Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 5 Phục Sinh – Năm A

Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 5 Phục Sinh – Năm A

Lời Chúa: Cv 6,1-7; 1Pr 2,4-9; Ga 14,1-12

MỤC LỤC

  1. Xin cho chúng con thấy Chúa Cha. 4
  2. Thấy Thầy là thấy Chúa Cha. 7
  3. Tìm một lối đi 11
  4. Nhà Cha Thầy – ViKiNi 14
  5. Xao xuyến. 17
  6. Con Đường Giêsu. 19
  7. Xao xuyến. 21
  8. Hãy tin tưởng vào Chúa. 23
  9. Đường Giêsu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 26
  10. Thầy là Đường, Sự Thật và Sự Sống. 28
  11. Ai thấy Thầy là thấy Cha. 33
  12. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 36
  13. Đường đi có Chúa. 40
  14. Lưu giữ Kỷ niệm sống động về Đức Giêsu. 42
  15. Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống thật 46
  16. Suy niệm của GKGĐ Giáo phận Phú Cường. 48
  17. Con đường sự sống. 51
  18. Đức Giêsu: Dung nhan của Thiên Chúa Cha. 54
  19. Suy niệm của Barbara E. Reid. 57
  20. Cuộc đời là một chuyến đi 60
  21. Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. 63
  22. Niềm tin vào đời sau – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 69
  23. Xao xuyến. 72
  24. Con Đường Giêsu. 76
  25. Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. 81
  26. Thầy là con đường. 84
  27. Nhà Cha – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 88
  28. Đường Giêsu, Đường con đi 92
  29. Chúa Nhật 5 Phục Sinh. 97
  30. Con đường hạnh phúc. 101
  31. Dám sống sự thật?. 104
  32. Ra đi & Trở về. 108
  33. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc. 112
  34. Đường Về Nhà Cha – Lm. Trịnh Ngọc Danh. 115
  35. Chọn lựa con đường. 120
  36. Hai chân lý Đức Tin. 123
  37. Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng. 129
  38. Đường về Nhà Cha. 133
  39. Đường tình yêu. 135
  40. Vững tin vào Thiên Chúa, không xao xuyến. 137
  41. Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà. 141
  42. Chúa Nhật 5 Phục Sinh. 145
  43. Khát vọng đời thường. 148
  44. Con đường Giêsu. 152
  45. Con đường mang tên Giêsu. 155
  46. Bước về nhà Cha. 159
  47. Trong Chúa Kitô. 162
  48. Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. 165
  49. Ai biết Thầy là biết Chúa Cha. 168
  50. “Lòng anh em đừng xao xuyến…”. 172
  51. Đường hy vọng. 179
  52. Hãy tin vào Thầy. 182
  53. Chúc thư của Chúa Kitô. 185
  54. Hoàn toàn đúng. 187
  55. Đi trên con đường Chúa. 189
  56. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành. 193
  57. Niềm tin. 195
  58. Đường tình yêu. 198
  59. Khuôn mặt Thiên Chúa. 200
  60. Đường. 203
  61. Niềm tin. 206
  62. Mái nhà. 208
  63. Trở về. 211
  64. Nẻo đường đích thật – Lm. Bùi Quang Tuấn. 214
  65. Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. 217
  66. Suy niệm của JKN.. 220
  67. Suy niệm của Lm. Trần Nguyên. 225
  68. Về cùng Chúa. 227
  69. Con đường. 230
  70. Con đường. 233
  71. Sự thật 236
  72. Sự sống. 238
  73. Chúa Nhật 5 Phục Sinh. 240
  74. Như mẹ hiền và con thơ. 248
  75. Hãy tìm một chỗ trong trái tim Chúa. 250
  76. Chúa Nhật 5 Phục Sinh. 258
  77. Chú giải của Noel Quession. 269
  78. Chú giải của Fiches Dominicales. 276
  79. Chúa Giêsu, đường về Chúa Cha. 281
  80. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển. 298
  81. Con đường Giêsu. 304
  82. Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin ở nơi Thầy. 307
  83. Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. 313
  84. Con Đường Giêsu là Tin Yêu và Phục Vụ. 316
  85. Dọn chỗ cho anh em – Huệ Minh. 327

1.Xin cho chúng con thấy Chúa Cha

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J)

Suy Niệm

Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: “Xin cho chúng con thấy Chúa Cha” (Ga 14,8).

Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh…

Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn có cảm nghiệm và tương quan với Tạo Hóa.

Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.

Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.

Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: “Ai biết Thầy là biết Cha” (14,7) “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (14,9) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”(14,10).

Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (14,10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người.

Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.”

Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.

“Xin cho chúng con thấy Chúa Cha”

Xin dẫn chúng con đến gặp Thiên Chúa Cha.

Đức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối; Ngài tự nhận mình là Con Đường, thậm chí là Con Đường độc nhất dẫn đến Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (14,6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu.

“Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời,

để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).

Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu, kể cả những ai không biết Ngài – tuy không do lỗi của họ – nhưng đã sống theo những đòi hỏi của lương tâm.

Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi.

Khi chiêm ngắm Ngài trong Tin Mừng, chúng ta biết mình phải nghĩ gì, nói gì, làm gì.

Khi đi vào Con Đường Giêsu, chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho con người hôm nay, nẻo đường dẫn đến Giêsu.

Gợi Ý Chia Sẻ

  1. Người ta thường nói đạo nào cũng như đạo nào, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Còn bạn, tại sao bạn là Kitô hữu? Đức Giêsu có gì đặc biệt khiến bạn chọn theo?
  2. Có khi nào bạn thấy mình bị lạc hướng không? Cách sống của Đức Giêsu trong Tin Mừng có khi nào giúp bạn tìm thấy hướng giải quyết không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu, họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.

 

2.     Thấy Thầy là thấy Chúa Cha

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

SUY NIỆM

Khi Đức Giêsu báo cho các môn đệ biết mình sắp ra đi

thì các ông lập tức rơi vào cơn xao xuyến.

Để làm các ông yên lòng, Ngài cần cho họ biết mình sẽ đi đâu,

Ngài báo cho các ông biết mình sắp về nhà Cha,

nơi Ngài đã ở với Cha từ vĩnh hằng.

Đức Giêsu từ Cha mà đến trần gian, nay lại về với Cha (Ga 13,1).

Đức Giêsu ví thế giới của Thiên Chúa như một ngôi nhà.

Ngôi nhà ấm áp của Cha có đủ chỗ ở cho mọi người.

Đức Giêsu về nhà Cha trước để chuẩn bị cho chúng ta đến sau.

Rồi Ngài còn hứa Ngài sẽ trở lại để đón môn đệ về.

Ước mơ của Ngài là Thầy trò được ở bên nhau mãi mãi (Ga 14,3).

 “Lạy Cha, con muốn rằng, con ở đâu,

thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17,20).

Đức Giêsu muốn đưa các môn đệ về với nhà Cha.

Và Ngài nhận chính mình là Con Đường duy nhất dẫn đến Cha.

“Không ai đến được với Cha nếu không qua Thầy” (Ga 14,6).

Đức Giêsu là Con Đường độc nhất vô nhị, khác với mọi con đường,

vì Ngài là Ngôi Lời làm người, từ trời xuống,

là Con Một Thiên Chúa, là Đấng luôn ở cung lòng Cha (Ga 1,14.18).

Chỉ Đấng từ trời xuống mới biết đường dẫn chúng ta lên trời.

Mọi con đường khác cần được nối kết với Con Đường Giêsu,

để có thể trở thành những nẻo đường cứu độ.

Đức Giêsu suốt đời nói sự thật mà Ngài đã nghe từ Cha,

“Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha,

Đấng đã sai phái tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì…” (Ga 12,49-50).

Duy mình Ngài thấy Thiên Chúa, và biết sự thật về Chúa Cha (Ga 1,18),

nên chỉ mình Ngài mới mặc khải được sự thật trọn vẹn về Thiên Chúa.

Mục đích cuộc đời Đức Giêsu là làm chứng cho sự thật (Ga 18,37).

Nơi Ngài, sự thật được tỏa sáng, không bị che khuất bởi cái tôi,

đến nỗi Ngài đã có thể nói: “Chính tôi là Sự Thật” (Ga 14,6).

Đức Giêsu đã trao ban sự sống cho thân xác nhiều người:

cho con trai của viên quan, cho anh bất toại, cho người mù bẩm sinh,

cho Ladarô chết bốn ngày trong mộ (Ga 4,46-54; 5,1-9; 9; 11).

Ngài còn ban Bánh hằng sống, nước hằng sống, ánh sáng ban sự sống.

Ngài nhận mình là mục tử đến để chiên được sống dồi dào (Ga 10,10).

Vì nhận được quyền “có sự sống nơi mình” từ Chúa Cha (Ga 5,26),

Nên Đức Giêsu đã có thể nói: “Chính Tôi là Sự Sống.”

Qua trung gian Đức Giêsu là Con Đường,

chúng ta có thể đến gặp Thiên Chúa Cha.

Hơn thế nữa, chính Ngài là hiện thân của Chúa Cha trên trần gian.

Thiên Chúa Cha là Đấng không ai thấy bao giờ,

không ai sờ chạm được, không ai đến gần được.

Nhưng nơi Đức Giêsu bằng xương bằng thịt,

ta gặp được Thiên Chúa Cha gần gũi, hữu hình và thân thương.

“Ai biết Thầy là biết Chúa Cha, ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.”

Chỉ cần gặp được Đức Giêsu Nadarét, là ta gặp được Đấng ba lần thánh,

Đấng siêu việt trên cõi trời cao.

 “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10.11).

Đây là sự ở trong nhau của Cha và Con, khiến Đức Giêsu có thể nói:

“Tôi và Cha Tôi, chúng tôi là một” (Ga 10,30).

Chỉ mong chúng ta cũng ở lại trong Thiên Chúa Cha như Thầy Giêsu,

để ai thấy chúng ta cũng thấy hình ảnh của Thiên Chúa.

Thánh Gioan nói: “Ai nói rằng mình ở lại trong Thiên Chúa,

thì cũng phải đi như chính Đức Giêsu đã đi” (1 Ga 2,6).

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Sự Thật.

Mỗi ngày trên thế giới,

có bao người dám đứng về phía sự thật,

dám chết để làm chứng cho công lý,

dù họ chưa biết Chúa.

Chúa là Sự Sống.

Có bao người dám hy sinh mạng sống mình,

để chết thay cho người khác,

để bảo vệ người bị áp bức bóc lột,

dù họ chưa biết Chúa.

Chúa là Tình Yêu.

Có bao người thành tâm tìm kiếm Chúa

và đã cố gắng sống theo tiếng lương tâm,

làm những việc công bình, bác ái,

dù họ chưa biết Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

những người đó gần bên chúng con.

Chúng con có bổn phận giới thiệu Chúa cho họ,

Đấng họ đã ở gần, nhưng chưa gọi tên trên môi,

Đấng họ đã thoáng nghe, nhưng chưa hề giáp mặt.

Xin cho chúng con thấy Chúa hoạt động

nơi những anh em không cùng tôn giáo,

thấy nơi các tôn giáo những tia sáng của sự thật,

những hạt giống của Lời mà Chúa đã vãi gieo.

Chúa là Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha.

sau khi được nâng cao trên thánh giá

và tôn vinh trên trời,

Chúa vẫn không ngừng kéo mọi người lên cùng Chúa.

Chúa đã chết cho mọi người,

và muốn cho nhân loại hưởng cùng một ơn cứu độ,

xin đừng để mất một người nào trong chúng con. Amen.

 

3.     Tìm một lối đi

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Phụng vụ của mỗi Chúa nhật Phục sinh diễn tả một khía cạnh về sứ mạng của Chúa Giêsu: Chúa nhật thứ nhất, chúng ta cùng với Giáo Hội khẳng định: Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết. Chúa nhật thứ hai, Chúa phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta, mặc dù chúng ta không thấy Người. Chúa nhật thứ ba, Đấng Phục sinh đang đồng hành để khơi lên niềm hy vọng nơi những người bi quan, chán chường, cụ thể là hai môn đệ trên đường Emmaus. Chúa nhật thứ bốn, Đấng Phục sinh đang hướng dẫn chúng ta như một mục tử, để đưa chúng ta đến bến bờ của hạnh phúc. Chúa nhật hôm nay, tức là Chúa nhật thứ năm, Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống.

Đường, Sự thật, Sự sống. Đó là ba yếu tố quan trọng làm nên căn bản của cuộc sống con người. Ai trong chúng ta cũng phải tìm cho mình một lối đi. Đó là định hướng cho một đời người. Ai trong chúng ta cũng phải sống theo sự thật, vì sự thật giải phóng con người và làm cho con người trở nên quang minh chính đại. Đi ngược lại với sự thật là sự dối trá mưu mô. Ai trong chúng ta cũng cần đến sự sống. Không chỉ sự sống phần xác mà còn sự sống thiêng liêng. Nhờ sự sống thiêng liêng mà chúng ta có tình yêu, hạnh phúc trong cuộc đời. Như thế, Đường, Sự thật và Sự sống làm nên vẻ đẹp của cuộc sống chúng ta và làm cho cuộc đời này có ý nghĩa.

“Thầy là Đường”. Trong lịch sử cũng như trong hiện tại, chưa có ai tuyên bố tự tin như thế. Hình ảnh con đường mang rất nhiều ý nghĩa đối với cuộc sống chúng ta.

Mỗi người, khi bắt đầu biết suy nghĩ, thì đã lo chọn cho mình một con đường, tức là một định hướng cho tương lai. Đó là định hướng về nghề nghiệp, về tình yêu, về phong cách sống, về nơi ăn chốn ở, về các mối quan hệ. Khi xác định được một con đường, họ cứ thế mà bước theo. Những chuyên viên tâm lý kết luận rằng, ở độ tuổi từ 25 đến 30 là lúc một người trẻ phải xác định được hướng đi cho tương lai cuộc đời. Nếu ở tuổi 30, tức tuổi “tam thập nhi lập” mà không trả lời được hỏi: đâu là định hướng tương lai của đời bạn? thì người đó khó mà có một tương lai tốt đẹp. Người ở tuổi 30 mà không chủ động chọn cho mình một định hướng, thì sẽ rơi vào lối mòn, bỏ mặc cho cuộc sống đưa đẩy về một tương lai vô định.

Con đường nào cũng có một đích điểm. Con đường Giêsu dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. “Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thày…. thày đi để dọn chỗ cho anh em”. Chúa Giêsu đã “đến đích” của con đường, tức là đến với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ cho chúng ta trong nhà Cha trên trời. Đích điểm của con đường này, cũng là đích điểm của cuộc đời người tín hữu, đó là hạnh phúc viên mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.

Con đường nào cũng nhiều thử thách gian nan. Người đi trên con đường có tên Giêsu phải chấp nhận qua cửa hẹp. Quả vậy, cửa rộng thênh thang thì dẫn tới hư hỏng. Chẳng có chiến thắng nào mà lại không trải qua đau khổ. Chẳng có vành nguyệt quế nào mà không qua tập luyện dày công. Con đường Giêsu cũng là con đường thập giá. Tuy vậy, thập giá không phải là chặng cuối của con đường. Chặng cuối của con đường là Phục sinh. Đi trên con đường Giêsu là chấp nhận những đề nghị của Người. với xác tín “qua thập giá tới phục sinh, qua đau khổ tới hạnh phúc”. Trong hành trình theo Chúa, có những khó khăn, hạn chế và ràng buộc. Tuy vậy, như “lửa thử vàng, gian nan thử đức”, những ràng buộc ấy giúp con người trưởng thành và tôi luyện để kiên trung vững vàng hơn.

Trong một cuộc hành trình, người bi quan chỉ nhận ra những vất vả gian nan; người lạc quan lại cảm nhận hạnh phúc dâng trào, vì mỗi bước đi là đang thu ngắn khoảng cách và gần tới đích. Hành trình theo Chúa cũng là hành trình Đức tin và hành trình cuộc đời. Chúa Phục sinh đang đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình này. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus đã minh chứng cho chúng ta: vào lúc bi quan chán nản và đau thương nhất, Chúa đến để cùng đi và nâng đỡ chúng ta. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là lý tưởng của chúng ta. Như viên đá bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu đã trở nên đá góc tường, là phiến đã chịu lực, đỡ nâng tòa nhà và bảo đảm cho sự vững chắc của tòa nhà ấy. Vì thế, hãy nhận ra vinh dự tuyệt vời mà Chúa ban cho chúng ta qua Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ nhờ Bí tích này mà chúng ta được gọi là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa. Những khái niệm này thật lớn lao vĩ đại, làm cho chúng ta – những con người trần mắt thịt – trở nên như những thần linh (Bài đọc II).

Nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh, số người tin Chúa không ngừng tăng trưởng. Giáo Hội từ thời sơ khai ấy cho đến hôm nay, vẫn đang cố gắng thể hiện hình ảnh của Đấng Phục sinh giữa đời (Bài đọc I). Không chỉ bảy người được trao sứ vụ phục vụ bàn (sau này được gọi là Phó tế), nhưng mỗi tín hữu đều được trao vinh dự loan báo Đức Giêsu.

“Lòng anh em đừng xao xuyến”.  Chúa nói với chúng ta như thế, trong lúc chúng ta đang hoang mang hoảng sợ vì đại dịch COVID-19. Quả thật, nếu vững tin vào Chúa thì còn có gì làm chúng ta lo sợ. Hãy vững tin vào Chúa. Hãy tìm một lối đi dẫn đưa tới bến bờ hạnh phúc. Lối đi ấy có tên là Giêsu. Người là  Đấng Cứu độ chúng ta.

 

4.     Nhà Cha Thầy – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Trong những ngày lễ lớn, người ta thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đến nhà thờ. Họ thuộc mọi thành phần: già trẻ lớn bé, không phân biệt giai cấp, chủng tộc. Họ đến nhà thờ từ muôn nẻo đường: từ xa lộ tối tân trong những nơi phồn hoa đô thị, đến những con đường mòn sỏi đá, gập ghềnh, quanh co, chạy qua những thung lũng, núi đồi hay trên những lối đi thôn dã lầy lội trơn trượt. Dù đi trên những con đường khác nhau cũng đều dẫn tới con đường duy nhất là con đường Giêsu, để về nhà Chúa Cha.

“Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”, nhà Cha Thầy rộng lớn không biên giới, được xây trên đá tảng kiên cố, bền vững là chính Đức Giêsu Kitô Phục sinh (1Pr. 2, 4). Nhà Cha Thầy không phải là nhà Davit, không ai được chiếm hữu cho một dòng họ sang trọng nào, cho một dân riêng nào. Nhà Cha Thầy rộng mở cho mọi tầng lớp nhân dân, cho mọi dân tộc, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, nô lệ hay tự do, khỏe mạnh hay tàng tật. Nhà Cha Thầy không thu hẹp vào phần đất nào, ranh giới nào, dù Samari hay Giuđa, Do thái hay Hy lạp. Nhà Cha Thầy rộng dài, cao sâu, lan tràn mọi lãnh thổ, thấm tận vào lòng mọi dân tộc.

Xưa Giêrôbôam và Rôbôam đã chia rẽ nhau thống trị nhà Israel và Giuđa, chúng đã lợi dụng Thiên Chúa để củng cố ngai vàng của mình, Thiên Chúa đã phán với Giêrôbôam: “Này tế đàn của ngươi sẽ vỡ tan tành, tàn tro tế lễ của ngươi sẽ đổ xuống (1V. 13, 3). Phần nhà Giuđa, sau này Đức Giêsu cũng phải khóc thương Giêrusalem vì “đã biến nhà Cha Thầy thành chợ búa, hang trộm cướp để trục lợi” (Ga. 2, 16; Lc. 19, 39-46 và 21, 5).

Con người lúc nào cũng mang đầy tham vọng, lợi dụng nhà Cha Thầy để mưu cầu danh vọng cá nhân, dòng họ, xứ sở, địa phương mình. Vì thế “những kiến trúc vĩ đại hào nhoáng của loài người sẽ bị thay thế” (Mc. 13, 1-4). Đức Giêsu sẽ xây lại một Đền thờ mới cho Cha Người, đó là chính thân thể Người từ cõi chết sống lại (Ga. 2, 19-22). Từ Đền thờ mới này Êgiêkiel đã được thị kiến: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được sạch và được sống” (Êz. 47, 8-9). Đó chính là “trời mới, đất mới, Giêrusalem mới, là nhà Thiên Chúa ở với dân Người, Người là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt chúng sinh. Chết sẽ không còn nữa, phiền muộn, kêu gào, khổ nhọc sẽ không có nữa, vì điều cũ đã qua rồi (Kh. 21, 3-4).

Nhà Cha Thầy cũng là đền thờ Chúa Thánh Thần dược xây bằng những viên đá sống động do chính Thiên Chúa tuyển chọn, là những người tin Đức Kitô. Người làm cho họ thành một dân thánh, dân tư tế dâng lên những lễ vật đẹp lòng Cha và đi loan truyền công trình vĩ đại của Cha Thầy (Bài đọc II).

Vậy nhà Cha Thầy vừa là Đền thờ sống động của Thánh Thần vừa là Thân thể Phục sinh vinh quang của Thầy có những chi thể được gắn bó, được sống lại với Thầy, vừa là trời mới đất mới của Cha Thầy ngự trị. Cho nên con đường về nhà Cha Thầy cũng chính là Thầy: “Thầy là Đường”, đường dẫn về nhà Cha Thầy, vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.

Lạy Cha, Cha đã thương yêu chúng con quá bội, đã cho Con Cha là đường dẫn tới Cha, đã cử Con Cha là kiến trúc sư xây dựng nhà Cha cho chúng con, đã trao mọi quyền năng cho Con Cha, để Người dọn chỗ cho chúng con, để Người đem chúng con về với Cha hằng sống, trong tình thương yêu chúng con muôn đời.

 

5.     Xao xuyến

Lòng các con đừng xao xuyến.

Mặc dù Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta như thế, nhưng nhìn vào đời sống chúng ta cảm thấy có rất nhiều băn khoăn lo lắng. Trước hết chúng ta băn khoăn lo lắng về tiền bạc. Phải lo cho mình, cho gia đình mình có đủ những phương tiện sinh sống, phải tiết kiệm phòng khi nghèo túng, tai ương bệnh hoạn. Đó là sự khôn ngoan của người biết lo xa. Tuy nhiên không nên lo lắng thái quá, vì trời sinh voi sinh cỏ. Chim trời không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói, hoa cỏ đồng nội không dệt không may, mà áo cẩm bào của Salomon vẫn chẳng thế nào sánh nổi. Hơn nữa, lời Chúa còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ: Hãy tìm kiếm Nước Trời trước đã còn mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau.

Tiếp đến chúng ta băn khoăn lo lắng về địa vị và danh vọng. Khi chưa có địa vị, chúng ta bon chen tìm đủ mọi cách để tìm kiếm cho mình chỗ đứng ngoài xã hội. Khi đã có rồi, chúng ta lo gây phe cánh, để duy trì chức vị đó. Nhưng chúng ta nên nhớ danh vọng chính là của đồng lần thiên hạ tiêu chung, nay thuộc về ta và mai thuộc về người. Hơn nữa, như lời Chúa đã phán: Ai đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Gieo gió thì gặt bão. Một khi đã có những hành vi tội ác, thì lương tâm sẽ bị cắn rứt, và công lý sẽ lên án phạt.

Nhưng có lẽ cái làm cho chúng ta băn khoăn lo lắng nhất chính là sự chết. Thực vậy, đã là người thì ai cũng phải chết. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Nếu như thế thì băn khoăn lo lắng mà làm chi. Thực sự, chúng ta không lo mình sẽ phải chết, nhưng lo về những điều xảy ra sau khi chết, chẳng hạn như sợ bị Chúa phán xét, sợ hậu quả không hay do đời sống tội lỗi và bê bối. Đây mới là nỗi băn khoăn và lo lắng chính đáng. Tuy nhiên, để khỏi băn khoăn lo lắng thì ngay từ giờ, chúng ta hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.

Szécheny người Hung Gia Lợi và là một nhân vật nổi danh. Ngày kia ông đang tắm trên bờ biển thì thình lình bị sóng cuốn đi. Ông ra sức bơi, hai tay chống cự nhưng sóng gió cứ đẩy ông vào chỗ nước xoáy. Trong lúc thất vọng và tưởng rằng mình sẽ bị cuốn trôi, ông nghĩ rằng mình mới xưng tội và rước lễ, và ông cảm thấy an tâm ra sức chống đỡ và sau cùng đã thoát nạn.

Trái lại biết bao người tội lỗi, không giục lòng ăn năn, đã thực sự hoảng sợ khi tử thần đến gõ và đã chết một cách bàng hoàng kinh hãi. Hãy tin tưởng vào Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, thực hiện bác ái yêu thương, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta sẽ không còn băn khoăn lo lắng.

 

6.     Con Đường Giêsu

Đầu tháng hai năm 1990, báo chí đã làm cho nổi tiếng một con đường ở ngoại ô thành phố Saigon. Con đường ấy, một đầu là biểu ngữ giăng ngang khai trương phòng vật lý trị liệu, một kiểu mãi dâm trá hình. Còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng, làm nhà riêng của ông giám đốc Xacogiva, người đã từng biển thủ công quỹ. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.

Thế nhưng, đã 20 thế kỷ trôi qua, trong Giáo Hội chúng ta biết có một con đường luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài bằng tin yêu để vươn lên tới sự sống bất diệt. Con đường ấy thắp sáng niềm hy vọng và dẫn tới quê hương Nước Trời. Con đường dẫn tới vĩnh cửu. Đó là con đường mang tên Giêsu.

Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã trả lời cho Tôma: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Qua đó, chúng ta thấy: chỉ có một con đường duy nhất được mở ra cho ơn cứu độ. Và con đường ấy chính là Ngài.

Trước hết, Ngài là đường chân lý, một chân lý sống động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời. Đường chân lý ấy, không phải là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của Ngài, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời cứu độ. Nhưng không phải ai cũng nhận ra con đường này, bởi vì trong phiên toà xet xử, Philatô cũng đã hỏi: Sự thật là gì? và Chúa Giêsu đã không trả lời bởi vì sự thật chính là Ngài đang đứng đó.

Tiếp đến, Ngài là đường sự sống bởi vì Ngài là nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên. Sự sống phần xác trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt. Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

Sau cùng, Ngài là con đường dẫn tới nhà Cha, dẫn tới quê hương Nước Trời, bởi vì Chúa Cha và Ngài không thể tách lìa nhau. Chúa Cha ẩn mình trong Chúa Con và Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha. Vẫn là một tự ngàn xưa và mãi mãi là một đến muôn thuở muôn đời. Vì thế con đường mang tên Giêsu, tất nhiên sẽ dẫn tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta phải thực thi những điều Đức Kitô truyền dạy.

 

7.     Xao xuyến

Con tàu ra khơi thì gặp phải giông bão. Gió to và sóng lớn. Mọi hành khách đều hốt hoảng. Chỉ một mình em nhỏ vẫn bình tĩnh ngồi chơi nơi xó góc. Người ta hỏi em tại sao thì em trả lời: Làm sao tôi có thể sợ hãi đang khi ba tôi là người điều khiển con tàu. Cũng thế trong một cuộc động đất, người ta thấy một bà già hăng say giúp đỡ các nạn nhân, mặc dù nhà cửa của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao lại không lo lắng sợ hãi, thì bà trả lời: Thiên Chúa quyền năng. Người làm được mọi sự và Ngài luôn lo liệu cho tôi những sự tốt đẹp nhất.

Từ hai mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay với lời khuyên nhủ của Chúa: Các con đừng xao xuyến. Băn khoăn xao xuyến là một cái gì đụng đến trái tim, là phần sâu thẳm nhất của con người. Có ai trong chúng ta đã không từng bị băn khoăn, xao xuyến và lo lắng?

Các môn đệ đã xao xuyến khi các ông được nghe biết về sự phản bội của Giuđa, về sự chối bỏ của Phêrô, về cái chết gần kề của Chúa Giêsu. Những biến cố kinh hoàng này đã ảnh hưởng đến đời sống các ông, phá vỡ những gì các ông đã xây dựng, đã vun trồng. Phải xa cách Thầy, phải đương đầu với một thế gian thù nghịch, tất cả những điều ấy đã làm cho các ông lo lắng và xao xuyến.

Không phải chỉ các môn đệ mới lo lắng và xao xuyến, mà chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần lâm vào một hoàn cảnh như thế. Ngài đã xao xuyến khi thấy Maria và những người Do Thái khóc nức nở bên nấm mồ Lagiarô. Ngài đã xao xuyến khi thấy giờ Ngài được tôn vinh qua đau khổ và cái chết đã đến: Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Ngài đã xao xuyến khi loan báo về việc phản bội của một người môn đệ.

Như thế, Chúa Giêsu không phải là một con người sắt đá, hay đã tôi luyện cho mình một thái độ vô cảm trước những nỗi đau của bản thân và của người khác. Trái lại, Ngài cũng có một trái tim như chúng ta. Và trái tim ấy cũng đã thổn thức và xót thương, cũng đã lo lắng và xao xuyến. Vì thế, Ngài rất hiểu và cảm thông với chúng ta.

Xao xuyến và băn khoăn là một tâm trạng bình thường, đó không phải là một tội, nếu nó không đưa chúng ta đến chỗ sợ hãi mà bỏ cuộc, không chu toàn thánh ý Chúa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã băn khoăn lo lắng, nhưng Ngài đã vượt thắng những băn khoăn lo lắng ấy, Ngài đã can đảm chấp nhận thập giá, không lùi bước trước khổ đau và hiểm nguy.

Chúng ta không xin cho mình tránh khỏi mọi xao xuyến nhưng dạy chúng ta vượt qua những xao xuyến ấy bằng niềm tin: Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Chính niềm tin sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta.

 

8.     Hãy tin tưởng vào Chúa

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến – 60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ nhiều ngày.

Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm chưa từng thấy trong lịch sử suốt gần 100 năm qua.

Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.

Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ… Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.

Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như “Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện” gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 8 người con cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết. Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay thật khó sống và khó yêu.

– Những ngày hè thật là nóng, phiến quân IS đã làm thế giới lo sợ, nay cộng thêm khủng hoảng quan hệ Liên – Triều, khiến người ta lo âu về chiến tranh thế giới có thể xảy ra.

Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” (Ga 14, 1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông: ” Thầy đi để dọn chỗ cho các con ” (Ga 14, 2), và sau đó ” Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Gn 14,2-3). Qua thánh Tôma, các tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu như sau: “: ” Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? ” (Ga 14, 5). Nhân định nầy rất đúng, và Chúa Giêsu đã không tránh né câu hỏi đi kèm theo đó. Câu trả lời của Chúa Giêsu qua bao thế kỷ vẫn còn giá trị như là ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ tiếp đến: “” Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy “(Ga 14, 6).

“Chỗ” mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi “nhà Cha”; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến mục tiêu nầy, thì chỉ có một đường mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình theo đó. Sự thánh thiện thật sự hệ tại ở điểm nầy: đó là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong người đó (x. Gal 2,20). Ðây là đích điểm cao cả, được đi kèm với một lời hứa cũng hết sức khích lệ: ” Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”(Ga 14,12).

Chúng ta lắng nghe những lời trên của Chúa Giêsu: ” Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…” Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như thế nào, nếu vô thần, nếu người kitô hữu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, được củng cố bởi Ðức Cậy hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô? “Thầy đi để dọn chỗ cho các con … để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Ga 14, 2).

Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay lòng người thay lòng đổi dạ. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Chúa Đức Giêsu Kitô. Hãy phó thác hoàn toàn cho Chúa, như trẻ nhỏ trong vòng tay của nguời Mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của hòa bình, sự thanh thản và niềm an vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta?

Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền…

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng ta luôn vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.

 

9.     Đường Giêsu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.

Chúa Giêsu là người mở đường.

Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải có người mở đường.

Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.

Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.

Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.

Chúa Giêsu là đường.

Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.

Chúa Giêsu là đích tới của con đường.

Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.

Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.

Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.

Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd: hiền lành, khiêm nhường…)

2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?

3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?

 

10. Thầy là Đường, Sự Thật và Sự Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)

Con người đi về đâu? Con người tìm kiếm điều gì?

Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy (Ga. 14, 3)

Con người trong cơn khủng hoảng, hoang mang không biết mình đi về đâu, cuộc đời mình có ý nghĩa gì! Đây là một khủng hoảng cũng thường xảy ra trong đời một người.

Đức Yêsu nói với các môn đệ “lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga.14, 1).

Đức Yêsu sẽ trở lại. Ngài trở lại để đem chúng ta đi theo Ngài, để chúng ta ở với Ngài.

Đức Yêsu là đường dẫn đến Thiên Chúa Cha

Các tông đồ không biết Đức Yêsu đi đâu, nên các ngài không hiểu gì về “con đường” mà Đức Yêsu nói! “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết được đường” (Ga.14, 5)!

“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga.14, 6)!

Đức Yêsu và chúng ta, đều đến với Cha như cùng đích! Con đường dẫn chúng ta đến với Cha, là Đức Yêsu. Cách sống của Đức Yêsu, có tác dụng như một con đường.

Không có Đức Yêsu trợ giúp, con người không thể đến với Cha được, con người không thể đạt được cứu cánh đời mình. “Không ai biết Cha trừ Con, và những người được Con mặc khải cho” (Mt.11, 27).

Biết Đức Yêsu, là biết Cha. Thiên Chúa là Đấng vô hình, người ta không thể nhìn thấy Ngài bằng mắt trần, nhưng người ta có thể nhận biết Ngài bằng đức tin, khi họ “vượt qua” những gì vật chất để nhận biết Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi người.

Thiên Chúa là ai? Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta vô cùng.

Ngài yêu con người đến độ ban Con Một Ngài cho chúng ta. Con Một Thiên Chúa đã nhập thể để giúp chúng ta sống trọn kiếp người, để chúng ta được “Chúa hoá”.

Ngài đã phục sinh, để chúng ta được sống lại trong ngày Ngài quang lâm.

Trong thời hiện tại, Ngài ban các mục tử cho chúng ta, để giúp chúng ta đi đến với Thiên Chúa là Cha.

Ngài sẽ trở lại đón chúng ta, để chúng ta được ở với Ngài!

Khi nào Ngài trở lại?

Trong những ngày này, có nhiều người xôn xao lo lắng, vì có nhiều tin đồn về ngày cùng tận! Phải chăng những người này xôn xao lo lắng, vì không biết tương lai của họ thế nào như các tông đồ hồi xưa? Hay tại họ muốn bám víu vào trần thế “mau qua” này?

Những ý kiến về ngày cùng tận

Có người cho rằng năm 2000 sẽ tận thế! Có người cho rằng vào tháng 9 năm nay sẽ tận thế; những người này còn đòi trưng dẫn “ý kiến của các nhà khoa học”!

Theo ý kiến của tôi, trước khi tin rằng đó là ý kiến của các nhà khoa học, thì phải kiểm chứng có đúng như vậy không, nghĩa là, có đúng là có các nhà khoa học hội họp với nhau và bàn về vấn đề này không, ở đâu, bao giờ, hãng thông tấn nào loan tin, ai triệu tập, tại sao các nhà khoa học lại bàn về vấn đề này? nhà khoa học nào có thẩm quyền để triệu tập một hội nghị như vậy?

Có người cho rằng Đức Mẹ mặc khải cho biết ngày giờ tận thế, và khuyên người ta ăn năn sám hối. Về việc người ta phải ăn năn sám hối, thì rất đúng! Nhưng có cần Đức Mẹ phải mặc khải về ngày giờ tận thế không, nhất là khi chính Chúa Yêsu nói không ai biết ngày giờ đó (Mc.13, 32)?

Lời dạy của Đức Yêsu

Chúa Yêsu đã nói “Còn về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt.24, 36; Mc.13, 32). Nếu Chúa Yêsu nói không ai biết, thì tại sao lại có những kẻ tự nhận rằng họ biết! Chẳng lẽ họ đúng, còn Chúa Yêsu thì sai?!

Ý kiến của thánh Phaolô

Thời thánh Phaolô, người ta cũng tưởng Chúa trở lại “đến nơi” rồi, và thánh nhân cũng tưởng không chừng mình thuộc vào số những người còn sống mà được đi đón Chúa: “Dựa vào Lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh được ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (1Tx.4, 15-17).

Ở chỗ khác trong cùng thư, thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói “bình an biết bao, yên ổn biết bao” thì, lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được” (1Tx.5, 1-3).

Trong thư thứ hai gởi Thessalonica, thánh Phaolô viết: “Thưa anh em, về ngày Đức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2Tx.2, 1-3a).

Tại sao đòi biết ngày giờ và lo lắng hoảng loạn?

Chắc chắn Chúa Yêsu sẽ quang lâm! Chắc chắn không ai thoát được biến cố này. Thế nhưng về ngày giờ biến cố đó xảy ra thì không ai biết, trừ Cha! Biến cố đó có thể xảy ra trong ít phút nữa đây, cũng có thể xảy ra vào tháng chín tới, nhưng cũng có thể vào năm 2000, hay vào năm 4000, hay vào một thời rất xa xưa trong tương lai! Đâu có ai biết!

Tại sao chúng ta quá bận tâm về ngày giờ đó?

Nếu chúng ta quá bận tâm để biết ngày giờ, phải chăng vì mình muốn thoát khỏi ngày đó? Và như vậy, phải chăng bởi vì

tôi còn ham thế gian, không coi thiên đàng là quê thực!

hay vì tôi sống chưa ngay thẳng để ra trước nhan Chúa trong ngày Người quang lâm?!

hay tại tôi không tin vào Chúa Yêsu, tôi không coi trọng Lời Người?! Chúa nói không ai biết, còn tôi thì đòi biết, và tin vào người khác hơn tin vào Chúa Yêsu.

Làm sao có thể thoát được ngày đó nếu ngày đó tới! Làm gì để chuẩn bị đón biến cố đó? Hãy xem Chúa mời gọi các tông đồ thế nào, và chúng ta hãy sống như vậy!

“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga.14, 1).

Tin vào Đức Yêsu, có thể làm được những điều kỳ diệu hơn cả Đức Yêsu!

“Hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga.14, 11). “Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người đó còn làm được những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga.14, 12).

Một bài giảng của Phêrô sau biến cố Thánh Thần hiện xuống, đã làm khoảng 3000 người trở lại (Cv.2, 41)! Điều này làm cho người ta nghĩ đến câu Lời Chúa ở trên “người đó còn làm được những việc lớn hơn nữa”.

Ngày nay, với những người tin vào Đức Yêsu, họ còn có thể làm được những điều kỳ diệu mà Chúa Yêsu đã tiên báo trước. Họ có thể vượt qua chính mình. Họ dám sống hiến dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Tại sao các tông đồ xao xuyến? Có sự tương đồng nào đó giữa niềm xao xuyến của các tông đồ xưa và của con người ngày nay trước luồng tin “ngày tận thế”?
  2. Theo lời khuyên dạy của Đức Yêsu, làm sao để hết xao xuyến và lo lắng?
  3. Bạn hiểu câu “Đức Yêsu lại là đường, sự thật và là sự sống” như thế nào?
  4. Thiên Chúa vô hình! Có bao giờ bạn nghĩ bạn “thấy Thiên Chúa” không? Nếu được, mời bạn chia sẻ kinh nghiệm này.

 

11. Ai thấy Thầy là thấy Cha

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)

Sau biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Yêsu, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói và đã làm khi các ông được diễm phúc đi theo và sống với Ngài. Tin Mừng hôm nay là hồi niệm, tường thuật những gì các tông đồ đã thấy và đã nghe. Lời Chúa được công bố hôm nay giúp con người hiểu biết hơn về Đức Yêsu, và về Hội Thánh cụ thể trong lịch sử.

  1. Xin chỉ cho chúng con biết Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con

Tin Mừng theo thánh Yoan cho biết về Đức Yêsu và các tông đồ trong thời gian Đức Yêsu còn tại dương thế hơn. Một trong những bận tâm chính của con người là hiểu biết về Thiên Chúa. Chính trong tâm tình này mà Philip nói với Đức Yêsu: “xin chỉ cho chúng con Chúa Cha, và thế là đủ”. Ao ước biết hơn về Thiên Chúa, là ao ước của con người trong mọi thời đại, đặc biệt của các tông đồ.

“Ai thấy Ta là thấy Cha”. Tại sao Philip còn đặt câu hỏi với Đức Yêsu về Thiên Chúa Cha? Sở dĩ vậy vì Philip và các tông đồ lúc đó không nhận ra Đức Yêsu là “hình ảnh” của Thiên Chúa Cha, là phản ánh của Thiên Chúa Cha. Sau biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Yêsu, các tông đồ nhận biết Đức Yêsu hơn; và với Thánh Thần của Đức Yêsu, các tông đồ được dẫn vào sự thật trọn vẹn (Ga.16, 12-13).

Có nhiều điều một người nói, và những người khác không hiểu được. Cũng tương tự vậy, Đức Yêsu đã nói nhiều điều với các tông đồ, nhưng các ngài không hiểu cho tới khi các ngài được Thiên Chúa soi sáng đặc biệt. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Yêsu mời gọi các tông đồ hãy nhìn các việc Ngài làm mà gắng hiểu Ngài. Thời gian “bốn mươi ngày” là thời gian đặc biệt các tông đồ nhớ lại những tháng ngày sống với Đức Yêsu, nhớ lại những gì Đức Yêsu nói, những việc Đức Yêsu làm, để các ngài hiểu hơn về Đức Yêsu, và với ơn của Thánh Thần các ngài nhận biết Đức Yêsu là Con Thiên Chúa.

  1. Đức Yêsu là viên đá sống động

Một thời gian dài sau biến cố Đức Yêsu chết và sống lại, khi thư thánh Phêrô được viết, các tông đồ đã có cái nhìn đúng đắn và sâu xa hơn về Đức Yêsu. Tác giả thư thứ nhất của thánh Phêrô nhận ra Đức Yêsu là viên đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở nên đá góc tường, là nền tảng trên đó Thiên Chúa xây dựng Hội Thánh của Thiên Chúa.

Đức Yêsu cũng là viên đá làm người ta vấp ngã, vì không dễ gì để tin vào Đức Yêsu. Hiện nay, đa số người Do Thái không tin Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai mà mọi người phải đợi trông. Khá nhiều người trên thế giới không tin Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa đến độ người ta có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

Tác giả thư thứ nhất của thánh Phêrô cũng nhận ra rằng, số phận của con người được biến đổi nhờ Đức Yêsu Kitô. Với Đức Yêsu tử nạn và phục sinh, con người có thể trở thành con người mới trong Đức Yêsu. Tác giả thư thánh Phêrô nói: chúng ta là dân tộc được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh, là người của Thiên Chúa. Nhờ đức tin vào Đức Yêsu, chúng ta trở thành một tạo vật mới, một con người mới.

  1. Dù đã thuộc về Chúa, con người vẫn còn giới hạn

Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy sinh hoạt của Hội Thánh sơ khai. Thời đầu, các Kitô-hữu đã để tất cả tài sản của họ làm của chung, và ai cần gì thì cứ dùng theo nhu cầu (Cv.2, 44-45). Sách Công Vụ cũng cho biết trường hợp của Khanania cùng vợ gian lận (Cv.5, 1-11). Và hôm nay bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ cũng cho biết “tính người” của những Kitô-hữu tiên khởi: họ càm ràm vì không được đối xử công bình.

Sách Công Vụ cũng cho biết cách cư xử của các tông đồ trước vấn đề này. Hội Thánh cho dù gồm những người được Thiên Chúa chọn, nhưng họ vẫn là người với những yếu đuối của con người. Điều nào là tốt nhất, thì làm. Các tông đồ đã đề nghị cách giải quyết cho cộng đoàn, và cộng đoàn đã chấp nhận, và rồi các tông đồ đã thực hiện điều đó.

Qua cách giải quyết của các tông đồ, người ta nhận ra một tiêu chuẩn rõ ràng: việc phục vụ Lời Chúa phải là ưu tiên một đối với trách vụ tông đồ. Nhu cầu vật chất là quan trọng và không thể bỏ, nhưng nhu cầu tinh thần phải được đặt ưu tiên hơn. Đây cũng là một tiêu chuẩn mà mỗi người phải giữ trong việc chọn lựa ưu tiên để phục vụ và sống trong Hội Thánh.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Đức Yêsu giúp bạn biết gì về Thiên Chúa hơn?
  2. Bạn có thất vọng khi thấy Hội Thánh vẫn còn nhiều giới hạn không? Tại sao?
  3. Theo bạn, đâu là vấn đề nổi cộm hiện nay của Hội Thánh? Và Hội Thánh phải giải quyết những vấn đề này như thế nào?

 

12. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Sống trong xã hội tiến bộ như hôm nay, để đi đến một địa chỉ nào đó, có rất nhiều con đường để lựa chọn. Có con đường rộng. Có con đường hẹp. Có con đường khó đi. Có con đường dễ đi. Có con đường cong. Có con đường thẳng. Có con đường gồ ghề sỏi đá. Có con đường bằng phẳng. Có con đường ngắn. Có con đường dài…Nhưng chắc chắn trong muôn vàn con đường đó sẽ có một con đường thuận tiện hơn cả, sẽ dẫn tới đích nhanh nhất.

Đích đến của mỗi Kitô hữu chúng ta là Thiên Đàng. Để tới Thiên Đàng cũng có nhiều con đường đi, nhưng con đường thuận tiện hơn cả và dẫn tới Thiên Đàng nhanh nhất đó là con đường Giêsu.

Thật vậy, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sau khi yên ủi các môn đệ: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”(Ga 14,1), Đức Giêsu cho các ông biết: Trên Thiên Đàng “có nhiều chỗ ở” và Ngài muốn cho các ông tới đó, vì Ngài “đi trước để dọn chỗ,” rồi Ngài “sẽ trở lại đón các ông…vì Thầy đi đâu các ông đã biết đường rồi.” (x. Ga 14, 2-4).

Vậy, đường của Đức Giêsu đi là con đường nào? Chính những người thân cận của Đức Giêsu vẫn còn vu vơ, chưa biết. Tôma là hiện thân của con người thực dụng, ông muốn biết một cách chính xác những gì ông chưa hiểu. Chính vì thế, ông mới hỏi Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” (Ga 14,5). Cám ơn Thánh Tôma, vì nhờ ông mà chúng ta có được một câu trả lời hết sức quan trọng của Đức Giêsu: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người” (Ga 14, 6). Như vậy, chính Đức Giêsu là đường đi, muốn tới Chúa Cha, muốn tới Thiên Đàng, thì cần phải đi trên con đường Giêsu. Nhưng con đường Giêsu là con đường nào? Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 30 năm đời sống ẩn dật: khiêm nhường, hy sinh phục vụ, vâng lời Đức Mẹ và Thánh Giuse, càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Ngài…Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 3 năm đời sống công khai: rao giảng Tin mừng, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, tha thứ tội lỗi, tuyển chọn và huấn luyện các Tông đồ, thiết lập Giáo hôi, thiết lập các Bí tích, chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá để cứu độ thế gian.

Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải theo vết chân Ngài. Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải thực hiện giáo huấn của Ngài. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được ghi lại trong các cuốn Tin mừng. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được cô đọng trong 10 điều răn, tóm lại trong hai điều này là mến Chúa và yêu người.

Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của Đức Maria, nghĩa là biết sống phó thác, khiêm nhường, phục vụ. Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của các Thánh. Nhưng mỗi thánh cũng có một con đường để đi: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã đi con đường thơ ấu thiêng liêng; Thánh Đamiêng đã đi con đường phục vụ người cùi; Thánh Phanxicô Xaviê đã đi con đường truyền giáo; Thánh Têrêxa Caculta đã đi theo con đường phục vụ người nghèo; Thánh Maria Goretti đã đi con đường tha thứ cho kẻ thù; các thánh Tử đạo đã đi con đường đau khổ…Nhưng tất cả các con đường đó đều được Đức Giêsu vạch ra. Chính vì thế, hãy đến với Đức Giêsu, chúng ta sẽ chọn một con đường thích hợp cho mình để tới tới Chúa Cha, để về Thiên Đàng.

Bài đọc I, trích sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết một số sinh hoạt của Giáo hội thời sơ khai (x. Cv 6,1-7). Khi số tín hữu ngày càng đông, các tông đồ không thể đáp ứng hết mọi công việc phục vụ nên đã mời gọi một số người cộng tác, đây là sự xuất hiện đầu tiên của chức phó tế trong Giáo hội. Chắc chắn ngoài 7 vị phó tế ra còn có nhiều người giúp đỡ các ông trong những lãnh vực khác. Sự phân chia các công việc này là mô hình đẹp cho các cộng đoàn giáo xứ hôm nay. Thật vậy, trong các giáo xứ, cha xứ là người chủ chăn được Giáo hội giao phó để coi sóc đoàn chiên. Nhưng một mình cha xứ không thể đảm đương hết tất cả các công việc. Vì thế, để cha xứ chu toàn bổn phận của mình cần có nhiều người cộng tác như: Cha phó, thầy Phó tế, chủng sinh, các Sr…Đặc biệt, trong giáo xứ luôn có Hội đồng mục vụ Giáo xứ, là cánh tay nối dài của cha xứ. Ngoài ra, trong giáo xứ còn có các ban ngành đoàn thể như: Ban Phụng Vụ, Ban Giáo lý, Ban Gia Trưởng, Ban Hiền Mẫu, Ban Giới Trẻ, Ban Phụ Lão và các hội đoàn khác. Tất cả các ban ngành được thành lập nhằm giúp đỡ Cha xứ hoàn thành trách nhiệm của mình. Nếu mỗi người trong cương vị của mình biết chu toàn bổn phận, trách nhiệm, thiết nghĩ đó cũng là con đường nên thánh. Con đường đến được với Chúa Cha, con đường dẫn tới Thiên Đàng.

Một con đường khác nữa để đến với Chúa Cha, đến với Thiên đàng, đó là con đường mà Thánh Phêrô đã vạch ra trong bài đọc II (x. 1 Pr 2, 4-9). Thật vậy, Thánh Phêrô cho chúng ta biết phẩm giá cao quý của người Kitô hữu, đó là “dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa.” Nhưng để gìn giữ phẩm giá cao quý đó, Ngài nhắc nhở chúng ta phải chu toàn bổn phận của mình như những viên đá sống động được tham dự vào viên đá tảng là chính Đức Giêsu, để xây dựng tòa nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Ngoài ra, mỗi Kitô hữu cũng phải biết “rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.”

Tóm lại, Đức Giêsu là con đường để mỗi người chúng ta đi và ai đi theo con đường của Ngài vạch ra chắc chắn sẽ tới được Chúa Cha, tới được cùng đích của mình là Nước Thiên Đàng. Nguyện xin Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống giúp mỗi người chúng ta biết đi theo con đường của Ngài vạch ra, hầu tất cả mỗi người chúng ta được nên thánh. Amen.

 

13. Đường đi có Chúa

Thưa anh chị em,

Chúa nhật thứ V Phục Sinh hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho Tông đồ Tôma, khi ngài hỏi làm sao biết đường mà đi theo Chúa: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Như vậy chính Chúa Giêsu là con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, là ơn cứu độ duy nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho trần gian, là con đường đưa chúng ta đến hạnh phúc viên mãn; bởi vì ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy chính là thiên đàng.

Vậy làm sao chúng ta có thể đi trên con đường là Chúa Giêsu hay làm sao chúng ta có Chúa đi cùng trong cuộc hành trình đời người của mình?

Như chúng ta đã biết mọi con đường đều dẫn đến một nơi nào đó, dù đó là đường mòn, đường đất, đường nhựa hay đường sông, đường biển. Không có đường thì không thể đi đến nơi mình muốn được. Và để thực hiện chuyến đi, chúng ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau: đi bộ, đi xe máy, đi máy bay, đi bằng ghe, tàu..v.v..

Chúa Giêsu hôm nay chỉ cho chúng ta biết Ngài chính là con đường dẫn ta tới Chúa Cha, vì Người là sự thật, là hình ảnh Chúa Cha trong thế gian. Chính vì vậy, Người cũng là sự sống, nguồn thông ban ơn Thần Khí, là chính sự sống của Thiên Chúa cho những ai lớn lên trong Người là các kẻ tin. Cho nên Chúa Kitô là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha mà không sai lầm. Có Chúa Kitô là có Thiên Chúa, mà Thiên Chúa ở đâu thì thiên đàng, hạnh phúc thật cũng ở đấy.

Xác định được như thế, chúng ta tự vấn xem mình đang đi trên con đường nào: con đường của Chúa hay con đường riêng của chúng ta, vắng bóng Thiên Chúa.

Có con đường đam mê những thú vui trần thế, lo tìm thú vui xác thịt, sống chỉ để thỏa mãn những khát vọng nhục dục, những nhu cầu ích kỷ của chính mình, không bận tâm đến tha nhân và những lý tưởng cao đẹp.

Có con đường chỉ mong kiếm tìm những lợi lộc trần thế. Cuộc sống chạy theo những gì là có lợi cho mình. Lợi thì làm, không lợi thì thôi. Bế tắc. Bởi vì con con người còn có niềm vui lớn hơn, khi sống cho những giá trị tâm linh.

Có con đường chỉ biết giành giật chổ đứng trong xã hội. Mục đích chỉ là sống sao cho hơn người, được người đời trọng vọng, ca tụng..hay cho rằng con người có khả năng giải quyết mọi sự, mà quên rằng tất cả đều là ơn ban của Thiên Chúa. Sức người có hạn. Cuộc sống mỏng dòn. Con người không thể tự mãn về chính mình được.

Con đường có Chúa là con đường chăm chăm hướng về Chúa là mục đích đời mình. Sống vâng phục tin tưởng như Abrahma, như Mẹ Maria. Cùng đồng hành với Chúa như hai môn đệ Emmau. Sống như “thấy Đấng vô hình” đang hiện diện bên mình.

Để con đường cuộc đời chúng ta luôn luôn có Chúa, cần liên lỉ cầu nguyện xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta. Cần năng chạy đến các Bí tích để hưởng nhờ ơn trợ lực nâng đỡ của Chúa, nhất là Bí tích Thánh Thể, để có Chúa trong tâm hồn.

Lạy Chúa, cuộc đời có Chúa cùng đi, con an tâm vui bước!

 

14. Lưu giữ Kỷ niệm sống động về Đức Giêsu

(Suy niệm của Daniel J. Harrington. SJ. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

“Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).

Vào phần 2 mùa Phục sinh, những câu hỏi chính được đặt ra cho mọi người: “Làm sao lưu giữ được những kỷ niệm sống động về Đức Giêsu? – Làm sao để những công việc Đức Giêsu đã thực hiện và khơi mào trước đây, được tiếp nối sau khi Ngài chết và trở về với Chúa Cha?”. Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta hãy trở về với những chỉ dẫn nơi bài huấn từ của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly mà Thánh Gioan đã ghi lại (Ga 14,17). Bối cảnh của bài diễn từ này nằm trong bữa tối cuối cùng với các môn đệ, trước khi Chúa Giêsu thọ nạn. Đức Giêsu đã nhắn gửi những học trò thân thiết của mình, cách thức lưu giữ những kỷ niệm về Ngài và thực hiện sứ mạng Ngài trao phó. Những chỉ huấn này vẫn thức thời và luôn mang tính thời sự cho Giáo hội trong mọi thời đại, đặc biệt cho chúng ta ngày hôm nay.

Khởi đầu bài diễn từ, Đức Giêsu và các môn đệ đã trò chuyện với nhau. Trong mẩu đối thoại đó, Ngài đưa ra một khẳng quyết. Một môn đệ đã bình phẩm, hiểu sai điều Chúa giáo huấn.Vì thế, Chúa Giêsu đã nói những lời dạy bảo rõ nét hơn và tích cựu hơn về chính Ngài.

Trong bài Tin Mừng hôm nay trích trong Gioan chương 14, Đức Giêsu thoạt đầu nói về việc đi dọn chỗ cho các môn đệ, và chỉ cho các ông đâu là lối đường đưa họ đến đó. Tôma cắt ngang và hỏi Chúa, “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường đi”. Đức Giêsu trả lời, chỗ đó chính là tình trạng “chúng ta được sống với Chúa Cha”, và “Ngài chính là con đường đi, là sự thật và là sự sống”.

Rồi đến lượt Philip, Ông ta nói với Chúa là hãy cho họ thấy Chúa Cha, và điều đó cũng đủ rồi. Điều này không giản đơn, có gì đó xem ra có vẻ ngô nghê và hơi khó chịu. Tuy nhiên, yêu cầu của Philip đã khiến đức Giêsu truyền đạt cho các học trò của mình nhãn quan sâu xa nhất và thâm thúy nhất được diễn đạt trong suốt Tin mừng của Thánh Gioan. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Sứ điệp mà Gioan nhắm tới, là trình bày Đức Giêsu vừa như là người khải thị về Chúa Cha, vừa là hiện thân của chính Chúa Cha. Nếu ta muốn biết Thiên Chúa là ai, Thiên Chúa nghĩ gì, và Thiên Chúa muốn gì nơi ta, chúng ta phải đến với đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha.

Đức Giêsu chính là “Lời” của Thiên Chúa được gởi trao cho con người, nên những gì chúng ta biết và nhớ về Ngài, sẽ trở nên rất quý báu. Bởi lẽ khi chúng ta biết Đức Giêsu là chúng ta biết Chúa Cha. Đối với chúng ta là những kẻ tin, cũng như đối với toàn thế Hội Thánh, việc cần thiết phải làm là lưu giữ những kỷ niệm về Chúa Giêsu cho thật sống động. Chúng ta làm được điều đó, bằng việc đọc và gẫm suy Lời Chúa, bằng việc cùng nhau cử hành Thánh Thể để tưởng nhớ đến đức Giêsu, bằng việc thực hành những truyền thống đức tin của Hội Thánh, và cùng nhau sống theo những chỉ dạy khôn ngoan của chính Ngài. Những kỷ niệm về đức Giêsu sẽ đưa dẫn chúng ta hướng về giá trị cao quý của cuộc sống làm người, sẽ giúp chúng ta loại trừ những hành vi sai trái, sẽ làm cho chúng ta ý thức tầm quan trọng của một tình yêu vị kỷ, biết yêu thương cả những kẻ thù, sẽ công bố cho mọi người biết rằng chết không phải là hết, và sẽ giúp chúng ta xác tín rằng trong Đức Giêsu, tình yêu và sự sống sẽ chiến thắng hận thù và cái chết.

Giữ mãi kỷ niệm về đức Giêsu cho thật sống động, là một thách đố lớn nhất cho chúng ta trong mùa Phục sinh. Về vấn đề này, Giáo hội với những định chế của mình đóng một vai trò chủ đạo và quan trọng. Bài đọc ngày hôm nay trong sách Công vụ tông đồ chương 6, cho chúng ta thấy được các Kitô hữu buổi sơ khai đã áp dụng những định chế cụ thể. Trường hợp các bà góa trong xã hội theo văn hóa Hy Lạp ngày xưa thời giáo hội sơ khai, là một ví dụ. Để giải quyết, nhóm 12 tông đồ đã chỉ định 7 người Hy Lạp (có lẽ là phó tế?) để chăm sóc cho họ và cho những người khác. Sự kiện này cho thấy Giáo hội ban đầu đã thiết định những quy chế để áp dụng, và Giáo hội vẫn giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu cách sống động. Kết quả là Lời của Chúa vẫn tiếp tục được tỏa rộng.

Trong thân thể mầu nhiệm đức Kitô, chúng ta được chuyển giao để thủ đắc một căn tính mới và một phẩm giá mới. Các Kitô hữu gốc dân ngoại, được nói tới trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô, vẫn bị coi như là nhửng người bị gạt ra bên ngoài, trên phương diện chính trị và xã hội. Nhưng Thánh Phêrô đã mặc cho họ một tước hiệu ấn tượng nhất như tước hiệu dành cho dân Israel thời cựu ước. Qua phép rửa nhân danh Đức Giêsu, họ trở thành “ Một dân được tuyển chọn, thuộc hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện, là dân riêng của Chúa”. Công việc của họ bây giờ là làm chứng tá về đức Giêsu, như một viên đá sống động, bị con người loại bỏ nhưng được tuyển chọn và trở nên quý giá trong con mắt của Thiên Chúa. Những con người đã một thời lưu lạc chẳng còn dân tộc, nay đã là dân của Thiên Chúa. Họ kết liên với nhau để cho mọi người biết cách thức Thiên Chúa đã kêu gọi họ thoát khỏi vùng tối tăm đến nơi đầy ánh sánh huy hoàng như thế nào.

Giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu một cách sinh động là bổn phận của mọi Kitô hữu và của cả Hội Thánh. Nếu chúng ta thật sự tin rằng Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống, chúng ta sẽ biết khám phá ra những cách thức mới mẻ và đầy sáng tạo để lưu giữ mãi những kỷ niệm sống động về Ngài. Nếu chúng ta thật sự tin rằng “Ai thấy và nghe Đức Giêsu, chính là nghe và xem thấy Chúa Cha”, thì việc lưu tồn những kỷ niệm sống động về Ngài sẽ là một công việc quan hệ nhất và ý nghĩa nhất mà mỗi người chúng ta có thể và phải đem ra thực hành.

 

15. Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống thật

Nếu so với truớc đây khoảng vài thập niên thì ngày nay chúng ta đi đây đi đó dễ dàng hơn nhiều. Bởi lẽ, đường đi ngày càng được mở rộng và thông thoáng hơn. Phương tiện di chuyển cũng đa dạng và phong phú hơn. Thậm chí, người ta có thể lên cung trăng hoặc nhiều hành tinh khác. Dầu vậy, có một con đường mà con người đành phải bó tay. Ðó là con đường dẫn tới sự sống thật.

Tuần trước, chúng ta đã cùng suy niệm Chúa Giêsu chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành dẫn đoàn chiên của mình tìm lại sự sống. Hôm nay, Giáo hội tiếp tục cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu với ý nghĩa Người chính là đường dẫn tới sự sống thật.

Chúng ta biết, ý định ngàn đời của Thiên Chúa Cha là muốn cho tất cả con người được sống dồi dào. Thiên Chúa cũng biết là tự sức mình, con người chúng ta không thể nào tìm lại sự sống đã bị đánh mất. Do đó, chỉ có Ðấng từ Thiên Chúa mà đến mới có đủ sức đưa ta trở về tình trạng ấy. Ðấng ấy chính là Chúa Giêsu – Con Một Chí Ái của Ng ười.

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ cách riêng là với Thánh Tôma cũng như cho mỗi người chúng ta: “Thầy là đ ường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Cha mà không qua Thầy ” (Ga 14, 6). Trên hết mọi sự Thiên Chúa luôn luôn muốn cho con ng ười chúng ta được sống và sống dồi dào. “Ta đến để cho chiên đ ược sống và sống dồi dào ” (Ga 10, 10); ” Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người ” (Mc 10, 45); “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 31-32). Nhờ ăn năn sám hối mà những người tội lỗi mới mong được sống.

Như thế, nếu muốn có sự sống thật thì không cách nào khác chúng ta cần phải đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu. Vì chính Người là Ðấng dẫn đường và cũng chính là con đường dẫn đến Chúa Cha – Ðấng là nguồn sống thật của chúng ta. Chúa Giêsu đã mời gọi Nicôđêmô và chúng ta: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời “. (Ga 3, 14-15).

 

16. Suy niệm của GKGĐ Giáo phận Phú Cường

SUY NIỆM

Mỗi Thánh lễ là dịp nhắc nhớ chúng ta không bao giờ được quên chân lý này là “tuy ở giữa thế giới này nhưng chúng ta lại thuộc về một cộng đoàn dân thánh’, ‘dân được Thiên Chúa tuyển chọn’”. Đây là một vinh dự, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm. Nếu như chúng ta cảm thấy mình chưa xứng đáng với vinh dự này và chưa chu toàn trách nhiệm này, thì xin hãy đến với Chúa Giêsu trong Thánh lễ, để Ngài sẵn sàng thanh luyện chúng ta và thêm sức giúp chúng ta.

Nhìn lại các tông đồ ngày xưa, các ông đã sống với Chúa Giêsu nhiêu năm, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Chúa đã thực hiện. Rồi các tông đồ cũng được nghe những lời giảng dạy, những hướng dẫn riêng để chuẩn bị cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, Tôma lại nói với Chúa Giêsu: “Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi”. Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã đi theo bao nhiêu năm nay là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, bởi vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu nói và làm đã không có được ảnh hưởng đến ông.

Trước thái độ của các tông đồ, Chúa Giêsu đã nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống… Ai thấy Thầy là xem thấy Cha”. Điều đó khẳng định cho chúng ta rằng:

Chúa Giêsu chính là con đường, con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa thật. Đó là con đường thập giá. Và chúng ta phải đi trên con đường đó mới đến được với Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là sự thật, sự thật của ơn cứu độ, sự thật của lòng thương xót. Chính vì Chúa là sự thật nên Chúa không ngần ngại nói lên sự dối trá của thế gian, để làm rõ nên chân lý tình yêu của mình.

Chúa Giêsu là sự sống. Trong suốt cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã đem sự sống đến cho mọi người, cách riêng là người nghèo, người cô đơn, người bệnh tật, người tội lỗi, người chết và nhất là chính Chúa đã sống lại để hủy diệt nộc độc của sự chết và minh chứng rằng: Chúa chính là sự sống đời đời.

Khi nói lên tất cả như thế, Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ rằng: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc.

Cứ tưởng như câu chuyện của các tông đồ ngày xưa đã đi vào quá khứ và chỉ còn là một hoài niệm nào đó. Vậy mà nhìn lại, nó vẫn còn là một câu chuyện rất thời sự của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta.

Cũng như các tông đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi đó làm chúng ta cảm thấy khổ sở. Biết bao nhiêu lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với những người chung quanh và thường hay hỏi tại sao mình không được như người khác, tại sao mình không được tốt hơn…

Nếu chúng ta biết trân trọng và chu toàn tốt trách nhiệm của mình; biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc, thì những lúc đó, chúng ta như đứa bé được nói đến trong bài viết đã biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho người khác và cho mình. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính mình.

Rất ước mong chúng ta luôn cảm nhận được sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống trong lòng của mình mỗi khi tham dự Thánh lễ cũng như khi về cuộc sống hiện tại. Để nhờ đó, chúng ta sẽ có thêm sức mạnh và tâm hồn mãi luôn được bình an để hoàn tất cuộc hành trình về nhà Chúa. Amen.

 

17. Con đường sự sống

Có người cho rằng tiền quí nhất, có người cho rằng tình yêu quí nhất hoặc quyền lực, danh vọng quí nhất… Nhưng theo tôi, cái quí nhất chính là sự sống, cho dù có tất cả mọi thứ nhưng khổ nỗi mình đang mắc chứng bệnh ung thư giai đọan cuối thì sao? Chắc chắn sự sống là quí nhất.

Người ta làm tất cả mọi việc chỉ để sống. Nhưng rất tiếc sự sống ở đời này lại quá ngắn ngủi. Vì thế, vua Tần Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất tử, vì ông ta muốn có sự sống đời đời. Hôm nay Chúa Giêsu bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống vĩnh cửu và hạnh phúc, nếu chúng ta đi trên con đường của Chúa, vì Chúa là đường dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Đối với các nhà thám hiểm, các hoa tiêu, các phi công thì vấn đề phương hướng rất quan trọng! Đi đúng đường, đúng hướng là có hy vọng tới đích, đi lạc đường là nguy hiểm đến tính mạng của mình và của bao nhiêu người khác nữa.

Năm 1989 chiếc phi cơ hàng không dân dụng của Nam Triều Tiên lạc đường vào lãnh thổ Liên Xô. Hậu quả, máy bay bị bắn hạ làm mọi người chết hết. Có đi đúng đường, đúng hướng mới về đích an toàn. Đường dẫn đến sự sống đời đời chỉ có một. Ai tìm được là sống, ai lạc đường sẽ mất sự sống.

Con đường của Chúa đi không trải bằng những thảm hồng và nhung lụa, nhưng là con đường thập giá, đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ. Thường thì ai ai cũng muốn chọn cho mình con đường dễ đi của hưởng thụ, sung sướng cho bản thân, nhưng lại bất chấp mọi điều gian ác, tội lỗi. Người ta sợ đi trên con đường của Chúa vì phải hy sinh và từ bỏ.

Sự sống trường sinh mà Chúa ban cho ta phát xuất từ tình yêu và cái chết đau thương trên thập giá. Thập giá và sự phục sinh không tách rời nhau nhưng gắn liền với nhau. Có con đường thập giá thì mới có con đường phục sinh vinh quang. “Sống là chết mà chết là sống”. Sống là từng ngày chết đi con người cũ tội lỗi để trở thành con người mới trong Chúa. Cái chết từng phần mà mỗi ngày chúng ta gọi là hy sinh chính là điều kiện để đạt đến sự sống đời đời. Đó là sự sống của chính Chúa. Nếu Đức Kitô đã chết và đã sống lại thì chúng ta cũng sẽ chết và sống lại với Ngài.

Trong một xã hội hưởng thụ như ngày nay, cái lợi trước mắt vẫn hơn, vinh hoa phú quí, tiền của, tình dục, dang vọng đang cung ứng cho mình thì mình cứ hưởng thụ, tương lai hậu xét. Nhiều người còn nghĩ rằng; chắc gì có tương lai, có đời sau. Nếu không có đời sau thì những phấn đấu nỗ lực của con người thật vô nghĩa và đáng thương, rốt cuộc rồi cũng chết như con vật sao? Không, chính Chúa Giêsu sống lại là niềm tin và là con đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Khi chết rồi chúng ta được gì chứ? Tiền của chăng? danh vọng chăng? Tất cả mọi sự đều là phù vân. Chỉ có chúa là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời thôi. “ngay trong đêm nay người ta lấy linh hồn ngươi thì tất cả những của cải ngươi tích trữ sẽ về tay ai”.

Là người kitô hữu, tôi tin rằng có Chúa Giêsu là đường dẫn tôi đến sự sống đời đời, vậy niềm tin này thúc bách tôi có thái dộ sống thích hợp hơn, hãy coi ngày hôm nay là ngày cuối đời. Cuộc sống đời này vẫn tốt đẹp và hạnh phúc nhưng nó không phải là điểm dừng của chúng ta. Đời sau có được hạnh phúc trên thiên đàng hay phải trầm luân trong hỏa ngục là tùy cách sống hiện tại của mọi người.

Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta hãy bám lấy Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Để được như vậy chúng ta nên áp dụng phương châm sau đây: tạo vật nào đưa chúng ta đến với chúa thì chúng ta sử dụng, ngược lại tạo vật nào ngăn cản chúng ta đến với chúa thì ta không dùng nó”

Thế thì để có một cuộc sống trường sinh bất diệt chúng ta cần phải làm gì? Tôi thiết nghĩ chẳng có cách nào hơn là chúng ta phải sống theo đường lối của Chúa dạy: đó là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa qua việc giữ những điều Chúa dạy, siêng năng tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích…Yêu người được thể hiện qua cuộc sống hằng ngày yêu thương người nghèo đó là điều kiện để chúng ta được sự sống đời đời.

Chúa không cần chúng ta làm những việc to tát, nhưng là những việc rất nhỏ, tầm thường với một tình yêu chân thành.

Lạy Đức Kitô phục sinh, Ngài là đường để con bước đi, là sự thật để con tín thác, là sự sống để con no thỏa, và là điểm hẹn để con gặp gỡ trong niềm vui muôn đời.

Tin vào sự phục sinh của Chúa cũng chính là tin vào sự phục sinh của con, để con không quản ngại trên đường thập giá, không nao núng dấn thân cho sự thật, không sợ chết đi cho sự sống. Amen.

 

18. Đức Giêsu: Dung nhan của Thiên Chúa Cha

(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Sách xuât hành tường thuật việc Ông Môsê xin được thấy tôn nhan Thiên Chúa. Chúa liền nói với ông: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” (Xh 33, 20), thế mà hôm nay qua Đức Giêsu Thiên Chúa đã tỏ tôn nhan Ngài cho chúng ta: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

Khi tạo dựng con người Thiên Chúa muốn con người làm bạn, nên Ngài đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, và sách thế đã diễn tả mối tương quan bằng hữu giữa Thiên Chúa với con người qua việc Thiên Chúa đi dạo trong vườn cây Eden và nói chuyện với con người, thế nhưng mối tương giao này gẫy đổ khi con người phạm tội, và tự con người lánh trốn Thanh nhan “Nghe thấy tiếng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa” (St 3, 8), không những con người chạy trốn Thanh nhan, nhưng chính tội cũng làm cho con người không còn có khả năng chiêm ngưỡng Tôn Nhan.

Kể từ khi bị đuổi ra khỏi mối tương giao bằng hữu, con người không thể nào nhìn thấy được Chúa. Nhưng vì là Cha nhân ái, Thiên Chúa luôn mong ước được gần gũi với con cái, lòng thương xót của Chúa luôn thôi thúc Ngài đến với con người, gặp gỡ con người, và tỏ cho con người biết Ngài luôn yêu thương họ. Vì yêu thương Ngài đã sai con chí ái đến với con người, và với sáng kiến bởi tình yêu nhiệm lạ, Con Thiên Chúa đã mạc lấy thân xác con người để biểu tỏ tôn nhan trong cách thế mà con người có thể nhìn thấy. Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông thư “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” một lần nữa minh định điều Chúa Giêsu đã mạc khải: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu. Mầu nhiệm đức tin Kitô giáo như đã được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này.” (số 1).

Một cuộc tỏ bày tôn nhan quá ư nhiệm mầu. Tại sao Thiên Chúa hành động như thế? Thưa bởi vì quá yêu thương con người nên Thiên Chúa đã quay lại chống đói chính mình”, nói như Đức Benđíctô XVI. Phải, Ngài đã quay lại chống đối với điều Ngài đã làm, đó là đuổi con người ra khỏi Tôn Nhan, nay Ngài lại cho con người nhìn thấy Dung nhan, Ngài đã luận phạt con người, nay Ngài lại ra tay cứu vớt con người, Ngài đã loại trừ con người nay lại giao hoà với con người bằng chính cái chết của Người Con dấu ái. Vâng, vì là Thiên Chúa tình yêu nên Ngài không báo giờ bỏ rơi công trình do tay Ngài tạo thành.

Tinh yêu Thiên Chúa là thế đấy, nhưng con người vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tỏ ra cao ngạo, và chẳng nhận ra Tôn Nhan Chúa qua Người Con, Đức Giêsu Kitô. Ngay từ những thế kỷ đầu của lịch sử Giáo Hội có nhiều người đã không nhận ra Đức Kitô là dung mạo của Chúa Cha, và chỉ coi Người như là “người con nuôi” của Thiên Chúa. Họ không nhận ra bởi quá dựa vào lý luận của lý trí con người mà không để cho Thần Khí Chúa can thiệp. Rồi trôi theo dòng lịch sử của nhân loại, tinh thần thế tục ngày càng lan toả trong lối sống, càng ngày người ta càng bóp méo dung nhan của Đức Kitô, để rồi coi Người đơn giản như một lãnh tụ khởi nghĩa nhằm giải phóng dân tộc, chống lại Đế Quốc Roma, hoặc Đức Kitô chỉ như một Rabbi trình bày giáo huấn về đối nhân xử thế như Khổng Tử, Lão giáo, hoặc Phật Thích Ca. Và để loại trừ bản tính Thiên Chúa ra biến mất nơi con người Đức Kitô, người ta tô vẽ Người chỉ còn là một con người bình thường như bao người khác qua những bộ phim mang tính phỉ báng như “cơn cám dỗ cuối cùng của Giêsu”, hay “Mật mã da Vinci”.

Không nhận ra tôn nhân Thiên Chúa nơi con người Đức Kitô, cũng có nghĩa là không nhận ra tình thương và lòng thương xót của Ngài, nên con người mãi mê lầm trong bóng tối của sự chết. Thế giới luôn tràn ngập hận thù, con người càng ngày càng trở nên vô cảm nỗi khổ của người khác, giết chóc, hãm hiếp, buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức, cướp bóc… và cuộc sống càng ngày càng trở nên bất an.

Để tìm lại niềm vui của cuộc sống và bình an trong xã hội không gì khác ngoài việc tìm đến vàdung mạo của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Nói như Đức Phanxicô: “Tình yêu Thiên Chúa giờ đây trở nên hữu hình và được tỏ bày trong cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Bản thân Người không gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu được ban tặng cách vô điều kiện. Các mối liên hệ giữa Người và những ai tìm đến với Người, là một tương quan đặc thù duy nhất và không thể tái diễn. Những dấu lạ Người thực hiện, nhất là cho các tội nhân, cho những người nghèo khổ, những người bị gạt ra bên lề xã hội, cho các bệnh nhân và những người đau khổ, tất cả đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Tất cả mọi sự nơi Người đều tỏ bày cho thấy lòng thương xót. Không có gì nơi Người lại thiếu vắng lòng thương xót’’ Dung mạo long thương xót số 8).

Lạy Chúa Giêsu, còn gì hạnh phúc hơn khi được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa, bởi từ đó chúng con thấu hiểu Chúa yêu thương chúng con là dường nào. Xin cho chúng con cũng trở thành dung mạo của Chúa để qua đó người ta nhận ra tình thương Chúa, họ nhận được ơn cứu độ. Amen.

 

19. Suy niệm của Barbara E. Reid

(Barbara E. Reid, nữ tu Đa Minh, giáo sư môn Tân Ước tại Đại học Công giáo ở Chicago. Bà cũng là trưởng khoa và là phó viện trưởng tại trường đại học này. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

“Tâm hồn anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và cũng hãy tin vào Thầy” (Ga 14,1)

Có nhiều người được phú ban khả năng đặc biệt. Đó là, họ vẫn giữ được bộ dạng thanh thản, an bình, ngay cả trong những thời điểm khốn khó nhất. Họ không có vẻ căng thẳng hay cảm thấy phiền toái, dù bên trong họ vẫn phải đắng lòng gánh lấy những bầm dập và nghiệt ngã. Không phải chỉ vì họ là những con người lạc quan, biết nhìn ra những khía cạnh tích cực trong mọi trạng huống. Cũng không phải vì họ biết khôn khéo giải quyết sự việc khi nhìn vào những khổ đau hoặc bất công người khác phải gánh chịu sau đó được minh oan. Nhưng trên hết, niềm vui sẽ được hiện lộ ra bên ngoài rõ ràng khi họ biết nhìn thực tại bằng một cặp mắt cắm sâu trong niềm hy vọng, và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Họ có thể biểu tỏ trạng huống tâm hồn họ theo cách thức sâu xa mà Đức Giêsu đã khuyến mời các môn đệ thực hành trong bài Tin Mừng hôm nay: “ Tâm hồn anh em đừng xao xuyến”. Bạn có bao giờ gặp những con người như vậy không? Hay có thể chính bạn là con người như thế?

Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ khuyên mời các học trò của mình hãy để tâm hồn của họ tĩnh lặng, đừng lo lắng, nhưng Ngài còn vạch dẫn cho họ cách thái để đạt được điều ấy. Bối cảnh câu chuyện xảy ra trong bữa tiệc ly, các môn đệ có nhiều lý do khiến họ lo âu, buồn sầu. Đức Giêsu nói với họ về viễn cảnh sẽ đi xa, xa thật xa, sẽ bị trao nộp, và sẽ bị phản bội bởi hai người bạn thân tín nhất. Các môn đệ nhốn nháo hỏi nhau, Ngài sẽ đi xa, nhưng đi đâu? Làm sao họ biết con đường Ngài đi để có thể cùng đi với Ngài. Tin mừng Marcô đề cập đến vấn đề “ Ai” sẽ là người phản bội (2,7; 4,41; 8,29). Nhưng trong Tin mừng Gioan, trọng tâm của khúc mắc là chuyện đó xảy ra “ ở đâu”. Người môn đệ được Đức Giêsu trao quyền hành lớn nhất tức Phêrô, muốn biết “ Thầy ở đâu” (Ga 1,38). Đức Giêsu biết Ngài từ đâu đến và sẽ đi về đâu, nhưng những kẻ thù của Ngài không biết (Ga 7,27;8,14;9,29). Trước tòa án, Philatô tra hỏi, muốn biết Chúa Giêsu từ đâu đến (19,9). Khi đến ngôi mộ trống, Maria Madalêna cũng bộc bạch sự lo lắng “ Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu” (Jn 20,2;20,13).

Xuyên suốt Tin mừng của Thánh Gioan, ý niệm “ ở đâu” không mang ý nghĩa một nơi chốn không gian, nhưng là trạng huống con người kết hợp sâu xa với Đức Giêsu, trong đó họ được nghỉ ngơi trong Chúa và tin vào Ngài. Đức Giêsu cũng muốn những kẻ tiếp bước theo Ngài sống theo cách thức mà Ngài đã sống, là luôn kết hợp với Chúa Cha, như Ngài đã nói “ Cũng như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng vui hưởng được ở trong Cha, và ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Có lần Đức Giêsu còn minh giải thêm “ Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và Ngài còn cắt nghĩa rõ hơn “ Thầy đi để dọn chỗ cho anh em” (Ga 14,2). Nhiều Kitô hữu phác vẽ một viễn cảnh về một nơi ở trên trời, nơi Đức Kitô đã chuẩn bị sẵn môt “căn hộ năm sao” cho những ai trung thành bước theo Ngài. Nơi ở mà Chúa Giêsu nói đến không phải vậy, nhưng chính là tình trạng kết hợp sâu xa với Ngài. Đó vừa là một thực tại hiện sinh, vừa là một động thái sâu xa hướng về sự viên toàn vào thời cánh chung.

Đây không phải là điều chúng ta dễ dàng lãnh hội được, cũng không phải là một cuộc hành trình giản đơn. Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, có một điều khá đơn giản: Đức Giêsu chính là con đường đi. Trong Tin mừng Gioan, Thánh Tôma luôn là đại biểu cho những người hay chất vấn và nghi ngờ, đã lên tiếng “ Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi?” (câu 5) Không biết đường đi, là một cách biểu lộ dễ nhất của một người muốn đứng ngoài cuộc. Philip đã đưa ra một chiến thuật khác để đối kháng “ Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con (câu 8)”. Ông ta bày tỏ ước muốn chỉ cần nhìn thấy Đấng mời gọi chúng ta sống kết hợp sâu tận với Ngài, thế thôi, giống như chỉ cần nhìn thấy căn phòng khách sạn rẻ tiền đã trang bị sẵn đồ đạc để ta đến trú ngụ, không cần điều gì khác. Dù chúng ta không biết cách thâm nhập vào cõi lòng đầy an bình của Thiên Chúa, nhưng chúng ta đã gặp được Đức Giêsu, thấy được vẻ thần linh, kín nhiệm của Thiên Chúa nơi Ngài. Tin Ngài và dấn bước theo Ngài, ngay cả khi trực diện cái chết, tâm hồn chúng ta sẽ trở nên tĩnh lặng và an bình, không còn xao xuyến, giống như một đứa bé thơ chẳng lo âu, đang ngủ yên trong vòng tay của mẹ nó (Tv 131,2)

 

20. Cuộc đời là một chuyến đi

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Người ta nói cuộc đời là một chuyến đi. Có chuyến đi dài. Có chuyến đi ngắn. Có chuyến đi đến vô tận. Chuyến đi nào cũng có thể gặp người ta yêu nhưng cũng có thể phải chia tay và bỏ họ lại phía sau. Chuyến đi nào cũng có niềm vui nhưng cũng có những chuyến đi mang lại nỗi buồn. Vui buồn lẫn lộn trong kiếp người cũng tùy thuộc vào chuyến đi mang theo mục đích gì? Mục đích chuyến đi sẽ quyết định về sự vui buồn trong hành trình của chúng ta.

Càng đi, ta lại càng thêm dẻo dai. Như một lực sĩ, càng chạy, ta càng mềm dẻo để có thể dấn thân vào một chuyến đi mới, vào những cuộc chiến đấu mới. Đi càng nhiều thì đời càng cho ta thêm kinh nghiệm. Thế nhưng, có khi càng đi, con người lại càng thêm buồn đau hơn! Vì thất bại nên thất vọng. Vì không như ý muốn nên chán nản…

Tựu trung trong cuộc đời chúng ta có ba chuyến đi:

1/ Những chuyến đi thể lý:

Đó là những chuyến đi theo nhu cầu tự nhiên của một người bình thường. Nhu cầu công việc. Nhu cầu về thăm quê hương. Nhu cầu thăm nom cha mẹ và anh chị em trong gia đình… Đây là những chuyến đi của bổn phận nhưng đòi hỏi chúng ta vượt lên sự ngại ngùng, lười biếng để dấn thân về phía trước.

2/ Những chuyến đi nhân ái

Có những chuyến đi không phải của bổn phận mà là của tình người chia sẻ, hiệp thông với tha nhân. Có chuyến đi đến với người nghèo để cho họ bữa ăn, hay đến với người bất hạnh để ủi an nâng đỡ họ. Mỗi năm giáo xứ chúng tôi vẫn có chuyến đi thăm người nghèo ở những vùng xa xôi hẻo lánh như Cao Nguyên hay Miền Trung khô cằn. Nhìn nét mặt hân hoan của họ khi nhận quà mà lòng mình cũng hân hoan. Lúc đó mới thấy chuyến đi mình thật ý nghĩa.

3/ Những chuyến đi tâm linh

Sự sống con người không dừng lại ở những chuyến đi thể lý hay nhân ái mà còn có chuyến đi về với cội nguồn là Thiên Chúa, Đấng tạo thành con người. Chuyến đi này xuyên suốt trong những chuyến đi thể lý hay nhân ái. Chính chuyến đi này làm cho những gánh nặng, những khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn. Ai đã từng đau khổ hay mang gánh nặng nề nếu biết hướng lòng về chuyến đi cùng đích sẽ cảm thấy nhẹ vơi, bình an. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Sau thập giá là vinh quang.

Chúa Giê-su đã từng thực hiện chuyến đi ấy trong suốt cuộc đời Ngài luôn hướng về Chúa Cha, luôn sống trong chờ đợi “Giờ” mà Chúa Cha đã định cho Ngài. Ngài đã sống trọn vẹn một hành trình vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cho dầu đó là thập giá đau thương, Ngài vẫn đón nhận trong niềm tín thác nơi Cha.

Sau cuộc hành trình đầy thương khó, Ngài đã về Trời để lãnh triều thiên vinh quang. Ngài đã bước qua thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh.

Hôm nay Ngài bảo: “Ngài về cùng Chúa Cha”. “Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Ngài mong rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Ngài. Nhưng để có thể ở bên Ngài trong Nước Cha Ngài, chúng ta cũng phải đi trên con đường Ngài đã đi. Con đường của thập giá tiến tới vinh quang. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong sự chia sẻ trách nhiệm với tha nhân. Thập giá trong những hy sinh phục vụ đồng loại. Nhất là thập giá trong hy sinh từ bỏ những quyến luyến tội lỗi, những đam mê lầm lạc để sống theo thánh ý Chúa.

Là người ky tô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa Giê-su đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.

Cuộc đời là một chuyến đi trở về nguồn. Trở về với Thiên Chúa là Cha. Trở về thiên đàng là nơi dành sẵn cho con người. Xin cho chúng ta biết đi theo Con Đường Chúa Giêsu đã đi để tiến về nhà Cha. Xin đừng vì những đam mê bất chính, những thói hư tật xấu, những lười biếng mà lạc mất hướng đi về trời. Xin Chúa Giêsu luôn đồng hành và nâng đỡ chúng ta trên hành trình tiến về nhà Cha. Amen.

 

21. Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)

  1. Dẫn vào

Bài Tin Mừng Ga 14,1-12 hôm nay là bài thứ nhất trong ba bài giảng sau Tiệc Ly được thánh Gioan trình bày kế tiếp nhau. Bắt đầu bằng việc Đức Giêsu ra đi để dọn chỗ cho các môn đệ, rồi Người sẽ trở lại đem các môn đệ đến với Người, để Người ở đâu, các môn đệ cũng ở đó (cc. 1-3) và điểm đến là mặc khải về sự duy nhất Cha-Con (cc. 7-11). Con đường mà cộng đoàn các môn đệ phải đi theo, là chính Đức Giêsu vì Người là con đường, là sự thật và là sự sống (cc 4-6). Các môn đệ đi trên con đường đó với điều kiện duy nhất là lòng tin, một thực tại có sức mạnh lớn lao (c. 12)

  1. Đức Giêsu, con đường đến cùng Chúa Cha

Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã nói lời từ biệt để về cùng Chúa Cha. Đã khiến cho các môn đệ hoang mang, lo sợ, xao xuyến. Trong suốt ba năm gắn bó với Thầy và chia sẻ ngọt bùi trong cuộc sống, Thầy là chỗ dựa, là cuộc sống, là con đường tương lai. Tất cả cuộc sống, hướng đi tương lai nay bơ vơ không biết đi về đâu… Chúa Giêsu hiểu rõ tâm trạng bồn chồn, lo lắng, ưu phiền của các môn đệ. Người nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Như thế, Người kêu gọi các môn đệ xây dựng cuộc sống trên nền tảng vững chắc không lay chuyển trong Thiên Chúa và trong chính Người.

Sở dĩ, Người kêu gọi hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Người, đó là bởi vì Người và Chúa Cha là một (10,30-38; 14,11-20; 17,21-23). Như Người đã quả quyết: “Ai tin vào tôi thì không phải tin vào tôi, nhưng tin vào Đấng đã sai tôi” (Ga 12,44). Bây giờ Người đi về cùng Đấng ấy, nhằm đưa các môn đệ đến chỗ nên một với Người. Đó là cuộc trở về nhà của Chúa Cha như Người nói: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến để đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Sau khi trấn an các môn đệ, Đức Giêsu nói về con đường đưa các ông đến cùng Chúa Cha. Người nói với các môn đệ: “‘Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi’. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi?’ (cc. 4-5). Đức Giêsu trả lời: ‘Chính Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy’” (c. 6).

Đức Giêsu chính là con đường, bởi vì Người là sự thật và là sự sống. Con đường này đưa đến Chúa Cha, và đây là con đường duy nhất bởi vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (14,6). Đến với Đức Giêsu đồng nghĩa với tin vào Đức Giêsu. Như thế “Đến cùng Chúa Cha” là tin vào Chúa Cha. Và Đức Giêsu là con đường nghĩa là trung gian dẫn thiên hạ đến với Chúa Cha, làm cho thiên hạ tin vào Chúa Cha.

Đức Giêsu tự ví mình với con đường, vì con đường là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa và tin tưởng vào Người, dân Israel đã ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới đất hứa. Do đó, con đường là tượng trưng cho cuộc xuất hành (x. Đnl 1,30-39). Một khi đã vào đất hứa, dân Israel cũng phải ăn ở theo đường Chúa dạy bảo thì mới được phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong luật Môsê. Do đó, con đường còn là tượng trưng cho luật Môsê.

Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Ngài qua trung gian Đức Giêsu, vị trung gian tuyệt hảo và sau hết. Do đó, con đường vẫn còn là tượng trưng, nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là con đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,30; Mt 16,24; Lc 8,23).

Đức Giêsu là con đường dẫn đưa “vượt qua” từ đau khổ đến vinh quang, từ sự chết đến sự sống. Tất cả được tiên báo trước bằng hình ảnh con đường nối liền giữa trời và đất như giấc mơ tổ phụ Giacóp, ông thấy chiếc thang từ đất chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống (x.St 28,12), và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Các anh sẽ thấy trời rộng mở và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).

Đức Giêsu là con đường vì Người là chân lý. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do Thái giáo thì chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, ngày xưa được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ. Nhưng ngày nay chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng chúng ta có thể nói: Đức Giêsu và chân lý Ngài mặc khải là một, vì khác với Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể, và vì thế, Ngài là lời tuyệt hảo của Chúa Cha, là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Chúa Giêsu (Ga 17,8-12).

Thật vậy, Đức Giêsu là sự thật, sự thật về một Thiên Chúa tình yêu (x. 1Ga 4,8) hay chạnh lòng thương, và giàu lòng thương xót. Sự thật về một Thiên Chúa cứu độ và giải thoát con Người: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32). Cho nên thánh Augustinô đã cắt nghĩa căn nguyên sự bối rối của các tông đồ: “Các ông đã không biết kho tàng sự thật mà chính mình đang sở hữu”.

Đức Giêsu cũng là sự sống. Muốn có đời sống vĩnh cửu, loài người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa dạy bảo qua trung gian Con Một của Người là Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa, Đức Giêsu không chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ: Ngài chính là lời tuyệt hảo của Thiên Chúa. Vì thế, chẳng có gì lạ khi Người là sự sống.

Đức Giêsu là sự sống, sự sống vĩnh hằng, sự sống ấy ngay trong cung lòng Chúa Cha (x. Ga 6,5a). Như Ngài đã tuyên bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Sự sống này được ban cho những người tin vào Người: “Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời”.

Đích điểm của con đường là Chúa Cha. Nhưng Chúa Cha hiện diện nơi Chúa Giêsu. Các môn đệ đã từng biết Đức Giêsu, và vì thế họ cùng biết Chúa Cha nơi Người. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết Người và đã thấy Người” (c.7). Lúc ấy, ông Philipphê mới xin được thấy Chúa Cha: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Thánh nhân đã nói lên khát vọng sâu xa của loài người mà chưa bao giờ đạt được. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng xem thấy Người là xem thấy Chúa Cha. Tuy nhiên, con người chỉ xem thấy Chúa Cha, không phải bằng cặp mắt Người phàm, mà bằng cặp mắt đức tin qua việc Đức Giêsu nói và việc Ngài làm, vì Chúa Cha ở trong Người và thực hiện công trình của Người qua Chúa con (14,10b). Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô giải thích: “Lời xin của Philipphê không gây ngạc nhiên, bởi vì, được nhìn thấy Chúa Cha là cùng đích của mọi ước muốn và hành động của chúng ta thì không còn gì, làm cho chúng ta mãn nguyện hơn, như lời Thánh Vịnh: “Nhìn thấy dung nhan Chúa, lòng con khấp khởi mừng vui”.

III. Người tín hữu sống Tin Mừng hôm nay như thế nào?

Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắc nhở chúng ta hãy khẳng định, hãy xác tín hơn nữa vào Chúa Giêsu. Ngài chính là con đường, nghĩa là ai tin vào Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình cuộc đời của mình.

Thực vậy, trên thế giới không thiếu gì những con đường nổi tiếng, những xa lộ, những con đường siêu tốc. Tất cả mọi con đường đều dẫn đến điểm hẹn. Nhưng trong cõi rộng mênh mông của cuộc đời, nhiều khi hành trình của chúng ta bị lạc hướng, nhiều khi chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn dừng chân, vì những chống đối, hiểu lầm, ghen ghét, kết án cứ bám chặt lấy cuộc đời chúng ta. Tuy nhiên, có một con đường được mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tình yêu để vươn lên sự sống; con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là “con đường mang tên Giêsu”.

Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả niềm tin gắn bó với Chúa Giêsu, để được sống và sống dồi dào do ân ban của Ngài, và để nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả tình yêu và phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường phục vụ và yêu thương. Vì thế, khi chúng ta sống trong yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.

Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta. Amen.

 

22. Niềm tin vào đời sau – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Chúa Giêsu đã hứa rằng: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.

Người ta kể rằng: Có một gia đình kia. Chồng là người ngoại đạo. Ông không tin vào Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ thì rất sùng đạo, luôn dạy con giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai niềm tin trái ngược nhau, nhưng đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với cha mẹ. Cho tới một hôm, em lâm bệnh hiểm nghèo. Em biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu ở dương gian. Em đã mạnh dạn hỏi bố rằng: “Bố ơi, trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian nữa! Con xin bố hãy dạy cho con biết, con phải tin theo ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng để tiếp tục sự sống, chẳng có Chúa hay có Mẹ để yêu thương và bảo vệ cho con được hạnh phúc đời đời? Còn tin theo mẹ, thì có Thiên Chúa là cha nhân lành sẽ ban thưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu và có Mẹ Maria luôn bầu cử chở che.

Ông bố nghe mà tái tê lòng. Ông ôm con vào lòng và nói: “Con hãy tin theo mẹ”. Đứa bé lại nói tiếp: “Nhưng nếu bố không tin theo mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?” Trước lời nói đơn sơ và chân thành của em bé, ông bố đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt, và để mặc cho nó tuôn tràn trên gò má già nua của ông. Kể từ ngày đó, ông đã đổi đời, ông chọn Chúa là lẽ sống và là cùng đích của đời mình.

Vâng câu nói: “Con hãy tin theo Mẹ” của người cha là câu nói hay nhất trong cuộc đời của ông. Câu này đã giúp cho con ông cảm thấy thanh thản khi bước vào đời sau. Câu này cũng giúp ông thay đổi đời sống mà từ trước tới nay ông đã cố tình không sống theo. Ông biết rằng phải có đời sau. Ông biết rằng là người thì hơn muôn loài muôn vật, vì con người có sự sống thần linh, con người có hồn thiêng bất tử. Thế nhưng, vì lười biếng và cố chấp ông đã không dám nhìn nhận sự thật từ trong sâu thẳm lòng mình là tin có Trời, có thần thánh, có hồn thiêng và cả đời sau. Ông lừa đối chính mình và lừa dối tha nhân. Hôm nay, ông đã phải nuốt những giọt nước mắt mặn đắng để nói lên sự thật của lòng mình trước mặt đứa con yêu dấu, sắp sửa từ giã ông tiến vào đời sau.

Thực vậy, là người ai cũng tin có đời sau. Là người ai cũng tin có quả phúc. Có thưởng có phạt đời sau. Từ trong sâu thẳm tâm hồn luôn có tiếng nói của Thượng Đế nhắc nhở con người phải sống ngay lành, sống thánh thiện như tình trạng ban đầu là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Sống đúng theo lề luật tối thượng của Thượng Đế, con người mới được bình an và hạnh phúc. Người khôn ngoan phải biết sống thuận theo ý trời mới được trời chúc phúc cho cuộc sống an khang hạnh phúc. Đạo lý đó đã được cha ông ta gom lại thành đạo lý tam tài: “Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa”.

Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống dồi dào.

Là người kytô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Xin Người nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta. Xin Người chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay. Amen.

 

23. Xao xuyến

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Chúa Giêsu khuyên các Tông đồ: “Các con đừng xao xuyến”. Động từ xao xuyến nói đến một tình cảm rung động mạnh và kéo dài không dứt trong lòng. Như vậy, băn khoăn xao xuyến là một cái gì đụng đến trái tim, là phần sâu thẳm nhất trong thâm tâm của con người. Hôm nay, các môn đệ đã xao xuyến khi các ông được nghe biết về sự phản bội của Giuđa, về sự chối bỏ của Phêrô, về cái chết gần kề của Thầy minh. Những biến cố kinh hoàng này đã ảnh hưởng đến đời sống các ông, phá vỡ những gì các ông đã xây dựng, đã vun trồng và ước mơ vì phải xa cách Thầy, phải đương đầu với một thế gian thù nghịch, với những hiểm nguy về tính mình sẽ xảy đến… tất cả những điều ấy đã làm cho các ông phải xao xuyến.

Không phải chỉ các môn đệ mới lo lắng và xao xuyến, mà chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần lâm vào một hoàn cảnh như thế. Ngài đã từng xao xuyến khi thấy Maria và những người Do Thái khóc nức nở bên nấm mồ Lagiarô. Ngài đã xao xuyến khi thấy giờ Ngài được tôn vinh qua đau khổ và cái chết đã đến, nên Ngài đã nói và cầu nguyện: “Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến”. Rồi Ngài đã xao xuyến khi loan báo về việc phản bội của một người môn đệ là Giuđa và Phêrô chối Thầy…Như thế, Chúa Giêsu không phải là một con người sắt đá, hay đã tôi luyện cho mình một thái độ vô cảm trước những nỗi đau của bản thân và của người khác. Trái lại, Ngài cũng có một trái tim như chúng ta. Và trái tim ấy cũng đã thổn thức, xót thương, lo lắng và xao xuyến trước hoàn cảnh bi đát của con người. Vì thế, Ngài rất hiểu và cảm thông với con người chúng ta. Xao xuyến và băn khoăn là một tâm trạng bình thường, đó không phải là một tội, nếu nó không đưa chúng ta đến chỗ sợ hãi mà bỏ cuộc, không chu toàn thánh ý Chúa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã băn khoăn lo lắng, nhưng Ngài đã vượt thắng những băn khoăn lo lắng ấy, Ngài đã can đảm chấp nhận vác thập giá, không lùi bước trước khổ đau và hiểm nguy. Và Ngài đã toàn thắng phục sinh vinh hiển.

Chúng ta nhìn vào thế giới và trái đất hôm nay có những biến cố sự kiện xảy ra thật khủng khiếp kinh hoàng: Dịch bệnh Covid giết người hàng triệu triệu, các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên, rồi nhiệt độ Trái đất thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường. Cụ thể ở Việt Nam chúng ta chưa bao giờ thấy cảnh người niềm Tây đi mua từng thùng nước để uống, dự báo niềm trung năm nay nóng chưa bao giờ có trong vòng hơn 40 năm nay… Về phương diện con người, con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau, rồi phá thai tự do lan tràn, tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp…

Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” (Ga 14,1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người, đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, sợ chết… và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con”(Ga 14, 2), và sau đó “Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó “(Ga 14,2-3). Qua thánh Tôma, các Tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?”(Ga 14, 5). Câu trả lời của Chúa Giêsu làm ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ con người và cho chúng ta hôm nay: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6). “Chỗ” mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi “nhà Cha”; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến chỗ này, thì chỉ có một đường đến mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình với Đức Kitô tức là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong chúng ta (x. Gal 2,20).

Thử hỏi làm sao chúng ta không xao xuyến trước thế giới, vũ trụ và cuộc sống của chúng ta quá nhiều hiểm nguy đang đe dọa. Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta không xin cho mình tránh khỏi mọi xao xuyến nhưng dạy chúng ta vượt qua những xao xuyến ấy bằng niềm tin: Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Chính niềm tin sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy siêng năng đọc kinh sáng tối, tham dự Thánh lễ và rước Mình thánh Ngài vào lòng để thờ phượng Ngài, cậy trông Ngài trong mọi hoàn cảnh vì chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn an ủi, niềm vui và sự bình an tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của bình an, thanh thản và niềm an vui. Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền, lo âu xao xuyếng… Xin Mẹ Maria trong tháng hoa này giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha toàn năng để Ngài phù trì nâng đỡ chúng ta. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng con luôn vững tin vào quyền năng của Chúa như Mẹ. Amen.

 

24. Con Đường Giêsu

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Chúa Giêsu hôm nay nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Một câu nói thật uy hùng, dũng cảm, uy tín mạnh mẽ và chân lý đến nỗi trước Chúa Giêsu và sau Chúa Giêsu không ai dám tuyên bố câu này. Cụ thể, Đức Phật sinh trước Chúa Giêsu, (rằm tháng 4 vừa rồi là kỷ niệm Đức Phật sinh ra được 2561PL năm – Còn Chúa Giêsu mình được 2017), ấy thế mà Đức Phật tự xác nhận Ngài là Đấng đã đạt đến giác ngộ. Còn ông Socrate một triết gia lỗi lạc sinh 469 TCN, cũng trước Chúa Giêsu xa, ấy thế mà ông vẫn rất bình tỉnh vui cười bưng chén thuốc độc uống cạn, chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lý, rất giống cái chết của Chúa Giêsu nhưng Socrate không bao giờ dám nói như Chúa Giêsu: “Ta là đường là sự thật và là sự sống và ai thấy Tôi là thấy Chúa”. Vâng, chỉ có mình Chúa Giêsu mới có thể nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Như vậy, duy chỉ có Chúa Giêsu là con đường đến với Chúa Cha, con đường cứu độ duy nhất và ai đi con này này sẽ đến cùng đích trong vinh quang với Ngài. Chính vì vậy, Chúa Giêsu là Đấng duy nhất cho mình biết về Thiên Chúa đích thực là ai, tâm tư Ngài như thế nào. Vì vậy, Ngài là Người duy nhất cho mình sự thật về con người: nguồn gốc, cùng đích của đời người, vì con người là hình ảnh về Thiên Chúa. Cho nên, đối với người Kitô Giáo, Chúa Giêsu là đường là sự thật và là sự sống. Khi tuyên xưng và nhìn nhận như thế, chúng ta phải đặt bàn chân của mình lên con đường đó.

Trước hết, Chúa Giêus là đường sự thật và chân lý sống động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời ở chỗ nào? Thưa, đường chân lý ấy, không phải là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của Chúa Giêsu, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời cứu độ. Sự thật là thế này: Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần cho Ngôi Hai “nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma- ri- a và đã làm người”. Chúa Giêsu sinh tại hang Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hê-rô đê, cha nuôi là Thánh Giuse thuộc con cháu dòng dõi Đa-vít, làm nghề thợ mộc, mẹ là Ma-ri-a lo việc nội trợ. Đến năm trạc 30 tuổi Chúa Giêsu rời khỏi gia đình, khởi sự đi rao giảng Tin mừng và thực hiện ơn cứu độ. Sau khi Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa, được Thánh Thần dẫn vào trong sa mạc, ăn chay, cầu nguyện 40 đêm ngày, chịu ma quỷ cám dỗ. Sau đó, Đức Giêsu trở về miền Ga-li-lê và bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của họ, dùng những ngụ ngôn giảng dạy và được mọi người tôn vinh. Người đã dùng quyền năng của mình đi rao giảng khắp nơi và chữa lành cho nhiều người bị quỷ ám, đau yếu, bị phong hủi, bại liệt được lành bệnh, kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ câm nói được, kẻ què được đi và kẻ chết sống lại. Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh để ban ơn cứu độ cho loài người bằng việc chọn và thiết lập Mười Hai người lại làm Tông Đồ, huấn luyện và ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ ma quỷ và chữa các bệnh tật. Chúa đã đặt Phêrô làm đầu, chính công Đoàn này là hạt nhân làm phát triển Hội Thánh Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ để chứng minh sứ mệnh của Người, Người phải chịu nhiều đau khổ và phải chết để cứu độ hết mọi người. Vì thế, trong bữu ăn tối Vượt Qua với các Tông đồ, Chúa Giêsu hoá bánh và rượu trở thành Mình và Máu Người cách nhiệm mầu để ở lại với họ và những người Chúa yêu trong mọi thời đại. Chúa còn rửa chân cho các môn đệ để dạy họ bài học yêu thương phục vụ. Lúc đêm khuya, Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện. Giuđa, một trong12 môn đệ đã phản bội vì tham tiền, ông dùng cái hôn tình nghĩa để chỉ điểm cho lính bắt Chúa. Chúa bị Philato kết án tử hình. Chúa bị trao cho các lý hình, chúng đánh đập, nhạo báng, ấn vòng gai lên đầu Người như mũ triều thiên,bắt Người vác thập giá lên Núi Sọ. Vào giờ trưa chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với 2 tên trộm cướp. Người đã tắt thở vì cực hình tàn bạo ấy lúc 3 giờ. Chập tối, ông Nicôđêmô đến xin Philato cho tháo xác Người, xác Người được mai táng trong mồ, còn linh hồn thì xuống ngục tổ tông để loan báo Tin Mừng cứu độ cho những người công chính đã chết trước khi Người đến. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định ngày thứ ba Người đã sống lại như Người đã báo trước. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn hiện ra dạy dỗ, an ủi các môn đệ trong 40 ngày, sai các ông đi rao giảng Tin Mừng rồi Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Rồi Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.  Vì vậy, sự sống lại của Chúa Giêsu là mở lối cho chúng ta bước vào sự sống mới đồng thời là khơi nguồn và bảo đảm sự sống lại sau này của chúng ta. Sự thật là thế!

Cho nên, Chúa Giêsu là đường sự sống dĩ nhiên bởi vì Ngài là nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên: Sự sống phần xác trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt. Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: “Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời”.

Với kinh tế thị trường và lòng tham sân si trong con người hôm nay như cơn lốc xoáy nó xô đẩy làm chúng ta lao mình đi tới mà chẳng biết đường biết hướng ở đâu. Chúa là con đường nhưng vật chất, tài, tiền danh vọng lạc thú làm chủ tốc độ, nó dẫn chúng ta đi nhiều khi ta tưởng đó là đúng mục đích nhưng thực ra chúng ta đi đến tội lỗi và chết chóc. Là Kitô hữu, tức những người thuộc về Chúa Giêsu Kitô, chúng ta luôn môi miệng tuyên xưng Chúa là con đường con con bước đi nhưng thực tế trong cuộc sống chúng mình đặt bàn chân của mình lên con đường đó, con đường Chúa Giêsu đi ngày xưa không? Cụ thế, chúng ta dám đặt bàn chân mình vào con đường của những Lời dạy Phúc Âm: Tám Mối Phúc Thật, 10 điều răn Đức Chúa Trời… Chúng ta thử đặt khung cảnh lúc Chúa Giêsu nói: Ta là đường…. Ai thấy Tôi là… lúc đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu chuẩn bị bước vào đường thương khó, đến đồi Gôngôta. Vậy lúc đó Ngài nói Ngài là con đường, đường nào? Đường dẫn đến cái chết. Ngài là sự thật nào? Sự thật phũ phàng của một con người chịu đóng đinh. Ngài là sự sống nào? Cái chết trên thập giá. Cho nên, chính vì thế mà chúng ta không dám đặt bàn chân mình trên con đường của Phúc âm. Vì sao chúng ta không dám bước đi con đường Giêsu vì thiếu tình yêu, niềm tin, can đảm, nghị lực và không muốn bỏ mình. Vì thế, chỉ con đường Phúc âm, con đường Giêsu mới dẫn chúng ta tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta phải thực thi và sống Lời Chúa dạy đó là: yêu thương, tha thứ, phục vụ, hy sinh, hiền hậu, nhân từ như Chúa Giêsu.

Vì vậy, giờ này mời anh chị em cùng đứng lên và hát bài Thánh ca này như một lời cầu nguyện của chúng ta với Chúa hôm nay rằng: “Xin chỉ cho con (Xin chỉ cho con) đường đi của Chúa (đường đi của Chúa). Xin dạy bảo con (Xin dạy bảo con) nước bước của Ngài (nước bước của Ngài). Xin hướng dẫn con trong chân lý, xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Đấng cứu độ con. Là Đấng ngày đêm con cậy trông.

  1. Tất cả nẻo đường Chúa là tình yêu và chân lý, dành cho những ai giữ trọn minh ước. Điều răn Chúa ra nghiêm chỉnh thực thi.
  2. Xin mở lượng từ bi từ ngàn xưa Ngài vẫn có, mà quên hết những lỗi lầm con mắc. Hồi niên thiếu vươn lên trong dại khờ.
  3. Xin đừng để kẻ hại con ngày nào reo mừng chiến thắng, thẹn thay khốn thay cho bọn thất tín. Làm sao thoát tay Thiên Chúa toàn năng.

 

25. Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Trong cuộc sống con người, những băn khoăn về cội nguồn của con người, những thắc mắc về ý nghĩa cuộc sống, những thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối hằng bao thế kỷ mà chưa có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba đường không biết phải đi về đâu.

Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết cội nguồn của Người là Chúa Cha, ý nghĩa cuộc sống của Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích của Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Con đường ấy có tên là GIÊSU. Con đường ấy chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường dẫn chúng ta tới đích.

Mười năm về trước, một lần từ Bình Dương về Long Khánh. Trên đường đi tôi thấy một bảng chỉ dẫn Bình Dương – Biên Hòa 30 km. Tôi yên tâm cứ thế mà đi. Đi được khoảng một tiếng đồng hồ, tự nhiên tôi có cảm tưởng là sao hôm nay con đường này lạ quá và tôi đã dừng xe lại hỏi một người bên đường từ đây đến Biên Hòa còn bao xa?

Và tôi hốt hoảng với câu trả lời: còn 30 cây số nữa.

Bình Dương cách Biên Hòa 30 cây số. Đi cả một tiếng đồng hồ mà vẫn còn 30 cây số.

Tôi bắt đầu lo lắng, vì hai bên đường toàn cây cao su vắng lặng, không một bóng người.

Làm sao đây? Rủi hư xe hoặc hết xăng thì như thế nào đây?

Với cảm nghiệm này, tôi mới thấy tầm mức quan trọng của Lời Chúa hôm nay:

“Ta là con đường, là sự thật và là sự sống”.

Con đường chính là cái giúp chúng ta đến nơi mà chúng ta mong đợi. Con đường càng tốt, càng đưa chúng ta tới đích nhanh. Con đường càng sáng sủa, càng giúp chúng ta nhận định chính xác điểm đến của chúng ta. Dĩ nhiên, nếu con đường vòng vèo sẽ làm chúng ta mất nhiều thời giờ và lâu tới đích hơn.

Chúa Giêsu là con đường, con đường thật, con đường chân chính dẫn đến Chúa Cha.

Chúng ta biết Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Người là trung gian hòan hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta.

Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Người mới là con đường đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Người vì chính Người đã khẳng định với chúng ta: ”Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6).

Một hình ảnh khác về con đường: chú ruồi với con đường

Hôm ấy là một ngày cuối tháng Bảy bình thường như mọi ngày. Tôi đang ngồi trong một căn phòng yên tĩnh ẩn giữa rừng thông và lắng nghe những âm thanh tuyệt vọng của trận chiến sinh tử đang diễn ra cách chỗ tôi ngồi một vài bước chân. Đó là một chú ruồi nhỏ đang dốc chút sức lực cuối cùng để vượt qua tấm kính của cửa sổ. Những nỗ lực điên cuồng không mang lại chút hy vọng nào. Càng cố gắng, nó càng mau kiệt sức. Thật vô ích khi chú ruồi cứ nhất định muốn phá vỡ tấm kính bằng sức lực nhỏ bé của mình.

Cuối cùng, chú ruồi phải chịu số phận bi đát. Nó kiệt sức và gục chết trên bậu cửa. Chỉ cách mười bước chân thôi, cánh cửa đang rộng mở. Chỉ mất mười giây đồng hồ để bay đến đó, và con vật bé nhỏ này sẽ ra được với thế giới bên ngoài mà nó đang tìm kiếm. Chỉ cần một phần nhỏ sức lực đã bỏ phí, nó đã có thể thoát khỏi chiếc bẫy mà nó tự áp đặt cho mình, nhưng nó đã không làm thế. Nó đã chết một cách thê thảm.

Và một hình ảnh khác: chú ong đất với con đường

Khi chúng ta nhốt một con ong đất vào một chiếc lọ thủy tinh, chúng ta thấy chú ong cứ luẩn quẩn ở đáy lọ và tìm cách thoát ra ngoài bằng con đường ở đáy lọ, đang khi đó, nắp lọ mở rộng, nhưng nó không bao giờ nghĩ tới. Chúng ta nhiều khi cũng như chú ong đất, chỉ loay hoay tìm hướng ra từ mặt đất, không thể hướng lên cao, nên chúng ta phải nhờ Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu giúp chúng ta hướng lên, hướng lên cao tới tầm mức của một con người và tầm mức của một con Chúa.

Chính Chúa Giêsu là người mở đường đồng thời cũng là chính con đường dẫn chúng ta đến Chúa Cha. Phải, chính Chúa Giêsu, Người đã đến từ Chúa Cha, nay Người trở về cùng Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã khai mở.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin tưởng và tín thác vào Lời Chúa như trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống.” Amen.

 

26. Thầy là con đường

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Đoạn Tin Mừng chúng ta suy nghĩ hôm nay là một trong những đoạn quan trọng nhất và mang đậm nhiều vấn đề thiết yếu. Đây là một đoạn trong diễn từ vĩnh biệt, trong bữa Tiệc Ly, trong đó Chúa Giêsu như trút hết tâm sự cho các môn đệ của Ngài, đồng thời Ngài cho biết hướng đi sau này các ông phải theo.

“Anh em đừng xao xuyến”. Không xao xuyến sao được khi Thầy nói rằng một người trong anh em sẽ nộp Thầy? Rồi Ngài lại nói thêm: “Thầy sẽ ra đi”. Mấy năm sống bên Thầy, Thầy là tất cả. Bây giờ Thầy lại ra đi. Đi đâu? Thầy đi dọn chỗ cho anh em? Đây chỉ là một cách nói điển hình cho dễ hiểu. Trong thế giới tâm linh thì không thể có chỗ ngồi hay đứng. Nhà Cha Thầy không là một tòa nhà xây bằng gạch đá, mà là chính Cha, Tình Yêu của Cha. Trái tim Cha rộng đến nỗi có thể cho mọi người một chỗ. Cha không từ chối ai cả, chỉ có những người con của sự hư mất mà thôi, những người không chấp nhận ân ban nhưng không của Cha.

Thầy dọn chỗ, tức là Thầy đi trước, Thầy lo tất cả, chúng ta chỉ cần chấp nhận bước theo. Thầy sẽ đến và đưa anh em đến với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi. Những lời Thầy nói hình như có ẩn ý gì, không rõ rệt. Tôma, người đã tuyên xưng đức tin lại thắc mắc: “Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?”

Nhờ những thắc mắc của các môn đệ, Chúa Giêsu mạc khải rõ nét hơn về khuôn mặt của Ngài. Và đây là những nét hết sức quan trọng đối với chúng ta.

Anh em không biết đường? Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Đây là một lời tuyên bố thật mạnh mẽ. Thầy là đường, phải đi trong Thầy mới có thể đến với Cha. Không có con đường nào khác. Từ xưa đến nay, biết bao người đã dẫn đường cho nhân loại, nhưng không có con đường nào dẫn đến sự sống cả, nhiều chủ nghĩa đã dẫn con người đến chết chóc và khốn khổ. Nhân loại vẫn tìm đường để đạt đến hạnh phúc, nhưng hình như không có con đường nào cả. Công Đồng Vatican II đã xác quyết: chỉ có Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người mới là con đường duy nhất dẫn đến hạnh phúc mà thôi. Người ta đã tạo ra đủ các thứ tổ chức để ngăn chặn những tranh chấp nhưng thế giới vẫn đầy đe dọa. Các nước vẫn chống đối nhau và nguy cơ một thế chiến thứ ba vẫn đang là một ám ảnh cho con người hôm nay, vì không có Chúa Giêsu, thì không thể có gì tốt đẹp, chỉ có tranh chấp và hận thù.

Chúa Giêsu là Tình Yêu nhập thể, không thể có con đường nào khác ngoài con đường mang tên Giêsu Tình Yêu. Càng loại trừ Thiên Chúa, con người càng lún sâu vào khốn khổ mà thôi, vì chỉ có Tình Yêu của Chúa mới giải thoát chúng ta ra khỏi ngục tù của tham lam và gian ác.

Chúa Giêsu cũng là sự thật. Philatô hất hàm hỏi Chúa: “Sự thật là gì?” rồi bỏ đi. Đó là thái độ của nhiều người hôm nay. Họ không quan tâm đến những vấn đề tinh thần, chỉ cần vật chất. Linh mục Jean Sulivan đã nói: “Thời này là thời trâu bò… Người ta chỉ sống cho cái xác”. Không cần sự thật, không cần hạnh phúc. Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc đó chính là sống trong sự thật. Chính Chúa đã nói: “Sự thật giải thoát các ngươi”. Chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta không bị ràng buộc trong tội ác, hoàn toàn tự do. Muốn thế phải sống trong sự thật, là sống trong Chúa. Chỉ những người có đức tin mới biết sự thật là gì. Vì chỉ có Chúa mới là sự thật. Hãy cám ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta đức tin. Nhờ đức tin chúng ta mới thấy cuộc sống có ý nghĩa. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà bằng niềm tin vì chỉ có Ngài mới có những lời ban sự sống đời đời.

Chúa Giêsu lại là sự sống. Chúng ta đã chết trong tội, như thánh Phaolô đã nói, nhưng Chúa đến tiêu diệt sự chết và khôi phục sự sống cho chúng ta. Rất nhiều người không biết đến sự sống thật mà chỉ biết sự sống thể xác. Chúng ta là những người có phúc vì đã được biết sự sống đời đời là gì: “Sự sống đời đời chính là nhận biết Cha và Đấng Người sai đến”. Chúng ta đang sống trong Chúa Kitô, chúng ta đang hưởng hồng ân đức tin nhờ được thanh tẩy trong Chúa Kitô. Cám tạ ơn Chúa vì đã cho chúng ta hồng ân tuyệt diệu là biết Cha, yêu mến Cha. Cha là nguồn tình yêu, là lòng từ nhân.

Nhưng chúng ta có yêu mến Cha không? Không mấy khi chúng ta nghĩ đến Cha trên trời, nhưng chính Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường đến với Cha, chính là Ngài. Philipphê thắc mắc: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Chúa nói rõ cho Philipphê biết Ngài là ai và Cha là ai. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha… Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” Đây chính là một mạc khải quan trọng. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, Chúa Cha và Ngài là một, như Ngài đã nói. Ngài chính là Chúa Cha hiện diện giữa loài người, cụ thể và rõ rệt. Thiên Chúa đến với chúng ta, trong thế giới vật chất của chúng ta. Chúng ta có thể đến gần Ngài, chạm lấy Ngài, chiếm hữu lấy Ngài như thánh Gioan đã nói: “Điều vẫn có từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến… chúng tôi loan báo cho anh em.”

Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Người Con Một. Người Con Một ấy lại thuộc về thế gian, và chúng ta chiếm hữu Thiên Chúa. Ngài đến không phải để lên án mà để cứu vớt. Ngài đến như một tình thương rộng mở đón tiếp và ban bố ơn lành. Chúng ta có thấy được hạnh phúc của chúng ta không? Hạnh phúc đó chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, và Thiên Chúa chính là hạnh phúc thật, hạnh phúc vĩnh cửu. “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở” là như thế. Mọi người đều được mời gọi vào tình yêu của Cha.

Sự hiệp nhất toàn vẹn giữa Chúa Cha và Chúa Con lan tỏa đến mỗi người chúng ta. Thầy với Cha là một, Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha… thì chúng ta cũng phải như thế. Chúng ta cũng phải nên một như Chúa Cha và Chúa Con. Chính Ngài đã cầu xin như thế: “…để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta”. Sự hiệp nhất trong tình yêu là một bằng chứng cụ thể về Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không tin nhận Chúa là vì chúng ta chưa có một bằng chứng cụ thể về Chúa, chúng ta không hiệp nhất.

Hơn nữa, Chúa Giêsu còn muốn chúng ta trở thành chính hiện thân của Ngài giữa thế gian: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Ngài cũng muốn người ta thấy Ngài nơi mỗi người chúng ta, để ai thấy chúng ta là thấy Ngài. Các thánh đã làm được. Người ta đã nhìn thấy Chúa nơi các ngài. Chúng ta nghĩ sao? Chúng ta là hiện thân của ai? Của kiêu căng, hận thù hay của tình yêu?

Hãy đến ăn lấy Ngài để nên một với Ngài, không phải chỉ trong ước muốn mà trong thực tế của mỗi ngày. Trong hy sinh bỏ mình vì anh em, trong phục vụ chân thành không tránh né: “Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy, người ấy ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy”.

 

27. Nhà Cha – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Những điều làm chúng ta lo lắng nhiều trong cuộc sống đời tạm này là tìm kiếm có nhà để ở, có của ăn nuôi dưỡng, có gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc chung sống. Chứng kiến cảnh những người vô gia cư sống lang thang nay đây mai đó, chúng ta thấy thật tội! Trong khu vực tôi đang phục vụ, hàng ngày tôi vẫn thấy có nhiều người vô gia cư sống bên lề đường. Một hôm tôi bắt truyện với một người và mới được biết anh là người Việt Nam. Ngày trước, quê ở Saigòn, anh được bảo lãnh sang Hòa Kỳ theo diện con lai. Không may mắn, vợ con từ bỏ và đi sống ở tiểu bang khác. Anh bơ vơ một mình. Quanh năm suốt tháng, với năm ba cái vali và bao bì, anh di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia bên lề đường. Tôi không biết anh giải quyết các nhu cầu cá nhân ở đâu. Mùa Hè qua, mùa Đông đến, anh luôn có mặt đó. Anh không xin ăn. Anh đứng hoặc ngồi đó, miệng luôn lẩm bẩm nói điều gì không rõ. Biết rằng anh có bệnh trong người, nhưng hình như anh an phận và không than van trách móc. Tôi nghĩ có lẽ tâm trí của anh không được bình thường lắm. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi làm sao anh có thể sống sót ngoài đường sương gió tuyết lạnh và nóng nảy quanh năm suốt tháng như vậy. Anh không có nhà để về, không có nơi để ở và không có chốn để dung thân. Chính anh lại không muốn vào ‘shelter’ chỗ sống chung dành cho người vô gia cư. Thật đáng thương! Thân phận một đời người. Tôi chẳng giúp được gì cho anh.

Chúng ta dù có đi đâu, rồi cũng mong về nhà. Nhà là tổ ấm của yêu thương. Ai ai cũng mong có một mái nhà để được đùm bọc sinh sống. Dù là mái tranh nghèo, nhưng cuộc sống ấm áp là đủ. Người ta thường nói: Hai trái tim vàng, một túp lều tranh là thế. Thật là lý tưởng và đơn sơ. Trong thực tế cuộc sống văn minh ngày nay, hình như sự đòi hỏi các phương tiện và nhu cầu cuộc sống cao hơn nhiều. Nhưng chúng ta biết rằng nhà to hay nhỏ không quan trọng, điều cần thiết là có mái nhà. Nhà là nơi mọi thành viên trong gia đình có thể qui tụ và vui hưởng hạnh phúc bên nhau. Chúng ta đang trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta chỉ có thể sống tạm nơi đây một thời gian. Đôi khi, vì nhu cầu cuộc sống, chúng ta đã chuyển đổi từ nơi này tới nơi khác nhiều lần. Cho nên các ngôi nhà dù có xây cất kiên cố, cũng không thể giữ chân của chúng ta tại một chỗ. Chúng ta luôn phải đi kiếm tìm cuộc sống tươi đẹp hơn. Ai cũng như ai, cuộc đời con người bước tới và phát triển mỗi ngày. Dù nhà có sang có đẹp, rồi một ngày nào đó, mỗi người chúng ta đều phải giã từ.

Niềm tin hy vọng của con người trên trần thế có cùng đích và có nơi để về. Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con (Ga 14, 2). Chúa Giêsu đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc hơn. Chúng ta biết chắc chắn là sẽ có đường để đi theo và có nhà để tới. Chúa Giêsu mở một chân trời mới đáp ứng mọi ngưỡng vọng của đời người. Có người ví đời người như cánh bèo trôi, lênh đênh dòng nước, khi trôi khi dừng, lững thững theo dòng nay đây mai đó và cuối cùng tàn rụi. Nhưng người có niềm tin vào Thiên Chúa là có niềm hy vọng. Đời tạm này sẽ đi qua và cuộc đời trần thế sẽ kết thúc, nhưng hồn thiêng sẽ sống mãi. Chúa Giêsu đã hứa sẽ trở lại đón chúng ta về nhà Cha. Ngày hạnh phúc đó, xác hồn kết hợp trong một cuộc sống mới và nơi đó không còn bóng dáng sự chết.

Chúa Giêsu đã dọn cho chúng ta có chỗ dung thân đời đời. Nhưng để tìm đạt cùng đích của cuộc đời, chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã vạch ra. Chúa nói: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Con đường dẫn tới sự sống viên mãn là con đường sự thật. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Có rất nhiều người chưa hiểu biết sự thật là chi? Sự thật là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa giáng thế làm người và đã hy sinh thân mình để cứu độ chúng sinh. Chúa Kitô là sự thật tuyệt đối. Sự thật của Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi điều bất chính. Sự thật thì đơn sơ, trong sáng và thanh khiết. Chúa Thánh Thần chính là Thân Chân Lý. Muốn học biết sự thật, chúng ta phải biết hướng thiện và tìm về nguồn cội rễ của sự hiện hữu. Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự thật qua chính Con Một của Người. Chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô.

Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã ra đi làm nhân chứng. Công việc chính yếu của các ngài là: Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Thiên Chúa (Tđcv 6, 4). Sứ vụ của các tông đồ là cầu nguyện và rao giảng. Các tông đồ đã nhiệt tâm và hăng say rao giảng tin mừng Chúa Kitô phục sinh và đón nhận các tín hữu. Đặt nền tảng và xây dựng Giáo Hội sơ khai. Tuy phải đối diện với nhiều khó khăn cả về mặt tôn giáo và xã hội, các ngài đã can đảm vượt qua mọi gian khổ để mở mang Nước Chúa: Lời Chúa lan tràn và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin (Tđcv 6, 7). Giáo hội mở rộng cửa và có rất nhiều người đã ăn năn sám hối trở về gia nhập đạo thánh. Hình thành tổ chức của Đạo Công Giáo thời sơ khai là do chính các người Do-thái. Họ đã giơ tay xin đóng đinh Chúa Giêsu vào thánh giá, nay trở thành môn đệ của Chúa. Một số các vị tư tế xin giết Chúa, nay cũng tin nhận Chúa Kitô phục sinh và ăn năn sám hối đổi đời.

Niềm tin vào Chúa Kitô là căn cốt của ơn cứu rỗi: Vậy vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những người không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường (1Petr 2, 7). Chúa Kitô trở thành tảng đá góc của niềm tin. Chúa Kitô là tất cả, là đầu hết và là cùng đích. Mọi sự đều qui phục dưới chân Người. Các tông đồ đã nhờ Danh của Đức Kitô làm mọi sự lạ lùng: Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha (Ga 14, 12). Chúa Giêsu trao ban trực tiếp cho các tông đồ quyền giảng dậy, làm các phép lạ và xua trừ ma quỉ. Biết rằng, không thể cáng đáng mọi công việc, các tông đồ đã tuyển chọn và đặt tay cầu nguyện trên những người cộng tác tiếp tục sứ mệnh. Ân sủng của Chúa Kitô là kho tàng chung của Giáo Hội được kế thừa qua mọi thời.

Thánh Phêrô tràn đầy sinh lực của Chúa Thánh Thần đã mạnh dạn công bố tin mừng và xác tín điều giảng dậy: Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người (1Petr 2, 9). Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, các tín hữu trở thành dân riêng được tuyển chọn. Qua Bí tích Thanh Tẩy, mỗi người được trở nên tạo vật mới, được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô và được chung phần gia nghiệp mà Chúa đã dọn sẵn cho. Chúa Kitô là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị sẵn chỗ cho chúng ta trong Nhà Cha của Ngài.

Lạy Chúa, hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan. Chúng ta hãy sống niềm vui phục sinh ngay khi còn đang lữ hành dưới thế. Xin cho chúng con luôn biết dõi theo con đường chính thật để đạt tới sự sống đời đời.

 

28. Đường Giêsu, Đường con đi

(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)

Trong những ngày đầu tháng 02 năm 1990, có một con đường ở huyện ngoại thành đã được báo chí làm cho nổi tiếng. Con đường ấy một đầu là giăng ngang biểu ngữ khai trương phòng vật lý trị liệu trá hình, còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng làm nhà riêng của người biển thủ, chức danh là giám đốc. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.

Từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội, người ta biết có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để lâng lâng vươn lên sự sống. Con đường ấy thấp sáng hy vọng để dẫn tới Nhà Cha trên trời. Đường mở về miên viễn, Đường dẫn đến vĩnh hằng. Đó là đường mang tên Chúa Giêsu.

  1. Đường hy vọng tin yêu.

Nếu có một câu hỏi được các Tông đồ đặt ra nhiều nhất thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn. “Thầy ở đâu?” là câu hỏi của Gioan đặt ra trong lần đầu gặp gỡ, để được gọi đến xem và bước vào ơn gọi; “Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua ở đâu?” là câu hỏi của các Tông đồ đặt ra để có được địa chỉ chính xác cho Bửa Tiệc Ly; và hôm nay lại là Tôma nôn nóng bật ra câu hỏi “Thầy đi đâu?” trước một tương lai vẫn còn ẩn khuất.

Bận tâm về nơi chốn là bởi vì trong đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, mà cuộc hành trình cuối cùng là tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết. Có khối ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa để trở thành con đường thất vọng của mình. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Người lại bị đóng đinh như tên tử tội. Công dã tràng! Khi mọi vốn luyến hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bổng dưng lật ngữa trắng tay, người ta như rớt từ trên cao quay cuồng chao đảo. Thế mới hay ước vọng thì rộng lớn nhưng khung đời lại chật hẹp mà thực tế lại phũ phàng!

“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vứa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”.

Thất vọng về quá khứ và hoang mang trước tương lai, đó là những con đường các Tông đồ đã nếm trải. Nhưng mở đầu Tin Mừng hôm nay lại là lời của Chúa Giêsu: “Các con đừng xao xuyến”. Đó là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là lời cắt băng khai mở một con đường mới trong hy vọng tin yêu.

  1. Đường mang tên Giêsu.

“Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Trả lời cho Tôma, cùng lúc Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn cứu độ, và tên gọi con đường ấy lại chính là Người.

Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra? Giữa phiên tòa dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, Philatô đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự Thật là chi?- Quid est Veritas?” Chúa Giêsu không trả lời, vì Sự Thật hiện thân chính là Người đứng đó. Có biết đâu hỏi là đã trả lời, chỉ cần sắp xếp lại thứ tự các mẫu tự sẽ thành hàng chữ: “Est Vir qui adest” (x. Tihamet Toth, Chúa Cứu Thế Với Thanh Niên, p. 95).

Người là Đường Sự Sống bởi Người là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là Sự Sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn cứu độ. Người thông ban sự sống cho mọi sinh linh, và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với Sự Sống của Thiên Chúa. Người chịu chết để nhân loại được sống, và Người sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng Sự Sống Người là vĩnh cữu trường tồn. Người hằng sống hằng trị muôn đời.

Người là Đường dẫn tới Nhà Cha bởi Người và Cha không thể tách lìa: Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha và Chúa Cha tỏ hiện trong Chúa Con. Vẫn là Một từ ngàn xưa và mãi là Một tới ngàn sau. Thế nên Đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào Đường Sự Thật và Sự Sống.

  1. Đường con đi.

Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới bằng toàn diện con người mình, Chúa Giêsu muốn truyền lại cho các Tông đồ cái kinh nghiệm hiện sinh phong phú liên kết với Cha qua Chân Lý và Sự Sống; đồng thời đó cũng chính là lời mời gọi Giáo Hội cất bước lên đường với những hành trang đi về hạnh phúc.

Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lí tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lí tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn sao gợn sỏi đá của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thót vừa thanh thản của đời nhân đức chính là hát lên khúc ca mới trên con đường mới. Vì lí tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, Dân riêng của Chúa…” (bài đọc thứ hai).

Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chổ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Auguatinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghĩ ngơi trong Ngài”.

Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ bàn thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành. Có thể nói được rằng tình yêu và phục vụ là đôi chân của Giáo Hội lữ hành đặt bước chân mình trong dấu chân Chúa. Và cũng có thể hiểu được rằng cách nhìn “con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II) chính là tốc độ mới của tình yêu chan hòa phục vụ trên Đường Giêsu hôm nay.

Và lời cuối cùng sẽ là một lời kinh, dệt nên khúc hát hy vọng cho những ai đang băn khoăn tìm kiếm một con đường sống, và biến nên hành khúc tin yêu cho những ai đã một lần cất bước hành trình: “Chúa muốn nhận con đường con đi, nên Ngài đã sinh xuống dương gian. Chúa đã nhận đôi bàn tay con, dìu từng bước, bước đi trên đường. Chúa ôi, khi nhìn đời con, con không hiểu từng giọt lệ sầu. Chúa ôi, khi nhìn đời Ngài, con đã gặp đường hướng con đi”.

 

29. Chúa Nhật 5 Phục Sinh

NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU TÂM SỰ VỚI CÁC TÔNG ĐỒ SAU BỮA TIỆC LY

  1. Tìm hiểu: 3 điều:

a/ Thiên đàng có nhiều chỗ

b/ Thầy là Đường đi…

c/ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

– Câu 14,2 Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ

Chúa cho biết trong nước Trời của Chúa, tức là trên thiên đàng có nhiều cấp bậc, nhiều phần thưởng khác nhau, tùy Chúa ban, tùy công phúc người ta cố gắng lập khi còn sống. Rất công bằng và thương xót. Không có chuyện “Bé không đi học, lớn lên làm đại úy”.

– Câu 14,6 Thầy là đường đi…

Nhờ ông Tôma hỏi, Chúa nói rõ Ngài chính là đường đi về quê trời, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể đến được với Chúa Cha, đến được Nước Trời.

– Câu 14,9 Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

Nhiều khi người ta tự hỏi: Không biết Chúa Cha thế nào? Có giống như người ta vẽ cụ già đầu râu tóc bạc, uy nghi dễ sợ không?

Chúa Giêsu trả lời rõ ràng: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Cha cũng trẻ, cũng nhân từ, hiền lành, thương xót như Thầy, đừng sợ.

  1. Suy niệm:

Truyện: Đi tìm minh chủ

Truyện kể rằng: có một chàng thanh niên khỏe mạnh, muốn tìm một ông chủ tốt làm sư phụ.

– Anh ta đến với một người giầu có trong làng, anh rất hài lòng về cách cư xử của người này. Nhưng một hôm, theo người này đến một nơi, thấy người này quì lạy một người tự xưng là ông quỉ. Chàng thanh niên phân vân tự nghĩ: như vậy ông chủ mình còn thua ông quỉ. Anh ta liền xin ông chủ cho đi theo ông quỉ.

– Ông quỉ hài lòng với người thanh niên lắm, sai hắn làm cái này cái kia…đều được việc, nhưng một hôm chàng theo ông quỉ tới đầu làng, chàng thấy ông quỉ không dám đi gần cây Thánh giá dựng ở đó, chàng thanh niên bỡ ngỡ, hỏi căn cớ tại sao thì ông quỉ cho biết, người chết trên đó là ông Giêsu. Chàng thanh niên lại bỏ ông quỉ đi tìm hiểu Ông Giêsu.

– Người ta giới thiệu chàng vào gặp cha xứ.

Sau một thời gian tìm hiểu, chàng được rửa tội, cha xứ thấy chàng to con, khỏe mạnh, cha đề nghị chàng làm việc bác ái, đưa đồ giúp người qua khúc sông, vì nơi đó không có thuyền không có cầu. Chàng vui vẻ làm theo, ngày nào cũng có mặt để giúp những người mang vác nặng nề.

Nhưng một hôm, chàng vác một em bé trên vai cho mẹ em rảnh tay lội nước.

Chàng cảm thấy Em bé gì mà nặng quá, nặng như cả mấy bao gạo trên vai, làm chàng thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng muốn té nhào. Chàng than: ” Sao em nhỏ ăn cái gì mà nặng thế, anh vác không nổi!

Em bé đang ôm đầu chàng, bật cười lớn, em nói: “Anh vác nổi sao được, anh đang vác cả một Thiên Chúa dựng nên trời đất đấy mà! Này chàng thanh niên, Ta rất hài lòng với việc giúp đỡ của con. Ta là Giêsu con đang tìm kiếm.

Chàng thanh niên đó chính là ông thánh Giorgiô, đã từ bỏ mọi sự trần gian đi theo Chúa Kitô.

Có 3 điều quan trọng cho cuộc sống con người:

a/ Đi đúng đường, không sợ lạc.

b/ Tìm ra sự thật, không hồ nghi.

c/ Tìm được sự sống, không sợ chết. Theo Chúa Kitô, sẽ được cả 3 thứ trên.

1/ Đường đi: Nếu bạn đến một thành phố xa lạ và hỏi thăm đường đi, có người chỉ dẫn rằng:

“Đến ngã tư thứ nhất anh rẽ sang phải, đến ngã tư thứ hai anh rẽ sang trái, đi qua công viên, vượt qua một nhà thờ, đến ngã tư thứ ba thì rẽ sang phải nữa… con đường anh tìm là con đường thứ tư bên trái.

Nếu chỉ dẫn như thế, có thể đi được nửa đường, anh đã bị lạc.

Nhưng nếu có người nói: “Anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến đó”, người ấy sẽ đưa ta tới nơi, sẽ không lạc đâu.

Đó là việc Chúa Giêsu đang làm cho ta. Người không đưa ra những lời khuyên, chỉ hướng đi xong rồi thôi, nhưng Người nắm lấy bàn tay và dẫn ta đi. Người cùng đi với ta, Người thêm sức cho ta, hướng dẫn ta mỗi ngày. Người là Đường đi: Người làm gương về cách hành động vâng ý Chúa Cha, và Người đưa kẻ tin Người đến cùng Chúa Cha. Sướng thật.

2/ Sự thật: Không ai thích người nói dối, không ai thích hàng giả.

Phụ nữ Việt Nam không mấy ai muốn đeo nữ trang giả, ai cũng thích thứ thật, vàng thật, đôla thật, hột xoàn thứ thiệt.

Ngày nay, có nhiều thứ giổm, giổm lại còn độc chết người. Nhiều người nói với ta về sự thật, nhưng họ không phải là sự thật.

Chỉ có mình Chúa Giêsu nói: “Ta là sự thật”. Ngài không lừa dối ai và không ai lừa dối được Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra những mầu nhiệm về Thiên Chúa Cha cách không sai lầm.

3/ Sự Sống: Thông thường, người ta tìm kiếm sự sống, ai cũng muốn sống, sống khỏe, sống hạnh phúc… sống hoài sống muôn năm. Không ai muốn sống nhăn răng.

Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Đời đời quí hơn một đời là cái chắc.

Thế nên Chúa nói: “Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời nào có ích gì?” (Mt 16,26)

  1. Chúa muốn tôi làm gì?

– Bằng giá nào, tôi cũng phải tìm mọi cách để chiếm được một chỗ trên thiên đàng. Vì Chúa Giêsu nói “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ”. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: ” Ta trông cậy thế nào, Chúa sẽ ban cho như vậy”.

– Xin Mẹ Maria, giúp con bền lòng theo Chúa Giêsu “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa là Đường đi,

Luôn nghĩ tưởng, nói năng, làm thật thà theo Chúa là Sự Thật,

Luôn bênh vực sự sống, theo Chúa là Sự Sống như thánh Giorgiô trên đây. Noi gương các thánh tử đạo VN: chết cũng không bỏ đạo, không bỏ Giáo hội Công giáo, để được ơn cứu rỗi muôn đời trong nhà Cha Cả. Amen.

 

30. Con đường hạnh phúc

Sau nhiều năm học chung, tôi mới có dịp về Cà Mau thăm nhà người bạn thân, trước khi đi tôi cứ nghĩ Cà Mau sẽ rất xa, mình phải ngồi trên xe lâu lắm mới tới. Đúng như tôi suy nghĩ. Cuộc hành trình về Cà mau của chúng tôi rất vất vả. Sáng sớm chúng tôi đã đón được chuyến xe tốc hành về Cà Mau. Tuy đường từ Cần Thơ về Cà Mau có nhiều chỗ “ổ gà” thậm chí cũng có rất nhiều “ổ voi”, nhưng cũng không thấm vào đâu so với sức trẻ của chúng tôi. Chúng tôi hãnh diện là những người khỏe, trẻ không sợ gian khó, nhưng chúng tôi cũng phải chùn bước khi thấy con đường từ Cà Mau về nhà bạn tôi. Từ Cà Mau vào phải đi qua hai chiếc đò, và đi bộ thêm hai giờ đồng hồ trên đường đất nhỏ với bốn chiếc cầu khỉ mới đến được nhà bạn tôi. Trong đoàn chúng tôi có tất cả sáu người, nhưng khi ngồi xe đến Cà Mau, thì đã có ba người không đi nổi nữa phải ở lại. Còn lại ba người tuy rất ngán ngẫm về con đường phía trước, nhưng vẫn phải đi vì không còn con đường nào dẫn về nhà bạn tôi được. Cuối cùng chúng tôi quyết tâm đi với hy vọng cũng sẽ tới và tâm niệm trong đầu “ai bền đỗ đến cùng người đó sẽ được rỗi”. Cuối cùng chúng tôi đã tới. Thật là vui mừng và sung sướng vì chúng tôi đã đi đến đích cách thành công.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta biết như một lệnh truyền độc nhất không thể huỷ bỏ “Thầy là đường”. Có thể lúc Chúa Giêsu nói Tôma vẫn chưa thể hiểu hết câu nói của Người. Ông còn đang mơ tưởng đến một quê hương nào đó, vì ông thuộc mẫu người thực nghiệm, muốn tay sờ, mắt thấy, tai nghe… Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định chỉ cần nhìn vào Người, vì Người là con đường độc nhất dẫn về cùng đích duy nhất. Trong thực tế thì “đường” đã có sẵn và có từ muôn đời, nhưng người ta lại không muốn đi, có người thi lại không chịu nghe lời hướng dẫn để rồi bị đi lạc như Giuđa Iscariô. Có người đã đi đúng đường, đã tìm được sự hướng dẫn đích thực, nhưng lại bị lôi kéo bởi những con đường giả tạo, phù phiếm…để rồi bị lạc đường và bị lún sâu vào vũng lầy bóng tối, xa cách sự sáng mãi mãi.

Trên đường về thăm nhà bạn tôi, cũng chỉ có ba người về đến đích, còn ba người phải tạm chia tay hay nói đúng hơn là bỏ cuộc. Tượng tự những người lữ hành về quê trời cũng vậy, tất cả đều đang đi, nhưng cũng có người vì bị một lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà phải ở lại, đành bỏ cuộc. Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy”. Đi theo Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Nếu đường đã có sẵn mà chúng ta không chịu đi thì không bao giờ về đến đích. Đức Giêsu chính là con Đường và là Người dẫn đường, nhưng nếu chúng ta chán nản chúng ta không chịu đi thì Ngài cũng đành “bó tay”, vì Ngài luôn cho ta có một sự tự do để lựa chọn.

Còn những người về đích, không phải họ là những người may mắn, mà là những người đã đi đúng đường, với nỗ lực bản thân vượt qua được những trở ngại trước mắt để về đến đích bình an.

Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta vẫn chưa đạt tới đích, tất cả chúng ta đều đang đi, trên quãng đường này chắc chắn có rất nhiều chông gai thử thách, cám dỗ mời mọc… nó sẽ thật nguy hiểm cho đời sống đạo của chúng ta. Có rất nhiều ngã và lối rẽ, nếu ta không thức tỉnh, nếu ta không vững vàng, ta sẽ bị sụp bẫy của kẻ thù mà đi lạc hướng, đi vào con đường của bóng tối và sự chết.

Lạy Chúa, xin cho con xác tín chỉ có Chúa mới là con đường nhanh nhất, và chắc chắn nhất dẫn chúng con về với Chúa Cha. Amen.

 

31. Dám sống sự thật?

(Suy niệm của JB Lê Ngọc Dũng)

Lý trí và sự sống con người chúng ta đòi biết và biết đúng sự thật. Đi chợ, đòi phải mua hàng đúng, hàng thật. Nghe một thông tin, cũng phải xem xét có đáng tin không.

Tuy nhiên, cùng với ý muốn biết đúng sự thật, chúng ta có dám sống sự thật không? Thường thì, ta muốn biết đúng sự thật nhưng lại không dám sống sự thật. Đó chính là vấn đề ngang trái của con người chúng ta.

Chúa Giêsu hôm nay nói: “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).

Ngài là Sự Thật và đã sống Sự Thật vậy ta có dám sống sự thật như Ngài không?

Sống theo sự thật thì phải chấp nhận chịu mất mát hy sinh, thua thiệt. “Thật thà thì thua thiệt”. Đó là một chân lý của cuộc sống.

Có thể có nhiều người giống như Philatô hỏi Đức Giêsu: “Sự thật là chi?” (Ga 18,38). Philatô hỏi nhưng lại không muốn nghe câu trả lời. Bởi vì ông không muốn, không dám chấp nhận sự thật.

Một hôm anh sự thật và anh dối trá gặp nhau tại một ngã ba đường. Hai bên trao đổi nhau về cuộc sống. Anh sự thật thì gương mặt hốc hác, quần áo xốc xếch, bẩn thiểu, tâm sự như sau:

– Cuộc sống của tôi ngày càng bi đát. Đã ba ngày rồi, tôi không có một hạt cơm trong bụng. Nơi  nào tôi đến thì tôi cũng như bạn bè đều gặp rắc rối. Nếu cứ như thế này, tôi không biết đi về đâu.

Anh dối trá liền lên lớp với cái nhìn đắc chí:

– Anh đừng than thân trách phận làm gì. Này hãy đi theo tôi, anh sẽ được ăn sung mặc sướng.

 Họ dắt nhau vào phòng ăn của một khách sạn sang trọng. Sau khi đã ăn uống no nê, mọi người lui về phòng mình. Tuy nhiên anh dối trả không chịu trả tiền, hắn nài nĩ sự thật ngồi nán lại. Vừa thấy ông chủ khách sạn đi qua, hắn đập bàn và la lớn tiếng:

– Tôi đã trả tiền cho nhân viên lâu lắm rồi, chừng nào các ông mới đem tiền thối lại cho tôi?

Ông chủ liền đi tìm nhân viên để hỏi chuyện. Anh ta cho biết anh chưa hề nhận bất cứ đồng bạc nào. Sau một hồi cải cọ, sự dối trá mới rút tiền ra trả rồi nói lớn:

– Thôi được, tôi trả tiền thêm một lần nữa đây, mang tiền thối lại cho tôi gấp.

Sợ mất mặt và gây tiếng xấu cho khách sạn, ông chủ khách san không nhận tiền và thừa nhận vị khách này đã trả tiền ăn cho khách sạn. Ông chủ tìm người nhân viên hầu bàn để khiển trách. Nhân viên đó thề thốt rằng mình không hề nhận tiền, nhưng chẳng ai chịu tin, anh chỉ biết giơ tay lên trời mà kêu than:

– Hỡi sự thật đáng thương, ngươi còn đó hay chết rồi?

Nghe thế, anh sự thật nhìn nhân viên và cố gắng thét lên;

– Ta vẫn còn sống đây,  nhưng đã ba ngày ta không có hạt cơm trong bụng. Giờ đây miệng ta bị lấp đầy, ta không thể nói được nữa. Ngươi phải tự đấu tranh cho mình, lưỡi ta bị cột lại rồi.

Anh sự thật cố gắng nói thật lớn nhưng nhân viên hầu bàn không nghe thấy gì. Khi hai người ra khỏi khách sạn, anh dối trá cười nắc nẻ và nói với anh sự thật:

– Ngươi phục tài ta chưa?

Nhưng anh sự thật trả lời:

– Ta thà chết đói còn hơn là làm điều dối trá như ngươi.

 Từ đó hai người vĩnh viễn chia tay nhau.

Sống theo sự thật thì phải chấp nhận chịu mất mát hy sinh, thua thiệt. Đó là một chân lý của cuộc sống.

Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ rằng: “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Đồng thời, Ngài cũng mạc khải rằng: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10). Điều đó có nghĩa là Ngài cho biết Sự Thật: Ngài là Thiên Chúa. Ngài với Thiên Chúa Cha là một. Thế nhưng chính vì sự thật này mà Đức Giêsu phải chịu án tử hình trên thập giá.

Trước toà án người Do Thái, thượng tế Cai Pha hỏi Đức Giêsu: “Tôi nại đến Thiên Chúa hằng sống mà truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống không?” Đức Giêsu trả lời: “Chính ngài nói đó. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: Từ nay các ông sẽ  thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?” Họ liền đáp: “Hắn đáng chết” (Mt 26, 63-66).

Như vậy, ngay khi Đấng tuyên bố: “Ta là Sự Thật”,  Đấng ấy phải chết. Sự kiện này vẫn cứ xảy ra mãi trong lịch sử con người. Khi cam đảm sống theo sự thật ở trần gian này thì phải chịu mất mát hy sinh. Và cũng chính vì vậy mà ngay khi tuyên bố mình là Đường là Sự Thật thì Chúa Giêsu cũng nói luôn: “là Sự Sống”, để kêu gọi các môn đệ hãy tin vào Ngài.

Sự thật cuối cũng cũng sẽ dành được sự sống sung mãn và vinh quang, sự sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa trên Thiên quốc. Sự dối trá lúc đầu, ở trần gian, có thể được sung túc nhưng cũng sẽ sớm bị diệt vong cùng với sự giả trá của trần gian.

Xin Chúa cho chúng ta luôn vững tin rằng ngay khi chúng ta dám chết đi cho Sự Thật thì lúc đó sự sống của Thiên Chúa lại bừng lên trong chúng ta.

 

32. Ra đi & Trở về

Đoạn Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu ra đi và trở về. Hẳn nhiên chúng ta thấy vấn đề đặt ra là Chúa Giêsu đi đâu và trở về đâu? Sứ mạng của Ngài là gì?

Chúa Giêsu là Thiên Chúa, từ nơi Chúa Cha mà đến trần gian trong thân phận xác phàm nhưng không mất bản tính Thiên Chúa nơi mình. Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ mạng của Ngài là “Cứu Thế”, Vị Cứu Tinh không chỉ cho dân Do thái mà còn cho toàn thể nhân loại, cho cả vũ trụ vạn vật vì tất cả vũ trụ vạn vật được sinh ra nhờ Người và trong Người (x. Cl 1, 16).

Một trong những sứ mạng của Chúa Giêsu là mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Chúa Giêsu cũng chỉ rõ “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14 ,9) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”(Ga 14,10). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần gũi, dễ yêu thương. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó mật thiết lạ lùng đến nỗi Chúa Giêsu dám nói: “Ai biết Thầy là biết Cha” (Ga 14,7). Như thế, Lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (Ga 14,10).

Cuộc đời Chúa Giêsu phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả và Hằng Hữu đã có thể trở thành con người thấp hèn, đơn sơ như em bé nơi máng cỏ Belem, sinh sống nơi làng Nadarét, giao tiếp với người thu thuế, người tội lỗi,…cuối cùng phải chết khổ nhục trên thập giá. Điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách lạ thường như thế.

Không ai thấyThiên Chúa bao giờ (Ga 1,18). Tuy nhiên, chúng ta có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, thấy sự hiện diện đầy kỳ diệu và huyền nhiệm trong vũ trụ này. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, điều này cho chúng ta một xác quyết mạnh mẽ hơn, một niềm tin vững chắc hơn khi chúng ta tiếp cận Lời Chúa, chúng ta đón nhận Mình Máu Chúa, chúng ta lãnh nhận các bí tích và ân sủng tràn lan của Thiên Chúa ban qua Hội Thánh của Người cho chúng ta. Đó là con đường, là cơ hội, là cách thức nhận biết Thiên Chúa để củng cố và nâng đỡ đời sống đức tin của chúng ta.

“Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12). Hơn nữa, hằng ngày chúng ta có thể gặp Chúa nơi tha nhân, nơi những người nghèo khổ, nơi những người bị bỏ rơi,…(x Mt 28) hay nơi những người sống và thi hành ý muốn của Thiên Chúa…

Chúa Giêsu mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Ngài còn mạc khải chính Ngài cho chúng ta biết: “Ta là Đường, là Sự thật và là sự sống”. Nơi Chúa Giêsu Kitô có sự sống đời đời, có niềm hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài đã mạc khải về con đường đó và Ngài cũng chính là con đường mà ta có thể bước theo để được hưởng ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài mạc khải là lời chân lý, không sai lạc, không hề lừa dối ai bao giờ. Đi trong đường lối Ngài là ta đang đi trong Sự Thật, đi trong đường lối Ngài là ta được đi trong tình thương và ân sủng của Ngài. Đi theo Ngài ta có được sự sống đời đời. Ở trong Lời Ngài, ta sẽ gặp được bình an. Bước đi theo Ngài ta sẽ được hạnh phúc đời đời. Đó chẳng phải là khao khát của chúng ta, khao khát của biết bao người, của những người thành tâm thiện chí đi tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh hiệu… Như thế, con người đang muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, với Đấng là Đường là Sự Thật và là sự sống đời đời, con người muốn cảm nghiệm và đi sâu vào mối tương quan, vào mối hiệp thông thâm sâu với Đấng Tạo Hóa ấy. Phần của Thiên Chúa, Ngài đã đáp lại khát vọng, Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta và cũng chính Ngài là Đấng khơi lên và giúp con người biết khát vọng và muốn tìm về cội nguồn của mình, tìm về Đấng đã yêu thương, sáng tạo và quan phòng chăm sóc.

Sau khi đã sống trọn sứ mạng yêu thương tự hiến, Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh. Ngài cũng muốn chúng ta đi theo Ngài mà về nơi đó. Chúa Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Là Kitô hữu, chúng ta can đảm bước đi theo Chúa, chúng ta hãy gạt bỏ những gì không phù hợp với đời sống của người Kitô hữu, đi trên con đường Chúa chỉ dẫn. Con đường mà Chúa Giêsu đã đi là con đường mà Thiên Chúa muốn, là con đường vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, là con đường đón nhận đau khổ, chết và phục sinh như Chúa Giêsu. Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao để có thể nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.” Nếu chúng ta có tình yêu và đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu nơi tha nhân vì họ đều là hình ảnh của Thiên Chúa để chúng ta yêu thương họ, bất kể họ thế nào, bất kể họ khác biệt ta đến mức độ nào, vì chính Ngài cũng yêu thương họ, muốn cứu chuộc họ, phục vụ họ. Ngài đã tự đồng hóa Ngài với họ đến nỗi ai làm gì cho họ thì cũng là làm cho chính Ngài, không làm cho họ thì cũng là không làm cho chính Ngài (x. Mt 10.40; 18, 5; 25, 40.45; Lc 10, 16). Ngài muốn ta yêu thương họ bằng trái tim của ta, phục vụ họ bằng đôi tay của ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu được tình thương mà Chúa dành cho chúng con để chúng con đón nhận và đáp lại tình yêu đó, cho chúng con luôn trung thành bước theo Chúa như Chúa hằng khao khát và mạc khải cho chúng con. Amen.

 

33. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

Lễ Vượt Qua là một đại lễ đầy vui mừng, vì tưởng niệm cuộc vượt qua của dân Do Thái, thoát ách nô lệ Ai Cập. Thế nhưng trong nhà tiệc ly, bầu không khí không vui và nặng nề, vì Chúa Giêsu đã nói đến nhiều vấn đề nghiêm trọng. Ngài muốn biến bữa tiệc này thành một cuộc giả từ, vì giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Trước khi vào bàn ăn, Ngài đã lấy nước rửa chân cho các môn đệ và ban cho họ điều răn mới của Ngài. Sau đó, Ngài cho họ biết rằng, đêm nay, một người trong nhóm sẽ nộp Ngài, và Phêrô tỏ ra hào hùng khi tuyên bố rằng con sẽ thí mạng con vì Thầy. Nhưng Chúa báo cho ông biết rằng, đêm nay ông sẽ chối Thầy ba lần. Vì thế họ phân vân, lo ngại. Và cũng vì thế, Ngài bảo họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.

Không xao xuyến sao được khi Thầy báo Thầy sẽ ra đi. Đi đâu? Tôma nhạy cảm đã thắc mắc: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?” Thầy đi đâu? Đi dọn chỗ cho anh em. Dọn chỗ là gì? Chúng ta không thể hiểu theo nghĩa vật chất mà phải hiểu rằng Chúa ra đi là để chuẩn bị những gì cần thiết cho chúng ta để Thầy ở đâu, anh em sẽ ở đó với Thầy. Ngài ra đi để ban Thánh Thần cho chúng ta, để Thánh Thần dẫn chúng ta đến sự thật vẹn toàn.

Nhờ câu hỏi của Tôma, Chúa mạc khải một điều mới lạ: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Muốn đi đến một nơi nào đó, chúng ta cần đi đúng đường, nếu không chúng ta sẽ lạc lối và chẳng đi đến đâu. Chúng ta đang đi về đâu? Về với Chúa Cha là nguồn hạnh phúc duy nhất của chúng ta, vì Ngài là Tình yêu. Chỉ có Ngài mới là hạnh phúc của chúng ta thôi. Chúng ta cần xác tín mạnh mẽ điều này. Dù thế gian có hứa hẹn với chúng ta những gì đi nữa, bộ mặt thế gian này sẽ qua đi, nhưng Chúa vẫn còn. Con đường là Ngài, là những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta. Ngài là hình ảnh của Chúa Cha vô hình, là phản ánh huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”. Nhiều lần, Chúa đã bảo chúng ta: “Hãy theo Ta”. Theo Ngài là con đường duy nhất, không có con đường nào dẫn chúng ta đến Chúa Cha cả.

Ngài cũng là sự thật và là sự sống. Chúng ta không thể định nghĩa một cách chính xác hai từ này, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng, sự thật là một điều bất biến. Những gì thay đổi không thể là sự thật. Và Sự Thật và Sự Sống chính là Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết rằng, Ngài là Thiên Chúa. Ngài được sai đến là để làm chứng cho sự thật, tức là làm chứng cho Thiên Chúa. Vì thế Chúa cũng nói: “Nếu anh em biết Thầy thì anh em cũng biết Cha Thầy”. Philipphê nài xin: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”. Nhờ lời thỉnh cầu của ông, Chúa Giêsu lại mạc khải thêm một chân lý mới: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha… Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” Nơi khác Chúa Giêsu cũng nói: “Cha Thầy với Thầy là một”. Có cách nào nói rõ hơn nữa không? Trước khi bước vào tử nạn, Ngài muốn cho các môn đệ biết rõ về Ngài, về mối liên hệ mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha. Ngài là hiện thân của Chúa Cha. Ngài đến trần gian là để mạc khải Chúa Cha là nguồn sống và hạnh phúc của con người. Ngài nói những gì Chúa Cha bảo Ngài nói, Ngài làm những gì Chúa Cha bảo Ngài làm. Vì thế, Ngài đòi buộc: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Chỉ cần tin thôi: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những gì Thầy làm, người ấy còn làm những việc lớn hơn nữa”. Và đúng thế, từ bao nhiêu thế kỷ, bao nhiêu thế hệ Kitô hữu, là những người đã tin, đã làm cho Giáo Hội trở thành một cộng đoàn lớn mạnh trên khắp thế giới.

Đức tin chính là điều kiện tất yếu để chúng ta trở thành dụng cụ cho Chúa, cho tình yêu Chúa lớn mạnh trong tâm hồn mọi người. Đức tin là nguồn sống giúp chúng ta thi hành những gì Chúa muốn, như Chúa Giêsu đã làm những gì Chúa Cha muốn Ngài làm. Muốn có được đức tin như thế, chúng ta cần cầu xin và bền vững cầu xin, vì đức tin là một hồng ân chứ không là kết quả của nỗ lực của chúng ta. Chúng ta noi gương Chúa Giêsu là luôn tuân theo ý Cha trên trời, làm những gì Cha mong ước. Chúng ta không xao xuyến như các môn đệ vì Chúa đã hứa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta vững tin rằng Ngài luôn luôn hiện diện nơi bàn thờ hiến tế, khi chúng ta làm những gì Ngài căn dặn để nhớ đến Ngài. Ngài hứa sẽ cho chúng ta ở với Ngài, thì hôm nay, Ngài đến ở với chúng ta, trong xương thịt chúng ta, hoạt động với chúng ta, yêu thương với chúng ta, đau khổ với chúng ta và thánh hóa mọi gánh nặng trần thế của chúng ta. Tình thương của Ngài không hao hụt và ngược lại, trở thành sự sung mãn cho chúng ta. Nếu không có Ngài, cuộc sống chúng ta sẽ ra sao? Và chúng ta sẽ đi về đâu? Ngài là con đường duy nhất đưa chúng ta đến hạnh phúc đời đời. Ở lại trong tình yêu của Ngài như Ngài ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, đó là niềm hạnh phúc lớn lao cho chúng ta, chúng ta có hiểu được không?

Mặc dù Ngài đến với chúng ta qua hình thức rất nhỏ bé và khiêm tốn, một tấm bánh thôi, nhưng, tấm bánh đó là sự sống, sự sống không tàn phai, vì đó là Thiên Chúa Tình Yêu.

 

34. Đường Về Nhà Cha – Lm. Trịnh Ngọc Danh

Sau biến cố Chúa Giêsu chịu chết và đã sống lại như một số môn đệ đã thấy, đa số các môn đệ vẫn còn bàng hoàng, buồn bã, chua thực sự an tâm: một sự kiện quá sức hiểu biết của con người! Một Đấng Tiên Tri đầy uy lực trong cả lời nói và hành động mà lại chịu chết cách nhục nhã đến thế! Tin Chúa đã sống lại cũng chưa làm cho họ an tâm và tin tưởng thực sự; và Thánh Phêrô đã phải nhiều làn lên tiếng để trấn an và củng cố đức tin: “Vinh dự cho anh em là những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.” (1 Pr. 2, 7.9)

Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A (Ga. 14,1-12), Giáo Hội muốn chúng ta sống lại những giây phút cuối cùng giữa Thầy Giêsu và các môn đệ, và những gì Thầy trăn trối trước khi chia tay.

Chia ly nào chẳng ít nhiều gây buồn rầu, nuối tiếc! Hiểu được tâm trạng ấy, trong bữa ăn cuối cùng Chúa Giêsu đã phải lên tiếng trấn an các môn đệ:

– “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga. 14,1-2)

Ông Simon Phêrô hỏi lại Thầy: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?”

Thầy Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga. 13,36) “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho anh em rồi, Thầy sẽ trở lại đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi” (Ga 14, 2-4)

Ông Tôma hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi!” (Ga. 14,5)

Thầy Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”…

Như thế Chúa Giêsu là ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA

Điều chúng ta cần khẳng định trước tiên là chúng ta cùng ANH EM một nhà, chúng ta có một người CHA và có chung một mái NHÀ. Để về NHÀ CHA, chúng ta không có con đường nào khác hơn là CON ĐƯỜNG GIÊSU: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.

Nhiều lúc, con người thắc mắc không biết mình là ai? Từ đâu tới? Có mặt trên thế gian này để làm gì? Tại sao lại phải sống và chết? Tại sao phải bệnh hoạn, đau khổ…? Và nhiều vấn nạn khác nữa mà không biết bao nhiêu triết gia, bác học, khoa học… chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Còn chúng ta, chúng ta tin con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã làm mọi cách để cho chúng ta được hiển vinh như Cha chúng ta ở trên trời, ngay cả việc cho Ngôi Hai, người con yêu dấu duy nhất của Ngài xuống thế gian chịu mọi cực hình khốn khổ để tìm cách cứu vớt chúng ta khỏi sự hủy diệt…

Chúng ta là anh em có một Cha chung. Người Cha nhân hậu ấy vẫn hằng mong mỏi những người con lưu lạc trở về như hình ảnh người cha nhân từ mà Chúa Giêsu đã một lần ám chỉ.

Và có lẽ cũng như Philiphê, chúng ta muốn biết hình dáng người Cha chung của chúng ta: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con.”

Và Thầy Giêsu đã trả lời: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha… Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.” (Ga. 14: 8-9). Thầy Giêsu và Người Cha chung của chúng ta là một.

Sống và chết đối với chúng ta không phải không phải là đi vào cõi hư không, nhưng chỉ là một biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, là giã từ trần gian để về nhà Cha, là chờ ngày đoàn tụ với Người Cha nhờ sự sống của Anh Cả Giêsu.

Chúng ta sẽ về Nhà Cha bằng con đường nào?

Đường có nhiều loại: Có đường quanh co, thẳng tắp; có đường gồ ghề, trơn tru; có đường một chiều hai chiều; có xa lộ không đèn; có lối mòn yên tĩnh… CON ĐƯỜNG GIÊSU hẹp mà rộng, trơn tru mà sỏi đá.

CON ĐƯỜNG GIÊSU có Tin Mừng hướng dẫn chỉ đường để đi về sự sống trường sinh. Đi trên con đường đó, phải biết lách mình mà đi, phải chống chọi với nhiều thú dữ, phải canh chừng thức tỉnh với những phù phiếm xa hoa bên đường, phải vững tin bước đi theo những hướng dẫn của Tin Mừng, phải biết “vác thánh giá mỗi ngày” mà đi, phải biết gạt bỏ những dục vọng, đam mê cuốn hút… Con đường ấy rộng thênh thang nhưng có rất nhiều cạm bẫy. Mất cảnh giác là gặp phải tai nạn. Con đường thênh thang nhưng gồ ghề khúc khuỷu là thế.

Nếu có bị lạc đường, lấy đèn sáng đức tin mà đọc lại bản Tin Mừng hướng dẫn. Con đường đến với Thiên Chúa gây nhiều trở ngại và bối rối cho nhiều người. Có người vì quá bối rối mà mất cả niềm hy vọng, mất phương hướng, lạc đường. Những lúc mất phương hướng và lạc đường như thế, hãy tìm lại CON ĐƯỜNG GIÊSU, vì “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Con đường Giêsu là con đường sự thật, là con đường dẫn đến sự sống.

Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng không kết hợp với Ngài, không đi theo đường lối hướng dẫn của Ngài, con người sẽ khó đi đến cùng đích, sẽ khó đạt được vinh quang vĩnh hằng, sẽ khó mà vào được nhà Nhà Cha.

Chỉ khi nào chúng ta khám phá ra gương mặt của Chúa Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời mình, lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu thế nào là Con đường Giêsu.

Cuộc sống của chúng ta hiện nay là một cuộc hành trình đi về Miền Đất Hứa, là một cuộc hành trình đi về Nhà Cha, một cuộc hành trình Đức tin.

Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có những lúc chúng ta gặp khủng hoảng về đức tin. Chính những lúc như thế, cần có đức tin nâng đỡ, thì chúng ta lại buông xuôi; và cũng chính những như thế, chúng ta mời thấy lòng tin vào Thiên Chúa ở mức độ nào.

Khi gặp khủng hoảng về đức tin, điều duy nhất mà chúng ta có thể làm là bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa.

Lòng tin đích thực giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Đó là điểm tựa, là niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta. Ai có đức tin đều có nguồn an ủi và niềm cảm hứng ấy, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối.

Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trong Ngài và với Ngài, chúng ta nhận ra thân phận, ý nghĩa cuộc đời mình. Ngài là phần thưởng và là cùng đích của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy bước đi trên con đường của Chúa Giêsu đã vạch ra. Sống chân lý tình yêu của Ngài. Và sống sức sống thần linh của Ngài mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con tin rằng: “ Lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. Chúa để mắt trông coi những kẻ kính sợ Chúa, nhìn xem những ai trông cậy ân sủng của Chúa để cứu giúp họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.” (Tv.32: 18-19). Nhờ Chúa, chúng con được cứu chuộc và trở nên nghĩa tử, xin Chúa đoái nhìn đến chúng con, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, cho được hưởng tự do thật sự và phần gia nghiệp muôn đời nơi nhà cha trên trời.

Câu hỏi:

  1. Tại sao Chúa Giêsu nói: “Trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở.” Nhiều chỗ ở có ý nghĩa gì?
  2. Chúa nói: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm.” Câu nói ấy ám chỉ gì?
  3. Thánh Phêrô đã nói: “Chính anh em là như những tảng đá sống động”. Tảng đá sống động biểu tượng cho vấn đề gì?

 

35. Chọn lựa con đường

Anh chị em thân mến.

Một lần tôi vào quán ăn trên đường, tôi chú ý đến bàn ăn bên cạnh, vì nơi đó có một đứa bé khó tánh. Thức ăn bày ra trước mặt nó, vậy mà nó không bằng lòng với những gì đang có. Người mẹ ngồi bên cạnh hết sức nhẫn nại, vừa năn nỉ vỗ vành, vừa cố gắng cho thức ăn vào miệng cho con, nhưng cuối cùng, bà không thể nào làm gì hơn được. Bên cạnh đó, cũng có một đứa bé lẵng lặng đứng nhìn. Nó nhìn những tô thức ăn của thực khách đã dùng xong nhưng còn thừa lại. Nó cũng nhìn vào tô thức ăn mà đứa bé khó tánh kia đang làm khó mẹ nó. Người mẹ trẻ cũng nhìn thấy đứa bé đang đứng nhìn như thế, bà gọi em đến và cho em tô thức ăn gần như còn nguyên vẹn. Em rục rè cho tất cả những gì trong tô vào trong chiếc lon của em và mang ra ngoài. Bên ngoài còn một đứa trẻ khác nhỏ hơn, đang ngồi chờ đợi. Người chị vui mừng, cho em ăn trước, sau đó nó mới dùng phần còn lại.

Tôi chợt suy nghĩ. Đứa bé có người mẹ bên cạnh, được nâng niu chiều chuộng, nó không biết tận hưởng hạnh phúc mà nó đang có, mà lại đòi hỏi cái gì không có trong hiện tại, nên nó khó chịu và không chấp nhận hiện tại. Còn đứa bé có đứa em đang ngồi chờ bên ngoài, nó biết tận dụng những gì mình có được, để mang lại lợi ích cho mình và cho người khác.

Hạnh phúc không ở đâu xa, nó ở ngay bên cạnh, nếu ai biết tận hưởng thì sẽ được, còn ai không biết thì sẽ không bao giờ nhận được.

Các Tông Đồ sống với Chúa Giêsu bao nhiêu năm trời, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Ngài đã thực hiện. Các ông còn được nghe những lời giảng dạy riêng cho các ông để hướng dẫn cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, các ông lại thốt lên qua miệng của Tôma: “Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi”. Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã theo bao nhiêu năm trời đây là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu không ảnh hưởng đến ông.

Chúa Giêsu bảo các ông “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống… Ai thấy Thầy là xem Thấy Cha”. Ngài muốn nói với các ông: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc. Một học giả nói rằng: “Con người luôn nuối tiếc quá khứ, mơ ước đến tương lai, nhưng lại hờ hững với hiện tại”. Cái hiện tại là kết quả của quá khứ, là đường để đi đến tương lai, nhưng con người thường quên nó đi.

Các Tông đồ ngày xưa đã như thế, nhưng các ông được dạy bảo, nhắc nhở và các ông đã biết sống trở lại cho tốt. Câu chuyện của ngày xưa, tưởng đã đi vào quá khứ, nhưng nó vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta. Cũng như các Tông Đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi, mơ ước những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi, những mơ ước đó nó làm khổ chúng ta trong cuộc sống. Biết bao lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với người chung quanh và thường hay hỏi tại sao tôi không được như người khác, tại sao tôi không được tốt hơn… Những lần như thế, chúng ta đang đi trên con đường của các tông đồ khi xưa. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta lời nói khi xưa “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống… ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha”. Những khi đó chúng ta có cảm nhận được hạnh phúc mà mình đang có, cảm nhận được hồng ân Chúa bao bọc chúng ta không? Nếu chúng ta biết trân trọng hiện tại và chu toàn trách nhiệm mình cho tốt: trách nhiệm của một con người mà Thiên Chúa đã đặt để trong xã hội, trách nhiệm của một người Công Giáo. Cụ thể hơn là trách nhiệm của một người cha, người mẹ trong gia đình, chúng ta có làm gương tốt, có dạy dỗ con cái theo thánh ý Chúa không? Nếu trong cuộc sống đời thường, chúng ta biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc.

Đó là chúng ta như đứa trẻ biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho mình và cho người khác. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính chúng ta.

 

36. Hai chân lý Đức Tin

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An – Giêrusalem 13.5.2014)

Chúng tôi đang ở Giêrusalem. Đoàn hành hương gồm 38 người (9 linh mục và 29 giáo dân) đi từ Việt Nam qua Ai cập đến Israel và sẽ qua Giocđan rồi trở về với hành trình 14 ngày.

Đi hành hương theo dấu chân Chúa Giêsu với tâm tình tạ ơn và cảm mến. Mỗi nơi đến, chúng tôi đều dành thời giờ đọc phúc âm và cầu nguyện, hát thánh ca. Nhờ đó mỗi người càng thêm xác tín những chân lý đức tin.

Đọc Tin mừng Chúa nhật V Phục sinh trong bầu khí cầu nguyện tại Đất Thánh, tôi suy niệm về lời giảng dạy của Chúa Giêsu.

Hai thánh Tông đồ Tôma và Philípphê đã hỏi Chúa hai câu và Chúa đã mạc khải hai chân lý thật quan trọng:

– Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.

– Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.

Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con. Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14, 9) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”(Ga 14, 10).

Trải qua bao thời, con người kiếm tìm con đường dẫn đến chân lý và sự sống thật. Đã có biết bao nhiêu suy tư siêu hình học, triết học, thần học, tôn giáo, chiêm niệm, thần bí và khoa học… tìm kiếm sự thật về vũ trụ chung quanh và về cuộc sống con người. Bao nhiêu chất xám đã đầu tư để đi tìm nguồn sự sống và cùng đích của cuộc sống. Dù đã cố gắng hết mình con người vẫn còn bế tắc trong nhiều lĩnh vực của sự thật và sự sống.

Cách đây trên hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã xuất hiện mặc khải cho con người con đường đi đến chân, thiện, mỹ. Ngài mở ra nhân loại con đường: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

  1. Thầy là Đường

Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo ơn cứu độ. Gioan kêu gọi mọi người hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Để đón nhận Đấng Cứu Thế, mọi người phải chuẩn bị sám hối, cải đổi đời sống và mở rộng tâm hồn.

Thường khi đón chào một vị Vua, Hoàng đế hay Nữ hoàng, người ta chỉ cần sửa sang lối đi, quét dọn nhà cửa sạch sẽ và đón chào trong tiếng kèn tiếng trống náo nhiệt, hân hoan vui vẻ. Đón nhận Đức Chúa hoàn toàn khác biệt, Gioan gióng lên lời mời gọi: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (Mc 1,3). Chúa cần đi lối thẳng thắn nơi tâm hồn. Con đường Chúa đi là con đường dẫn tới đời sống nội tâm bên trong. Con đường Chúa đi là con đường khiêm tốn và yêu thương.

Chúa là con đường dẫn tới sự sống. Ngài giới thiệu cho các môn đệ con đường dẫn tới Nhà Cha: Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi (Ga 14,4). Con đường Chúa đi không phải là con đường thênh thang rộng mở và không phải là con đường trần thế vinh quang. Con đường Chúa đi là con đường phục vụ, hy sinh. Con đường Chúa đi là con đường lên dốc đồi Calvariô để chịu nạn và chịu chết.

Chúa Giêsu là con đường tiến lên. Các môn đệ còn nhiều thắc mắc về đường đi nước bước của Chúa. Tâm tư các tông đồ còn đang mong mỏi một con đường vinh hoa phú quý. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5). Các Tông đồ không biết con đường nào Chúa sẽ đi. Không ai mong muốn con đường thập giá, con đường khổ đau, chết chóc. Chúa đã từng bước dẫn dắt các Tông đồ qua con đường sự chết để vào con đường sự sống. Qua con đường nhỏ hẹp để bước vào cõi sống hạnh phúc trường sinh.

  1. Thầy là Sự Thật

Chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều ảnh hưởng của mê lầm và dối trá. Các nhà lãnh đạo quốc gia không dám nói hết sự thật. Các cấp lãnh đạo tôn giáo đôi khi cũng sợ nói sự thật. Các nhà giáo dục cũng không muốn đặt vấn đề sự thật trong các ngành nghề. Các bậc bề trên, phụ huynh và người hướng dẫn cũng che dấu sự thật. Vì nói sự thật thì có khi mất lòng, mất danh dự, mất uy tín, mất địa vị, mất công ăn việc làm và mất chính mình. Chúng ta sợ sự thật của gia đình, của con cái, của cha mẹ, của nhân viên, của các cộng tác viên và của chính mình bị phơi bầy và tỏ lộ. Có khi vì sự thật liên quan đến miếng cơm manh áo và tiếng tăm địa vị. Mấy ai can đảm nói hết sự thật.

Chúa Giêsu là Sự Thật. Chúa thấu tỏ lòng người. Chúa hiểu thấu được lòng con người nghĩ gì và muốn gì. Nhiều người nghe Chúa giảng đã phải thốt lên: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Lc 20,21). Chúa Giêsu thẳng thắn phê bình những lầm lỗi và cách hành xử của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ chỉ thích được ưa chuộng những hình thức xuất hiện bên ngoài, giả dạng và khoe khoang. Họ ngại bước vào đời sống nội tâm vì sợ nhìn thấy mặt trái của đời sống mình. Vì sống theo sự thật là sống trong ánh sáng: Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (Ga 3,21).

Chúa Giêsu là con đường dẫn tới sự thật. Nghĩ thật, nói thật và rao giảng sự thật. Con người Chúa Giêsu là con người trong sáng và chân thật tuyệt đối. Ngài ra giảng dạy công khai và minh chứng cụ thể qua các việc làm. Ngài giảng dạy chân lý và áp dụng lời giảng trong cuộc sống mình. Còn chúng ta đôi khi nói một đàng, làm một nẻo. Ngôn hành bất nhất. Chúng ta muốn có sự thật nhưng không thực hành sự thật. Sự dối trá cứ len lỏi ràng buộc chúng ta vào những mê lạc tự vệ, cố chấp, ương ngạnh và sống giả hình.

Chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. Chúa Giêsu nói với những người Do thái rằng: Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông (Ga 8,32). Sự thật thì đơn sơ chân thành ví như tâm hồn trong trắng của trẻ thơ. Tâm hồn chân thật thì thanh thoát và không lệ thuộc vào những tranh đua hơn thua ở đời. Khi so sánh hơn thiệt và đua đòi cuộc sống dễ dẫn chúng ta đến những sự giấu giếm, giả trá, lừa lọc và dối gian. Người đời thường nói rằng: Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Chúa Giêsu thì hiểu thấu lòng con người hơn ai hết. Chúa biết những ý nghĩ thầm kín của người đời. Chúa thường yêu và cầu nguyện cho các môn đệ được thành tín chân thật: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật (Ga 17,17).

  1. Thầy là Sự Sống

Chúa Giêsu là nguồn sự sống và là bánh trường sinh. Chúa phán: Tôi là bánh trường sinh (Ga 6,48). Chính nhờ Người, với Người và trong Người, Thiên Chúa Cha đã tác tạo muôn loài. Chúa Giêsu là đầu và là cùng đích của các loài thụ tạo. Ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1,4). Chúa Giêsu là sự sống và là ánh sáng đến trong trần gian. Người đến để mọi người được sống và sống dồi dào. Người là bánh ban sự sống, dưỡng nuôi và dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh Gioan, người tông đồ được Chúa yêu mến đã xác tín rằng: “Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,33). Chúa Giêsu là chủ thể có quyền trên vũ trụ vạn vật và uy quyền trên sự sống và sự chết.

Sự sống mà Chúa sẽ ban là sự sống thật. Con đường dẫn vào sự sống là chu toàn lề luật và các giới răn. Đức Giêsu đáp: “Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,17). Chúa Giêsu căn dặn chúng ta rằng đừng quá lo lắng cho cuộc sống tạm bợ này. Ngày tháng sẽ trôi qua, tuổi đời sẽ chồng chất và sự chết sẽ đến. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm nước trời, mọi sự khác Người sẽ ban thêm cho. Vì sự sống hay chết đều nằm trong sự quan phòng của Chúa. Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc” (Lc 12,22-23).

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã đi vào sự sống vĩnh cửu. Chúa phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Chúng ta cần đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Nơi Người, chúng ta sẽ tìm được câu giải đáp cho thân phận con người. Thiên Chúa tạo dựng loài người là muốn cho tất cả mọi người được chung hưởng niềm hạnh phúc viên mãn.

Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống thật. Người là sự thật đưa dẫn đến sự sống đời đời và sự sống thật là con đường kết hợp mật thiết với Đấng Tạo Thành. Chúa Giêsu trở thành trung tâm cốt lõi cho tất cả mọi suy tư tìm kiếm nguồn chân lý, sự thánh thiện và sự hoàn hảo tuyệt mỹ.

Lạy Chúa, Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Xin Chúa dẫn dắt chúng con theo đường chân lý của Chúa để chúng con được hưởng niềm vui sự sống muôn đời.

 

37. Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng

GIÊSU – ĐƯỜNG DẪN TỚI CHÂN LÝ VÀ SỰ SỐNG MUÔN ĐỜI

Kính thưa quý cộng đoàn Phụng Vụ! Chuyện xưa kể rằng: ‘một hôm Đức Phật dẫn các đồ đệ của Ngài ngắm trăng rằm đang treo lơ lửng xa xa ngoài chùa; Ngài chỉ tay lên mặt trăng và hỏi các đồ đệ: Các con có nhìn thấy gì chăng? Liền tức thời, các môn đệ không ngần ngại đáp: dạ, chúng con nhìn thấy mặt trăng to tròn! Nghe thế, Đức Phật liền nói: Ta chẳng phải là ánh trăng kia, nhưng ta chỉ là một ngón tay chỉ cho các con hướng nhìn về ánh sáng tuyệt diệu đó mà thôi!’ Thật sự, nhìn lại các nhà sáng lập tôn giáo trên thế giới, chưa một vị nào dám khẳng định: họ chính là đường, là sự thật và là sự sống, ngoài Đức Ki-tô là Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu khổ nạn, chịu chết và phục sinh như lời Người đã phán hứa cả. Cũng trong niềm vui Phục Sinh nối tiếp trong đời sống của mỗi chúng ta, một lần nữa, Chúa Giê-su muốn chúng ta hãy xác tín vào Người như Người đã từng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, đặc biệt ông Tô-ma và Phi-lip-phê trong đoạn Tin Mừng hôm nay “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (x. Ga 14, 6), và “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Phi-lip-phê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha” (x. Ga 14, 9). Chúa Giê-su trước khi từ giã, Người đã dặn dò với các Tông Đồ yêu dấu “lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…Thầy đi để dọn chỗ cho các con…Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó” (x. Ga 14, 1-3). Lời căn dặn tha thiết trìu mến này luôn vang vọng trong đời sống đức tin, cầu nguyện của mỗi người chúng ta, đặc biệt những lúc chúng ta thất vọng, đối diện với đau khổ, tâm hồn xuyến xao, đối mặt với vấn nạn cuộc đời, v.v…Những lúc chúng ta nghĩ Thiên Chúa đang bỏ mặc, xa lìa chúng ta, ‘Thiên Chúa đi vắng, Thiên Chúa ngoảnh mặt làm ngơ, không đoái hoài đến nỗi niềm thổn thức, ưu tư lo lắng của chúng ta!’, nhưng chính thời khắc ấy, lời Người vang vọng trong tâm hồn chúng ta đó “…hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (x. Ga 14, 1). Vì chính Chúa Giê-su là chân lý, là sự sống viên mãn. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, là sự sống muôn đời như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính của Công Đồng Nicea-Constantinople. Và vì Người là nguồn mạch chân lý, và sự sống vĩnh hằng, nên chỉ duy mình Người có khả năng dẫn dắt, vạch đường chỉ lối cho chúng ta đến cùng Chân Lý và Sự Sống ấy. Hơn nữa, không những là người ‘quân sư’ chỉ lối, mà Người chính là ‘đường dẫn tới sự thật và sự sống viên mãn’ ấy. Cuộc đời chúng ta có rất nhiều đường, vô số ngã rẽ, những đoạn đường quanh co dẫn ta đến thú vui, hạnh phúc chóng qua, thành quả phút chốc nhưng bị diệt vong đời đời! Cuộc sống chúng ta không luôn luôn là những thảm hoa hồng trải dài, lót chân ta đi trên đường phẳng phiu, tươi đẹp! Tương tự, trong mối tương quan xã hội, cộng đoàn, giáo xứ, gia đình, giữa người với nhau, giữa người với môi sinh xung quanh, chẳng phải lúc nào cũng suông sẻ, ‘thuyền êm trôi, xuôi mái chèo’, mà thiết nghĩ, những lúc này, thời khắc ấy, chúng ta có nhận ra Chúa Giê-su đang ‘trải rộng’ đường cho ta bước đến chân lý và sự sống, hay chúng ta lơ đễnh bước trên con đường ‘thảm đỏ’ của trần gian, của thú vui, của thói quen ươn hèn, biếng nhác dẫn đến chỗ diệt vong? Những lúc mất phương hướng trong đời, bị ruồng bỏ, bị thờ ơ, bị lãng quên, bị lạc lõng và lạc lối, chúng ta có tín thác, tin tưởng, quay về với Chúa Giê-su – chính là đường dẫn đưa chúng ta đến Chân Lý và Sự Sống vĩnh cửu, hay chúng ta cứ ương ngạnh trong cái tôi to tướng, nhỏ nhen, thói đời đi ngược với lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội? Vì vậy, để lòng chúng ta luôn thức tỉnh, nến Đức tin chúng ta luôn cháy sáng, ta hãy xác tín ơn gọi của mỗi chúng ta, đặc biệt trong xã hội hôm nay, như Thánh Phê-rô đã nhắc nhở giáo đoàn: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế, vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người” (1Pr 2, 9). Chúng ta được Thiên Chúa ban tất cả đặc sủng này không phải bởi vì chúng ta xứng đáng lãnh nhận, cũng chẳng phải vì chúng ta có công trạng trước mặt Chúa; nhưng đơn giản chỉ vì lòng lân tuất, tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta mà thôi. Chính nhờ lòng thương xót vô bờ bến ấy, mà mỗi người chúng ta được Thiên Chúa tuyển chọn, được thông phần vào sứ vụ thờ phượng (tư tế), rao truyền và làm chứng (tiên tri), xây dựng tình hiệp nhất (vương giả). Mỗi lúc nhớ lại, khi chúng ta được rửa tội nhờ bởi Thánh danh Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng được tháp nhập, tham dự vào 3 sứ mạng: tư tế (phụng tự, cầu nguyện, tham dự các Bí tích), tiên tri (giảng dạy, rao truyền, chứng tá) và vương đế (đóng góp, xây dựng cộng đoàn trong tình hiệp nhất, hiệp thông). Và sứ vụ này được thể hiện một cách rõ nét từ thời Giáo hội sơ khai (thời các Tông đồ) như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại một cách sống động, rõ nét: “Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa” (Cv 6, 3-4) Bảy ứng viên trong cộng đoàn được chọn để hỗ trợ, phụ giúp các Thánh Tông Đồ, phục vụ cộng đoàn; và nhờ đó “Lời Chúa lan tràn, số môn đồ ở Giê-ru-sa-lem gia tăng rất nhiều…đám đông tư tế vâng phục đức tin” (Cv 6, 7). Noi gương cộng đoàn Giáo hội tiên khởi, chúng ta hãy nhìn lại cung cách phục vụ, tinh thần xả thân, cộng tác với các chủ chiên, các linh mục trong việc mục vụ-làm chứng-rao truyền như thế nào? Là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, đặt Chúa Ki-tô Phục Sinh làm trung tâm đời sống, tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta chưa? Hay thay vì Chúa Ki-tô Phục Sinh là trung tâm, thì chúng ta lại muốn mọi người khác phải quay tròn quanh ta, muốn mọi người phải làm hài lòng cái tôi của ta? Chúng ta cùng dành ít phút thầm thỉ trong lòng, thưa chuyện với Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh – là trung tâm đời sống của ta, của cộng đoàn, của gia đình ta. Người chính là đường dẫn đến sự thật và sự sống muôn đời:                                     

Giê-su yêu dấu của lòng con                                    

Dang đôi tay thương đón con thơ                                    

Dẫu chông gai, mịt mờ tăm tối                                     

Đưa con về đường lối trường sinh. Amen!

 

38. Đường về Nhà Cha

Có lẽ những ai đã học qua chương trình Văn Học lớp 12 đều không quên một tiểu tiết vui vui trong truyện ngắn “Đôi Mắt” của Nam Cao. Trong đó, anh Hoàng kể cho anh Độ nghe một câu chuyện “nực cười nhưng chẳng dám cười”. Anh kể rằng: “Tôi kể cho anh nghe chuyện nầy thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ Huyện chơi. Ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải rẽ lối nào. Đành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi, chờ mãi mới thấy có một anh thanh niên vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi: ‘Đi chợ Huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi’… Anh ta bảo: ‘Ông cứ đi lối nầy, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cánh đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng ra đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa thì đến chợ’. Đại khái như thế chứ không hoàn toàn đúng như thế. Chỉ biết nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái, đến nỗi tôi không tài nào nhận ra được. Cuối cùng, anh bày cho tôi một cách: Đứng đợi đấy, gặp ai gánh hàng đi chợ thì đi theo…”.

Tình huống của anh Hoàng đôi khi chúng ta cũng có thể gặp phải. Nếu ta đang ở một nơi xa lạ cần phải hỏi thăm đường đi. Đôi khi cách chỉ đường quá phức tạp đến nỗi ta “hỏi cũng bằng không”. Nhưng cũng có thể ta may mắn gặp được một người tử tế, nhiệt tình, người ấy nói: “Thật khó chỉ cho anh. Thôi, anh cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đi”.

Bối cảnh Tin Mừng hôm nay cho ta thấy tâm trạng âu lo của các Tông đồ khi biết mình sắp phải đơn độc. Trong Bữa Tiệc Ly, khi được biết Thầy không còn ở với mình nữa, các Tông đồ đã hết sức hoang mang và xao xuyến. Chúa Giêsu biết được tâm trạng của các ông nên Người đã trấn an, đồng thời hé mở cho các ông thấy việc ra đi của Người hoàn toàn cần thiết và có lợi cho các ông: “Anh em đừng xao xuyến!… vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em”. Tôma vẫn chưa yên tâm vì chưa biết làm sao đi đến đó được. Ông hỏi Thầy: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?”. Chúa Giêsu không chỉ đường bằng cách đưa ra nhiều phương hướng phức tạp. Thay vào đó, Người nói: “Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.

Như thế, Chúa Giêsu đã chỉ rõ mục đích của cuộc hành trình đời người là về với Thiên Chúa là Cha; và trong cuộc hành trình đó, chính Chúa Giêsu vừa là con đường, vừa là người dẫn đường cho mọi người.

Thật vậy, bước vào cuộc trần nầy là chúng ta bước vào một cuộc hành trình, hành trình hướng về Thiên Chúa là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Nhưng con đường đến với Thiên Chúa không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Nếu ta tự mình dò dẫm bước đi thì rất dễ lạc mất phương hướng, rất dễ rơi vào trạng thái lo âu chán nản rồi mất cả niềm hy vọng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dọn đường dẫn lối cho ta. Đi trên con đường Giêsu, ta không bao giờ sợ lạc lối. Trên con đường Giêsu, ta không đi lẻ loi một mình mà có Chúa Giêsu dẫn bước ta đi, có những anh chị em cùng đồng hành với ta.

Do đó, mỗi người chúng ta hãy hoà cùng cộng đoàn Dân Chúa, vững tâm tiến bước dưới sự dẫn dắt của vị thủ lãnh là Đức Giêsu Kitô. Hãy tin tưởng ta có một mái nhà vĩnh cửu để hướng về, nơi đó ta sẽ có một cuộc sống thật, một cuộc sống hạnh phúc đời đời.

 

39. Đường tình yêu

(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

Đức Khổng Tử trong giờ phút lâm chung cho gọi thầy Tăng Tử là môn đệ mà Ngài đặt nhiều tin tưởng, đến bên giường bệnh và nói:

– Này Tăng Tử con ơi! Trước giờ thầy nhắm mắt lìa đời, con có điều gì thắc mắc về nhữnglời ta đã cùng con thảo luận?

Thầy Tăng Tử đáp:

– Bạch Thầy, Thầy quả là bậc chí nhân quân tử. Những lời Thầy đã chỉ dạy làm cho chúng con thấy khó mà thực hiện cho trọn vẹn.

Đức Khổng Tử mới nói:

– Này Tăng tử, trong các điều ta đã giáo huấn có điều đúng, có điều sai. Nhưng có một cái mà ta chắc chắn không bao giờ sai đó là điều ta không biết!

***

Đức Khổng Tử là bậc thánh hiền, học thuyết của ông đã ảnh hưởng đến bao đời, thế mà trước lúc lâm chung, ông phải tự nhận mình không biết gì. Khác với Khổng Tử là người chỉ đường Đức Giêsu chính là đường. Trước khi lìa các môn đệ để về cùng Cha, Người đã khẳng định: “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua thầy” (Ga 14,6).

Đức Giêsu chính là Đường, dẫn chúng ta đi từ nhịp cầu đau khổ đến bến bờ vinh quang, từ cõi chết trở về cõi sống, từ đời sống tạm bợ tới cuộc sống vĩnh hằng, từ trần gian tục lụy về quê hương Thiên đàng.

Đức Giêsu chính là sự thật. Sự thật tuyệt đối, sự thật về một Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc con người. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta (Ga 8,32)

Đức Giêsu chính là Sự Sống. sự sống vĩnh cửu, sự sống từ cung lòng Cha ban cho mọi loài được sống. Sự sống đã giải thoát con người khỏi chết muôn đời.

Người chính là Đấng cứu độ duy nhất. Cũng như “mọi con đường đều dẫn tới Roma”, thì mọi con đường cứu độ đều phải dẫn đến con đường Giêsu. Tất cả loài người đều được cứu độ nhờ danh của Người, kể cả những con người không biết Người, nhưng sống theo lương tâm ngay lành, đều được Người ban ơn cứu độ. Sách công vụ tông đồ viết: “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).

Con đường của Người là đường phục vụ, đường yêu thương. Vì thế những ai muốn đi trên con đường của Người cũng phải dấn thân phục vụ anh chị em, và tận tình yêu thương con người.

Con đường của Người là đường thánh giá, đường đau khổ. Vì thế những ai bước đi trên con đường ấy cũng phải dám hy sinh bản thân, và sẵn lòng chịu khổ vì danh Đức Giêsu.

Hy sinh bao giờ cũng cho tâm hồn đẹp cao thượng. Với tình yêu, những khó khăn kia dường như nhỏ lại, những vất vả như bị xóa nhòa. Lòng chúng ta lại thấy vui hơn, cuộc đời thênh thang rộng mở.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về với Chúa Cha trong vinh quang sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Xin cho chúng con cũng biết đi trên con đường của Chúa, là yêu thương phục vụ anh em, để cuối con đường thập giá và đau khổ chúng con được hợp hoan với Chúa trong vinh quang Nước Trời. Amen.

 

40. Vững tin vào Thiên Chúa, không xao xuyến

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về những lời của Chúa Giêsu trước lúc ra đi về Trời. Sắp từ giã Thầy yêu quí, tâm trạng các môn đệ không khỏi ” xuyến xao”, vì họ hiểu rằng con đường Thầy đi qua sẽ là cái chết; và có lẽ họ lo cho sự sống của chính mình. Chúa Giêsu trấn an họ: ” Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” (Ga 14, 1). Người mời gọi họ hãy tin vào Thiên Chúa là Chúa của Israel, Đấng đã cứu dân Ngài vượt qua Biển Đỏ, nay hãy tin vào Người, Người cũng sẽ cứu họ vượt qua dòng nước của sự chết. Khi nói thế, Chúa Giêsu không chỉ quả quyết rằng cái chết không thể cầm giữ được Người nữa, Người còn cho các môn đệ biết Người sẽ làm một cuộc xuất hành với các ông là mở lối đi cho dân mới của Thiên Chúa.

“Thầy đi để dọn chỗ cho các con” (Ga 14, 2). Lời nói trên biểu lộ ý nghĩa cứu độ của Chúa Giêsu. Người ra đi để chuẩn bị chỗ cho các ông và xin Chúa Cha ban cho mỗi người một chỗ trong nhà của Chúa Cha. Vì yêu thương, nên Người muốn, Người ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Người.

Dường như Chúa Giêsu muốn gợi ý khiến Tôma thắc mắc khi nói: ” Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi ” (Ga 14, 4). Đường nào, và đi đâu các ông nào có hay, khiến Tôma phản ứng: ” Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? ” (Ga 14, 5). Đó là lý do để Người khẳng định: ” Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống ” (Ga 14, 6). Ai bước đi trên con đường Giêsu, thì sẽ được về cùng Chúa Cha, vì Người chính là đường đi. Không có con đường nào khác để về cùng Chúa Cha, để đạt tới mục đích cuối cùng của đời người, ngoài con đường Giêsu, Người đã tuyên bố: ” Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy ” (Ga 14, 6).

Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Lý; Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người. Nhờ Chúa Giêsu chúng ta biết rõ Thiên Chúa đích thực là ai và con người là ai, sinh ra ơ trần gian để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu. Người mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Thương, và ai yêu thương thì sẽ giống như Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là Sự Sống; Người đến thế gian trao ban sự sống của Thiên Chúa cho con người, với sứ mạng đến trần gian để cho nhân loại được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người là Đấng cứu tinh, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi tội lỗi và khỏi chết đời đời, nay Người trở về nhà Cha sau một hành trình dài. Người cảm thấy hạnh phúc biết bao khi được trở về ” nhà Cha “! Niềm vui ngập tràn trước lúc lên đường, hạnh phúc và niềm vui ấy cần được chia sẻ. Người đi chuẩn bị cho mỗi người một chỗ, đích thân Người sẽ trở lại đón chúng ta đi. Chúa Giêsu đến thế gian ấp ủ trong lòng sự khắc khoải là một ngày nào đó đón được chúng ta về nhà ” Cha của Người và cũng là Cha chúng ta, Thiên Chúa của Người cũng là Thiên Chúa của chúng ta ” (Ga 20 , 17) để chia sẻ sự sống thần linh với Thiên Chúa và sẽ sống với Chúa Giêsu Ktiô trong cung lòng Chúa Cha.

Đối với Philipphê, chỉ cần thầy Chúa Cha là đã đủ rồi, nên ông thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con” (Ga 14, 8). Thêm một cơ hội để Chúa Giêsu mạc khải Thiên Chúa Cha, Người nói: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha’? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? (Ga 14, 8-10).

Đúng theo những lời Đức Kitô đã nói với Philípphê, việc ” thấy Chúa Cha” việc thấy Thiên Chúa trong đức tin – đạt được trong sự gặp gỡ lòng thương xót của Ngài một cấp độ đơn sơ và chân thật nội tâm giống như cấp độ chúng ta nhận ra trong dụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15, 11s).

“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha ” (Ga 14, 9). Tất cả những gì làm thành việc ” thấy ” Đức Kitô trong đức tin sống động và trong lời giảng dạy của Giáo Hội đều đưa chúng ta lại gần việc ” thấy Chúa Cha ” trong sự thánh thiện của lòng Ngài thương xót. Trích Thông điệp ” Thiên Chúa Đấng giầu lòng thương xót số 13 “.

Ở chỗ khác Chúa Giêsu nói, ” Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, Ta và Cha là Một” (Ga 10 , 30). Thật lôgích để nói rằng ” ai thấy Thầy là xem thấy Cha “; nghĩa là ai đón nhận Lời Chúa Con trong đức tin, thì cũng biết Chúa Cha mà Chúa Giêsu mạc khải rõ khuôn mặt đích thực.

Vượt qua ngưỡng cửa này, những người tin được hứa: ” Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn ” (Ga 14, 12). Mỗi người chúng ta có ơn gọi mạc khải khía cạnh sự dịu dàng vô biên của Chúa Cha, ” Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người ” (1 Pr 2, 9) đây là cách chúng ta trở nên ” những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng,” được xây dựng trên “nền tảng” là chính Chúa Kitô.

Như các môn đệ sau ngày Lễ Ngũ Tuần, ” đầy đức tin và Chúa Thánh Thần ” họ là ” dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa ” (1 Pr 2, 5), có trách nhiệm loan báo cho mọi người biết Chúa Giêsu là con đường chân chính, Người sẽ dẫn đưa chúng ta sự sống đời đời. Thiên Chúa nhắc lại cho chúng ta và tất cả những người mà chúng ta được sai đến: ” Các điều ấy Ta đã nói với các ngươi rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn ” (Ga 15 , 11).

Lạy Mẹ Maria, giữa bao nghịch cảnh của cuộc đời, xin giúp con vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.

 

41. Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà.

Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?

Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”

Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho Philípphê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.

Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giêsu nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giêsu: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14,10). Những gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa Cha…

Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.

* * *

Thánh A-tha-na-si-ô đã diễn tả chân lý nầy như sau: “Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội.” Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.

* * *

Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.

Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.

Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.

Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn… Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi… Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là… Bố.

Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.

Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.

Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.

Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.

Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói “Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu.”

Cậu thanh niên thưa lại: “Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?”

Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: “Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!”

Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: “Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!”

Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.

Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.

 

42. Chúa Nhật 5 Phục Sinh

(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)

TĐCV thuật lại việc những người tin vào Chúa gia tăng, vì lẽ đó mà nhóm 12 không có thể nào lo lắng cách chu đáo cho các tín hữu. Qua lời cầu nguyện và ơn của Thánh Thần, các Tông đồ đã tuyển chọn thêm 7 người, các Ngài đặt tay xin ơn Chúa và chúc lành, để những người này từ đây cùng với các Ngài, trở thành những người cộng tác mà phục vụ anh chị em mình. Vì sứ vụ chính yếu của các Tông đồ đó là rao giảng Lời Chúa. Còn nơi bảy người được chọn này, họ là những cộng sự viên tiếp nối sứ vụ và truyền thống phục vụ -bác ái của các Tông đồ. Ơn quan phòng của Chúa và Thánh Thần này vẫn tuôn chảy đến với chúng ta cho đến ngày nay qua các vị Mục tử và những người cộng tác với các Ngài. Qua đó, chúng ta nhận ra rằng chính Thiên Chúa luôn là Đấng luôn yêu thương, quan tâm, chăm sóc cho chúng ta, qua việc Ngài gởi đến cho chúng ta những vị Mục tử kế tiếp nhau để thay mặt Ngài mà ban ơn giúp sức cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Trong Thư thứ nhất của Phêrô, Ngài đã nhắc lại chính ơn tuyển chọn cách đặc biệt của Thiên Chúa dành cho chúng ta. “Chức vụ tư tế thánh thiện để hiến dâng của lễ lên Thiên Chúa Cha” ơn này được trao ban không phải vì tài sức, công trạng của chúng ta, mà hoàn toàn là do tình thương và ân sủng của Thiên Chúa qua sự vâng phục và tự hiến của Chúa Giêsu. Đúng ra, chỉ có Chúa Giêsu là vị Thượng tế-Đấng dâng của lễ hiến tế mà thôi, nhưng vì yêu thương Chúa đã chia sẻ để cho chúng ta được thông phần, cộng tác với Ngài trong ơn thiêng này. Vậy ai là người được Chúa tuyển chọn? Tất cả chúng ta, những ai tin và chấp nhận Chúa Giêsu là Chúa của chúng ta. Qua lời dạy này của Phêrô, chúng ta thấy thánh ý nhiệm mầu và đầy quan phòng yêu thương mà Chúa Giêsu đã quan tâm lo lắng cho đoàn chiên mà Chúa Cha trao phó cho Ngài.

Tất cả ý nghĩa của lời rao giảng và huấn lệnh của các Tông đồ trong bài đọc một và hai là sự ứng nghiệm và kết tinh trong Tin mừng hôm nay. Chính Chúa Giêsu, đã vì yêu thương lo lắng cho đoàn chiên cùng những người mà Ngài sai đi nhân danh Ngài trước khi Ngài hoàn tất sứ vụ ở trần gian và trở về cùng Chúa Cha. “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Chính Chúa Giêsu đã an ủi, động viên, khích lệ và hứa ban ân sủng cho các môn đệ và những ai tin vào Chúa. Chúa đã đi bước trước là lo lắng cho đoàn chiên của mình. Ở đây chúng ta thấy nơi Thiên Chúa – Người Cha nhân lành; có tấm lòng bao dung quan tâm chăm sóc cho con cái của một người mẹ. “Lòng xót thương của Chúa tồn tại muôn đời” là ở chỗ này. Trong tiếng Do Thái “Rachamim” Lòng Thương xót Chúa, nó bắt nguồn từ chữ “Rechen”- “dạ của người mẹ”, nơi cung lòng-dạ mẹ này, người mẹ cảm nhận được chính mọi sự chuyển động và sự sống của người con; Dạ mẹ, cũng có thể nói là trái tim của người mẹ hằng yêu thương quan tâm chăm sóc cho những người con của mình. Thật vậy, chính Thiên Chúa mời gọi chúng ta luôn tin vào tình yêu của Ngài, hãy chấp nhận Ngài để Ngài bảo bọc, chở che và ban ơn cho chúng ta.

Anh chị em thân mến, trong Tháng Năm-Tháng Hoa kính Đức Mẹ Maria, chúng ta nhận thấy Đức Maria chính là ân sủng mà Chúa đã tiền định và ban cho nhân loại. Qua Mẹ chúng ta được thừa hưởng biết bao nhiêu ơn phúc tuôn đổ từ Chúa cho chúng ta qua sự chuyển cầu của Ngài. Hãy chạy đến với Chúa qua Mẹ Maria, hãy tin vào Chúa với mẫu gương mà Mẹ để lại cho chúng ta; là luôn suy niệm thánh ý Chúa, xin vâng thực thi ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Chắc chắn khi chúng ta cùng với Mẹ để sống Lời Chúa, siêng năng lần chuỗi mân côi; đây chính là phương cách hữu hiệu nhất mà qua đó Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta.

Hôm nay cũng là ngày để chúng ta dành mọi sự yêu thương, tôn trọng với lòng biết ơn cho người Mẹ-người đã cưu mang, hạ sinh và nuôi dưỡng chúng ta. Xin Chúa ban ơn chúc phúc cho các người Mẹ của chúng con, xin cho những người Mẹ luôn sống đúng phẩm giá cao quý của mình, là người cộng tác và chuyển thông ơn Chúa cho chúng con. Amen.

 

43. Khát vọng đời thường

Trong đời sống đức tin của người Công giáo, hình ảnh mà chúng ta có về Thiên Chúa là rất quan trọng. Bởi lẽ, tuỳ như hình ảnh mà mình nuôi dưỡng về Thiên Chúa như thế nào, thì mình sẽ xây dựng đời sống đạo đức của mình như thế.

  1. Hình ảnh con người có về Thiên Chúa trong Cựu ước:

Nhìn lại lịch sử dân Do thái qua những trang Kinh Thánh thời Cựu Ước, chúng ta thấy được rằng: đối với họ,Thiên Chúa còn là một vị thần quá xa vời, mặc dầu họ vẫn cảm nhận được rằng Ngài rất yêu thương họ, luôn bảo vệ họ và ở với họ trong mọi biến cố quan trọng của đời sống. Vì thế, tâm tình của họ dành cho Thiên Chúa là sợ hãi hơn là yêu mến. Họ sợ Thiên Chúa vì: “có ai nhìn thấy Thiên Chúa mà còn được sống bao giờ”. Chẳng hạn Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: “Chúng ta chết mất thôi, vì đã thấy Thiên Chúa.” (Tl13,22), hay Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, “vì ông nói: tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng.” (St 32,31), nên họ sợ nhìn thấy Thiên Chúa và sợ gặp Thiên Chúa lắm. Những hình ảnh ấy nếu không được giải thích cho tận tường có thể sẽ làm méo mó khuôn mặt đích thực về Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa vẫn chấp nhận cho con người tô vẽ về Ngài với những điều chưa đúng đắn ấy để dần dần Ngài sẽ dẫn đưa họ tới sự thật về Ngài khi đến giờ Ngài đã định.

  1. Khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô:

Đến thời Tân Ước, thời của Chúa Giêsu Kitô đến làm người và sống với con người, thì mọi mặc khải rõ ràng và chuẩn mực về Thiên Chúa được trình bày cho con người. Đức Giêsu đã âu yếm gọi Thiên Chúa là Cha và dạy cho con người biết nhìn về Thiên Chúa như người Cha đích thực của mình; một sự thật vượt quá suy nghĩ và tưởng tượng của con người. Ngài không ngừng nói về Thiên Chúa Cha cho con người qua những dụ ngôn “người cha nhân hậu”, “ông chủ thương xót tên đầy tớ”… Thiên Chúa là một người cha hết mực yêu thương con người dù Ngài vẫn là Thiên Chúa toàn năng và là Thiên Chúa sáng tạo mọi loài.

  1. Khát vọng của con người về Thiên Chúa:

Các môn đệ của Đức Giêsu ao ước được nhìn thấy Cha lắm. Do đó, Philipphê đã không bỏ qua cơ hội xin Đức Giêsu cho mình và anh em được nhìn thấy Thiên Chúa Cha khi Ngài nói về Thiên Chúa Cha cho họ “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”.

Khát vọng của Philipphê và của các tông đồ cũng là khát vọng của biết bao con người trên thế gian này, những con người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên gọi khác nhau: Đấng tối cao, Đấng Tạo thành, Thượng Đế… Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn cảm nghiệm và tương quan với Đấng Tạo hoá. Khát vọng ấy suy cho cùng là chính đáng, là khôn ngoan. Bởi lẽ, con người nào mà không muốn biết mặt, không muốn nhìn thấy và sớ mó đến cha của mình bao giờ, nhất là người cha ấy lại là Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi niềm của con người nên Ngài đã đáp lại khát vọng ấy khi cho Con Một của Ngài làm người và ở giữa chúng ta. Để qua Đức Giêsu Kitô, chúng ta được gặp gỡ Chúa với chính Thiên Chúa, được diện kiến mặt đối mặt với Ngài, một Thiên Chúa dễ gần, dễ thấy, dễ quen, dễ cảm thông với con người. Như vậy, Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng hay vô phương thấu đạt nữa. Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hiện diện cách khiêm hạ với con người. Nhưng điều này con người không dễ chấp nhận nếu không được Thiên Chúa ban ơn đức tin cho họ. Đức Giêsu đã nói “Ai thấy Thầy là thấy Cha” vì “Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha” (Ga 14,10) và Ngài còn mạnh dạn khẳng định “Cha và Tôi là một”. Đây là một sự gắn bó và kết hiệp cách lạ lùng giữa Đức Giêsu và Cha của Ngài và cũng là Thiên Chúa của chúng ta.

Sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha đạt tới sự trọn vẹn để giờ đây lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Chúa Cha. Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu được Cha chiếm ngự. Đức Giêsu trở nên một tấm gương trong suốt phản chiếu trái tim và khuôn mặt của Thiên Chúa: đầy lòng nhân ái và hết mực bao dung với hết mọi người “Ai thấy Thầy là thấy Cha”.

Sứ mạng của mỗi người chúng ta là hãy sống như Đức Giêsu đã sống. Chúng ta hãy cố gắng sao cho đời sống của mỗi người chúng ta trở nên trong suốt khỏi những lớp bụi mờ của lòng ích kỷ, ghen tương, hận thù, để người khác nhìn thấy được Đức Giêsu trong chúng ta. Sứ mạng của người Kitô hữu là trở nên một Chúa Kitô khác cho con người hôm nay, là phấn đấu để nói lên rằng: “Ai biết tôi là biết Đức Giêsu. Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu” và như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa vậy.

Jack là một công nhân khai thác đá. Anh tuy ít học, nhưng lại có một đời sống rất tất lành. Anh gần gũi, cảm thông và chia sẻ với mọi người trong những công việc nặng nhọc hay nhẹ nhàng. Không ai thấy sự nóng nảy, cáu gắt trên khuôn mặt của anh bao giờ, dù có những lúc anh làm việc rất vất vả… Một người bạn của anh hỏi anh: “Này Jack, tại sao anh đối xử tốt với mọi người như vậy?”. Anh đơn sơ trả lời rằng: “vì Chúa dạy tôi như vậy đó”. Bạn anh lại tiếp tục hỏi anh: “Chúa của anh ra sao?” Anh quá bối rối trước câu hỏi này vì anh không phải biết trình bày Chúa của mình như thế nào để cho bạn anh hiểu đây. Nhưng sau một phút ngập ngừng, anh trả lời với bạn của anh rằng: “Chúa tôi giống như tôi vậy nè”. Người bạn của Jack nghe vậy quá xúc động và nói với anh rằng: “Vậy thì tôi xin tin vào Chúa của anh”. Vài ngày sau, người ta thấy Jack dẫn người bạn của mình đến một ngôi nhà thờ gần đó để người ấy được gia nhập vào đạo và trở thành Kitô hữu.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta không ngừng khao khát trở thành hình ảnh của Đức Giêsu và của Thiên Chúa Cha trong cuộc đời mình bằng một đời sống yêu thương phục vụ và hy sinh vì anh em đồng loại, để mọi người nhận ra được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và để cho Danh Ngài được cả sáng khắp mọi nơi. Amen.

 

44. Con đường Giêsu

Cái trớ trêu của các môn đệ Chúa là các Ngài đã sống với Chúa một thời gian đủ để nhận, hiểu và biết Chúa, nhưng các Ngài vẫn tỏ ra thật ngớ ngẩn khi Chúa nói: “… Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi”. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.

Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta hiểu được rằng Lời của Chúa thường ví cuộc đời như một cuộc hành trình. Từ lúc Ađam và Evà trốn Chúa tới Nôe và cả đại gia đình của ông xuống tàu, Abraham cùng gia đình ra đi tới một vùng đất thật xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Mẹ Maria, thánh cả Giuse và Hài Nhi Giêsu sang đất Ai Cập, và cả một cuộc đời di chuyển rầy đây mai đó của Chúa Giêsu. Những hình ảnh này diễn tả cuộc hành trình đức tin không ngừng của người Kitô hữu. Đời con người là một cuộc hải hành, là một cuộc hành trình không ngừng. Sinh ra, lớn lên với tất cả tranh dành để sống, rồi tuổi già đến, tất cả đều cho con người thấy cuộc đời ở trần gian chỉ là tạm bợ mà thôi. Chúa Giêsu đã cho ta thấy chính Ngài đã trải qua cuộc đời này bằng biết bao nhiêu cuộc hành trình: Chúa sinh ra trong cuộc hành trình, cha mẹ Ngài trở về quê khai lại sổ nhân danh, Ngài vừa sinh ra đã được cha mẹ vội vàng đưa đi lánh nạn bên Ai Cập. Năm 12 tuổi, Chúa cũng lạc mất trong một cuộc hành trình về Giêrusalem mừng lễ. Những năm rao giảng, Ngài đi không mệt mỏi khắp vùng Palestina và các vùng phụ cân. Cuối cuộc hành trình của đời sống trần thế của Ngài là Giêrusalem và đồi Canvê. Qua cả một cuộc đời hành trình, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống “. Tuyên bố như vậy, Chúa Giêsu muốn nói lên một sự thực: ” Ai tin vào Ngài và đi theo Ngài ” sẽ không bao giờ bị trệch hướng trong cuộc hành trình đức tin dài lâu của mình.

Thánh Gioan Phaolô II cũng đã từng nói về Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, vào ngày 16.10.1978 tại Quảng Trường thánh Phêrô: ” Tôi trình diện với hết thảy anh chị em để tuyên xưng đức tin chung của chúng ta, lòng trông cậy và tín thác của chúng ta nơi Đức Mẹ Chúa Kitô và nơi Giáo Hội, và cũng là để lại – khởi hành trên con đường lịch sử là con đường Công Giáo tông truyền”. Thánh Gioan Phaolô II đã đặt Triều Đại Giáo Hoàng của Ngài dưới lá cờ phù hộ đặc biệt của Đức Mẹ Maria. Cả triều đại của Chân Phước Gioan Phaolô là một cuộc hành trình. Bởi vì, nói cho cùng tất cuộc đời trần thế là một cuộc hành trình đức tin liên lỉ. Thánh Tôma lúc đó vẫn chưa hiểu lời của Chúa Giêsu nói. Do đó, Tôma đã thưa với Chúa: “… chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường”. Thánh Tôma làm sao biết được Chúa Giêsu tự nhận là đường. Con đường tình yêu, con đường mở ra hạnh phúc. Con đường hy vọng, con đường tin yêu, con đường cứu độ. Con đường ấy có tên Giêsu. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống, bởi vì Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Ngài đến trần gian là để hướng dẫn con người về với Thiên Chúa Cha, đạt được hạnh phúc đích thực và được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong Chúa Kitô, chúng ta tìm được con đường và được mời gọi vươn cao lên mãi, vươn lên không ngừng. Càng mặc lấy Đức Kitô, chúng ta càng cảm nghiệm sâu xa lời của thánh Phaolô tông đồ: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”.

Con người là con đường dẫn tới Thiên Chúa. Nên, dù chưa thấy Nhan Thánh Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, con người vẫn có thể đi vào tương quan mật thiết với Ngài. Con người đến với Chúa bằng một tương quan thân mật Cha-Con. Chúa dạy chúng ta hãy đi theo con đường của Chúa trong suốt cuộc sống trần thế của chúng ta. Có Chúa, chúng ta sẽ hiên ngang vững bước và như thánh Phaolô trong thư Philíp đã nói: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi “. Có Chúa chúng ta sẽ không cô đơn vì Chúa đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “. Chính vì thế, cuộc hành trình đức tin của chúng ta sẽ không vô ích bởi vì chắc chúng ta đang tìm hạnh phúc nghĩa là tìm thông hiệp với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ánh sáng, là đường, là sự thật, xin hướng dẫn chúng con để chúng con lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa và sau cõi đời này, chúng con được về quê trời với Chúa. Amen.

 

45. Con đường mang tên Giêsu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Theo Báo Thanh Niên số 69 ngày thứ ba 30.4.1996, Thành phố Hồ Chí Minh đang tiến hành công việc chỉnh đổi tên đường trên địa bàn toàn thành phố. Bởi vì trong hơn 1000 con đường của thành phố có khoảng 100 con đường trùng tên và hơn 300 con đường mang số. Đợt đổi tên này sẽ đặt tên mới cho các con đường trên. Ngoài ra, một số nhân vật lịch sử trước kia có tên đường, nhưng đã bị huỷ bỏ, nay có thể sẽ được phục hồi, như gần đây đã phục hồi tên đường cho Giáo sĩ Alexandre de Rhodes.

Tới đây, dự kiến sẽ có con đường mang tên Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Con đường TGM. Nguyễn Văn Bình sẽ thay thế đường Nguyễn Hâu, nối liền đường Hai Bà Trưng với bên hông Nhà Thờ Chính Toà và Công Xã Paris với công viên Nữ Vương Hoà Bình trước mặt tiền Vương Cung Thánh Đường Đức Bà.

Có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng, không thể thay đổi được, từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội chúng ta ai cũng biết, đó là con đường mang tên Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”. Trả lời cho ông Tôma, đồng thời Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn Cứu Độ, và tên gọi con đường ấy chính là Ngài.

Ngài là Đường Sự Thật, bởi Ngài là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống giáo điều, nhưng là toàn thể cuộc sống, lời nói và việc làm của Chúa Giêsu trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra con đường Sự Thật này. Tổng trấn Philatô, giữa phiên toà dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự thật là gì?”. Chúa Giêsu không trả lời. Vì hỏi là đã trả lời rồi: Sự thật hiện thân chính là Ngài đang đứng đó. “Ta là Sự Thật”.

Ngài là Đường Sự Sống, bởi vì Ngài là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là sự sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn Cứu Độ. Ngài thông ban sự sống cho mọi sinh linh và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với sự sống của Thiên Chúa. Ngài chịu chết để nhân loại được sống và Ngài sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng sự sống Ngài là vĩnh cửu thường tồn. Ngài hằng sống hằng trị muôn đời.

Ngài là Đường dẫn tới Nhà Cha, bởi vì Ngài và Cha là một. Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con. Vẫn là một từ ngàn xưa và mãi mãi là một tới ngàn sau. Chính Ngài quả quyết: “Con đường dẫn đến Chúa Cha chính là Thầy”. “Không ai đến được Cha mà không qua Thầy”. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Cho nên đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại, tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào đường Sự Thật và Sự Sống.

Thưa anh chị em,

Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cất bước lên đường theo Ngài. Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thoát vừa thanh thản của đời nhân đức, chính là “hát lên khúc ca mới trên con đường mới” (Thánh Augustinô). Vì lý tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa” (Bài đọc 2).

Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chỗ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ hôm nay trên bước đường lữ thứ của Hội Thánh giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Augustinô có thể tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con đẻ cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài”.

Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hoà phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ Bàn Thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành đặt chân mình trong dấu chân Chúa Giêsu. Và cũng có thể hiểu được rằng: “Con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II), là đối tượng mà Giáo Hội yêu mến và phục vụ đến hơi thở cuối cùng, như Chúa Giêsu đã sống. Đó chính là tốc độ mới của tình yêu chan hoà phục vụ trên Con Đường Giêsu hôm nay.

Anh chị em thân mến,

Nếu mai ngày thành phố chúng ta có một con đường mang tên Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình bên cạnh Nhà Thờ Chính Toà thì đó là điều chính đáng. Vì Đức Tổng Giám Mục luôn đặt từng bước chân của Ngài vào đúng vết chân của Chúa Giêsu trên dòng lịch sử dân tộc và thế giới, với niềm xác tín rằng: bước theo dấu chân Ngài là sẽ gặp được niềm vui xum họp đông đủ với mọi người anh em trong Nhà Cha chúng ta trên trời.

Con Đường mang tên Giêsu hôm nay là Con Người sống động đang hiện diện ở đây, trong Thánh lễ này. Ngài lấy Lời Ngài làm ánh sáng chiếu soi Chân Lý và lấy Mình Máu Ngài làm lương thực dưỡng nuôi sự sống. Như thế, Thánh lễ phải là đỉnh cao của lời tuyên xưng: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”, đồng thời là khởi điểm cho hành trình chung bước với Chúa Giêsu trên đường yêu thương phục vụ.

 

46. Bước về nhà Cha

Ai cũng hiểu về đến Nhà Cha mới là một thành công thật sự cho mọi nổ lực của những người theo Chúa. Nhà Cha được hiểu đó chính là Thiên đàng, nơi con người được sống trong hạnh phúc bất diệt với Thiên Chúa. Đường trần gian đi đã khó, đường về Thiên đàng thì lại càng khó hơn. Đường trần gian có những bóng mờ, thì đường về thiên đàng cũng có khi mịt lối vì những quyến luyến trần gian làm khuất mắt con người. Nếu nói đường đời có nhiều ngã rẽ thì đường nhà Cha chỉ có một lối mòn nhưng khó ai chịu đi đúng hướng. Nhiều người đã tự ý đi theo lối đi của riêng mình.

“Thầy là đường là sự thật và là sự sống” (Ga14,6). Lời Chúa Giêsu như vừa tự giới thiệu về mình, vừa như muốn hối thúc nhiều người hãy đến với Ngài. Chính Ngài sẽ đứng ra dẫn lối, đồng thời Ngài cũng là lối đi duy nhất dẫn về Chúa Cha. “Thầy đi Thầy dọn chỗ cho anh em” (Ga14,2). Đường về nhà Cha có nhiều cách đi. Thành công của kẻ lữ hành là phải đến nơi mình định tới.

Đường đi một mình

Mỗi người phải tự quyết định ngay từ ban đầu, đi hay không đi. Sự quyết định nói lên sự tự do chọn lựa và một trách nhiệm về số phận của mình. Chúa kêu gọi từng cá nhân theo Ngài, dó đó mỗi người phải có lời đáp trả cách riêng tư. Tuy nhiên, cho dù vai trò cá nhân được đề cao đến đâu đi nữa thì con đường đi một mình là con đường nguy hiểm: Mệt lã không ai nâng đỡ; lạc hướng không kẻ chỉ đường; buồn phiền không người an ủi. Nếu biết thế, dại gì ta đi một mình trong khi ta có quyền chọn lựa những cách đi khác: Đồng hành với Chúa và với anh chị em.

Đồng hành với anh chị em

“Và tôi vẫn nhớ hoài một loài cây sống gần nhau thân mới thẳng…” Lời hát như nhắc nhớ con người sống giữa mọi người cần có sự nâng đỡ của người khác để mình được lớn lên. Một sự lớn lên theo đường hướng tốt đẹp. Cây được thẳng là nhờ những cây khác mọc xung quanh mình. Người sống với người cũng rất cần sự nâng đỡ nhau như thế. Hôm nay tôi ngã có người nâng đỡ tôi. Và đến lượt tôi cũng có trách nhiệm để nâng đỡ kẻ khác khi họ cần đến.

Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài không chọn duy nhất một “đệ tử ruột” để truyền hết “bí kiếp võ công” cho riêng kẻ ấy. Không, Ngài đã chọn nhiều tông đồ và sai đi “Cứ dấu này mà người ta nhận các con là môn đệ của Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Ngài muốn môn đệ của mình phải sống với nhau bằng sợi dây yêu thương không thể tách rời.

Trong tập suy niệm “Đường Đi Một Mình”, Cha Nguyễn Tầm Thường có nhắc đến câu chuyện về những người lữ hành trong trận bão tuyết. Người thứ nhất đi đầu và bị ngã quỵ trong cơn bão. Người thứ hai đi ngang qua cúi nhìn rồi bỏ đi. Người thứ ba đi đên thấy và vác kể xấu số đã quỵ ngã ấy. Ông cố chống tuyết, ôm người ngất xỉu trên vai. Đến ngôi làng, người ta thấy xác của người thứ hai chết trên đường. Rõ ràng cái chết bí ẩn không phải vì do cái giá lạnh của tuyết nhưng nằm ẩn kín trong tim của mỗi con người. Người thứ ba còn bước đi nỗi bởi vì khi vác kẻ xấu số trên vai, hơi ấm của họ đã truyền sang nhau nên cả hai còn sống sót. Bấy giờ ông hiểu, có những con đường không thể tự mình đi.

Đồng hành với Chúa Giêsu

Người tông đồ dù cho tự mình có đứng vững ở mức nào, dù bản thân có được sự nâng đỡ của người khác ra sao thì tự bản thân người ấy không thể đến với vinh quang Thiên Chúa được. Tự bản chất có một hố sâu ngăn cách thế giới trên cao và thế giới ta đang sống. Thế giới trên cao không phải là điều gì quá mơ hồ khiến con người không thể vươn tới. Tôma thì coi việc trở về với Cha là điều gì rất bí nhiệm, rất mong manh.

Chúa Giêsu đã tự nói “Thầy là Đường… ai thấy Thầy là xem thấy Cha” (Ga14, 6.9). Chúa Giêsu chính là con đường độc nhất dẫn tới nơi duy nhất. Tiếc rằng có nhiều người đã không dám đón nhận con đường ấy. Có nhiều người quá chú ý đến những chi tiết phụ tuỳ. Họ chỉ nghĩ đến những chuyện trước mắt như thiếu phụ Samaria chỉ biết nghĩ đến nguồn nước tươi mát vọt lên từ dòng suối (Ga 4,11-15) mà không nghĩ tới Đấng đang ở trước mặt bà. Họ giống như người Do thái chỉ ớong chờ vào bánh manna mà không màng chi đến Bánh Hằng Sống mà Người đem lại (Ga6, 33).

Đường về nhà cha xem ra đã quá rõ ràng mà không bị bí lối. Chính Chúa Giêsu đã khai mở con đường. Duy chỉ một con đường mà chính Ngài là người dẫn đường và cũng chính Ngài là con đường. Ai theo Người, cùng đi với Người sẽ không hề bị lạc lối bao giờ.

Tâm nguyện

Lạy Chúa đường đời còn nhiều ngã rẽ, khiến con dễ lầm lạc. Xin cho con luôn bước đi trong lối bước duy nhất của Ngài. Đường gian trần còn nhiều bóng mát mời gọi. Xin cho con đừng vì thế mà dừng lại quá lâu nhưng luôn hăng hái tiến về nhà Cha. Vì nhà Cha là nơi hạnh phúc thật mà chúng con kiếm tìm.

 

47. Trong Chúa Kitô

ĐIỀU KHÔNG THỂ ĐƯỢC ĐÃ CÓ THỂ ĐƯỢC TRONG CHÚA KITÔ

Đoạn này diễn tả cách gián tiếp điểm độc đáo và thâm sâu nhất của cuộc sống Kitô hữu, đồng thời tóm tắt sứ điệp của Phúc Âm theo thánh Gioan. Nó thuộc về toàn bộ lời dạy của Chúa Giêsu nhằm cắt nghĩa về chính thân thế Ngài. Qua đó, Ngài cũng trình bày cho chúng ta rõ Ngài là gì đối với chúng ta và chúng ta phải làm gì đối với Ngài. Chúa Giêsu là người đích thật, giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Đồng thời Ngài thấm nhuần thực tại thần linh sống động đến mức giữa Ngài và Chúa Cha có sự duy nhất và đồng nhất về hữu thể, hiện hữu và bản tính. Đối với chúng ta, Ngài là mặc khải chính xác về Chúa Cha, tỏ bầy cá vị, lời nói, hành động của Chúa Cha. Liên kết với Chúa Giêsu là chúng ta liên kết với Chúa Cha. Đối với Ngài, chúng ta là những kẻ Chúa Cha đã ban cho và Ngài muốn rằng Ngài ở đâu chúng ta cũng được ở đấy với Ngài.

Ngài cầu nguyện và hành động để cho chúng ta được chia phần trong Ngài vào sự sống Chúa Cha thông ban. Ở đây chúng ta đứng trước một mầu nhiệm trí khôn không thấu suốt, nhưng cởi mở đón nhận sự dấn thân linh hoạt do đức tin thúc đẩy. Mọi trang của Phúc Âm thánh Gioan đều gợi ra những suy niệm bất tận. Khi đọc qua đoạn văn ngày hôm nay, chúng ta hãy dừng lại đây đó, như khi đi đường chúng ta thấy một phong cảnh mở rộng, làm cho tâm hồn chúng ta cũng như chân trời sáng ngời lên.

1) Tâm hồn các con thôi đừng bối rối. Các con tin nơi Thiên Chúa thì cũng hãy tin nơi Ta.

Điều này có nghĩa là trọng tâm của đức tin chúng ta chính là Ngài, con người Ngài, sứ điệp Ngài. Người ta có thể thắc mắc: làm sao Chúa Giêsu Kitô cũng là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một ai khác? Ở đây chúng ta chạm đến một trong những khía cạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa đi vào thời gian và không gian, chịu các giới hạn nhân loại. Con Thiên Chúa, tuy vẫn còn chức phẩm mình, đã như thể tự thu hẹp theo kích thước của thực tại nhân loại. Chúa Giêsu muốn nói: Con người hữu hình của Ngài dễ cho chúng ta đặt lòng tin sống động hơn Thiên Chúa vô hình. Nhờ tin vào Ngài, Chúa Con, chúng ta có thể tin vào Chúa Cha. Mà tin vào Chúa Cha là ước nguyện thâm sâu nhất của con người bị đau khổ dày vò. Lòng tin sống động vào Chúa Giêsu Kitô và qua đó sự quy thuận Chúa Cha chẳng khiến sự bối rối xa lìa chúng ta, mang lại cho chúng ta an bình, vui mừng, sức mạnh sao?

2) Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

Trong cuộc sống của con người vô thần, đường là một hệ thống tư tưởng hay một minh triết sự thật, là một chọn lựa trong số các ý kiến; sự sống là một hoạt động; một tình yêu mong manh, thường là một sự chịu đựng.

Đối với người theo Đức Kitô, sự dấn thân là một thông hiệp mở ra những lối bất khả. Nơi Đức Kitô, người Kitô hữu tìm thấy đường đi, lối thoát vượt qua biên giới của một thế giới khép kín vô vọng. Hơn nữa con đường ấy, chính Đức Kitô, là một lời mời gọi cất bước, tiến tới, đi lên không ngừng. Nơi Đức Kitô, người Kitô hữu khám phá được sự đáp ứng cho nhu cầu kỳ lạ của con người, là cảm thấy cần nương tựa vào một chân lý chắc chắn, nhưng còn để rộng chỗ cho việc tìm tòi. Hơn thế nữa, việc chắc chắn đã tìm thấy kích thích sự tìm tòi. Ngươi đã không tìm kiếm Ta nếu ngươi đã không gặp Ta rồi. Chân lý sống động không bao giờ là một sở hữu, nhưng cho người ta sự đảm bảo chân thực. Càng gặp Chúa Giêsu, càng tìm biết Ngài. Cần xác định, biết Đức Kitô trước hết là sống bởi Ngài. Khi sống bởi Đức Kitô, các thực tại tự nhiên của cuộc sống có thay đổi không? Không. Người Kitô hữu có một hoạt động nhân loại và thực tế như mọi người, nhưng hoạt động ấy có được một linh hồn. Có một cách suy nghĩ, chọn lựa mục đích, gặp gỡ người khác… do sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc sống. Chúng ta có biết ngạc nhiên về việc trong Đức Kitô điều bất khả thi đã được biến thành điều khả thi hay không?

 

48. Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Nguyễn Đức Vinh)

Khung cảnh của bài tin mừng hôm nay thật đầm ấm. Đó là một buổi nói chuyện, chia sẻ và giáo huấn của Đức Giêsu cho các Tông đồ trong bầu khí thật thân thương, tràn đầy tình mến. Buổi nói chuyện hôm nay diễn ra trong tình yêu của Chúa Giêsu và sự tích cực của các Tông đồ.

Khởi đầu bài tin mừng Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, để làm gì? để đừng xao xuyến! Lời mời gọi cho chúng ta thấy Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi lòng của các ông, thấu hiểu những lo toan … có cả nỗi sợ hãi của cuộc sống hiện tại và tương lai mà các ông đang và sẽ trải qua. Cuộc đời con người là như thế, được dệt nên bởi những niềm vui – nỗi buồn, bởi những thành công – thất bại, bởi những hy vọng – lo lắng…, xem ra dễ dàng dẫn họ tới thất vọng, chán nản, xao xuyến và buông xuôi tất cả. Thế nhưng cuộc đời người tông đồ của Đức Giêsu thì lại không như vậy; dẫu biết rằng họ vẫn sống, vẫn trải qua những vui – buồn của kiếp người như bao người khác, nhưng tinh thần thì lại khác hẳn, vì sao? Vì họ có Chúa Giêsu đồng hành và nâng đỡ nên họ không còn xao xuyến và sợ hãi nữa, mà ngược lại họ sống đầy hy vọng bởi đã thiết lập với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu mối tương giao được đặt trên nền tảng Đức Tin.

Không ai sống mãi ở đời này, đó là chân lý mà Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy chúng ta. Chân lý này không chỉ được người Kitô hữu đón nhận mà được cả nhân loại đón nhận vì thực tế cuộc sống cho thấy như vậy (mọi người đều phải chết). Ra khỏi cuộc đời này, con người trở về với Thiên Chúa là nơi mình phát xuất ra. Sự trở về đó diễn tả cho chúng ta thấy sự cần thiết của ‘con đường’, vì không có đường đi thì làm sao mà trở về?

Hình ảnh ‘con đường’ rất gần gũi, vì đó là thực tế cuộc sống mà hằng ngày mọi người đều cảm nhận sự cần thiết không thể thiếu của nó (con đường). Để có thể đi đến nơi này nơi kia, thực hiện việc này việc nọ, mọi người đều phải đi trên ‘đường’; nếu không có đường đi, con người không thể đến được nơi mình muốn đến và càng không thể thực hiện được ước muốn mà mình muốn. Từ ‘con đường’ của trần thế mà mọi người đi trên đó để đạt được mục đích của mình, đến được nơi mình muốn đến; chúng ta suy nghĩ ‘con đường về trời’ (con đường thiêng liêng); và một khi hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết ‘phải có con đường’, chúng ta mới nhận ra và hiểu lời mà Chúa Giêsu nói hôm nay: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Lời Chúa Giêsu nói và sự khẳng định của Ngài đã cho chúng ta ‘chân lý sống’, khiến chúng ta an tâm vì đã tìm được ‘con đường’ để đi, tìm được ‘sự thật’ để sống, tìm được sự sống vĩnh cửu mai sau là đích điểm chúng ta hướng đến. Tất cả những thao thức và tìm kiếm của con người cho một con đường để đi, cho một sự thật để sống đều có nơi con người Giêsu. Từ đó, chúng ta có thể nói được rằng: có Chúa là có tất cả: ‘con đường, sự thật và sự sống’; ngược lại, thiếu vắng Giêsu trong đời, con người chỉ còn bóng tối và sự trống rỗng.

Lạy Chúa, với Lời Chúa dạy hôm nay, tự vấn lại chính mình; chúng con nhận ra mình đang sống đầy sợ hãi trước những thách đố của cuộc đời: những thách đố có sức làm cho chúng con ngã gục, thất vọng và xao xuyến. Xin Chúa ban ơn thánh và giúp chúng con luôn biết đáp lại lời Chúa mời gọi: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Xin Chúa nâng đỡ và ban Thánh Thần để chúng con luôn tin nhận Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của đời chúng con. Amen.

 

49. Ai biết Thầy là biết Chúa Cha

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”, thiết tưởng lời thỉnh cầu của ông Philipphê cũng đồng thời diễn tả ước nguyện sâu xa của chính tôi, cũng như của nhiều tín hữu khác qua mọi thời đại. Như biết bao người ‘có đạo’ khác, tôi vẫn đinh ninh rằng mình thật sự tin có Thiên Chúa, và mình có trách nhiệm phải nói, phải chứng minh, phải thuyết phục để mọi người cùng tin rằng thật sự có Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Thế nhưng thú thật, khi làm công việc đó tôi thấy mình cần phải là một triết gia, một nhà lý luận hơn là một tín hữu; đồng thời cũng nhận ra rằng, cho dầu có học hành thông minh tới mấy tôi cũng chẳng thuyết phục được mấy người. Nhiều người trong chúng ta đã từng có lần tự vấn: có thật tôi biết, tôi tin cách xác thực Thiên Chúa, như thể tôi đã tận mắt thấy Ngài? Trong thâm tâm biết bao người trong chúng ta vẫn thầm ấp ủ mộng ước một ngày nào đó mình sẽ được ‘thấy’ Thiên Chúa, qua một phép lạ nhãn tiền chẳng hạn, khi Ngài tỏ lộ cách công khai quyền năng và thượng trí khôn ngoan của Ngài.

Cũng thế đối với các môn đệ, cụ thể hai ông Tôma và Philipphê. Biết sâu hơn về Thiên Chúa là ước vọng chính đáng, đồng thời cũng là mục đích của việc các ông đi theo Thầy Giêsu. Chắc chắn các ông đã từng được nghe Thầy nói nhiều về Chúa Cha; tuy nhiên giữa những gì Đức Giêsu trình bày và ý niệm các ông có về Đức Chúa Cựu Ước xem ra chẳng mấy ăn khớp với nhau. Trong thâm tâm các ông vẫn mơ ước một ngày nào đó Đức Giêsu tỏ cho các ông được thấy Chúa Cha trong uy quyền sáng láng, như hình ảnh các ông vẫn có về Ngài. Chỉ như thế các ông mới cảm thấy toại nguyện: “xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!”

Đức Giêsu tỏ thái độ vô cùng kinh ngạc trước lời thỉnh nguyện này của các ông: “Tại sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” Quả thật Người ngạc nhiên vì vẫn yên trí rằng sự hiện diện trần thế của Người hiển nhiên là để mạc khải Chúa Cha, rằng Người chính là Lời của Cha. Người coi như minh nhiên việc các môn đệ phải hiểu được điều căn bản đó. Vậy mà các ông vẫn hoàn toàn mù tịt! “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà… anh chưa biết thầy ư? Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người… Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.

Giai thoại trên cho thấy: có nhiều cách để một người tin hoặc biết về Thiên Chúa. Sơ đẳng nhất là người ta mơ hồ biết rằng có Thiên Chúa; sau đó người ta có thể biết thêm một vài yếu tính của Ngài như Ngài tự hữu, Ngài tạo dựng trời đất, Ngài quyền năng, thông minh, thánh thiện vô cùng… Đầu óc suy luận của con người có thể tiến tới một niềm tin, hay hiểu biết về Thiên Chúa đại loại như thế. Thế nhưng có một thứ ‘biết’ khác, thứ biết mà Kinh Thánh quen sử dụng, biết trong tương quan sống động và mật thiết mà chỉ có tiếp xúc trực tiếp mới có được. Thứ biết này cần một tiếp súc, hay ít ra một cầu nối, và như thế thì chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu, Đấng từ cung lòng Thiên Chúa mà đến, mới có thể cho biết được. “Không ai đã lên trời (để mà thật sự hiểu biết được Thiên Chúa), ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3, 13). Thiên Chúa mà người Kitô hữu tin khác xa một trời một vực với Thiên Chúa của triết học, hay của các tôn giáo khác. Vì thế cho nên, dầu không phủ nhận những khái niệm về Thiên Chúa của người Do Thái đương thời, Đức Giêsu, bằng lời giảng dạy, nhưng nhất là bằng chính cuộc sống và cái chết thập giá của Người, đã tỏ lộ cho các môn đệ thấy một Thiên Chúa vô cùng độc đáo: “Ngài yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một… Ngài không lên án thế gian… nhưng muốn thế gian được cứu độ” (Ga 3, 16-17).

Trong cụ thể, một linh mục như tôi đã bao giờ được ‘thấy’ Thiên Chúa chưa? Hay ít ra tôi đã ‘hiểu biết’ về Ngài như thế nào, cái biết chi phối cuộc sống tôi và làm nền tảng cho những gì tôi trình bày cho giáo dân trong hướng dẫn mục vụ? Rất có thể hình ảnh và hiểu biết tôi có về Thiên Chúa, sau bao năm tu học, vẫn quá nặng tính triết học hay Cựu Ước, chứ chưa phải thực sự là diện mạo mà Đức Giêsu cố tâm trình bày? Tôi vẫn thấy một Đức Chúa hùng mạnh, thưởng phạt công minh vừa dễ hiểu lại vừa thiết thực hơn, nhất là trong việc giữ cho các giáo dân làm lành lánh dữ…; thậm chí đôi lúc tôi còn dám đối kháng chính Đức Giêsu với Cha Ngài khi khảng định cái chết của Người trên thập giá là để làm nguôi cơn thịnh nộ công thẳng của Chúa Cha?! Cái lô-gic hạ đẳng rất nhân cách hóa đó đã bị Đức Giêsu thẳng thắn gạt bỏ, vì nó phá vỡ nội dung Tin Mừng của sứ điệp cứu chuộc của Người: Người và Chúa Cha chỉ là một, không thể bị chia cắt. “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hay tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Khi khảng định Thiên Chúa là Đấng từ bi và giầu lòng thương xót, chúng ta không ngụ ý chỉ nói riêng về Đức Giêsu, Đấng đã chết trên thập giá để cứu độ chún ta. Cái chết đó là một khảng định hùng hồn: chính Thiên Chúa, toàn bộ Thiên Chúa (Cha, Con và Thánh Thần), là giầu lòng thương xót. Ta nghe biết điều đó qua những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi đã thấy điều đó trong cái chết thập giá tự hiến của Người, và ta gọi điều đó là Tin Mừng, là niềm tin cất khỏi chúng ta mọi mối sợ hãi, kể cả trong trường hợp ta có lỗi phạm và sa ngã vào những tội tày trời nhất. Thấy và biết một Thiên Chúa như thế sẽ làm cho toàn bộ đời sống ta trở thành một niềm vui bất tận, cho dầu vẫn tồn tại nơi bản thân ta những yếu đuối và thất bại nặng nề. Tông đồ Phao-lô, trong chương 5 thư gửi các tín hữu Rô-ma, khảng định với chúng ta rằng: niềm tin Kitô hữu chính yếu hệ tại ở điều này.

Như thế, là Kitô hữu, tôi không cần cầu xin được thấy Chúa Cha, vì Đức Giêsu đã cho tôi được thấy rồi đó. Người cho tôi được thấy tỏ tường bộ mặt thật của Thiên Chúa qua chính Thập Giá của Người!

Lạy Chúa từ nhân, kể từ lần được thoáng gặp Chúa qua biến cố chết lâm sàng tại Mongolia cuối năm 2007, con mới thực sự được‘thấy’ Chúa, trước hết như một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót. Lẽ ra con đã phải nhận biết điều này từ lâu trước, khi con từng học giáo lý và thần học. Tạ ơn Chúa đã cho con được ‘thấy’ Chúa Cha là như thế. Con cầu xin để tất cả các Kitô hữu đều cùng con cảm nghiệm được Thiên Chúa là như thế, để niềm vui của chúng con được nên trọn vẹn, và để chúng con vui mừng lên đường loan báo Tin Mừng về một Thiên Chúa yêu thương cứu độ cho mọi người. Amen.

 

50. “Lòng anh em đừng xao xuyến…”

Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến…”.

Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30)… rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36)… sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người “ba lần” trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga 13,37-38)… Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ.

Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta: một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi. Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp, bạo lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường, những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.

Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: “Lòng anh em đừng xao xuyến!”. Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa, về bất cứ điều gì.

“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.

Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu bang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu xa của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân một thái độ đức tin mà người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA… Hãy tin vào THẦY…” Vậy thì Người là ai để nói như thế?

“Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác… và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy. Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình: Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.

Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…

Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.

Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: “Đem về với Thầy… trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn Khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng Rất Thân Thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.

“Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính “đời sống thánh thiêng” được ban chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành “như Thiên Chúa”. Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!”.

“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.

Đây là một điệp khúc: “Thầy đi “chúng con không biết Thầy đi đâu…”. Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?

Đức Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.

Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là “người mở đường”, Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về “nhà của Chúa Cha”.

“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người “.

Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự “mạc khải” này vẫn còn một phần “không thể quan niệm được”: ánh sáng… nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối… ánh sáng của đức tin.

Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)… bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).

Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: chúng con không biết…”. Tính cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một “cú sốc của tương lai” đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: “Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?”. Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tướng lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người” (Khải Huyền 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu trong Đức Giêsu Kitô.

Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.

Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha. Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người “chứa đầy Thiên Chúa” một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: “Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy… Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy…”.

Phải, có một con người là Giêsu Nagiarét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người… một người sắp chết như mọi người… và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó… đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.

“Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy, bằng không thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. Thật Thầy bảo thật anh em ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc. Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”.

Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời đời.

Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người “làm những việc Đức Giêsu làm”: Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.

 

51. Đường hy vọng

Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu? Nếu có một câu hỏi nào thường được các môn đệ đặt ra thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn.

Thực vậy, thuở ban đầu, lúc mới gặp Chúa, các ông đã hỏi:

– Thưa Thầy, Thầy ở đâu?

Và rồi Chúa Giêsu đã trả lời:

– Hãy đến mà xem.

Trước bữa tiệc ly, các ông muốn biết một địa chỉ, một nơi chốn chính xác để mà chuẩn bị, nên đã hỏi Chúa Giêsu:

– Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con ăn lễ vượt qua ở đâu?

Và hôm nay trước một tương lai còn mù mờ và bấp bênh, Tôma đã hỏi Chúa:

– Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi.

Sở dĩ các ông bận tâm về nơi chốn là vì trong quãng đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, nay đây mai đó, không có một địa chỉ, một nơi chốn cố định:

– Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người thì không có cả chốn để mà tựa đầu.

Còn cuộc hành trình cuối cùng lại là cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết trên thập giá. Các ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa Giêsu, đồng thời đã trở nên con đường tuyệt vọng cho các ông. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Ngài lại bị đóng đinh như một tên tử tội… Đúng là dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.

Khi mọi vốn liếng hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bỗng dưng lật ngửa trắng tay. Các ông như từ trên cao rớt xuống. Hụt hẫng, chới với, chao đảo. Ước mơ bị sụp đổ, các ông như người bị phá sản. Thế mới hay mơ ước thì to lớn, nhưng khung đời lại chật hẹp. Mơ ước thật nhiều mà thực tế chẳng được bao nhiêu, nhiều lúc còn cay đắng phũ phàng.

Thầy đi đâu? Đằng sau câu hỏi này là tâm trạng hoang mang bất ổn trước một dĩ vãng vừa mới khép lại mà tương lai thì chưa kịp mở ra. Tương lai ấy hoàn toàn đổi mới hay chỉ là một dĩ vãng được lặp lai nơi chính bản thân mình. Đã một lần vỡ mộng, các ông băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần bị phỏng, hễ thấy lửa, là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế trong câu hỏi: Thầy đi đâu? Cũng nói lên nỗi âu lo rằng mình sẽ đi đâu? Thất vọng về dĩ vãng. Hoang mang trước tương lai đó là con đường các tông đồ đã nếm trải.

Thế nhưng, mở đầu đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ các ông:

– Các con đừng xao xuyến.

Đó là một lời an ủi, mở ra một con đường mới, tràn ngập hy vọng và tin yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu nói tiếp:

– Thầy đi để dọn chỗ cho các con.

Và như thế một tương lai đã được hé mở. Tương lai ấy không còn xa xôi, nhưng đã bén rễ ngay từ cuộc đời này. Sống hiện tại là chuẩn bị cho tương lai. Ngày mai đang bặt đầu từ hôm nay. Hay nói cách khác, cuộc sống trong nước trời phải được chuẩn bị, phải được định hình ngay từ bây giờ.

Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng tới một mục đích, chứ không phải sống một cách vất vưởng, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Và mục đích chúng ta cần phải đạt tới là chính Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc bất tận.

Để kết luận, tôi xin mượn lời cầu nguyện của thánh Augustinô:

Lạy Chúa, Chúa dựng nên con là để cho Chúa, nên con luôn khắc khoải, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.

 

52. Hãy tin vào Thầy

Cuộc sống của mỗi con người là một cái gì đó mong manh, dễ vỡ. Nhìn vào viễn cảnh của xã hội lại càng thấy bấp bênh cho số phận của mỗi con người. Một thế giới đầy những biến động của chính trị, bạo lực; một thế giới đầy những toan tính đầy những nguy cơ đẩy con người ta đến chỗ phải tận diệt. Trước những diễn tiến như thế, con người tự đặt câu hỏi cho chính mình: Cuộc sống con người có ý nghĩa gì? Con người rồi sẽ ra sao hay cũng chỉ chỉ là được tồn tại nơi cõi dương gian này một thời gian rồi lại biến mất trong hư vô? Nếu có cõi sống trường sinh thì con người có thể làm gì cho mình trong cõi sống vô biên ấy?…

Đoạn Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm ngày hôm nay nằm trong bối cảnh sau khi Chúa Giêsu tiên báo Người sẽ chịu sự phản bội, chịu đau khổ và sẽ chịu chết…Nghe nói thế các môn đệ đầy phân vân xao xuyến. Sao mà không xao xuyến được, một người thầy đầy quyền năng trong lời nói và hành động lại có thể chịu những sự âý hay sao? Chúng ta (những môn đồ) lâu nay theo Thầy Giêsu, nay Thầy bảo rằng phải đi xa rồi chúng ta sẽ theo ai, sẽ làm gì cho tương lai của mỗi người chúng ta?… Với những tâm tình đó các môn đệ xao xuyến, sợ hãi. Chúa Giêsu thấu hiểu tâm trạng của các môn đệ nên Chúa Giêsu nói “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…” (Ga14, 1). Anh em (các môn đồ) đừng xao xuyến bởi hãy nhìn vào những việc Thầy làm từ lúc khởi đầu hành trình rao giảng cho đến bây giờ, Thầy có đủ quyền năng để làm mọi sự, nhiều lần người Do thái định giết Thầy nhưng họ không làm gì được Thầy bởi “Giờ Thầy chưa đến”(Ga2, 4), nhưng cuộc ra đi này là Thầy tự hiến, Thầy đi dọn chỗ cho anh em, Thầy đi trước để đưa anh em đi theo Thầy…Còn tâm tình nào sâu lắng mặn nồng, đầy tình cảm hơn tình yêu Chúa Giêsu đã dành cho các môn đệ cũng là cho mỗi người chúng ta. “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…” đó là câu nói mà Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Đừng xao xuyến nhưng hãy đặt nền tảng cuộc đời của mình trên quyền năng và sự hướng dẫn của Thiên Chúa, đừng xao xuyến bởi Chúa có đủ quyền năng để thực hiện trong mỗi người chúng ta những sự việc lớn lao ngoài sự tưởng nghĩ của chúng ta.

Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh, chúng ta mừng mầu nhiệm Chúa sống lại. Chúa Giêsu sống lại chứng tỏ rằng Ngài là Thiên Chúa thật và là Đấng cứu độ trần gian. Chúng ta có diễm phúc hơn các tông đồ xưa vì đã xác tín Đức Giêsu đã chết và sống lại thật. Tin vào Đức Giêsu phục sinh cho ta biết được rằng những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang lại giá trị cứu độ bởi đó là hành động của chính Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu phục sinh cho ta một niềm hy vọng lớn lao rằng chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Ngài, cuộc đời chúng ta không là vô nghĩa, cuộc sống của chúng ta không là vô vọng mà mở ra một viễn cảnh đẹp, tốt lành trong Đức Kitô phục sinh.

Như thế cuộc sống của con người đầy những ý nghĩa, vì sự sống là do chính Đức Giêsu đã chuộc lấy bằng máu mình, cuộc sống không là “đoản hậu” bởi chúng ta có sự sống bất diệt trong Đức Kitô. Cho dù cuộc sống có những biến chuyền, cho dù cuộc sống đầy những cam go… nhưng với niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và nơi Đức Giêsu chúng ta tin chắc rằng tất cả đều nằm trong sự quan phòng đầy yêu thương của một Thiên Chúa quyền năng. Khi biết tin tưởng phó thác như thế thì cũng là lúc ta đang xây dựng cho mình một cuộc sống vĩnh cửu trong tình thương Thiên Chúa, như là Đức Giêsu đã nói: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12)

 

53. Chúc thư của Chúa Kitô

Chắc chắn rằng nhiều người trong chúng ta còn nhớ rõ chuyện vui đã đọc được từ nhỏ về những người mù đi xem voi, xem xong họ kể lại và bênh vực lập trường riêng của mình về con voi như thế nào. Những người đứng bên cạnh sờ vào lưng con voi thì nhất định bảo nó giống như một bức tường. Anh mù sờ vào ngà voi thì cho con voi giống như một ngọn đao nhọn. Người sờ vào răng voi thì bảo con voi giống như một thanh kiếm ngắn. Người sờ vào chân thì bảo con voi giống như một cây cột nhà. Người sờ vào lỗ tai thì quả quyết con voi giống như cái quạt mo.

Chúng ta có thể nói rằng, không ai nói đúng trọn vẹn về con voi và ngược lại không ai có thể nói là sai hoàn toàn, mỗi anh mù đều bị giới hạn và chỉ mô tả con voi dựa theo kinh nghiệm riêng của bản thân, không thể nào nhìn thấy được trọn vẹn con voi như thế nào.

Khoảng cách giữa con người chúng ta và thực tại mầu nhiệm Thiên Chúa là hết sức trổi vượt biết bao nhiêu ngàn lần khoảng cách giữa con voi và người mù sờ nó. Nếu chúng ta muốn biết về Thiên Chúa như thế nào mà chỉ cậy dựa vào khả năng riêng của con người phàm trần, chắc chắn những gì chúng ta hiểu biết và nói về Thiên Chúa thì không biết bao nhiêu lần tệ hơn những lời mô tả của những anh mù xem voi. Chúng ta khao khát hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu biết về Ngài vì chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài, nhưng tự sức mình chúng ta không thể thỏa mãn được khát vọng sâu xa này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta cần đến mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta cần chính Thiên Chúa đến chỉ đường mạc khải cho chúng ta biết về Ngài, chỉ cho chúng ta biết con đường trở về với Ngài: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, chỉ Con Một Ngài Đấng hằng ở cùng Thiên Chúa”, chỉ Con Một Ngài mới có thể mạc khải cho chúng ta biết chắc chắn mà thôi.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được dịp nghe lại những lời quả quyết hết sức quan trọng của Chúa Giêsu: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy, và ai nhìn thấy Thầy là nhìn thấy Cha Thầy, nếu các con biết Thầy thì cũng biết Cha”. Thiên Chúa đã nhập thể, đã chấp nhận cuộc sống con người, đã dùng những hình ảnh con người, đã sử dụng những ngôn ngữ của con người có giới hạn để mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha là ai và con đường nào phải đi để trở về với Ngài mà không bị lạc lối.

Chúa Giêsu Kitô đã trở thành hình ảnh của Thiên Chúa Cha cho tất cả mọi người chúng ta, Ngài đã đến để mạc khải sự thật của Thiên Chúa Cha cho chúng ta, và Ngài đến để hướng dẫn chúng ta, để đưa chúng ta trở về cùng Thiên Chúa Cha, trở về với Ngài vì Ngài hằng ở cùng Cha và Ngài cũng muốn cho mỗi người chúng ta đến xin trở thành hình ảnh của Ngài cho anh chị em xung quanh. Chúng ta có hãnh diện về hồng ân Chúa ban cho và đồng thời khiêm tốn ý thức về trách nhiệm của mình, của mỗi người chúng ta để trở thành hình ảnh của Thiên Chúa cho anh chị em xung quanh, trở thành có thể nói được là con đường để anh chị em đi về cùng Thiên Chúa, để trở thành lời mời gọi anh chị em trở về với Thiên Chúa.

Xin Chúa hướng dẫn và biến đổi mỗi người chúng ta mỗi ngày một trở nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa nhiều hơn, để giúp nhau sống đức tin về Chúa, đức tin mà chúng ta đã tuyên xưng.

 

54. Hoàn toàn đúng

Có câu chuyện kể rằng hai người đàn ông sống trong một ngôi làng nhỏ nọ, hai người ấy đã đấu khẩu với nhau cách kịch liệt nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề của họ; thế là họ quyết định đi hỏi ý kiến của một người có tiếng là khôn ngoan nhất làng. Người thứ nhất đến nhà người khôn ngoan đó kể hết câu chuyện của mình xong liền hỏi: “Thưa ông, ông nghĩ sao?” Người khôn ngoan trả lời: ” Ông đúng hoàn toàn”. Rồi người thứ hai cũng đến và kể câu chuyện xảy ra giữa họ rồi hỏi như người thứ nhất, và câu trả lời của người khôn ngoan đó cũng là: “Ông hoàn toàn đúng”. Sau khi khách đã về thì bà vợ của người khôn ngoan đó mới trách chồng: “Sao ông có thể trả lời như vậy được. Hai người họ kể hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau mà ông lại nói cả hai hoàn toàn đúng. Điều ấy thật vô lý, cả hai người không thể cùng hoàn toàn đúng được!” Người khôn ngoan cũng trả lời cho bà vợ: “Bà hoàn toàn đúng!”

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: “Các con đừng để lòng mình bị bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa… và tin vào Thầy… Thầy bảo thật cùng các con, bất cứ ai tin vào Thầy thì sẽ làm được các việc Thầy đã làm” (Jn 14:1,12).

Các bạn nghĩ sao? Các bạn có tự nói với mình là Chúa Giêsu đúng hoàn toàn không? Hay các bạn chưa thật sự để tâm lắng nghe lời Ngài? Lời của Chúa có phải như gió thoảng qua tai?

“Đừng để lòng trí các con bị bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa… và tin vào Thầy”. Điều quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời các bạn đó là sự quyết định hoàn toàn tin tưởng và phó thác thác trong Chúa Tình Yêu là Đấng đã dựng nên các bạn và muốn các bạn thuộc trọn về Ngài. Khi các bạn tới đây cùng chia sẻ tham gia việc thờ phượng của cộng đoàn này là các bạn đã tiến một bước ra khỏi chính mình. Đó chính là lý do tại sao các bạn lại tới đây. Các bạn muốn biểu lộ niềm tin và cậy trông của mình vào Thiên Chúa Chí Thánh; và đó cũng là một phần của tất cả sự tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng khi các bạn làm một việc ra khỏi chính mình như vậy thì trước hết các bạn đã làm một việc hết sức quan trọng là đi vào chính nội tâm mình để tìm thấy Thiên Chúa Tình Yêu đang thật sự hiện diện trong tâm hồn các bạn chưa nhỉ? Một Thiên Chúa Ân Sủng thật đang hiện diện trong thẳm sâu tâm hồn các bạn ngay lúc này đây– Ngài muốn xuất hiện qua bạn, muốn gợi lại trong bạn lời nói: “Chúa Giêsu đúng hoàn toàn!” Tôi phải tin, phải phó thác mọi sự nơi Ngài!

“Bất cứ ai tin vào Ta đều có thể làm được những việc Ta đã làm”, đó chính là những lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hay nói một cách khác là: “Nếu các con thật sự tin vào Thầy thì các con sẽ tín thác nơi Thầy, sẽ phó thác mạng sống con cho Thầy, và con sẽ làm tất cả những gì Thầy dạy con làm– con sẽ làm những gì chính Thầy đã làm”. Là một Kitô hữu trưởng thành thì chúng ta phải hiểu rằng Thánh Ý Chúa luôn luôn tuyệt đối đúng cho chúng ta. Ví dụ như khi Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về thánh ý Chúa Cha trong tình thương xót và tha thứ. Thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm tới con thì con phải tha cho họ bao nhiêu lần? Có phải bảy lần không?” Chúa Giêsu trả lời: “Không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy” (Mt 18:21-22). Ý Chúa Giêsu muốn chúng ta phải tha thứ cho người khác không giới hạn trong việc thi hành lòng thương yêu và tha thứ. Chúa Giêsu đã giải thích cho Thánh Phêrô đó là Vương Quốc Thiên Chúa được xây trên nền tảng thương yêu và tha thứ vô giới hạn.

 

55. Đi trên con đường Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Phúc Âm Thánh Gio-an chương 14 là lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ. Nó có cấu trúc xoay quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Con và vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn các môn đệ về với Chúa Cha.

Tô-ma và Philípphê đã hỏi Chúa 2 câu và Chúa đã mạc khải 2 chân lý hết sức quan trọng:

– Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.

– Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.

Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con (x. Gm. Bùi Văn Đọc, Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, trang 184). Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14, 9) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 10).

Toàn bộ Lịch Sử Cứu Độ được xây dựng trên tương quan Cha – Con “Chúa Cha yêu Chúa Con”. Hai chữ Tình Yêu là cách diễn tả sâu thẳm nhất tương qua Cha- Con. Tình yêu đó được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14, 10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.

Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết về Chúa Cha bằng nhiều cách: bằng lời nói, bằng việc làm, nhưng nhất là chính phận làm Con. Nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau, Đức Giêsu đã nói với con người về Thiên Chúa là Cha, Đấng mà họ phải tin tưởng phó thác (Mt 6, 32), noi gương (Mt 5, 45-48), nguyện cầu (Lc 11,2), phải tôn thờ vì Ngài là Chúa trời đất (Mt 10,28), là Cha đầy quan tâm ân cần (Mt 6, 25-32) và đặc biệt gần gũi với những kẻ tội lỗi (x. sđd tr. 191).

Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó.?Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Na-da-rét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các Môn Đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Da-kêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Sa-ma-ri để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Ma-đa-lê-na, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phao-lô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…

Quả thật Thiên Chúa của Đức Giêsu chẳng giống tí nào với Thiên Chúa các đạo binh của Ít-ra-en. Người Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ về phe với dân Người chọn, chỉ bênh vực những người Do-thái ngoan Đạo và lên án nguyền rủa, trừng phạt các dân ngoại cùng người tội lỗi. Thiên Chúa của Đức Giêsu không về phe với kẻ cầm quyền độc ác, người giàu có ích kỷ hay người đạo đức giả. Vì thế các bậc kinh sư, tư tế, kỳ lão trong dân không chấp nhận Thiên Chúa ấy mà trái lại họ đã giết Đức Giêsu để bảo vệ Thiên Chúa của họ. Họ đã giết Đấng Thánh để bảo vệ đền thờ, đã chà đạp và xoá bỏ “hình ảnh Thiên Chúa vô hình” (Cl 1, 15) để bảo vệ Thiên Chúa của lề luật.

Thiên Chúa của Đức Giêsu, Thiên Chúa của chúng ta cũng không phải là Thiên Chúa của các triết gia, không phải là Thiên Chúa của các nhà du hành vũ trụ tìm kiếm mà là Người Cha nhân hậu, từ bi, đầy lòng thương xót. Người chỉ muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế. Người không phải là Người Cha nghiêm khắc độc đoán, Người Cha dễ tính xuề xoà mà là Người Cha yêu thương, tha thứ. Một Người Cha chuẩn bị sẵn sàng quần áo, giày dép, nhẫn đeo tay và vỗ béo con bê chờ sẵn đứa con hoang đàng trở về và hơn thế nữa còn ra ngoài ngóng trông rồi vui sướng tiến về phía con đón nó vào lòng hôn lấy hôn để (Lc 15, 11-32). Lòng nhân hậu được tỏ bày khi tha thứ. Thánh Phao-lô là người cảm nhận sâu xa lòng từ bi, nhân hậu, thứ tha ấy (2 Cr 3, 7-11).

“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha, một Thiên Chúa là Cha nhân hậu từ bi, đầy lòng xót thương, tha thứ và còn hơn thế nữa Chúa Giêsu là Con đường độc nhất dẫn đến Cha “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12). Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Đọc và suy niệm Tin Mừng trong tin yêu, Chúa sẽ dạy chúng ta nghĩ gì, nói gì, làm gì. Khi đi vào con đường Chúa đã đi qua chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho anh chị em mình, nẻo đường dẫn lối về Thiên Chúa là Cha yêu thương.

 

56. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành

Chi Tiết Hay

Đoạn Phúc Âm này trích dẫn lời Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly với mười hai tông đồ. Trước đoạn này là việc Chúa rửa chân cho các môn đệ và Chúa răn dạy một giới răn mới là “Hãy thương yêu nhau…”

Trong buổi tiệc ly, Chúa Giêsu đã biết ai là kẻ phản bội và đã lên án người ấy. Tuy nhiên khi Chúa nói cùng các môn đệ là Người sẽ đi về nhà Chúa Cha để dọn chỗ cho các môn đệ thì Giuđa đã rời khỏi bàn tiệc.

Trong phúc âm của Thánh Gioan, Chúa Giêsu nhắc đến Chúa Cha nhiều lần như một người rất năng quyền. Nhưng chỉ trong buổi tiệc ly, các tông đồ mới thật sự hỏi Chúa Giêsu về Chúa Cha.

Một Điểm Chính

Chúa Giêsu báo trước là Người sẽ đi khỏi thế gian để dọn chỗ cho các môn đệ trong nhà Chúa Cha. Chúa Giêsu chính là đường, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể nối kết được với Chúa Cha.

Suy Niệm

Hãy hình dung bạn đang dự buổi tiệc ly cùng Chúa Giêsu và các môn đệ. Khi ấy bạn sẽ nghĩ gì? Thái độ của bạn ra sao? Bạn có đặt câu hỏi là Chúa sẽ đi đâu và tại sao Người lại ra đi không?

Thánh Tôma hỏi: “Chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao chúng con biết được đường đi?” Nếu Thánh Tôma hỏi tôi, tôi sẽ trả lời như thế nào?

Chúa Giêsu nói rằng Ngài đi dọn chỗ cho tôi ở nhà Chúa Cha. Vậy tôi phải chuẩn bị như thế nào để được Người tiếp đón?

Giữa Đức Chúa Cha và Chúa Giêsu, có một liên hệ đầy thương yêu, trung tín, và mật thiết. Còn liên hệ của tôi với Chúa thì sao?

Chúa Giêsu nói: “Nếu con biết Ta, con cũng biết Cha Ta.” Tôi biết Chúa đến chừng nào?

 

57. Niềm tin

Có năm anh mù sờ vào một con voi. Anh thứ nhất sờ vào cái bụng thì bảo con voi giống như một bức tường lớn. Anh thứ hai sờ vào chiếc ngà thì bảo con voi giống như một thanh gươm cùn. Anh thứ ba sờ vào cái vòi thì bảo con voi giống như một con đỉa khổng lồ. Anh thứ thứ tư sờ vào cái tai thì bảo con voi giống như một chiếc quạt nan. Anh thứ năm sờ vào cái đuôi thì bảo con voi giống như một sợi dây thừng.

Câu trả lời của mỗi người đều đúng theo quan điểm riêng của mìnnh. Chỉ nhờ đối thoại chung với nhau, họ mới có được một cái nhìn sáng suốt và một hình ảnh đầy đủ để hiểu biết con voi thực sự là như thế nào mà thôi.

Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Người Do Thái có một cách hiểu về Ngài. Người theo Hồi giáo có cách hiểu thứ hai. Người theo Phật giáo có cách hiểu thứ ba. Người theo Ấn độ giáo có cách hiểu thứ tư. Và các Kitô hữu có cách hiểu thứ năm.

Như vậy, phải nhờ đến đối thoại chung với nhau, người ta mới có thể đạt được một cái nhìn đầy đủ hơn về Thiên Chúa.

Thế nhưng, tại sao các Kitô hữu lại dám xác quyết rằng mình có một cái chính xác về Thiên Chúa hơn bất kỳ một tôn giáo nào?

Câu trả lời dĩ nhiên phải được đặt nền tảng trên đức tin. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài biết Thiên Chúa bằng một cách thức tuyệt vời mà không vị lãnh đạo tôn giáo nào dám mơ tưởng đến.

Hơn thế nữa, Ngài còn đồng hóa mình với Thiên Chúa. Điều này không một nhà lãnh đạo tôn giáo nào dám làm.

Chẳng hạn qua đoạn Tin mừng hôm nay, Ngài đã xác quyết với Philipphê:

– Ai thấy Ta là thấy Cha.

Nơi khác Ngài cũng nói:

– Cha Ta và Ta là một.

Nếu quả thực đúng như vậy, thì chúng ta, những người Kitô hữu đã có được một cái nhìn thật chính xác về Thiên Chúa hơn bất kỳ một tôn giáo nào khác trên mặt đất này.

Thực vậy, chỉ mình Chúa Giêsu mới dám nói:

– Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta.

Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám bảo:

– Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Ta.

Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám xác quyết:

– Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ có ánh sáng ban sự sống…Ai theo Ta, sẽ không bao giờ phải bước đi trong tăm tối.

Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám công bố:

– Ai tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời… Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.

Vậy Đức Kitô là ai?

Đây cũng là vấn đề mà chính Ngài đã đưa ra cho các môn đệ:

– Người ta bảo Thày là ai?

Các ông thưa:

– Người thì bảo là Gioan tiền hô, là Elia, là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.

Và Chúa Giêsu đã đặt một câu hỏi cân não, đòi buộc các ông phải dứt khoát lập trường và tuyên xưng đức tin của mình:

– Còn các con, các con bảo Thày là ai?

Thánh Phêrô đã thay mặt cho nhóm mười hai đã dứt khoát lập trường và tuyên xưng đức tin của mình:

– Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Và Chúa Giêsu liền tỏ cho Phêrô được hay:

– Phúc cho con, không phải do xác thịt hay máu huyết, nhưng do Cha Thày, Đấng ngự ở trên trời đã tỏ cho con biết.

Lời xác quyết này có nghĩa là chân lý này đến với thánh Phêrô không phải từ bất cứ ai, mà từ chính Chúa Cha, Đấng đã trực tiếp mạc khải cho thánh Phêrô.

Là người Kitô hữu, là người môn đệ của Chúa, ngay từ hồi còn tấm bé, chúng ta đã xác tín Ngài là Con Thiên Chúa và chúng ta cũng đã tin vào Ngài.

Thế nhưng, điều quan trọng hơn, đó là chúng ta phải biến niềm tin thành việc làm, biến xác tín thành cuộc sống, bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, nhờ đó chúng ta thực sự tuyên xưng Ngài trong thẳm sâu cõi lòng cũng như làm chứng về Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta đang sống.

 

58. Đường tình yêu

Đức Khổng Tử trong giờ phút lâm chung cho gọi thầy Tăng Tử là môn đệ mà ngài đặt nhiều tin tưởng, đến bên giường bệnh và nói:

– Này Tăng Tử con ơi! Trước giờ thầy nhắm mắt lìa đời, con có điều gì thắc mắc về những lời ta đã cùng con thảo luận?

Thầy Tăng Tử đáp:

– Bạch Thầy, thầy quả là bậc chí nhân quân tử. Những lời thầy đã chỉ dạy làm cho chúng con thấy khó mà thực hiện cho trọn vẹn.

Đức Khổng Tử mới nói:

– Này Tăng Tử, trong các điều ta đã giáo huấn có điều đúng, có điều sai. Nhưng có một cái mà ta chắc chắn không bao giờ sai đó là điều ta không biết!

Đức Khổng Tử là bậc thánh hiền, học thuyết của ông đã ảnh hưởng đến bao đời, thế mà trước lúc lâm chung, ông phải tự nhận là mình không biết gì. Khác với Khổng Tử là người chỉ đường Đức Giêsu chính là con đường. Trước khi lìa các môn đệ để về cùng Cha, Người đã khẳng định:”Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Đức Giêsu chính là Đường, dẫn chúng ta đi từ nhịp cầu đau khổ đến bến bờ vinh quang, từ cõi chết trở về cõi sống, từ đời sống tạm bợ tới cuộc sống vĩnh hằng, từ trần gian tục lụy về quê hương thiên đàng.

Đức Giêsu chính là Sự thật. Sự thật tuyệt đối, sự thật về một Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc con người. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta.

Đức Giêsu chính là Sự sống. Sự sống vĩnh cửu, sự sống từ cung lòng Cha ban cho mọi loài được sống. Sự sống đã giải thoát con người khỏi chết muôn đời. Người chính là Đấng cứu độ duy nhất. Cũng như “Mọi con đường đều dẫn tới Rôma”, thì mọi con đường cứu độ đều phải dẫn đến con đường Giêsu. Tất cả loài người đều được cứu độ nhờ danh của Người, kể cả những con người không biết Người, nhưng sống theo lương tâm ngay lành, đều được Người ban ơn cứu độ. Sách Công vụ Tông đồ viết:”Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ”.

Con đường của Người là đường phục vụ, đường yêu thương. Vì thế những ai muốn đi trên con đường của Người cũng phải dấn thân phục vụ anh em, và tận tình yêu thương con người.

Con đường của Người là đường thánh giá, đường đau khổ. Vì thế những ai bước đi trên con đường ấy cũng phải dám hy sinh bản thân, và sẵn lòng chịu khổ vì danh Đức Giêsu.

Hy sinh bao giờ cũng cho tâm hồn nét đẹp cao thượng. Với tình yêu, những khó khăn kia dường như nhỏ lại, những vất vả như bị xóa nhòa. Lòng chúng ta lại thấy vui hơn, cuộc đời thênh thang rộng mở.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về với Chúa Cha trong vinh quang sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Xin cho chúng con cũng biết đi trên con đường của Chúa, là yêu thương phục vụ anh em, để cuối con đường thập giá và đau khổ chúng con được hợp hoan với Chúa trong vinh quang nước trời.

 

59. Khuôn mặt Thiên Chúa

Nếu gom các hình vẽ, các bức tượng Chúa lại để so sánh, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa có nhiều khuôn mặt khác nhau, tùy theo sự tưởng tượng của các họa sĩ và của các nhà điêu khắc.

Từ ghi nhận này, ta có thể liên tưởng đến hình ảnh Thiên Chúa mà mỗi người khắc họa cho đời mình. Thiên Chúa chỉ có một, nhưng mỗi người lại hình dung về Người một cách khác nhau, tùy theo sự suy nghĩ và sở thích riêng của mình chứ không hẳn đã đúng như hình ảnh đích thực của Người. Đây là điều rất quan trọng, bởi chính cái nhìn của ta về Thiên Chúa sẽ chi phối và ảnh hưởng đến niềm tin cũng như cách sống đạo của ta. Ta có thể đưa ra một vài thí dụ:

– Người Do thái đã hình dung Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối nên Người hoàn toàn tách biệt với những gì phàm tục và tội lỗi. Từ quan niệm này họ cũng nghĩ rằng: Nếu muốn là con cái Chúa, người cũng phải sống tách biệt như vậy. Điều này đúng, nhưng không đúng ở chỗ nhân danh Thiên Chúa toàn thiện, người ta coi khinh và loại trừ những người tội lỗi, là những người rất cần đến sự nâng đỡ của mọi người. Vả lại, Thiên Chúa dù ghét tội lỗi nhưng lại rất yêu thương các tội nhân và muốn họ được cứu thoát.

– Có những người hình dung Thiên Chúa là một ông thẩm phán khắc nghiệt, chỉ biết dò xét tội lỗi của con người để trừng phạt. Nghĩ về Thiên Chúa như thế nên họ sống đạo, họ giữ lề luật chỉ vừa đủ để khỏi bị phạt. Và nghĩ về Thiên Chúa như thế, nên khi thấy một người gặp tai ương hoạn nạn, họ cho rằng đó là người tội lỗi. Quan niệm rằng: Tai ương, hoạn nạn là hình phạt của Thiên Chúa vẫn còn ăn sâu nơi tâm trí của nhiều người.

– Có người lại tưởng Thiên Chúa là một ông quan thích tham nhũng hối lộ. Vì thế, họ xin lễ, họ dâng cúng tiền bạc vào nhà thờ như để mua chuộc Thiên Chúa chúc lành cho những công việc của mình, kể cả những công việc mờ ám.

– Có người lại nghĩ Thiên Chúa chỉ là một ông thủ kho. Khi cần điều gì, họ đến gõ cửa xin Người mở kho để đáp ứng nhu cầu của họ. Nghĩ như thế nên đời sống đạo của những người này thu hẹp lại trong việc xin xỏ. Mà hầu hết chỉ là xin xỏ những nhu cầu vật chất. Nếu Thiên Chúa không đáp ứng điều họ yêu cầu, họ sẽ phản kháng, sẽ trách móc, thậm chí buông những lời xúc phạm đến Người.

– Có những người coi Chúa như một vị thần xa lạ, không liên hệ gì tới đời sống của họ, vì thế họ dửng dưng với Người…

Và còn rất nhiều cách nhìn khác về Thiên Chúa. Do đó, cũng có rất nhiều cách sống đạo, nhiều cách sống mối quan hệ đối với Thiên Chúa,

Ghi nhận những cách nhìn như thế về Thiên Chúa để thấy câu hỏi của ông Philipphê rất quan trọng:”Lậy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha”. Và câu trả lời của Chúa Giêsu còn quan trọng hơn:”Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Thiên Chúa là Đấng vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình nơi Đức Giêsu. Vì thế, cứ nhìn vào Đức Giêsu ta sẽ thấy được dung nhan đích thực của Thiên Chúa.-Nhìn Chúa Giêsu lân la với người tội lỗi để an ủi, để cứu vớt, ta sẽ biết Thiên Chúa không ruồng bỏ người có tội, nhưng yêu thương và tha thứ.

– Thấy Chúa Giêsu đến với những người nghèo khổ, những người đau ốm tật nguyền, ta biết Thiên Chúa là Đấng không vô tâm trước những nỗi thống khổ của kiếp người.

– Nhìn Chúa Giêsu thổn thức trước mộ ông Lagiarô, động lòng trắc ẩn trước cảnh người mẹ góa đi chôn xác con trai mình, thương cảm đám dân chúng bơ vơ đói khát như chiên không có người chăn, ta thấy Thiên Chúa gần gũi con người biết bao.

– Nhìn Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho các môn đệ, chiêm ngắm Chúa Giêsu quằn quại trên thập giá, ta biết Thiên Chúa yêu thương ta dường nào.

– Nghe Chúa Giêsu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình, ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa thích báo thù và trả oán…Vì Chúa Giêsu biểu lộ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, nên nếu muốn thấy Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, thì phải gần gũi và gắn bó với Chúa Giêsu.Chỉ khi có cái nhìn đúng về Thiên Chúa ta mới có được thái độ sống phù hợp với đạo làm con.

Chớ gì chúng ta không bị Chúa Giêsu trách cứ như Người đã trách cứ ông Philipphê: Con theo đạo biết bao lâu rồi mà vẫn chưa biết Thầy, chưa biết Cha ư?

 

60. Đường

Nhà tu đức học nổi tiếng của Ấn độ, cha An tôn Mê-lô có làm một bài thơ, nội dung như sau: “Một hôm lang thang trên phố, tôi thấy một cửa hiệu với hàng chữ: Tại đây có bán chân lý”. Tò mò tôi bước vào. Cô bán hàng niềm nở đón tiếp tôi và hỏi: “Ông muốn mua loại chân lý nào? Chân lý từng phần hay chân lý toàn diện?”. Tôi cho cô biết dĩ nhiên tôi đang đi tìm thứ chân lý toàn diện, thứ chân lý không pha trộn giả dối, thứ chân lý mà lý trí tôi phải đầu hàng vô điều kiện. Tôi muốn có chân lý đơn thuần và toàn diện.

Cô bán hàng nhìn tôi lắc đầu rồi chỉ sang một cửa hiệu khác, nơi có bán thứ chân lý mà tôi đang đi tìm. Người đàn ông đứng bán hàng nhìn tôi với lòng thông cảm. Ông chỉ cho tôi xem giá biểu của món hàng mà tôi muốn mua, rồi nói với tôi:”Thưa ông, giá của món hàng rất cao”. Đã cương quyết mua cho được chân lý toàn diện, tôi liền hỏi:”Giá bao nhiêu, xin cho tôi biết”. Người bán hàng trả lời:”Nếu ông muốn mua thứ chân lý này, ông phải trả bằng cả cuộc sống của ông”.

Tôi ra khỏi cửa hiệu, lòng buồn rười rượi. Tôi cứ nghĩ rằng tôi có thể mua chân lý toàn diện bằng giá rẻ. Thì ra tôi chưa sẵn sàng để đón nhận chân lý. Tôi vẫn chưa muốn cho đi cuộc sống của tôi. Tôi vẫn còn bám chặt vào những xác tín của riêng tôi”.

Bài thơ ngụ ngôn trên đây hẳn muốn nói lên thái độ của nhiều người trong chúng ta đối với Đấng tự xưng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta chưa tin tưởng đầy đủ và sống trọn vẹn cho Ngài. Vì thế, bài Tin mừng hôm nay, một lần nữa, nhắc nhở chúng ta hãy khẳng định, hãy xác tín hơn nữa vào Chúa Giêsu.

Tất cả chúng ta đều biết ý nghĩa của con đường. Dù đó là xa lộ hay con đường mòn, đều có mục đích là để đi. Đường là để đi, nghĩa là đường sẽ dẫn đến nơi nào đó, nên đường không bao giờ là nơi cư trú, mà là để dẫn đến nơi cư trú. Do đó, người nào dùng đường làm nơi cư trú thì chẳng bao giờ đến nơi cư trú của mình. Vì vậy, chúng ta phải xác định với lòng mình rằng: Cuộc sống hôm nay ở trần gian là đường đưa đến một quê hương khác. Nếu cuộc sống hôm nay không phải là cùng đích, mà chúng ta lại chọn làm nơi cư trú, tức là chúng ta không lên đường đến nơi chúng ta phải đến. Sống ở đời, ai cũng phải lên đường. Đời là cõi rộng mênh mông. Sống là đi. Nhưng đi về chốn nào? Trong cõi rộng mênh mông ấy, đâu là đường?

Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta biết: “Ta là Đường, Là Sự Thậ và là Sự Sống”.Nghĩa là đường của cuộc đời chúng ta đi là Chúa, những gì chúng ta đang thiếu thốn và lo âu đều liên quan đến hạnh phúc của chúng ta. Khi Chúa nói Chúa là Sự Sống, có nghĩa là Chúa là hạnh phúc chúng ta đang túng thiếu. Khi Chúa nói Chúa là Đường, có nghĩa là để dẫn chúng ta tới hạnh phúc đó. Như vậy, Chúa là cùng đích và cũng là phương tiện dẫn tới cùng đích. Chúa là hạnh phúc và cũng là đường dẫn tới hạnh phúc. Chúa là con đường duy nhất, nhưng mỗi người chúng ta lại đi trên đường theo cách riêng của mình, hay mỗi người chúng ta lại có riêng đường đời của mình, nghĩa là mỗi người có một cuộc sống riêng, nên không đường của ai giống đường của ai, và vì thế nỗi lòng của mỗi người cũng khác nhau. Quả thực, trên đường đi, chúng ta đã thấy có nhiều quán trọ. Có quán cho chúng ta bóng mát. Có quán bảo chúng ta đừng đi. Mệt nhọc làm chúng ta dừng nghỉ. Chống đối, hiểu lầm, ghen tị, kết án làm chúng ta muốn bỏ cuộc. Và dường như nếu chúng ta càng dừng nghỉ thì chúng ta càng ngại đi. Nếu chúng ta càng làm quen với lười biếng thì chúng ta càng ngại ngùng trở về con đường mà Chúa muốn chúng ta sống. Rồi, đường đi cứ thế mà chậm thêm.

Rồi cũng trên đường đi, sao có nhiều quãng thật xấu, gồ ghề như quãng đường Chúa đi xưa. Hình ảnh đồi Sọ làm chúng ta tính toán, lưỡng lự. Có những quãng đường sao mà tối tăm làm chúng ta hồ nghi không biết có phải là đường thật không? Đây là lúc chúng ta phân vân không biết thánh ý Chúa ở đâu. Và cũng là lúc chúng ta bị cám dỗ nghi ngờ đủ thứ. Nên Chúa đã dặn:”Đường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi”. Và những lúc như thế chúng ta vẫn nghe tiếng Chúa khuyến khích: Cứ đi đi, tuy khó khăn nhưng hứa hẹn cuối con đường là hạnh phúc. Chúa đang đợi chờ ở đó.

Đó là chân lý toàn diện chúng ta phải tìm kiếm và mua cho bằng được. Trần gian có sóng gió, đường về có dài lâu, cạm bẫy có giăng đầy, nhưng có Chúa, cùng với thiện chí của chúng ta, thì khó khăn mấy cũng vượt qua, đường dài mấy cũng phải tới, cạm bẫy thế nào cũng chẳng hề hấn gì. Cầu chúc ông bà anh chị em biết tuân nghe lời Chúa, cùng đi con đường hẹp, để rồi chúng ta sẽ lại gặp nhau ở cõi sống hạnh phúc.

 

61. Niềm tin

Trong suốt bữa tiệc ly, khi Đức Giêsu bắt đầu nói về cái chết của Người, thì các tông đồ liền bị rơi vào trạng thái khủng hoảng. Khi nghe tin này, tâm hồn họ xao xuyến và ngập tràn nỗi sợ hãi. Nhận biết lòng tin của các tông đồ sẽ bị thử thách nặng nề, nên Đức Giêsu đã cố gắng chuẩn bị cho họ đối đầu với cuộc thử thách này. Người nói với các ông:”Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, và cũng hãy tin tưởng vào Ta”. Bởi vì các tông đồ đã tin tưởng, nên Đức Giêsu nói với họ “Anh em phải bước đi trong niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và vào Ta”.

Trong những lúc bị đau khổ và khủng hoảng, người ta hay nghĩ rằng Thiên Chúa ruồng bỏ họ. Nhưng Đức Giêsu đã trấn an các tông đồ rằng, mặc dù rời xa họ, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Nói đúng hơn, Người đang chuẩn bị một mái nhà cho họ, và sẽ trở lại đón họ vào nhà đó. Do đó, bất chấp điều gì diễn ra, bất chấp những khó khăn có thể xảy đến (và họ gặp nhiều khó khăn), họ vẫn phải tiến bước trong niềm tin tưởng, trong sự tín nhiệm vào Đức Giêsu và vào Chúa Cha. Đó là tất cả những điều họ phải làm. Tiến lên trong niềm tin tưởng, tiến lên trong sự tín nhiệm. Nói thì dễ hơn làm.

Nhưng khi gặp khủng hoảng, điều duy nhất mà chúng ta có thể làm là: Bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa. Sự tín nhiệm là một điều vĩ đại nhất mà chúng ta có thể đem đến cho người khác. Vào thời điểm đó, chúng ta phải tin tưởng rằng bằng cách này hay bằng cách khác, mọi sự vẫn có mục đích của nó, và trong cảnh tối tăm, một tia sáng le lói sẽ xuất hiện.Lòng tin đích thực trấn an chúng ta rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta trong lúc bị khủng hoảng. Chính cảm giác đó, chính niềm tin tưởng rằng chúng ta không bị cô đơn, không bị bỏ rơi, đem lại khả năng giúp chúng ta vượt qua cơn khủng hoảng.Nếu không có Thiên Chúa, chúng ta không thể hiểu nổi, và không thể chịu đựng nổi cuộc sống. Đó là lý do tại sao lòng tin vô cùng quan trọng. Khi Charlie Lansboro, một ca sĩ người Anh, trở thành người Công giáo, anh đã nói:”Tôi hoàn toàn tin tưởng. Tôi không thể tưởng tượng cuộc sống của tôi sẽ ra sao, nếu không có đức tin. Nhưng tôi phải mất nhiều thời gian, mới có được lòng tin này”.

Những ai có đức tin đều có được nguồn an ủi và niềm cảm hứng, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối. Họ nhận biết rằng Thiên Chúa sẽ cư xử nhân hậu với họ cho đến tận cùng, cả trong thế giới này, lẫn trong thế giới mai sau. Không phải chúng ta giữ lấy đức tin, mà chính đức tin gìn giữ chúng ta.

“Người nào dù chỉ có đôi chút lòng tin nơi Thiên Chúa mà thôi, sẽ không bao giờ bị mất niềm hy vọng, bởi vì người đó tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của chân lý”

Như vậy, khi sự việc trở nên tồi tệ, chúng ta hãy lắng nghe những lời êm dịu của Đức Giêsu “Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, và cũng hãy tin tưởng vào Ta”.

 

62. Mái nhà

Thật không thể nào cường điệu về tầm quan trọng của mái nhà. Có một lần tôi được nghe một quản giáo trại tù nói “Nếu bạn cho các tù nhân được quyền chọn lựa giữa việc trở về nhà, và ở lại trại giam, mà được cho ăn mặc sang trọng, có đầy đủ tivi màu, phòng tắm hơi, phòng uống rượu… thì sẽ không có một tù nhân nào không chọn lựa cách trở về nhà”.

Khi mọi sự đều thất bại, khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi và cô đơn, thì chúng ta luôn luôn có một mái nhà để trở về, và có rất nhiều trường hợp, chúng ta đã được người ta nói, hoặc chính chúng ta nói những câu này:”Chúng ta hãy trở về nhà”. “Tôi muốn trở về nhà”. Mái nhà là một nơi chúng ta được an toàn. Mái nhà là một nơi của sự hiệp thông. Nếu bạn nhận biết rằng mình đang trên đường trở về nhà, thì không bao giờ bạn cảm thấy cuộc hành trình quá lâu dài hoặc quá khó khăn nữa. Chúng ta phải đi ra thế giới bên ngoài, thì mới nhận biết được mái nhà của mình đáng yêu ra sao. Bạn hãy thử tưởng tượng xem, nếu không có nhà để trở về, thì sẽ ra sao?

Nelson Mandela đã kể lại trong suốt những năm dài bị giam hãm tại đảo Robben, ông bị một cơn ác mộng lập đi lập lại ra sao. Ông nói:”Trong một giấc mơ, tôi mơ thấy mình được phóng thích khỏi nhà tù – chỉ có điều đó không phải là đảo Robben, nhưng là một nhà tù ở Johannesburg. Tôi bước ra bên ngoài cổng, rồi đi vào thành phố, và nhận ra là không có ai gặp tôi. Trên thực tế, ở đó không hề có ai, không một người nào, không có xe hơi, không có taxi. Rồi tôi đi bộ đến Soweto. Tôi đi bộ trong nhiều giờ, trước khi tới phía tây Orlando, và sau đó, tôi quẹo về hướng nhà số 8115. Cuối cùng, tôi nhìn thấy căn nhà của tôi, nhưng đó là một căn nhà trống rỗng, một căn nhà ma quái, với tất cả các cửa ra vào và cửa sổ đều mở toang, nhưng không hề có ai ở trong đó cả”.

Có một mái nhà, không nhất thiết mang ý nghĩa là phải có một căn nhà. Mà là phải có hàng loạt những mối dây ràng buộc thân thiết, với những người biết chấp nhận chúng ta vì chính con người của chúng ta, và tạo cho chúng ta cảm giác được thuộc về người đó. Nhưng bất kể tất cả những tòa cao ốc mà chúng ta đã dựng lên, và những gốc rễ mà chúng ta đã tạo ra, thì nơi đây, trên trái đất này, chúng ta vẫn không hề có được một mái nhà lâu bền. Như thánh Phaolô nói, tất cả những gì chúng ta có, chỉ là một thứ lều tạm bợ. Khi chúng ta chết đi, thì căn lều đó sẽ được gấp lại.

Do đó, chúng ta cần có một mái nhà, không chỉ ở trên trái đat này. Sau khi cái chết đã vén mở bức màn cuộc sống, chúng ta cũng cần phải có một mái nhà để trở về. Nếu không có một cuộc sống mới, ở trong một mái nhà khác, thì hành trình cuộc đời của chúng ta sẽ không đi đến đâu cả.

Trong suốt Bữa Tiệc ly, Đức Giêsu bắt đầu nói với các tông đồ về sự kiện Người sắp rời xa họ. Khi nghe biết tin đó, lòng các ông tràn ngập đau khổ. Nhưng Người đã an ủi họ bằng những lời sau đây, chắc chắn được coi là những lời nói đầy yêu thương nhất trong Tin mừng “Trong nhà của Cha Ta có nhiều chỗ. Ta sắp sửa đến đó để chuẩn bị chỗ cho anh em. Ta sẽ trở lại để đón anh em đi với Ta; sao cho Ta ở đâu, thì anh em cũng sẽ được ở đó”. Điều này có nghĩa là chúng ta có một mái nhà vĩnh cửu để trở về, là nhà của Chúa Cha.

Đối với một đứa trẻ, mái nhà không hẳn là một nơi trú ngụ, cho bằng là một tương quan của yêu thương và tin tưởng. Một đứa trẻ có thể đi khắp mọi nơi, mà vẫn không hề cảm thấy mình không có nhà, miễn là có cha mẹ của bé cùng ở đó. Đây cũng là cảm giác của những người có tương quan thân thiết với Thiên Chúa.

Chúng ta trải qua cuộc sống của mình trong sự tìm kiếm Thiên Chúa, và dò dẫm lối đi của mình hướng về Người. Chết đi có nghĩa là tìm được Thiên Chúa, gặp gỡ Người, nhìn thấy Người.

Chết đi có nghĩa là trở về với Thiên Chúa, và trở về với Thiên Chúa nghĩa là trở về mái nhà của mình.

 

63. Trở về

Một lần kia, trên một bãi biển cách Dublin khoảng 40 dặm về phía Đông Nam, tôi nhìn thấy một người đàn ông lấy ra từ trong thùng xe của mình một cái sọt đựng chim bồ câu nuôi. Sau đó, ông ta mở sọt, và phóng thích chim. Chúng bay thẳng lên không trung. Tuy nhiên, thay vì quay đầu trực chỉ về hướng Dublin, là nơi ở của chúng, những con chim bồ câu lại cứ bay lòng vòng chung quanh chúng tôi. Chúng cứ thế vòng tới vòng lui. Đối với những người không hiểu điều gì sắp xảy ra, thì sự kiện này có vẻ như là ngớ ngẩn và mất thì giờ. Nhưng rõ ràng là những con chim bồ câu này đang tìm kiếm phương hướng của chúng. Một khi đã định hướng rồi, thì chúng ta sẽ bắt đầu lên đường trở về nơi ở của chúng. Ở nhiều loài chim, bản năng xác định được nơi trú ngụ là một điều kỳ lạ. Đối với một số loài, dường như đó là một bản năng gắn liền với chúng. Đối với những loài khác, chẳng hạn như chim bồ câu, thì chúng phải được huấn luyện. Yêu cầu cơ bản của việc huấn luyện là giữ cho chúng được sức khỏe tốt sao cho chúng có thể duy trì được khả năng bay. Sương mù, tuyết, mưa, và những luồng gió thổi ngược là các trở ngại mà chúng phải vượt qua.

Chúng ta cũng phải có một bản năng trở về nơi trú ngụ. Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta vì chính Người, đã không để mặc chúng ta không có phương hướng. Người đặt để nơi chúng ta một bản năng về quê hương. Đây là một điều rất tế nhị và mỏng giòn, bởi vì Thiên Chúa sẽ không bao giờ tước đoạt sự tự do của chúng ta. Bản năng này mang hình thức thao thức và không hài lòng. Sự thao thức, không hài lòng, khát vọng này không phải là tai họa, mà là một sự chúc lành.

Bản năng xác định nơi trú ngụ không cứu thoát loài chim khỏi nhu cầu phải đấu tranh chống lại mưa gió, tương tự như vậy, đức tin không hề che chở chúng ta khỏi những va chạm đầy khó khăn của cuộc đời và cái chết. Nhưng điều mà bản năng đó đem lại cho chúng ta, đó là biết cách xác định phương hướng. Bản năng này đem đến cho chúng ta khả năng sống trong thế giới, mà không đánh mất hoặc đầu hàng sự thất vọng. Bản năng này trấn an chúng ta rằng chúng ta có một mái nhà để trở về, và chỉ cho chúng ta phương hướng, để trở về mái nhà đó.

Trong suốt Bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng Người sắp sửa rời xa họ, các ông đều đau khổ sâu xa. Nhưng Người đã an ủi họ bằng những lời sau đây, chắc chắn được coi là những lời nói đầy yêu thương nhất trong Tin mừng “Trong nhà của Cha Ta có nhiều chỗ. Ta sắp sửa đến đó để chuẩn bị chỗ cho anh em. Ta sẽ trở lại để đón anh em đi với Ta; sao Ta ở đâu, thì anh em cũng sẽ được ở đó”.

Điều này có nghĩa là chúng ta có một mái nhà vĩnh cửu để trở về, nơi đó chúng ta sẽ được thỏa mãn tất cả những hy vọng của mình. Nhưng vẫn còn có vấn đề là phải làm sao để đi đến đó.

Nếu bạn đang ở trong một thành phố xa lạ, và hỏi thăm đường đi, thì người ta có thể nói là “Bạn hãy đi thẳng, cho đến khi đến một chốt đèn giao thông. Quẹo phải ngay chỗ ngọn đèn đó…” Đôi khi, cách chỉ dẫn quá phức tạp, đến nỗi bạn không thể nhớ được. Nhưng có thể bạn may mắn, khi gặp một người tử tế, người đó nói với bạn “Thật khó giải thích. Bạn cứ đi theo tôi, và tôi sẽ cho bạn đường đi”.

Con đường đến với Thiên Chúa gây trở ngại và bối rối cho nhiều người. Một số người đã quá bị bối rối, đến độ mất cả niềm hy vọng; một số người khác bị lạc mất phương hướng. Khi thánh Tôma hỏi Đức Giêsu “Xin Thầy chỉ cho chúng con thấy Cha”, thì Đức Giêsu đã không đưa ra nhiều phương hướng phức tạp. Thay vào đó, Người nói “Ta là Đường”. Thật vậy, Người còn nói “Hãy theo Ta, và Ta sẽ chỉ cho anh em biết đường đi”.

Trong khi chờ đợi, với Giáo Hội, chúng ta có một mái nhà thiêng liêng, được xây dựng trên nền đá tảng của Đức kitô (xem bài đọc 2). Ở đây, chúng ta có những anh chị em cùng đồng hành với chúng ta, trên cuộc hành trình tiến về mái nhà này, đó là quê hương nước trời.

Một người phụ nữ đang trở về Ailen cùng với chồng bà, sau ba năm sinh sống ở Úc. Khi gần đến nước Anh, bà đã gọi điện thoại cho mẹ của bà ở Dublin, bà cụ này sẵn sàng đón bà ngay tại tàu ở Dun Laoghaire. Bà đã nói với mẹ “Mẹ sẽ dễ dàng nhận ra con thôi. Con sẽ mặc một cái áo khoác màu đỏ tươi”. Khi nghe đến đó, bà mẹ nói “Con đừng ngớ ngẩn. Thế con nghĩ rằng mẹ sẽ không nhận ra con gái của mẹ sao?”.

Chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa. Bạn có nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ không nhận ra chúng ta, khi chúng ta trở về mái nhà của Người, sau hành trình cuộc đời không?.

“Chỉ những người nào bay về mái nhà của Thiên Chúa, mới có thể bay bổng được”.

 

64. Nẻo đường đích thật – Lm. Bùi Quang Tuấn

“Đường, Sự Thật, và Sự Sống chính là Ta. Không ai đến được với Cha mà không nhờ Ta” (Ga 14:6).

Bước vào trần gian để được sống kiếp con người không ai lại không khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Không một lãnh tụ của đất nước nào lại không đoan quyết với nhân dân những đường lối hấp dẫn, có thể đưa họ đến với chân trời hạnh phúc. Không một chính khách hay nhà đầu tư nào lại không hứa hẹn những tương lai rực sáng cho niềm khát mong nền tảng của con người là hạnh phúc. Thế nhưng trả lời cho thật đúng câu hỏi “hạnh phúc là gì” và “đi tìm hạnh phúc nơi đâu” lại không phải là một chuyện dễ dàng?

Đối với quan niệm của nhiều người, hạnh phúc là khi có việc làm ngon lành vững chắc, hạnh phúc là có vợ đẹp con khôn, hạnh phúc là tiền bạc đầy túi, hay danh vọng quyền lực đầy mình, ăn chơi thoải mái. Thế rồi điều người ta có hứa hẹn hay kiếm tìm không gì khác hơn là làm sao cho đời mình có nhiều danh vọng, quyền lực, tiền bạc, của cải, sắc đẹp…. Cứ càng nhiều càng tốt. Càng nhiều càng thấy “hạnh phúc.”

Từ quan điểm đó con người cũng sẽ dễ đi đến kết luận: ai bị nghèo túng, đau buồn, đói khổ, yếu đuối, chèn ép là bất hạnh, vô phúc.

Ấy thế mà trong Hiến Chương Nước Trời, bài giảng đầu tiên của cuộc sống công khai, Đức Giêsu lại công bố một sứ điệp hoàn toàn mới và đầy vẻ nghịch lý: phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó; phúc cho những ai đau buồn; phúc cho những ai đói khát; phúc cho những ai sống trong sạch; phúc cho những ai bị bách hại, đánh đập, khủng bố vì sự công chính.

Trong số báo Time đầu năm 2002 có nói đến Cliff Baxter, một nhân vật cao cấp trong tổ hợp kinh tài năng lượng Enron, người đang có trong nhà băng hàng triệu đôla, đang có vợ đẹp con khôn, đang có căn nhà đáng nhà 700 ngàn, thế mà tuần trước Baxter đã lái chiếc xe Mercedes mới mua 80 ngàn đôla của mình đến một con đường nhỏ, rút súng bắn vào đầu một phát để kết thúc cuộc sống mà có lẽ anh cho là không hạnh phúc bằng cái chết.

Cứ tưởng vừa giàu có sang trọng vừa được nhiều người mến mộ thì hạnh phúc lắm. Thành ra quan niệm về hạnh phúc của con người không có gì là bảo đảm chắc chắn hết.

Vậy cái gì có thể bảo đảm mang hạnh phúc cho tôi đây? Nghèo khổ, đói khát, thương đau à?

Xin thưa: Cội nguồn mang lại hạnh phúc đích thực và vững chắc cho con người chính là Thiên Chúa, và là Thiên Chúa hiện thân trong Đức Kitô. Cốt lõi của hạnh phúc không phải là cái nghèo, đói khát, khổ đau, nhưng là Nước Trời, là Thiên Chúa. Kinh Thánh nói rõ lắm: Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ; phúc cho ai hiền lành vì họ sẽ được Nước Chúa làm cơ nghiệp; phúc cho ai trong sạch vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa; phúc cho ai ăn ở thuận hoà vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa…

Phải là như thế, chứ nghèo khổ hay đói khát mấy mà không có Chúa, không có Nước Trời thì đó là hoả ngục chứ phúc gì! Cho nên cần phải hiểu cho đúng giá trị của nẻo đường dẫn đến Thiên Chúa. Người nghèo khổ, đói khát, ưu phiền, trong sạch, chịu bắt bớ được gọi là có phúc vì họ rất gần Chúa, rất dễ gặp được Chúa, bởi vì Chúa đã đến trong thân phận giống như họ.

Chúa Giêsu đã đến trong thân phận của một người nghèo, và rất nghèo. Sinh ra trong chuồng súc vật, sống không có nơi gối đầu, chết trần truồng trên thập giá.

Chúa Giêsu không những nghèo mà Ngài còn hiền lành, khiêm nhường. Hiền lành khiêm nhường đến nỗi không có hạng người thấp kém hay tội lỗi đến đâu mà Ngài không tiếp nhận, ủi an, và thương xót.

Chúa Giêsu còn là một con chiên tinh tuyền, trong sạch, chịu hành hạ, bắt bớ, và chịu chết để mang lại niềm hy vọng hân hoan và sự sống phong phú, sâu xa, trường tồn cho con người.

Có điều là lắm khi con người chỉ đi tìm những sự sống nông cạn và nhất thời của thế gian mà quên đi những giá trị thiêng liêng và vĩnh hằng của Nước Trời mà Đức Giêsu mang đến. Phải chăng chính vì thế mà lắm người đã không cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực trong cuộc đời. Có những người đã tìm được rất nhiều tiền, đạt được nhiều danh vọng, trải qua biết bao nhiêu lần hưởng thụ xác thịt, nhưng vẫn cảm thấy cuộc đời hụt hẫng, trống vắng vô cùng. Tại sao? Phải chăng vì họ chưa kiếm tìm Thiên Chúa? Phải chăng vì họ chưa biết tựa nương vào nền tảng vững chắc duy nhất là Đức Giêsu, “Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”?

 

65. Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Lời từ giã của Chúa trong bữa Tiệc ly với các tông đồ, để lại cho các tông đồ một nỗi đau buồn man mát, khiến các ông xuống tinh thần. Vì thế trong Phúc âm hôm nay Chúa dùng những lời lẽ khích lệ để an ủi các ông: Lòng các con đừng lo lắng bối rối. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa và hãy tín nhiệm nơi Thầy (Ga 14,1). Qua các tông đồ, Chúa cũng muốn ta đặt tin tưởng vào lời Chúa, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Tuy nhiên trong thực tế, ta lại tiếp tục đi theo đường lối riêng của mình. Quan sát bản thân, ta thấy tin tưởng là cái gì ta học được bằng kinh nghiệm. Ta không thể biết được rằng ta có thể tin tưởng vào người khác trong những vấn đề quan trọng, nếu ta không biết họ, và không tin họ trong những việc nhỏ. Tuy nhiên trong cái mối liên hệ với Chúa, ta chỉ tìm đến Chúa khi gặp vấn đề khó khăn, nan giải. Ta muốn tự giải quyết những vấn đề hàng ngày mà không cậy nhờ đến Chúa, không cầu xin Chúa Giúp. Ta chỉ kêu cầu đến Chúa, khi nào ta gặp thất bại, khi ta bị dồn vào thế bí, để xem ra may ra Chúa có giúp được gì không? Còn ngoài ra ta lãng quên Chúa. Ta đóng Chúa vào hộp.

Cũng như các tông đồ cảm thấy buồn khổ, xuống tinh thần, khi được biết Chúa sắp từ giã họ về Trời, có những khi ta cảm thấy như là Chúa đi sắng, hay còn hồ nghi sự hiện diện của Chúa. Có lẽ không ai đến nhà thờ hôm nay có được đời sống thanh thản không gặp khó khăn, trắc trở hay bệnh tật. Đời sống ta chồng chất những phiền muộn, lo âu, sợ hãi, chán nản. Đứng trước những vấn nạn và trắc trở của cuộc sống, ta tự hỏi tại sao Chúa để gian nguy, khốn khó xẩy đến cho bản thân và gia đình? Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ vào cuộc sống, ta sẽ thấy những cảnh gian nguy, khổ cực có thể là những thử thách mang lại ơn phúc lộc. Nhìn bằng con mắt đức tin, những khó khăn trắc trở của cuộc sống sẽ giúp ta xích lại gần Chúa trong lời cầu nguyện.

Từ giã các tông đồ về Trời, nhưng Chúa không bỏ họ, mà vẫn ở lại với các tông đồ bằng ơn thánh, bằng sức mạnh thiêng liêng. Chúa còn hứa: “Thầy sẽ trở lại đón các con về cùng Thầy, để cốt cho Thầy ở đâu, các con cũng được ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi” (Ga 14,3-4). Đến đây, thánh Tôma liền thắc mắc là Ông không biết đường. Chúa Giêsu đáp: “Thày là đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14:6). Cái vấn nạn của Ông Tôma nói lên cái tính vô tư của các tông đồ. Họ đã theo Chúa ba năm, nghe lời Chúa giảng dạy, chứng kiến phép lạ Chúa làm mà họ vẫn chưa nhận thức được rằng, qua Chúa Giêsu là họ được đến với Chúa Cha. Còn thánh Philiphê thì cũng cá mè một lứa. Ông ta xin Chúa để cho Ông thấy Chúa Cha. Chúa Giêsu bảo Ông Philiphê là Ông ta đã thấy Thiên Chúa Cha bằng việc xem thấy Chúa Con rồi.

Chúa vẫn ở lại với ta, đồng hành với ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Nếu ta đi lầm đường lạc lối, Chúa hứa chỉ đường cho ta trở về với Chúa qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội. Thiên Chúa là đấng hướng dẫn đời sống con người vì Người nhấn mạnh Người là đường lối.

Suốt 40 năm trong sa mạc, Maisen đã tìm đường tới đất hứa, và Ông đã lạc lõng trong sa ở Sinai. Tuy nhiên bây giờ Chúa khẳng định chính Người là đường. Trải qua bao nhiêu thế kỷ, nhiều triết gia và học giả đã cố công đi tìm sự thật.

Nhưng bây giờ Chúa phán chính Người là sự thật. Không những Người giảng dạy sự thật bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Chúa Giêsu còn xác nhận Người là sự sống: sự sống vĩnh cửu được chuộc bằng giá tử nạn và phục sinh của Người. Để đáp lại những khát vọng và những lời cầu xin của loài người qua nhiều thế hệ, Chúa công bố Người là hiện thân của cả ba cùng đích: là đường, là sự thật, và là sự sống.

Trong thời Trung cổ, tác giả Gương Chúa Giêsu thêm những lời lẽ sau đây vào miệng Chúa: Ta là đường mà ngươi phải bước theo, là sự thật mà ngươi phải tin tưởng, là sự sống mà ngươi hằng hi vọng.

 

66. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. “Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em”. Câu này có ý nghĩa gì? Đức Giêsu đi đâu? Dọn chỗ là gì và dọn ở đâu?
  2. “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”, Câu này có ý nghĩa gì? Trên thiên đàng nơi sống đời đời hạnh phúc có dung nạp đủ mọi hạng người đầy tính đa dạng và khác biệt như ở trần gian không?
  3. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Có thể thấy Chúa Cha hay Đức Giêsu gần gũi và cụ thể nhất ở đâu?

Suy tư gợi ý:

  1. “Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em” ở “trong nhà Cha Thầy”

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cho biết Ngài “đi là để dọn chỗ cho anh em” ở “trong nhà Cha Thầy”. Đây là một trong những lời cáo biệt của Ngài với các môn đệ trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thật giá. Vì thế, chữ “đi” ở đây có nghĩa là đi vào đau khổ và cái chết. “Dọn chỗ cho anh em … trong nhà Cha Thầy” có nghĩa là chuẩn bị sự sống đời đời cho con người. Như vậy, Đức Giêsu đã dùng sự đau khổ và sự chết để chuẩn bị sự sống đời đời cho con người. Nói cách khác, nhờ đau khổ và cái chết, Ngài trở thành con đường dẫn tới sự sống đời đời.

Ngài đã phải đau khổ và chết mới có thể đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Phần chúng ta, để hưởng được sự sống đời đời ấy, chúng ta cũng phải góp một phần nào hy sinh và đau khổ của mình vào khi quyết tâm sống phù hợp với sự đòi hỏi của tình yêu. Tình yêu ở đây là tình yêu đối với Thiên Chúa được cụ thể hóa thành tình yêu đối với tha nhân. Tình yêu luôn đòi hỏi phải được chứng tỏ cụ thể bằng đau khổ và hy sinh. Không chấp nhận đau khổ và hy sinh cho ai hết có nghĩa là không yêu ai cả. Nhưng yêu cũng là … chấp nhận sự khác biệt của người mình yêu.

  1. “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”

Đức Giêsu phải chịu đau khổ và chết không phải chỉ để cứu rỡi hay đem lại sự sống đời đời cho một mình ta, hay nhóm của ta, cộng đoàn của ta, Giáo Hội của ta, hoặc những người có cùng khuynh hướng với ta. Ngài muốn cứu tất cả mọi người, mọi khuynh hướng, mọi cộng đoàn, mọi tập thể… khác nhau. Thánh Phao-lô viết: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2,4). Điều đó đã được Đức Giêsu tỏ cho biết trong câu: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”. “Nhiều chỗ ở” có nghĩa là dung nạp được nhiều: nhiều người, nhiều chủng tộc, màu da, khuynh hướng (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm linh, tôn giáo…).

Nhìn trong thế giới tự nhiên này, ta thấy sự vật hết sức đa dạng, nghĩa là đủ loài đủ kiểu, rất khác biệt nhau. Thế giới sẽ trở nên đơn điệu và buồn tẻ biết bao nếu thiếu sự đa dạng và khác biệt ấy. Hãy thử tưởng tượng xem: nếu trên đời chỉ có một loài hoa duy nhất cho dù hết sức đẹp, hoa nào cũng giống y hệt hoa nào, thì chúng đâu thỏa mãn nhu cầu thích cái đẹp của con người như khi có hàng trăm ngàn loài hoa khác nhau như trong thế giới ta đang sống đây! Thế giới này sẽ ra sao nếu chỉ có một loài chim, một loại cá, hay tệ hơn, chỉ có một loài thú duy nhất?

Thế giới tuy đa dạng và đầy khác biệt, các loài các vật trong đó vẫn luôn luôn hài hòa, bổ túc cho nhau, ăn khớp với nhau. Nếu thế giới tự nhiên đầy bất toàn này mà còn phong phú đa dạng như thế, còn có sự hài hòa giữa những khác biệt như thế, thì sự sống đời đời hay thiên đàng, là một thực tại hoàn hảo, ắt nhiên phải phong phú, đa dạng và nhất là hài hòa hơn biết bao!

Vì thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng cần trang bị cho mình một tinh thần sẵn sàng chấp nhận mọi khác biệt nơi những người chung quanh chúng ta. Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người và vạn vật đầy khác biệt như thế. Vì thế, mọi thành viên của Thiên Đàng đều phải có khả năng chấp nhận khác biệt rất cao độ để sự hài hòa giữa những khác biệt ấy trở nên hoàn hảo. Điều ấy đòi hỏi họ phải có tình yêu và lòng bao dung cao độ. Nếu không có tình yêu và lòng bao dung, thiên đàng không còn là thiên đàng nữa, sự sống đời đời không còn là hạnh phúc nữa.

Nếu ta đang giận hờn ai, không muốn nhìn mặt ai, ghét cay ghét đắng ai, và chủ trương không thể sống chung với họ, không thể cùng đội chung một bầu trời với họ, v.v…, hãy tự hỏi: nếu cả hai gặp nhau trên thiên đàng, ta sẽ đối xử với người ấy thế nào? Người ấy cũng được Thiên Chúa và Đức Giêsu yêu thương, cứu chuộc, tha thứ như ta. Nếu lúc ấy ta không thể nhìn người ấy với tình yêu thương anh em, thì chính ta là người không xứng đáng ở thiên đàng. Với sự thù hận và ác cảm ấy, ta chỉ làm cho thiên đàng bị ô nhiễm và không còn là nơi hạnh phúc nữa. Ta đáng ở một nơi khác không phải là thiên đàng. Vì thiên đàng chỉ thích hợp với những con người tràn đầy yêu thương. Vậy, muốn là công dân của thiên đàng, thì ngay ở trần gian này, hãy tập yêu thương và sống hài hòa với những người khác biệt chúng ta. Muốn thế, ta phải nhìn thấy Thiên Chúa nơi tha nhân.

  1. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”

Câu nói ấy của Đức Giêsu chắc hẳn đã làm cho các tông đồ hết sức ngạc nhiên. Thấy Đức Giêsu cũng chính là thấy Chúa Cha, vì Đức Giêsu chính là hiện thân, là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Người ta có thể thấy được tình yêu của Chúa Cha qua tình yêu của Đức Giêsu, thấy được vẻ đáng yêu của Chúa Cha qua sự đáng yêu của Đức Giêsu, v.v… Và một cách nào đó, Đức Giêsu cũng chính là Chúa Cha, vì cả hai cùng là một Thiên Chúa duy nhất. Các tông đồ có diễm phúc nhìn thấy Đức Giêsu, sống với Ngài, cảm nghiệm Ngài, nên cũng là nhìn thấy, sống với và cảm nghiệm chính Thiên Chúa Cha.

Còn chúng ta, chúng ta không có diễm phúc ấy. Tuy nhiên, nếu chúng ta có tình yêu và đức tin, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa hay Đức Giêsu nơi bất cứ người nào ta gặp trong cuộc đời. Cho dù người ấy là ai, thương ta hay ghét ta, làm lợi cho ta hay hại ta, thánh thiện hay tội lỗi, dễ thương hay dễ ghét, miễn họ là con người, thì họ đều là hình ảnh của Thiên Chúa với nhiều mức độ trung thực khác nhau. Đức Giêsu muốn ta yêu thương họ, bất kể họ thế nào, bất kể họ khác biệt ta đến mức độ nào, vì chính Ngài cũng yêu thương họ, muốn cứu chuộc họ, phục vụ họ. Ngài đã tự đồng hóa Ngài với họ đến nỗi ai làm gì cho họ thì cũng là làm cho chính Ngài, không làm cho họ thì cũng là không làm cho chính Ngài (x. Mt 10.40; 18,5; 25,40.45; Lc 10,16). Ngài cũng rất ước muốn được yêu thương họ bằng trái tim ta, nói với họ, an ủi họ bằng miệng lưỡi ta, và làm việc cho họ, phục vụ họ bằng đôi tay của ta. Ngài chỉ thực hiện được ước muốn đó nếu ta cho phép và hợp tác với Ngài. Vậy bạn có muốn Ngài dùng bạn như một khí cụ để yêu thương của Ngài không?

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, nhà Cha có rất nhiều chỗ có thể dung nạp được rất nhiều người với rất nhiều khuynh hướng khác biệt. Xin Cha cho tâm hồn con, lòng trí con cũng có nhiều chỗ để có thể dung nạp được tất cả mọi người là anh chị em con, với nhiều khuynh hướng, tính khí, chủ trương khác nhau. Xin cho con biết chấp nhận mọi người như họ đang là, để yêu thương họ bất chấp họ như thế nào. Xin cho con yêu thương họ giống như Cha đã yêu thương họ và đã yêu thương con. Amen.

 

67. Suy niệm của Lm. Trần Nguyên

Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.

Nhân đọc chứng từ của cụ Đỗ Duy Huỳnh về những ngày tù gian khổ của cụ và Đức H.Y. P.X. Nguyễn Văn Thuận ở trại giam Vĩnh Quang, tôi thấy càng thêm lòng kính trọng một nhân chứng của niềm hy vọng. Thiết nghĩ đây cũng là lẽ sống và gương sống sáng chói nhất của Đức H. Y.

Nuôi được niềm hy vọng trong cuộc sống lao tù giữa hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trở thành nguồn hy vọng và nâng đỡ tinh thần cho người khác trong lúc chính tương lai của mình cũng bị bao phủ bằng một màn đen dầy đặc. Thiết nghĩ nếp sống và những hành động đó xuất phát từ sức mạnh tinh thần của một bậc vĩ nhân.

Gương sáng của chứng nhân niềm hy vọng này giúp tôi hiểu rõ hơn đoạn Tin mừng dành cho Chúa nhật hôm nay. Chúng ta đã mừng đại lễ Phục sinh được 5 tuần, nhưng bài Tin mừng dẫn chúng ta ngược dòng thời gian trở về khung cảnh buổi Tiệc ly để nghe những lời trăng trối của Đức Giêsu:

Đây là một trong những lời trấn an và nâng đỡ tinh thần mạnh mẽ nhất trong toàn bộ Phúc âm. Nhưng chúng ta không khỏi tự hỏi: Nghe những lời này trong hoàn cảnh chúng ta đang sống hiện nay, đó có phải là những lời trấn an quá ư là không thực tế.

Sao Đức Giêsu lại có thể bảo lòng chúng ta đừng xao xuyến:

Trong khi sau biến cố 11.9, nạn khủng bố quốc tế vẫn còn là mối đe dọa có thể dẫn đến tiến trình tiêu diệt cả một nền văn minh toàn cầu.

Trong khi đất nước Việt Nam đang điêu linh, đa số đồng bào đang phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, đang phải chạy ăn từng bữa, các nạn bão lụt tới tấp, các quyền lợi căn bản của con ngườI đang bị chà đạp. Trong cuộc sống cá nhân và gia đình, với bao khó khăn về công ăn việc làm, các vấn đề hôn nhân, giáo dục con cái, khác biệt thế hệ v.v.. và v.v… Nhiều lúc chúng ta không khỏi nghi nan tự hỏi: Không biết Đức Giêsu có hiện diện và đồng hành với chúng ta trong cuộc sống thường nhật không? “Lòng các con đừng xao xuyến”. Những lời này đôi khi xem ra có vẽ vô tình và hờ hững trước những gánh nặng đang đè nặng trên đôi vai chúng ta.

Đoạn Tin mừng hôm nay một lần nữa khẳng định với chúng ta là: Đức Giêsu biết và hiểu rất rõ các vấn đề chúng ta đang phải chạm trán, vì khi nói lên những lờI trấn an trên, chính ngài cũng đang kinh nghiệm những vầy vò của nhiều vấn đề của cuộc sống

Nhóm Biệt phái và Luật sĩ đang rình mò tìm cơ hội để thanh toán Ngài. Các môn đệ không hiểu sứ mệnh và các giáo huấn của Ngài. Giuđa đang tìm dịp bán nộp Ngài. Phêrô sẽ chối từ Ngài, và cuộc thương khó đẫm máu sẽ dẫn Ngài đến cái chết đau đớn và ngục ngã trên Thập tự.

Vâng, trong chính bối cảnh tang thương đó, Đức Giêsu đã quên những vấn đế và đau khổ của chính mình để nói lên những lời ủi an các môn đệ. Ngài dư biết là khi Ngài chết đi, họ sẽ có thể rơi xuống vực sâu của tuyệt vọng.

Trong tuần tới, chúng ta hãy lấy đôi phút mỗi ngày để đọc và thấm nhuần những lý do khiến chúng ta có thể vững tâm trong những nổi khó khăn của cuộc sống, vì thật sự:

Đức Giêsu là Đàng, là Sự Thật và là Sự Sống. Ai thấy Thầy là xem thấy Cha.

 

68. Về cùng Chúa

Chúng ta thường nói:

– Đã là người, thì làm bất cứ việc gì, cũng đều theo đuổi một mục đích nào đó.

Chẳng hạn tôi vất vả trên ruộng đồng là để gia đình có chén cơm manh áo. Tôi cặm cụi lao động trong nhà máy là để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Tôi cắp sách tới trường là để trau dồi thêm những kiến thực làm giàu cho cuộc sống.

Thế nhưng, khi hỏi về mục đích của cuộc đời, nhiều người lại phân vân không biết phải trả lời như thế nào. Đúng thế, chúng ta sống trên đời là để làm gì? Câu hỏi này nhiều lúc đã ám ảnh tâm trí, để rồi chúng ta cảm thấy băn khoăn và day dứt:

– Tôi bởi đâu mà tới và rồi tôi sẽ đi về đâu?

Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng lại vô cùng quan trọng, vì nó ấn định toàn bộ hướng đi của cuộc đời chúng ta.

Thực vậy, có những kẻ coi tiền bạc, địa vị hay vui thú phần xác là mục đích cuối cùng của cuộc sống, để rồi đầu tư mọi công sức vào đó. Họ sử dụng mọi biện pháp, kể cả những biện phát bất chánh để tìm tiền kiếm bạc, miễn sao nhét đầy túi tham của mình. Còn để leo lên ghế nọ ghế kia trong xã hội, họ không ngần ngại đạp lên người khác mà tiến thân, nhưng rồi khi phải đối đầu với cái chết, họ mới bẽ bàng nhận ra rằng mình đã lầm.

Với chúng ta thì sao? Sách giáo lý đã trả lời:

– Đời sống chính là một cuộc hành hương trở về cùng Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

Niềm hạnh phúc vĩnh cửu được ở bên Chúa phải là điểm tới cuối cùng và bắt buộc cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, muốn được như thế, chúng ta phải sống đạo, phải bước đi trên con đường Chúa đã chỉ dạy, bởi vì đạo là đường. Con đường nào cũng có một hướng đi, con đường nào cũng dẫn tới một bến bờ.

Đạo của chúng ta được gồm tóm trong những điều Chúa truyền dạy, đó là mến Chúa và yêu người. Con đường của chúng ta là chính Chúa và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến cuộc sống muôn đời, như lời Ngài đã phán:

– Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.

Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta phải lên đường và trở về cùng Chúa, đồng thời mỗi ngày sống phải là một bước chúng ta tiến đến với Chúa, mỗi tháng năm chúng ta phải chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công nghiệp, được kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể nói được rằng:

– Niềm hạnh phúc vĩnhcửu được ở bên Chúa đang nằm trong lòng bàn tay chúng ta, bởi vì tương lai phải được bắt đầu từ hiện tại và ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay.

Có một bà giàu sang mơ thấy mình được đưa vào thiên đàng. Bà ta đi một vòng và nhìn thấy một tòa biệt thự huy hoàng đang được được xây dựng. Bà ta bèn hỏi thiên thần dẫn đường:

– Tòa biệt thự này được xây dựng cho ai thế?

Thiên thần trả lời:

– Cho người làm vườn của bà đó.

Bà ta ngạc nhiên bởi vì ở trần gian, người làm vườn của bà ta chỉ ở trong một túp lều tranh xiêu vẹo, nhỏ bé đến nỗi không có đủ chỗ cho cả gia đình bác ấy nữa. Thấy vậy, thiên thần liền nói:

– Ở trần gian, bác ấy có thể khá hơn, nếu bác ấy đã không quảng đại, đã không bác ái.

Đi được một quãng, nhìn thấy một căn nhà lụp xụp cũng đang được cất lên, bà ta liền hỏi:

– Căn nhà lụp xụp này được cất lên cho ai thế?

Thiên thần trả lời:

– Cho bà đó.

Bà ta bực tức và nói:

– Tôi quen ở nhà cao cửa rộng, làm sao chui rúc được trong một căn nhà tồi tàn như thế này.

Thiên thần đáp:

– Chúng tôi đã làm hết sức mình mà chỉ được có vậy mà thôi, bởi vì vật liệu bà gửi lên quá ít.

Người đàn bà tỉnh giấc, suy nghĩ và đã tìm ra bài học của giấc mơ, đó là hạnh phúc mai sau tùy thuộc vào những hành động bác ái yêu thương mình làm khi còn sống ở trần gian. Vì thế, kể từ ngày ấy, bà ta đã ra sức lập công, tích lũy cho mình một kho tàng thiêng liêng trên trời.

Bởi đó, hãy sống thế nào để trong này sau hết, chúng ta sẽ được Chúa mời gọi:

– Hời nhưng kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng nước trời đã được dành sẵn cho các con.

Hãy sống thế nào để ngày sau hết, chúng ta sẽ được nghe lời Chúa phán:

– Thầy ở đâu, các con cũng sẽ được ở đó với Thầy.

 

69. Con đường

Có một tác giả đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau: Tại một vùng quê nọ bên Tây phương, một ông từ coi nhà thờ có thói quen mỗi ngày cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến người phụ trách tổng đài trong vùng và hỏi giờ. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã hỏi lại: “Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin ông cho biết lý do tại sao ông hỏi như thế mỗi ngày?” Ông từ nhà thờ giải thích: “Thưa ông, có gì đâu, tôi là người có trách nhiệm phải kéo chuông mỗi ngày vào đúng giờ ngọ. Tôi cần hỏi giờ chính xác thôi”. Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra, ông nói với ông từ nhà thờ: “Thật là buồn cười, trong khi ông điện thoại đến hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi là người điều chỉnh đồng hồ của tôi theo tiếng chuông của ông”.

Tác giả của câu chuyện trên kết luận: “Cuộc sống quả là bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời”. Chúng ta cần có một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, và người ta có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, chủ tể của sự sống. Kinh Thánh, lời của Ngài, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình. Từ lúc Nô-ê xuống tàu, Abraham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Đức Maria, và cả cuộc đời không ngừng di động của Chúa Giêsu. Tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình trong đức tin của người Kitô hữu.

Đời người là cuộc hành trình, ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng: tuổi trẻ và thanh niên được dệt đầy những năng động để không ngừng dự phóng và sáng tác. Tuổi trung niên thành công tràn ngập, nhưng thất bại cũng giăng đầy những lối đi: có những người bạn chợt đến rồi đi, vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm. Rồi tuổi già đến, chúng ta nhận ra rằng: tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ.

Đời là một hành trình, Đức Kitô đã trải qua đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình: Sinh ra trong một cuộc hành trình, và mở mắt chào đời để phải vội vã ra đi như một người tị nạn, năm 12 tuổi, lạc mất trong một cuộc hành trình, trong cuộc sống công khai, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Palestine, và cuối cùng Giêrusalem, đồi Canvê là điểm đến của cuộc hành trình. Qua cuộc hành trình không ngừng nghỉ ấy, Đức Kitô đã tuyên bố: “Chính thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”, nghĩa là ai tin Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình. Ngài là con đường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang.

Thực vậy, trên thế giới không thiếu những con đường nổi tiếng, nhưng có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để vươn lên sự sống. Con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là con đường mang tên Giêsu. Đúng vậy, đối với chúng ta, chỉ có một con đường duy nhất để được cứu độ, để đạt tới cuộc sống bất diệt và hạnh phúc vĩnh cửu, tên gọi của con đường ấy là Giêsu.

Đi trên đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Đi trên đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ giữa lòng đời. Đi trên đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường của yêu thương và phục vụ. Vì thế, khi chúng ta sống trong yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.

Vì hoàn cảnh, ơn gọi mỗi người thường khác nhau, không phải ai cũng thích hợp với ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Nhưng một điều chắc chắn mà có lẽ ít khi chúng ta nghĩ tới, đó là tất cả chúng ta đều được Chúa kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Chúa Giêsu đã sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa của Ngài một cách tuyệt đối hoàn hảo và đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho chúng ta. Vì thế, Chúa bảo chúng ta hãy đi theo con đường của Ngài trong suốt hành trình của cuộc sống. Với Chúa, chúng ta sẽ không cảm thấy cô đơn. Chúng ta sẽ mệt mỏi, nhưng không kiệt quệ. Chúng ta sẽ khổ đau, nhưng không thất vọng. Chúng ta sẽ chán nản, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng ta kiếm tìm hạnh phúc, và chúng ta sẽ đạt được.

Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta.

 

70. Con đường

Họa sĩ Broulette đã vẽ một loạt ba bức tranh để diễn tả điều đã nhìn thấy trong đời sống văn minh hiện đại. Bức tranh thứ nhất vẽ một người đàn ông điên loạn đang cố gắng tìm kiếm một miếng giấy quan trọng trong căn phòng bề bộn. Tất cả những ngăn kéo đã mở toang ra, giấy tờ ném bừa bãi khắp nơi, Khăn trải giường rách nát, các bức tranh rơi xuống khỏi vách tường. Một tên quỷ đang đi theo con người điên loạn đó. Tay nó nắm giữ tờ giấy quan trọng ông đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng.

Bức tranh này diễn tả con người thời đại đang mải miết kiếm tìm một điều thần diệu mang lại hạnh phúc cho họ trong cuộc đời. Có lẽ tờ giấy đã bị mất sẽ không bao giờ được tìm thấy, nhưng trên con đường tìm kiếm, nhiều người đã thử tìm trong men rượu, sắc dục, cờ bạc… mà chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.

Bức tranh thứ hai diễn tả một người đàn ông xanh xao gầy còm hốc hác với một cái xuổng đang nỗ lực đào bới trong cánh đồng bát ngát. Đàng sau lưng, ông để lại vô số những cái lỗ đã tốn công đào bới. Và bên cạnh mỗi cái lỗ là một chiếc hộp mở nắp ra, bên trong hoàn toàn trống rỗng.

Bức tranh này cho thấy một con người đang đi tìm kiếm mục đích của cuộc đời, nhưng chẳng tìm thấy cái nào mang lại hạnh phúc. Con người luôn đi tìm kiếm điều gì lớn lao và tốt đẹp hơn. Tôi phải có cái này, cái kia, thì cuộc đời mới đầy đủ. Cuộc đời luôn thúc đẩy, lôi kéo con người vào một nhu cầu mới, và chẳng bao giờ có được một giây phút để tận hưởng cái mình đang có.

Bức tranh thứ ba vẽ về một người bị bịt miệng và bị trói vào một cái ghế, với đôi con mắt trợn trừng kinh khiếp nhìn đăm đăm vào một tên cướp đang thu dọn tất cả những đồ đạc có giá trị trong căn phòng của mình.

Bức tranh này chứng tỏ những nỗ lực vô ích của một người tìm kiếm hạnh phúc qua của cải vật chất trong cuộc đời. Sau cùng thần chết sẽ cướp đi tất cả mọi sự.

Bài Phúc âm hôm nay, là những lời chỉ đạo cho các tông đồ khi cuộc đời của họ bước vào một giai đoạn mới: cuộc đời sau cái chết của Chúa Giêsu với bối cảnh thù nghịch từ phía xã hội, trong tâm trạng hoang mang lo sợ của họ. Phải làm sao bây giờ? Đâu là ý nghĩa cuộc đời? Chúa Giêsu đã cho họ những hướng dẫn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.

Thầy là đường

“Nếu Tin Mừng là mạc khải sự thật rằng đời sống con người là cuộc lữ hành về nhà Cha, thì Tin Mừng cũng đồng thời là tiếng gọi tới đức tin cho phép ta lên đường như những lữ khách. Tin Mừng đòi ta một niềm tin của kẻ lữ hành”.

Gerhard Frost đã dùng một ví dụ như sau: “Hãy tưởng tượng bạn đi bộ ngang qua nhà hàng xóm. Cả gia đình đang chất hành lý lên xe hơi để đi nghỉ hè. Họ có ba người con đều dưới năm tuổi đang ngồi trong xe mini-van nóng lòng chờ ba má hoàn tất mọi sự để lên đường. Bạn bước tới chiếc xe mini-van, thò đầu vào trong cửa sổ và hỏi: “Các cháu sẽ đi đến đâu?” Chúng chẳng biết gì! “Các cháu sẽ lấy xa lộ nào?” “Tối nay, các cháu sẽ ăn cơm ở đâu?” Chúng cũng chẳng biết! Nhưng nếu bạn hỏi: “Các cháu sẽ đi với ai?” Các bé reo lên: “À, với ba mẹ!”

Các em bé không biết chính xác là đi đâu, không biết cả đường đi, cũng không biết sẽ ăn uống ngủ nghỉ ở đâu, nhưng biết chắc chắn rằng mình sẽ đi với ai. Niềm tin tưởng vào ba má là tất cả vấn đề. Ba má sẽ săn sóc, dẫn đưa các bé đi tới nơi tới chốn bình an.

Thiên Chúa cũng không trả lời tất cả các câu hỏi, các chi tiết hay thắc mắc về điều gì sẽ xảy ra, nhưng Người ban cho chúng ta chính Con Một của Người, Đức Giêsu Kitô, vừa là người hướng dẫn, vừa là con đường cho chúng ta đi. “Chúa Giêsu là con Thiên Chúa và cùng bản thể với Chúa Cha. Là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Ngài đã làm người để trở nên con đường dẫn ta về với Cha.

 

71. Sự thật

Giáo chủ Môhamét tự nhận mình là một người tội lỗi. Đức Phật Thích ca từ chối bất cứ sự tôn kính cá nhân nào dành cho ngài. Abraham và Môsê thà chết chứ không để ai coi mình là thần linh. Chỉ có một mình Đức Giêsu Kitô dám tự xưng: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.

Người dân Hebrides ở quần đảo phía tây Scotland, có một huyền thoại về một vị thần biển rất thích bắt trẻ em của loài người để nuôi. Vị thần biển này thường đi tìm kiếm trẻ em trên những con tàu qua lại trên biển từ đảo này sang đảo khác. Vào một dịp, vị thần này nổi lên đuổi theo chiếc tàu nhỏ chở hành khách trong đó có một em bé trai. Tuy nhiên, con tàu đã cập bến kịp thời. Khi người ta đưa em lên đất liền, vị thần biển đã gửi đi một làn sóng nhỏ đuổi theo, chạy thẳng vào trái tim của em bé trai. Lúc đó vị thần biển đã hơi thất vọng vì không bắt ngay được em bé, nên phải núp dưới những làn sóng và người ta nghe có tiếng phán rằng: “Đứa trẻ này sẽ trở về với ta vì ta đã đặt một phần bản thân ta vào trong trái tim của nó”.

Nhiều năm sau, dân làng trên đảo đã ngạc nhiên khi thấy, vào một ngày, có một chàng thanh niên mạnh khỏe bước xuống chiếc thuyền chèo, nhưng anh lại không bơi thuyền hướng về một hòn đảo khác, mà chèo ra biển khơi mênh mông. Dân làng đồng thanh kêu gọi lớn tiếng: “Không có hòn đảo nào về hướng đó cả”. Nhưng anh vẫn cứ chèo, và khi trôi ra thật xa ngoài biển khơi, họ trông thấy anh nhào xuống nước trở về với thần biển là người đã đặt một phần bản thân mình vào trong trái tim của em bé trai khi nó còn nhỏ.

Huyền thoại này nói về ý nghĩa của mầu nhiệm sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa tạo dựng nên nhân loại, Người cũng đặt một phần thần tính của Người, linh hồn vĩnh cửu, vào trong trái tim của chúng ta. Và Người khao khát chờ đợi chúng ta trở về với nguồn mạch của sự sống vĩnh cửu đó. Đây là sự thật được mạc khải bởi Con Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc chúng ta, Đức Giêsu Kitô. “Nơi Chúa Giêsu Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, để chúng ta được thông phần vào bản tính thần linh”. Bởi vì Con Thiên Chúa làm người để chúng ta làm Thiên Chúa”.

Văn sĩ Kitô giáo, C.S. Lewis đã nói: “Kitô giáo là một bản tuyên bố. Nếu sai, thì nó không quan trọng, và nếu nó đúng, thì nó quan trọng vô cùng. Nhưng chắc chắn một điều là nó không thể nào ít quan trọng”.

 

72. Sự sống

Ngày 20.4.1999 hai em học sinh da trắng đã bắn vào trường trung học Columbine ở Colorado gây nên cái chết bi thảm cho 12 học sinh, một thầy giáo và nhiều học sinh khác bị thương. Nguyên nhân sâu xa gây nên cái chết bi thảm này, theo tôi, là việc hai em thiếu niên này đã tham gia vào tổ chức của Satan, đảng viên Đức Quốc xã. Chúng đã từ chối niềm tin vào Thiên Chúa và Đức Kitô “là đường, sự thật và sự sống”. Thay vì kiếm tìm sự sống, họ đã chọn lựa cái chết. Một trong những câu chuyện được báo chí tường thuật lại, đó là câu chuyện của cô Cassie Bernall, một trong 33 nạn nhân của cuộc đổ máu bi thảm này.

Khi bước vào tuổi thiếu nữ, cô Cassie đã trải qua những cơn khủng hoảng của niềm tin. Cô đã phải phân vân chọn lựa Chúa Giêsu hay Satan. Thoạt tiên, cô đã chọn Satan. Cô thường hội nhóm cầu cơ và có một cái nhìn rất bi quan về cuộc sống, do đó, cô đã có ý định tự tử. Cha mẹ đã đưa cô tới gặp gỡ và trao đổi với vị lãnh đạo tinh thần. Nhưng sau cùng chính ông cũng lắc đầu và nói: “Hết hy vọng gì đối với đứa con gái này!” Nhưng Chúa Giêsu đã có chương trình cứu rỗi của Người.

Vài tuần sau đó, cô Cassie đi vào nhà thờ và nói rằng: “Mục sư sẽ không bao giờ tin được điều gì đã xảy ra!” Chúa Giêsu đã tìm được con chiên lạc, và cô Cassie đã gặp được Đức Kitô một cách rất cá nhân và mật thiết. Chỉ một tuần lễ trước khi chết, cô đã đến nói chuyện với giới trẻ về ý định của cô là “muốn trở thành một gương mẫu cho những người vô tín ngưỡng và cho cả những người Kitô hữu nữa”. Cùng với nhóm trẻ, cô tham gia những việc bác ái từ thiện, tình nguyện giúp đỡ những người nghèo, vô gia cư trong các trung tâm. Cô đưa Thánh Kinh đến nhà trường và đọc mỗi ngày.

Vào ngày định mệnh xảy ra, cô đang ngồi thinh lặng đọc Thánh Kinh trong thư viện. Hai tên sát nhân tông cửa chạy vào. Những em học sinh khác núp xuống dưới gầm bàn của thư viện. Một tên sát nhân tiến ngay đến chỗ cô ngồi và hỏi: “Cô tin vào Thiên Chúa hả?” Các em học sinh núp dưới gầm bàn nghe lén được câu chuyện kể lại. Với một giọng quả quyết và nhẹ nhàng, cô trả lời: “Phải, tôi tin vào Thiên Chúa”. Sau đó tên sát nhân, kẻ chọn chủ nghĩa Satan và Đức Quốc xã, đã chĩa súng, và nã đạn vào đầu cô. Cô gục xuống tại chỗ. Sau khi cô chết, Chris, người anh cả của Cassie đã tìm thấy một miếng giấy trên bàn học ghi lại những lời sau đây:

“Giờ đây tôi đã từ bỏ tất cả mọi sự. Tôi đã tìm thấy con đường duy nhất để biết Đức Kitô và cảm nghiệm về Đấng quyền năng. Con đường đó đã mang Người trở lại đời sống của tôi. Và giúp tìm ra ý nghĩa để cùng chịu đau khổ và cùng chết với Người. Do đó, dù bất kỳ sự gì xảy ra, tôi sẽ là một con người sống trong đời sống mới của những người sống lại từ cõi chết”.

Khi chọn Chúa Giêsu Kitô là đường, sự thật và sự sống, cô Cassie đã yêu Chúa cho đến cùng, dù phải trả giá bằng chính sự sống của mình. Tình yêu là động lực thúc đẩy con người dám hy sinh tất cả cho Đức Kitô, bởi “yêu chân lý là yêu Chúa Kitô”. Chị thánh Têrêsa hài Đồng Giêsu cũng đã nói: “Chỉ qua tình yêu chúng ta mới có thể làm vui lòng Thiên Chúa, và điều ước muốn duy nhất của tôi là có được tình yêu này”.

 

73. Chúa Nhật 5 Phục Sinh

TRONG ĐẤNG PHỤC SINH MỌI SỰ ĐANG ĐƯỢC ĐỔI MỚI VÀ NÂNG LÊN

Dẫn nhập đầu lễ:

Kính thưa cộng đoàn,

Sứ điệp phụng vụ của Chúa Nhật V PS nầy có nội dung cốt lõi đó là: Đức Kitô phục sinh chính là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”, là Đấng đang qui tụ chúng ta thành Dân Mới, Dân Tư Tế vương giả, để dẫn chúng ta tiến bước về với Chúa Cha. Chính trong ý nghĩa nầy, mà hôm nay, trong Thánh lễ nầy, một lần nữa chúng ta tuyên xưng: “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô” mà chúng ta tìm được con đường chính thật để bước đi trong cuộc đời, tìm thấy chân lý đúng nghĩa để chiếu rọi ý nghĩa cuối cùng vào kiếp nhân sinh, và gặp được sự sống đích thực để sống trọn vẹn ý nghĩa hôm nay và hy vọng nơi cuộc sống vĩnh hằng. Con đường ấy, chân lý ấy và sự sống thần linh ấy đang hiện thực trong chính mầu nhiệm hiệp thông của Hội Thánh, trong chính thánh lễ mà chúng ta đang cử hành. (Hôm nay, cũng là ngày chính thức Đăng Quang khai mạc sứ vụ Mục Tử trên Ngai Tòa Phêrô của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Chúng ta hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho Đức Thánh Cha mới vừa đắc cử được dồi dào nghị lực và khôn ngoan, thánh thiện và trung thành để dẫn dắt Dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian).

Để xứng đáng cử hành Thánh Lễ và đón nhận muôn ơn lành, chúng ta hãy lấy lòng sám hối đón nhận nước Thánh như là dấu chỉ của cuộc tái sinh để được gia nhập vào Đoàn Dân Thánh, Dân Tư Tế vương giả của Thiên Chúa.

Giảng Lời Chúa:

Đứng trước những tai nạn thảm khốc xảy đến hằng ngày trên thế giới; động đất, sóng thần, bảo lụt…, những chiến tranh bạo lực mang theo tàn phá và chết chóc, những dịch bệnh ùa vào trần gian để cướp đi sự sống của bao người…quả thật, có quá nhiều những khoảnh khắc, những phút giây, những ngày tháng để con người chìm trong nổi đau và thất vọng, buồn nản và khổ sầu…Thế nhưng, đó không là tất cả thế giới, không là mọi mặt của cuộc đời. Nói cách khác, đó chỉ là “mặt trái của cuộc sống”, một mặt trái mà theo định nghĩa của một câu ngạn ngữ Trung Hoa, chỉ là “một cây đổ ồn ào”, không thể sánh bằng ở bên kia ngọn đồi “một cánh rừng đang mọc”. (Một cây đổ thì ồn ào hơn là một cánh rừng đang mọc). Cũng chính trong cái nhìn đó, mà một tờ báo ở luân Đôn vào năm 1912, sau biến cố tai nạn thảm khốc của vụ đắm tàu Titanic, đã trình bay hai bức hí họa: Một bức vẽ chiếc tàu Titanic đụng phải tảng băng sơn cao ngất với hàng chữ: “Sức mạnh của thiên nhiên và sự yếu đuối của con người”. trong khi đó, bức tranh thứ hai, vẽ người đàn ông trao chiếc phao cấp cứu cho một người đàn bà đang bồng đứa con thơ, với hàng chữ: “Sức mạnh của con người và sự yếu đuối của thiên nhiên”.

Cũng y như thế. Vào buổi chiều thê lương Ngày Thứ Sáu trên ngọn đồi Núi Sọ ở Giêrusalem, trong lòng các tư tế, các Tông Đồ, các người bạn của Thầy Giêsu, tất cả chỉ là một bóng tối của sụp đổ tan tành, của nổi buồn sinh ly tử biệt, của một tương lai chìm sâu trong bóng tối mịt mù…Trong khi đó, Tin Mừng đã kể lại: người kẻ trộm bị đóng đinh bên tay phải Chúa Giêsu lại đang nhìn thấy “ở bên kia ngọn đồi thập giá” là “một cánh rừng đang mọc”, một “Vương quốc của sự sống đang mở ra, một niềm hy vọng đang dâng trào”: “Hôm nay, nếu Ngài vào Vương Quốc của Ngài xin nhớ đến tôi”.

Phải chăng sứ điệp Lời Chúa hôm nay cũng muốn khơi gợi lên trong chúng ta cái nhìn, và nhất là, sự thực hành đức tin, trong cung cách sinh động, lạc quan, tin tưởng và tràn trề hy vọng trên nẽo đường của Đấng Phục Sinh, cho dù phải đối mặt từng ngày, từng giờ với bao nổi oái ăm của cuộc sống.

  1. Trong quỹ đạo của Đức Kitô mọi sự được nâng lên:

Trước khi dấn thân vào cuộc khổ nạn, Đức Kitô đã tuyên bố: “Khi Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta”. Thật ra, không đợi đến khi “Ngài bị treo lên” Ngài mới lôi kéo con người “lên với Ngài”; mà qua Tin mừng, chúng ta đã thấy, Ngài đã kéo nhân loại lên với Ngài khi Ngài vừa “nhập thể vào đời”: Ngài đã làm cho đôi chân bé bỏng của người thôn nữ Maria băng ngàn vượt suối mang Tin Mừng Nhập Thể báo cho người chị họ Isave. Người đã làm cho Gioan Tiền Hô, nhãy cửng lên vui mừng trong lòng mẹ khi được Ngài viếng thăm…Rồi Người đã kéo đám mục đồng ở Bê Lem khỏi giấc ngủ triền miên để bừng dậy trong nổi vui ngút ngàn được gặp hài Nhi Cứu Thế và đã lôi kéo Ba Vua Phương Đông lẽo đẽo qua muôn dặm đường trường để theo dấu sao lạ về chiêm bái Vua trời…Và rồi sau đó, những kẻ mù què điếc câm, những người thu thuế bị kết án khinh khi, những cô gái điếm sống vật vờ vất vưởng bên lề đời, những người phung cùi bất hạnh trong hoang mạc cách ly…tất cả đã được “Ngài kéo lên với Ngài” để mĩm cười sung sướng vì được chữa lành, vì được yêu thương, vì được hoán cải, đổi đời. Ngài đã kéo những mảnh đời tưởng đâu đã chôn sâu trong lòng đất lạnh như con trai của bà góa ở Naim, như chàng thanh niên Lagiarô ở Bêtania…đã ngẩng mặt lên rạng rỡ với bình minh cuộc sống…Trong cái nhìn của Đức Kitô, mọi hành vi tưởng chừng vụn vặt, tầm thường như Giakê thập thò trèo lên cây sung đón đợi đã trở thành cơ duyên gặp gỡ, việc xức dầu của Maria ở Bêtania đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, những đồng xu bé nhỏ của một bà góa nghèo đã trở nên kho tàng vô giá, và những trẻ em bé bỏng dại khờ đã trở nên những”khách quí danh dự và xứng đáng đầu tiên trong bàn tiệc Nước trời”

Vì là “Đường, Sự Thật, Sự Sống”, quả thật Đức Kitô đã đem đến cho chúng ta một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời: Kẻ nghèo hèn không phải bị bỏ đi mà là “được chúc phúc”, nước mắt khóc than không còn là bất hạnh phải tránh né mà là dấu chỉ để được phúc ủi an”…Cuộc sống lam lủ khó nghèo không còn là kiếp đọa đầy ô nhục mà đã trở thành “bài trường ca của khiêm hạ yêu thương trên giai điệu của thánh gia Nadarét”.

Đức Kitô đã kéo mọi sự lên với Ngài bởi vì “Ngài là “Đường, Sự Thật, Sự sống”. Ngài đã làm cho cuộc hành trình buồn thảm về Emmaus của hai môn đệ năm nào trở nên cuộc hội ngộ đầy tin yêu hy vọng, Ngài đã biến quán trọ Emmaus tưởng chừng vắng lạnh với hoàng hôn ly biệt đã bừng lên như bữa tiệc hoan vui, và bữa điểm tâm giản đơn trên bờ hồ Tibêriát thuở nào đã trở thành “lễ hội Phục sinh” cho những ai qui tụ xung quanh Ngài tìm được sức trẻ để ra đi buông lưới.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cũng nói với chúng ta rằng: trong Đức Kitô phục sinh, mọi sự đã được phục hồi, cho dù đó là một “mặt trái” với đầy oái ăm bi đát. Bi đát như cuộc thương khó thập Giá của Ngài đã trở thành hy lễ tình yêu và phương thế cứu chuộc, bi đát như cuộc đời đáng tủi hổ của Maria Mađalêna, của Matthêô, của Agustinô, của … đã trở nên nhân chứng của Tin mừng. Quả thật “phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở nên viên đá góc tường” là như thế!

  1. Trên con đường của Đức Kitô hôm nay:

Là những môn sinh của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi hãy can đảm nhìn thẳng vào cuộc đời và con người trong chính đôi mắt ấy, trong chính cái nhìn của Đức Kitô, của tin Mừng cứu độ. Chính vì thế, mà Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong suốt cuộc hành trình Mục tử của Ngài đã không ngừng dạy bảo chúng ta “đừng sợ hải đón nhận Đức Kitô vào cuộc sống, đừng bỏ cuộc trong cuộc phiêu lưu tìm kiếm Đức Kitô”.

Nếu Đức Kitô thật sự là Đường dành cho tôi, thì cuộc sống của tôi, của gia đình tôi hôm nay sẽ thế nào đây? Tham lam ích kỷ, ghen ghét hẹp hòi…hay rộng rải quảng đại khoan dung? Nếu Đức Kitô thật sự là Đường, thì tôi có đủ can đảm dấn thân theo những đòi hỏi của Tin mừng Tám Mối, của Giới luật yêu thương hay cứ mãi rẽ sang lối khác để đi theo cái tôi tôi đầy dục vọng đam mê thấp hèn của mình? Nếu Đức Kitô là Đường dẫn tới Chúa Cha, thì liệu tôi có còn hăm hở đọc và lắng nghe Lời Chúa, sốt sắng mỗi ngày tìm kiếm thánh ý Chúa qua kinh nguyện và hy sinh… hay đang đóng chặt cõi lòng và con tim về phía của Thiên Chúa, về phía Giáo Hội, để mở sang các kênh khác đầy hấp dẫn của hưởng thụ, bạc tiền, danh vọng và những hào nhoáng khác?

Nếu Đức Kitô là Sự Thật, Sự Sống, thì cuộc sống của vợ chồng, con cái, của ông bà cha mẹ trong gia đình Kitô hữu hôm nay liệu có biến đổi gì không? Là một hỏa ngục của ghen ghét hận thù, tham lam dối trá…hay là một tổ ấm, là cái nôi để mọi nhân vị được lớn lên và phát triển? Cuộc sống trong tương quan xã hội cứ phải bon chen gian lận, mạnh được yếu thua may nhờ rủi chịu…hay mỗi ngày phải được chuyển biến để sự thiện, sự lành thay cho gian ác, để ngay chính thay cho dối gian, để bác ái yêu thương thay ghét ghen đố kỵ!

Nếu Đức kitô là Đường, Sự Thật, Sự Sống, thì thánh lễ tái diễn Hy Tế Thập Giá của Ngài được cử hành mỗi ngày có còn là một “bữa tiệc hấp dẫn tôi đến dự thường xuuyên với con tim trân trọng sốt mến, hay chỉ là một cử hành nhàm chán bất đắc dĩ phải tới tham quan? Tòa Giải tội có còn là nơi để tôi nhận được chiếc áo mới của lòng Cha tha thứ mặc cho hay chỉ là một “của nợ” cũng đành “kéo gai qua trổ” cho khỏi bị mang tiếng là vô đạo?…

Quả thật, trên con Đường của Đức Kitô hôm nay, chúng ta lại phải bắt đầu. Bởi vì, như lời Đức Cố Giáo Hoàng G.P.II nói với giới trẻ năm 1988: “Khám phá Đức Kitô là một cuộc phiêu lưu đẹp nhất đời chúng con. Nhưng khám phá ra Ngài một lần mà thôi thì không đủ. Mỗi khám phá người ta có về Người lại trở thành một lời mời gọi kiếm tìm Người hơn nữa…”. Chính thái độ khao khát của Tôma, của Philipphê trong Tin Mừng hôm nay đã nhắc bảo chúng ta hãy lên đường khám phá Đức Kitô, đến gần Đức Kitô, học biết và yêu mến Đức Kitô nhiều hơn nữa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?”…”Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thì chúng con mãn nguyện”.

Và chúng ta đừng quên: sự khám phá Đức Kitô để tiếp tục tiến bước trên con đường của Ngài không phải là những chuyện “chọc trời khuấy nước”, những công trình vĩ đại lớn lao, những hy sinh hảm mình của những bậc tu trì đạt đạo, những suy niệm thần bí cao siêu… mà cốt yếu là những hành vi ứng xử bình thường trong cuộc sống mỗi ngày, những hy sinh thầm lặng, những việc phục vụ âm thầm, những chiến đấu và chiến thắng tính hư tật xấu với cái tôi, những tràng hạt mân côi, những thánh lễ…Đó chính là những”mũi chỉ đuờng kim dệt nên tấm thảm họa hình Đức Kitô” mà trong lúc nhất thời, nhìn từ mặt trái, chúng ta sẽ không nhận ra cái nét đẹp tuyệt vời của “bức tranh tổng thể”.

Nếu Đức Kitô là “hạt Lúa Mì rơi xuống mãnh đất trần gian và đã mục nát đi qua cuộc tử nạn của Ngài” thì hôm nay, nhờ cuộc phục sinh vinh hiển, Ngài đã trở thành “Mùa Lúa Mới” mà Hội Thánh chính là hiện thực. Và rồi để có được một Hội Thánh như hôm nay, một Đền thờ vĩ đại, một “Cây Tùng Vạn cổ tỏa bóng khắp địa cầu, đã có bao nhiêu máu xương và nước mắt, hy sinh và nguyện cầu, những anh chị em Kitô hữu đã chọn và đã đi trên con đường của Đức Kitô. Quả thật họ là “những viên đá sống trong Ngôi Đền thờ thiêng liêng”. Hội Thánh đó, Ngôi Đền thờ thiêng liêng đó lại đang có tôi, có chị, có anh tiếp tục được mời gọi đóng góp phần mình để mỗi ngày mỗi tráng lệ hơn, khang trang hơn, vững chắc hơn…

Chúng ta có thể kết thúc bài chia sẻ hôm nay bằng một đoàn thơ cầu nguyện của Charles Singer, (La Cathédrale de ma vie) khi ông ví cuộc đời mình chính là một “Ngôi Thánh Đường” mà ông phải cần cù đẽo gọt suốt bao năm tháng.

Lạy Chúa,

Ngôi Thánh Đường của đời con,

Không thể xong trong một sớm một chiều,

Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng,

Cùng với nhiều biến dạng của thời gian….

Thế nhưng, con mãi mãi vững tin vào sức mạnh,

Chẳng phải từ nơi con để vượt thắng giòng đời,

Mà tâm nguyện: chỉ nơi Ngài, lạy Chúa,

Ngôi Thánh Đường con sẽ tựa trung kiên,

Để trụ vững giữa đảo điên nhân thế,

Để hiên ngang đứng giữa bể dâu đời.

Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả,

Chính Ngài, con không quá lời đâu:

Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc,

Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con.

 

74. Như mẹ hiền và con thơ

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Người mẹ hiền không bao giờ an tâm khi phải xa lìa con yêu. Mẹ nào cũng muốn ôm ẵm vỗ về con thơ, nuôi con bằng dòng sữa tiết ra từ máu thịt mình, âu yếm con bằng những lời êm đềm thân ái, chăm sóc con trong từng chi tiết nhỏ và không bao giờ muốn lìa xa bé bao giờ.

Nếu có việc quan trọng phải xa nhà khá lâu, người mẹ không đành để con ở nhà, e rằng phải quay quắt nhớ con… thế nên, bà phải ẵm con theo mình, dù phải vượt qua muôn dặm đường xa, để mẹ ở đâu thì con cũng ở đó.

Chúa Giê-su cũng gắn bó mật thiết với đoàn con của Ngài như vậy. Ngài muốn Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó. Ngài mong muốn sống cùng, sống với… đoàn con thân yêu mọi lúc, mọi nơi. Ước vọng “ở với, ở cùng, ở lại…” với chúng ta được Chúa Giê-su bày tỏ nhiều lần qua Tin mừng.

– Khi cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng Con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con…[1]”, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Ngài muốn sống gắn bó mật thiết với đoàn con mà Chúa Cha đã trao cho Ngài.

– Khi sắp từ giã các môn đệ để nộp mình chịu tử nạn, Chúa Giê-su an ủi các ông rằng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở … Thầy đi dọn chỗ cho anh em…. Thầy sẽ lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. (Ga 14,1-3).

– Rồi khi tạm biệt các môn đệ để về Trời, Chúa Giê-su cũng hứa với các ông: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

– Và để thể hiện lời hứa ở cùng các môn đệ mọi ngày, Chúa Giê-su lập nên bí tích Thánh thể, để tiếp tục ở với, sống với… đoàn con của Ngài trên dương gian. Nơi bí tích cực thánh này, có Chúa Giê-su toàn vẹn, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, đang thực sự hiện diện dưới hình tấm bánh[2] để ở với chúng ta và trao ban chính mình Ngài cho chúng ta.

Thế là Chúa Giê-su sống đúng với danh hiệu của mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài sống mật thiết với đoàn con như hình với bóng, như mẹ hiền ấp ủ con thơ, luôn luôn gắn bó bền chặt với nhau trong tình thương mến.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa muốn sống gắn bó mật thiết với chúng con, thế mà nhiều lúc trong đời, chúng con không tưởng gì đến Chúa, để mặc Chúa thui thủi một mình trong nhà chầu bé nhỏ với ngọn đèn hắt hiu.

Chúa muốn ấp ủ chúng con như mẹ hiền bồng ẵm con thơ, nhưng chúng con muốn tách lìa xa Chúa để được tự do sống theo đam mê, dục vọng của mình.

Xin cho chúng con đừng bội bạc với tình thương Chúa, nhưng biết sống gắn bó mật thiết với Chúa qua từng phút sống mỗi ngày. Amen.

 

75. Hãy tìm một chỗ trong trái tim Chúa

Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta cơ hội tốt để kiểm tra lại tình hình giáo hội địa phương. Các bài đọc công vụ mùa Phục sinh gây ấn tượng Hội thánh tiên khởi có sự đoàn kết chặt chẽ và vững bền, nhờ đức tin vào Chúa Kitô sống lại. Nhưng thực tế chúng ta không luôn cảm nghiệm như vậy ở các Hội thánh địa phương. Thường xảy ra những tranh cãi lớn nhỏ. Trên bình diện quốc gia và quốc tế cũng vậy, luôn có đe doạ chia rẽ về nhiều vấn đề. Thí dụ, những năm cuối đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tiếng nói đòi ngài từ chức không phải là hiếm, có những lúc tưởng như đổ vỡ. Hiện nay ở giáo phận tôi phục vụ, các trường công giáo đang là một vấn đề. Kẻ đòi đóng cửa vài trường vì không đủ kinh phí, người khác đề nghị đầu tư thêm. Cuộc tranh cãi có lúc bùng nổ lớn, lan đến các phương tiện truyền thông xã hội. Không hiểu tháng 9 tới đây (mùa khai trường) vụ việc sẽ được quyết định ra sao? Hiện thời thì chưa ngã ngũ. Lại còn việc các giáo sỹ gây gương xấu, trách nhiệm của các vị lãnh đạo giáo phận đến đâu Ai buộc phải từ nhiệm, ai không?

Trước sự lớn mạnh và nhiệt thành của giáo đoàn tiên khởi, hình như sách công vụ tông đồ chỉ chú ý ghi lại phần tích cực, bỏ qua những tiêu cực, cho nên chúng ta nghĩ rằng mình kém cỏi hơn các vị tiền bối trong đức tin. So sánh với Hội thánh tiên khởi, các Giáo hội hiện thời luôn phải đối mặt với nhiều sa sút, chia rẽ. Vì vậy, hình như chúng ta không được “chính thống” như các tín hữu đầu tiên. Đó là cảm nghiệm chung mọi người đều thấy được. Tuy nhiên, bài đọc 1 hôm nay không củng cố quan điểm đó, ngược lại nó cho thấy các tín hữu cũng có những “khó khăn” riêng: Số là khi cộng đồng thêm đông, các tín hữu gốc Do thái nhưng nói tiếng Hy lạp cảm thấy bị thiệt thòi vì các goá phụ của họ không được anh em đồng đạo Do thái chính gốc đối xử cộng bằng. Sách Công vụ kể: “Thời đó các môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do thái theo văn hoá Hy lạp kêu trách những tín hữu Do thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.” Rõ ràng giáo đoàn tín hữu đã gặp sự khác biệt về sắc tộc và bất bình đẳng trong các thành phần cộng đoàn. Dấu chỉ hợp nhất chứng minh Chúa phục sinh đang hiện diện không còn chặt chẽ nữa. Tuy lúc đầu, sách công vụ kể cộng đoàn làm chứng mạnh mẽ Chúa đã phục sinh bằng dấu chỉ họ yêu thương, đoàn kết với nhau khăng khít. Nhưng bây giờ chủ nghĩa thiên tư đã để lộ chân tướng. Họ cố tình bỏ quên những kẻ thấp cổ bé miệng trong cộng đoàn. Đây cũng là thách đố của chúng ta hôm nay. Khi đọc đoạn Kinh Thánh này, chúng ta nên thành thực với ơn Chúa Thánh Thần, loại trừ khỏi tâm hồn thói giả hình giả điệu, dấu diếm những lỗi lầm, làm ra vẻ là môn đệ Chúa, nhưng thực tế lòng đầy gian tham, ghen tỵ và loại trừ lẫn nhau. Hãy noi gương giáo đoàn tiên khởi, giải quyết các khó khăn trong ơn Chúa và sự thật. Duy chỉ sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi chia rẽ. Lấp liếm không phải là cách giải quyết tốt. Cứ như tông đồ công vụ thuật lại thì toàn bộ giáo hữu tụ họp, không thấy kể có ai vắng mặt. Họ cùng bàn bạc và nhất trí chọn ra 12 thanh niên Do thái gốc Hy lạp, đầy Thánh thần. Các tông đồ đặt tay trên họ để thành lập một nhóm riêng, có nhiệm vụ trông coi vật chất cho cộng đoàn. Chẳng bao lâu sau, người ta thấy nhóm này cũng đi rao giảng Lời Chúa như Stêphanô ở Giêrusalem, Philiphê ở Samaria. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính yếu của họ là giúp đỡ các tông đồ, phân phát nhu cầu vật chất cho những người thiếu thốn. Hôm nay trước bàn thờ thánh thể, chúng ta cùng cầu xin cho chúng ta ý thức được nhiệm vụ chính yếu của mình là rao giảng Lời Chúa, săn sóc những người thiếu thốn, yếu đau, bệnh tật và đừng tìm kiếm thanh danh, lợi lộc riêng tư.

Bài Phúc âm trích diễn từ cuối cùng của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly. Bối cảnh là sau biến cố rửa chân, Chúa Giêsu loan báo Giuđa phản bội. Các môn đệ nhìn nhau bối rối, rồi chuyển sang hoang mang về tương lai. Chúa Giêsu trấn an các ông: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi.” Các tông đồ hoang mang vì khi Chúa ra đi rồi các ông sẽ rơi vào hoàn cảnh như rắn mất đầu, con cái không cha mẹ, đạo binh không tướng lãnh. Họ biết chống đỡ ra sao với các thế lực thù địch, nhất là với quyền bính đền thờ đang tìm cơ hội để tiêu diệt họ? Đúng là họ sẽ gặp nhiều khó khăn nếu vắng bóng Chúa Giêsu giữa họ. Ngày nay cũng vậy, Hội thánh sẽ vô cùng lo sợ nếu Chúa không hiện diện để nâng đờ hằng ngày. Bởi kẻ thù của mình, đứng đầu là Satan, luôn chờ cơ hội để quấy phá và nếu có thể được thì tiêu diệt luôn. Đức Thánh cha, hàng giáo phẩm, những vị có trách nhiệm đều cảm thấy được như vậy. Cho nên, năm 1978, khi vừa đắc cử giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã phải tuyên bố ngay trước giáo dân tại quảng trường thánh Phêrô: “Anh chị em đừng sợ!” Một lời bảo đảm vững chắc nhưng bao hàm tình hình quá ư bấp bênh, đầy nguy hiểm. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ về thái độ của Chúa Giêsu đối với các môn đệ đang sợ sệt. Ngài nói nhiều về Chúa Cha: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”(c 2). Ngài là đường dẫn đến Chúa Cha (c 4). Xem thấy Thầy là xem thấy Cha (c 7). Những lời ngài giảng dạy, các việc ngài làm là của Chúa Cha (c 10). Tất cả những nội dung đó bảo đảm Ngài luôn ở với các môn đệ và Hội thánh. Ngài không để chúng ta một mình bơi qua biển đời trần gian, chống chọi với phong ba bão táp của hoả ngục. Đến đây, xin liên tưởng tới trường hợp của Phêrô đi trên biển vào ban đêm để đến với Ngài (Mt 15, 22), hay mẻ cá lạ lùng sau một đêm làm vịêc luống công (Ga 21, 3).

Lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” bao hàm nhiều chân lý khác nữa và đối với các môn đệ, chúng hợp thành nền tảng đức tin của họ vào Ngài. Ngài thực sự là con đường để các môn đệ đến với Chúa Cha, thay vì những tục lệ của các lãnh đạo tôn giáo áp đặt trong việc tuân thủ lề luật, thì chỉ cần tin vào Chúa Kitô. Ngài chính là con đường để mọi người được cứu độ. Ngoài Ngài ra không có con đường nào khác nữa. Tin vào Chúa Giêsu, chúng ta được hưởng tràn đầy thánh nhan Thiên Chúa. (Tôi và Cha tôi là một). Ai thấy Chúa Con thì cũng thấy Chúa Cha (Ga 6, 16). Ngoài ra, Ngài là con đường yêu thương đưa đến sự sống. Cho nên, muốn học biết yêu thương thì phải học với Ngài, chứ không bày ra những tưởng tượng rồi gọi đó là yêu thương. Yêu mến Chúa Giêsu là tuân giữ các giới răn của Ngài. Yêu thương nhân loại là làm gương lành gương sáng cho họ, lôi kéo họ về với tình thương của Thiên Chúa. Như vậy, Ngài đích thực là con đường chúng ta tin cậy. Con đường duy nhất mặc khải cho chúng ta biết về bản tính Thiên Chúa. Chúng ta vững lòng tin theo khi Ngài rao giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa, về sự tha thứ Người ban cho những linh hồn sám hồn. Nếu ai đó rêu rao về một Thiên Chúa trả thù, oán giận, hằn học, chúng ta có thể bỏ ngoài tai. Chúa Giêsu chính là chân lý về Chúa Cha. Sống theo như Ngài đã sống dẫn đưa nhân loại đến thể hiện hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa. Do đó, nếu chúng ta mường tượng ra một lối sống khác, kỳ quặc thì đấy là lối sống của ma quỷ. Tai hại thay, thiên hạ thường cỗ võ lối sống này, rồi hô là văn minh, hợp thời đại, không bị tụt hậu, hay nói nhẹ nhàng hơn “nhân bản”. Tôi nhớ cha Bernard Pro O.P. phát biểu một câu chí lý: “Dieu seul est humain – Chỉ một mình Đức Chúa là nhân bản”, còn loài người dù sống tốt thế nào đi nữa cũng vương mùi tục luỵ. Cho nên, đừng kiêu ngạo, tự hào mình “nhân bản” hơn Thiên Chúa. Con đường của Chúa là nhân bản tối thượng.

Chúng ta không có khả năng tự thân sống theo cuộc sống của Chúa Giêsu, cũng chẳng tự sức lấy Ngài làm gương mẫu. Đúng hơn, Ngài là “sự sống” của mỗi người. Chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào ơn Ngài để có thể sống như Ngài. Đây là chân lý nền tảng của cuộc đời tinh thần. Chúng ta phải ghi nhớ luôn, kẻo sai lầm, sống theo khả năng riêng, xa rời giới răn của Chúa Giêsu. Từ đó, sinh ra tự phụ về đàng thiêng liêng. Chúa Giêsu là nguyên lý của sự sống siêu nhiên, chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để có thể sống tốt. Ngoài ơn Ngài ra là sống sai lầm. Sống buông thả theo dục vọng của mình thì thế nào gọi là có ơn Chúa hướng dẫn? Khi Ngài tuyên bố với các môn đệ: “Thầy về cùng Thiên Chúa Cha” tức thời các môn đệ nhớ lại lời hứa của Ngài là Ngài sẽ trở lại mang họ cùng đi với Ngài: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, Thầy đi dọn chỗ cho anh em và Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy.” Trong khi chờ đợi Chúa thực hiện chân lý đó, chúng ta cần cầu xin Thần khí của Ngài gìn giữ mình trung thành với ơn nghĩa Chúa. Lễ Ngũ tuần đã gần kề, nhớ lại biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống chan hoà trên Giáo hội tiên khởi, chúng ta cũng mong ước biến cố này còn tiếp tục xảy ra trong hội thánh ngày nay, để Thần khí Chúa thúc đẩy mỗi tín hữu, ban cho mỗi người khả năng sống thánh thiện theo đời sống Chúa Kitô.

Trong các trường phổ thông cơ sở công giáo, đôi khi người ta tổ chức ngày họp mặt các cựu học sinh. Thường thì vài năm một lần. Đúng là một truyền thống tốt đẹp, đáng ghi nhớ. Mỗi lớp sẽ gửi thiếp mời đến các học sinh cũ của nhà trường, chỉ định ngày giờ. Mọi người hồi hộp đợi ngày trở về tổ ấm (homecoming), gồm cả những nhân vật thành đạt trên trường đời như tổng thống, thương gia, nghĩ sĩ, nghị viện, không loại trừ vô danh tiểu tốt. Trong thánh lễ tạ ơn, người ta chọn đọc bài phúc âm hôm nay. Đó là một chọn lựa khôn ngoan, bởi lẽ Chúa Giêsu tuyên bố Ngài đi là để dọn chỗ cho các môn đệ và Ngài sẽ trở lại mang họ theo. Phải chăng đây không phải là một sự trở về tổ ấm thực sự hay sao? Ý nghĩa thật sâu sắc! Những học sinh đã rời nhà trường tản lạc đi khắp ngả đông tây để kiếm sống, danh vọng, địa vị, tiền tài. Bao nhiêu thời giờ, nghị lực, tham vọng đã bỏ ra cùng muôn nỗi nhớ nhung ngôi trường cũ, bạn bè xưa. Nay được trở về sum hợp, đúng là cơ hội mừng vui. Những mối giàng buộc thân tình ngày xưa lại được làm cho sống lại. Ai nấy đều cảm thấy hạnh phúc, tạm thời gạt bỏ những khó nhọc vì công việc hằng ngày.

Có điều gì đó liên quan đến lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống” cho những cựu sinh viên, và cho toàn thể tín hữu, khi mà việc trở về họp mặt với Chúa Giêsu trong vương quốc ân sủng, trong hạnh phúc tuyệt vời. Bởi Ngài chính là tổ ấm của chúng ta. Những linh hồn đón nhận Ngài đều cảm nhận nơi Ngài có nhiều chỗ ở, không phải đợi tới đời sau mới được, mà ngay từ đời này. Chính cuộc sống của Ngài là địa chỉ họp mặt của tất cả chúng ta. Khi Ngài đồng bàn với các môn đệ không thấy đặt bảng hiệu chỉ rõ chỗ ngồi cho những chức sắc hay vị trí của những kẻ thân cận tri kỷ. Mọi người đều bình đẳng, không phân biệt nghèo khó, sang giàu, người thu thuế hay thợ chài lưới, Phêrô hay Gioan. Ngược lại, Ngài cung cấp chỗ nghỉ ngơi cho những ai gồng gánh nặng nề, ủi an những linh hồn đau khổ, phiền muộn. Tất cả đều được danh dự trước mặt Ngài, tìm thấy sự ấm cúng trong trái tim Ngài và được Cha Ngài yêu thương. Chẳng lạ gì mọi người dù tội lỗi đến đâu cũng được Ngài tiếp đón. Khi rao giảng Ngài luôn ban phát ơn lành cho những linh hồn gặp Ngài. Thí dụ, các phụ nữ nơi công cộng, Ngài chấp nhận họ như những môn đệ của mình, điều mà các thầy thông luật, các biệt phái từ chối. Nếu họ là những tội nhân, những người bị thần ô uế ám hại, các kẻ bị loại trừ vì lý do tôn giáo, các thân phận ngoài lề xã hội, chắc chắn họ tìm thấy nơi nương ẩn nơi lòng thương xót của Ngài, vì Ngài giải thích lề luật theo căn bản của nó, chứ không đặt thêm gánh nặng trên vai người có lỗi bằng các tập tục, các thói lệ của đời xưa, xa lìa ý định Thiên Chúa. Ngài là sự hiện diện của Thiên Chúa trước mặt các tội nhân. Vì vậy, người trộm lành được một nơi cư ngụ tốt đẹp trên thiên đàng. Chị phụ nữ ngoại tình được ơn tha thứ và bình an. Ngài ngỏ lời với tất cả các linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa: “Chúc mừng cuộc trở về tổ ấm nhà ta.”

Đúng vậy, Chúa Giêsu cung cấp mái ấm cho những ai lắng nghe và chấp nhận lời Thiên Chúa. Nội dung được gói ghém trong tuyên bố: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống”. Bất cứ những ai chấp nhận Ngài như vậy đều tìm thấy nơi cư ngụ trong trái tim Thiên Chúa, không sợ bị loại bỏ ra ngoài. Hãy để những thứ phù phiếm trôi vào quá khứ. Những tội lỗi, tham vọng, gánh nặng vào hư vô. Bởi chúng ta là con Thiên Chúa, chúng ta có thể cảm nghiệm Ngài như cha mẹ và Ngài ra đi để dọn chỗ cho chúng ta. Đức tin vào Chúa Giêsu như vậy là nơi cư ngụ của nhân loại. Ngài ban khả năng cho chúng ta sống tốt, làm điều thiện hảo. Nhờ đó, những kẻ còn ở xa có thể tìm thấy nơi ở vững bền. Những người yếu kém về kinh tế, xã hội tìm được sự nâng đỡ thăng tiến. Hôm nay, trước bàn thờ Thánh thể, buổi phụng vụ của chúng ta đúng lý phải là nơi cư ngụ quen thuộc cho hết thảy mọi người, thường xuyên dự lễ hay khô khan nguội lạnh. Nhưng thực tế không được như vậy. Có những kẻ còn bị loại trừ như di dân, ly dị, đồng tính luyến ái, con hoang, xì ke, ma tuý, trộm cướp, v. v. Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người tìm thấy chỗ ở trong trái tim Chúa. Xin Ngài củng cố chúng ta trong các hoạt động bác ái ngõ hầu Hội thánh, thế giới này trở thành mái ấm cho mọi linh hồn, không phân biệt già trẻ, trai gái, sắc tộc, trình độ, sang hèn. Chúng ta đợi trông Chúa Thánh Thần đổi mới mọi sự để trái đất này thực sự là mái ấm cho loài người cư ngụ. Bởi vì tự thân chúng ta chẳng thể thực hiện được ước mơ đó. Amen.

 

76. Chúa Nhật 5 Phục Sinh

(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh tập trung đề tài vào Giáo Hội.

Cv 6: 1-7

Bài Đọc I, trích từ sách Tông Đồ Công Vụ, cho chúng ta biết rằng Giáo Hội sáng tạo cơ cấu đầu tiên của mình: lập “nhóm Bảy Người” là một hình thức mới của công việc phục vụ.

1Pr 2: 4-9

Thánh Phê-rô viết rằng Giáo Hội đặt nền móng trên viên đá sống động là Đức Giêsu Kitô. Những người Ki-tô hữu cũng là những viên đá sống động, vì họ tiếp tục xây nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.

Ga 14: 1-12

Tin Mừng hôm nay là phần đầu bài diễn từ cáo biệt của Đức Giêsu với các môn đệ Ngài trong Tiệc Ly. Đức Giêsu giải thích cho họ biết nơi mà Ngài dẫn những người tin vào Ngài đi là nhà Cha của Ngài.

BÀI ĐỌC I (Cv 6: 1-7)

Bài Đọc I tường thuật một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của Giáo Hội tiên khởi: việc lập “nhóm Bảy Người” khác với “nhóm Mười Hai”. Giữa cộng đoàn Giêrusalem, bảy thành viên được chọn nhằm mục đích phụ giúp công việc với các Tông Đồ. Thánh Luca đưa ra hai lý do cho quyết định này: trước tiên, số các tín hữu ngày càng đông khiến cho các Tông đồ không thể nào đảm đương công việc điều hành cộng đoàn được. Thêm nữa, sự bất hòa giữa những “Kitô hữu Do thái bản địa” và những “Kitô hữu Do thái hải ngoại”.

Trong cộng đoàn Giêrusalem, có những Kitô hữu Do thái sinh trưởng ở Paléttin và nói tiếng Aram, và những Kitô hữu Do thái sinh trưởng ở hải ngoại, trở về định cư ở Giêrusalem và nói tiếng Hy-lạp. Ở Giê-ru-sa-lem có những hội đường, ở đó phụng vụ ngày sabát được cử hành bằng tiếng Hylạp, Kinh Thánh được sử dụng là bản Bảy Mươi, bản dịch Hy-ạp. Số người Kitô hữu Do thái hải ngoại này chắc chắn là thiểu số.

  1. Mối bất hòa

Chung chung người phụ nữ Do thái lập gia đình rất sớm và thường vẫn còn sống sau khi chồng đã qua đời. Vì thế, số lượng các bà góa có thể là khá đông. Bổn phận giúp đỡ các bà góa phát xuất từ lòng đạo đức truyền thống. Trong việc phân phát lương thực hằng ngày, những cuộc tranh cãi nổi lên giữa các bà góa: các bà góa thuộc khối Do thái hải ngoại nghĩ rằng mình không được quan tâm bằng các bà góa thuộc khối Do thái bản địa. Chính mối bất hòa này tạo cơ hội cho các Tông Đồ siêu thoát những bận lòng vật chất để “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”.

  1. Việc tuyển chọn Nhóm Bảy Người

Chính cộng đoàn chỉ định bảy người: “Họ chọn các ông… đưa các ông ra và giới thiệu với các Tông Đồ”. Các tiêu chuẩn để chọn lựa nhóm bảy người là “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan”. Nếu con số “Mười Hai” tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en (Mc 3: 14) thì con số “Bảy” được ấn định chắc chắn vì tính thánh thiêng và ý nghĩa viên mãn của nó, nhưng cũng có thể vì con số bảy tượng trưng cho bảy dân tộc ngoại giáo ở xứ Ca-na-an (Cv 13: 19). Như vậy, việc thiết lập nhóm Bảy Người nói lên hướng đi mới của Giáo Hội, đã đến lúc Giáo Hội và Tin Mừng Đức Ki-tô không còn bị giới hạn nơi những anh em Do thái, nhưng phải được phổ biến rộng rãi nơi các dân ngoại.

Dường như tất cả bảy cộng tác viên này được chọn giữa khối Ki-tô hữu Do thái hải ngoại, chắc chắn chủ yếu cốt là làm dịu đi sự bất đồng của khối này. Quả thật, tất cả tên của bảy cộng tác viên đều tên Hylạp. Dù thế nào, sự chọn lựa này chứng thực rằng cộng đoàn Giê-ru-sa-lem chấp nhận mở rộng mình ra hơn nữa với thế giới ngôn ngữ và văn hóa Hylạp. Thật đáng chú ý khi mà trong số bảy cộng tác viên, có một người tên là Nicôla quê Antiôkia, gốc dân ngoại, đã theo đạo Do thái, đoạn Kitô giáo. Ông là người Kitô hữu gốc dân ngoại đầu tiên đón nhận thừa tác vụ chính thức trong Giáo hội.

  1. Nghi thức đặt tay

“Sau khi cầu nguyện, các Tông đồ đặt tay trên các ông”. Việc đặt tay có nghĩa truyền đạt quyền hành hay phẩm chất đặc biệt. Trong đạo Do thái, nghi thức này đã được thực hành từ xa xưa. Ông Môsê đã đặt tay trên ông Giô-suê và “ông đã được đầy tràn thần khí khôn ngoan” (Đnl 34: 9). Để là thành viên Thượng Hội Đồng, phải được Thượng Tế đặt tay.

Việc đặt tay trên bảy cộng tác viên chứng thực rằng ngay từ đầu người ta thấy trước rằng công việc của họ sẽ không bị giới hạn ở nơi “việc phân phát lương thực hàng ngày”. Quả thật, sau đó vì nhu cầu mục vụ đòi hỏi, bảy cộng tác viên ấy cũng tham dự vào việc phục vụ Lời Chúa như các Tông Đồ; và rồi do hoàn cảnh bách hại, họ chạy trốn ra ngoài xứ Pa-lét-tin và trở thành những nhà truyền giáo đầu tiên.

  1. Nhiều tư tế đón nhận đức tin

Thánh Luca không bao giờ quên nhấn mạnh đức tin Kitô giáo phát triển rất nhanh, vì thế thánh ký nêu ra một số lượng lớn các tư tế Do thái đón nhận đức tin Ki-tô giáo. Chi tiết này rất quý báu vì nó giúp cho chúng ta hiểu biết hơn nỗi lo lắng của giáo quyền Giêrusalem và cuộc bách hại sắp giáng xuống trên cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, khởi đi với việc sát hại một trong bảy cộng tác viên là thánh Têphanô.

BÀI ĐỌC II (1Pr 2: 4-9)

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phêrô hôm nay, hòa hợp với hai bài đọc khác, nói với chúng ta về Giáo Hội, cơ cấu của Giáo Hội, sứ mạng của Giáo Hội và nền tảng của Giáo Hội là Đức Kitô.

Chúng ta nên nhớ rằng thư này được gởi đến cho những Kitô hữu đang chịu đau khổ, bị vu khống và ít nhiều bị loại bỏ. Vì thế, thánh Tông đồ nhắc họ nhớ rằng đức tin kiên vững đặt nền tảng trên Đức Kitô, “viên đá sống động” bị con người loại bỏ, nhưng được Thiên Chúa chọn.

  1. Ẩn dụ của đá

Một mặt, “đá” tự nhiên gợi ra ngay tức khắc yếu tố vững chắc, bền vững trước mắt chúng ta. Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi thấy phần lớn các dân tộc liên kết đá với việc cúng tế các vong nhân, như niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt. Mặt khác, Đức Kitô được gọi là “viên đá sống động”, chính vì Ngài đã chiến thắng sự chết và phân phát sự sống vô tận. Thêm nữa, đây là hình ảnh mang chiều kích thiên sai mà Kinh Thánh đã nhiều lần gợi lên: viên đá quí giá (Is 28: 16), đá tảng góc tường (Tv 118: 22), phiến đá độc nhất (Dcr 3: 9). Vì thế, “đá” trước tiên phải là Đức Ki-tô, rồi đến chính vị lãnh tụ của Giáo Hội, người mà Đức Giê-su  gọi là “Kepha”, nghĩa là “đá tảng”.

  1. Viên đá sống động

“Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ của Chúa Thánh Thần”, nghĩa là được Chúa Thánh Thần ở cùng, theo kiểu nói của thánh Phao-lô: “Anh em là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1Cr 3: 9). Ở đây, chúng ta có thể nhấn mạnh động từ “xây” mà thánh Phêrô sử dụng cũng là động từ mà Đức Kitô sử dụng khi Ngài nói với Phêrô: “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.

  1. Chức tư tế thánh

“Hãy để Người đặt anh em hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Ki-tô”. Bản dịch của nhóm CGKPV này có thể khiến chúng ta nghĩ rằng đây cốt là chức tư tế thừa tác. Trái lại, bản văn này gợi lên chức tư tế của toàn thể Giáo Hội: Chức Tư Tế Cộng Đoàn. Bản TOB dịch chính xác hơn: “Anh em được xây dựng thành ngôi nhà của Chúa Thánh Thần để hình thành nên một cộng đồng tư tế thánh”.

  1. Hiến lễ thiêng liêng

“Dâng những hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. Cách diễn tả này rất gần với tư tưởng của thánh Phaolô, ví dụ như trong thư gởi tín hữu Rôma: “Tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12: 1).

  1. Lương dân hoán cải và người Do thái cứng lòng tin

Biểu tượng “đá” thúc đẩy thánh Phê-rô đề cập đến một vấn đề đau đớn tận đáy lòng mình: việc dân Ít-ra-en loại bỏ Đức Kitô. Thật cảm động khi thấy rằng thánh nhân đau xót biết bao trước sự lòng cứng tin của dân mình: thánh nhân cố gắng hiểu, trong ánh sáng Kinh Thánh, tại sao sự chọn lựa của Thiên Chúa lại không đạt đến đích. Biểu tượng “đá” chứa đựng một biện chứng: căn nguyên của ơn cứu độ hay cớ vấp ngã. Đức Ki-tô là dấu chỉ mâu thuẫn. Ngài đòi buộc một sự chọn lựa: Ngài là điểm tựa cứu độ hay tảng đá vấp ngã.

A- Căn nguyên của ơn cứu độ

Trước hết, “đá” có thể là hình ảnh về một sự vững chắc của toà kiến trúc: đá nền hay đá góc tường (đá này có thể chỉ đá chóp đỉnh để đảm bảo sự cố kết của tòa nhà). Theo ngôn ngữ biểu tượng: một phần thay cho toàn thể, đá có nghĩa toàn khối kiến trúc. Bản văn Is 28: 16: “Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” mà thánh Phêrô trích dẫn, thật dễ dàng ủng hộ cách giải thích theo chiều hướng thiên sai. Viên đá quý giá mà Đức Chúa tuyển chọn để xây dựng dân Ngài sẽ là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia của Ngài.

“Kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng. Vậy, vinh dự cho anh em là những người tin”, trong câu này, chữ “vinh dự” đối lập với chữ “thất vọng”; nhưng đồng thời chữ “vinh dự” theo từ Hy lạp này cũng có nghĩa là “giá trị” vì thế gợi lên viên đá quý chính là Đức Kitô; nghĩa là trong Đức Kitô, những người tin cũng trở nên những viên đá quý. Những sắc thái ngữ nghĩa của bản văn khó diễn tả cho hết được.

 B- Cớ vấp ngã

Thánh Phê-rô tiếp tục tìm kiếm trong Kinh Thánh tại sao dân Do thái cứng lòng tin. Thánh nhân kết hợp Tv 118: 22: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” với Is 8: 14: “Một hòn đá làm cho vấp, một hòn đá làm sẩy chân” vào trong cùng một câu trích dẫn. Thánh Phê-rô lấy lại hình ảnh này để chứng minh trước Thượng Hội Đồng, sau khi thánh nhân bị bắt: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho chỗi dậy từ cõi chết… Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4: 10-11).

Thánh nhân nói trong bài đọc hôm nay, “Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy”. Đây không là chứng nhận số phận đã định trước, nhưng lời ta thán buồn phiền trước việc lời các ngôn sứ được ứng nghiệm, các ngài đã thấy trước sự loại bỏ này.

Đức Giêsu đã trích dẫn cũng chính lời tiên báo của Tv 118 sau khi đã kể dụ ngôn những tá điền sát nhân: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21: 42-43).

Dân Thiên Chúa mới này, dân mà thánh Phê-rô viết cho họ, đó là những dân ngoại trở lại đạo rất đông. Chính đó là những tước hiệu tuyệt vời mà xưa kia Đức Chúa đã trao tặng cho dân Ít-ra-en, từ nay được áp dụng cho dân mới này: “Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa…”.

TIN MỪNG (Ga 14: 1-12)

Đoạn văn này được định vị ở phần đầu của diễn từ cáo biệt mà Đức Giêsu ngỏ lời với các môn đệ của mình trong bữa ăn cuối cùng mà Ngài tham dự với họ.

  1. Bối cảnh

Trước khi rời bỏ họ để bước vào cuộc Khổ Nạn của mình, Ngài nói với họ thật thân thương và trìu mến: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”. Ngài cố làm cho các ông hiểu biết hơn con người của Ngài và sứ mạng của Ngài. Ngài gợi lên tương lai theo cung bậc ngôn sứ. Ngài vừa mới loan báo cho họ một người trong họ phản bội Ngài và cho Phê-rô biết ông sẽ chối Ngài.

Nỗi buồn phiền chắc chắn hiện lên trên gương mặt của họ, vì Đức Giêsu nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến!”. Tiếp đó, Ngài ra sức cũng cố niềm tin của họ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Là những người Do thái mộ đạo, các Tông đồ tin vào Đức Chúa, nhưng họ không thể nào hiệp nhất giữa Đức Giêsu và Đức Chúa, vị Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Có thể nào Đấng Mêsia là chính Thiên Chúa sao? Vì thế, Đức Giêsu sẽ nhấn mạnh sự duy nhất của Ngài với Cha Ngài. Diễn từ của Ngài sẽ xoay quanh sự duy nhất này. Độc thần giáo tuyệt đối của Do thái giáo bất khả chuyển lay, nhưng đó không là một điều hiển nhiên.

Đức Giêsu sẽ trấn an các môn đệ theo hai cách: khi gợi lên rằng họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần này) và khi loan báo cho họ rằng Ngài sẽ hiện diện bên cạnh họ theo hình thức khác qua việc sai phái Thần Khí của Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần tới).

  1. Họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài

“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”. Căn nhà ở miền Pa-lét-tin có kích thước nhỏ bé, vì thế để làm cho các môn đệ hiểu rằng có chỗ cho nhiều người trong nhà Cha Ngài, Đức Giêsu gợi lên nhiều chỗ ở, nhưng Ngài không đặt bất kỳ thứ bậc của những chỗ ở này, không nói về nhiều cấp độ khác nhau trong hạnh phúc thiên giới. Ngài xác định rằng chính Ngài sắp xếp: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

“Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giêsu không hứa hẹn một cuộc hội ngộ với các môn đệ vào thời cánh chung, nhưng cái chết sắp đến của Ngài sẽ mở rộng nhà của Cha Ngài, như thế cái chết là lối vào sự sống. Chúng ta đọc các bản văn này chính xác sau lễ Vượt Qua bởi vì biến cố vượt qua soi sáng những lời này. Tuy nhiên, các môn đệ chưa nhận được ánh sáng này, vì thế họ không hiểu, họ xao xuyến. Thánh Tôma là một con người thực tiễn, thích những chính xác cụ thể, hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu?”.

Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giêsu gặp phải sự ngộ nhận này. Ngài thường lợi dụng sự ngộ nhận này để khai triển cuộc đối thoại đi xa hơn và dẫn đưa người đối thoại của Ngài vào trong thế giới của những thực tại vô hình.

  1. “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”

Chữ “đường” thuộc từ vựng tôn giáo của Do thái giáo: chữ này chất nặng lịch sử, nhắc nhớ cuộc hành trình băng qua sa mạc và đám mây sáng chói soi lối chỉ đường về Đất Hứa. Vào thời trở về từ cuộc lưu đày, một sứ giả “đã chuẩn bị con đường cho Đức Chúa”. Đức Giêsu đã lấy lại hình ảnh này lần đầu tiên khi gợi lên rằng “con đường dẫn đến sự sống” thì chật hẹp, trong khi con đường dẫn đến họa diệt vong thì rộng mở thênh thang (Mt 7: 8).

Trong Tin Mừng Gioan, chữ “đường” chỉ một thực tại sâu xa hơn. “Thầy là đường”: Chính Đức Giê-su là đường, không phải chỉ bởi giáo huấn của Ngài, nhưng bởi vì con người của Ngài là sự hiện diện thần linh. Ẩn dụ “Đường” nối kết với ẩn dụ Cửa: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10: 9).

“Thầy là Sự Thật”. Đức Giêsu đã mặc khải Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Cha Ngài cho con người. Ngài là phát ngôn viên của Cha: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra”. Ngài là chứng nhân của Sự Thật.

“Thầy là Sự Sống”. Đức Giêsu là Thiên Chúa đang sống giữa con người, vị Mục Tử đến cho chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10: 10). Ngài là “bánh ban sự sống” và Lời Ngài cũng là sự sống: “Ai tuân giữ lời tôi sẽ không chết bao giờ”, v.v…

Nói cho cùng, Đức Giê-su là “Đường” dẫn chúng ta đến “Sự Thật và Sự Sống”. Nhưng Ngài cũng là “Sự Thật và là Sự Sống”. Vì thế, ai đi theo Ngài, thật sự sống trong “Sự Thật và Sự Sống” ngay khi còn sống trong trần thế rồi.

  1. Biết Đức Giêsu chính là biết Cha Ngài

Vì muốn các môn đệ Ngài thấu hiểu hơn nữa mầu nhiệm con người của Ngài, Đức Giêsu tiếp tục gợi lên chân tính của mình. “Ấy vậy, chân tính của Ngài chính là Con Thiên Chúa”.

“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy”. Trong Tin Mừng thứ tư, động từ “biết” có một ngữ nghĩa rất mạnh: động từ này diễn tả một nhận thức của trí tuệ được tình yêu soi sáng, một sự thông hiệp trong mối tâm giao thật sự. Sự hiểu biết tròn đầy là sự hiểu biết hổ tương giữa Cha và Con. Sau này, trong lời cầu nguyện của Ngài, Đức Giêsu nói: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17: 3). Các môn đệ nhận biết Cha rồi vì họ tin vào Con, và sống trong tình yêu của Ngài. Đức Giêsu, nên một tròn đầy với Cha, nói: “Nếu anh em biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết và đã thấy Ngài”.

Chính lúc đó thánh Philipphê góp phần vào câu chuyện. Chúng ta biết vị Tông Đồ này chỉ qua Tin Mừng Gioan, trong đó ông xuất hiện bốn lần: ơn gọi của Philipphê (Ga 1: 43), bánh hóa nhiều (Ga 6: 5), những người Hy lạp xin được gặp Đức Giêsu (12: 21) và đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 14: 8). Philipphê vốn bản tính ngay thẳng và nhiệt thành, ông đòi hỏi một cuộc “thần hiển”, ông muốn “thấy Thiên Chúa”. Như thế là mãn nguyện lắm rồi. Khát vọng này là khát vọng của tất cả mọi người: thấy Thiên Chúa, biết chắc chắn Ngài hiện hữu, thấu hiểu mầu nhiệm cao vời nhất.

Như khát vọng của tất cả mọi nguời Do thái, ông ao ước được thấy Thiên Chúa hiện diện trong uy nghi sáng chói như cuộc thần hiển trên núi Xi-nai xưa. Thế nhưng cuộc thần hiển theo kiểu ấy không còn nữa kể từ ngày Ngôi Lời Nhập Thể. Thiên Chúa sẽ không còn xuất hiện trong sấm chớp chói lòa khiến con người khiếp sợ không dám đến gần, nhưng hiện diện trong hình hài nhân loại của Đức Kitô, để từ đây ai thấy Chúa Giêsu là thấy Đức Chúa Cha.

  1. Công việc của Ngài chính là chứng nhân

Sau khi nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Ngài và Cha Ngài, Đức Giêsu nói tiếp: “Anh em cứ tin Thầy đi: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không, thì ít ra hãy tin vì công việc Thầy làm”. Đức Giêsu nhắc cho những tâm trí quá thực tiễn này nhớ công việc mà Ngài đã làm: đây không ám chỉ đến những dấu lạ của Ngài cho bằng sứ vụ và hành động cứu độ của Ngài. Đức Giêsu hứa với các môn đệ Ngài rằng họ sẽ làm những việc Ngài làm, nhưng còn làm những việc lớn lao hơn thế nữa, bởi vì công việc của họ sẽ được mở rộng khắp cùng cõi đất.

Từ nay, không ai có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô. Lời dạy này tóm gọn tất cả Tin Mừng.

 

77. Chú giải của Noel Quession.

Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến”.

Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30); rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36). Sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người “ba lần” trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga13,37-38). Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ. Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta. Một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp. Bao lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.

Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: “Lòng anh em đừng xao xuyến!” Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa về bất cứ điều gì.

“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.

Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người một thái độ đđc tin mâ người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA, Hãy tin vào THẦY” Vậy thì Người là ai để nói như thế?

“Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác; và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy, Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình; Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.

Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…

Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.

Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: “Đem về với Thầy, trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng rất thân thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.

“Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính “đời sống thánh thiêng” được ban cho chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành “như Thiên Chúa”. Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!”.

“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.

Đây là một điệp khúc: “Thầy đi”, “chúng con không biết Thầy đi đâu…”. Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?

Đức Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.

Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là “người mở đường”, Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về “nhà của Chúa Cha”.

“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.

Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự “mạc khải” này vẫn còn một phần “không thể quan niệm được”: ánh sáng… nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối… ánh sáng của đức tin.

Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)… bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).

Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: “chúng con không biết…”. Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một “cú sốc của tương lai” đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: “Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?”. Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người” (Kh 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức Giêsu Kitô.

Ông Philípphê nói: ‘ Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.

Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người “chứa đầy Thiên Chúa” một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: “Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy… Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy…”.

Phải, đâu có một con người là Giêsu Na-da-rét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người; một người sắp chết như mọi người; và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó… đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.

Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.

Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời.

Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người “làm những việc Đức Giêsu làm”: Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.

 

78. Chú giải của Fiches Dominicales.

TA LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. Đường về với Chúa.

Cũng giống như Chúa nhật tới, bài Phúc âm Chúa nhật thứ 5 Phục Sinh hôm nay trích từ chương 14, diễn từ sau bữa tiệc ly, với những từ như “ra đi”, “đi tới”, “trở lại”, “con đường”. A.Marchadour minh định chương này (“được kết cấu xung quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Cha vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn huynh đệ của mình về với Chúa Cha. (Tin Mừng Gioan, Centurion, 1992, p. 190) những lời loan báo liên tiếp về việc Giuđa phản bội (“một trong các con sẽ phản Thầy”:14,2) về cuộc ra đi dứt khoát của riêng Ngài (“Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa” 13,38) và về việc Phêrô chối thầy (trước khi gà gáy, con đã chối ta ba lần: l3,38) đã khiến các môn đệ hoang mang – Dufour nhận xét “sự hoang mang ấy không chỉ vì phải xa cách Người thực sự cần thiết cho đời họ, mà cũng còn vì nỗi thất vọng sâu xa khi lượng giá công việc của Chúa Giêsu mà họ đang trông mong kết quả” (Đọc Tin mừng theo thánh Gioan, tập 3, Seuil, 1993, tr 90). Do đó mới có lời Đức Giêsu kêu gọi: “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy chớ gì họ cậy dựa vững vàng vào lời Ngài và vào chính Ngài. Dufour viết tiếp: “Đức Giêsu dựa trên niềm tin của người Do thái, và những người không bao giờ tự coi mình độc lập trong mối liên hệ với Thiên Chúa, Đấng ban cho thụ tạo sự kiên vững của đá tảng, Ngài cũng dựa vào niềm tin vào chính mình Ngài, nếu họ còn có thể theo Ngài, các môn đệ chỉ dựa vào Ngài, như dựa vào chính Thiên Chúa”. Vì thế nếu Ngài có ra đi, thì cũng chính là để trở lại nhà Cha, nơi Ngài sẽ “dọn chỗ sẵn cho họ”. Từ chủ đề “ra đi” bài diễn từ sau bữa tiệc ly bắt sang ‘đường đi’, Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó. Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi Đức Giêsu bảo họ như vậy bấy giờ Tôma mới hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?” Chúa long trọng đáp “Thầy, Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy! Dufour đã diễn dịch câu nói ấy như sau: ‘Tôma, nếu anh tin Thầy là chân lý và là sự sống, chắc chắn anh sẽ tìm thấy nơi Thầy con đường đưa về với Cha, đó là nơi Thầy đi đó là nơi Thầy ở. Đức Giêsu, trong đoạn 10,9, đã tự coi mình như là “cửa” dẫn đến sự sống, ở đây, lại nói như mình đã ở nơi mà các môn đệ muốn đến, bằng công thức vắn gọn này, Ngài thực sự công bố về tính đồng nhất sẽ còn vang vọng mãi trong nên chiêm niệm Kitô giáo” (p. 100)

  1. Bày tỏ Chúa Cha.

Thấy thế, Philipphê mới lên tiếng: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện rồi và Đức Giêsu đáp lại thấy Thầy, là thấy Chúa Cha rồi trong cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì người kết hợp mật thiết với Chúa Cha “Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư?” cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha thực hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó là tư tưởng của Chúa Cha.

  1. Đức Giêsu tiếp tục làm việc qua các môn đệ.

Nhắc lại lời mời gọi tin tưởng trên, Đúc Giêsu bắt đầu mạc khải cho các môn đệ biết cuộc sống mới của họ sẽ ra sao: “Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Cho dù, hay đúng hơn Ngài về cùng Cha, mà các môn đệ sẽ sống cuộc sống Ngài không ngần ngại đồng nhất với cuộc sống chính mình. Dufour còn minh định thêm: Không phải vì cuộc sống của Ngài vẫn là gương mẫu, nhưng vì chính Ngài sẽ là tác giả đích thực của những họ thực hiện, đọc kỹ bản văn, người ta thực sự thấy rằng người tín hữu sẽ không làm những việc Đức Giêsu đã làm, nhưng là những việc Ngài đang làm và sẽ làm: Chúa Cha tiếp tục được tôn vinh nơi trần thế, từ đây, sứ mệnh Ngài đã hoàn tất phải đơm bông kết trái trong thời gian và không gian: và điều ấy được thể hiện nơi hành động của các tín hữu.” (p.l07)

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. Thiên Chúa thật gần”.

Khi Phúc âm thứ tư được viết ra, chắc chắn “những biến cố” đã xẩy ra hơn 60 năm, các cộng đoàn tín hữu ở Palestine, Tiểu Á, và các nơi khác đã chịu rất nhiều đau khổ. Họ phải chịu những cuộc tấn công dai dẳng trong các vùng có người Do thái. Họ đã bị chính quyền Rôma bách hại triền miên. Đặc biệt niềm tin của các Giáo Hội Tiểu Á lúc ấy đã rung động trước những luồng tư tưởng cho rằng mình khiến người ta quá tin vào trời cao mà khinh chê trần thế, chỉ để ý đến tâm hồn mà coi thường thân xác nhưng cuộc sống thề trần và sự phục sinh có đối nghịch đến độ phải khước từ cuộc sống này để sống cuộc sống kia không? Chẳng lẽ cứ phải trải qua cái chết mới được phục sinh hay sao?

Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh: người tín hữu đã sống cuộc sống phục sinh ngay trên trần thế này. Niềm tin vào Đức Kitô hằng sống đã xóa bỏ khoảng cách giữa những sự dưới đất và trên trời. Niềm tin ấy giúp người ta sống ngay trên trần thế cuộc sống vĩnh hằng của Thiên Chúa. Chân lý thật khó hiểu và khó chấp nhận, cũng thế, Đức Giêsu nhà sư phạm đại tài, để dẫn đưa người nghe vào trong ánh sáng của Thiên Chúa, đã lợi dụng sự cứng tin của Tôma và Philipphê “Thưa Thầy chúng tôi không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con được đường?” Lầm lớn? Đây không phải con đường tính được bằng kilômét. Khoảng cách giữa cuộc sống trần thế và cuộc sống phục sinh không lớn hơn khoảng cách giữa Chúa Cha và Chúa Con: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Niềm hi vọng về điều đã có và chưa có sẽ triển nở và đâm bông trong lòng người tín hữu như vậy đó.

Hoàn cảnh của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại. (“Célébrer”, số 258, tr.34, tháng 3.l996)

Đâu là vị trí của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại?

Trước tiên, cộng đoàn tín hữu sống trong mềm hi vọng vô bờ một ngày kia sẽ được sống với Đức Giêsu rong nhà Cha Ngài: “Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”! Sau đó họ biết được đường đi: “Thầy là đường là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” hơn thế nữa, họ còn biết được Chúa Cha, họ đã “thấy” Ngài: “Ai thấy Thầy, là thấy Chúa Cha” Thấy Đức Giêsu, dĩ nhiên là biết được Ngài bằng niềm tin, là “nhận ra Ngài là con duy nhất, là lời sáng tạo vĩnh hằng đến độ khi Đức Giêsu nói, tôi biết rằng Ngài nói những lời của Chúa Cha, khi Đức Giêsu hành động, chữa lành, tha tội, phó mình cho đao phủ, tôi biết rằng Ngài làm theo ý Chúa Cha và Chúa Cha đã chữa lành, tha tội, tự hiến hoàn toàn qua Ngài. Tôi biết Cha và Con là “một”!

Như vậy, cộng đoàn tín hữu đã thực sự biết Đức Giêsu bằng đức tin, đến lượt mình có thể nhận biết Chúa Cha và hoàn thành những công việc của Người được không? được, Đức Giêsu nói thế và còn hơn thế nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Qua những lời này, ta có thể hiểu rằng Đức Giêsu phục sinh đã mặc lại trọn vẹn sức siêu nhiên mà Ngài đã tự giới hạn khi mặc lấy thân phận tôi đòi mặc lấy nhân tính. Cũng vậy, một khi đã được mời gọi tiếp tục sự nghiệp của Chúa Giêsu trên trần gian cộng đoàn các Tông đồ, bằng đức tin của mình, thực sự thông phần với Thiên-Chúa, họ là cộng đoàn những người con trong Đức Giêsu, Thiên-Chúa Con.

 

79. Chúa Giêsu, đường về Chúa Cha

(Chú giải và Suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

CÂU HỎI GỢI Ý

  1. Trong nhà Cha, “có nhiều chỗ ở” theo nghĩa nào?
  2. Chúa Giêsu ám chỉ điều gì khi bảo sẽ trở lại đem các môn đồ đi theo Người?
  3. Chúa Giêsu muốn nói gì khi quả quyết Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (c.6)?
  4. Phải hiểu thế nào lời xin của Philipphê (c.8) và câu trả lời của Chúa Giêsu (c.9)?
  5. “Các việc” của môn đồ vượt trên các việc của Chúa Giêsu theo nghĩa nào (c. 12)?

CHÚ GIẢI

  1. Tiếp theo sau lời kêu gọi hãy tin tưởng và phó thác (14, 1), Chúa Giêsu nêu rõ một trong những lý do khiến Người ra đi, có lẽ là lý do an ủi hơn hết. Người về với Cha để chuẩn bị chỗ ở cho môn đồ. Các ông chẳng nên sợ vì không thể theo Người. Nhà Cha Người rộng rãi, chỗ ở có rất nhiều. Mặc dù người ta thường viện dẫn cách nói này để chứng minh là có nhiều cấp độ khác nhau trong hạnh phúc thiên giới (thánh Irênê, Clêmentê thành Alexandria, Origène), ở đây chỉ muốn bảo rằng sẽ có chỗ cho tất cả mọi người. Chẳng thế thì Chúa Giêsu đã nói rõ để khỏi làm cho các môn đồ rơi vào niềm thất vọng cay đắng. Chỗ ở không thiếu. Bằng chứng là Người sắp đi dọn cho họ (“Vì Ta đi dọn chỗ …”). Cách giải thích này xem ra thỏa đáng hơn hết (Maldonat, Lagrange, Durand, Hudy). Vẫn biết ta có thể hiểu phần thứ hai của c.2 theo một cách khác: “Nếu không phải vậy, thì sao Ta đã nói với các con là Ta đi dọn chỗ?” (Bauer, Bernard, TOB). Nhưng trong trường hợp này thì phải giả thiết là trước đó, Chúa Giêsu đã loan báo quyết định về với Cha Người trước các môn đồ để dọn chỗ cho họ: nhưng điều này chúng ta không thấy đâu cả. Về cách thế Chúa Giêsu dọn chỗ cho các môn đồ Người, thánh Augustinô đã tóm lại trong một câu ngắn: “Chúa Kitô dọn chỗ cho các môn đồ mình bằng cách chuẩn bị những người sẽ ở các chỗ ấy” (PL 35, 18)
  2. Chúa trở về với Cha, về nhà Người (8, 35- 36) không phải là không có lý do, cũng chẳng phải chỉ cho riêng Người. Việc Người lên trời trên nguyên tắc bao hàm việc các môn đồ cùng Người lên với Chúa Cha (12, 26; 17, 24). Chúa đi vào vinh quang như Đấng dọn đường cho chúng ta: Người đi trước chúng ta (Dt 2, 1c; 6, 20) như trưởng tử của một thế hệ được tiền định cho sự sống vinh hiển, được kêu mời phục sinh trong sự sống vinh hiển ấy (1Cr 15, 20) và thông phần với Người vào gia tài vinh quang tương lai (Rm 8, 17- 18).

Các Kitô hữu đầu tiên đã nóng lòng ao ước được đoàn tụ như vậy với Chúa Giêsu. Họ chờ đợi việc đó thể hiện, lúc Chúa quang lâm trong ngày Chung thẩm, ngày mà họ hằng cầu mong cho mau tới (Ga 21, 22- 23; 1Ga 2, 28; Kh 22, 20; 1 Tx 4, 16- 17, 1 Cr 4, 5; 11, 26; 16, 22; Mt 26, 29; Lc 22, 29- 30 v.v…). Trong viễn tượng của niềm trông đợi nơi cộng đoàn kitô hữu đầu tiên ấy nhiều nhà chú giải muốn nhận ra ở đây, chỗ nói về việc Chúa trở lại và đoàn tụ với các môn đồ Người, một lời ám chỉ đến ngày Quang lâm; nhưng nhiều tác giả khác lại nghĩ đến sự đoàn tụ xảy ra tiếp theo cái chết của mỗi môn đồ.

Thực ra, vào cuối thế kỷ thứ nhất, lúc mà Tin Mừng thứ tư được phổ biến, nỗi chờ mong ngày cánh chung không quá căng thẳng như vậy, mặc dù vẫn còn sống động như một yếu tố cơ bản và thường xuyên của Kitô giáo. Với dòng thời gian, ngày phán xét cuối cùng, chung cho toàn thể vũ trụ, càng lâu càng khó dự liệu và chìm vào trong một tương lai càng lâu càng thụt lùi.

Mặc dầu chậm trễ như vậy, ngày cánh chung vẫn được khai mào bắt đầu từ Giờ tôn vinh. Từ lúc ấy, Chúa Giêsu đã được đặt làm Con Người và Quan án tối cao của thế gian trong hào quang sáng láng giữa triều thần thiên quốc (Ga 1, 51; 3, 13; 5, 20- 29: 6, 62; 8, 28). Kỷ nguyên cứu rỗi và phán xét khởi sự từ giây phút ấy, giây phút bẻ quặt dòng lịch sử của thế giới. Từ nay, Chúa luôn hiện diện, hoặc như một người anh em (20, 17), hoặc như một người bạn (15, 15) hoặc như một quan tòa có thể gây nên một tai họa cuối cùng vào bất cứ lúc nào. Những lần Chúa Kitô hiện ra cho các tín hữu của Người không phải là một cuộc Quang lâm trước kỳ hạn, như khi Người biến hình, cũng chẳng phải là tiền ảnh của lần xuất hiện cuối cùng trong vinh quang. Đúng hơn, đó là bằng chứng khả giác hữu hình của sự hiện diện thường xuyên của Chúa với tư cách Con Người đã được tôn vinh trong cộng đoàn các tín hữu để tiếp tục nâng đỡ họ chống lại các cuộc tấn công luôn đáng sợ của Satan. Những lần hiện ra đó, bất thần xảy đến sau ngày sống lại và ngay cả thời gian tiếp theo (14, 18- 24, 16, 16), còn có một ý nghĩa khác hơn là một hiện tượng nhất thời; chúng nói lên sự hiện diện chắc chắn thường xuyên của Chúa Kitô. Như thế, nỗi trông đợi ngày phán xét cuối cùng vẫn còn sống động ngay cả khi người ta không còn chờ đợi ngày Quang lâm như một biến cố gần kề. Từ biến cố trở lại vinh quang người ta chuyển sự chú ý qua thực tại thâm sâu của việc kết hợp với Chúa Kitô; từ việc phán xét chung, người ta chú trọng đến vận mệnh riêng biệt của mỗi người Kitô hữu.

Do đó, thật là hữu lý khi xem việc trở về của Chúa ở Ga 14, 3 ám chỉ biến cố Phục sinh (20, 19. 24. 26; 21, 13), biến cố được coi là sự bảo đảm cho việc Chúa hiện diện giữa cộng đoàn (14, 18.23; 16, 16) cũng như ám chỉ đến việc các môn đồ đoàn tụ với Chúa, được thể hiện một cách thành toàn vào giờ chết của mỗi người trong họ. Như vậy luật tuyển chọn môn đồ được thực hiện cách trọn hảo: “Ta ở đâu, kẻ hầu hầu hạ Ta cũng ở đó”. (12, 26; 17, 24). Nếu trong truyền thống Nhất Lãm (Mt 16, 25; Mc 8, 34; Lc 9, 23; 14, 27), luật này buộc môn đồ phải theo Chúa Ki-tô mà thôi (15,18 – 16, 4), nhưng còn bao hàm một lời mời gọi theo Người vào trong vinh quang của Chúa Cha (14, 3; 17, 24). Chúng ta đã gặp thấy cái nhìn lưỡng diện này trong câu trả lời cho Phêrô: “Ngươi sẽ theo Ta … về sau” (13, 36- 38). Ở đây luật này còn nói mạnh hơn điểm giống nhau giữa vận mệnh của các môn đồ và vận mệnh của Chúa Kitô: như cái chết của Chúa, theo quan niệm Gioan, là sự trở về với Cha (8, 14. 21.22; 13, 1. 33; 14, 4. 5. 28; 17, 11), thì cũng thế, cái chết của người môn đồ cũng là sự trớ về với Chúa Cha, một cuộc vinh thăng với Chúa bên Chúa Cha.

Nếu tạm thời họ còn ở lại trong thế gian này, thì giờ chết họ sẽ được chiêm ngưỡng ánh vinh quang của Chúa (17, 15. 24). Nhưng hiệu quả này của cái chết không có tính cách tự động và không nhất thiết bảo đảm cho người môn đồ thể hiện vận mệnh của mình đâu; người môn đồ không thể tự mình đến vinh quang Thiên Chúa được (7, 34. 36; 8, 21- 23; 13, 33), vì tự bản chất, có một hố sâu ngăn cách thế giới trên cao với thế giới chúng ta. Chỉ có Chúa bởi trên xuống và bây giờ lại trở về mời có thể đưa chúng ta từ thế giới này về nhà Cha. Người Kitô hữu phải nhận thấy sau cái chết là bàn tay chìa ra và nụ cười tiếp đón của Đấng đã đi trước mình và đang đến tìm mình.

  1. Là một người điềm đạm, sứ đồ Tôma cảm thấy buồn cười khi phải liều mạng sống một cách vô ích (11, 16) và sau cái chết của Chúa Kitô, ông không muốn phải tỉnh mộng lần nữa. Ông bắt đầu sốt ruột. Sự trở về với Cha đối với ông xem ra là một cái gì bí nhiệm, và quá mơ hồ mong manh để ông có thể liều mạng sống mình được. Như người Do thái (7, 35- 36; 8, 14. 22), hay Phêrô (13, 37), ông chẳng hiểu được ý nghĩa của chuyến đi này. Chúa Cha, Đấng lấp đầy thần trí và tâm hồn Chúa Giêsu, các môn đồ coi là người xa lạ, vì họ thuộc về thế gian này và không thể hướng tầm mắt qua khỏi những chân trời trần tục để nhìn về thế giới trên cao. Vì thế, họ cần phải nhận phép rửa của Thần khí.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn không nao núng vì câu nói cúp ngang nửa chừng của Tôma. Một lần nữa, Người giới thiệu đường và mục đích cho các môn đồ như một lệnh truyền độc nhất và không thể hủy bỏ. Ta là Đường; Tôma đừng có mơ tưởng đến một quê hương nào xa lạ, hãy chỉ cần nhìn nơi Thầy, vì Người là con đường, con đường độc nhất dẫn về cùng đích duy nhất. Các môn đồ chẳng biết cùng đích, vì họ không nhìn cho kỹ con đường. Họ quá chú ý tới những chi tiết phụ tùy, họ không chỉ nghĩ đến một mình Chúa Giêsu, họ muốn thấy Ladarô nữa (12, 9) Họ hành động như thiếu phụ Samari, chỉ nghĩ tới nước tươi mát, vọt ra từ giòng suối (4, 11- 15) mà không nghĩ tới Đấng đang ở trước mặt bà (4, 26). Họ giống những người Do thái hy vọng nhận được nơi Người bánh và manna, nhưng bánh là chính Người thì họ chẳng hề mơ ước (6, 33tt). Thay vì phỏng đoán về nơi chốn mà con đường dẫn tới, họ nên quan sát con đường ấy thì hơn, vì từ đó họ sẽ biết được hướng đi: Chúa Giêsu là con đường độc nhất dẫn về Chúa Cha.

Người là đường vì Người là sự thật. Đối với Gioan cũng như với mọi người Do thái, sự thật là cái gì cụ thể và thực tế, là cái gì có thực, chắc chắn, ta có thể tín nhiệm, có thể xây dựng cuộc sống của mình lên trên, là cái khả dĩ làm nền móng cơ sở và hướng đi cho cuộc đời. Trong truyền thống cổ xưa của Israel, từ ngữ này đã có một ý nghĩa tôn giáo đặc biệt; nó thường diễn tả sự trung tín của Giavê với lời hứa và giao ước của Ngài. Nhưng lúc mà, trong Do thái giáo, Lề luật trở thành dữ kiện chính yếu của các việc đạo đức, thì từ đó lề luật được xem như hiện thân đích thực của sự thật. Luật sự thật nghĩa là quy tắc đời sống do Thiên Chúa mặc khải. Tư tưởng của Gioan nối dài quan niệm trên; đối với Gioan, sự thật là mặc khải cuối cùng do Chúa Kitô mang đến, hay đúng hơn là mặc khải được thể hiện trong con người và hành động của Chúa Kitô. Chúa Kitô-sự thật là giai đoạn chung kết của việc mặc khải. Mặc khải chung cục này đối nghịch với mặc khải tạm thời của Cựu ước, như thực tại đối với hình bóng.

Sự thật ấy đối với Gioan cũng là quy tắc đời sống vững chắc do đó có thành ngữ “đi trong sự thật, thực thi sự thật”: 3, 21; 1Ga 1, 6; 3Ga 3- 4). Sự thật không phải là một giáo huấn lý thuyết, một hệ thống giáo điều do Chúa Giêsu soạn thảo, nhưng là toàn thể Chúa Kitô, là toàn thể con người, hành động và lời nói của người cũng như ý nghĩa cứu độ bao hàm trong đó. Vì thế nên tùy theo từng trường hợp mà dịch chữ sự thật là “ơn cứu độ hữu hiệu” hoặc “mặc khải đích thực, trọn hảo, chung quyết”, làm sao để cho nổi bật đặc tính chung cục của mặc khải thể hiện trong con người của Chúa Kitô ân sủng và sự thật, theo Ga 1, 14. 17 không phải là nại thực tại đặt kề với nhau. Ân sủng của Thiên Chúa được thực hiện và được thông ban cho Ngôi Lời cách trọn hảo nhất, và nhờ Ngôi Lời, ân sủng xác định toàn thể đời sống chúng ta. Trong Chúa Giêsu, ân sủng trở thành sự thật, nghĩa là thực tại tràn đầy. Việc thờ phượng đích thực trong Thần khí và Sự thật mà Chúa Giêsu đề cập tới trong cuộc đàm thoại với thiếu phụ Samari là việc cầu nguyện tương xứng với thực tại thần linh được tỏ lộ trong Chúa Kitô. Và để đạt đến thực tại ấy, cần thiết phải có sự trợ giúp của Thần khí (4, 23- 24). Những ai làm chứng cho Sự thật (5, 33; 18, 37), thì không chỉ thỏa thuận với những gì Chúa Giêsu nói, nhưng còn phải quả quyết sứ mạng thần linh của Người là xác thực, phải chứng nhận rằng Chúa Cha hành động và nói qua Chúa Giêsu. Sự thật ấy, xét như mặc khải thần linh (8,40), là một thực tại năng động, đầy Thần khí (4, 23- 24; 6, 63; 1Ga 5, 6) Nó giải thoát người tín hữu (8, 31), thanh tẩy họ (15, 3), hành động trong họ (2Ga 2), thánh hiến họ cho Thiên Chúa (17, 17-19) và lôi họ ra khỏi thế gian đầy gian dối mà Satan là Cha (8, 41- 45). Vì là thực tại thần linh của ơn cứu độ được mặc khải trong Chúa Kitô, nên Sự thật chỉ có thể được tiếp nhận như thần khí sự thật mà thôi (14, 17; 15, 26).

Thành thử Chúa Giêsu là đường dẫn tới Chúa Cha, vì Người là sự thật, là mặc khải thần ánh có sức cứu rỗi, vì Người là ánh sáng đích thật và duy nhất. Và vì Người là sự thật và là sự sáng, bởi hiện thân cho ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa trong thế gian, nên Người là sự sống, Người ban sự sống, Người là nguồn mạch của Thần khí, nghĩa là của sinh lực và của sự sống Thiên Chúa.

Chỉ một vài tiếng mà đủ nói lên mọi sự: Người là đường: về cùng Cha, bởi vì Người là sự thật, là hình ảnh của Cha trong thế gian; đồng thời Người là sự sống của kẻ lớn lên trong Người. Vì Cha là nguồn gốc nguyên thủy của sự sống – sự sống mà Con cũng có – và của sinh lực mà Ngài thông ban cho các kẻ tin (Ga 3, 34- 36; 5, 26; 6, 57; 10, 28- 29).

  1. Trong lúc hăng say bồng bột như trẻ con, Philipphê tưởng mình đã hiểu được một chút gì rồi. Ông nghĩ sắp xảy ra một cuộc thần hiện, một sự tỏ mình oai phong của Thiên Chúa, giống như những cuộc thần hiện mà ngày xưa Môisen đã chiêm ngắm trên núi Sinai (Xh 24, 9- 11; 33, 18), Elia trên núi Horeb (1 V 19, 10- 14), hoặc như Isaia trong Đền Thờ (Is 6). Người Do thái nào cũng ao ước hưởng được đặc ân này, tuy nhiên vẫn hơi lo sợ vì thị kiến được xem như có nguy hiểm đến tính mạng. Lòng ước muốn được thấy cảnh tượng này làm cho vị môn đồ hết kiên nhẫn.

Chắc Chúa đã đón nhận lời nguyện cầu của ông với một cử chỉ gật đầu. Vậy phải chăng Người sắp đem Chúa Cha từ trời xuống để cho họ một cảnh tượng vui mắt? Không! Chẳng có ai thấy Thiên Chúa bao giờ (1, 1; 6, 46); hơn nữa chẳng ai có thể thấy Thiên Chúa trừ ra trong Chúa Kitô. Philipphê mong đợi Thiên Chúa tỏ mình một cách tỏ tường nơi nào đó trên đám mây, nhưng Thiên-Chúa-trong-Chúa-Kitô lại ở trước mặt ông. Thiên Chúa không còn tỏ hiện trong sấm chớp, cũng như trong thị kiến nữa; từ nay Ngài tỏ mình trong hình thể con người Chúa Ki-tô, Đấng không bao lâu nữa sẽ được ánh vinh quang bao phủ. Vinh quang mà Isaia đã chiêm ngắm trong Đền thờ chỉ là một tiền ảnh xa vời của mặc khải Thiên Chúa trong Con (Is 6, 1; Ga 12, 41). Và khi người Do thái nại đến các vị anh chàng của giòng giống họ là những người đã nghe tiếng Thiên Chúa và chiêm ngắm dung nhan Ngài, thì cũng chẳng còn sót lại cho họ một âm vang hay một tia sáng nào, mặc dầu họ thông hiểu Kinh Thánh, vì các lần mặc khải mang tính cách chuẩn bị của Thiên Chúa trong Cựu ước không có mục đích nào khác ngoài việc dẫn đưa họ đến vị Sứ giả cuối cùng của của Mặc khải thần linh là Chúa Kitô (5,37-38). Mọi mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu ước chỉ có ý nghĩa cho Lời, và từ khi lời ấy hóa thành nhục thể (1,14), thì Thiên Chúa chỉ có thể tiếp xúc được trong Chúa Giêsu. Tất cả mọi thánh điện dầu hết công dụng, Đền thờ Giêrusalem cũng như Đền thờ của người Samari trên núi Garizim; chỉ còn tồn tại một đền thờ duy nhất, một nơi gặp gỡ với Thiên Chúa là chính bản thân Con của Ngài (4, 21- 24; 2, 13-22). Ai có lòng đạo đức thật, thì đến với Giêsu là ánh sáng (3, 21) và ai mở lòng đón nhận luồng khí của Chúa Cha bằng cách lãnh nhận giáo huấn của Ngài, thì đến với Chúa Giêsu (6, 45). Không có con đường nào đến với Chúa Cha ngoài Chúa Con vậy.

“Philipphê, làm sao con nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Cha”. Khi xin Chúa Cha tỏ hiện cách rõ ràng ngoài con người Chúa Giêsu, Philipphê tỏ ra mình đã chẳng biết, chẳng hiểu Thầy. Vì thấy Chúa Giêsu, chiêm ngắm Người là thấy Chúa Cha trong Người; cũng giống như tin vào Người là tin vào Đấng đã sai Người (12, 44- 45). Chúa Cha và Chúa Con không thể tách lìa nhau: Con đâm rễ sâu trong Cha và Cha ẩn mình sau Con. Ngài ở nơi Con, Ngài nói và hành động qua Con. Nếu Philipphê không tin vào lời người thì ít nữa hãy tin vào các việc Người làm là các phép lạ vậy (10, 25. 37. 38): Biết bao lần Người đã nói cho họ điều đó? Các lời nói và việc làm của Chúa Giêsu là lời nói và việc làm của Cha (5,17- 26. 30. 36; 7, 16- 17; 8, 26- 29; 9, 16- 33; 10, 25. 36- 38; 12, 49- 50). Việc Người nên một với Cha trong hành động giả thiết là Người đã nên một với Cha trong hữu thể. Sở dĩ Chúa Giêsu vẫn luôn nhất trí với Cha chính vì Người tự bản thể là một với Cha.

  1. Sau khi loan báo cuộc ra đi của mình, Chúa Giêsu chuyển qua những lời hứa sẽ khích lệ an ủi các môn đồ Người trong thời gian chia ly. Lời hứa đầu tiên có liên quan đến quyền năng sẽ được trao ban cho các môn đồ sau khi Người ra đi Quyền năng ấy vĩ đại đến nỗi sẽ giúp họ làm được những việc cả thể hơn việc Người đã làm. Không kể đến các phép lạ, mà chắc chắn chẳng vượt qua nổi các phép lạ của Chúa Giêsu, họ sẽ mở rộng Nước Thiên Chúa đang còn quá nhỏ bé và còn đâm rễ quá yếu trong mảnh đất Palestine “ra cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Giữa các kết quả trông thấy mà Chúa Giêsu đã đạt được vào cuối đời công khai của Người và những thành công do các sứ đồ mang lại không đầy 30 năm sau tại Syri, Tiểu Á, Hy lạp, Rôma, thì chẳng có sự so sánh nào mà không nghiêng về các sứ đồ. Tuy nhiên, ta chớ nên ngộ nhận; thành công ấy là hậu quả của việc Chúa Giêsu trở về với Cha Người. Thành ra, Chúa Giêsu dành sức hành động cách oanh liệt nhờ các sứ đồ sau khi chết. Sứ vụ của họ sẽ biểu lộ sức mạnh ẩn náu sẽ tác động trong họ. Chỉ cần họ có một điều kiện duy nhất là tin vào con người Giêsu.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

c.1: “Lòng chúng con đừng xao xuyến”: Sau lời loan báo Giuđa sẽ nộp Thầy (13,18-30), lời loan báo Phêrô sẽ chối Thầy (13,36-38) và lời loan báo Đức Giêsu sẽ ra đi (13,33), lòng các môn đệ rất hoang mang bối rối. Do đó Đức Giêsu an ủi họ đừng xao xuyến.

“Cứ tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”: Động từ tin được dùng tới 6 lần trong phần này. Điều kiện để khỏi hoang mang xao xuyến là phải tin: tin vào Thiên Chúa và tin vào Ngài.

c.2-3: Đức Giêsu giải thích lý do Ngài ra đi: đi để về nhà Cha và để dọn chỗ cho các môn đệ. Xong xuôi rồi Ngài sẽ trở lại đón các môn đệ cùng đi đến nhà Cha, khi đó thầy trò sẽ sum hợp.

“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”: Irénée, Clément d’Alexandrie và Origène dựa vào câu này để nghĩ rằng trên thiên đàng có nhiều cấp bậc hạnh phúc. Thực ra câu này chỉ đơn giản nghĩa là thiên đàng có đủ chỗ cho mọi người.

– Sau khi dọn chỗ xong thì Ngài trở lại cùng đi và thầy trò sum hợp.

“Thầy ở đâu, chúng con cũng ở đó”: “Đức Giêsu nói với các môn đệ “Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Trái lại Người nói với dân Do thái: “Tôi ở đâu, các ông không thể đến được” (7,34) Thế cũng bởi vì Đức Giêsu ở đâu, kẻ phục vụ Người cũng sẽ ở đó (12,26). Mà các môn đệ chấp nhận làm môn đệ của Người, còn dân Do thái thì không. Nên đúng theo định nghĩa của người môn đệ là “người đi theo”, các môn đệ sẽ được đi theo Đức Giêsu và ở với Người” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 210)

– Như thế là Thầy trò sẽ sum hợp. Nhưng khi nào? Có người nghĩ là đến ngày Tái lâm (Parousia); kẻ khác nghĩ là ngày chết của mỗi người. Cả hai lối giải thích đều đúng.

* Nếu các môn đệ phải xa cách Thầy mãi mãi thì các ông xao xuyến là phải. Nhưng đây chỉ là xa cách tạm thời, sau đó thầy trò lại sum hợp, mà sum hợp vĩnh viễn hạnh phúc trong nhà Cha, thì có gì mà xao xuyến!

c.4-7: Câu hỏi của Tôma:

– Tôma là người đa nghi. Dù Đức Giêsu đã nói Ngài đi về nhà Cha, nhưng đối với Tôma, cái “nhà Cha” ấy còn mù mờ xa xôi quá. Ông chưa dám dấn thân vào một tương lai không chắc chắn như vậy, nên ông hỏi lại cho rõ: cụ thể Đức Giêsu sẽ đi đâu và các môn đệ sẽ dùng con đường nào để theo Ngài.

– Đức Giêsu giải đáp cả hai thắc mắc của Tôma: cứ đi theo Ngài là đúng đường và sẽ tới đích, vì Ngài là đường (Le chemin), con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha. “Đức Giêsu đã ví mình với con đường, vì “đường” là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa gọi là tin tưởng vào Người, dân Israel ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới Đất Hứa. Do đó “đường” là tượng trưng cho cuộc Xuất Hành (Đnl 1,3-33; 2,1-2; 8,2-10 Tv 77,20. 136). Một khi đã vào Đất hứa, dân Israel cũng còn phải ăn ở theo đường Thiên Chúa bảo mới được lãnh phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10; 128,1; 147,19-20; Br 3,13-14.37; 4,1). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong Luật Môsê. Do đó, “đường” còn là tượng trưng cho Luật Môsê. Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Người qua trung gian Đức Giêsu. Vị trung gian tuyệt đẳng và sau hết. Do đó, “đường” vẫn còn là tượng trưng. Nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,34 Mt 16,24 Lc 9,23 Dt 10,20)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211)

– Sở dĩ Ngài là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha vì Ngài là sự thật (chân lý). “Thánh Gioan thường mượn ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do thái giáo. Trong ngôn ngữ ấy, chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, xưa kia, được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ; nhưng ngày nay, chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng hơn, chúng ta có thể nói rằng Đức Giêsu và Chân lý mà Người mặc khải là một, vì, khác với ông Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể và, vì thế, Người là Lời tuyệt hảo của Chúa Cha (1,1.14), là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Đức Giêsu (17,8.14 1,18)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211). Nói cách khác, Đức Giêsu là sự thật về Chúa Cha nghĩa là: cứ nhìn vào Ngài là biết Chúa Cha. Tất cả mặc khải Cựu Ước chỉ là chuẩn bị và dọn đường cho mặc khải trọn vẹn và đích thực nằm trong bản thân Đức Giêsu.

– Và cũng vì Đức Giêsu là đường, là sự thật như thế, nên Ngài cũng là sự sống: “Muốn sống vĩnh cửu, loài người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa phán. Mà Thiên Chúa phán qua trung gian Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa Đức Giêsu không phải chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ. Người chính là Lời tuyệt đẳng của Thiên Chúa. Vì thế chẳng có gì lạ khi Người là “sự sống” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh sđd, trang 212)

c.8-10: Câu hỏi của Philipphê:

– Philipphê hơi ấu trĩ, khi nghe nói về Chúa Cha thì nghĩ đến một cảnh thần hiện theo kiểu ngày xưa Thiên Chúa hiện ra cho Môsê, Êlia, Isaia v.v… và ông muốn mình cũng được thấy cảnh đó như vậy.

– Đức Giêsu đáp “Ai thấy Thầy tức là thấy Chúa Cha rồi đấy”: Thiên Chúa không còn hiện ra trên đám mây hay trong những thị kiến. Từ nay Thiên Chúa tỏ mình cho loài người qua hình dáng nhân loại của Đức Giêsu. Đức Giêsu là hình ảnh mặc khải trọn vẹn Chúa Cha. Thực vậy Đức Giêsu chính là Lời mặc khải trở thành xác thịt và ở giữa loài người (1,14). Khi Lời đã ở giữa loài người thì tất cả những nơi xưa nay người ta thường đến để gặp Thiên Chúa như đền thờ Giêrusalem hoặc đền thờ Garizim hay bất cứ nơi nào khác cũng đều trở thành vô ích, vì nơi duy nhất để gặp Thiên Chúa chính là Đức Giêsu. Tại sao? Vì “Thầy vốn ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”: Chúa Cha và Đức Giêsu không thể tách rời nhau, cả hai chỉ là một. Tất cả những lời Ngài nói và những việc Ngài làm đều là những lời nói và việc làm của Chúa Cha.

c.11: Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ tin rằng Chúa Cha và Ngài luôn ở trong nhau và là một với nhau. Nếu họ chưa thể tin bằng lời của Ngài thì ít ra hãy tin vì thấy những việc Ngài làm, tức những phép lạ, những “dấu chỉ” cho thấy có Chúa Cha hoạt động trong Ngài.

c.12: “Ai tin vào Thầy thì sẽ làm được các việc Thầy làm, lại còn làm được việc to hơn nữa”: a/ Các môn đệ được Đức Giêsu thông ban quyền lực của Ngài, nhờ đó họ cũng làm được những phép lạ như Ngài; b/ Nước Trời mà Đức Giêsu lập hiện còn rất nhỏ bé, nhưng Đức Giêsu thông quyền giúp các môn đệ mở mang Nước Trời ấy “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Không phải các ông giỏi hơn Ngài, nhưng hoạt động của các ông sẽ triển khai mầm mống đã được Ngài đặt sẵn. Điều kiện duy nhất để các ông làm được như vậy là phải tin vào Ngài.

***

“Hãy tin vào Thiên Chúa, mà cũng hãy tin vào Ta”. Xét theo văn phạm, thì hình thức pisteuete có thể là một trực thuyết cách hiện tại (indicatit présent) hoặc là một mệnh lệnh cách (impératif). Bởi thế có hai cách dịch: “Các ngươi tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào Ta” (Bản Phổ thông, thánh Augustin, Bêđa, Maldonat, Knabenbauer, Tillmann, Lagrange, Durand, TOB …) hoặc là “Hãy tin vào Thiên Chúa và cũng hãy tin vào Ta” (Cyrille thành Alexandna, Gioan Kim khẩu, “Théophylacte, Hilaire, Jouon, Bernard, Huby, Van den” Bussche, BJ …). Khó mà chọn lựa giữa hai cách dịch, vì cả hai đều có thể chấp nhận. Cách thứ hai giả thiết là chúa Giêsu muốn khơi dậy cách nào đó niềm tin vào Thiên Chúa của các sứ đồ. Cách thứ nhất trước hết xác quyết rằng các sứ đồ đã có lòng tin vào Thiên Chúa rồi chuyển qua khuyên nhủ họ cũng hãy có một lòng tin như vậy vào Chúa Giêsu. Nhưng nhận cách dịch nào thì ý chính vẫn là Chúa Giêsu kêu mời các sứ đồ hãy tin vào Người như tin vào Cha, nghĩa là hãy tin vào thiên tính của Người.

“Nếu các con biết Ta, tất các con cũng biết Cha Ta”. Các thủ bản chia rẽ gần như đồng đều nhau về tính chất của điều kiện cách (cơnditionnel) được nhắm tới ở đây; một vài thủ bản thì viết egnôkate, là hình thức của trực thuyết cách quá khứ (indicatif partait) để nói lên một điều kiện có thể có thực (nếu các con biết Ta); các thủ bản khác lại ghi egnôkeite, là một hình thức của trực thuyết cách đại quá khứ (indicatiì plusque-partàit) để nói lên điều kiện không thể nào có được nữa (nếu các con đã biết Ta). Vì thực-điều-kiện-cách (conditionnel réel) thích hợp hơn với phần thứ hai của câu này, nên bị nghi ngờ là muốn tu chỉnh bản văn: có lẽ một vài người sao chép đã thấy lời Chúa Giêsu nói với các sứ đồ hơi nặng nên đã sửa đổi nó. Bởi thế chọn hư-điều-kiện-cách (conditionnel irréel) thì đúng hơn.

KẾT LUẬN

Chúa Giêsu nhắn gởi lời khuyến dụ này cho các môn đồ Người thuộc mọi thời đại. Người kêu gọi họ giữ vững lòng tin vào Người trong những bước đường tối tăm và trong các cơn dông tố thiêng liêng của cuộc đời, đồng thời hãy dâng cho Người một tình yêu quảng đại và vâng phục, tình yêu sẽ đặt họ vào trong tình yêu thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa và sẽ làm cho họ sống trong bình an và hoan lạc của Chúa Giêsu.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Bản văn này tóm tắt sứ điệp Tin Mừng Gioan. Nó diễn tả cách gián tiếp điểm đặc trưng và sâu xa nhất của đời sống Kitô hữu. Nó là một phần trong toàn bộ các lời nói của Chúa Giêsu giải thích về chính mình Người. Cùng một trật nó trình bày cho thấy Người là gì đối với chúng ta và chúng ta phải trở nên nhất thế nào đối với Người. Chúa Giêsu là một người thật, hoàn toàn giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, nhưng đồng thời được tràn đầy thực tại thần linh sống động đến nỗi trở nên duy nhất và đồng hóa với Chúa Cha trong hữu thể, trong bản chất và trong đời sống: Người mặc khải Chúa Cha cách đích thực, Người mặc khải chúng ta là những kẻ Cha đã ban cho Người và Người muốn rằng Người ở đâu, chúng ta cũng ở đó. Người cầu nguyện và hành động để trong Người chúng ta được thông phần vào sự sống Chúa Cha ban. Ở đây, chúng ta đứng trước một mầu nhiệm dày đặc đối với tâm trí nhưng sáng tỏ cho những ai dấn thân cách sống động nhờ đức tin.

2) “Lòng các con chớ xao xuyến. Các con tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào Ta”. Đây là một cách Chúa bảo rằng nòng cốt đức tin của chúng ta là chính Người, bản thân của Người, sứ điệp Người. Ta có thể tự hỏi: Làm sao Chúa Giêsu Kitô, vốn là Thiên Chúa, lại có thể nói về Thiên Chúa như nói về một Đấng khác với chính Người. Ở đây chúng ta đụng đến một trong những khía cạnh của mầu nhiệm Nhập thể. Nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa xâm nhập vào thời gian, vào không gian và vào trong những giới hạn của con người. Con Thiên Chúa, có thể nói, là đã tự giới hạn mình vào trong những chiều kích của thực tại nhân loại, mà vẫn không thôi là chính Người. Chúa Giêsu muốn bảo điều này: Con người hữu hình của Người dễ gần gũi với hành động đức tin của chúng ta hơn là Thiên Chúa vô hình; sự kiện lạ lùng là lòng tin của chúng ta vào Người làm cho chúng ta đụng đến Đấng không thể nào tới gần được. Khi tin vào người là Chúa Con, chúng ta có thể tin vào Chúa Cha. Mà tin vào Chúa Cha là nguyện vọng và tiếng gọi sâu xa nhất của con người vốn thường bị đau khổ làm cho xao xuyến. Niềm tin tưởng ấy làm cho sự xao xuyến tách ra khơi chúng ta và mang lại bình an, sức mạnh, niềm vui.

3) “Ta là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống”. Trong cuộc sống của người-không-có-Thiên-Chúa, dường là một hệ thống tư tưởng hay là sự khôn ngoan, sự thật là một chọn lựa giữa nhiều ý kiến, sự sống là một sinh hoạt, một tình yêu suy nhược, và thường là một sự chịu đựng. Đối với người-có-Chúa-Kitô, thì sự sống là một sự thông hiệp mà những khám phá có sức làm được điều ta tưởng là bất kham. Trong Chúa Kitô, người Kitô hữu tìm được đường đi, lối về, nhờ đó họ vượt qua những biên giới của thế gian. Mà tự bản chất là một cánh cửa đóng kín tuyệt vọng. Hơn nữa con đường này, tức là Chúa Kitô, là một lời mời gọi ra đi, tiến tới đằng trước, vươn mình lên mãi. Người Kitô hữu khám phá nơi Chúa Kitô câu trả lời cho nhu cầu bí mật mà con người cảm thấy, là phải nương tựa vào một cái gì vửng chắc để luôn có thể tìm kiếm mãi. “Con sẽ không tìm Ta, nếu con đã không gặp Ta” (Th. Augustin). Sự thật sống động không bao giờ là một cái gì hoàn toàn đạt được, nhưng nó bảo đảm với ta rằng nó xác thực. Càng gặp Chúa Giêsu, ta càng tìm kiếm để biết Người hơn. Khỏi phải nói là biết Chúa Kitô là trước tiên sống bởi Người. Khi ta sống bởi Chúa Kitô, phải chăng các thực tại tự nhiên của đời sống đều thay đổi. Không, người Kitô hữu có một sinh hoạt nhân sinh và thực tế như tất cả mọi người, nhưng sinh hoạt ấy được một cái hồn. Có một cách suy nghĩ, một cách chọn lựa mục đích, một cách gặp gỡ con người… được hướng dẫn bởi sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời. Chúng ta có biết ngạc nhiên về điều không thể làm được lại trở nên có thể được cho chúng ta trong Chúa Kitô không?

 

80. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển

TẠI SAO ĐỨC GIÊSU LẠI CĂN DẶN CÁC MÔN ĐỆ ”ĐỪNG XAO XUYẾN”?

Trong buổi tĩnh tâm các linh mục quốc tế ngày 12.10.1998 tại thành phố Monterrey, nước Mexico, qua bài nói chuyện của đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, ngài đã chỉ ra một số điểm sai xót của Đức Giêsu, một trong những điểm sai xót đó là những lời giảng dạy, hành động xem ra mâu thuẫn.

Ví dụ như: có lần, Ngài đưa ra lời mời gọi: phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị người ta oán ghét (x. Lc 6, 20-22); hay “ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9, 24); hoặc làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Đấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (x. Lc 13, 18-19); và điều mâu thuẫn lớn nhất chính là “Con Thiên Chúa, Đấng hằng sống”; “Đấng công chính!” lại phải chấp nhận sự chết và chết nhục nhằn trên Thập giá??? (x. Lc 23, 47).

Những mâu thuẫn kiểu như thế, hôm nay lại được Đức Giêsu cất lên khi căn dặn các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1). Phải chăng lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ giờ này xem ra có vẻ không tâm lý, mâu thuẫn với hoàn cảnh hiện tại, bởi lẽ các ông rất buồn vì Thầy trò sắp phải xa nhau. Vậy, câu hỏi được đặt ra là chính Đấng đang nói: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), Ngài có xao xuyến không? Và từ đó, như một hệ luận, chúng ta tin hay không tin vào lời nói của Đức Giêsu!

  1. Sự xao xuyến của Đức Giêsu

Thực ra trong cuộc đời của Đức Giêsu, Ngài cũng đã nhiều lần xao xuyến, chẳng hạn như:

Nhìn niềm tin trong viễn cảnh tương lai, Đức Giêsu đã thốt lên: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8); rồi khi về Giêrusalem, Ngài cũng thốt lên lời than thở “Giêrusalem, Giêrusalem! […] Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các người không chịu” (Lc 13,34); hay trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Ngài cũng trải qua nỗi xao xuyến thực sự, bởi vì chỉ còn một ít nữa thôi, Ngài sẽ từ biệt các môn đệ, sẽ bị bắt, do chính môn đệ thân tín của mình trao nộp, rồi Ngài cũng thấy trước được những đau khổ vì mình mà các ông phải chịu. Nỗi xao xuyến ấy bao trùm lên Thầy trò, khi kẻ đi người ở… Sự xao xuyến ấy dần càng tăng lên khi trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy sợ hãi, và Ngài đã than thở với các môn đệ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức!” (Mc 14,34), và Ngài mướt mồ hôi máu. Sau đó, Ngài đã cầu nguyện tiếp: “Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14, 36). Cuối cùng, nỗi xao xuyến này được dâng lên đến tột đỉnh trên Thánh Giá, khi cơn đau đớn thấu con tim, báo hiệu giờ hấp hối đã gần, Ngài đã lớn tiếng kêu lên Thiên Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 14, 34).

Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã trải qua những cơn xao xuyến. Thật ra, sự xao xuyến của Đức Giêsu cho thấy, Ngài vừa là Thiên Chúa và cũng là con người, nên những nỗi xao xuyến đó của Ngài như là con đường để dẫn đưa chúng ta là những người cũng xao xuyến đến sự sống đời đời.

Tại sao chúng ta lại xác tín điều đó, thưa, vì lời căn dặn của Ngài “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), là khả tín, đáng tin. Bởi vì sự xao xuyến này đã ngang qua cuộc đời của chính Đức Giêsu, và Ngài đã biến nó thành niềm hy vọng khi tin tưởng và tín thác nơi Thiên Chúa Cha là Đấng khơi nguồn và cùng đích của mọi sự.

  1. Sự xao xuyến của các môn đệ

Sau Đức Giêsu, sự xao xuyến cũng không buông tha các môn đệ. Các ông xao xuyến là bởi vì trước khi nói những lời ly biệt, Đức Giêsu đã tiên báo Phêrô sẽ trối Thầy (x. Ga 13, 38); Giuđa thì bán Thầy (x. Ga 14, 21); các môn đệ sẽ bỏ chốn (x. Mt 26, 56). Như thế, các ông thấy trước những viễn cảnh đó sẽ xảy ra, nên các ông lo sợ cho giờ phút kinh hoàng này sẽ đến với Thầy mình và các ông đều bị liên lụy là lẽ tất yếu.

Nỗi xao xuyến của các ông còn là nỗi sợ cô đơn. Các ông đã bỏ mọi sự, vợ con, nhà cửa, sự nghiệp để đi theo, ấy vậy mà giờ đây các ông sắp phải chia tay Thầy của mình. Sự chia tay này theo lối hiểu của các ông chẳng khác gì “rắn mất đầu”; hay “tàu không người lái”. Vậy thì các ông sẽ đi đâu và về đâu đây???

Thêm một lý do nữa khiến các môn đệ xao xuyến, đó là: khi còn sống với các ông, Đức Giêsu hướng dẫn, dạy dỗ và dẫn dắt các ông từng ly từng tý, vậy Ngài sắp ra đi thì ai là người dẫn lối chỉ đường cho các ông?

Buồn sầu và xao xuyến của các môn đệ là lẽ thường tình nơi thân phận con người trước những điều không may, nguy hiểm, chia ly, từ biệt, rồi phải đối diện với chốn trần gian đầy tục lụy, thù hằn, thử thách và ngay cả cái chết như Thầy của mình.

Tuy nhiên, những sự xao xuyến đó của các ông đã được Đức Giêsu trấn an khi nói: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Chỉ có niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa mới có thể giúp các ông vượt qua mọi gian nan, thử thách xảy đến trong cuộc sống trần gian; còn khi các ông xao xuyến không biết về đâu thì chính Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3), rồi khi các ông xao xuyến không biết định hướng cho cuộc sống tương lai thì Đức Giêsu lại nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Đường ở đây không phải Đức Giêsu muốn nói về một lối đi theo nghĩa đen, nhưng Ngài muốn các ông hiểu rằng: Ai yêu mến, tôn thờ, sống theo lời Ngài thì chắc chắn đến được với Chúa Cha. Vì Đức Giêsu và Chúa Cha là một. Thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha!; cuối cùng, sự ra đi của Đức Giêsu đem lại lời hứa hẹn tràn đầy niềm vui và bình an khi Ngài hứa trao ban Chúa Thánh Thần trên các ông. Như vậy, Đức Giêsu ra đi thì tốt hơn cho các ông, vì Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần đến dạy dỗ các ông biết những điều mà trước đây, các ông không thể hiểu được! (x. Ga 14, 26).

Như vậy, qua lời trấn an của Đức Giêsu “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), Ngài muốn mặc khải cho các ông thấy rằng: quê hương họ ở trên trời (x. Pl 3, 19), mà Đức Giêsu sẽ là người đầu tiên trở về với nguồn cội, nơi mà từ đó được phát xuất ra để dọn chỗ cho họ. Vì thế, các ông đừng xao xuyến, hãy tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.

  1. Sự xao xuyến của con người ngày hôm nay

Trong thực tại cuộc sống, chúng ta thường gặp những cảnh ngộ nhiều lúc không được như lòng mong muốn. Tâm trạng này của mỗi chúng ta cũng chính là tâm trạng của các môn đệ khi xưa, nào là: sự cô đơn; quan điểm và thực trạng xã hội hoàn toàn xa lạ với đường lối của Thiên Chúa, của Tin Mừng; rồi ốm đau; bệnh tật… nào là con cái hư hỏng; nào là buôn bán không gặp thời; nào là thất vọng vì những gương xấu trong cuộc đời; hay chính những chuyện tốt ta muốn làm mà cũng không được… Những sự xao xuyến ấy luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, nó theo chúng ta như hình với bóng, vì thế, triết gia Martin Heideiger khi suy tư về con người, ông đã nói về sự xao xuyến này như sau: “Con người là một hữu thể bị ném ra cuộc đời, hiện hữu giới hạn trong thời gian, nghĩa là con người sống để mà chết. Và bởi con người sống và đi đến cái chết không thể tránh khỏi, nên con người mang nỗi khắc khoải khôn nguôi. Cái chết và nỗi khắc khoải được định nghĩa là thành tố làm nên con người hiện sinh. Đời người là như vậy. Chẳng ai làm người mà vô sự”.

Tuy nhiên, đối với chúng ta là người kitô hữu, chúng ta có một niềm tin mạnh mẽ, đó là: đằng sau cái chết là sự sống vĩnh hằng. Niềm tin này hôm nay được Đức Giêsu mặc khải: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở […] Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-3); hay lúc khác Đức Giêsu nói: “… tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 40).

Như vậy, chết không phải là hết. Cuộc sống này chỉ là một sự chuyển tiếp mà thôi. Khi tin như thế, Chúng ta có quyền hy họng vào lời căn dặn, trấn an của Đức Giêsu: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1).

Một mẫu gương đáng để chúng ta noi theo khi sống niềm tin của mình vào Đấng là đường, là sự thật, và là sự sống….đó chính là triết gia Pascal. Cả cuộc đời và sự nghiệp của ông đã đi vào trong lối suy tư mang đậm niềm tin nơi Đức Giêsu. Điều này được chứng minh khi người nhà của Pascal tìm thấy nơi gấu áo của ông lúc ông đã qua đời, tấm giấy chính tay ông viết và lưu giữ suốt cuộc đời, ông viết: “Sự sống đời đời là hiểu biết và yêu mến Đức Kitô và Đấng đã sai Ngài… lửa, lửa, lửa; nước mắt, nước mắt, nước mắt của tình yêu”.

Đó là bí quyết sống niềm tin, phó thác của B. Pascal một văn hào, một triết gia, một nhà toán học. Đây cũng phải là bí quyết sống của mỗi chúng ta khi xác định quê hương của chúng ta ở trên trời. Nơi quê hương ấy hoàn toàn khác với quê hương hay những thực tại mà chúng ta thấy hiện nay, vì thế, mọi việc làm, lời nói… của chúng ta hãy quy chiếu về đó như là điểm đến của cuộc đời nơi những người có niềm tin vào Chúa và cuộc sống đời sau.

Quê hương ấy được thánh Giáo phụ Augustinô diễn tả như sau: “Hội Thánh được biết có hai cuộc sống Thiên Chúa đã mạc khải và trao ban, đó là cuộc sống trong đức tin và cuộc sống trực kiến, cuộc sống lữ hành và cuộc sống nơi cư ngụ vĩnh viễn, cuộc sống lầm than vất vả và cuộc sống nghỉ ngơi an nhàn, cuộc sống ra sức làm việc và cuộc sống chiêm ngắm tôn nhan Thiên Chúa là phần thưởng”.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con không bị rơi vào tình trạng xao xuyến trước những điều bất trắc trong cuộc sống, xã hội và con người hôm nay, bởi xác tín rằng, quê hương chúng con ở trên trời, và mọi điều trái ý đó xảy đến như là một điều kiện cần cho được cứu rỗi. Có thế, chúng con hy vọng sẽ được vào nơi mà Đức Giêsu đã đi trước dọn đường và chuẩn bị cho chúng con. Amen.

 

81. Con đường Giêsu

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)

Có một tác giả đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau: Tại một vùng quê nọ bên Tây Phương, một ông từ coi nhà thờ có thói quen mỗi ngày cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến người phụ trách tổng đài trong vùng và hỏi giờ. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã hỏi lại: “Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin ông cho biết lý do tại sao ông hỏi như thế mỗi ngày?”. Ông từ nhà thờ giải thích: “Thưa ông, có gì đâu, tôi là người có trách nhiệm phải kéo chuông mỗi ngày vào đúng giờ ngọ. Tôi cần hỏi giờ chính xác thôi”. Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra, ông nói với ông từ nhà thờ: “Thật là buồn cười, trong khi ông điện thoại đến hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi là người điều chỉnh đồng hồ của tôi theo tiếng chuông của ông”.

Tác giả của câu chuyện trên kết luận: “Cuộc sống quả là bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời”. Chúng ta cần có một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, và người có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, chủ tể của sự sống. Kinh Thánh, lời của Ngài, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình. Từ lúc Nô-ê xuống tàu, Ap-ra-ham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Đức Maria, và cả cuộc đời không ngừng di động của Chúa Giêsu. Tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình trong đức tin của người Kitô hữu.

Đời người là cuộc hành trình, ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng: tuổi trẻ và thanh niên được dệt đầy những năng động để không ngừng dự phóng và sáng tác. Tuổi trung niên thành công tràn ngập, nhưng thất bại cũng giăng đầy những lối đi: có những người bạn chợt đến rồi đi, vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm. Rồi tuổi già đến, chúng ta nhận ra rằng: tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ.

Đời là một hành trình, Đức Kitô đã trải qua đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình: Sinh ra trong một cuộc hành trình, và mở mắt chào đời để phải vội vã ra đi như một người tị nạn, năm 12 tuổi, lạc mất trong một cuộc hành trình, trong cuộc sống công khai, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Pa-lét-tin, và cuối cùng Giêrusalem, đồi Can-vê là điểm đến của cuộc hành trình. Qua cuộc hành trình không ngừng nghỉ ấy, Đức Kitô đã tuyên bố: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”, nghĩa là ai tin Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình. Ngài là con đường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang.

Thực vậy, trên thế giới không thiếu những con đường nổi tiếng, nhưng có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là con đường mang tên Giêsu. Đúng vậy, đối với chúng ta, chỉ có một con đường duy nhất để được cứu độ, để đạt tới cuộc sống bất diệt và hạnh phúc vĩnh cửu, tên gọi của con đường ấy là Giêsu.

Đi trên đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Đi trên đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ giữa lòng đời. Đi trên đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường của yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.

Vì hoàn cảnh, ơn gọi mỗi người thường khác nhau, không phải ai cũng thích hợp với ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Nhưng một điều chắc chắn mà có lẽ ít khi chúng ta nghĩ tới, đó là tất cả chúng ta đều được Chúa kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Chúa Giêsu đã sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa của Ngài một cách tuyệt đối hoàn hảo và đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho chúng ta. Vì thế, Chúa bảo chúng ta hãy đi theo con đường của Ngài trong suốt hành trình của cuộc sống. Với Chúa, chúng ta sẽ không cảm thấy cô đơn. Chúng ta sẽ mệt mỏi, nhưng không kiệt quệ. Chúng ta sẽ khổ đau, nhưng không thất vọng. Chúng ta sẽ chán nản, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng ta kiếm tìm hạnh phúc, và chúng ta sẽ đạt được.

Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta.

 

82. Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin ở nơi Thầy

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)

Nếu chủ đề của 3 tuần đầu của Mùa Phục Sinh là “sự sống lại”, và chủ đề của 4 tuần cuối của Mùa Phục Sinh là “sự sống”, thì chủ đề “sự sống” của 4 tuần cuối này sẽ được Phúc Âm theo Thánh Gioan Giáo Hội chọn đọc trong chu kỳ Phụng Vụ Năm A thứ tự cho thấy các khía cạnh của chủ đề ấy như sau:

Tác động “Sự sống”: “Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin nơi Thày” (Chúa Nhật V)

Tác nhân “Sự sống”: “Thần Chân Lý… ở với các con và ở trong các con” (Chúa Nhật VI)

Tác dụng “Sự sống”: “Chính ở nơi họ mà Con được vinh hiển” (Chúa Nhật VII)

Như thế, vấn đề “sự sống” của Chúa Nhật V tuần này là lòng “tin”. Thật vậy, như bài chia sẻ lần trước đã đặt vấn đề “sự sống” một khi đã được thông ban từ Lời Nhập Thể là Chúa Kitô, thì để thông hưởng “sự sống” này, con người cần phải “nhận biết Người” (Jn 1:11), tức phải “chấp nhận Người” (Jn 1:12), vì “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Tác động “nhận biết” hay “chấp nhận” đây là gì, nếu không phải cũng chính là tác động “tin”. Đó là lý do tác động “tin” là tác động tỏ ra thực tại “sự sống” nơi chủ thể tin, như hơi thở là dấu có sự sống thể lý nơi sinh vật, hay thực tại sự sống được thể hiện qua tác động “tin”, như sự sống thể lý được thể hiện qua hơi thở của sinh vật vậy. Thế nhưng, phải “tin” những gì hay đối tượng của tác động “tin” là gì? Và “tin” sẽ phát sinh những gì, hay tác dụng của tác động “tin” ra sao?

Theo bài Phúc Âm hôm nay, đối tượng của tác động “tin” đó là chính “sự sống” hiệp thông nơi Thiên Chúa: “Các con không tin rằng Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày hay sao?”; “Các con hãy tin Thày là Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày”. Và tác dụng của tác động “tin” chính là Quyền Năng Thần Linh: “Thày bảo thật cho các con biết con người tin vào Thày sẽ làm được những việc Thày làm mà còn làm được hơn cả những việc ấy nữa”. Nếu Quyền Năng Thần Linh là biểu hiệu cho hay là chính Thánh Thần (xem Lk 1:35), thì bài Phúc Âm hôm nay hàm chứa ý nghĩa về Sự Sống Thần Linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được thể hiện nơi chủ thể “tin”. Nghĩa là con người “tin” là con người được “sự sống”, và “sự sống” này là chính “sự sống” của Chúa Ba Ngôi, và họ sống là sống chính “sự sống” của Chúa Ba Ngôi.

Đối tượng của tác động “tin” đó là chính “sự sống” hiệp thông nơi Thiên Chúa

Thật vậy, “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), Ngài đã ban “sự sống đời đời là nhận biết…” cho con người bằng cách tỏ mình cho họ nơi Con Duy Nhất của Ngài là Chúa Giêsu Kitô (xem Jn 3:16), Đấng Ngài sai (xem Jn 17:3). Phần Lời Nhập Thể, Người cũng đã đến thế gian “để tỏ Cha ra” (Jn 1:18), bằng cách tỏ mình thật sự “là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của bản thể Cha” (Heb 1:3). Đến nỗi, như Chúa Kitô đã khẳng định với dân Do Thái “Cha và Tôi là một” (Jn 10:30), cũng như với các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ai thấy Thày là thấy Cha”. Con người không thể nào trực tiếp thấy Cha hay biết Cha nếu không được Con Ngài, Đấng Ngài sai, tỏ ra cho biết. Bởi thế, Chúa Giêsu mới bày tỏ cảm nhận của chính mình với Cha của Người trước mặt các môn đệ rằng: “Không ai biết Con trừ Cha, cũng như không ai biết Cha trừ Con và những ai Con muốn tỏ Cha ra cho biết” (Lk 10:22).

Đó là lý do, để trả lời cho tông đồ Philiphê trong bài Phúc Âm hôm nay về lời vị tông đồ này “xin Thày hãy tỏ cho chúng con biết Cha là chúng con mãn nguyện rồi”, Chúa Giêsu mới than với riêng vị tông đồ này cũng như với chung các tông đồ là: “Thày hằng ở với các con bấy lâu mà các con vẫn chưa biết Thày hay sao?” Ở đây, tông đồ Philiphê xin được “biết Cha”, Chúa Kitô lại đặt vấn đề “biết Thày”. Thế nhưng, để biết Chúa Kitô có thực sự là Đấng Thiên Sai hay chăng, tức là Người có thực sự ở trong Cha hay chăng, cũng trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã cho các tông đồ biết thêm những dấu chứng về lời Người nói và việc Người làm hoàn toàn cho thấy Người bởi Cha và từ Cha như sau: “Những lời Thày nói thì không phải tự Thày mà chính Cha là Đấng sống trong Thày hoàn tất các công việc của Ngài”. Trong câu nói này, phần đầu Chúa Kitô đề cập đến “những lời Thày nói”, phần sau Người lại lái sang “các công việc của Cha”. Bởi thế, cũng trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã kêu gọi các tông đồ rằng: “Hãy tin Thày là Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày, bằng không hãy tin nơi những việc Thày làm”. Qua câu nói của Chúa Giêsu đây, chúng ta có thể suy ra tại sao Chúa Giêsu nói với các tông đồ về một tác động “tin” song lại có một đối tượng lưỡng diện đó là Thiên Chúa và Thày: “hãy tin vào Thiên Chúa” tức là hãy tin rằng “Cha ở trong Thày”, hay tin rằng Cha là Đấng đã sai Thày, và “hãy tin ở nơi Thày” tức là hãy tin rằng “Thày ở trong Cha”, hoặc tin rằng Thày được Cha sai. Tóm lại, “Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin ở nơi Thày”, nghĩa là, như Chúa Giêsu cho thấy trong Lời Nguyện Tiệc Ly dâng lên Cha của Người về sứ điệp Người đã nhận từ Cha để chuyển đạt cho thành phần thuộc về Người: “Họ biết thật rằng Con từ Cha mà đến và họ tin rằng Cha đã sai Con” (Jn 17:8).

Tác dụng của tác động “tin” chính là Quyền Năng Thần Linh

Đúng thế, có thể nói “tất cả sự thật” (Jn 16:13), tất cả Mạc Khải Thần Linh trong toàn bộ Thánh Kinh nói chung cũng như trong Tân Ước nói riêng, nhất là trong Phúc Âm, chính là ở chỗ này, chính là ở Thực Tại Thần Linh này, Thực Tại Sự Sống “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Jn 17:21). Nếu Lời Nhập Thể đến thế gian, như lời Người khẳng định với tổng trấn Philatô: “là để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37), thì “chân lý” đó là “Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày”. “Chân lý” này chính là một Thực Tại Thần Linh, Thực Tại Thần Linh này chẳng những là một Thực Tại Sự Sống: “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”, mà còn là một Thực Tại Ban Sự Sống nữa, vì Thực Tại Thần Linh này tỏ cho con người một Kiến Thức Thần Linh để họ có thể nhận biết Thiên Chúa như Ngài biết Ngài. Thật vậy, từ Thực Tại Thần Linh này, Thực Tại “Thiên Chúa là ánh sáng” (1Jn 1:5) này, mới chiếu tỏa ra một thứ “ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian” (Jn 1:9) đó là Lời Nhập Thể, một thứ “ánh sáng sự sống”: “Ai theo Tôi sẽ được ánh sáng sự sống” (Jn 8:12). Và “ánh sáng sự sống” phát ra từ “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) là Chúa Giêsu Kitô đây là gì, nếu không phải là “ánh sáng”, là Mạc Khải Thần Linh, làm cho con người được “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3)? Có thể nói, Thiên Chúa tỏ mình ra nơi Lời Nhập Thể là Ngài muốn ban cho loài người chúng ta một Kiến Thức Thần Linh, tức ban cho loài người chúng ta chính “sự sống”, vì “sự sống đời đời là nhận biết (Thần Linh)” (Jn 17:3).

Một khi con người có Kiến Thức Thần Linh, tức có Sự Sống Thần Linh, một Sự Sống vô cùng viên mãn, vô cùng toàn năng, mạnh hơn sự chết, thắng vượt tất cả mọi sự dữ (x Mk 16:17-18), họ có thể, đúng như Chúa Kitô đã khẳng định với các tông đồ: “làm được hơn cả những việc Thày làm”. Sở dĩ, về khốn khó “đầy tớ không hơn chủ” (Jn 15:20), nhưng về hoạt động, môn đệ lại có thể làm hơn sư phụ của mình, là vì, như Chúa Giêsu cho biết lý do trong bài Phúc Âm hôm nay, “Thày về cùng Cha”. Nghĩa là Thày không đích thân làm việc nữa, mà là chính “sự sống và là sự sống viên mãn hơn” ở trong môn đệ của Người làm việc qua họ, nên môn đệ mới chẳng những làm được những việc như Thày làm mà còn hơn thế nữa. Chỗ “hơn thể nữa” ở đây tức là những việc họ làm vượt quá khả năng tự nhiên của một loài thuần nhân như họ, chẳng những chứng tỏ cho thấy sự hiện diện của Sự Sống Thần Linh, “sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10), nơi chính bản thân mỗi người chúng ta, mà còn làm cho Sự Sống Thần Linh này sáng tỏ trên thế gian và lan truyền trên thế gian nữa (x Jn 17:21,23). Chỗ “hơn thế nữa” ở đây tức là Thày không đích thân làm, song chỉ bằng quyền lực danh của Thày mà các môn đệ làm được những việc phi thường, như trường hợp hai tông đồ Phêrô và Gioan đã nhân danh Thày mà chữa cho một người què bẩm sinh tại Cửa Đẹp ở Giêrusalem (x Acts 3:1-26, 4:1-22). “Chính ở nơi họ mà Con được hiển vinh” (Jn 17:10) là như thế.

Thế nhưng, để đến được chỗ này, chỗ “được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn”, Chúa Kitô cần phải, như Người nói với các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Thày đi để dọn chỗ cho các con”. Vậy, nếu “trong nhà Cha Thày có nhiều chỗ”, mà “nhà Cha” ở đây ám chỉ nội tâm của Thiên Chúa, ám chỉ Ý Thức (Thần Linh) nơi Thiên Chúa, hay ám chỉ đến Sống Hiệp Thông nơi Thiên Chúa, (đó là lý do chỉ khi nào người con phung phá trở về nhà Cha, tức trở về với Ý Thức Thần Linh, trở về Sống Hiệp Thông với Ngài, mới thật sự “như chết mà sống lại” – Lk 15:24,32; và Thiếu Nhi Chúa Giêsu năm 12 tuổi “phải ở lại nhà Cha” chính là việc Người phải sống Ý Thức Thần Linh, phải Sống Hiệp Thông với Cha Người – Lk 2:49), thì “trong nhà Cha Thày có nhiều chỗ” ở đây hàm ý về một “sự sống viên mãn hơn”. Vậy việc “Thày đi để dọn chỗ cho các con” đây là Thày đi “tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19), tức để “họ nhận biết là Con từ Cha mà đến, và tin rằng Cha là Đấng đã sai Con” (Jn 17:8), nghĩa là để họ biết Ý Thức Thần Linh, Sống Hiệp Thông với Thiên Chúa, hay “để họ được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10) cũng vậy. Đến đây, chúng ta mới thấy Cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô thực sự là việc “Thày đi để dọn chỗ cho các con”, một biến cố là tuyệt đỉnh Mạc Khải Thần Linh: “Thày ở trong Cha” qua việc Tử Giá, dấu chứng tỏ Người được Cha sai; và “Cha ở trong Thày” qua việc Phục Sinh, dấu Cha chứng tỏ Chúa Kitô đúng là “Đấng Cha sai”. Như thế, lời tuyên xưng “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa tôi!” (Jn 20:28) của tông đồ Tôma trước Đấng Tử Giá Phục Sinh quả thực đã đáp ứng đúng như lòng Chúa Kitô mong muốn và kêu gọi các môn đệ của Người là “hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin ở nơi Thày”.

Vấn đề thực hành sống đạo:

Nếu tất cả Mạc Khải Thần Linh hay tuyệt đỉnh Mạc Khải Thần Linh được tỏ hiện ở Mầu Nhiệm Vượt Qua thì việc “tin vào Thiên Chúa và tin ở nơi Thày” chính là Sống Biến Cố Vượt Qua. Và Sống Biến Cố Vượt Qua là gì, nếu không phải là Sống Phụng Vụ và Sống Chứng Nhân: Sống Phụng Vụ ở chỗ Sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô Tử Giá và Sống Chứng Nhân ở chỗ Sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh?

 

83. Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

Anh chị em thân mến,

Ngày 20.04.1999, hai nam học sinh da trắng đã bắn vô trường Trung học Columbine, Colorado, khiến 12 em học sinh phải chết… một thầy giáo và nhiều em học sinh khác bị thương… vì hai em này đã gia nhập vào một tổ chức của Satan, đảng viên của Đức quốc xã. Hai em nhỏ này, cũng trạc tuổi như các em học sinh Trung học khác. Sở dĩ các em có gan lỳ dám phạm tội ác tày trời là giết người không gớm tay, chính vì các em bị nhồi sọ: không tin Thiên Chúa – không tin có Chúa – và cho rằng ai theo Chúa, thì cũng là kẻ ngu đần như người Do thái… Tiếc thay, các em này đã chọn lầm đường: đường của Satan, của bọn Đức quốc xã khát máu! Chỉ có một mình Thiên Chúa mới là đường, là sự thật của nhân loại mà thôi. Bài Tin mừng hôm nay mời chúng ta suy niệm cặn kẻ đề tài này…

a/. Trước hết chúng ta cần tìm hiểu vài câu nói của Chúa Giêsu:

Thầy là đường: con đường là phương tiện đưa người ta tới đích mình mong muốn, cũng là hình ảnh gần gủi với người Do thái. Họ đã lên đường về Đất Hứa (Tv 76, 8). Abraham lên đường về nơi Chúa chỉ (STK 12, 1-5). Con đường cũng là luật pháp Chúa dạy phải theo. Có hai con đường: Tốt và xấu. Người ta có quyền lựa chọn theo hai con đường đó, và phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình (Đnl 30, 15-20). Chúa Giêsu trước khi từ giã môn đệ, Chúa nói rõ cho họ: Ngài là đường dẫn đưa họ về với Chúa Cha, bằng lời nói cũng như bằng công nghiệp của Ngài.

Thầy là sự thật: vừa có nghĩa chắc chắn, thực tế, vừa trung tín và còn là qui tắc vững chắc cho đời sống nữa.

Thầy là sự sống: Chúa là nguồn gốc của sự sống, nên Ngài có thể ban cho chúng ta sự sống mới, đồng thời Ngài có thể cho ta được kết hiệp với sự sống của Chúa Cha. Vì vậy, ai đi trong đường của Ngài, đón nhận chân lý Ngài trao ban, thì sẽ được sự sống của Chúa Cha ở trong Ngài, nhờ đó mà ta sẽ được lớn lên…

b/. Qua bài Tin mừng hôm nay, có hai đề tài ta cần suy niệm:

Thầy là đường là sự thật và là sự sống: Chúa Kitô là đường, là con đường dẫn đưa nhân loại tới với Thiên Chúa. Chúa Kitô cũng là sự thật, vì Chúa Kitô không hề dối gạt ai; và vì Ngài là sự thật, nên Ngài cũng chính là con đường thật, sẽ đưa ta tới đích, chính là Thiên Chúa. Chúa Kitô là sự sống, vì Chúa Kitô là con đường và là sự thật, nên Ngài chính là Người đem lại sự sống thật cho chúng ta… Nói một cách vắn tắt, Chúa Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai; mà Thiên Chúa là Đấng Toàn Mỹ, nơi Thiên Chúa không hề có hình bóng của sự xấu, sự ác; chính vì thế, khi Chúa Kitô tự xưng mình là đường, là sự thật, và là sự sống… Điều đó có nghĩa Chúa Kitô chỉ nói lên sự thật, không hề thêm bớt, và cũng từ đó có ý nghĩa, chỉ một mình Thiên Chúa mới là đường là sự thật và là sự sống mà thôi…

Hội Thánh qua 20 thế kỷ, đã sẵn sàng làm chứng cho chúng ta về niềm tin này: tin Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trước hết, Hội thánh công giáo qua các tông đồ truyền lại, không bao giờ coi lời nói của Chúa Giêsu ở đây là lời nói chơi, hay có ý gạt gẫm con người chúng ta. Qua lịch sử Hội thánh, các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, đã không dại dột liều mạng sống mình, để minh chứng niềm tin đó cho chúng ta, là con cháu các ngài ngày hôm nay. Vua quan Việt nam, trước gương hi sinh, vui lòng đón nhận cái chết của các thánh tử đạo Việt Nam , họ vô cùng kinh ngạc vì gương can đảm phi thường của các ngài. Thực ra trên đời, là con người có ai không sợ chết? Như thế gương trung kiên bỏ mình của các vị tử đạo, không phải là lời chứng hùng hồn cho chúng ta rằng Đức Kitô, Người thật là đường, là sự thật và là sự sống sao?

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: là người kitô hữu, thực ra ta có tin Chúa Kitô là đường. là sự sống thật của chúng ta không? Nếu ta đã tin, ta có muốn yêu mến Chúa Kitô và sẵn sàng sống theo lời Chúa dạy không?

 

84. Con Đường Giêsu là Tin Yêu và Phục Vụ

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã tiên báo việc Người sắp từ giã môn đệ mà về trời với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ và sẽ trở lại đón các ông lên trời với Người (1-4). Sau đó, Đức Giê-su mặc khải Người chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Người. Ai biết và thấy Người là đã thấy và biết Chúa Cha (5-7). Rồi Người cũng cho biết mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Cha với Người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (9). Cuối cùng Người còn hứa sẽ ban quyền năng lớn lao cho những kẻ tin vào Người (12).

CHÚ THÍCH:

– C 1-2: + Đừng xao xuyến: Sau khi nghe Thầy Giê-su tiên báo Người sắp chịu chết treo trên thập giá (x. Ga 12,32-33), một trong Nhóm Mười Hai sẽ phản nộp Thầy (x. Ga 13,21) và Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (x. Ga 13,38), nên các môn đệ cảm thấy xao xuyến và lo âu chán nản. Vì thế Đức Giê-su đã phải an ủi động viên tinh thần của các ông là “Đừng xao xuyến”. + Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy: Anh em đã tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào quyền năng và tình thương của Thầy sẽ cứu anh em khỏi mọi nguy hiểm đang chờ đón anh em. + Nhà Cha Thầy: Là trời cao hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa ngự trị. + Nhiều chỗ ở: Theo một số giáo phụ (I-rê-nê, Clê-men-tê, Ô-ri-dê-nê) thì trên thiên đàng có nhiều cấp độ hạnh phúc khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các học giả ngày nay (Maldonat, Lagrange, Durant, Huby) lại hiểu là trên thiên đàng có đủ chỗ ở cho tất cả mọi người. + Nếu không…: Nếu không phải như thế thì Đức Giê-su đã nói rõ để các ông khỏi thất vọng.

– C 3-4: + Đi dọn chỗ: Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người không về trời một mình, mà Người sẽ trở lại đón các ông lên trời, để cùng được hưởng hạnh phúc với Người. + Thì Thầy sẽ trở lại: Khi nào Người trở lại? Có ba ý kiến: Ý THỨ NHẤT: vào thời Giáo hội sơ khai, người ta cho là đến ngày tận thế sắp xảy ra, Chúa Giê-su sẽ lại đến phán xét chung toàn nhân loại và sẽ cho các môn đệ được hưởng hạnh phúc trên thiên đàng với Người (x. Mt 25,31-46). Ý THỨ HAI: cho rằng sự đoàn tụ với Chúa xảy ra ngay sau cái chết của mỗi người. Ngày nay nhiều người theo Ý THỨ BA: Đức Giê-su sẽ đoàn tụ với các môn đệ sau khi Người từ cõi chết sống lại. Từ đây, Người sẽ hiện diện với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Người sẽ ở giữa và ở trong các tín hữu bằng ơn thánh hóa (x. Ga 14,17-18). Rồi sau khi họ chết, Người sẽ ban cho họ được hưởng hạnh phúc thiên đàng tùy theo công việc họ đã làm khi còn sống (x. Mt 16,27).

– C 5-7: + Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?: Câu này cho thấy Tôma là một con người thực nghiệm: đòi phải sờ mó, nhìn xem và kiểm chứng rồi mới chấp nhận (x. Ga 20,24-29). Câu nói của Tô-ma chứng tỏ ông cũng như Phê-rô và các người Do thái khác đều không hiểu gì về việc ra đi của Đức Giê-su (x. Ga 13,37; 7,35-36; 8,14). + Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống: *LÀ CON ĐƯỜNG: Đức Giê-su là con đường duy nhất dẫn đưa loài người từ mặt đất lên trời cao, giống như chiếc thang tổ phụ Gia-cóp đã nằm mơ. *LÀ SỰ THẬT: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức Giê-su mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa (x. Ga 12,45; 14,9) và chỉ đường cho các tín hữu phải ăn ở sao cho đẹp lòng Chúa Cha, nhờ lắng nghe lời Người (x. Mt 17,5). *LÀ SỰ SỐNG: Con đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn nơi Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự sống cho Đức Giê-su, nên chỉ Người sau khi phục sinh sẽ ban sự sống đời đời cho những ai tin Người (x. Ga 3,36; 10,28). Tín hữu nhờ đức tin sẽ có mầm sống vĩnh cửu trong mình. Họ cần tiếp tục gia tăng mầm sống ấy nhờ lãnh nhận các phép bí tích do Đức Giê-su thiết lập, và có trách nhiệm làm cho mầm sống ấy phát triển cho đến khi đạt tới sự sống sung mãn trong Thiên Chúa ở đời sau. + Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy: Qua thập giá, Đức Giê-su đã giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Từ đây, không ai có thể nhận được ơn cứu độ nếu không đi “con đường thập giá” (x Mt 16,24) và không được tái sinh bởi nước và Thần Khí (x Ga 3,5). Vì dưới gầm trời này không một danh nào khác ban ơn cứu độ ngoài danh Giê-su Ki-tô. + Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người: Thực ra các môn đệ đã không xem thấy Chúa Cha vì Người thiêng liêng vô hình, mà chỉ xem thấy Chúa Giê-su, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm. Tuy nhiên ai xem thấy Chúa Giê-su cũng như đã xem thấy Chúa Cha rồi, vì Chúa Giê-su chính là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x Mt 1,23), và Người hằng làm đẹp lòng Chúa Cha (x Mt 17,5), vâng theo ý Cha. Có lần Người đã khẳng định: “Tôi và Chúa Cha là Một” (Ga 10,30).

– C 8-10: + Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha: Phi-líp-phê yêu cầu Đức Giê-su chỉ cho ông xem thấy Chúa Cha như ông Mô-sê xưa đã xem thấy Đức Chúa trong đám mây trên núi Si-nai (x. St 24,9-17). + Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha: Đức Giê-su đã cho Phi-líp-phê biết: ngày nay Thiên Chúa sẽ không tỏ hiện trong sấm chớp như xưa, mà sẽ ngự nơi con người Đức Giê-su. Từ nay không có con đường nào khác để người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa, ngoài con đường duy nhất là Đức Giê-su (x. Ga 1,18), vì Người là đầu của thân thể nhiệm mầu là Hội Thánh (x Ep 5,23). + Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy: Chúa Cha được biểu lộ qua Đức Giê-su là Con Một của Ngài (x. Ga 12,45; 14,7). Chúa Cha sẽ được tỏ mình ra cách hoàn hảo qua đời sống, lời nói và việc làm của Đức Giê-su. Vì Người luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và làm theo ý Chúa Cha.

– C 11-12: + Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm: Đó là được tham phần vào sứ mạng cứu độ loài người của Đức Giê-su. + Còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha: Không phải các môn đệ sẽ làm được những phép lạ lớn hơn Đức Giê-su. Nhưng sau khi Người lên trời, các ông sẽ được trao cho sứ mạng thay Người đi loan báo Tin Mừng cho các dân tộc đến tận cùng thế giới, với ơn phù trợ của Thánh Thần (x.Cv 1,8).

CÂU HỎI:

1) Tại sao các môn đệ bị xao xuyến khiến cho Đức Giê-su phải động viên tinh thần của các ông? 2) Đức Giê-su muốn nói gì qua câu “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”? 3) Đức Giê-su đã hứa sẽ đi trước dọn chỗ và khi nào Người sẽ trở lại đón các môn đệ đi theo Người? 4) Khi tự ví mình là con đường, là sự thật và là sự sống, Đức Giê-su muốn dạy các tín hữu điều gì? 5) Câu “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” nghĩa là gì? 6) Ngay từ bây giờ các môn đệ đã xem thấy Chúa Cha qua hình ảnh của ai? 7) Từ đây ai muốn gặp được Chúa Cha thì phải gặp qua người nào? 8) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ làm được những việc Người đã làm và còn làm được những việc lớn hơn nữa, cụ thể là những việc gì?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. Lời Chúa: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
  3. Câu chuyện:

1) THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG QUYỀN NĂNG VÀ VÔ HÌNH:

Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám mục trong nước vào hoàng cung. Vua ra lệnh cho các giám mục: trong một tuần lễ phải chứng minh được là có Thiên Chúa. Nếu không chứng minh được thì tất cả các giám mục sẽ bị khép vào tội lừa bịp dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi nan giải, vì làm sao có thể chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô hình được? Rồi càng gần đến ngày hẹn, tâm trạng các vị giám mục càng thêm bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết câu chuyện, liền đến yêu cầu nhà vua được thay các giám mục chỉ cho nhà vua nhìn thấy Thiên Chúa. Đúng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng quần thần lên một ngọn đồi đang lúc trưa hè nắng gắt, rồi chỉ tay lên mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin nhìn theo ngón tay của thảo dân, thì bệ hạ sẽ thấy Thiên Chúa”. Nhà vua và các cận thần đều nhìn lên mặt trời theo hướng tay của anh tu sĩ kia đã chỉ, nhưng không ai có thể xem thấy gì vì bị ánh sáng mặt trời làm chói mắt. Bấy giờ nhà vua liền nổi cơn lôi đình truyền thị vệ chém đầu anh tu sĩ trẻ kia vì đã dám đánh lừa mình. Vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua thưa rằng: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi nhìn xem Thiên Chúa. Thế mà mặt trời chỉ là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ đã không thể xem thấy được, thì làm sao bệ hạ đòi nhìn thấy chính Thiên Chúa là Đấng vô cùng cao cả được? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng vì Ngài thiêng liêng vô hình, nên người phàm mắt thịt không thể xem thấy Ngài, mà chỉ có thể thấy Ngài bằng mắt đức tin thôi”. Nhờ câu nói này của anh tu sĩ trẻ và các giám mục đã không bị khép tội khi quân và khỏi bị hành hình.

Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã nói với môn đệ Phi-líp-phê rằng: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình (Ga 14,9-10).

2) TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ NIỀM AN ỦI VÀ HY VỌNG CHO CUỘC SỐNG MAI SAU:

Trong một gia đình nọ. Ông chồng là người không tin có Thiên Chúa. Ông thường nhạo báng việc cầu nguyện dự lễ để thờ phượng Thiên Chúa. Trái lại, bà vợ của ông lại là một tín hữu sùng tín. Hằng ngày bà đều đến nhà thờ cầu nguyện cho chồng sớm được ơn trở về với Chúa. Bà luôn ăn ở ngay lành và dạy con sống tốt lành đạo đức để sau khi chết được lên thiên đàng hưởng nhan thánh Thiên Chúa. Dù sống giữa hai niềm tin trái nghịch giữa bố mẹ, người con trai duy nhất của hai người vẫn sống ngoan ngoãn với cha mẹ. Rồi một ngày kia, đứa con trai yêu quý bị mắc cơn bệnh phổi hiểm nghèo. Nghe bác sĩ cho biết mình sắp bị chết, em đã hỏi ông bố bấy giờ đang ở bên giường bệnh rằng: “Bố ơi, xin bố hãy nói thật cho con biết: sau khi chết con sẽ đi về đâu? Nếu theo mẹ dạy thì con sẽ được về trời gặp gỡ Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương con và sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi với Chúa và sau này còn được đoàn tụ với cả bố mẹ trên thiên đàng. Còn nếu theo bố thì sau khi chết sẽ chẳng còn gì nữa: con sẽ chẳng còn ai để yêu thương con và bảo vệ cho con…

Ông bố nghe đứa con yêu hỏi mà tê tái lòng. Ông liền ôm con vào lòng và nói với con: “Bố đã sai rồi con ạ. Con hãy tin theo mẹ con nhé”. Đứa con lại nói: “Nhưng nếu bố không cùng tin Chúa như mẹ, thì làm sao sau này con có thể gắp được cả bố mẹ trên thiên đàng được?” Trước lời nói đơn sơ của đứa con thân yêu, ông bố của em đã không kềm nổi những giọt nước mắt thống hối. Sau ngày con qua đời, ông đã xin theo học khóa giáo lý dự tòng. Nhờ được nghe Lời Chúa, ông đã đạt tới đức tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa và thiên đàng đời sau. Ông đã tập sống đức tin bằng việc thực tập đức cậy và đức mến. Cụ thể là cầu nguyện sớm hôm để phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, thực thi yêu thương bằng sự tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giê-su. Ông năng đến nhà thờ dự lễ và rước lễ để được kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể là mầm sống lại trong ngày sau hết. Ông xác tín Chúa Giê-su chính là con đường duy nhất dẫn đưa ông lên trời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa như lời Người dạy: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

  1. Suy niệm:

1) Nội dung Tin Mừng hôm nay:

Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho môn đệ Phi-líp-phê khi ông muốn Thầy chỉ cho xem thấy Chúa Cha. Đức Giê-su nói: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ngày nay muốn nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giê-su. Vì Người là Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi mặc lấy thân xác phàm nhân để nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội (x. Ga 1,14). Đức Giê-su cũng trấn an các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh như sau: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga. 14,1-2).

Tin mừng hôm nay cũng mặc khải cho chúng ta: Mọi người trên trần gian đều có một Cha chung trên trời là Thiên Chúa, và đều là anh em với nhau. Sau này chúng ta sẽ được đoàn tụ với Thiên Chúa và với nhau trên Thiên Đàng. Thánh Phao-lô cũng dạy: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ có thể lên trời với Thiên Chúa qua con đường Giê-su như Người đã nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha nếu không qua Thầy” (Ga 14,6). Vậy Con Đường Giê-su có những đặc điểm nào? Và chúng ta phải làm gì để đi tới đích là được về quê trời với Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng?

2) Những đặc điểm của Đường Giê-su?

1) Đức Giê-su là Đường: Con đường lên trời vô cùng khó khăn và vượt quá tầm khả năng hữu hạn của người phàm. Chỉ có Đức Giê-su, Đấng từ trời mà đến, trở thành “Em-ma-nu-el” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, mới có khả năng chỉ đường lên trời cho chúng ta như Người đã nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Người luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống (x. Lc 24,15) và ban Thánh Thần giúp chúng ta về tới thiên đàng đời sau.

2) Đức Giê-su là sự thật và là sự sông: Người dạy cho chúng ta sự thật là các mầu nhiệm của Thiên Chúa, ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương loài người và sai Con Một xuống thế để dạy loài người con đường cứu độ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài ngươi. Chính Sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta nếu chúng ta tin vào Đức Giê-su (x. Ga 8,32)

3) Đi con đường của Đức Giê-su là chọn con đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi; Là chấp nhận “qua đau khổ sự chết để vào vinh quang phục sinh” theo thánh ý Chúa Cha; Là “mến Chúa yêu người” theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su; Là “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa”, là khiêm tốn rửa chân phục vụ anh em và quảng đại chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, góp phần chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của tha nhân, năng thăm viếng an ủi những người sầu khổ bất hạnh… Là sẵn sàng chịu đựng những sỉ nhục và đau khổ vì danh Chúa như các Tông đồ xưa. Tóm lại là sống theo bản hiến chương Nước Trời là “Tám Mối Phúc Thật“ do Chúa Giê-su đã công bố.

  1. Chúng ta phải làm gì?:

– Nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su: Trở thành Ki-tô hữu tức là thành một Chúa Giê-su khác trước mặt người đời. Mỗi tín hữu chúng ta phải sống thế nào để có thể nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Chúa Giê-su. Ai thấy tôi là thấy Chúa Giê-su, vì chính Chúa Giê-su đang sống trong tôi”. Từ nay, chúng ta cần xác tín rằng: Chỉ có Con Đường Giê-su mới dẫn đưa chúng ta lên trời. Tông đồ Phê-rô cũng đã quả quyết trước Thượng Hội Đồng Do thái như sau: “Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, Tảng Đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,11-12).

– Phải về quê trời cùng với tha nhân: Đức Giê-su đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một cuộc đời yêu thương tận hiến và đã trải qua cuộc khổ nạn theo thánh ý Chúa Cha. Cuộc đời của Người đã trở thành con đường lên trời của các tín hữu chúng ta hôm nay. Khi suy niệm Lời Người và sống gắn bó với Người trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ hiểu biết ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì và sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su. Nếu chúng ta đi trên Con Đường Giê-su thì chính chúng ta cũng sẽ trở thành con đường để giúp anh em lương dân đến với Đức Giê-su. Chính nhờ gặp gỡ chúng ta, họ sẽ nhận biết Chúa Giê-su qua lời nói, việc làm và lối ứng xử hiền hòa nhân ái yêu thương phục vụ của chúng ta. Rồi “nhờ Người, với Người và trong Người”, họ sẽ gặp được Thiên Chúa Cha và trở thành con Chúa Cha trong gia đình Hội Thánh ở đời này, để sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha và với công đoàn tín hữu trên thiên đàng đời sau.

  1. Thảo luận:

1) Bạn có đồng ý với lập luận: “Đạo nào cũng tốt. Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng cần truyền đạo cho ai. Chỉ cần giúp anh em lương dân sống theo lương tâm hay sống đạo làm người là đủ”? Tại sao? 2) Khi gặp một hoàn cảnh nan giải, bạn cần làm gì để nhận biết thánh ý Thiên Chúa và vâng theo? 3) Hát bài kết thúc như sau: “Con đây! Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì?”

  1. Nguyện cầu:

Lạy Chúa Giêsu. Chúng con cảm thấy mình thật nhỏ bé và bất lực, khó lòng có thể chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa đã trao cho Hội Thánh trước khi lên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: Sứ mạng truyền giáo trước hết phải thực hiện cho những người thân quen như: cha me, vợ chồng, con cái, anh em và bạn bè của chúng con, rồi sau đó mới đến người khác. Xin giúp chúng con năng nhìn ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và suy niệm các hành vi và lời dạy của Chúa, vì Chúa chính là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy và quyết tâm thực hành ý Chúa trong đời sống thường ngày. Xin cho chúng con biết từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ ngày một nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người.

  1. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

85. Dọn chỗ cho anh em – Huệ Minh

Nhiều lần nhiều lúc không muốn nói ra hay ngại nói nhưng con người cảm thấy bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu.

Thầy đi đâu? Đằng sau câu hỏi này là tâm trạng hoang mang bất ổn trước một dĩ vãng vừa mới khép lại mà tương lai thì chưa kịp mở ra. Tương lai ấy hoàn toàn đổi mới hay chỉ là một dĩ vãng được lặp lai nơi chính bản thân mình. Đã một lần vỡ mộng, các ông băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần bị phỏng, hễ thấy lửa, là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế trong câu hỏi: Thầy đi đâu? Cũng nói lên nỗi âu lo rằng mình sẽ đi đâu? Thất vọng về dĩ vãng. Hoang mang trước tương lai đó là con đường các tông đồ đã nếm trải.

“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vứa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”.

Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là Giêsu. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới của cuộc đời người Kitô hữu, cuộc đời của những ai tin vào Ngài.

Hình ảnh ‘con đường’ rất gần gũi, vì đó là thực tế cuộc sống mà hằng ngày mọi người đều cảm nhận sự cần thiết không thể thiếu của nó (con đường).

Để có thể đi đến nơi này nơi kia, thực hiện việc này việc nọ, mọi người đều phải đi trên ‘đường’; nếu không có đường đi, con người không thể đến được nơi mình muốn đến và càng không thể thực hiện được ước muốn mà mình muốn. Từ ‘con đường’ của trần thế mà mọi người đi trên đó để đạt được mục đích của mình, đến được nơi mình muốn đến; chúng ta suy nghĩ ‘con đường về trời’ (con đường thiêng liêng); và một khi hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết ‘phải có con đường’, chúng ta mới nhận ra và hiểu lời mà Chúa Giêsu nói hôm nay: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Thầy là đường là sự thật và là sự sống: Chúa Kitô là đường, là con đường dẫn đưa nhân loại tới với Thiên Chúa. Chúa Kitô cũng là sự thật, vì Chúa Kitô không hề dối gạt ai; và vì Ngài là sự thật, nên Ngài cũng chính là con đường thật, sẽ đưa ta tới đích, chính là Thiên Chúa. Chúa Kitô là sự sống, vì Chúa Kitô là con đường và là sự thật, nên Ngài chính là Người đem lại sự sống thật cho chúng ta… Nói một cách vắn tắt, Chúa Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai; mà Thiên Chúa là Đấng Toàn Mỹ, nơi Thiên Chúa không hề có hình bóng của sự xấu, sự ác; chính vì thế, khi Chúa Kitô tự xưng mình là đường, là sự thật, và là sự sống… Điều đó có nghĩa Chúa Kitô chỉ nói lên sự thật, không hề thêm bớt, và cũng từ đó có ý nghĩa, chỉ một mình Thiên Chúa mới là đường là sự thật và là sự sống mà thôi…

Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ

“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, để làm gì? để đừng xao xuyến!

Lời mời gọi cho chúng ta thấy Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi lòng của các ông, thấu hiểu những lo toan … có cả nỗi sợ hãi của cuộc sống hiện tại và tương lai mà các ông đang và sẽ trải qua. Cuộc đời con người là như thế, được dệt nên bởi những niềm vui – nỗi buồn, bởi những thành công – thất bại, bởi những hy vọng – lo lắng…, xem ra dễ dàng dẫn họ tới thất vọng, chán nản, xao xuyến và buông xuôi tất cả. Thế nhưng cuộc đời người tông đồ của Đức Giêsu thì lại không như vậy; dẫu biết rằng họ vẫn sống, vẫn trải qua những vui – buồn của kiếp người như bao người khác, nhưng tinh thần thì lại khác hẳn, vì sao? Vì họ có Chúa Giêsu đồng hành và nâng đỡ nên họ không còn xao xuyến và sợ hãi nữa, mà ngược lại họ sống đầy hy vọng bởi đã thiết lập với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu mối tương giao được đặt trên nền tảng Đức Tin.

Chúa Giê-su đã hứa rằng: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.

Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Auguatinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài”.

Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống và sống dồi dào.

Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang kêu gọi mọi người hãy đi vào con đường của Ngài để tìm được sự thật và sự sống. Chúng ta đừng chạy theo thế gian vì nó sẽ hư đi với những đam mê của nó, nhưng hãy cố gắng đi vào con đường hẹp của Chúa. Chúng ta hãy mở Thánh Kinh ra, chúng ta sẽ tìm thấy Chúa và tìm ra con đường mình phải đi.

print