Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con người. “Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Tôi có yêu Thiên Chúa không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác. Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến”, nếu không phải là yêu mến Người? Có thật là bạn thương yêu Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức” không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho tình yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến những trách vụ tập thể bên ngoài.

Điều răn thứ hai là…

Vâng, ở đây chúng ta biết rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.

Ngươi phải thương yêu người thân cận như chính mình.

Cần phải phân biệt rõ hai điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm một, như thế “yêu Thiên Chúa” là đủ, hay “thương yêu anh em” cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được. Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!

Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.

Đây là một tư tưởng rất tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ “điều răn” trước dùng ở số ít, như là chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.

Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.

“Nước Thiên Chúa” đã được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.

Người kinh sư Do Thái này sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. “Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ cần thêm hai chữ “như Ta” để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ vương quốc cũ và mới: “Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12). Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu thứ nhất mà ra!

 

39. Yêu thương bằng việc làm.

(Trích trong ‘Đối thoại với Thiên Chúa’ – Fernandez)

  1. Giới răn trọng nhất.

Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân ước, cũng như sự hoàn hảo trong Mặc Khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc một, chúng ta được nghe giới răn thứ nhất được tuyên đọc bằng những lời rõ ràng: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi. Câu Thánh Kinh này rất quen thuộc với tất cả những người Do Thái. Họ lặp lại giới răn này hai lần mỗi ngày, trong giờ kinh Sáng và kinh Tối của họ.

Trong bài Phúc âm, chúng ta được nghe về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với một vị kinh sư. Ông này đã lắng nghe cuộc đối thoại giữa Chúa và những người Sa-đốc. Vị kinh sư có một ấn tượng về cách Chúa trả lời những vấn nạn. Và ông đã hỏi Chúa về giáo huấn của Người: Thưa Thầy, giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu dừng lại một chút trước câu hỏi thành tâm này, mặc dù Người thường nghiêm nghị với những kinh sư và những người Biệt Phái. Vào cuội cuộc trao đổi, Chúa đã nói những lời đầy khích lệ với vị kinh sư: Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúa Giêsu luôn sẵn lòng dành thời giờ cho những linh hồn quan tâm đến Người. Chúa đã nhắc lại những lời trong Thánh Kinh: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi…

Đây chính là giới răn trọng nhất trong mọi giới răn, là giới luật tóm kết và cao điểm của mọi giới luật. Nhưng ý nghĩa của tình yêu này hệ tại ở điều gì? Trong một bức thư tưởng tượng viết cho thánh Phanxicô Salê, Đức Hồng Y Luciani – tức là Đức Gioan Phaolô I sau này – đã đưa ra câu định nghĩa như sau: Theo ngài, người yêu mến Chúa phải lên con tàu của Chúa, quyết tâm theo con đường các giới luật của Chúa, dưới sự hướng dẫn của các vị đại diện của Chúa, và trong những tình huống và hoàn cảnh cuộc sống Chúa đã cho xảy đến. Ngài đã tưởng tượng ra cuộc phỏng vấn hoàng hậu Marguerite, khi bà sắp sửa lên đường gia nhập đạo quân Thánh Giá cùng chồng là vua thánh Louis IX của nước Pháp: ‘Thưa quí bà, quí bà định đi đâu?’ Đức vua đi đâu, tôi đi đó’. ‘Nhưng quí bà đâu có biết đích xác đức vua đi đâu không?’ ‘Đức vua đã cho tôi biết tổng quát. Tôi không quan tâm đến việc biết đích xác nơi đức vua sẽ đến, tôi chỉ quan tâm đến việc được cùng đi với đức vua’… Đức vua là Thiên Chúa, và chúng ta tất cả là những hoàng hậu Marguerites nếu chúng ta thực tâm yêu mến Người…

Sống với Thiên Chúa, chúng ta cảm nghiệm như một con trẻ trên tay mẹ hiền; dù Người ẵm chúng ta bên tay phải hoặc bên tay trái: chúng ta hãy để tùy ý Người. Chỉ có một điều can hệ: đó là được sống bên Chúa Giêsu. Dù ở đâu, dù chúng ta chịu đau khổ nào, dù thành công hay thất bại – tất cả phải được chúng ta đón nhận. Hoàn cảnh dù thế nào cũng phải giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa hơn. Chúng ta hãy sống theo lời khuyên của thánh nữ Têrêsa: Đừng để sự gì làm bạn xao xuyến; Đừng để điều gì làm bạn kinh hãi; Mọi sự đều qua đi; Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Sự nhẫn nại đạt được: Tất cả những gì nó gắng đạt đến. Ai có Thiên Chúa sẽ thấy mình không thiếu thốn gì; Một mình Chúa là đủ cho ta.

  1. Đáp lại tình yêu Chúa.

Hôm nay, chúng ta cầu nguyện trong phần đáp ca:

Con yêu mến Chúa, lạy Giavê, sức mạnh của con.

Chúa là đá tảng, là đồn lũy, là đấng giải thoát con. Lạy Chúa Trời con, Người là thuẫn đỡ, là uy tế độ, là đồn trú của con.

Thánh Vịnh 17 có thể được coi là kinh Te Deum vua Đavít đã thân thưa với Chúa. Vua muốn cám tạ Thiên Chúa về tất cả những sự trợ giúp đã nhận được trong cả cuộc đời Chúa đã giải thoát vua khỏi mọi địch thù. Người đã ban cho vua được chiến thắng các dân ngoại. Sau cuộc khởi loạn của Absalom, Chúa đã trả lại thành Jerusalem cho vua. Lúc nào, vua cũng nhận được sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, vua đã dâng lên Chúa lời cám tạ và tình mến: Lạy Chúa, sức mạnh của con, con yêu mến Chúa. Chúa luôn luôn là đồng minh của vua Đavít, là thành lũy, là nơi nương ẩn, và là khiên thuẫn chở che cho vua… Chúa luôn luôn bảo trợ cho vua: Người giải thoát tôi, bởi vì Người hài lòng với tôi. Mỗi người chúng ta cũng có thể lặp lại những lời như thế. Nhân tố quyết định cho cuộc đời chúng ta chính là việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thực tại này phải làm cho lòng chúng ta ngập tràn niềm an ủi và hy vọng: Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Mầu nhiệm Nhập Thể là biểu hiện tối cao của tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người. Tình yêu này còn có trước thời điểm Nhập Thể, vì phát sinh từ bản tính Thiên Chúa: Ta đã yêu thương các người bằng một tình yêu muôn thuở. Tình yêu này đã có trước khi tạo thành trời đất. Thánh Thomas dạy rằng tình yêu này là nguồn mạch mọi ân sủng của chúng ta.

Nhưng điều còn kinh ngạc hơn nữa là tình yêu Thiên Chúa đã được trào đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, đấng đã được ban tặng cho chúng ta. Thánh Augustine đã viết: Chúng ta đã được yêu thương ngay cả khi chúng ta vô tâm nhất. Thiên Chúa đã muốn ban cho chúng ta một điều gì đó để chúng ta ca ngợi Người. Thánh nhân còn nói: Hãy nghe đây! Hãy nghĩ về cách bạn đã được yêu thương khi bạn không đáng được thương yêu. Hãy lắng nghe, bạn đã được thương yêu như thế nào khi bạn vụng về và xấu xa, khi bạn chẳng có gì đáng được yêu thương. Bởi vì bạn đã được thương yêu trước, bạn đã được tạo dựng để được yêu thương.

Chúng ta lẽ nào lại không đáp trả một tình yêu như thế hay sao? Thiên Chúa mời gọi chúng ta yêu mến Người bằng việc làm và bằng những cảm tình của con tim. Mỗi ngày, chúng ta hãy tìm hiểu thêm về nhân tính thánh thiện của Chúa Giêsu, đó là con đường tốt nhất để đến cùng Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha hằng yêu thương Chúa Con. Người cũng yêu thương chúng la: Cha đã yêu chúng như Cha đã yêu Con. Người càng yêu thương chúng ta hơn nữa khi chúng ta yêu mến Con của Người: Ai yêu mến Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy.

Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm. Tình yêu được thể hiện trong sự tín thác như con trẻ đến cùng người cha khi gặp sự khó. Đây là việc của mỗi ngày. Chúng ta hãy có một tinh thần tri ân vui tươi về bao phúc lành đã được lãnh nhận. Chúng ta hãy tín trung như những người con thảo hiếu đối với Thiên Chúa, trong những nơi Người đã đặt định cho chúng ta. Trong lâu đài của Thiên Chúa, chúng ta hãy chấp nhận bất kỳ vị trí nào: người nấu nướng hoặc người rửa bát, người phục vụ, người làm bánh, người giữ ngựa. Nếu đức vua muốn gọi chúng ta vào số quần thần ưu tú, chúng ta hãy sẵn sàng mà không xao xuyến, chúng ta biết sự ban thưởng không tùy thuộc vào địa vị, nhưng vào sự tín trung với nhiệm vụ được giao phó. Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc với địa vị của chúng ta. Bao nhiêu lần lẽ ra chúng ta phải thưa với Người: Lạy Chúa, con yêu mến Chúa…, nhưng xin dạy con biết yêu hơn nữa, yêu thật nồng nàn!

  1. Tình yêu thể hiện bằng việc làm.

Một nhà viết tiểu sử thánh nữ Têrêxa Avila đã mô tả tình mến tinh tế từ những ngày đầu của đan viện thánh Giuse: Khi thiếu thốn tiền bạc, các nữ tu sẵn lòng dùng bánh khô, nhưng họ chẳng bao giờ thiếu nến sáp để thắp sáng bàn thờ và những đồ phụng tự đều là thứ tuyệt hảo hết sức có thể. Một linh mục lấy làm khó chịu: ‘Cái gì! Một chiếc khăn để lau tay trước khi dâng lễ mà cũng phải tẩm thuốc thơm à?’ Với dung mạo tốt lành rạng ngời lửa mến, mẹ Têrêxa đã nhận phần trách nhiệm: ‘Chính vì tôi mà các chị em đã mắc sự bất toàn này. Nhưng khi tôi nhớ rằng Chúa đã quở trách bọn Biệt Phái vì không tiếp rước Người xứng đáng, thì tôi lại ước ao mọi sự trong thánh đường này, bắt đầu từ ngưỡng cửa, đều được tẩm dầu thơm…’ Chúa rất coi trọng những biểu hiện tình yêu chân thành như thế.

Chúng ta hãy tỏ lòng mến Chúa bằng cách trung thành giữ trọn những giới luật của Người và chu toàn những bổn phận của chúng ta giữa trần gian. Lòng mến của chúng ta sẽ được minh chứng qua việc gớm ghét tội lỗi và mọi dịp tội, qua việc thực thi tình yêu trong những chi tiết nhỏ mọn như bái quì nghiêm trang, giữ đúng giờ những việc đạo đức, cung kính chào ảnh Đức Mẹ… Chính nhờ những việc đạo đức nhỏ bé này mà chúng ta giữ được ngọn lửa tình yêu Chúa của chúng ta được bừng cháy.

Mọi việc chúng ta dâng lên Chúa chỉ có một giá trị tương đối nếu so với tình yêu đi trước của Chúa. Thiên Chúa yêu thương tôi. Thánh Gioan Tông đồ viết: ‘Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Người đã yêu thương chúng ta trước’. Và như thế dường như vẫn chưa đủ, nên Chúa Giêsu đã đến với từng người chúng ta, mặc dù chúng ta dơ nhớp, để hỏi chúng ta giống như Người đã hỏi Phêrô: ‘Simon, con Giona, con có mến Thầy hơn những người này không?’

Đây là lúc chúng ta phải trả lời: ‘Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa!’ Tuy nhiên, chúng ta hãy khiêm tốn xin thêm: ‘Nhưng xin giúp con yêu mến Chúa hơn nữa. Xin gia tăng lòng mến cho con!’.

 

40. Thánh thiện là đức ái trọn hảo

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)

Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B, chúng ta thấy được 4 điều sau đây:

Thứ nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu dạy chúng ta chẳng những phải kính mến Chúa hết mình mà còn phải yêu thương nhau như mình nữa mới trọn, chứ không phải chỉ kính mến Chúa hết mình, nói cách khác, kính mến Chúa hết mình còn ở tại việc yêu nhau như mình nữa, hay yêu nhau như mình là dấu chứng tỏ kính mến Chúa hết mình.

Thứ hai, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm, chúng ta còn thấy, con người chỉ có thể kính mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình khi họ tin nhận “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất” mà thôi. Hay nói cách khác, chính vì con người tin nhận chỉ có một Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài ra không còn Vị Chúa Tể hay thần tượng hoặc ngẫu tượng nào khác, mà họ phải kính mến Ngài hết mình và yêu nhau như mình.

Thứ ba, cái quí giá nhất trên đời này, trước mặt Chúa cũng như trước mắt thế gian, đó là yêu thương: yêu thương trọng hơn tất cả mọi lễ vật hiến dâng lên cho Chúa là thế, đúng như người luật sĩ thưa với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, và cũng hợp với những gì Chúa Giêsu dạy ở bài giảng trên núi về việc về làm hòa với người xúc phạm tới mình trước khi dâng của lễ trên bàn thờ (x Mt 5:23-24).

Thứ bốn, thế nhưng, nhận biết giá trị tuyệt hạng của giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình như người luật sĩ trong bài Phúc Âm mà thôi chưa đủ, còn phải mang ra thực hành nữa mới được, mới được rỗi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với nhà luật sĩ này sau khi ông trình bày cảm nhận của mình về giới răn trọng nhất, như sau: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.

Chúa Nhật XXXI Thường Niên Quanh Năm, dù thuộc chu kỳ nào đi nữa, A, B hay C, cũng thường ở trong thời điểm cuối tháng 10 hay đầu tháng 11, hoặc vào chính ngày Lễ Trọng Kính Chư Thánh Nam Nữ hay vào Lễ Các Đẳng (năm A: 31/10/1999, 1/11/1987 và 3/11/2002; năm B: 30/10/1994 và 2/11/1997 hay 2/11/2003; năm C: 1/11/1992 hay 1/11/1998, 2/11/1986). Riêng chu kỳ Năm B 2003, Lễ Các Thánh rơi vào ngày Thứ Bảy 1/11 và Lễ Các Đẳng vào Chúa Nhật 2/11. Tuy nhiên, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên XXXI Năm B tuần này cũng rất hợp với ý nghĩa của cả hai lễ này. Ở chỗ, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy một yếu tố then chốt để nên thánh, đó là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình. Đức Ái chẳng những là yếu tố then chốt để nên thánh mà còn là yếu tố cần thiết để đền tội nữa, đền tội cho chính bản thân mình và đền thay cho nhau nữa, nhất là cho những linh hồn trong luyện ngục. Thánh Phêrô tông đồ đã khẳng định “tình yêu bù đắp muôn vàn tội lỗi” (1Pt 4:8), và chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định về người phụ nữ tội lỗi trong thành đã tỏ lòng ăn năn thống hối là “chị ta được tha nhiều vì đã yêu nhiều” (Lc 7:47).

Thật vậy, điều quan trọng nhất trên trần gian này không phải là được làm lớn, làm tổng thống về phương diện chính trị, làm thần tượng về phương diện nghệ sĩ, hay làm giám mục, giáo hoàng về phương diện tôn giáo, mà là làm thánh. Không làm thánh thì làm gì thì làm con người nói chung và Kitô hữu nói riêng cũng có thể làm mất lòng Chúa, vì họ chỉ sống theo tự nhiên, sống theo xác thịt là những gì vốn phản lại với Thần Linh, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định với Nicôđêmô: “cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt; cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh” (Jn 3:6), hay với các tông đồ: “Thần Linh mới làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì” (Jn 6:63). Điển hình nhất là trường hợp đã xẩy ra cho tông đồ Phêrô, dù có ý hết sức ngay lành trong việc can thiệp vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, vị tông đồ này cũng đã bị Người nặng lời khiển trách là đồ Satan (x Mt 16:22-23). Thật ra, Kitô hữu chúng ta đã được thánh hóa, đã là Thánh ngay từ khi được lãnh nhận Phép Rửa. Bởi vậy, là những ngọn đèn đã được Chúa Kitô thắp lên để trên cao hầu soi sáng cho cả nhà thế gian, chúng ta phải sống đúng với ơn gọi “là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14) của mình. Mà ánh sáng chúng ta chiếu giải để soi sáng thế gian tăm tối sặc mùi tử khí văn hóa sự chết đây là gì nếu không phải là một đức ái trọn hảo.

Nếu theo Mạc Khải Thần Linh qua phần Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, Phúc Âm nói riêng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói đến giới răn cao trọng nhất là giới răn yêu thương, yêu Chúa hết mình và thương người như mình, thì trong phần áp dụng thực hành những gì Chúa tỏ dạy cho chúng ta biết ấy, chúng ta cảm nhận và đáp ứng thế nào trước Lời Chúa? Chắc mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy khó nên thánh quá! Lời Chúa khó áp dụng quá! Nhưng cũng chính vì Lời Chúa siêu việt trên cả trí khôn hiểu biết của loài người lẫn khả năng thực hiện của họ mới thực sự chứng tỏ cho thấy “Đó là Lời Chúa”, chứ không phải là lời thường, lời của con người, dù là của các bậc hiền triết thánh nhân, những lời Chúa siêu việt này đều “là thần linh và là sự sống” (Jn 6:63), như Chúa Giêsu đã khẳng định với các tông đồ. Đó là lý do, để phấn khích tinh thần Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta, Chúa đã ban cho chúng ta có các tấm gương của những vị thánh, những con người cũng hèn yếu như chúng ta. Chẳng hạn như vị tân chân phước Têrêsa Calcutta được Giáo Hội tuyên phong vào chính Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2003, “một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20”, như ĐTC Gioan Phaolô II đã công bố ngày 20/10/2003 với phái đoàn hành hương đến dư ï lễ tuyên phong của Mẹ, vị mà trong hồ sơ phong chân phước đã được gọi là “biểu hiệu của Đức Ái Kitô giáo”, căn cứ vào các việc bác ái anh hùng được tỏa sáng từ người nữ tu thánh sống này.

Mẹ Têrêsa Calcutta, sau khi đã nghe thấy tiếng Chúa nói trong tâm hồn của Mẹ, kêu gọi Mẹ là: “Hãy đến, hãy trở thành ánh sáng của Cha. Hãy mang Cha tới hang hầm tối tăm của thành phần nghèo khổ”, Mẹ đã bắt đầu đi vào đêm tối tăm nội tâm, một đêm tối tăm bắt đầu xuất hiện khi Mẹ mới bắt tay vào việc phục vụ người nghèo cho tới khi Mẹ qua đời, một đêm tối tăm, như Mẹ chia sẻ với cha linh hướng và Đức Tổng Giám Mục địa phương, có những lúc Mẹ thấy thiên đàng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, Thiên Chúa không còn hiện hữu nữa v.v., nhưng đồng thời đời sống Mẹ lại thực sự chiếu tỏa “rạng ngời chân lý” Chúa Kitô, mang “Phúc Âm sự sống” chẳng những đến cho thế giới Ấn Giáo mà còn cho cả thế giới văn minh duy nhân bản, duy thực dụng, duy vật vô thần của thế kỷ 20 nữa. Sau đây hai trường hợp điển hình do Mẹ kể lại cho chúng ta.

“Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người. Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hãy chăm sóc 3 người kia; còn mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ ấy lên giường và chị đã nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đã nắm lấy tay tôi nói lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét mình trước chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói gì nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đã cho tôi còn hơn thế nữa. Chị đã cho tôi tấm lòng ưu ái tri ân của chị. Và chị đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt.

“Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cái cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất”.

Đó là lý do, trong bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, ĐTC Gioan Phaolô II chẳng những đã đề cập đến cuộc khủng hoảng nội tâm của Mẹ Maria liên quan đến lòng mến Chúa hết mình của Mẹ, mà còn hết lời ca ngợi đức ái xả thân quên mình của Mẹ trước thế giới nơi thành phần cùng khốn nhất loài người như sau:

“Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25:40). Sứ điệp Phúc Âm này, một sứ điệp rất quan trọng để hiểu được việc Mẹ Têrêsa phục vụ người nghèo, là nền tảng cho niềm xác tín đầy tin tưởng của Mẹ đến nỗi khi đụng chạm đến những thân xác tan nát của người nghèo là Mẹ sờ chạm tới thân mình của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu, ẩn mình dưới bộ mặt buồn thảm của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là mục tiêu cho việc phục vụ của Mẹ nhắm đến. Mẹ Têrêsa đã làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa nhất của việc phục vụ, một tác động yêu thương, một hành động làm cho người đói, kẻ khát, người lạ, kẻ trần trụi, người bệnh, kẻ tù phạm (x Mt 25:34-36) là làm cho chính Chúa Giêsu” (Đoạn 4).

Phần Kitô hữu Công giáo chúng ta, đôi khi chúng ta khiêm nhượng quá đến trốn tránh trách nhiệm, đến sống phản lại sự thật. Điển hình nhất là việc thực hành ơn gọi Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta đây. Không phải hay sao, trong khi Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng “Các con là ánh sáng thế gian”, thế mà có ai trong Kitô hữu chúng ta dám tự nhận mình “là ánh sáng thế gian” không? Chính vì chúng ta không dám nhận mình “là ánh sáng thế gian”, hay thậm chí phủ nhận căn tính Kitô giáo “là ánh sáng thế gian”, là truyền giáo, là làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa Kitô như thế, mà chúng ta đã tiếp tục sống tầm thường, sống phản lại với tinh thần của Chúa Kitô, sống trong tăm tối, theo khuynh hướng dễ dãi tự nhiên, theo xác thịt phản lại Thần Linh ban sự sống.

Phải, chỉ khi nào chúng ta dám chân nhận mình tôi “là ánh sáng thế gian”, chúng ta mới nỗ lực làm gương sáng, mới có thể tỏa Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” ra, mới trở thành chứng nhân trung thực phản ảnh Chúa Kitô, mới phát tỏa Tin Mừng Sự Sống cho thế gian vốn yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng này. Nếu đức ái trọn hảo của Kitô giáo “là ánh sáng thế gian” thì ánh sáng đức ái này được chiếu tỏa từ ngọn đèn đức tin. Đức ái càng sáng chứng tỏ đức tin càng mạnh và sự sống nội tâm càng dồi dào nơi thành phần Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô. Nếu đức tin thuộc về hay liên quan đến đời sống nội tâm cầu nguyện thì đức ái thuộc về hay liên quan tới đời sống hoạt động tông đồ. Trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao Giêsu chỉ cần xem quả biết cây (x Mt 7:15-20), chỉ cần phán xét đức ái là biết đức tin của con người (x Mt 25:34-37): cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời không thấy Chúa, nhưng thành phần chiên dù không thấy vẫn làm việc bác ái.

Đó là hình ảnh một con chiên Têrêsa Calcutta, dù không thấy Chúa, tức nội tâm của con chiên này bị tối tăm cả nửa đời người (1947-1997), tức suốt thời gian phục vụ người nghèo, không thấy Chúa đâu, nhưng vẫn hăng say làm việc bác ái, vẫn lấy đức tin nhìn nhận Người nơi “những người anh em hèn mọn nhất” của Người tại miền đất bần cùng nhất trên thế giới. Chính việc bác ái Kitô hữu thực hiện chứng tỏ họ thực sự yêu mến Thiên Chúa, hay thực sự họ nhận biết Thiên Chúa, một Thiên Chúa chân thật duy nhất là Đấng họ phải kính mến hết mình, “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”, như Chúa Giêsu tái xác nhận với người luật sĩ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Và chính kiến thức thần linh, được sáng tỏ qua đức bác ái, đã cho thấy người Kitô hữu này đã thực sự sống dồi dào “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3).

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Đnl 6, 2-6; Dt 7, 23-28; Mc 12, 28b-34

MỤC LỤC

 

  1. Mến Chúa – Yêu người 3
  2. Mến Chúa yêu người. 5
  3. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người 8
  4. Mến Chúa yêu người. 14
  5. Điều răn đứng đầu. 16
  6. Mến Chúa và yêu người – ViKiNi 19
  7. Luật tối thượng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 23
  8. Yêu mến Chúa hết lòng 26
  9. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu 30
  10. Một cuộc tranh cãi hữu nghị – Maurice Brouard. 34
  11. “Tôi không biết điều tôi không thể”. 37
  12. Điều răn trọng nhất 40
  13. Chúng ta có hướng về tâm điểm không? 53
  14. Một tình yêu duy nhất. 55
  15. Lề luật bóp chết con tim 59
  16. Sống Mến Chúa và Yêu Người đi đôi 62
  17. Suy niệm của Lm Gioan M Nguyễn Đức Hùng, CRM 64
  18. Lòng kính mến Chúa 68
  19. Mến Chúa Yêu Người 72
  20. Với cả tâm trí bạn – Gm. Arthur Tonne. 75
  21. Mến Chúa yêu người – Hiếu Nguyễn 77
  22. Giới răn trọng nhất – Noel Quesson. 82
  23. Giới luật yêu thương. 84
  24. Chúa Nhật 31 Thường Niên 87
  25. Yêu người. 90
  26. Suy niệm của Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách 93
  27. Sống như con người. 97
  28. Mến Chúa yêu người. 99
  29. Thưa Thầy đâu là giới răn trọng nhất? 102
  30. Hai giới răn. 105
  31. Thiếu sót. 108
  32. Hoàn hảo hơn 110
  33. Cầu thang. 112
  34. Độc đáo. 114
  35. Mến Chúa, yêu người 116
  36. Suy niệm của JKN. 122
  37. Giới răn trọng nhất. 127
  38. Chú giải của Noel Quesson. 129
  39. Yêu thương bằng việc làm. 135
  40. Thánh thiện là đức ái trọn hảo 141

 

1. Mến Chúa – Yêu người

Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi.

Đối với giới luật thứ nhất là kính mến Thiên Chúa, chúng ta có thể chấp nhận một cách dễ dàng, như một bổn phận đường nhiên. Còn đối với giới luật thứ hai là yêu thương anh em, những con người cụ thể với những giới hạn và khuyết điểm, thì quả thực có nhiều vấn đề cần phải đặt ra. Giới luật này chẳng những là một điều rất khó thực hiện, mà nhiều lúc còn là một thử thách rất lớn cho chính đức tin của chúng ta. Thế mà Chúa Giêsu lại nâng giới luật này lên hàng đầu, ngang bằng với lòng kính mến Thiên Chúa, và còn gọi tình yêu tha nhân là giới luật mới, là dấu chỉ của người môn đệ Ngài.

Sở dĩ được gọi là mới là do ý nghĩa thâm sâu mà Chúa Giêsu đã mang lại cho nó, khi Ngài liên kết con người với Thiên Chúa trong một tình yêu chung. Hai tình yêu ấy hòa nhập làm một hay trở nên hai mặt không thể tách rời của một tình yêu duy nhất. Con người, bất kể là ai, sang hay hèn, tốt hay xấu, đều có phẩm giá và phẩm giá này cần phải được tôn trọng. Phẩm giá ấy không phải do của cải hay địa vị xã hội tạo nên, nhưng nó đã được chôn sâu trong chính con người chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều là con cái của Ngài.

Bởi thế, yêu thương con người là yêu thương chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi họ, là yêu thương chính người cha đang ở với mỗi người con. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với con người. Ngài ẩn hình nơi mỗi con người. Vì thế, Ngài buộc các môn đễ của Ngài phải trọng kính và yêu thương mỗi con người: Ai cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ mình trần được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được thăm viếng, thì đó là người ấy đã làm cho chính Chúa được ăn, được uống, được mặc và được thăm viếng vậy. Như thế, tình yêu thương con người đòi hỏi một thái độ đức tin, đó là phải nhìn thấy Chúa trong những người anh em.

Và cũng chỉ có thái độ đức tin mới giúp chúng ta vượt lên trên những ác cảm, những khác biệt, những thù hằn để thương người như chính mình ta vậy. Và hơn thế nữa, với thánh Gioan, thì lòng thương người trở nên như một trắc nghiệm cho tình mến Thiên Chúa, nó chính là thước đo cho tình mến Chúa, bởi vì ai nhận mình kính mến Thiên Chúa, mà lại ghét bỏ anh em, thì kẻ đó chỉ là kẻ nói dối mà thôi.

 

2. Mến Chúa yêu người.

Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hai khía cạnh của một giới răn, đó là lòng mến Chúa và tình thương người.

Trước hết là lòng mến Chúa.

Trong Cựu ước Chúa phán bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.

Thánh Gioan vị tông đồ, thấu triệt được đường lối của Chúa Giêsu, đã viết: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai ở trong tình yêu thì người ấy ở trong Thiên Chúa. Và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy mặc lấy đức ái, là giềng mối mọi sự trọn lành.

Như thế, chúng ta thấy lòng mến Chúa là mục đích chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống trần gian hay nói cách khác, đó chính là sự thánh thiện vậy. Qua giòng thời gian, các thánh, là những người đã xác tín được cái chân lý ấy và đã ra sức thực hiện trong lòng cuộc đời của mình.

Thánh nữ Têrêsa đã viết: Tôi hiểu rằng Giáo Hội có một trái tim, trái tim ấy bùng cháy ngọn lửa tình yêu… Tôi hiểu rằng chỉ tình yêu mới làm cho các chi thể hoạt động. Nếu tình yêu mà lịm tắt, thì các vị tông đồ không còn đi loan báo Tin mừng, các vị tử đạo không còn đổ máu ra để làm chứng cho Phúc âm. Lòng mến này được biểu lộ qua việc chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa bằng những tâm tình cầu nguyện. Nhất là được biểu lộ qua việc chúng ta thực thi thánh ý Chúa, mỗi khi chúng ta làm một việc dù là nhỏ mọn nhất. Chúng ta hãy biết thân thưa với Chúa như thánh nữ Bernadetta: Lạy Chúa, xin cho con biết chu toàn mọi việc vì lòng yêu mến Chúa.

Người ta kể lại thánh Arcadio, khi bị dẫn tới pháp trường, ngài đã bình tĩnh chấp nhận bị khổ đau, rồi ngài nói với những người đứng chung quanh: Chết vì Chúa là được sống, khổ vì Chúa là được hạnh phúc.

Tiếp đến là tình thương người.

Trong Phúc âm Chúa phán: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi. Các ngươi hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.

Thánh Augustinô đã giải thích tư tưởng của Chúa như sau: Tình thương là dấu chỉ duy nhất để phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỉ. Mặc cho những ai cứ làm dấu thánh giá trên trán, cứ chịu phép rửa tội, cứ vào nhà thờ, nhưng chỉ có tình thương mới phân biệt được ai là con cái Thiên Chúa.

Đức Giám mục Bossuet cũng nhấn mạnh: Ai chối bỏ tình thương là chối bỏ đức tin. Ai chối bỏ đức tin là sống ngoài Giáo Hội. Bởi vì như lời thánh Gioan đã diễn tả: Anh em là những người họ trông thấy mà họ chẳng yêu thương, thì làm sao họ có thể kính mến Thiên Chúa Đấng mà họ chẳng hề trông thấy bao giờ.

Bên Âu Mỹ, người ta thử nuôi những trẻ sơ sinh bằng máy dưỡng nhi thay cho người. Với những máy móc ấy, con trẻ được nuôi một cách rất khoa học. Ăn uống đầy đủ, vệ sinh chu đáo. Thế mà đứa trẻ cứ mỗi ngày một ốm o gầy mòn, biếng ăn kém ngủ. Thế nhưng, khi người ta thêm vào trong phòng một cái máy phát ra những tiếng động như nhịp đập của trái tim người mẹ, thì các em trở lại bình thường, ăn ngon ngủ kỹ, da dẻ hồng hào. Như vậy cái yếu tố thiết yếu trong cuộc sống là yêu và được yêu.

Kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Thực hiện được hai điều ấy là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật, và mọi lời Chúa truyền dạy.

 

3. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)

Tình yêu là sự hoàn thiện của con người (Th. Augustinô).

Một nữ văn sĩ đã viết: “Cuộc đời con người vốn trống trải như một quán trọ. Không ai trên cõi đời này có thể sống mà không yêu một người nào hay yêu một cái gì. Bao giờ trái tim còn rung lên những nhịp đập, bao giờ đôi mắt còn nhìn thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn bên kia đồi, bao giờ còn khoảng cách mênh mông của những vì tinh tú trên bầu trời cao, con người còn phải yêu để sống”. Tư tưởng của nhà văn ngụ ý nói rằng tình yêu là một nhu cầu thiêng liêng và cao quý của kiếp sống hiện sinh nơi mỗi người chúng ta. Chỉ có gỗ đá và thú vật mới không biết rung cảm và yêu thương, còn đã là người, chúng ta cần phải yêu để có thể tồn tại. Đó là quy luật thiết yếu mà Thiên Chúa đã đặt để nơi cuộc sống mọi người.

Nhưng thật trớ trêu, người ta đã và đang lợi dụng cũng như bóp méo ý niệm thân quen này. Có những tình yêu đáng lẽ rất trong sáng, lại bị đánh đổi bằng chút ít tiền bạc. Có những tình yêu thoi thóp nơi những trái tim chỉ biết đợi, biết chờ mà không bao giờ được đáp trả. Có những bạn trẻ lao đầu vào những cuộc tình quái gở, vội trao ban những gì quý giá nhất của đời con gái để suốt đời phải ôm một nỗi sầu mênh mang. Có những con người điên điên khùng khùng rao bán tình yêu chỉ với vài ba chỉ vàng, hoặc dùng vốn tự có để đổi lấy một mảnh tình rách. Biết bao phũ phàng và xót xa vẫn đang xảy ra đặc biệt nơi các bạn trẻ, khi họ muốn vươn tới một tình yêu trong sáng nhưng không thể nào có được. Ai cũng biết và cảm thấu sự cao quý của tình yêu, nhưng tình yêu thực sự là gì?

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay vạch dẫn cho ta câu giải đáp. Những môn đệ của Đức Giêsu phải thâm tín rằng không thể có một tình yêu chân chính nếu không quy tập về chính Thiên Chúa, bởi lý do giản đơn như thánh Gioan tông đồ đã xác quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Nói cách khác, Thiên Chúa vốn tự bản chất là Tình yêu, đã thiết định một lề luật căn bản nơi nội tâm mỗi người, đó là luật yêu thương. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, con người càng trở nên hoàn hảo, và trở nên giống Thiên Chúa.

Giới răn quan trọng nhất

Mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư mà Tin mừng hôm nay thuật lại xoay quanh chủ đề ‘Đâu là giới răn quan trọng nhất’. Chủ đề này đã được Đức Giêsu lập đi lập lại khá nhiều lần, ví dụ qua bài giảng trên núi, hoặc khi Ngài nói chuyện với chàng thanh niên muốn nên trọn lành, và đặc biệt trong diễn từ Chúa nói với các học trò trước khi đi thụ nạn. Quả thật, Đức Giêsu đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo, nhưng để công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Ngài chính là bí tích biểu thị tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một Ngài” (Ga 3, 16). Đức Giêsu chính là nhịp cầu nối kết con người với Thiên Chúa, đồng thời cái chết của Ngài trên Thập giá chính là câu định nghĩa hoàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho ta. Tình yêu mà Ngài nói tới không phải là những biểu hiện tình cảm ngốc nghếch mà rất nhiều bạn trẻ thường hay nghĩ tưởng. Chúa nói với các môn sinh “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta phải học, phải hiểu và phải sao chép lại chính tình yêu mà Đức Giêsu đã diễn bày.

Tình yêu mà Chúa Giêsu khai mở và giải thích cho vị kinh sư khi ông ta đến hỏi Ngài gồm hai chiều kích: đối nhân và đối thần, tức yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại. Thực sự đây là hai cách diễn bày, nhưng tình yêu chỉ là một thực tại duy nhất. Thánh Giacôbê đã viết: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là người nói dối” Cụ thể, chúng ta không thể nào mở miệng thưa với Chúa: “Lạy Chúa con yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự”, mà lại không thể nở một nụ cười thân thiện với người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta vẫn mở miệng đọc kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con”, nhưng lắm khi chúng ta vẫn ôm nơi mình biết bao dao găm và lựu đạn khi đến nhà thờ cầu nguyện với Chúa. Những lời cầu nguyện như thế rất giả dối, nhằm đánh lừa Thiên Chúa và rốt cục chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.

Tình yêu là sự hoàn thiện của con người.

Thánh Phanxicô Salê, tiến sĩ về đức ái, đã viết: “ Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu”. Vì thế, càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng vươn đạt đến sự hoàn thiện theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành.” Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đến trần gian để khải thị cho ta Tin mừng về lòng yêu thương của Thiên Chúa. Khi nói chuyện với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã vén mở cho ông điều này. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là câu tóm kết toàn bộ sách Tin mừng, diễn tả sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Ngài đi vào trần gian để loan báo cho ta về tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu là tột đỉnh diễn bày tình yêu tuyệt vời này. Trong 3 năm rao giảng, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, ngôi trường đó mang tên Trường học Tình yêu. Ngài quy tập những người học trò để truyền thụ cho họ một môn học duy nhất, đó cũng chính là môn học về tình yêu. Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu để lại cho các môn sinh bản di chúc tối hậu: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”; “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau.”

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay cha nó ôm đón khi nó trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình thản ngồi tâm sự sát kề bên Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí một tên cướp khét tiếng, với một quá khứ đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, được chính Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, là một nghịch lý vĩ đại và tình yêu ấy trở thành khuôn mẫu nội tâm để tất cả chúng ta noi theo.

Yêu như Chúa yêu

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn căn bản về tình yêu. Tình yêu mà Đức Giêsu mời gọi không mang dáng vẻ lãng mạn và ủy mị như nhiều bạn trẻ thường hay mơ nghĩ. Chúa Giêsu đã sống tận căn mầu nhiệm tình yêu và Ngài mời gọi các học trò hãy sao chép lại tình yêu ấy. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái chết trên Thập giá là câu định nghĩa tuyệt vời nhất về tình yêu mà Đức Giêsu diễn bày, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta dần dần tiến sâu vào quỹ đạo yêu thương độc đáo này.

Thánh Gioan Tông đồ là chuyên gia về tình yêu. Khi tự giới thiệu về mình, vị tông đồ đã không theo kiểu cách thế gian. Ngài không khoe khoang chức vụ hay học vị của mình như người đời vẫn hay làm, ví dụ: ông Nguyễn Văn A, Tổng giám đốc, Tiến sĩ này, thạc sỹ nọ v..v. Thánh Gioan chỉ nói đơn giản về bản thân mình là ‘Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến’. Trong bữa tiệc ly, Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa, lắng nghe những nhịp đập từ con tim thổn thức của người Thầy quý mến. Đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria, Gioan cũng chứng kiến trái tim Chúa mở toang, vọt trào cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng, biểu tượng tình yêu dạt dào như một dòng chảy bất tận. Cảm nghiệm được tình yêu sâu xa này, nên trong Tin Mừng thứ tư và đặc biệt trong cả 3 lá thư Ngài viết, Thánh Gioan hầu như chỉ nói đi nói lại một chủ đề duy nhất, đó là tình yêu “ Hãy yêu như Thầy đã yêu.” Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái cũng nhắc đến hiến tế Thập giá của Đức Giêsu, như là nguyên mẫu cho tình yêu mà chúng ta được mời gọi sao chép lại.

Kết luận

Để kết luận, tôi xin trích dẫn một câu chuyện ngắn của tác giả Trường Long. “Sau khi ly hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ nó: Sao mẹ lại đuổi bố? Mẹ trả lời “Tại bố hư.” Để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, Người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chộp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên bắt đền. Mẹ nó dỗ: “Anh này hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần”. Đứa bé phụng phịu: “Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố? Bà mẹ trẻ nhìn xa xăm rồi thở dài: “Ừ, thì ra mẹ cũng hư.”

Chúng ta cũng dễ thường hay ‘hư’ như thế vì đã không sống triệt để mầu nhiệm tình yêu, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tình yêu đó đòi hỏi chúng ta phải biết sẵn sàng cho đi và biết quảng đại tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy lập lại tâm tình trong kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha….”. Chúng ta cũng nhớ lại lời dạy của Thánh Augustinô: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis).

 

4. Mến Chúa yêu người.

Vào một buổi sáng mùa đông, nhóm tù công giáo quây quần bên nhau, chia sẻ Lời Chúa với dụ ngôn về người Samaritanô nhân lành. Họ trao đổi với nhau và tìm cách áp dụng tinh thần yêu thương vào cuộc sống hằng ngày. Căn phòng không đủ ấm vì từng cơn gió lạnh thổi tới. Một tù nhân nghèo túng, trên người chỉ có một bộ quần áo mỏng manh, đang ngồi mà cứ run lập cập. Bên cạnh đó, một bạn tù khoác những hai chiếc mềm. Và thế là, trong lúc mọi người bàn luận về cách thức tương trợ lẫn nhau, người bạn tù đột nhiên đúng dậy, tiến đến và choàng một chiếc mềm lên người tù nghèo túng. Cử chỉ của người bạn tù đã gây được một ấn tượng mạnh mẽ cho cả nhóm hơn bất cứ lời nào họ nói ra để chia sẻ.

Và cũng từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, chúng ta thường nói: Con người đầu đội trời, chân đạp đất, vì thế sống trên đời chúng ta có hai bổn phận phải chu toàn, đó là mến Chúa và yêu người. Hai bổn phận này phải luôn luôn đi đôi với nhau, như hai mặt của một đồng tiền. Nói cách khác, đó chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, giới luật yêu thương. Chúng ta không thể cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa, nếu như chúng ta không đối xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động bác ái. Thánh Gioan Tông đồ đã xác quyết: Nếu ai nói rằng mình kính mến Chúa là lại ghét bỏ anh em, thì quả thật kẻ ấy chỉ là một tên nói dối, bởi vì hắn ta không thể kính mến Chúa là Đấng hắn chẳng hề trông thấy bao giờ, nếu hắn không yêu thương anh em, là những người hắn luôn thấy được. Chính Đức Kitô cũng đã dạy: Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em. Hai lệnh truyền này tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không yêu thương anh em thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn kính mến Thiên Chúa nữa. Có một câu danh ngôn đã bảo: Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng làm sao thấy được bởi vì Ngài là Đấng thiêng liêng. Thế nhưng khi tôi tìm kiếm người anh em, thì tôi sẽ gặp được chính Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với những người anh em nghèo khổ: mỗi khi chúng ta cho người đói được ăn, người khát được uống, người trần trụi được mặc, người đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.

Thế nhưng, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu thương những người thân cận ruột thịt, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ khó mà yêu thương những kẻ xa lạ cho được. Vậy chúng ta đã dành tình yêu thương cho những người thân cận trong gia đình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là chưa đậm đà cho lắm, thì có lẽ tình yêu thương chúng ta dành cho bà con lối xóm cũng sẽ chẳng khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu thương bà con lối xóm cho mặn nồng thì chắc chắn chúng ta cũng không thể kính mến Thiên Chúa một cách nồng nàn được.

Trái lại, nếu chúng ta yêu quý những người thân cận trong gia đình, thì chúng ta mới có thể yêu quý những người bà con lối xóm. Và một khi đã yêu quý những người bà con lối xóm, thì chắc chắn, chúng ta cũng sẽ dễ dàng kính mến Thiên Chúa. Dấu chỉ và bộ đồng phục của người môn đệ Chúa phải là lòng bác ái, và ngôn ngữ của người Kitô hữu, thứ ngôn ngữ mà nhờ đó bất cứ ai cũng có thể hiểu được về Thiên Chúa và về bản thân chúng ta, đó phải là ngôn ngữ của tình yêu thương.

 

5. Điều răn đứng đầu.

Suy Niệm

Đối với một số bạn trẻ, yêu chẳng có gì khó. Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau. Yêu là hẹn hò, viết thư, tặng quà sinh nhật. Nhưng dần dần quan niệm về tình yêu trở nên sâu xa hơn. Các bạn nhận ra yêu là trao hiến bản thân, là hy sinh chính mình để sống cho người khác.

Tình yêu đích thực không dễ như nhiều người lầm tưởng. Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.

Một vị kinh sư tốt lành hỏi Đức Giêsu về điều răn đứng đầu trong số 613 khoản luật. Ngài trích Ngũ Thư để tóm lại trong hai điều răn chính: yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến.

Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật. Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu.

“Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).

Thánh Âu-tinh phàn nàn là mình đã yêu Chúa quá muộn. Còn chúng ta lại thấy mình yêu Chúa quá ít và hời hợt.

Khi nghe Đức Giêsu nhắc lại lời kinh của người Do Thái: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với trọn cả trái tim ngươi, với trọn cả linh hồn ngươi, với trọn cả trí khôn ngươi, với trọn cả sức lực ngươi…”, ta mới thấy đòi hỏi quyết liệt của Thiên Chúa. Ngài muốn ta yêu Ngài bằng tất cả con người mình.

Cụm từ “với trọn cả” được lặp lại nhiều lần như nhắc ta chẳng nên giữ điều gì lại.

Sống điều răn thứ nhất là đặt Chúa lên trên hết, là dành ưu tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên. Coi Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa. Dành cho Chúa tất cả, để Chúa chiếm trọn mình.

Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất: yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng. Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha, là hình ảnh của Đức Kitô đang cần tôi giúp đỡ. Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí.

Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao. Đó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu, cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu: tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.

Đức Giêsu đã sống đến cùng hai điều răn Ngài dạy. Ngài sống để yêu và chết vì yêu. Tình yêu của Ngài là lễ toàn thiêu và hy tế.

Mỗi tối tôi lại xét mình về tình yêu để thấy mình còn yêu quá ít.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đâu là chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời bạn? Nếu bạn xếp hạng, bạn thấy Ngài bị đặt dưới những thụ tạo nào?

Bạn thấy yêu tha nhân có dễ không? Bạn làm gì khi phải sống với một người không hợp tính với bạn?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con. Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con. Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con. Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con. Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con. Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con. Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con. Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con. Trước khi con đặt Chúa lên trên hết, Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, Chúa luôn đi trước con. Chúa làm trước khi Chúa dạy. Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi. Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.

 

6. Mến Chúa và yêu người – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Tình yêu là đề tài được bàn đến nhiều nhất trên đời này. Những tác phẩm hay nhất thế giới là nhờ mô tả những chuyện về tình yêu. Thi phẩm Ôdyssê của Hy lạp nổi tiếng là nhờ ca tụng tình yêu của Ulyssê và Pênêlốp. Anh hùng ca Râmâyana của Ấn độ đã truyền tụng tình yêu tuyệt vời của hoàng tử Rama và công chúa Sita. Đại văn hào Shakespeare trở nên bất hủ là nhờ diễn tả tình yêu của Roméo và Juliette. Nguyễn Du được thời danh tới tam bách chu niên cũng nhờ diễn tả tình yêu trong truyện Kiều. Những lâu đài kỳ quan nhất thế giới cũng được xây dựng vì tình yêu. Như Kim tự tháp Ai Cập và Taj-Mahal Ấn Độ.

Tại sao tình yêu được nổi bật nhất trong văn hóa nhân loại như vậy? Thưa, vì không sinh hoạt nào, khuynh hướng nào trong con người mạnh mẽ, phong phú và bao la vô hạn bằng tình yêu, và con người được tạo dựng, được sinh ra cũng là do tình yêu.

Cảm xúc vui buồn thì chóng tan, trí khôn con người chỉ khám phá ra được những phát minh vật chất, ý chí của các thế hệ hiện đại mới chỉ tới được một vài hành tinh. Nhưng tình yêu con người có thể bao quát hết mọi người trong trời đất, yêu hết muôn vật trong vũ trụ, và vượt ra ngoài vũ trụ lên tới trời cao vô tận là Thiên Chúa, vì tình yêu con người đã được cưu mang, sinh ra do tình yêu Thiên Chúa. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (Ga. 4, 7). Vì thế, con người có thể vừa mến Chúa vừa yêu người. Nhưng làm thế nào đạt được tới tình yêu kỳ diệu đó?

Chính Đức Giêsu đã hướng dẫn ta:

  1. Mến Thiên Chúa thì ta phải:

Thứ nhất: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy … Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy … Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga. 14, 15-21. 23).

Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là người thực thi lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Lời Chúa được biểu lộ rõ ràng nhất trong bốn cuốn sách Tin mừng. Giới răn của Chúa được tóm gọn trong Mười Điều Răn và Tám Mối Phúc thật.

Thứ hai: Mến Chúa là sống kết hợp với Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 15, 5). Người ta nói: “Xa mặt cách lòng” – Không thấy nhau thì chẳng có thể yêu nhau. Không nhớ nhau thì đâu có luyến tiếc gì. Cho nên muốn yêu nhau thì ở gần nhau hay luôn tưởng nhớ nhau: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Đó là lời cầu nguyện của đứa con hiếu thảo tha thiết yêu cha mẹ, muốn sống với cha mẹ mãi mãi. Lòng yêu mến đó dù khi phải sống xa cha mẹ, vẫn không cách lòng: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Không lạ gì Đức Giêsu dạy ta mến Chúa theo cách thứ hai này: “Mến Chúa kết hợp với Chúa như cành với cây. Kết hợp với Chúa, không phải bằng thể xác, nhưng bằng tinh thần, đó là hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Kết hợp với Chúa đến tột độ hết sức lực ngươi. (Mc. 12, 30).

Thứ ba: Lòng mến Chúa hết sức lực phải được chứng tỏ bằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt. 16, 24).

Tình yêu thí mạng sống mình vì mến Chúa mới thật là mến Chúa hết sức lực. Đức Giêsu đã đòi Phêrô thực hiện tình mến Chúa đó, khi Người hỏi Phêrô ba lần: “Phêrô, con có mến Thầy hơn các người này không?”. Phêrô đã hết sức đáp lại ba lần: “Thưa Thầy có, Thầy biết con mến Thầy”. Nhưng mến Chúa không phải bằng môi bằng miệng mà bằng việc làm, bằng sống chăm sóc và thí mạng sống cho đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Cho đến khi về già, Phêrô sẽ phải giang tay ra trên thập giá như Thầy (Ga. 21, 15-18).

  1. Yêu người thì ta phải:

Thứ nhất: sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt. 7, 12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc. 12, 30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và ích lợi. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa vậy yêu người cũng phải làm những điều đó cho người.

Thứ hai, yêu người còn phải sống theo gương mẫu của Đức Giêsu mới đúng là yêu người một cách tuyệt hảo: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga. 15, 12-13).

Đấy mới là thước đo yêu người cách khách quan chính xác. Yêu người như chính mình, chỉ là thước đo chủ quan và còn nhiều thiếu sót, vì mình còn nhiều khuyết điểm, còn nhiều đam mê xấu tai hại. Nếu lôi cuốn người ta theo những tật xấu của mình, theo những gương mù của mình, thì đáng bị buộc cối đá vào cổ mà liệng xuống biển. Yêu người như chính Thầy, như chính Đức Giêsu đã yêu người, thì Đức Giêsu đã nên giống chúng ta, nên một xương một thịt với chúng ta, nhập thể vào loài người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (Ga. 1, 14 Dt. 2, 5-12; 4, 1-10). Để thông cảm với kẻ ngu muội, lầm lạc, để đồng bàn với kẻ tội lỗi là chúng ta “Ta đến để cứu chữa kẻ tội lỗi”, để phục vụ làm tôi tớ mọi người. “Các anh cứ về tường thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Mt. 11, 4-5).

Chẳng những người phục vụ, cứu chữa mà còn chịu chết đền tội cho chúng ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc. 10, 45). Người đã chết thay cho kẻ có tội, chết thay cho chúng ta, để chúng ta được sống và được sống dồi dào (Rm. 5, 1-11 ; 2Cr. 5, 14).

Đức Giêsu yêu người bằng phục vụ hy sinh đền tội bằng cứu chữa và ban sự sống dồi dào. Lạ lùng hơn nữa, Người còn cho chúng ta được nên giống Người, là bạn hữu của Người, là nên một với Người, như chi thể của Người, được đồng thừa tự với Người, được làm con Chúa Cha. Đức Giêsu yêu mến và tôn vinh con người đến chừng nào. Đó là tình yêu vô cùng, không thể diễn tả được.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tình yêu người của con tuôn chảy từ tình mến Chúa. Xin ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa bừng cháy lên khắp cả đầu đến chân con, khắp cả tâm hồn đến thân xác con, suốt từ sáng tới chiều, suốt cuộc đời từ trẻ tới già, thấu suốt tận nội cung riêng tư đến mọi phận sự và cộng đồng của con. Amen.

 

7. Luật tối thượng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:

Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.

Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.

Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không?

2) Tại sao ta phải yêu mến tha nhân?

3) Bạn hãy tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn thấy thế giới đó thế nào?

 

8. Yêu mến Chúa hết lòng

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng?

Đề tài được đem ra đây thảo luận vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù Cựu Ước. Thầy kinh sư am tường Sách Thánh và luật Mô-sê đặt cho Đức Giêsu một câu hỏi mang tính lý thuyết liên quan tới hiểu biết suy luận nhiều hơn: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Câu trả lời không khó, chỉ cần trích dẫn hầu như nguyên văn sách Đệ Nhị Luật chương 6 câu 4-5 là đã có được câu trả lời hoàn hảo: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh, hết lòng, hết dạ, hết sức anh” (Đnl 6:4-5). Ngay cả điều răn thứ hai mà Đức Giêsu muốn nối kết với điều răn đứng đầu cũng không xa lạ gì. Nó được tìm thấy trong sách Lê-vi chương 19 câu 18b: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Xét về mặt hiểu biết, ông kinh sư không thua kém gì Đức Giêsu, thậm chí ông còn xử dụng một đoạn Sách Thánh khác để bổ túc cho câu trả lời thêm rõ: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ ta” (I-sai-a 45:5; Đnl 4:35). Cuộc thảo luận lý thuyết đó rốt cuộc chẳng dẫn tới kết quả nào khả quan, ngoài lời khích lệ bâng quơ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”

Vấn đề mà nhiều người chúng ta đặt ra trong tư cách là Kitô hữu, không nằm trong phạm trù suy tư lý thuyết, nhưng cụ thể và hiện sinh hơn: làm cách nào mà tôi có thể ‘yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi’,ngay trong đời sống thường ngày? Thiết tưởng, khi Đức Giêsu đến trần gian và thành lập Hội Thánh, Người không nhằm mục đích dạy một điều, cho dầu rất căn bản đi chăng nữa, nhưng đã được ghi chép quá rõ ràng trong Sách Thánh Cựu Ước. Cuộc sống dương thế của Người, và nhất là cái chết Thập Giá, chính là để trả lời cho nghi vấn cụ thể mang tính hành động trên trên, điều mà Cựu Ước chỉ mới làm cách hết sức sơ sài.

Yêu mến, tự nó, không thể bị ép buộc bởi một mệnh lệnh từ bên ngoài: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa”; tình yêu không thể được điều khiển bằng lý trí! Hơn nữa, ngay cả Đệ Nhị Luật cũng chỉ dám khuyên ‘hãy yêu mến Đức Chúa’. Khi ban hành Thập Giới, Đức Chúa Gia-vê đã trưng viện lý do: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa cứu ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Chính Thập Giới cũng không đòi ‘phải yêu mến Thiên Chúa’, mà chỉ qui định việc ‘phụng thờ Người’; vậy thì, khi xác định ‘điều răn’ này hẳn Đức Giêsu phải dựa trên một lý lẽ lớn hơn việc ‘đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ rất nhiều. Đúng thế! tình yêu chỉ có thể bị cưỡng ép bởi tình yêu; vì chỉ có tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, một khi được biểu lộ và minh chứng cách cụ thể, mới có sức trói buộc mà thôi. Đức Giêsu hiểu rất rõ điều này nên Người hằng mơ ước giờ phút Thập Giá, giờ phút mà Người gọi là ‘kairos’, tức là ‘giờ của Người’; vì chỉ trên thập giá, Người mới cống hiến được bằng chứng về một tình yêu tự hiến trọn vẹn: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Bằng cái chết tự hiến đó, Người mới có thể cuốn hút mọi người vào giao ước tình yêu song phương; “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Chỉ như thế, điều răn “phải yêu mến Đức Chúa” mới có được cái sức ràng buộc thật sự!

Nói như vậy cũng đồng thời là lời giải đáp cho một trong các vấn nạn mà từ lâu nay nhiều tín hữu, thậm chí cả tu sĩ linh mục vẫn hằng ấp ủ: ‘làm thế nào mà tôi có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng’. Nếu tình yêu không thể bị ép buộc, thì dầu nỗ lực hay cố gắng tới mấy, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể yêu mến Thiên Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ mình! Điều duy nhất cho phép tôi ‘yêu hết lòng’ là nghiệm ra tình yêu Chúa hiến mình cho tôi càng sâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, để qua đó tôi sẽ cảm thấy mình bị thúc ép, bị lôi cuốn đáp trả tình yêu này. Phải chăng đó là nội dung của Giao Ước Mới: một ký kết tình yêu giữa Thập Giá và mỗi chúng ta? Tông đồ Gio-an đã dành nhiều nỗ lực để cảm nghiệm thứ tình yêu đó trước khi viết về giới luật yêu thương. Trong lá thư 1 ngài viết. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biệu lộ như thế này… Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Phao-lô cũng nói tới một thứ tình yêu thúc bách: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi… Vì Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15).

Vậy thì, ‘Yêu Chúa hết lòng’ phải xuất phát từ chiêm ngắm và cảm nghiệm Thập Giá! Mỗi khi cử hành Thánh Lễ, tôi có thật sự thâm tín rằng: đây là giờ phút tối ưu để tôi xây dựng ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ không?

Lạy Chúa, Chúa không đòi hỏi con làm điều không thể. Khi ban điều răn ‘phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn’ thì, chính Chúa đã hết lòng hết sức yêu thương con trước; xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, là bằng chứng tình yêu thương xót và nhân ái, tình yêu ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ Chúa đã dành cho con trước. Qua con đường chiêm ngắm này, con hy vọng sẽ ngày càng có thể tiến xa hơn trên con đường yêu mến Chúa. Amen.

 

9. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

Tin mừng theo thánh Mác-cô cho thấy Đức Giêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn hết sức lực, và yêu anh em như chính mình”. Đây thực sự là giới răn đem lại hạnh phúc cho con người.

  1. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng

Từ thời Môsê, khoảng thế kỷ 13 trước Công Nguyên, dân Do Thái đã nhận lãnh giới luật yêu mến Thiên Chúa: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Anh em hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực anh em”. Đến thời Đức Giêsu, khi một ký lục hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?” Đức Giêsu đã trả lời bằng cách lập lại giới răn Môsê đã truyền cho dân Do Thái ngày xưa: “Đây là giới răn thứ nhất: hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai: hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn những điều này”.

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực- nghĩa là- đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, chọn Thiên Chúa trên tất cả, lấy Thiên Chúa là đủ cho mình và không ao ước gì ngoài Thiên Chúa. Làm sao để điều này thành hiện thực khi con người chạy theo tiền tài danh vọng? Làm sao để những người cho rằng Thiên Chúa là một từ ngữ có một tương quan tình yêu thiết thân với Ngài? Con người được mời gọi nhận biết và cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người. Điều này, không phải con người làm nhưng chính Thiên Chúa làm cho con người; Thiên Chúa đang dùng con người để giúp Ngài làm cho con người nhận ra tình yêu của Ngài đối với họ.

Đức Giêsu được sai đến để thực hiện điều này: làm sao để con người yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực. Đức Giêsu đã làm mọi cách: đã nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương con người đến độ nào, và Ngài chờ mong con người trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng luôn săn sóc con người; Ngài sẵn sàng ban tất cả cho con người, ngay cả chính Con Ngài. Lời của Thiên Chúa mang trọn vẹn ý nghĩa khi con người, cụ thể nơi các tông đồ, nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chỉ với biến cố phục sinh, con người mới nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, và rồi, con người mới biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.

  1. Con người tự do chọn lựa

Con người là hữu thể tự do. Con người được tạo dựng để thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt để nơi con người một ước vọng hướng về Ngài như nguồn chân thiện mỹ. Con người luôn được mời gọi để hướng về Ngài, chọn Ngài qua những thực tại trần gian. Chọn điều tốt, chọn điều thiện hảo, chọn yêu thương tha nhân, là chọn chính Thiên Chúa. Chọn điều tốt lành thiện hảo, chọn Thiên Chúa, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc.

Làm sao con người có thể chọn điều thiện hảo tốt lành, khi mà thân xác con người cảm thấy cần tiện nghi vật chất, cần tiền bạc để thỏa mãn những nhu cầu vật chất? Thánh I-nhã Loyola cho rằng khi người ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa và tạo vật, khi người ta bình tâm trước tạo vật và chỉ đi tìm Thiên Chúa và ý định của Ngài, thì con người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu nói với các tông đồ: “giầu có khó vào được Nước Trời; lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. Nhưng làm sao để người ta nhận ra rằng điều đó là đúng, và làm sao để người ta chọn điều người ta thấy là đúng?

Tình yêu giúp người ta nhận ra sự thật. Tình yêu sẽ đưa người ta vào chính đạo. Tình yêu sẽ giúp người ta trở về với Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tác động trên con người, trên những trung gian con người mà Ngài dùng, đồng thời trên mỗi người để khao khát tiềm ẩn nơi họ được bừng sáng, để họ nhận ra con đường đích thực giúp họ bình an hạnh phúc. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc. Những người sống trong tình yêu sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ anh em mình.

  1. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn

Con người được gì khi yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực mình? Thiên Chúa là chân thiện mỹ; nếu một người chọn Thiên Chúa, chọn chân thiện mỹ, là chọn anh em mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa, thì sẽ tôn trọng quyền lợi của tha nhân. Người chọn Thiên Chúa và tha nhân sẽ sống an bình và hạnh phúc với tha nhân. Một người chọn tiền bạc danh vọng, sẽ dùng tha nhân và ngay chính anh em như phương tiện để đạt được mục đích của mình; như vậy họ gây khổ não cho tha nhân và ngay cả anh em họ. Nếu một người chỉ chọn họ và không để ý tới quyền lợi của tha nhân, người đó không thể sống hạnh phúc với người khác.

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, là đặt thực tại trần gian vào đúng chỗ của nó. Với những người này, Thiên Chúa và ý định yêu thương của Ngài đối với con người phải là trên hết, tha nhân phải được tôn trọng; và khi sống như vậy, chính người “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu anh em như chính mình” sẽ là người sống hạnh phúc, sống an bình và thuận hòa với chính mình và với người khác xung quanh họ.

Yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu mến tha nhân như chính mình, không chỉ là lề luật phải giữ mà còn là khuôn vàng thước ngọc, giúp người ta sống an bình hạnh phúc. Với những người chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, thì phải diễn đạt điều lề luật Do Thái nói trên bằng “mỗi người phải chọn chân thiện mỹ trên tất cả, tôn trọng và yêu mến tha nhân như chính mình”. Để đạt được điều trên, mỗi người cần ơn trên soi sáng và giúp đỡ; và trong mức độ con người, Thiên Chúa vẫn cần những con người cộng tác với Ngài để giúp con người hôm nay ý thức và sống lề luật này. Thiên Chúa cần những người mẫu cho con người hôm nay.

 

10. Một cuộc tranh cãi hữu nghị – Maurice Brouard.

Bối cảnh.

Sau cuộc rước vào thành Giêrusalem, thánh Maccô kể lại một loạt những cuộc tranh luận về uy quyền của Chúa Giêsu. Giữa những tranh luận này có một cuộc đối thoại xây dựng về giới răn thứ nhất.

Mở đầu.

Vài năm trước đây, trên truyền hình người ta đã nghe một cuộc đối thoại hữu ích giữa một nhà tư tưởng Mácxít xuất sắc và một đại thần học gia Công giáo. Các khán giả rất thích thú về cuộc thảo luận có tính soi sáng và trấn an này. Cuộc tranh luận của ký lục với Thầy Giêsu đối với chúng ta cũng như thế: Hai bậc Thầy tôn trọng nhau, ngợi khen nhau. Hôm nay chúng ta dừng lại trước hết ở câu trả lời của Chúa Giêsu.

  1. Một cuộc tranh luận luôn luôn có tính thời sự.

Các nhà thần học thời đó thích bàn cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trích từ Thánh Kinh, lối 248 giới luật tích cực và 365 giới luật tiêu cực, đâu là những giới luật quan trọng nhất hồi đó. Ngày nay chúng ta cũng cảm thấy cần những quy chiếu giúp hướng chúng ta về điều chính yếu. Vậy điều gì quan trọng nhất?

  1. Mến Chúa vì Ngài là Chúa “duy nhất”.

Trả lời câu hỏi của người ký lục: Giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do Thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi…” Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do Thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy… “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất… Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.

Đây là ý chính trong kinh Tin Kính của người Do Thái. Thiên Chúa đã chọn họ. Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất, đã mạc khải cho họ thánh danh của Ngài, đã ban cho họ lời hứa của Ngài. Nếu Thiên Chúa đã chiều chuộng họ đến thế, thì đáp lại Ngài rất xứng đáng được họ kính yêu. Như một người chồng là “duy nhất”, bởi vì không có người nào đẹp hơn, duyên dáng hơn, thông minh hơn… Thiên Chúa vẫn là “duy nhất” đối với dân Ngài.

Đối với chúng ta, những Kitô hữu, lý do khiến chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do Thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.

Thiên Chúa là Chúa duy nhất, không những vì chỉ có mình Ngài mà thôi, nhưng bởi vì Ngài là Đấng duy nhất thương yêu chúng ta bằng một lòng trìu mến vô biên.

  1. Thương yêu đồng loại như chính mình.

Phần thứ nhì trong câu trả lời của Chúa Giêsu đã khá quen thuộc với chúng ta: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”. Ta biết rằng Chúa Giêsu còn đi xa hơn giới luật của Cựu Ước nữa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Câu hỏi.

Đối với tôi Thiên Chúa có phải là Đấng duy nhất, có thể huy động tất cả những khả năng yêu thương, thông cảm, sống và hành động của tôi không? Trung tâm đời tôi là gì: Tôi, hay Thiên Chúa và tha nhân?

Lời Chúa và Thánh Thể.

Nếu tình yêu là động lực của đời chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi tham dự hy lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã vì yêu mà hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa và loài người. Lúc đó Thánh lễ sẽ trở thành đỉnh cao của cuộc đời chúng ta.

 

11. “Tôi không biết điều tôi không thể”.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).

Khi tổng thống Harding chết vào mùa hè 1923, phó tổng thống Calvin Coolidge, đang giúp cho cha ông ở nông trại tại Verment, cha của ông là một công chứng ở tòa án. Lúc vẫn còn ở nông trại ông đã chứng nhận lời tuyên thệ nhậm chức tổng thống cho con ông. Một người nào đó sau đó đã hỏi ông: “Ông có biết là ông đã chứng nhận lời thề tổng thống cho con ông không?”. Ông trả lời: “Tôi không biết điều tôi không thể”.

Một câu trả lời ngắn gọn đầy ấn tượng của Coolidges, đã diễn tả cảm tính của nhiều người mà chúng ta chia sẻ. Chúng ta muốn sự tự do. Chúng ta muốn tin rằng bất cứ những gì không bị cấm thì được phép. Có lẽ với sự ngạc nhiên của chúng ta là Chúa Giêsu cũng cảm thấy như thế, Người yêu thích sự tự do.

Câu hỏi và luật sĩ đã đặt cho Chúa Giêsu thì không phải là vô bổ: “Điều gì là quan trọng nhất trong các Lề Luật”. Dĩ nhiên ông ta đã suy nghĩ về những điều luật được tìm thấy trong Cựu Ước. Theo những thầy Rabbi giải thích luật đã quyết định rằng nó có 613 khoản luật, 248 khoản tích cực và 165 khoản tiêu cực. Vị luật sĩ đã chân thành khi ông hỏi: “Điều nào là điều quan trọng nhất”. Bởi điều mà ông ta muốn nói, điều luật nào là điều luật lớn nhất? Chúa Giêsu đã trả lời không do dự, Ngài lập tức trích dẫn sách Đệ nhị luật, bài đọc I mà chúng ta đọc trong ngày chúa nhật hôm nay: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”.

Chúa Giêsu đã không hề bối rối trước 613 khoản luật của các thầy Rabbi. Chỉ trong một khoảnh khắc, Ngài đã dạy rằng tất cả Lề Luật tóm tắt trong một điều luật lớn nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu đã không dừng lại ở đây, mặc dù câu hỏi là: “Điều luật nào trọng nhất?”. Thay vì chỉ có một câu trả lời, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm câu thứ hai: “Ngươi sẽ yêu mến tha nhân như chính mình”, luật này không phải Người trích từ sách Đệ nhị luật nhưng là từ sách Lêvi.

Chúng ta có thể cũng hỏi Chúa Giêsu: “Có một điều luật lớn nhất hay là hai?” Chúa Giêsu trả lời: “Chỉ có một điều luật duy nhất, bởi vì các con không thể yêu Thiên Chúa thật nếu các con không yêu mến anh em và các con không thể yêu mến anh em nếu các con không yêu mến Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã vươn ra khỏi sách Đệ nhị luật để đến với sách Lêvi và nối kết hai điều luật riêng biệt thành một.

Một số người Công giáo đã phàn nàn về những cáo thị của Công Đồng Vatican II nói về tình yêu tương quan. Họ muốn chúng ta đi trở lại với cung cách cũ, nhấn mạnh đến những điều luật và những quy tắc. Họ có một quan điểm. Chúng ta không hề coi nhẹ những Lề Luật trong Thánh Kinh và những quy tắc khác của Giáo Hội. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu không hề giảm nhẹ hay coi thường những Lề Luật của Cựu Ước. Ngài không hề nói chúng vô ích. Nhưng Người đã tiếp tục duy trì và tóm kết tất cả trong một Lề Luật của tình yêu. Thông thường dễ dàng hơn khi theo một Lề Luật, đó là yêu mến Thiên Chúa cách hoàn toàn và yêu mến tha nhân như chính mình. Tình yêu giải thoát chúng ta khỏi tính tự mãn, điều đó là nền tảng của mọi tội lỗi. Sự tự do thất không cho chúng ta làm những gì chúng ta muốn. Đó là sự tự do làm những gì mà chúng ta phải làm để yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân.

Theo truyền thuyết khi thánh Gioan đã già, ngài luôn luôn nhắc đi nhắc lại trong bài giảng của mình: “Hãy yêu mến Thiên Chúa, hãy yêu mến anh em của mình”. Khi một số môn đồ của ngài cảm thấy bực bội bởi ngài cứ nhắc đi nhắc lại điều duy nhất, đã hỏi ngài tại sao nhấn mạnh cùng một sứ điệp tình yêu như thế. Ngài trả lời: “Bởi vì nếu chúng ta tuân giữ nó thì điều đó đã đủ rồi”.

 

12. Điều răn trọng nhất

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

  1. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Từ hồi học giáo lý Rước Lễ Vỡ Lòng, chúng ta đã thuộc lòng câu “10 điều răn ấy tóm về hai điều này mà thôi, trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, Amen”. Tuy nhiên chúng ta đã không thực hiện đúng như điều ta đã thuộc: một mặt, chúng ta không ý thức rằng yêu thương là điều quan trọng nhất trong cuộc sống ; mặt khác, chúng ta cố gắng mến Chúa nhưng chưa cố gắng yêu người cho đủ.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta thực hành hai điều răn quan trọng ấy một cách trọn vẹn hơn.

  1. GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúng con chưa thực sự kính mến Chúa trên hết mọi sự.

– Chúng con lỗi phạm rất nhiều về điều răn yêu thương anh em.

– Rất nhiều lần chúng con hành động vì bị thúc đẩy bởi lòng giận ghét.

III. LỜI CHÚA

  1. Bài đọc I (Đnl 6,2-6)

Ông Môsê nhấn mạnh cho dân do thái thấy tầm quan trọng của điều răn kính mến Chúa bằng những chữ “hết” được lặp đi lặp lại nhiều lần: “Hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em”.

Trải qua bao thế hệ, người do thái đã cố gắng tuân giữ điều răn ấy. Tuy nhiên giáo huấn của Cựu Ước còn thiếu sót vì chỉ nhấn mạnh đến việc kính mến Chúa mà không quan tâm đủ đến việc yêu thương tha nhân.

Điều thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc.

  1. Đáp ca (Tv 130)

Thánh vịnh này là bài ca bày tỏ một tấm lòng yêu mến Chúa thiết tha.

  1. Tin Mừng (Mc 12,28b-34)
  2. Các luật sĩ tấn công Đức Giêsu: “Trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất?”. Đối với họ, đây là một câu hỏi hóc búa, vì Cựu Ước ghi lại rất nhiều giới luật nhưng không cho biết giới luật nào trọng hơn giới luật nào. Nguyên việc thuộc hết các giới luật đã là một chuyện rất khó, huống chi đánh giá và so sánh các luật đó.
  3. Nhưng Đức Giêsu trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: 2 giới luật trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình.
  4. Bài đọc II (Dt 7,23-28) (Chủ đề phụ)

Tác giả thư do thái so sánh chức Thượng tế trong đạo do thái với chức Thượng tế của Đức Giêsu: (1) Chức thượng tế do thái chỉ có một đời người, khi chết rồi thì mất ; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu là chức Thượng tế đời đời, tồn tại mãi mãi ; (2) Các thượng tế do thái cũng là người phàm với những tội lỗi ; còn Đức Giêsu là vị Thượng tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội ; (3) Các thượng tế do thái phải dâng lễ đền tội nhiều lần ; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.

  1. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Giới luật yêu thương, điểm độc đáo

Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của Đạo Công Giáo là gì?”. Giáo lý viên đáp: “là Yêu Thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên. Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau ; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương ; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra 2 kết luận hết sức bất ngờ: 1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn không có đạo ; 2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí!

Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao? Chúng ta phải tìm hiểu kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay mới được.

  1. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay là do thánh Marcô chép. Marcô thì quen chép ngắn gọn, nên đôi khi không đủ ý. Muốn đầy đủ hơn, chúng ta phải đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu, cũng chép về câu chuyện này, nhưng đầy đủ hơn. Theo bản chép của thánh Matthêu, để trả lời cho câu hỏi của một người luật sĩ xem điều luật nào trọng nhất, thì CG sau khi đưa ra luật mến Chúa, đã nói “Còn điều thứ hai cũng giống như điều trước” và CG đưa ra luật yêu người. Nghĩa là Đức Giêsu đã xếp luật Yêu thương người nặng với luật mến Chúa. Nói cách khác, CG đã nâng luật yêu người lên cao bằng luật mến Chúa.

Phía trên đã nói rằng mọi người, không phân biệt là có đạo hay không có đạo, đều trân trọng tình cảm yêu thương. Tuy nhiên tình thương của người ta có nhiều cấp bực khác nhau: thương một người bạn thì không bằng thương anh em ruột, thương anh em cũng không bằng thương cha mẹ, và thương ai cũng không thể nào bằng thương người tình của mình. Đối với một người có đạo, thì họ nghĩ phải thương yêu Chúa trên hết, kế đó mới là tình thương đối với những người khác. Còn CG thì dạy phải đặt tình thương người và tình thương Chúa ngang nhau. Nghĩa là ta thương Chúa bao nhiêu thì cũng phải thương người bấy nhiêu. Nói cách khác, ta phải coi người ta như Chúa vậy, và phải thương người ta như thương Chúa vậy. Đó chính là điểm độc đáo thứ nhất của Tình Thương Công Giáo.

2/ Nhưng thương người là thương ai? Về điểm này, chúng ta lại đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Luca để bổ túc cho đoạn của thánh Marcô quá ngắn gọn. Thánh Luca chép thêm rằng người luật sĩ ấy sau khi nghe CG nói về luật thương người, thì hỏi một câu tương tự như câu hỏi tôi vừa đặt ra: Nhưng thương người là thương ai? CG đưa ra dụ ngôn về người xứ Samaria tốt bụng đã tốn công tốn tiến cứu giúp một người Do thái, tức là một kẻ thù của dân Samaria. Ý nghĩa dụ ngôn ấy là: ta phải coi mọi người là người thân, do đó phải biết thương tất cả mọi người, cho dù đó là một người chưa hề quen biết, cho dù đó là một kẻ thù của chúng ta.

Thiết tưởng cũng cần giải thích về bối cảnh của đoạn Tin Mừng này. Người Do thái cũng có luật thương người, luật ghi rõ phải thương người thân cận. Theo lối hiểu của người Do thái, thì người thân cận tức là người cũng dân tộc, cùng tín ngưỡng với mình. Còn những kẻ thuộc dân khác, thuộc đạo khác thì không phải là người thân cận nên không buộc phải thương. Bấy giờ CG qua dụ ngôn về người Samaria đã thương yêu giúp đỡ một người Do thái khác dân tộc và khác tín ngưỡng, đã phá bỏ hàng rào ấy. Theo CG, tình yêu thương không có biên giới. Ta phải thương yêu mọi người, phải coi mọi người đều là kẻ thân cận. Nói cách khác đi, ta không chỉ thương người đồng bào, đồng đạo, đồng chí mà phải thương bất cứ ai ta gặp trên đường đời, bất cứ ai đứng bên cạnh ta trong cuộc đời, ta đều phải thương hết. Người ta thường vẽ ranh giới cho tình thương, người ta thường đặt hàng rào cho tình thương: ai ở trong ranh giới và trong hàng rào đó thì thương hết là thương, còn ai ở ngoài thì là người dưng, người lạ khỏi thèm thương. Đức Giêsu khi phá bỏ mọi hàng rào, mọi biên giới, tức là thêm một điểm độc đáo nữa cho Tình Yêu thương Công giáo.

3/ Và điểm độc đáo thứ ba, chúng ta thấy ngay trong đoạn văn của Thánh Marcô. “Yêu thương người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúng ta hãy chú ý đến hai chữ Hơn Là. Cho người nghèo một lon gạo, và dâng cho Chúa một bó bông huệ. Việc nào quý hơn. Nếu chưa đọc câu Tin Mừng này, chắc hẳn ai cũng bảo dâng bông huệ cho Chúa là quý hơn. Nhưng câu Tin Mừng này đánh giá ngược lại: cho người nghèo một lon gạo quý hơn. Đó là điểm độc đáo thứ 3 của Tình thương Công giáo.

Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người Giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng Tình yêu Thương của Đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả của người không có đạo. Lý do có lẽ là vì Giáo lý viên ấy không thấy 3 điểm độc đáo của Tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện 3 điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện 3 điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo. Xin nói rõ hơn để tóm lại và cũng là để kết thúc:

. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.

. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.

. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quý hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến Nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.

* 2. Hai giới răn đi đôi

Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa Mecca vì đây là nơi sinh của đức giáo chủ Mahomet.

Ngày xưa Vua các loài mèo cũng đi hành hương thánh địa Mecca. Khi ngài trở về, vị vua các loài chuột nghĩ rằng mình có bổn phận phải đến chúc mừng. Tuy nhiên các bề tôi chuột ái ngại cho tính mạng của vua mình. Họ tâu: “Mèo là kẻ thù của chúng ta. Không thể tin cậy được”. Nhưng vua chuột đáp: “Ông ta đã đi hành hương thánh địa, cho nên chắc là tâm tính của ông đã thay đổi”.

Thế là vua chuột tìm đến hoàng cung của vua mèo. Mới tới cửa thì vua chuột đã thấy vua mèo đang nằm mọp cầu kinh rất là sốt sắng. Vua mèo thấy an tâm, tiến vào gần hơn chút nữa. Đột nhiên vua mèo chồm lên định vồ lấy vua chuột. Rất may là nhờ nhanh hơn nên vua chuột kịp phóng ra ngoài thoát thân.

Khi vua chuột trở về nhà, các bề tôi hỏi: “Phải chăng là sau khi hành hương thánh địa trở về, vua mèo đã thay tâm đổi tính?” Nhưng vua chuột đáp: “Các ngươi đã đoán đúng, còn ta thì sai”.

Câu chuyện tưởng tượng trên muốn giúp ta thấy rằng thật là nguy hiểm nếu tách riêng hai giới răn mến Chúa và yêu người.

Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Một tôn giáo chỉ lo yêu Chúa mà không biết yêu người là một tôn giáo không hợp ý Chúa và không phải là tôn giáo thật.

Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu

Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu

Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài

Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi

Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba. (Viết theo Flor McCarthy)

* 3. Mến Chúa yêu người (Mc 12,28B-34)

Trong báo Los Angeles ngày 13-13-1997 có đăng lá thư của một độc giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký giả Ann Landers – người phụ trách mục “Giải đáp thắc mắc” như sau:

Bà Ann thân mến

…Ba tôi đi làm sáu ngày một tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy, cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không bộc lộ tình cảm hay nói những lời thương mến với chúng tôi.

Cuộc đời tôi đã thay đổi khi tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi. Tôi quá cảm động vì hành vi yêu thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi nghĩ: “Đây mới thực là cách lẽ ra ba mẹ phải làm cho mình”. Khi về nhà, tôi đã giận ba mẹ một thời gian. Nhưng vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn có của họ.

Đây là điều tôi đã làm để thay đổi tình hình: Tôi bắt đầu hôn mẹ tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng. Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện thoại, tôi nói: “Mẹ ơi! Con thương Mẹ!” Sau một thời gian, cuối cùng mẹ tôi cũng đã nói được với tôi: “Mẹ cũng rất thương con”. Tôi chưa được nghe như thế bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm mẹ, bà hỏi tôi: “Những cái hôn của mẹ đâu?” Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo: “Mẹ thương con. Con biết mà phải không?”

****

Đạo Do thái dựa trên 10 điều răn. Nhưng qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?” Người đáp: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Vậy Đức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”. Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga.4,20).

Vậy bắt đầu yêu thương từ đâu? – Trước tiên, hãy yêu thương những người trong gia đình mình, những người gần gũi thân thiết nhất trong trái tim ta. Không yêu được các thành viên trong gia đình, chúng ta không thể yêu thương người khác. Không yêu thương người khác, chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa.

Người đàn bà ở Sun City bằng những lời nói yêu thương, những cử chỉ âu yếm, những đón tiếp chân thành đã mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người thân yêu trong gia đình. Từ đó, như vết dấu loang tình yêu lan tỏa ra bên ngoài. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Hãy tử tế khi còn gần nhau để sau này khỏi hối hận khi đã xa nhau”.

Cũng thế với những lời nói yêu thương, những nghĩa cử chân thành, chúng ta sẽ làm tươi mát biết bao cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự hạn hẹp của tình yêu con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau. Thánh Augustinô mô tả: “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân”. Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Rosalie còn khẳng định: “Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.

****

Lạy Chúa, để gặp gỡ tha nhân chúng con phải mở to đôi mắt, để đón tiếp tha nhân chúng con phải dọn dẹp cho trống trải lòng mình, để yêu thương anh em chúng con phải biết quên mình.

Xin cho chúng con luôn xác tín: Chúng con chỉ kính mến Chúa khi thực sự yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

* 4. Thứ tội phạm nhiều nhất

Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.

Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: “Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm?” Anh đáp lại: “Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó”

Một nguy hiểm lớn cho những tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần.

Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót ; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người cùng sống chung với mình v.v. Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau.

Đức Giêsu nói với người kinh sư “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Ông đã biết liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một, đó là một bước. Ông chỉ cần bước thêm bước thứ hai nữa là vào được Nước Thiên Chúa, bước đó là thực hành điều ông biết. (Viết theo Flor McCarthy)

* 5. Các bậc thang yêu thương

Maimonides là một thầy giáo người do thái rất nổi tiếng ở Tây ban nha trong thế kỷ 20. Ông đã liệt kê 8 bậc thang yêu thương như sau:

. Bậc thứ nhất và cũng thấp nhất là cho, nhưng cho một cách miễn cưỡng.

. Bậc thứ hai là cho cách vui vẻ, nhưng không tương xứng với nhu cầu của người nhận.

. Bậc thứ ba là cho vui vẻ và tương xứng với nhu cầu người nhận, nhưng đợi người ta xin mới cho.

. Bậc thứ tư cho vui vẻ, tương xứng và không chờ người ta xin.

. Bậc thứ năm là cho một cách nào đó khiến người-nhận nhận được của cho đồng thời biết được người-cho, nhưng người-cho không biết người-nhận.

. Bậc thứ sáu là người-cho biết người-nhận nhưng người-nhận không biết người-cho.

. Bậc thứ bảy là cho, nhưng cả người-cho và người-nhận đều không biết nhau.

. Bậc thứ tám cao nhất, là thấy trước nhu cầu người-nhận nên cho để người-nhận khỏi rơi vào cảnh nghèo khổ.

* 6. Chuyện minh họa

Một người nghèo kia đi từ nhà này sang nhà khác để ăn xin. Nhưng chẳng ai cho ông một đồng hay một mụn bánh, trái lại ông còn nhận được rất nhiều lời xua đuổi, thậm chí chửi rửa.

Một ngày mùa đông, ông bị trượt té gãy chân. Có người đi ngang thấy thế đưa ông vào bệnh viện. Khi dân chúng hay tin có người nghèo bị té gãy chân và đang phải nằm bệnh viện, họ kéo đến rất đông, họ an ủi ông, họ đem thức ăn đến cho ông. Khi ông rời bệnh viện, họ còn cho ông những quấn áo ấm và cả một số tiền nữa.

Trở về nhà, người ấy nói với vợ: “Ngợi khen Chúa vì đã làm một phép lạ là cho tôi được gãy chân!”

Sớm giúp cho người ta khỏi té còn tốt hơn là khi người ta té rồi mới giúp.

  1. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy rằng: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình ; không có giới răn nào khác quan trọng hơn hai giới răn này. Chúa cùng cầu xin Chúa giúp chúng ta hiểu và sống đúng lời dạy của Chúa:

  1. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn thực thi đúng lời Chúa dạy / để chứng minh cho mọi người hiểu rằng: người công giáo mến Chúa là để yêu người / và yêu người là để chứng tỏ lòng mến Chúa.
  2. Xin cho mọi nhà cầm quyền trong xã hội hiểu biết rằng / lòng mến Chúa của người Công giáo không gây thiệt hại gì cho tình yêu đồng loại / trái lại còn giúp họ yêu thương đồng bào trọn hảo hơn.
  3. Xin cho mọi người đang thiếu tình thương, thiếu sức khỏe, không có công ăn việc làm / gặp được những người thật tình giúp đỡ vì lòng mến Chúa và vì lòng yêu thương họ.
  4. Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / biết bày tỏ lòng mến Chúa yêu người một cách thành thật và cụ thể / để loại trừ thói giữ đạo bề ngoài và giả hình.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con sau khi được bồi dưỡng lòng mến Chúa yêu người nhờ Thánh lễ, biết thực thi lòng mến Chúa yêu người đó với mọi người chung quanh trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.

  1. TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha đến câu “Và tha nợ chúng con”, chúng ta hãy chú ý đến phần kế tiếp “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

VII. GIẢI TÁN

Hai điều răn quan trọng nhất và đi đôi với nhau là mến Chúa và yêu người. Trong Thánh lễ, chúng ta đã bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Trở về với môi trường sống hằng ngày, chúng ta hãy thể hiện đức yêu người.

 

13. Chúng ta có hướng về tâm điểm không?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Vẻ độc đáo của Kinh Thánh là do ở điều này: Kinh thánh mạc khải thánh ý Thiên Chúa muốn làm cho con người trở nên như thể một người bạn ‘đôi lứa’ trong một liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, một liên hệ yêu thương mà nhân loại thụ tạo chúng ta sự sống, Người khai triển trong con người 1 khả năng nhận biết, nghênh tiếp và đáp ứng Thiên Chúa, khả năng này thần hóa con người. Cựu Ước từng công bố nhu cầu cấp thiết phải kính mến Thiên Chúa, một nhu cầu đưa đến hệ quả: phải yêu mến tha nhân. Do đó Cựu Ước chuẩn bị cho một mạc khải viên mãn mà Tân Ước đem đến cho nhân loại. Một luật sĩ chất vấn Chúa Giêsu. Hai bên đối đáp, đi tới chỗ ông phải đọc lên giới luật thứ nhất, và Chúa nói: Ông không xa nước Thiên Chúa đâu. Câu nói ngắn đó là chìa khóa để hiểu đoạn Phúc Âm hôm nay.

Thật vậy, Chúa loan báo rằng Nước Thiên Chúa được bao thế kỷ lịch sử Israel chuẩn bị cho người ta nghênh đón nay đã tới. Nước Thiên Chúa tới như thế nào? Tới trong con người Chúa Giêsu. Nói rằng luật sĩ không xa Nước Thiên Chúa, tức là nói rằng ông không xa bao nhiêu giây phút ông sẽ tân đồng, sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Đức Kitô làm cho sự mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa được đầy đủ, và Người đến với thế gian trong tư thế đó. Con người có một nhu cầu cấp thiết cho nhân loại và nhân loại được chuẩn bị nghênh đón Đức Kitô. Nếu ta thắc mắc: ‘Làm thế nào để đem giới luật kính mến Thiên Chúa vào cuộc đời chúng ta? Trường hợp đó ta phải chia câu hỏi trên thành hai câu hỏi khác: ‘Nghênh đón Đức Kitô thế nào, và trả lời Người thế nào?’

1) Nghênh đón Đức Kitô thế nào? Nghênh đón Người bằng niềm tin vào Người, tin vào sứ điệp của Người. Niềm tin ấy không dễ gì có được, mà phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Tại sao khó có được niềm tin ấy? Bởi vì nếu ta nhân định về chỗ đứng nhỏ mọn của mình trong vũ trụ; nếu ta ngó vào bản ngã mình mà chỉ thấy một thứ gì mong manh, chóng qua đi, nếu ta trông thấy đại dương mênh mông khổ ải và chết chóc, tất nhiên ta khó chấp nhận rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương từng cá nhân trong một đám chúng sinh. Vậy mà Đức Giêsu là Thiên Chúa, Người thương yêu chúng ta bằng một tình yêu hiện diện trong mỗi người. Người thân mật âu yếm gọi tên từng người. Chỉ có hành vi tin mới giúp ta nghênh tiếp Chúa Giêsu thân thiết ngự đến trong chúng ta.

2) Trả lời Chúa thế nào? Bằng cách chấp nhận để Chúa chiếm lấy chỗ của Người trong ý thức tôn giáo của ta: một cuộc điều tra của tổ chức SOFRES năm 1972 phát hiện rằng trong số 84 người Pháp tự nhận là công giáo, chỉ có 41 người tin rằng ngày nay Chúa Giêsu đang sống động. Người ta tự hỏi có gì trong một ý thứ Kitô hữu vắng bóng Đức Kitô sống động. Tình yêu theo Phúc Âm và thiếu nguồn mạch sống động sẽ biến thành gì? Điều cần thiết phải có, nếu thiếu sẽ mắc họa chết về phần hồn, là trong linh hồn, trong trí tuệ, trong trái tim chúng ta, chúng ta phải để Chúa Giêsu Kitô ngự ở tâm điểm. Bằng cách nào? Chúng ta chớ nên lấy làm thỏa mãn vì ta ấp ủ lý tưởng Phúc Âm, vì ta thuộc về Giáo Hội. Hễ là Kitô hữu, thì phải ý thức rằng một Đấng mời mọc chúng ta hãy liên hệ mật thiết với Người. Liên hệ đó là Thiên Chúa, Đấng vô biên, tự hiến cho con người qua Đức Kitô – và qua Đức Kitô, con người tự hiến cho Thiên Chúa.

 

14. Một tình yêu duy nhất.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Không dễ gì tìm được trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện chí như trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.

Luật sĩ đã tỏ ra đồng ý với Chúa Giêsu. Chính ông cũng đã lập lại: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ”.

Thưa anh chị em,

Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v… Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.

Yêu Chúa không hệ tại tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực, nếu không phát xuất từ tâm tình thâm sâu bên trong.

Yêu người cũng không phải là “cho của dư thừa”, cũng không chỉ là “cho cái mình có”, mà là trao thân hiến mạng cho kẻ khác, là chấp nhận bị tước đoạt, là xác tín rằng nơi con người có cái gì đó của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu, xứng đáng được phục vụ và yêu thương đến cùng.

Vì vậy, tình yêu Chúa phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích của nó. Hơn nữa, chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài. Ngay trong tình yêu vợ chồng, nếu không được nuôi dưỡng bằng tình yêu mến Chúa, một tình yêu quên mình, tha thứ, hy sinh, phục vụ người mình yêu, thì tình yêu vợ chồng cũng sớm phai nhạt và có nguy cơ tan rã… chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó với Ngài, chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân.

Thưa anh chị em,

Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ. Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân…

Cuối cùng, người Kitô hữu không yêu bằng lời nói, bằng môi mép, nhưng bằng hành động cụ thể. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong người ấy được?” (Ga 3, 17// Gc 14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác. Như Chúa Giêsu đã thí mạng cho nhân loại, người Kitô hữu cũng phải là những người dấn thân xây dựng công lý và hoà bình, để hết thảy, dù xa hay gần, đều đạt đến hạnh phúc Nước Trời.

Đối với chúng ta, yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan còn nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 3,16; 4,11).

“Đây là lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4, 20-21).

Nhìn ngắm Chúa Kitô trên thập giá và nhất là được hiệp thông với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cầu xin được thêm lòng yêu mến Cha trên trời và yêu thương anh em đồng loại như Ngài đã yêu thương chúng ta.

 

15. Lề luật bóp chết con tim

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ để người ta thống trị người khác. Lề luật bị lạm dụng đến nỗi không còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà nhằm bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lề luật không đưa đến sự an bình, hạnh phúc cho con người nhưng trở thành một gánh nặng, một nỗi sợ hãi cho số đông thấp cổ bé miệng.

Nhân danh lề luật họ răn đe người này, khủng bố người kia. Họ nhân danh Chúa để bôi nhọ người này, rêu rao lỗi lầm người kia. Điều tệ hại nhất là họ có thể nhân danh Chúa, nhân danh lề luật để loại trừ người khác. Cụ thể là những người bị coi là ô uế đều bị loại trừ thẳng tay như: người bệnh phong cùi, người phụ nữ ngoại tình, người vi phạm luật của Chúa mà theo luật đã trở nên ô uế thì đều bị loại ra khỏi sinh hoạt cộng động.

Họ cũng có thể nhân danh Chúa để ném đá, để đóng đinh kẻ đi ngược lại với quan điểm của mình. Lề luật trở thành phương tiện để họ lợi dụng, để họ vu khống, để họ hãm hại người khác. Đã có rất nhiều cái chết oan uổng chỉ vì ý đồ cá nhân. Đã có quá nhiều cái chết cay nghiệt của những người công chính bị hàm oan.

Điều đáng buồn là những người nhân danh lề luật để hãm hại người khác nhưng họ không hề tỏ lòng hối tiếc về hành vi gian ác của mình. Lương tâm họ đã bị lề luật trói buột. Trái tim họ đã bị lề luật làm tê cứng. Lề luật đáng lý giúp cho lương tâm trong sáng và trái tim nhân bản hơn, thế nhưng, vì quá chú trọng lề luật nên họ đã đánh mất đi trái tim yêu thương của con người chỉ còn lại những mưu mô xảo trá.

Cách đây ít năm Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.

Lương tâm của Gilgal Zamir đã bị lề luật làm cho trai cứng. Trái tim của anh đã bị băng giá bởi lề luật mà anh đã được giáo dục. Anh mến Chúa. Anh trung thành với lề luật nhưng anh không được giáo dục để có một trái tim yêu thương. Những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng hành xử như vậy. Họ nhân danh lề luật. Họ nhân danh Giavê Thiên Chúa để áp đặt và thống trị người khác. Chính họ đã làm cho lề luật trở thành gánh nặng cho dân.

Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Con người sống với Chúa và sống với tha nhân là nhờ tình yêu và cho tình yêu. Con người được sống nhờ tình yêu của Chúa nên con người cũng phải biết sống cho tình yêu một cách trọn vẹn: yêu Chúa hết mình và yêu tha nhân như chính mình.

Người Việt Nam thường có câu “sống có lý có tình”. Nếu cuộc sống chung chỉ có lý mà không có tình thì cuộc sống chung đó là một hoả ngục. Người ta chỉ rình mò kết án lẫn nhau. Người ta chỉ dựa theo lý để hành xử sẽ dẫn đến cảnh cá lớn, nuốt cá bé. Cuộc đời sẽ trở thành bãi chiến trường mà kẻ mạnh làm chúa, kẻ yếu làm tôi. Nếu cuộc sống chung chỉ dựa theo lý sẽ dẫn đến sa mạc hoá tình người. Người ta sẽ nại vào lý do này, nại vào lý do kia để từ chối giúp đỡ anh em của mình. Sống phải có tình mới có thể “chín bỏ làm mười”. Sống phải có tình có lý người ta mới quan tâm giúp đỡ nhau, người ta mới sống chân thành và cởi mở, chia sẻ với nhau đến độ “một con người đau cả tàu bỏ cỏ”.

Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi của cuộc sống đó là: con người có hồn có xác. Con người cần phải có tương quan và bổn phận với Chúa và tha nhân. Mến Chúa phải yêu tha nhân. Mến Chúa mà không yêu tha nhân điều đó hợp lý nhưng không hợp tình. Hợp lý vì con người là thụ tạo của Chúa thì phải thờ phượng và kính mến Chúa. Nhưng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên phải yêu mến tha nhân. Ngược lại yêu mến tha nhân mà không kính mến Chúa là vô ơn bất hiếu. Vì sự sống là của Chúa, những gì chúng ta làm được cho tha nhân đều xuất phát từ ân huệ của Chúa nên con người phải thờ phương kính mến Chúa. Yêu mến Chúa phải yêu hình ảnh của Chúa. Vì thế mà thánh Gioan bảo rằng: “ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến tha nhân đó là kẻ nói dối:.

Ước gì mỗi người chúng ta không chỉ yêu Chúa trên môi miệng mà yêu Chúa thật lòng, biết dành thời giờ phụng thờ Chúa và biết dùng khả năng để phục vụ hình ảnh Chúa nơi tha nhân. Amen.

 

16. Sống Mến Chúa và Yêu Người đi đôi

Thiên Chúa là tình thương. Ngài đã yêu thương đến cùng. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin theo Chúa. Vì thế, mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu ở trần gian mà chúng ta lãnh nhận và thực thi.

Chúa Giêsu đã sát nhập cả hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất, mến Chúa thì yêu người và yêu người thì mến Chúa. Tình yêu thương tha nhân phải được thể hiện qua sự quan tâm, yêu thương, qua những hành động cụ thể như cho kẻ đói ăn, khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó những vết thương cho những người không quen biết. Tình thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù nhỏ mọn.

Theo Chúa Giêsu thì còn lớn hơn những nghi lễ, những lễ vật mà người ta muốn dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Những cử chỉ của tình yêu thương có thể thay thế mọi nghi lễ. Như thế,

Yêu mến Chúa không hệ tại việc tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực nếu không phát xuất từ tâm tình sâu thẳm bên trong.

Yêu thương con người cũng không phải là cho của dư thừa, cho cái mình có mà là trao ban tình thương mà Thiên Chúa muốn. Vì thế, tình yêu phải là động lực, là điều kiện để chúng ta yêu người. Tình yêu bao giờ cũng phát xuất từ Thiên Chúa và đi đến tha nhân… Tuy nhiên chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, gắn bó với Ngài thì chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân đúng nghĩa nhất.

Giới luật yêu thương mà Chúa muốn các môn đệ và tất cả chúng ta thi hành giúp cải thiện mối tương quan nhân loại và là nền tảng xây dựng mối hoà bình hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa. Yêu thương người đồng loại không chỉ yêu thương kẻ sống chung quanh với mình, thích hợp với mình nhưng là một bước tiến tới với những người khác, những người có thể ở xa, có thể không phải là thân bằng quyến thuộc của mình. Bác ái vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có sự yêu thương triệt để và tích cực. Một tình yêu chân thật dẫn chúng ta dành hết khả năng của mình để phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu.

Vì thế, trong năm sống đức tin, đây là cơ hội để mỗi người Kitô hữu chúng ta rà soát lại lối sống đức tin của mình, can đảm tuyên xưng đức tin bằng đời sống mến Chúa và yêu người chưa?. Chúng ta cần xác tín rằng: yêu thương tha nhân là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan đã nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hãy yêu thương nhau” (1Ga 3, 16; 4, 11). Tóm lại, chúng ta hãy sống đức tin bằng tâm tình của Giáo Hội theo ý muốn của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương như chính Lời Chúa mời gọi. Chúng con phải yêu thương hết mọi người. Lòng yêu thương này bắt nguồn từ lòng yêu mến Thiên Chúa. Amen.

 

17. Suy niệm của Lm Gioan M Nguyễn Đức Hùng, CRM

GIỚI RĂN MỚI SIÊU THĂNG

VÀ HOÀN HẢO HÓA GIỚI RĂN CŨ

Từ trước tới nay tôi nghe và đọc nhiều bài giảng nói khá hay về giới răn cũ, nhưng lại thấy rất ít ai đề cập và đào sâu hơn một chút về giới răn mới, giới răn yêu thương của Chúa Giêsu, và điều đó làm tôi ngạc nhiên không ít.

Thưa các bạn,

Phải thú thực là yêu thương người khác được như chính mình như giới răn Chúa đòi dân Do Thái thời Cựu ước, thì cũng là khá trình độ và tuyệt vời rồi. Chúng ta thử tưởng tượng là, nếu các nước ngày hôm nay họ sống yêu thương, đối xử với nhau, lo cho nhau như lo cho chính mình họ, như lo cho chính gia đình họ, thì chắc hẳn là bầu không khí của giữa những con người với nhau, giữa các cá nhân, giữa các gia đình, giữa các quốc gia với nhau sẽ đẹp, thanh bình và hạnh phúc biết bao nhiêu!

Tất cả chúng ta đang được vinh hạnh sống trong thời Tân ước, thời mà Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta, Đấng đã từng phán: Hạnh phúc của Ta là được ở với con cái loài người. Chính Đấng ấy đã mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha, và kêu gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt.5,48). Như Cha là Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. (Mt.5,45).

Chúa Giêsu với tất cả tình yêu thương âu yếm,Ngài đến để bảo đảm hạnh phúc cho ta. Ngài bật mí cách thoải mái Tình Yêu Hiền Phụ của Thiên Chúa Cha đối với từng người chúng ta. Ngài dẫn chúng ta đi sâu vào tình thân mật đối với Cha Ngài; Ngài lại còn tỏ cho chúng ta biết phẩm giá vô cùng hạnh phúc lớn lao là chúng ta được nâng lên làm con Thiên Chúa, con đúng nghĩa hơn tất cả những người con với bố nó hợp lại;Ngài mặc khải cho ta về chỉ có Cha là Đấng Nhân Lành đúng nghĩa hơn hết, là Đấng yêu chúng ta chỉ vì Ngài muốn yêu,chứ không phải tại ta có gì tốt mà Ngài mới yêu, rồi khi ta không tốt nữa thì Ngài lại không yêu chúng ta nữa. Không, ngàn lần không, Tình Yêu của Ngài luôn bất biến, dù tình con người có thay đổi đổi thay, nhưng Tình Ngài muôn đời vẫn thế! Ngài say yêu ta, đối xử với ta rất tình Cha với ta,lại còn cho phép và rất muốn chúng ta đối xử thân tình dễ thương với Ngài như những đứa con bé nhỏ thảo mến ruột thịt. Đồng thời, Ngài phá bỏ mọi ranh giới giữa chúng ta với nhau,để nhận ra nhau đều là những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời.

Các bạn kính ái!

Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy luật cũ mà là kiện toàn, siêu thăng, hoàn hảo hóa lên, trình độ hơn, cao cơ hơn…

Thế thì, có phải không? Chúa Giêsu đã từng nói: Anh em đã nghe luật xưa dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em; nơi khác Chúa nói rõ hơn: Hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người ghét các con, chúc phúc cho người nguyền rủa các con, để các con nên giống Cha các con trên trời…Vâng, giới răn cũ và mới khác rồi đấy, các bạn ạ!

Trước đó Chúa còn nói: Luật xưa dạy rằng: Mắt thế mắt, răng thế răng; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác; trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy cho nó cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (Mt.5,38-41). Giới răn cũ và mới đã rất khác rồi đấy!

Chính vì thế mà Chúa đã tuyên bố nhiều lần, nhất là trước khi chịu chết là: “Thầy truyền cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc lại giới răn cũ khi người thanh niên đầy thiện chí hỏi Chúa. Sở dĩ Chúa nhắc lại giới răn cũ là bởi vì lúc đó Chúa chưa thiết lập giới răn mới là giới răn mà Chúa chỉ tuyên bố thiết lập khi Chúa đã dạy dỗ đủ điều và đã làm gương. Và Ngài đã chính thức thiết lập Giới Răn Mới trong bữa Tiệc ly, trước khi Chúa đi chịu chết để cứu chuộc nhân thế.

Như vậy bạn và tôi có lẽ chúng ta đã hiểu được tinh ý của Thầy Chí Thánh rồi. Ngài muốn chúng ta yêu nhau, yêu mọi người với mức độ như CHÍNH NGÀI đã yêu, chứ không phải là yêu như CHÍNH MÌNH nữa. Có phải khác biệt nhau một trời một vực phải không, thưa các bạn?

Các bạn ạ!

Cách đây gần mười năm, lúc đấy tôi còn là một ông thầy muôn năm. Hôm đó đi chia sẻ cho một nhóm quý anh chị đã tận hiến cho Đức Mẹ, chủ đề về đức Bác ái, một chị trưởng nhóm có hỏi tôi rằng: Thưa Thầy, ở vùng chúng con có một người đàn ông còn mạnh khỏe mà lại đi hành khất, ban tối lại thấy ông ấy vào nhà hàng để nhậu…,vậy lần sau ông đó đến nhà chúng con xin, chúng con có nên cho nữ hay không? Vì nếu cứ cho thì ra như cho để ông đi nhậu, lại còn vào nhà hàng mà có khi chúng con cũng không dám vào. Ông này cứ đúng như họ kể, thì có lần ban ngày, tôi đã trông thấy mang nạng, chân khèo khèo đi xin; lần khác, lại trông thấy ông vào ban tối, thấy ông vai vác hai cái nạng, ung dung đi đứng rất đàng hoàng như không có bị què gì cả…Vậy nếu người ta hỏi bạn, bạn sẽ giải quyết là nên cho hay không nên cho, hả bạn?

Hôm đó, tôi đã nại vào câu Chúa nói: Ai xin các ngươi cứ cho, ai vay mượn các ngươi đừng từ chối. (Mt.5,42), để trả lời là chúng ta cứ cho. Khi nghe tôi trả lời cứ cho, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên lắm! Và tôi nói tiếp, nếu căn cứ theo giới răn cũ (yêu nhau như mình) thì không cho là đúng, nhưng theo giới răn mới (yêu nhau như Chúa yêu) không cho là không đúng; vã nữa, Chúa bảo chúng ta là: Ai xin các con cứ cho cơ mà! Ai mà Chúa nói đây là tất cả mọi người,cả người tốt lẫn người xấu,cả người ngay lẫn người gian.., nên nhiều ít tùy chúng ta,nhưng cứ cho thì sẽ là yêu thương như Chúa yêu thương hơn,sẽ nhân đức hơn… Sau đó, tôi còn nói khôi hài một câu để cho mọi người cười cho vui vẻ là: chúng ta cũng phải để cho họ nhậu, họ bồi dưỡng họ mới có sức khỏe hôm sau đi xin tiếp chứ! Thế là mọi người cười rất to và nhận ra rằng tiền của người ta vất vả nắng nôi, lại còn đóng kịch giả bộ là mình tật nguyền để người ta thương hại mà cho.., là sở hữu của họ, họ muốn nhậu, muốn làm gì tùy họ chứ!

Như vậy là giới răn mới và giới răn cũ rất khác nhau đấy bạn nhỉ? Bạn và tôi, chúng ta đang được hân hạnh sống trong thời đại mới của Tân ước, và dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta sống theo luật mới của Tân ước mà thôi. Rượu mới phải được đổ vào bầu da mới mà, phải không bạn? Cầu chúc bạn tìm được nhiều niềm vui trong việc yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương và làm gương cho chúng ta.

 

18. Lòng kính mến Chúa

(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)

Giáo huấn Tin Mừng của Chúa truyền dạy chúng ta hôm nay rất cao cả và quan trọng, vì đó là một nghĩa vụ tuyệt đối khẩn thiết, một giới luật trọng đại nhất chúng ta phải chu toàn đối với Thiên Chúa, Chúa chúng ta.

  1. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI TUYỆT ĐỐI

Maisen thừa lệnh Chúa truyền dạy: “Hỡi Israel hãy nghe đây: Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa anh chị em hết lòng, hết linh hồn và hết sức anh chị em.

Những điều tôi truyền cho anh chị em hôm nay, anh chị em:

* Hãy ghi tạc các luật đó vào tâm khảm anh chị em,

* Hãy thuật lại cho con cháu anh chị em đến muôn đời,

* Hãy suy niệm các luật đó lúc ở nhà, khi đi đường, hoặc khi nằm nghỉ cũng như lúc thức giấc,

* Hãy buộc chặt các luật đó vào tay mình, như dấu hiện hữu và máy động trước mắt anh chị em,

* Hãy viết bằng chữ lớn các luật đó trên cột và trên mi cửa nhà anh chị em” (Deut 6:4-9).

  1. LÝ DO GIỚI LUẬT CHÚA TRUYỀN

Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên chúng ta, là Cha Nhân Từ, là vị Đại Ân Nhân của chúng ta; Chúa có quyền đòi buộc chúng ta phải kính mến Chúa; đó là giới luật công bằng hợp lý hợp tình. Nhưng chúng ta có kính mến Chúa, chúng ta cũng chẳng thêm gì cho Chúa, vì Chúa hoàn toàn sung mãn, không một thụ tạo nào có thể thêm bớt cho Người, Người hoàn toàn hạnh phúc. Chính vì muốn cho chúng ta được hạnh phúc mà Chúa đã truyền dạy chúng ta phải kính mến Chúa. Chúng ta hãy nghe tiếp huấn lệnh của Chúa, mà tổ phụ Maisen truyền lại cho chúng ta: “Anh chị em phải kính mến Chúa, tôn thờ Chúa là Thiên Chúa của anh chị em, hết linh hồn, hết lòng mình và tuân cứ các lề luật, lễ nghi của Người như ta truyền cho anh chị em hôm nay, để anh chị em được hạnh phúc” (Deut 10:13).

Thánh tổ phụ còn nhấn mạnh: “Hôm nay ta bày tỏ trước mặt anh chị em lời chúc phúc và lời nguyền rủa.

* Anh chị em sẽ được chúc phúc, nếu anh chị em tuân giữ các huấn lệnh Chúa truyền,

* Anh chị em sẽ bị nguyền rủa, nếu anh chị em bất tuân và đi trệch đường lối Chúa chỉ dạy” (Deut 11:26-28).

III. NHỮNG DẤU CHỈ LÒNG CHÚA YÊU THƯƠNG

Loài người chúng ta thường thán phục trước tấm lòng hào hiệp, thường cảm động tri ân trước tấm lòng quảng đại trao ban, thường tôn kính mến yêu những vị làm ơn lành cho mình. Vậy đâu là những dấu chỉ của lòng Chúa yêu thương chúng ta?

Đối với chúng ta, không những Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, ban cho chúng ta mọi ơn lành hồn xác, lại quan phòng gìn giữ chúng ta, không những như một Đấng Tạo Hóa, hay như một Vị Đại Ân Nhân, nhưng còn hơn nữa như một Người Cha Nhân Từ hằng hết lòng yêu thương, săn sóc, che chở chúng ta như con cái rất yêu dấu của Người.

Như một người Cha, trước khi dựng nên chúng ta, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ bao la với muôn loài muôn vật, muôn cảnh sắc huy hoàng lộng lẫy kỳ diệu, để chúng ta được hưởng dùng, được nhận biết và chiêm ngắm, mà ca ngợi uy quyền và tình thương của Chúa. Chẳng khác gì một bà mẹ trước khi sinh con, bà sắm sẵn các đồ dùng cũng như những nhu cầu cần thiết cho con, để khi con bà vừa chào đời, đã có sẵn mọi vật dụng cần thiết cho cuộc sống của con.

Như một bà mẹ thương yêu cưng chiều con bà thế nào, Chúa cũng thương yêu chúng ta như vậy, chính Chúa mạc khải điều đó qua lời tiên tri Isaia: “Các con được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, được nâng nui trên đầu gối; như mẹ hiền âu yếm con thơ, Cha cũng sẽ vỗ về âu yếm, yêu thương các con như vậy” (Is 66:12-13).

Chính Chúa Kitô còn nhắc lại tình âu yếm yêu đương đó trong Tin Mừng khi Ngài thương khóc thành thánh Jerusalem: “Đã bao lần Ta tụ họp con cái các ngươi như gà mẹ túc con dưới cánh, mà các ngươi không biết” (Mt 23:27). Tình Chúa yêu thương nhân loại đã được bày giãi trước mắt chúng ta, bằng muôn vàn cách thế tràn ngập trong vũ trụ, như những dấu chỉ minh chứng tấm lòng yêu thương của Người.

Thánh Têrêxa Hài Đồng một hôm đang đi dạo tại vườn hoa, Chị trông thấy một hình ảnh thơ mộng, một con gà mẹ âu yếm ấp ủ bày gà con dưới cánh, trước con diều hâu đang bay lượn tìm bắt… Chị đã nhớ đến lời Chúa phán trên đây và động lòng thổn thức tưởng nghĩ đến lòng Chúa yêu thương, đến nỗi Chị không thể tiếp tục đi dạo, trở về phòng ôm mặt khóc và hết lòng tri ân kính mến Người.

Nhiều vị Thánh khi đọc tới kinh “Lạy Cha”, các ngài cảm thấy lòng mình thổn thức rạo rực, rộn lên niềm hân hoan vui sướng, khiến đôi dòng châu lệ tuôn trào trước cái diễm phúc, vì mình có một người Cha Nhân Từ hằng yêu thương săn sóc, lo cho mình mọi sự, khiến các ngài được ngây ngất sảng khoái như cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng, đến nỗi không thể đọc hết lời kinh thơm xinh đó được nữa.

Đứng trước vũ trụ tràn đầy những kỳ công huyền diệu, những cảnh sắc tuyệt vời, ghi dấu tình Chúa yêu thương nhân loại, các Thánh được tràn đầy sung sướng, hết lòng ngâm ngợi ca khen tình Chúa yêu thương, khiến các ngài bùng cháy lên ngọn lửa mến yêu Chúa tha thiết, đến sẵn sàng hy hiến cả cuộc đời để phụng sự và yêu mến Chúa, nỗ lực làm tông đồ đến kiệt quệ thân xác để Chúa được tôn vinh, được phụng sự và yêu mến.

Kết luận

Xin Chúa ban cho chúng ta luôn nhận ra lòng Chúa yêu thương chúng ta, để chúng ta được chu toàn giới luật Chúa truyền dạy: “Phải kính mến Chúa”, hầu chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng ngay cả lúc chúng ta gặp rủi ro bất trắc, như gương Thánh tổ phụ Job xưa. Chớ gì chúng ta luôn nhớ thực thi lời Chúa dạy Chị Dòng Bénigna trong cả cuộc sống: “Con hãy đọc lời: “CHA YÊU CON” trên bánh con ăn, trên giường con nằm, trên nhà con ở, trên các dụng cụ con dùng”. Và, quyết tâm gắng sức hoạt động mọi cách làm cho nhân loại được nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa cách xứng đáng như Chúa đáng mến.

 

19. Mến Chúa Yêu Người

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.

Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm lại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Ki-tô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta.

Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: Tạ ơn Đức Ki-tô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Ki-tô và mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.

Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Ki-tô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Ki-tô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.

Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xoá mọi chuyện.

Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.

Cái hợp lý theo suy lụân của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.

Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.

 

20. Với cả tâm trí bạn – Gm. Arthur Tonne.

Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ của bà về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa? Con chưa bao giờ thấy Người”. Ít ngày sau, cô bé nhận được một bưu kiện, trong đó có một cuốn sách hình rất đẹp, trên trang bìa cuốn sách đề hàng chữ: “Tặng Maria thân yêu, Dì Rosa”. Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa và họ sống xa nhau hàng ngàn cây số. Khi Maria nhìn những bức hình đẹp trong cuốn sách, em nói với mẹ: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá! Dì cho con cuốn sách đẹp này”. Người mẹ phản đối: “Nhưng con chưa bao giờ thấy dì Rosa mà”. Maria trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì gởi cho con cuốn sách đẹp này”.

Nhiều người trong chúng ta có thể thắc mắc: “Làm sao chúng ta có thể yêu Chúa nếu chưa bao giờ chúng ta thấy Người?”. Tất cả chúng ta đã nhận quà của Chúa, những món quà này dẫn chúng ta yêu Đấng đã gởi tới.

Dĩ nhiên một cách nào đó, chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa trong hình dung của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa làm người. Hôm nay nói lại cho chúng ta rằng: Chúng ta phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa chúng ta hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn và hết sức lực. Sẽ giúp chúng ta hiểu và giữ luật này nếu hôm nay chúng ta chỉ nhìn một góc cạnh của giới răn: “Yêu Chúa… với tất cả tâm trí.

Để yêu ai, trước tiên chúng ta phải biết người ấy. Để biết ai, chúng ta phải dùng tâm trí. Làm sao chúng ta có thể biết Chúa?

Làm sao tôi biết một người trong các bạn? Tôi phải nói với bạn và lắng nghe khi bạn nói. Đối với Chúa, chúng ta gọi là cầu nguyện. Bạn hãy gọi như thế nếu bạn muốn. Chúng ta không thể biết Chúa, trừ khi chúng ta nói với Người. Đó là lý do tại sao Giáo Hội kêu gọi chúng ta cầu nguyện với Chúa, ít nhất là sớm mai và chiều tối. Đó là lý do bạn và tôi cầu nguyện với Chúa bất cứ lúc nào trong kinh nhật tụng, và nhất là trong Thánh Lễ.

Chúng ta biết một người do công việc họ làm hoặc họ là thợ mộc, là họa sĩ biếm họa hay một đầu bếp.

Chúng ta biết Chúa qua những việc Chúa đã làm. Cỏ cây, chim chóc, gió mây, sao trời… nói với chúng ta về Chúa. Tất cả những cái đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng lý trí.

Muốn hiểu một người, chúng ta cố gắng gặp người đó càng nhiều càng hay. Chúng ta gặp Chúa trong mỗi ngày, trong mỗi cuộc sống chung quanh, nhất là chúng ta gặp Chúa trong Giáo Hội, trong Thánh Lễ, rước lễ và các bí tích.

Chúng ta cũng biết một người do những điều một người khác biệt về người đó nói lại cho chúng ta. Linh mục của bạn, ngài đã dùng nhiều thì giờ học hỏi về Chúa, nói về Chúa. Các ngài có thể nói nhiều về Cha trên trời, về Thiên Chúa Làm người, về Chúa Thánh Thần cho bạn. Cha mẹ nói cho chúng ta về Chúa. Thực sự các ngài là thầy tốt nhất nói về Chúa. Giáo lý viên, báo chí, tạp chí và sách vở Công giáo nói với chúng ta nhiều sự thật về Chúa.

Sử dụng lý trí để tìm hiểu mọi cái về Chúa. Như thế bạn yêu Chúa với tất cả lý trí của bạn.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

21. Mến Chúa yêu người – Hiếu Nguyễn

CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA

  1. Chọn người kế vị

Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước, để mời gọi người đàn ông nào ưu tú đến ngài chọn. Ngài đưa ra tiêu chuẩn là kẻ ấy phải có lòng “mến Chúa yêu người.”

Một thanh niên thấy mình có điều kiện đó, nên định đến cho vua chọn. Nhưng khổ nỗi anh nghèo quá, đến mức không có áo quần tươm tất cũng chẳng có tiền mua sắm thức ăn để đi dự cuộc thi. Anh cầu xin Chúa giúp anh. Và sau đó anh đi ăn mày quần áo và lương thực cần thiết.

Lúc đi đến gần cung điện đức vua, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh, “Tôi đói và lạnh quá! Xin cậu thương…” Anh nhìn ông lão, lòng vô cùng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.

Và anh đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua, anh cúi đầu sâu chào ngài. Khi ngước mắt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên, “Thế là bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?” “Đúng vậy.” Anh ta ngạc nhiên hỏi, “Sao bệ hạ làm thế?” “Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng ‘mến Chúa yêu người’ không.”

  1. Tôi đi tìm Chúa

Các tu sĩ Ái nhĩ lan có kể giai thoại sau đây. Đêm nọ, vị tu sĩ lão thành thấy một thiên thần đang ngồi viết trong cuốn sổ vàng. Vị tu sĩ rón rén đến hỏi, “Ngài đang viết gì trong sổ đó?” “Tôi đang ghi tên những kẻ ‘Kính mến Chúa và yêu thương người’.”

Lo lắng hồi hộp, ông không biết mình có tên trong sổ đó không, nên hỏi, “Thưa ngài, ngài có ghi tên tôi trong sổ đó không?” Thiên thần lật từng trang mà không thấy tên ông. Ông nài nỉ, “Xin ngài ghi tên tôi như là một tu sĩ thương mến tha nhân.” Sứ thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.

Hôm sau sứ thần lại hiện ra, mở sổ vàng cho ông xem. Ông lại thấy tên mình dẫn đầu trong sổ những người yêu mến Chúa… Sau khi qua đời, các thầy xem nhật ký của ông, dòng chữ đầu trong nhật ký đó là, “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối. Không yêu mến anh em là kẻ mình thấy thì không thể kính mến Chúa là đấng mình không thấy.”

Và tiếp theo là lời ghi chú của ông, “Tôi đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi lại gặp Thiên Chúa và linh hồn tôi.”

  1. Tình yêu bắt nguồn từ gia đình

Một người ở Sun City, Hoa Kỳ, trình bày với người đảm trách “tâm lý trị liệu” như sau. Ba tôi đi làm suốt tuần, mẹ tôi bận việc nhà cả ngày. Ba mẹ tôi không khi nào bộc lộ tình cảm hay nói lời yêu thương với tôi. Vì thế tôi cảm thấy cô đơn buồn tủi mãi. Một hôm tôi có dịp đến ngủ ở nhà chị bạn tôi. Khi chúng tôi lên giường ngủ, mẹ bạn tôi đến hôn hai chị em chúng tôi. Cử chỉ đó làm tôi cảm động, đến độ tôi không ngủ được. Tôi nghĩ mãi chớ gì ba mẹ tôi đối xử với tôi như thế. Và tôi quyết định sẽ làm như thế đối với ba mẹ tôi.

Từ đó tôi bắt đầu hôn ba mẹ tôi thường xuyên. Khi có dịp, tôi nói với ba mẹ, “Ba ơi, con thương ba! Mẹ ơi, con thương mẹ!” Và mọi sự trong gia đình đều hoàn toàn thay đổi. Chúng tôi thương yêu nhau, sống vui tươi hạnh phúc. Tôi lập gia đình khi lên 17 tuổi và có hai con lúc chưa đầy 20 tuổi. Tôi thường hôn con tôi đến khi má chúng ửng hồng lên.

  1. Hạt giống tình yêu

Trong giấc mơ, người nữ kia thấy mình đang đứng trước một cửa hàng mới khai trương. Điều làm cho bà ngạc nhiên nhất là thấy Chúa Giêsu ngồi ngay ở quầy tính tiền. Bà liền hỏi, “Chúa bán những món hàng nào?” “Tất cả mọi món hàng mà con người ham thích.”

Vui mừng quá! Bà ta quyết định mua tất cả những món hàng mà người đời thường ham thích. Bà thưa với Chúa, “Con muốn mua, bình an, hạnh phúc, tình thương..” Chúa Giêsu mỉm cười, chậm rãi nói, “Con lầm rồi. Ở đây không bán hoa trái, mà chỉ có bán hạt giống thôi.”

  1. Lòng mến Chúa bị suy sụp

Một bà đạo đức cảm thấy lòng kính mến Chúa của mình ngày càng suy giảm mau chóng như sức khỏe thể xác của bà. Bà buồn quá, không biết làm sao nung đốt lại lửa mến Chúa trong lòng mình. Vì nay bà đã gần đất xa trời rồi, sợ với tình trạng tâm hồn nguội lạnh thế này thì khó vào được thiên đàng sau khi nhắm mắt lìa đời. Bà đến gặp linh mục lão thành Zossima, kể cho ngài nghe nỗi yếu kém sa sút của lòng mến Chúa của bà, và xin ngài cho phương cách chữa trị.

Cha Zossima chăm chỉ lắng nghe rồi nói, “Có một phương thế rất hiệu nghiệm.” Bà vui mừng hỏi ngay, “Phương thế nào, thưa cha?” “Bằng tình yêu. Hãy cố gắng yêu thương những người láng giềng của bà. Càng thương yêu họ, bà càng kính mến Chúa hơn. Bà chắc chắn được Chúa thưởng thiên đàng hơn.”

  1. Tiếng chiên con

Một buổi chiều đông giá rét, có người đốn cây trên đồi trở về vui với gia đình trong đêm Giáng sinh, sau bao ngày lao động xa cách gia đình…

Bỗng một cơn bão nổi lên, sấm chớp nổ vang trời, mưa đổ xuống như thác lũ… Anh đang chạy tìm chỗ trú ẩn thì một tiếng sét long trời nổ bên tai, cành cây đổ xuống trên mình anh, máu từ đầu chảy xuống, và anh ngã gục, nằm chờ tử thần!..

Có tiếng bê-bê từ đâu vọng lại. Đó là tiếng một con bê con đang gặp nạn như anh. Thọat đầu anh làm ngơ vì kiệt sức. Nhưng tiếng kêu mỗi lúc một tha thiết khiến anh tự nhủ: “Mình chỉ muốn chết, nhưng con bê kia muốn sống và chắc chắn nó đang cần mình”. Thế thì anh cố chỗi dậy, đi theo tiếng chiên kêu.

Anh tìm được nó trong một cái hang. Nó cũng bị thương và lạnh buốt. Anh ẵm nó vào lòng ngực để sưởi ấm cho nó”. Một sức sống mới đang vươn lên trong thân xác yếu ớt của anh. Anh cảm thấy muốn sống và muốn sống hơn bao giờ hết”.

*****

Chúa đến viếng thăm chúng ta, nên ánh sánh hy vọng của sự sống là bảo chứng của ơn cứu rỗi và là chiến thắng tiêu diệt sự chết..

“Chính lúc chúng ta có can đảm cởi mở tâm hồn đi đến với người khác đang cần được yêu thương giúp đỡ là lúc chúng ta sẽ được nhận lãnh sinh lực mới, sức sống mới, để sưởi ấm sự lạnh lẽo và giải thoát chúng ta khỏi cơ cực lầm than. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I)

  1. Chết vì yêu

Tạp chí bách Khoa Văn học số 6 năm 1991, có đăng câu chuyện “Mùi cọp”.

Có đôi vợ chồng trẻ: chồng là giảng sư đại học, vợ là diễn viên và là người tập luyện thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau, chồng thấy nghề dạy thú của vợ có cái gì không bình thường, nhứt là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc từ thân thể của vợ. Cái mùi cọp thật là khó chịu đối với người khác, nhưng đối với nguời dạy thú thì không thể thiếu mùi đó. Chính nhờ cái mùi đó mà bầy cọp mới nhận ra cô và ngoan ngoãn vâng lời.

Rồi hai người giận nhau, và tình trạng kéo dài. Cuối cùng người vợ chủ động làm lành. Cô tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ làm hòa với nhau.

Nhưng đêm sau người vợ đó chết. Cô chết vì con cọp dữ không nhận ra cô nữa, vì mùi cọp quen thuộc của cô đã biến thành mùi nước hoa xa lạ. Con cọp hoảng hốt trước mùi nước hoa lạ lẫm đó nên phải tự vệ bằng cách tấn công cô.

*****

Người vợ vì yêu chồng đã gội rửa chính mình và đã phải hy sinh mạng sống. Yêu đích thực không phải là chết đi một ít mà chết đi trọn vẹn. Đó là ý nghĩa của cái chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã yêu và yêu loài người đến cùng, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, và sống lại vinh hiển để đem lại nguồn sống bất diệt cho mọi người.

Tình yêu mời gọi tình yêu. Chúa Kitô yêu thương chúng ta, hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta. Người mời gọi chúng ta đáp lại tình yêu của Người, hy sinh vì Người và vì anh chị em chúng ta.

(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập IV).

 

22. Giới răn trọng nhất – Noel Quesson.

Ngày đầu tiên Betty vào trường nội trú. Cô bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Cô tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ loại này. Nhưng đến chiều, Betty gặp bà hiệu trưởng, cô thấy bà thật hiền hậu, dễ mến, bà có nụ cười đầy thiện cảm. Cô thấy mến bà, và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chả có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.

Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín đồ Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu. Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ: Yêu.

Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do Thái thì vẫn cần giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một Giao Ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.

Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng do liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta coi Thiên Chúa là cha, và mọi người là anh chị em ruột thịt.

Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên một trình độ tuyệt đỉnh. Phải yêu anh em như yêu Chúa: Ai giúp đỡ một người thấp hèn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.

Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Thiên Chúa như một người cha, nhưng tình yêu đó phải biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu anh em mới chứng tỏ mình mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.

 

23. Giới luật yêu thương.

Nếu chúng ta xem truyền hình hay nghe truyền thanh, chúng ta thấy chương trình nhiều lúc bị gián đoạn, xen vào đó là những khẩu hiệu của nhà nước, chẳng hạn:

– Thanh niên hăng hái làm nghĩa vụ quân sự.

– Đồng bào hãy tích cực đóng thuế.

Hồi trước năm 1975, người ta tổ chức những chương trình phát thanh thương mại, để quảng cáo các sản phẩm bày ban trên thị trường. Những lời quảng cáo ấy ăn sâu vào đầu óc thính giả đến nỗi ra chợ muốn mua một hộp kem đánh răng là người ta bèn nhớ ngay đến “anh bảy Chà Hynos”, muốn mua mấy viên thuốc bổ cho con, người ta bèn nhớ ngay đến Activit, “thuốc bổ gan bò tươi Hà Lan”. Sự lặp đi lặp lại đã tác động mạnh trên tâm trí và dẫn đến những hành động thích hợp.

Giáo hội là một người mẹ luôn để tâm giáo dục chúng ta, không phải là không biết đến cái định luật tâm lý ấy. Giáo hội đã áp dụng định luật ấy để mưu cầu phần rỗi cho chúng ta. Giáo hội không ngừng lặp đi lặp lại cho chúng ta biết cái bí quyết tạo hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Qua lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Giáo hội muốn nhắc cho chúng ta hai giới luật quan trọng, đó là mến Chúa và yêu người.

Hãy thử xét mình xem chúng ta đã thực hiện như thế nào? Hay chúng ta chỉ là những kẻ giả dối vì việc chúng ta làm không phù hợp với lời kinh chúng ta đọc. Ngày nào chúng ta cũng đọc kinh kính mến, chúng ta thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng… lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Chúng ta không cảm thấy ngượng ngùng khi đọc như thế hay sao?

Khi kính mến ai hết lòng, chúng ta tránh làm cho họ buồn lòng và cố gắng đem lại hạnh phúc cho họ. Đằng này, chúng ta không vâng lời Chúa, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta kính mến Chúa hết lòng. Chúng ta mong ước cho kẻ khác gặp phải tai ương. Chúng ta giận hờn họ, nói hành nói xấu họ, chúng ta không thèm chào hỏi họ, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta yêu thương họ như chính mình chúng ta.

Chúng ta tưởng rằng mình là kẻ ngoan đạo chỉ vì chúng ta chăm chỉ đi lễ, siêng năng đọc kinh và cảm thấy yên lương tâm. Nhưng nếu tạm gác những hình thức bề ngoài ấy để căn cứ vào tình bác ái: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau, thì liệu người ta có nhận ra chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hay không? Nếu chịu khó đọc lại những bức thư của thánh Gioan, chúng ta thấy ngài luôn luôn lặp đi lặp lại cái chủ đề yêu thương. Chính ngài đã xác quyết:

– Nếu ai bảo rằng mình mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em, thì họ chỉ là phường nói dối, vì ai không yêu thương kẻ khác là người mình trông thấy, thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa, Đấng mà mình chẳng nom thấy bao giờ. Phải chăng đó là một lời kết án gay gắt nhất cho những kẻ không yêu thương.

Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì lại khó, vì trong đời sống chúng ta có quá nhiều va chạm. Nào là cạnh tranh nghề nghiệp, củng cố địa vị, giành giật quyền lợi. Nào là những khác biệt về tính tình, tuổi tác và văn hóa… Vì thế, để yêu thương người khác, chúng ta phải cố gắng rất nhiều, nhất là phải cần đến ơn Chúa. Chúng ta phải nhớ rằng: Muốn chiếm đoạt nước trời, thì phải kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Tình Chúa và tình người là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta vào nước trời.

Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện như sau: Shirieda là một thanh niên Nhật Bản, trong phi đội Thần Phong, sống sót sau một lần ném bom khi phi cơ bị trúng đạn. Tuyệt vọng vì nước Nhật đầu hàng, khi quả bom nguyên tử rớt xuống Nagasaky. Để trả thù cho dân tộc, anh quyết định đi ăn trộm bất cứ cái gì của những người Âu Châu. Trưa hôm ấy, anh lẻn vào kho của nhà dòng Salésien, nhưng chẳng may bị phát giác. Anh định bỏ chạy, nhưng liền bị bắt. Anh thú nhận vì cần đanh mà anh đã ăn trộm. Cha bề trên dân anh trở lại nhà kho,lấy cho anh một túi đanh và bảo:

– Lần sau, nếu cần gì, anh cứ đến với với tôi.

Anh ngạc nhiên trở về nhà và suốt đêm hôm ấy anh đã suy nghĩ về hành động bác ái trên. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà dòng và nói với cha bề trên:

– Xin cha dạy con cũng biết sống yêu thương như cha.

Và cuối cùng, anh đã trở thành một linh mục Công giáo.

Hãy tuân giữ giới luật yêu thương, để chúng ta xứng đáng là những người môn đệ của Chúa. Và hơn thế nữa, chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn người khác đến cùng Chúa.

 

24. Chúa Nhật 31 Thường Niên

Anh chị em thân mến.

Khi đứng ngắm nhìn một ngôi nhà cao tầng, chắc mọi người không khỏi thán phục vẽ huy hoàng tráng lệ của nó. Ngôi nhà mà chúng ta đang xử dụng đây cũng thế. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những mảng tường, những gạch vụn không cùng liên kết với tổng thể, mà lại tách rời ra. Tôi chợt suy nghĩ: Ngôi nhà kia có được vẽ đẹp như thế, là nhờ những thứ dường như chẵng ra gì, nếu nó chỉ ở một mình. Chúng ta thử nghĩ, những viên đá nhỏ kia có thể làm được việc gì, chỉ là những thứ phải bỏ đi. Những hạt cát dơ bẩn kia cũng thế, nhiều khi chỉ làm cho chúng ta khó chịu vì sự hiện diện của nó bên cạnh chúng ta. Vậy mà khi chúng liên kết lại với nhau, nằm cạnh bên nhau, biết yêu thương giúp đỡ nhau, thì điều kỳ lạ đã xảy ra. Nếu có những hạt cát, hay những mãn gạch vụn tự tách lìa khỏi tổng thể đó, thì chính nó đã tự chọn con đường diệt vong, nó không thể tồn tại được. Nếu nó biết yêu thương giúp đở những bạn bên cạnh nó, thì nó cũng nhận sự giúp đở, để có thể vươn cao cùng các bạn. Nếu nó tự tách lìa, chỉ biết yêu thương có chính bản thân mình, không muốn yêu thương giúp đở các bạn ở bên cạnh, thì chẵng những nó không được yêu thương mà còn bị loại trừ ra khỏi cuộc sống.

“Điều răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây. Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu thương anh em như chính mình ngươi”.

Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố như thế để xác định lại qui luật sống cho những kẻ theo Ngài. Giới luật sống chỉ tóm gọn lại trong hai chữ Yêu Thương. Ngài đã yêu thương bằng hành động cụ thể, yêu thương bằng sự hòa nhập với người mà Ngài yêu thương, yêu thương để liên kết họ lại, để xây nên lâu đài của Tình Yêu. Nếu người nào muốn tách rời khỏi lâu đài tình yêu, chẵng những họ không được Yêu thương mà họ còn tự đi tìm con đường hủy hoại chính mình.

Chúng ta những con người đang sống, đang nắm vận mạng của vũ trụ, đang tận hưởng những tinh hoa của các bậc tiền bối, đang xây dựng lâu đài để truyền lại cho thế hệ tương lai. Chúa Giêsu nhìn chúng ta, mỉm cười nói rằng: “Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Nếu trong đời sống chúng ta có thể sống hòa nhập với mọi người, nhìn thấy được nhu cầu của người khác để sẳn sàng phục vụ với tất cả tấm chân tình. Nếu chúng ta biết lắng nghe những tiếng kêu than, những lời nói chân thực nhưng đôi khi khó nghe, để biết sửa đối chính mình cho tốt hơn. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn thấy những cảnh thương tâm, để biết mở rộng đôi bàn tay mà giúp đở, hành động những gì cần thiết. Nếu chúng ta biết nhìn lại chính mình từng ngày, từng giờ, từng phút của cuộc sống, để nhìn thấy những gì cần phải sửa đỗi cho tốt hơn và can đảm sửa đỗi. Nếu chúng ta làm được những điều đó, chúng ta rất xứng đáng nhận câu nói thấm đượm tình yêu thương của Chúa Giêsu. “Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Trái lại nếu trong đời sống, chúng ta không thể hòa nhập, hay vì sợ tổn hại bản thân, mà tìm những lợi ích riêng tư, khi đó chúng ta không khác gì hạt cát, cũng như những viên đá chỉ nằm riêng lẻ, cô đơn, không ích lợi gì, nó không thể cùng các bạn vươn cao trong ngôi nhà, hay lâu đài của Tình Yêu.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho những gì chúng ta đọc bằng môi miệng qua mười điều răn, cũng khắc sâu vào tâm hồn, để biến thành hành động Yêu Thương thiết thực trong cuộc sống.

Mười điều ấy, tóm lại hai điều nấy mà chớ,

trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự,

sau lại yêu người như mình ta vậy.

 

25. Yêu người.

Những ngày cuối cùng cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu ở Giêrusalem, Ngài luôn bị giới lãnh đạo Do Thái thay phiên nhau chất vấn để gài bẫy Ngài. Họ đã hạch hỏi Chúa lấy quyền gì mà xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ? Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêda không? Bài Tin Mừng hôm nay lại cho biết: một ông kinh sư hỏi Chúa điều răn nào đứng đầu? Sở dĩ ông ta hỏi Chúa câu này, là vì luật của Do Thái lúc ấy gồm 613 điều, chia ra 248 điều tích cực buộc phải làm, và 365 điều tiêu cực cấm không được làm. Nhưng giới lãnh đạo không đồng ý với nhau điều nào đứng đầu, tức là điều nào quan trọng nhất, mỗi nhóm đặt nặng một điều. Vì thế, ông kinh sư này muốn hỏi Chúa để biết quan điểm của Chúa ra sao. Chúa đã trả lời ngay bằng cách trưng ra một điều trong sách Đệ Nhị Luật: “Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức”, và một điều nữa trong sách Lêvi: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Câu trả lời của Chúa hay quá, đúng quá, khiến mọi người hết sức kinh ngạc, và Tin Mừng cho biết: “Từ lúc ấy không ai dám chất vấn Chúa thêm điều gì nữa”.

Như vậy, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: điều quan trọng nhất của đạo Chúa là mến Chúa và yêu người. Đây là hai mặt của một tình yêu, cả hai chỉ là một, bỏ một tức là bỏ cả hai. Nói khác đi, nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”: yêu Chúa và yêu người.

Yêu Chúa thì chắc chắn tất cả chúng ta đều có thể quả quyết dễ dàng chúng ta yêu Chúa. Nhưng lấy gì làm bằng chứng? đó là lòng yêu người, nghĩa là căn cứ vào tình yêu của chúng ta đối với tha nhân mà người ta biết chúng ta có lòng yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu đã có lần nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”. Vậy chỉ còn một vấn đề chúng ta cần tìm hiểu là chúng ta phải thực hiện lòng yêu người như thế nào.

Trước hết, chúng ta phải yêu thương bằng lời nói: yêu ai, người ta ca tụng họ, yêu mọi sự của họ, yêu cả nết xấu của họ nữa: “Yêu nhau yêu cả đường đi”. Nhưng ghét ai, người ta dùng ba tấc lưỡi để hành tỏi, nói xấu họ hết lời: “ghét ai ghét cả đường đi lối về”, “ghét cả tông chi họ hàng”. Cho nên, một thứ thước đo chính xác để biết mình có yêu thương người khác hay không là mình có nói tốt hay nói hành nói xấu họ. Người ta nói xấu nhau vì ghét nhau, vì không ưa nhau, vì thù oán nhau. Càng có nhiều liên hệ với nhau, người ta càng dễ nói hành nhau, mà cũng vậy, không gì đau khổ hơn và gương mù hơn khi những người thân thuộc nói xấu nhau.

Thể hiện tình yêu thương bằng lời nói, dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là yêu thương bằng việc làm. Việc làm đây là sự giúp đỡ bằng tay chân hành động, bằng sức khỏe, bằng thời giờ, bằng đời sống phục vụ… Đây là một cách thể hiện tình yêu thương rõ ràng và cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương trong lòng, bằng ước muốn tốt, bằng thông cảm… thì vô hình không kiểm chứng được; yêu thương bằng lời nói có thể bị coi là lý thuyết suông, đầu môi chót lưỡi. Nhưng yêu thương bằng sự tận tâm giúp đỡ, bằng sự chấp nhận những hy sinh phiền toái của phục vụ… thì mới là yêu thương thực sự và dễ gây được kết quả tốt. Chẳng hạn: khi làm việc, biết nhận lấy phần trách nhiệm nặng hơn, không dừa cho người khác, sẵn sàng cho vay mượn khi cần thiết, khi có khả năng, khi có dịp; coi công việc của người khác cũng là của mình. Có những người chỉ cần chúng ta giúp một quyết định, một an ủi, một khích lệ, một lời cầu xin, một sự thông cảm, một lòng tôn trọng, một sự tha thứ… Có biết bao nhiêu dịp và biết bao nhiêu cách chúng ta có thể làm để giúp ích người khác.

Sau hết, yêu người, yêu thương nhau là chứng tích cho người ta nhìn nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ đến nhà thờ để nghe nói đến tình yêu của Thiên Chúa, có nhiều người không bao giờ được thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, nhưng người ta xem thấy cách chúng ta yêu thương nhau thật mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương nhau thì không ai đánh giá sai lầm về đạo của chúng ta.

Vì thế, chúng ta hãy sống điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh. Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt nhưng lại thiếu sót đối với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống lịch sự, vui vẻ, yêu thương rất tốt đối với những người khác nhưng trong gia đình lại rất thiếu sót. Hơn nữa, tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt. Ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không? Tình yêu thương thật là biết dùng những lời nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau, và yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu Chúa của chúng ta.

 

26. Suy niệm của Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách

“NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN ĐỨC CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI”

ROME – Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về các bài đọc từ phụng vụ ngày Chúa Nhật 31 thường niên B như sau:

Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều nào đứng đầu và Chúa Giêsu trả lới, trưng những lời trong luật: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Nhưng Chúa Giêsu liền nói thêm có điều răn thứ hai giống như điều răn đó, là phải “yêu người thân cận như chính mình.”

Nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa câu hỏi của vị kinh sư và câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần ghi nhớ điều sau đây. Trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu có hai khuynh hướng đối nghịch.

Một đàng có một khuynh hướng nhân số mãi những điều răn và những lời giáo huấn của luật, tạo ra những qui tắc và những bắt buộc cho mọi chi tiết nhó nhất của sự sống. Đàng khác có sự ước muốn tím gặp dưới đống lộn xộn ngạt thở những qui tắc, những điều thật sự có giá trị cho Thiên Chúa, tinh thần của tất cả các điều răn.

Câu hỏi của kinh sự và câu trả lời của Chúa Giêsu được đặt gần những điều thiết yếu của luật, trong sư ước muốn không để mất trong hàng ngàn những giáo huấn tùy thuộc khác. Chính bài học này về phương pháp mà hơn hết chúng ta phải học từ bài tin mừng này. Có những sự trong đời sống là quan trọng nhưng không khẩn cấp (có nghĩa là không gì sẽ xảy ra nếu chúng ta để chúng qua một bên); và ngược lại, có những sự khẩn cấp mà không quan trọng. Nguy hiểm là chúng ta muốn hy sinh cách có hệ thống những điều quan trọng để theo đuổi những điều khẩn cấp nhưng thường là thứ yếu.

Làm sao chúng ta tránh được nguy hiểm này? Một câu truyện sẽ giúp chúng ta hiểu cách nào. Một ngày kia người ta xin một giáo sư già nói chuyện như một nhà chuyên môn với một số hiệp hội lớn Bắc Mỹ về sự quản lý thời giờ cá nhân.

Ong quyết định thử một thí nghiệm. Đứng trước một nhóm sẵn sàng ghi chú, ông kéo ra từ dưới bàn một bình thủy tinh to lớn, trống trơn. Ông bỏ một tá viên đá cỡ banh tennis trong bình đó cho đến khi đầy. Khi ông không còn khả năng thêm những viên đá nữa, ông hỏi những kẻ hiện diện:” cái bình xem ra đầy đối với các anh phải không?” và họ trả lời “Phải!” Ong chờ một lúc và sau đó hỏi: “Các anh chắc không?”

Ong lại khum mình xuống và kéo một bình đầy sạn từ dưới bàn và cẩn thận trút những viên sạn vào trong bình, lắc cái bình một chút cho những viên sỏi có thể chạm những viên đá ở dưới đáy. Ông hỏi: ” Lần này cái bình có đầy không?”

Thính giả của ông, trở nên khôn hơn, bắt đầu hiểu và nói: “Có lẽ chưa.” Rất tốt!” vị giáo sư già phúc đáp. Ông lại khum mình xuống và lần này rút ra một bao cát và đổ vào trong bình cẩn thận. Càt nhét đầy những không gian giữa những viên đá và những viên sạn.

Rồi ông hỏi lại: “Bây giờ cái bình đầy không?” Và tất cả mọi người trả lời không do dự: “Không!” “Chắc chắn là thế,” vị giáo sư già nói và, như họ trông đợi, lấy bình nước từ trên bàn và đổ nước vào trong bình cho tới miệng.

Lúc này ông nhìn thính giả của mình và hỏi: ” “Thí nghiệm này dạy chúng ta chân lý lớn nào?” Người gan dạ nhất của nhóm, suy nghĩ về chủ đề đường lối hành động–sự quản lý thời gian– trả lời: ” Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng cả khi chương trình làm việc đã đầy, với một chút cố gắng chúng ta luôn có thể thêm một công việc khác, một sự gì khác để làm.”

“Không,” giáo sư trả lời, “Không phải vậy. Thí nghiệm chỉ cho chúng ta một cái gì khác. Nếu các anh không để những viên đá lớn trong bình trước hết, thì các anh không bao giờ có thể để chúng vào sau.”

Có một lúc yên lặng và mọi người hiểu rõ sự khẳng định này.

Giáo sự nói tiếp: “Cái gì là những viên đá lớn, những ưu tiên, trong đới sống các anh? Sức khoẻ? Gia đình? Bạn hữu? Bảo vệ một vấn đề? Hoàn thành điều gì gần tâm hồn các anh?

“Điều quan trọng là để những viên đá lớn này trong chương trình nghị sự các anh trước hết. Nếu các anh dành ưu tiên cho hàng ngàn việc nhỏ khác-những viên sạn, cát-đời sống các anh sẽ tràn đầy sự vô nghĩa và các anh sẽ không bao giờ có giờ hiến mình cho những việc thực sự quan trọng hơn.

“Như vậy, đừng bao giờ quên đặt câu hỏi này cho chính các anh: ‘Những điều quan trọng trong đời sống của tôi là gì?’ hãy đặt những sự này trên đầu chương trình nghị sự của các anh.”

Lúc đó, với một cử chỉ thân hữu giáo sư già chào tạm biệt thính giả của mình và rời phòng.

Với ‘những viên đá lớn” do giáo sư nhắc tới-sức khoẻ, gia đình, các bạn hữu-chúng ta cần thêm hai cái khác, to nhất trong tất cả, hai điều răn lớn nhất: hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.

Thật vậy, yêu mến Thiên Chúa, còn hơn một giới răn, là một ưu tiên, một sự nhượng bộ. Nếu một ngày chúng ta gặp Người, chúng ta sẽ không thôi tạ ơn Chúa đã truyền chúng ta phải yêu mến Người và chúng ta sẽ không muốn làm gì khác hơn là bối đấp tình yêu này.

 

27. Sống như con người.

Hãy yêu thương nhau.

Có một ngôi làng kỳ lạ, trông từ xa thì quả là trật tự và đẹp đẽ. Chín mươi chín ngôi nhà trong làng đều được thiết kế giống nhau: một thửa vườn xanh um được một tường bức kiên cố bao bọc.

Nhưng điều đáng nói hơn cả là ở trước cổng, nhà nào cũng có một cái chuồng chó. Chín mươi chín con chó có nhiệm vụ bảo vệ nhà cửa và dân làng. Một bóng người thoáng qua trước cửa cũng đủ làm cho con chó sủa vang. Có khi cả chín mươi chín con cùng sủa một lúc.

Vì sống quá cách biệt, dân làng cũng chẳng có gì để nói với nhau. Âm thanh duy nhất mà họ được nghe suốt ngày là tiếng chó sủa. Dần dần âm thanh ấy trở thành quen thuộc đến nỗi người dân trong làng tưởng rằng đó chính là ngôn ngữ của họ. Mở miệng ra để nói với nhau thì ai cũng gào, cũng sủa.

Tình cờ có một người khách đi qua. Tếng chó sủa hàng loạt làm cho anh ta muốn tìm hiểu về ngôi làng. Anh ta đến gần một người đàn bà để hỏi chuyện, thế nhưng anh ta vô cùng ngạc nhiên bởi vì chính người đàn bà đã nói với anh ta bằng cách sủa.

Anh ta lại tiếp tục điều tra và càng ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy tiếng nói của bất kỳ ai trong làng cũng chỉ là tiếng sủa mà thôi. Và rồi anh ta đã kết luận:

– Chắc hẳn đây là một thứ bệnh dịch cần phải báo cho hội đồng làng để tìm cách chữa trị.

Gặp ông chủ tịch, anh đã đề nghị trước hết phải phá đổ những bức tường và cổng nhà. Tiếp đến là đưa chó vào rừng để săn bắn nhờ đó chúng sẽ trở nên hiền hòa hơn. Và sau cùng, tổ chức một ngày đại hội để mọi người làm quen với nhau và tập nói lại ngôn ngữ của loài người.

Vừa nghe xong, ông chủ tịch cũng chỉ thốt lên những tiếng gâu gâu như tiếng chó sủa. Anh ta buồn bã bỏ làng ra đi. Sau lưng còn vang vọng những tiếng sủa không phải của chín mươi chín con chó, mà còn có sự phụ họa của cả dân làng.

Trong cuộc sống chúng ta thấy quyền tư hữu là điều căn bản, nó gắn liền với sự sinh tồn. Xây một ngôi nhà, dựng một bức tường là để thể hiện quyền lợi ấy. Ai cũng muốn của cải của mình được an toàn.

Thế nhưng, sự phòng vệ nào cũng có thể đưa tới cực đoan. Thay vì phòng vệ để sống thì người ta chỉ còn sống để mà phòng vệ. Thay vì sống với người khác, thì họ chỉ sống để chống lại người khác. Cuộc đời dần dần mất đi ý nghĩa của nó, người ta không còn sống như con người mà chỉ còn sống với nhau như những con vật, đúng như một câu danh ngôn đã diễn tả:

– Người với người là chó sói của nhau.

Sống như con người hay sống như con vật đó là một thách thức ngàn đời của nhân loại. Muốn sống như con vật chúng ta chỉ cần trang bị cho mình ngôn ngữ và nanh vuốt dễ gầm gừ và cắn xé lẫn nhau. Còn nếu muốn sống như con người, chúng ta cần phải đánh đổ mọi bức tường ngăn cách, cần phải bẻ gẫy mọi nanh vuốt và nói với nhau bằng ngôn ngữ của tình yêu, của cảm thông, của tha thứ… Có nghĩa là chúng ta cần phải thực thi lời Chúa truyền dạy:

– Hãy yêu thương anh em như chính bản thân mình.

 

28. Mến Chúa yêu người.

Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.

Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều răn này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm hại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Kitô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và yêu thương chúng ta.

Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: tạ ơn Đức Kitô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Kitô và nhất là được hiệp thông với Ngài, chúng ta xin được thêm mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.

Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Kitô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Kitô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.

Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.

Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.

Cái hợp lý theo suy luận của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.

Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.

 

29. Thưa Thầy đâu là giới răn trọng nhất?

(Suy niệm của Lm Việt Toàn)

Vào thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ Do Thái truyền dạy không phải chỉ giữ 10 giới răn mà là 613 khoản luật. Trong số này có 365 luật truyền, luật tích cực, tương ứng với số ngày trong năm, và 248 luật cấm, luật tiêu cực, tương ứng với con số bộ phận trong cơ thể theo suy luận của người Do Thái. Đối với các luật sĩ thời Chúa Giêsu thì giới răn nào cũng quan trọng, bỏ 1 điều là bỏ cả lề luật.Thế nhưng trong thực tế,chẳng người Do Thái nào có thể giữ được tất cả 614 khoản luật. Vậy, làm sao có thể trở nên trọn lành? Người ta đã phải tìm xem khoản luật nào quan trọng hơn để cố gắng tuân giữ triệt để, còn khoản luật nào kém quan trọng thì giữ được chừng nào hay chừng ấy.

Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô ghi nhận lại cho chúng ta một sự việc trớ trêu. Một luật sĩ, giới người này thường tự hào về sự hiểu biết về luật, và có quyền giải thích luật lại đi hỏi Chúa Giêsu mà đối với người Do Thái không thuộc nhóm luật sĩ. Vì thế câu hỏi: “thưa thầy đâu là giới răn trọng nhất ” của luật sĩ này mang tính tra vấn xem Chúa Giêsu theo phe nhóm nào hơn là tìm kiếm chân lý.Phần Chúa Giêsu, bất chấp ý đồ của người hỏi, Ngài hướng mọi người nghe lời Ngài đến một điểm then chốt của lề luật, là Thánh ý Thiên Chúa:”Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình” và Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm:”không có giới răn nào lớn hơn các giới răn ấy”.

Xét một cách tổng quát, câu hỏi của luật sĩ trong Tin Mừng hôm nay cũng là câu hỏi quen thuộc của rất nhiều người vụ hình thức và ưa số lượng.

Đối với những việc phải làm, những điều phải tuân giữ, họ thường xét xem có quan trọng hay không. Nếu không quan trọng thì không làm, không giữ, hay chỉ làm và tuân giữ khi nào thuận tiện. Những công việc mà họ biết là quan trọng, thì họ còn cẩn thận xem xét tuân giữ và làm bao nhiêu là đủ, bỏ qua bao nhiêu lần thì không mắc tội trọng. Cách sống đạo như thế có khác gì luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu người đi dự lễ Chúa nhật thản nhiên đến nhà thờ sau bài đáp ca hay vội vã ra về khi cộng đoàn còn đang rước lễ vì lý luận rằng: chưa mất một phần quan trọng của Thánh lễ.

Đối với những điều luật cấm cũng vậy. Cố gắng lắm họ mới không phạm đến những điều họ biết là tội trọng. Còn nếu biết là chỉ mắc tội nhẹ thì họ yên trí. Chỉ nguyên đặt vấn đề:” làm việc này, việc kia có tội hay không ” đã là một bất xứng đối với một Kitô hữu chân chính rồi.

Thưa anh chị em, Lời Chúa dạy chúng ta sống mến Chúa yêu người và mọi người chúng ta đều thuộc lòng giới răn đó. Nhưng trong chúng ta vẫn có những người sống đạo như biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu. Lý do là vì họ thiếu tình yêu, hay đúng hơn họ chỉ yêu mình chứ không yêu Chúa và yêu thương người khác.

Vì không yêu Chúa nên người ta chỉ thi hành những điều Chúa dạy một cách miễn cưỡng, tắc trách, qua lần chiếu lệ.

Vì không yêu mến Chúa nên người ta không sợ làm phiền lòng Chúa trong những điều ít quan trọng. Có tránh phạm tội trọng chẳng phải là để kính sợ Chúa mà là vì sợ chết sa hoả ngục.

Vì lòng không yêu người cho nên trong cuộc sống không cần tôn trọng quyền lợi, danh dự, phẩm giá của bất cứ ai. Điều ngăn cản để người ta không xúc phạm đến anh em, không sa phạm vào tội ác, cũng chỉ là vì sợ phải sa hoả ngục. Còn nếu không tin có hoả ngục, thì dầu còn tin vào Thiên Chúa, người ta vẫn dám phạm đủ mọi loại tội trái nghịch với đức bác ái và yêu thương.Đó là một hậu qủa của một lòng đạo thiếu trái tim, thiếu tình yêu, không muốn tuân giữ giới răn mến Chúa và yêu người.

Tóm lại: chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới có thể yêu thương đến vô cùng. Chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay một người mất trí. Tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa sẽ đưa mỗi chúng ta về với anh em. Tình yêu anh em đòi mỗi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục yêu tha nhân trong Chúa và yêu Chúa nơi tha nhân.

 

30. Hai giới răn.

Một trong các công việc thiêng liêng nhất mà một người Hồi giáo có thể làm là thực hiện việc đi đến Méc-ca, nơi sinh của Môhamét. Đó là một trong năm điều căn bản nhất của đạo Hồi.

Ngày xưa có ông vua mèo thực hiện một cuộc hành hương đến Méc-ca. Khi ông vua mèo trở về, ông vua chuột thấy mình có bổn phận phải đến chúc mừng vua mèo. Nhưng khi những con chuột khác nghe được điều ấy, chúng lo sợ cho sự an toàn của nhà vua. “Mèo là kẻ thù của chúng ta, nhà vua không thể tin hắn được”. Chúng nói.

“Ồ, giờ đây ông ấy đã đi hành hương Méc-ca, ta hy vọng nhìn thấy một sự thay đổi lớn lao nơi ông ta. Ta nghe nói ông ta đã cầu nguyện năm lần mỗi ngày”, vua chuột đáp lại.

Thế là vua chuột ra đi. Khi đến vương quốc của mèo, vua chuột nhìn thấy đối thủ của mình từ xa và những gì vua chuột nhìn thấy thật ấn tượng. Vẫn còn mặc bộ y phục hành hương, vua mèo đang đắm chìm trong kinh nguyện. Tuy nhiên khi vua chuột vừa mới đến gần hơn, vua mèo đã nhảy đến để vồ chụp con mồi. May mắn là vua chuột đã nhanh chân trốn thoát xuống một cái lỗ. Sau đó nó gặp lại những con chuột khác.

“Nhà vua du hành thế nào”? Đám bề tôi chuột nóng lòng hỏi. “Có thật là kể từ lúc ông ta đi hành hương Méc-ca về, ông ta là một con mèo đã thay đổi?”

“Tôi e rằng anh em đã nói đúng”, vua chuột đáp. “Mặc dầu hắn cầu nguyện như một người đi hành hương, hắn vẫn cứ vồ chúng ta như bất cứ con mèo nào”.

Tách rời hai giới răn cao trọng thì dễ dàng biết bao và nghĩ rằng chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận.

Hai giới răn ấy có quan hệ qua lại với nhau một cách thiết yếu. Lòng yêu thương chân thành người lân cận trào ra từ lòng yêu mến Thiên Chúa; mặt khác, không thể có lòng yêu mến Thiên Chúa chân thành nếu lòng yêu mến này không được thể hiện bằng lòng yêu thương người lân cận. Điều này còn tốt hơn việc dâng của tế lễ. Người ta dễ dàng lấy nghi thức thế chỗ cho tình yêu thương. Và rồi người ta đi đến một thứ tôn giáo không có tình yêu thương.

Tội lớn nhất của chúng ta không phải là chúng ta không yêu thương người lân cận mà là chúng ta không thèm biết đến họ. Như thế, làm sao có thể là người lân cận của họ theo ý nghĩa của Tin Mừng? Điều tệ nhất là sự lãnh đạm, thờ ơ.

Kinh Thánh nói chúng ta phải yêu thương người lân cận và cũng phải yêu cả kẻ thù của mình. Theo G.K. Chesterton, lý do của điều này có lẽ là một cách tổng quát, họ cùng là một dân tộc. Và có một lý do nhân bản của điều đó. Chúng ta nghĩ về một người xa lạ trên con đường thẳng: thế thì chúng ta nghĩ về người ấy như một con người. Nhưng chúng ta không nghĩ về người ấy giống như người lân cận ở kế bên nhà chúng ta. Người ấy không là một con người mà chỉ là một môi trường: một tiếng chó sủa, hoặc tiếng mũi khoan hay tiếng dương cầm.

Nhiều người gặp các vấn đề khó khăn do một người đặc biệt gây ra. Người này có thể là một người láng giềng hoặc là một thành viên trong gia đình. Chúng ta có thể làm gì? Chúng ta nên tránh hành động kiểu ăn miếng trả miếng. Làm như thế chỉ làm cho tình tình xấu thêm. Chúng ta phải cố gắng duy trì sự liên lạc với người ấy, dù rằng chỉ là vấn đề nói một tiếng chào buổi sáng hoặc buổi tối. Và rồi chúng ta phải cầu nguyện cho người ấy. Nếu chúng ta có thể cầu nguyện cho một người một cách chân thành thì điều này giữ cho tâm hồn chúng ta khỏi chất chứa những điều đắng cay và thù hận.

Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy gieo trồng yêu thương và sẽ gặt được yêu thương.

Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy đem đến yêu thương và sẽ tìm thấy yêu thương.

Tôi tìm Thiên Chúa và đã không thấy Người.

Tôi tìm linh hồn tôi và nó tránh né tôi.

Tôi tìm người lân cận và đã tìm thấy cả ba.

 

31. Thiếu sót.

Thiếu sót tình yêu thương là thiếu sót lớn của Kitô hữu. Khổ nỗi, ít khi nó được xem như một tội. Người ta thừa nhận là có tội khi nó gây thiệt hại cho người lân cận nhưng không coi là tội khi thiếu sót hoặc từ khước yêu thương.

Người ta kể lại một câu chuyện về người bán chiếc xe “dỏm” cho một người nước ngoài, rồi đi xưng tội. Sau đó, người ấy gặp một người bạn cũ trong quán rượu. Khi người bạn này nghe nói ông ta đã đi xưng tội, liền nói “Tôi hy vọng anh đã kể lại cho linh mục nghe anh lừa gạt người mua xe như thế nào”.

“Đời nào tôi làm thế”, ông ta trả lời. “Tôi xưng ra các tội của tôi cho linh mục. Nhưng linh mục không có quyền biết công việc kinh doanh của tôi”.

Nguy hiểm lớn đe dọa người-đi-nhà-thờ là họ không biết mối liên quan giữa việc họ làm trong nhà thờ ngày Chúa nhật với việc làm trong quan hệ với người lân cận vào những ngày khác trong tuần.

Người ta có thể xem xét lương tâm mình nhưng không đụng gì đến toàn cảnh: Người có lương tâm làm tròn bổn phận của mình, lương thiện trong công việc làm ăn, công bằng, tôn trọng và hợp tác với những người sống cùng một mái nhà v.v… Với những người như thế, tôn giáo tách rời khỏi đời sống và trở thành một vấn đề riêng tư giữa họ và Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, một tôn giáo như thế giống là sự bóp méo, xuyên tạc. Tệ hơn nữa là một điều đáng ghét.

Phân ly hai giới răn lớn ấy là việc rất dễ dàng. Trong một ý nghĩa nào đó, chỉ có một giới răn duy nhất – giới răn của tình yêu. Nó giống như một đồng tiền, một thực thể có hai mặt. Không thể có mặt này mà không có mặt kia, không phải chúng ta ghét những người lân cận của chúng ta. Không, chúng ta không ghét những người lân cận. Nhưng chỉ vì chúng ta khước từ đưa họ vào trái tim chúng ta. Nếu sự thật được nói ra, chúng ta lãnh đạm và thờ ơ với họ.

Mọi người trong chúng ta có khả năng yêu thương to lớn, nhưng khổ nỗi, hiếm khi chúng ta sử dụng hết. Diễn viên Christopher Reeve, nổi tiếng về hình tượng siêu nhân mà ông thể hiện trong phim ảnh. Tuy nhiên, trong một tai nạn té ngựa, ông bị liệt từ cổ trở xuống và phải ngồi xe lăn. Ông nói ông đã nhận được 100.000 lá thư bày tỏ thiện cảm và sự ủng hộ của quần chúng. Điều này dẫn ông đến chỗ hỏi rằng: “Tại sao cần phải có một bi kịch trước khi chúng ta bày tỏ sự cảm kích của chúng ta đối với một người khác?”

Chúng ta bày tỏ điều đó quá chậm và đầy sự hối tiếc. Chúng ta chờ cho đến khi quá muộn để nói và tỏ cho người khác thấy rằng chúng ta yêu họ. Chúng ta bày tỏ quá muộn ý muốn sửa chữa một mối bất hòa, quá chậm nỗi vui mừng về sức khỏe và quà tặng của con cái hoặc cha mẹ chúng ta.

Đức Giêsu nói với người Kinh sư: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu!” Biết rõ về hai giới răn quan trọng nhất là bước đầu tiên. Đem chúng ta thực hành là bước thứ hai. Chúng ta không còn xa nước Thiên Chúa là bao – Chỉ cần thêm một bước nữa. Để thực hiện được bước này, chúng ta cần Thiên Chúa chạm tay Người vào tâm hồn chúng ta.

 

32. Hoàn hảo hơn

(Suy niệm của Lm. P. Huỳnh Ngọc Tiên)

Chúa Giêsu đã từng phán: “Ta đến không phải để phá luật lệ mà để làm trọn”. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay minh chứng điều đó: “Luật mới hoàn hảo hơn luật cũ.”

Phúc Âm, (bài đọc 3) kể lại người luật sĩ kia, có vẻ lúng túng vì luật lệ đạo cũ quá nhiều và phức tạp, đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Và Chúa Giêsu, sau khi kê hai giới răn, mến Chúa, yêu người, đã thêm rằng: “Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.” Chúa không đưa ra điều răn nào mới lạ cả. Điều răn thứ nhất rút ra trong sách Đệ nhị luật (bài đọc 1) ông Môisen bảo dân Do Thái: “Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi…” Điều răn thứ hai rút trong sách Lêvi (19,18): “Ngươi sẽ không báo oán cừu hờn với các dân ngươi, nhưng ngươi sẽ yêu mến đồng loại ngươi như chính mình…” Có điều mới lạ chăng? Là Chúa ráp hai giới răn đó lại làm một: vì quan trọng như nhau và không tách rời nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng mến Chúa thì càng yêu người. Yêu người, không những bà con bạn hữu mà lại cả kẻ thù nghịch nữa. Chính ông luật sĩ cũng đã tán đồng ý tưởng Chúa: “Đúng lắm! Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình và yêu người như chính mình, thì hơn mọi lễ hy sinh”.

Trong thơ gởi tín hữu Do Thái (bài đọc 2), Phaolô cũng minh chứng Giao Ước mới hoàn hảo hơn Giao Ước cũ. Thánh nhân lấy ví dụ người tư tế. Theo Cựu Ước, người tư tế và lễ vật hiến tế khác nhau. Theo Tân Ước, Tư tế và lễ vật cũng là một. Chúa Giêsu vừa là Thầy Tư tế vừa là Lễ vật. Chúa tự dâng mình làm lễ tế thượng tiến Chúa Cha. Xưa phải có nhiều tư tế: vì các tư tế hay chết, nên phải có nhiều để tuần tự nối tiếp nhau mà tế lễ. Nay một mình Chúa Giêsu, vì Người không chết nữa, là thượng tế đời đời. Lễ Misa hằng ngày cũng là lễ tế xưa Chúa truyền lại để nhắc đến Người: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Ta”. Vậy Phaolô quả quyết rằng: “Người làm việc ấy chỉ có một lần, khi hiến dâng chính mình. Vì lề luật thì đặt nhiều người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau lề luật, thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng Tế đến muôn đời”. Cho nên Lễ tế mới hoàn hảo hơn Lễ tế cũ.

Có xưa mới có nay, có cũ mới có mới, luật cũ, luật mới cũng đều do Chúa ban ra cả. Chúa dùng Môisen truyền rao luật cũ, Chúa sai Con Một mình là Đức Kitô rao truyền luật mới. Chúa dùng vật chất cụ thể đưa lần người ta đến trừu tượng thiêng liêng. Tân Ước chính là viên mãn Cựu Ước mà Chúa là tác giả chính: Vì chỉ có mình Chúa mới có quyền ra lề luật cho nhân loại.

Tân Ước hay Cựu Ước đều là Lời Chúa hay ban sự sống. Chúng ta có bổn phận phải lĩnh hội để được sống. Như Chúa Giêsu đã phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Ý thức như thế, âu là được Chúa cũng sẽ bảo như đã bảo ông luật sĩ: “Ông không xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”.

 

33. Cầu thang.

Chúng ta sống trong một thời đại nó khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử các ứng viên vào cơ quan công quyền thường gợi ý cho những người có quyền bỏ phiếu: “Ngày hôm nay, tôi có khá hơn bốn năm trước đây không?” Điều đánh vào ích kỷ cá nhân này thành công nhiều hơn khi hỏi các người có quyền bỏ phiếu: “Có phải xã hội hôm nay tốt hơn trước kia không?”

Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa quan tâm sâu sắc về cách đối xử của chúng ta với nhau. Ơn gọi của chúng ta là yêu thương. Và, bất chấp mọi việc, chúng ta được tác động bởi lòng vị tha. Chúng ta đau nỗi đau của người khác. Chúng ta cảm thấy mình được triển nở khi làm điều tốt lành, hơn cả khi tạo ra nhiều vật chất và tiền bạc. Tính quảng đại đem lại phần thưởng của chính nó. Niềm vui tuôn trào từ bên trong chúng ta khi chúng ta làm một việc tốt lành vì người khác. Nhưng khi chúng ta từ chối làm một việc tốt lành cho người khác, thì một nỗi buồn xa lạ chụp xuống chúng ta.

Maimonides là một vị thầy Do thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám cấp độ, hay tám bước trong cái gọi là cầu thang của bác ái.

  1. Cấp độ thứ nhất và thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng và hối tiếc. Đó là sự bố thí của bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm lòng.
  2. Cấp độ thứ hai là sẵn lòng bố thí, nhưng không tương xứng với cảnh khốn cùng của nạn nhân.
  3. Cấp độ thứ ba là sẵn lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu, nhưng không đến mức mà chúng ta được yêu cầu.
  4. Cấp độ thứ tư là sẵn lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu, nhưng đặt nó vào tay của người nghèo, bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một cảm xúc đau đớn và hổ thẹn.
  5. Cấp độ thứ năm là bố thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của bố thí mà không biết đến người cho và người cho cũng không biết họ.
  6. Cấp độ thứ sáu là biết người nhận của bố thí của chúng ta trong lúc không để cho họ biết chúng ta.
  7. Cấp độ thứ bảy là cho của bố thí cách nào để người cho không biết người nhận, hoặc người nhận không biết người cho.
  8. Cấp độ thứ tám và là cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước việc bác ái bằng cách ngăn ngừa sự nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách cho một món quà hoặc cho vay một món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc bằng cách dạy cho họ buôn bán hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ có thể kiếm sống một cách lương thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp đáng buồn là ngửa tay xin bố thí.

“Một trong những điều tốt nhất có thể xảy ra cho một người là làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị phát hiện bởi sự tình cờ”. (Mark Twain)

 

34. Độc đáo.

Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của đạo Công giáo là gì?”. Giáo lý viên đáp: “Là yêu thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên.

Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra hai kết luận hết sức bất ngờ:

1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn người không có đạo;

2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí!

Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao?

Nếu đọc lại Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy ba điểm mới lạ của tình yêu thương trong Kitô giáo như sau:

  1. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
  2. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
  3. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quí hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.

Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng tình yêu thương của đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả những người không có đạo. Lý do có lẽ là vì giáo lý viên ấy không thấy ba điểm độc đáo của tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện ba điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện ba điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo.

 

35. Mến Chúa, yêu người

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ (tiếng Việt), nhưng cũng chỉ là một: “Yêu”. Nghe chừng rất đơn giản, và nghe quá quen tai, thế mà sao khó thể hiện quá!

Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.

Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.

Thật ra Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, nói đúng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng về ý “mến Chúa, yêu người”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).

Những lời nói nghe chừng “nhẹ” mà “nặng” lắm, giản dị mà phức tạp, “xoa” mà “đau” quá! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”.

Thời Cựu ước, Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Đanien về việc triều chính.

Người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong mắt người khác. Người ghét không ai xa lạ là chính những người thât thiết nhất của mình: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, chỉ có người giỏi mới khả dĩ công nhận tài năng của người giỏi.

Ông Đanien “trổi vượt” hơn người khác nên bị ghét, âu cũng là lẽ thường. Trung thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy, nay cũng thế. Người đời “kèn cựa” nhau đã đành, người theo đạo Chúa cũng chẳng hơn gì! Thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều!

Ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Quá thâm độc!

Con người ngày nay vẫn đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo “phong cách” tân kỳ hơn, thế mà vẫn “hãnh diện”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo hội biết phải Tân Phúc Âm hóa, xét lại đức tin của chính bản tân mình trước rồi mới nói tới người khác!

Ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”. Những con người ấy vẫn kiên cường tín thác vào Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:4).

Trước mặt người đời, họ là kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm cầu nguyện và nương tựa vào Chúa. Họ hiên ngang nói: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như tác giả Thánh vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời” (Tv 18:51).

Thánh Phaolô nói: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).

Thư gởi giáo đoàn Do Thái xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế, nói tới thừa tác vụ. Nhưng không, rất “ăn nhập” đấy. Tại sao? Tư tế là những người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên. Vì thế, Chúa hỏi Phêrô không chỉ 1 lần mà hỏi tới 3 lần: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15). Đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thực hiện nghiêm túc, nhất là trong Năm Đức Tin này, để chứng tỏ lòng tin của mình.

Rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”, nhưng vấn đề không chỉ là thuộc lòng và đọc như vẹt, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động bằng hành động cụ thể. Không dễ đâu, tôi ơi!

Thánh Phaolô giải thích: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28).

Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành tấm bánh nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho người khác, nhất là trao cho những con người bé mọn.

Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31).

Nghe có vẻ “đã tai” nên ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trang như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện, còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa.

Thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, Đức Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Nói “mến Chúa” quá dễ, nói “yêu người” cũng quá dễ”. Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN, vì “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Đó mới là… “chuyện lớn”.

Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin vào Ngài qua Đức Kitô, xin giúp chúng con giữ vững và thể hiện đức tin qua từng động thái hằng ngày, bằng cách thật lòng chia sẻ mọi nỗi đau của tha nhân, nhất là những con người nhỏ bé nhất đang ở bên cạnh chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

36. Suy niệm của JKN.

Mến Chúa yêu người là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ

Câu hỏi gợi ý:

  1. Tại sao Đức Giêsu lại ghép hai điều răn khác nhau – mến Chúa, và yêu người – thành một điều răn duy nhất?
  2. Có thể mến Chúa mà không yêu người, hay yêu người mà không mến Chúa được chăng?
  3. Theo tinh thần Tin Mừng, thì giữa việc tham dự các nghi thức phụng vụ và việc thi hành giới răn «mến Chúa yêu người», việc nào cao quí và quan trọng hơn?

Suy tư gợi ý:

  1. Điều răn quan trọng nhất của Kitô giáo

Trong bài Tin Mừng này, ta thấy Đức Giêsu đã ghép hai điều răn được ghi ở hai nơi khác nhau trong Cựu Ước – điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật 6,4-5, điều răn sau trong sách Lêvi 19,8 – làm thành một điều răn duy nhất, một điều răn «kép», nghĩa là một điều răn nhưng hai đối tượng, hay hai mặt khác nhau. Và điều răn «kép» này là điều răn quan trọng nhất trong Do Thái giáo, nhất là trong Kitô giáo. Tại sao lại ghép hai điều răn ấy thành một điều răn duy nhất? Đó là điều đáng chúng ta suy nghĩ.

Thông thường, chúng ta hay phân biệt yêu Chúa và yêu người. Có người cho rằng yêu Chúa quan trọng hơn yêu người rất nhiều, có người lại cho rằng: Chúa thì trừu tượng quá, yêu không nổi, nên yêu người mới là quan trọng. Cũng có người cho rằng có thể yêu Chúa mà không yêu người, và ngược lại. Thực ra, giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là «phải yêu thương», nghĩa là phải có tình yêu, tình thương. Và tình yêu này phải hướng cùng một lúc về hai đối tượng: Thiên Chúa và tha nhân. Và hai đối tượng này không thể tách rời nhau, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: không thể có mặt này mà không có mặt kia. Nghĩa là không thể yêu Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại. Nói khác đi, hễ thật sự yêu Thiên Chúa thì tất nhiên sẽ phải yêu người, như thánh Gioan đã từng nói: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1 Ga 4,20). Và hễ yêu người thật sự thì cũng chính là đã yêu mến Thiên Chúa. Như vậy, tình yêu đối với tha nhân đã ngầm bao hàm tình yêu đối với Thiên Chúa, và ngược lại. Thật vậy, khi nói về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giêsu đã xác định rằng: yêu tha nhân là yêu chính Thiên Chúa (xem Mt 25,40.45). Và thánh Phaolô cũng đã viết: «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”» (Gl 5,14); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2).

  1. Yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa

Đoạn Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến tầm quan trọng tối thượng của giới răn yêu mến Thiên Chúa. Nếu xét một cách tách biệt hai mặt trong giới răn cao trọng nhất này, thì việc yêu mến Thiên Chúa quan trọng hơn việc yêu mến tha nhân. Và con người phải yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Nhưng trong thực tế, không thể có sự tách rời giữa hai mặt ấy được, vì hễ đã thật sự yêu mến Thiên Chúa thì tất nhiên phải đồng thời yêu thương tha nhân. Vì thế, nếu thật sự yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực», thì cũng phải yêu tha nhân «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Đó là điều tất yếu, không thể khác được.

Để tỏ lòng yêu mến, thuận phục và thờ phượng Thiên Chúa, người Do Thái xưa đã sát tế những con chiên, con bò làm của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, thay vì sát tế chính mình, để nói lên quyền tối thượng của Ngài trên mọi sự, trên cả mạng sống mình. Nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự cho Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho ta tất cả và có quyền lấy lại tất cả bất kỳ lúc nào. Ngày nay, chúng ta không còn sát tế chiên bò, cũng không phải sát tế chính mình để nói lên quyền tối thượng của Ngài nữa. Điều chúng ta nên làm, là sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để làm đẹp lòng Ngài, để tỏ ra ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự, nhất là hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… đó chính là một hình thức sát tế và thờ phượng Thiên Chúa cao cả nhất.

Nhưng theo tư tưởng của Đức Giêsu và thánh Phaolô, thì chắc chắn Thiên Chúa muốn ta thể hiện tình yêu của ta đối với Ngài bằng tình yêu dành cho tha nhân, một cách cụ thể là sẵn sàng hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… cho hạnh phúc và sự tốt đẹp của tha nhân.

  1. «Hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực»

Yêu «hết lòng, hết trí khôn» thì quả là một điều khá trừu tượng và xem ra có vẻ dễ thực hiện, vì lòng và trí khôn là thứ không thể đếm được, khó kiểm chứng, và dường như có thể dùng hoài, cho hoài không hết. Nhưng còn việc yêu «hết sức lực» thì quả thật là khó, vì lực là một cái gì mang tính vật chất, rất cụ thể, và rất hạn chế. Sức lực ở đây nói một cách cụ thể là thì giờ, tiền bạc, của cải, sức khỏe, công lao. Vì nó giới hạn, nên ta không thể cho một cách thoải mái được. Cho thì hao tổn, thì sẽ hết. Nhưng có yêu «hết sức lực» thì mới chứng tỏ được là đã «yêu hết lòng, hết trí khôn». Ai nói rằng mình yêu Chúa, yêu người «hết lòng, hết trí khôn» mà lại không yêu «hết sức lực» – cụ thể là sẵn sàng hy sinh thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công lao cho Chúa, cho tha nhân – thì người ấy nếu không nói dối thì cũng là kẻ ảo tưởng về chính mình. Chắc chắn Chúa muốn chúng ta thay vì hy sinh những thứ ấy cho Chúa, thì hãy hy sinh cho tha nhân, vì hy sinh cho tha nhân chính là hy sinh cho Chúa.

  1. «Điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ»

Rất nhiều Kitô hữu không hiểu được cốt yếu của việc giữ đạo là gì, họ cho rằng việc đọc kinh, đi lễ, chịu các bí tích là những điều quan trọng nhất. Và họ cố gắng thực hiện những điều ấy một cách toàn hảo. Nhưng thật ra, tất cả những thứ ấy chỉ là phương tiện để giúp người Kitô hữu thực hiện được giới răn quan trọng nhất là «mến Chúa, yêu người». «Mến Chúa, yêu người» chính là mục đích của những việc đạo đức trên. Nếu thực hiện những phương tiện ấy mà không đạt được mục đích của chúng thì thử hỏi việc thực hiện ấy ích lợi gì?

Trong bài Tin Mừng, ông kinh sư nói: «Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ». Lời đó đã được Đức Giêsu xác nhận là khôn ngoan, đúng đắn. Cứ theo tinh thần câu nói ấy thì yêu Chúa và thương người hết sức mình quan trọng và quí giá hơn việc tham dự các nghi thức phụng vụ, các bí tích, các kinh nguyện. Chính Đức Giêsu mạc khải cho ta biết điều ấy khi nói về ngày phán xét cuối cùng: Thiên Chúa không hề phán xét về việc ta có tham dự các nghi thức phụng vụ hay không, hay tham dự thế nào, mà chỉ xét về việc ta đã làm gì để tỏ ra mình yêu thương tha nhân mà thôi. Đức Giêsu đã tỏ ra trọng phong cách đối xử với tha nhân, sự hòa thuận với những người chung quanh còn hơn việc dâng lễ vật toàn thiêu cho Thiên Chúa nữa (xem Mt 5,23-25).

Biết bao người chu toàn hết sức tốt đẹp những nghi thức phụng vụ mà lại đối xử với tha nhân chẳng ra làm sao, chẳng có tình có nghĩa gì cả, thì thử hỏi đạo đức kiểu ấy có ích lợi gì cho họ trước mặt Thiên Chúa trong ngày phán xét?

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Đức Giêsu có nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy mới được vào mà thôi. Vì thế, trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ sao?” và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”» (Mt 7,21-23). Xin cho con hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời nói đó. Xin cho con nhận ra điều quan trọng nhất trong đạo của Cha mà con phải tuân giữ là thực hiện thánh ý Cha, mà điều cốt yếu nhất của thánh ý Cha chính là mến Chúa – cũng là yêu người – hết lòng hết sức. Amen.

 

37. Giới răn trọng nhất.

Ngày đầu tiên bé vào trường nội trú. Bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Bé tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ, đủ loại này. Nhưng đến chiều, bé gặp bà hiệu trưởng. Bé thấy bà thật hiền hậu, dễ mến. Bà có nụ cười đầy thiện cảm. Bé thấy mến bà và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chẳng có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.

Trong Do thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu, Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: Mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ YÊU.

Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do thái thì vẫn giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một giao ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong tình cha con. Chúng ta sống với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.

Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng dựa trên liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta nhận Thiên Chúa là cha và mọi người là anh chị em ruột thịt.

Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên mức độ tuyệt đỉnh: phải yêu anh em như yêu Chúa. Ai giúp đỡ một người bé mọn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.

Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Ngài như một người cha, nhưng tình yêu này phải được biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu mến anh em mới chứng tỏ mình yêu mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.

 

38. Chú giải của Noel Quesson.

Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi.

Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?

Đoạn Tin Mừng Chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện “cho các quốc gia” (Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,” Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn “cây vả bị khô héo”, Người đã nói “Con Người” đến tìm quả nhưng không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ họp, Đức Giêsu đã tranh luận, “bị tấn công”, “phản công”. Những cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị khích động mỗi lúc càng lên cao.

Những đề tài nóng bỏng nhất được đề cập:

“Do quyền lực nào mà ông thi hành những việc ông đang làm” (Mc 11,27-33).

“Chủ vườn nho sẽ làm gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình” (Mc 12,1-12).

– Có phải đóng thuế cho quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).

– “Số phận của những người chết bên kia thế giới như thế nào?” (Mc 12,18-27).

Chính trong bối cảnh này mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp tục hỏi Người.

Chúng ta có khuynh hướng “đóng khung” đời sống tôn giáo của mình trong vòng “riêng tư” trong việc “thờ phụng” không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố xá, nghề nghiệp chính trị?

Điều răn nào đứng hàng đầu?

Ham mê tha thiết của Israel là luật, bộ Thorab. Trong những “trường dạy Đức tin” gọi là Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành nhiều giờ để “nghiên cứu học hỏi”. Kinh thánh, và những lời chú giải trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo luận, người ta “chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn” của Thiên Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ để “nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?

Câu hỏi mà vị kinh sư đặt ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613 điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: “Những gì ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi” Rabbi Akiba hầu như cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu thương đồng loại.

Còn Ngài, hỡi Rabbi Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?

Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”.

“Phải phụng sự Chúa trước hết”. Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi? Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?

Phúc thay những kẻ biết lắng nghe Lời Hằng Sống!

“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe” Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết “lắng nghe”, và để cho Thiên Chúa giáo huấn.

Điều Chúa trích dẫn trên đây là kinh “Shema” Israel (Đnl 6,4-5).

Đó là kinh cầu nguyện hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.

Khẳng định chính yếu của đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của các Kitô hữu, của người Hồi giáo.

Rất tiếc là những dịch giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do Thái. Maccô đã không nói: “Thiên Chúa là Chúa duy nhất”. Ong nói thật đơn giản nhưng rất mạnh: “Thiên Chúa là một”. Những sách kinh thánh Do Thái thì dịch: “Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ “một” có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ “duy nhất”. Các bạn có cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn “hợp nhất”. Người sở hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn “lưu chảy”, làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống mới.

Người phải yêu mến Đức Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?

Thiên Chúa thật vĩ đại! Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con người. “Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Tôi có yêu Thiên Chúa không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác. Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến”, nếu không phải là yêu mến Người? Có thật là bạn thương yêu Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức” không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho tình yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến những trách vụ tập thể bên ngoài.

Điều răn thứ hai là…

Vâng, ở đây chúng ta biết rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.

Ngươi phải thương yêu người thân cận như chính mình.

Cần phải phân biệt rõ hai điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm một, như thế “yêu Thiên Chúa” là đủ, hay “thương yêu anh em” cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được. Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!

Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.

Đây là một tư tưởng rất tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ “điều răn” trước dùng ở số ít, như là chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.

Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.

“Nước Thiên Chúa” đã được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.

Người kinh sư Do Thái này sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. “Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ cần thêm hai chữ “như Ta” để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ vương quốc cũ và mới: “Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12). Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu thứ nhất mà ra!

 

39. Yêu thương bằng việc làm.

(Trích trong ‘Đối thoại với Thiên Chúa’ – Fernandez)

  1. Giới răn trọng nhất.

Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân ước, cũng như sự hoàn hảo trong Mặc Khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc một, chúng ta được nghe giới răn thứ nhất được tuyên đọc bằng những lời rõ ràng: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi. Câu Thánh Kinh này rất quen thuộc với tất cả những người Do Thái. Họ lặp lại giới răn này hai lần mỗi ngày, trong giờ kinh Sáng và kinh Tối của họ.

Trong bài Phúc âm, chúng ta được nghe về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với một vị kinh sư. Ông này đã lắng nghe cuộc đối thoại giữa Chúa và những người Sa-đốc. Vị kinh sư có một ấn tượng về cách Chúa trả lời những vấn nạn. Và ông đã hỏi Chúa về giáo huấn của Người: Thưa Thầy, giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu dừng lại một chút trước câu hỏi thành tâm này, mặc dù Người thường nghiêm nghị với những kinh sư và những người Biệt Phái. Vào cuội cuộc trao đổi, Chúa đã nói những lời đầy khích lệ với vị kinh sư: Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúa Giêsu luôn sẵn lòng dành thời giờ cho những linh hồn quan tâm đến Người. Chúa đã nhắc lại những lời trong Thánh Kinh: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi…

Đây chính là giới răn trọng nhất trong mọi giới răn, là giới luật tóm kết và cao điểm của mọi giới luật. Nhưng ý nghĩa của tình yêu này hệ tại ở điều gì? Trong một bức thư tưởng tượng viết cho thánh Phanxicô Salê, Đức Hồng Y Luciani – tức là Đức Gioan Phaolô I sau này – đã đưa ra câu định nghĩa như sau: Theo ngài, người yêu mến Chúa phải lên con tàu của Chúa, quyết tâm theo con đường các giới luật của Chúa, dưới sự hướng dẫn của các vị đại diện của Chúa, và trong những tình huống và hoàn cảnh cuộc sống Chúa đã cho xảy đến. Ngài đã tưởng tượng ra cuộc phỏng vấn hoàng hậu Marguerite, khi bà sắp sửa lên đường gia nhập đạo quân Thánh Giá cùng chồng là vua thánh Louis IX của nước Pháp: ‘Thưa quí bà, quí bà định đi đâu?’ Đức vua đi đâu, tôi đi đó’. ‘Nhưng quí bà đâu có biết đích xác đức vua đi đâu không?’ ‘Đức vua đã cho tôi biết tổng quát. Tôi không quan tâm đến việc biết đích xác nơi đức vua sẽ đến, tôi chỉ quan tâm đến việc được cùng đi với đức vua’… Đức vua là Thiên Chúa, và chúng ta tất cả là những hoàng hậu Marguerites nếu chúng ta thực tâm yêu mến Người…

Sống với Thiên Chúa, chúng ta cảm nghiệm như một con trẻ trên tay mẹ hiền; dù Người ẵm chúng ta bên tay phải hoặc bên tay trái: chúng ta hãy để tùy ý Người. Chỉ có một điều can hệ: đó là được sống bên Chúa Giêsu. Dù ở đâu, dù chúng ta chịu đau khổ nào, dù thành công hay thất bại – tất cả phải được chúng ta đón nhận. Hoàn cảnh dù thế nào cũng phải giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa hơn. Chúng ta hãy sống theo lời khuyên của thánh nữ Têrêsa: Đừng để sự gì làm bạn xao xuyến; Đừng để điều gì làm bạn kinh hãi; Mọi sự đều qua đi; Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Sự nhẫn nại đạt được: Tất cả những gì nó gắng đạt đến. Ai có Thiên Chúa sẽ thấy mình không thiếu thốn gì; Một mình Chúa là đủ cho ta.

  1. Đáp lại tình yêu Chúa.

Hôm nay, chúng ta cầu nguyện trong phần đáp ca:

Con yêu mến Chúa, lạy Giavê, sức mạnh của con.

Chúa là đá tảng, là đồn lũy, là đấng giải thoát con. Lạy Chúa Trời con, Người là thuẫn đỡ, là uy tế độ, là đồn trú của con.

Thánh Vịnh 17 có thể được coi là kinh Te Deum vua Đavít đã thân thưa với Chúa. Vua muốn cám tạ Thiên Chúa về tất cả những sự trợ giúp đã nhận được trong cả cuộc đời Chúa đã giải thoát vua khỏi mọi địch thù. Người đã ban cho vua được chiến thắng các dân ngoại. Sau cuộc khởi loạn của Absalom, Chúa đã trả lại thành Jerusalem cho vua. Lúc nào, vua cũng nhận được sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, vua đã dâng lên Chúa lời cám tạ và tình mến: Lạy Chúa, sức mạnh của con, con yêu mến Chúa. Chúa luôn luôn là đồng minh của vua Đavít, là thành lũy, là nơi nương ẩn, và là khiên thuẫn chở che cho vua… Chúa luôn luôn bảo trợ cho vua: Người giải thoát tôi, bởi vì Người hài lòng với tôi. Mỗi người chúng ta cũng có thể lặp lại những lời như thế. Nhân tố quyết định cho cuộc đời chúng ta chính là việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thực tại này phải làm cho lòng chúng ta ngập tràn niềm an ủi và hy vọng: Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Mầu nhiệm Nhập Thể là biểu hiện tối cao của tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người. Tình yêu này còn có trước thời điểm Nhập Thể, vì phát sinh từ bản tính Thiên Chúa: Ta đã yêu thương các người bằng một tình yêu muôn thuở. Tình yêu này đã có trước khi tạo thành trời đất. Thánh Thomas dạy rằng tình yêu này là nguồn mạch mọi ân sủng của chúng ta.

Nhưng điều còn kinh ngạc hơn nữa là tình yêu Thiên Chúa đã được trào đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, đấng đã được ban tặng cho chúng ta. Thánh Augustine đã viết: Chúng ta đã được yêu thương ngay cả khi chúng ta vô tâm nhất. Thiên Chúa đã muốn ban cho chúng ta một điều gì đó để chúng ta ca ngợi Người. Thánh nhân còn nói: Hãy nghe đây! Hãy nghĩ về cách bạn đã được yêu thương khi bạn không đáng được thương yêu. Hãy lắng nghe, bạn đã được thương yêu như thế nào khi bạn vụng về và xấu xa, khi bạn chẳng có gì đáng được yêu thương. Bởi vì bạn đã được thương yêu trước, bạn đã được tạo dựng để được yêu thương.

Chúng ta lẽ nào lại không đáp trả một tình yêu như thế hay sao? Thiên Chúa mời gọi chúng ta yêu mến Người bằng việc làm và bằng những cảm tình của con tim. Mỗi ngày, chúng ta hãy tìm hiểu thêm về nhân tính thánh thiện của Chúa Giêsu, đó là con đường tốt nhất để đến cùng Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha hằng yêu thương Chúa Con. Người cũng yêu thương chúng la: Cha đã yêu chúng như Cha đã yêu Con. Người càng yêu thương chúng ta hơn nữa khi chúng ta yêu mến Con của Người: Ai yêu mến Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy.

Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm. Tình yêu được thể hiện trong sự tín thác như con trẻ đến cùng người cha khi gặp sự khó. Đây là việc của mỗi ngày. Chúng ta hãy có một tinh thần tri ân vui tươi về bao phúc lành đã được lãnh nhận. Chúng ta hãy tín trung như những người con thảo hiếu đối với Thiên Chúa, trong những nơi Người đã đặt định cho chúng ta. Trong lâu đài của Thiên Chúa, chúng ta hãy chấp nhận bất kỳ vị trí nào: người nấu nướng hoặc người rửa bát, người phục vụ, người làm bánh, người giữ ngựa. Nếu đức vua muốn gọi chúng ta vào số quần thần ưu tú, chúng ta hãy sẵn sàng mà không xao xuyến, chúng ta biết sự ban thưởng không tùy thuộc vào địa vị, nhưng vào sự tín trung với nhiệm vụ được giao phó. Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc với địa vị của chúng ta. Bao nhiêu lần lẽ ra chúng ta phải thưa với Người: Lạy Chúa, con yêu mến Chúa…, nhưng xin dạy con biết yêu hơn nữa, yêu thật nồng nàn!

  1. Tình yêu thể hiện bằng việc làm.

Một nhà viết tiểu sử thánh nữ Têrêxa Avila đã mô tả tình mến tinh tế từ những ngày đầu của đan viện thánh Giuse: Khi thiếu thốn tiền bạc, các nữ tu sẵn lòng dùng bánh khô, nhưng họ chẳng bao giờ thiếu nến sáp để thắp sáng bàn thờ và những đồ phụng tự đều là thứ tuyệt hảo hết sức có thể. Một linh mục lấy làm khó chịu: ‘Cái gì! Một chiếc khăn để lau tay trước khi dâng lễ mà cũng phải tẩm thuốc thơm à?’ Với dung mạo tốt lành rạng ngời lửa mến, mẹ Têrêxa đã nhận phần trách nhiệm: ‘Chính vì tôi mà các chị em đã mắc sự bất toàn này. Nhưng khi tôi nhớ rằng Chúa đã quở trách bọn Biệt Phái vì không tiếp rước Người xứng đáng, thì tôi lại ước ao mọi sự trong thánh đường này, bắt đầu từ ngưỡng cửa, đều được tẩm dầu thơm…’ Chúa rất coi trọng những biểu hiện tình yêu chân thành như thế.

Chúng ta hãy tỏ lòng mến Chúa bằng cách trung thành giữ trọn những giới luật của Người và chu toàn những bổn phận của chúng ta giữa trần gian. Lòng mến của chúng ta sẽ được minh chứng qua việc gớm ghét tội lỗi và mọi dịp tội, qua việc thực thi tình yêu trong những chi tiết nhỏ mọn như bái quì nghiêm trang, giữ đúng giờ những việc đạo đức, cung kính chào ảnh Đức Mẹ… Chính nhờ những việc đạo đức nhỏ bé này mà chúng ta giữ được ngọn lửa tình yêu Chúa của chúng ta được bừng cháy.

Mọi việc chúng ta dâng lên Chúa chỉ có một giá trị tương đối nếu so với tình yêu đi trước của Chúa. Thiên Chúa yêu thương tôi. Thánh Gioan Tông đồ viết: ‘Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Người đã yêu thương chúng ta trước’. Và như thế dường như vẫn chưa đủ, nên Chúa Giêsu đã đến với từng người chúng ta, mặc dù chúng ta dơ nhớp, để hỏi chúng ta giống như Người đã hỏi Phêrô: ‘Simon, con Giona, con có mến Thầy hơn những người này không?’

Đây là lúc chúng ta phải trả lời: ‘Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa!’ Tuy nhiên, chúng ta hãy khiêm tốn xin thêm: ‘Nhưng xin giúp con yêu mến Chúa hơn nữa. Xin gia tăng lòng mến cho con!’.

 

40. Thánh thiện là đức ái trọn hảo

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)

Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B, chúng ta thấy được 4 điều sau đây:

Thứ nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu dạy chúng ta chẳng những phải kính mến Chúa hết mình mà còn phải yêu thương nhau như mình nữa mới trọn, chứ không phải chỉ kính mến Chúa hết mình, nói cách khác, kính mến Chúa hết mình còn ở tại việc yêu nhau như mình nữa, hay yêu nhau như mình là dấu chứng tỏ kính mến Chúa hết mình.

Thứ hai, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm, chúng ta còn thấy, con người chỉ có thể kính mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình khi họ tin nhận “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất” mà thôi. Hay nói cách khác, chính vì con người tin nhận chỉ có một Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài ra không còn Vị Chúa Tể hay thần tượng hoặc ngẫu tượng nào khác, mà họ phải kính mến Ngài hết mình và yêu nhau như mình.

Thứ ba, cái quí giá nhất trên đời này, trước mặt Chúa cũng như trước mắt thế gian, đó là yêu thương: yêu thương trọng hơn tất cả mọi lễ vật hiến dâng lên cho Chúa là thế, đúng như người luật sĩ thưa với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, và cũng hợp với những gì Chúa Giêsu dạy ở bài giảng trên núi về việc về làm hòa với người xúc phạm tới mình trước khi dâng của lễ trên bàn thờ (x Mt 5:23-24).

Thứ bốn, thế nhưng, nhận biết giá trị tuyệt hạng của giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình như người luật sĩ trong bài Phúc Âm mà thôi chưa đủ, còn phải mang ra thực hành nữa mới được, mới được rỗi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với nhà luật sĩ này sau khi ông trình bày cảm nhận của mình về giới răn trọng nhất, như sau: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.

Chúa Nhật XXXI Thường Niên Quanh Năm, dù thuộc chu kỳ nào đi nữa, A, B hay C, cũng thường ở trong thời điểm cuối tháng 10 hay đầu tháng 11, hoặc vào chính ngày Lễ Trọng Kính Chư Thánh Nam Nữ hay vào Lễ Các Đẳng (năm A: 31/10/1999, 1/11/1987 và 3/11/2002; năm B: 30/10/1994 và 2/11/1997 hay 2/11/2003; năm C: 1/11/1992 hay 1/11/1998, 2/11/1986). Riêng chu kỳ Năm B 2003, Lễ Các Thánh rơi vào ngày Thứ Bảy 1/11 và Lễ Các Đẳng vào Chúa Nhật 2/11. Tuy nhiên, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên XXXI Năm B tuần này cũng rất hợp với ý nghĩa của cả hai lễ này. Ở chỗ, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy một yếu tố then chốt để nên thánh, đó là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình. Đức Ái chẳng những là yếu tố then chốt để nên thánh mà còn là yếu tố cần thiết để đền tội nữa, đền tội cho chính bản thân mình và đền thay cho nhau nữa, nhất là cho những linh hồn trong luyện ngục. Thánh Phêrô tông đồ đã khẳng định “tình yêu bù đắp muôn vàn tội lỗi” (1Pt 4:8), và chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định về người phụ nữ tội lỗi trong thành đã tỏ lòng ăn năn thống hối là “chị ta được tha nhiều vì đã yêu nhiều” (Lc 7:47).

Thật vậy, điều quan trọng nhất trên trần gian này không phải là được làm lớn, làm tổng thống về phương diện chính trị, làm thần tượng về phương diện nghệ sĩ, hay làm giám mục, giáo hoàng về phương diện tôn giáo, mà là làm thánh. Không làm thánh thì làm gì thì làm con người nói chung và Kitô hữu nói riêng cũng có thể làm mất lòng Chúa, vì họ chỉ sống theo tự nhiên, sống theo xác thịt là những gì vốn phản lại với Thần Linh, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định với Nicôđêmô: “cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt; cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh” (Jn 3:6), hay với các tông đồ: “Thần Linh mới làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì” (Jn 6:63). Điển hình nhất là trường hợp đã xẩy ra cho tông đồ Phêrô, dù có ý hết sức ngay lành trong việc can thiệp vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, vị tông đồ này cũng đã bị Người nặng lời khiển trách là đồ Satan (x Mt 16:22-23). Thật ra, Kitô hữu chúng ta đã được thánh hóa, đã là Thánh ngay từ khi được lãnh nhận Phép Rửa. Bởi vậy, là những ngọn đèn đã được Chúa Kitô thắp lên để trên cao hầu soi sáng cho cả nhà thế gian, chúng ta phải sống đúng với ơn gọi “là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14) của mình. Mà ánh sáng chúng ta chiếu giải để soi sáng thế gian tăm tối sặc mùi tử khí văn hóa sự chết đây là gì nếu không phải là một đức ái trọn hảo.

Nếu theo Mạc Khải Thần Linh qua phần Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, Phúc Âm nói riêng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói đến giới răn cao trọng nhất là giới răn yêu thương, yêu Chúa hết mình và thương người như mình, thì trong phần áp dụng thực hành những gì Chúa tỏ dạy cho chúng ta biết ấy, chúng ta cảm nhận và đáp ứng thế nào trước Lời Chúa? Chắc mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy khó nên thánh quá! Lời Chúa khó áp dụng quá! Nhưng cũng chính vì Lời Chúa siêu việt trên cả trí khôn hiểu biết của loài người lẫn khả năng thực hiện của họ mới thực sự chứng tỏ cho thấy “Đó là Lời Chúa”, chứ không phải là lời thường, lời của con người, dù là của các bậc hiền triết thánh nhân, những lời Chúa siêu việt này đều “là thần linh và là sự sống” (Jn 6:63), như Chúa Giêsu đã khẳng định với các tông đồ. Đó là lý do, để phấn khích tinh thần Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta, Chúa đã ban cho chúng ta có các tấm gương của những vị thánh, những con người cũng hèn yếu như chúng ta. Chẳng hạn như vị tân chân phước Têrêsa Calcutta được Giáo Hội tuyên phong vào chính Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2003, “một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20”, như ĐTC Gioan Phaolô II đã công bố ngày 20/10/2003 với phái đoàn hành hương đến dư ï lễ tuyên phong của Mẹ, vị mà trong hồ sơ phong chân phước đã được gọi là “biểu hiệu của Đức Ái Kitô giáo”, căn cứ vào các việc bác ái anh hùng được tỏa sáng từ người nữ tu thánh sống này.

Mẹ Têrêsa Calcutta, sau khi đã nghe thấy tiếng Chúa nói trong tâm hồn của Mẹ, kêu gọi Mẹ là: “Hãy đến, hãy trở thành ánh sáng của Cha. Hãy mang Cha tới hang hầm tối tăm của thành phần nghèo khổ”, Mẹ đã bắt đầu đi vào đêm tối tăm nội tâm, một đêm tối tăm bắt đầu xuất hiện khi Mẹ mới bắt tay vào việc phục vụ người nghèo cho tới khi Mẹ qua đời, một đêm tối tăm, như Mẹ chia sẻ với cha linh hướng và Đức Tổng Giám Mục địa phương, có những lúc Mẹ thấy thiên đàng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, Thiên Chúa không còn hiện hữu nữa v.v., nhưng đồng thời đời sống Mẹ lại thực sự chiếu tỏa “rạng ngời chân lý” Chúa Kitô, mang “Phúc Âm sự sống” chẳng những đến cho thế giới Ấn Giáo mà còn cho cả thế giới văn minh duy nhân bản, duy thực dụng, duy vật vô thần của thế kỷ 20 nữa. Sau đây hai trường hợp điển hình do Mẹ kể lại cho chúng ta.

“Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người. Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hãy chăm sóc 3 người kia; còn mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ ấy lên giường và chị đã nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đã nắm lấy tay tôi nói lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét mình trước chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói gì nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đã cho tôi còn hơn thế nữa. Chị đã cho tôi tấm lòng ưu ái tri ân của chị. Và chị đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt.

“Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cái cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất”.

Đó là lý do, trong bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, ĐTC Gioan Phaolô II chẳng những đã đề cập đến cuộc khủng hoảng nội tâm của Mẹ Maria liên quan đến lòng mến Chúa hết mình của Mẹ, mà còn hết lời ca ngợi đức ái xả thân quên mình của Mẹ trước thế giới nơi thành phần cùng khốn nhất loài người như sau:

“Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25:40). Sứ điệp Phúc Âm này, một sứ điệp rất quan trọng để hiểu được việc Mẹ Têrêsa phục vụ người nghèo, là nền tảng cho niềm xác tín đầy tin tưởng của Mẹ đến nỗi khi đụng chạm đến những thân xác tan nát của người nghèo là Mẹ sờ chạm tới thân mình của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu, ẩn mình dưới bộ mặt buồn thảm của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là mục tiêu cho việc phục vụ của Mẹ nhắm đến. Mẹ Têrêsa đã làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa nhất của việc phục vụ, một tác động yêu thương, một hành động làm cho người đói, kẻ khát, người lạ, kẻ trần trụi, người bệnh, kẻ tù phạm (x Mt 25:34-36) là làm cho chính Chúa Giêsu” (Đoạn 4).

Phần Kitô hữu Công giáo chúng ta, đôi khi chúng ta khiêm nhượng quá đến trốn tránh trách nhiệm, đến sống phản lại sự thật. Điển hình nhất là việc thực hành ơn gọi Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta đây. Không phải hay sao, trong khi Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng “Các con là ánh sáng thế gian”, thế mà có ai trong Kitô hữu chúng ta dám tự nhận mình “là ánh sáng thế gian” không? Chính vì chúng ta không dám nhận mình “là ánh sáng thế gian”, hay thậm chí phủ nhận căn tính Kitô giáo “là ánh sáng thế gian”, là truyền giáo, là làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa Kitô như thế, mà chúng ta đã tiếp tục sống tầm thường, sống phản lại với tinh thần của Chúa Kitô, sống trong tăm tối, theo khuynh hướng dễ dãi tự nhiên, theo xác thịt phản lại Thần Linh ban sự sống.

Phải, chỉ khi nào chúng ta dám chân nhận mình tôi “là ánh sáng thế gian”, chúng ta mới nỗ lực làm gương sáng, mới có thể tỏa Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” ra, mới trở thành chứng nhân trung thực phản ảnh Chúa Kitô, mới phát tỏa Tin Mừng Sự Sống cho thế gian vốn yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng này. Nếu đức ái trọn hảo của Kitô giáo “là ánh sáng thế gian” thì ánh sáng đức ái này được chiếu tỏa từ ngọn đèn đức tin. Đức ái càng sáng chứng tỏ đức tin càng mạnh và sự sống nội tâm càng dồi dào nơi thành phần Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô. Nếu đức tin thuộc về hay liên quan đến đời sống nội tâm cầu nguyện thì đức ái thuộc về hay liên quan tới đời sống hoạt động tông đồ. Trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao Giêsu chỉ cần xem quả biết cây (x Mt 7:15-20), chỉ cần phán xét đức ái là biết đức tin của con người (x Mt 25:34-37): cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời không thấy Chúa, nhưng thành phần chiên dù không thấy vẫn làm việc bác ái.

Đó là hình ảnh một con chiên Têrêsa Calcutta, dù không thấy Chúa, tức nội tâm của con chiên này bị tối tăm cả nửa đời người (1947-1997), tức suốt thời gian phục vụ người nghèo, không thấy Chúa đâu, nhưng vẫn hăng say làm việc bác ái, vẫn lấy đức tin nhìn nhận Người nơi “những người anh em hèn mọn nhất” của Người tại miền đất bần cùng nhất trên thế giới. Chính việc bác ái Kitô hữu thực hiện chứng tỏ họ thực sự yêu mến Thiên Chúa, hay thực sự họ nhận biết Thiên Chúa, một Thiên Chúa chân thật duy nhất là Đấng họ phải kính mến hết mình, “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”, như Chúa Giêsu tái xác nhận với người luật sĩ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Và chính kiến thức thần linh, được sáng tỏ qua đức bác ái, đã cho thấy người Kitô hữu này đã thực sự sống dồi dào “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3).

print