Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 7 Thường Niên C

print

Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 7 Thường Niên C

Lời Chúa: 1Sm 26,2.7-9.12-13.22-23; 1Cr 15,45-49; Lc 6,27-38

MỤC LỤC

  1. Hãy yêu kẻ thù. 4
  2. Yêu thương. 7
  3. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 11
  4. Bác ái vô biên – ViKiNi 15
  5. Lấy ân trả oán. 18
  6. Yêu thương kẻ thù. 22
  7. Luật yêu thương. 35
  8. Tiến mãi không ngừng. 38
  9. Sự tha thứ cho tất cả. 41
  10. Yêu thương kẻ thù. 44
  11. Hãy yêu kẻ thù. 46
  12. Yêu người tột độ. 50
  13. “Hãy yêu kẻ thù”. 52
  14. Yêu thương. 57
  15. Tinh thần Phúc Âm mới. Yêu mến thù địch. 60
  16. Ba điều kiện để xét đoán. 68
  17. Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em.. 72
  18. Công lý Chúa. 76
  19. Hãy có lòng nhân hậu như Chúa. 79
  20. Đừng nhìn nhau là kẻ thù. 83
  21. Tinh thần mới – R. Gutzwiller. 86
  22. Gieo gì, gặt nấy. 90
  23. Chú giải của Fiches Dominicales. 93
  24. Cho đi 98
  25. Nhìn ra nhau là anh chị em.. 100
  26. Yêu thương. 105
  27. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi 107
  28. Luật yêu thương. 111
  29. Kẻ nội thù. 113
  30. Yêu thù địch. 115
  31. Yêu thương. 117
  32. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi 119
  33. Hãy yêu kẻ thù. 124
  34. Yêu như Chúa yêu. 126
  35. Tha thứ. 127
  36. Lòng nhân từ Chúa. 130
  37. Yêu thương kẻ thù. 132
  38. Yêu thương kẻ thù. 134
  39. Yêu thương kẻ thù. 136
  40. Kẻ thù. 139
  41. Yêu thương. 142
  42. Yêu thương. 144
  43. Yêu thương kẻ thù. 147
  44. Nền văn minh tình thương. 149
  45. Nền văn minh tình thương. 154
  46. Yêu thương. 159
  47. Yêu thương. 161
  48. Yêu thương. 164
  49. Tha thứ. 168
  50. Yêu thương kẻ thù. 171
  51. Đừng xét đoán. 173
  52. Hãy cho. 175
  53. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.. 177
  54. Yêu cả kẻ thù mình – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.. 181
  55. Cuộc thảo luận tốt về Kitô giáo. 183
  56. Đừng xét đoán. 186
  57. Suy niệm của JKN.. 188
  58. Hãy đối xử nhân từ – Lm. Trần Bình Trọng. 192
  59. Yêu người như Chúa. 195
  60. Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 198
  61. Chú giải của William Barclay. 205
  62. Tha thứ sẽ được thứ tha. 208
  63. Chú giải của Noel Quesson. 210
  64. Suy niệm của Noel Quesson. 216
  65. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin. 219
  66. Yêu kẻ thù, lòng nhân ái từ bi (Lc 6,27-38). 222
  67. Cách sống của môn đệ. 233
  68. Thực thi yêu thương để biến thù thành bạn. 237
  69. Yêu như Thầy đã yêu. 246

 

1.Hãy yêu kẻ thù

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Đức Giêsu, chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi, hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ.

Chắc chắn Đức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác, hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân.

Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.” Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược.

Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc, vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu. Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới.

Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống. Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo.

“Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần.

Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai? Đó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống. Đó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi.

Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp. Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi, là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi. Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi.

Đức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân: về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động.

Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay. Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28).

Khi làm điều tốt cho kẻ thù, tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng, và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ của họ.

Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi.

Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay một người làm tôi vô cùng đau khổ. Đó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Đó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu, nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng.

Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên. Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên… Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình, mới vào được thế giới siêu nhiên, thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha.

Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện.

Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học, nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ. Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương.

Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.

Gợi Ý Chia Sẻ

Làm điều tốt cho kẻ thù, bạn có kinh nghiệm về điều này chưa? Bạn có khi nào chinh phục được một người nhờ yêu mến họ không?

Theo ý bạn, tại sao lại không nên xét đoán người khác? Dựa vào hành động bên ngoài, chúng ta có thể xét đoán lòng dạ một con người không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.

 

2.     Yêu thương

Huyền thoại Hy lạp kể lại rằng:

Narcisse là một vị thần rất đẹp trai, khiến cho nàng tiên Echo đem lòng yêu thương say đắm. Thế nhưng, Narcisse không những đã cự tuyệt mối tình say đắm ấy, mà còn biến nàng thành tượng đá.

Ngày kia, Narcisse đi lang thang, tình cờ chàng đến bên một giòng suối. Chàng nhìn ngắm bóng hình mình in trên mặt nước và cảm thấy ngất ngây vui sướng. Chàng cố sức nắm bắt bóng hình ấy, nhưng không tài nào nắm bắt được. Chính vì thế, chàng sinh ra buồn sầu, ủ rũ và qua đời. Sau khi chết, chàng hóa nên cây thủy tiên, mọc bên giòng suối.

Bởi đó trong tiếng Pháp, danh từ “narcisse” có nghĩa là kẻ hợm hĩnh về sắc đẹp của mình, còn danh từ “narcissisme” có nghĩa là lòng tự kiêu quá đáng.

Mỗi người chúng ta, không ít thì nhiều, cũng giống như chàng Narcisse đáng buồn ấy, bởi vì ai cũng yêu mình thái quá, ai cũng thích khoe rằng mình tài, mình giỏi, mình đẹp, mình hay… Ai cũng muốn mình là nhân vật số một, mình là “number one”, mình là trung tâm của thế gian, mình là cái rốn của vũ trụ. Ai cũng thường nghĩ rằng kẻ khác sinh ra là để phục vụ cho mình và rồi cuối cùng mình sống trong cô độc và chết trong quạnh hưu, còn bản thân cũng chẳng hóa kiếp thành cánh hoa thủy tiên mọc bên giòng suối hư vô.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã đến để giải thoát con người khỏi tình cảnh đáng thương ấy. Ngài chỉ cho chúng ta phương thức khai thông những bế tắc, bằng cách tận diệt cái tôi ích kỷ và kiêu căng để đến với tha nhân và yêu thương anh em đồng loại.

Cụ Phan bội Châu đã viết trong “Lưu cầu huyết lệ thư” như sau:

– Con chim sắp chết hót tiếng hót bi thương, con người sắp chết nói lời tâm huyết.

Lời tâm huyết của Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ trong phòng tiệc ly, trước khi Ngài ra đi chịu chết, đó là:

– Thày truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau.

Bản tính của Chúa chính là Tinh yêu và cốt lõi của đạo Chúa cũng chính là Tình yêu. Sở dĩ đạo Chúa được gọi là đạo Công giáo vì đã dạy một điều phổ quát, chung cho mọi người, đó là hãy yêu thương nhau.

Tất cả những ai yêu thương anh em, đều là người có đạo, đều là Kitô hữu, đều là môn đệ của Chúa. Thực vậy, Ngài đã truyền day:

– Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con hãy yêu thương nhau.

Trong ngày sau hết, chúng ta sẽ bị tra vấn về những hành động bác ái, và công hay tội của chúng ta được ấn định dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất đó là tình yêu, như chúng ta đã thấy trong hoạt cảnh của ngày phán xét:

Ai cho người đói được ăn, người khát được uống, người trần trụi được mặc, ai thăm viếng người đau yếu, người bị giam cầm, ai nhường cơm sẻ áo va tiếp đón khách lạ… thì sẽ được ân thưởng hạnh phúc thiên đàng.

Vậy chúng ta phải yêu thương anh em như thế nào?

Chính Chúa đã dạy:

– Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con.

Đây là một tiêu chuẩn, một đòi hỏi rất cao, cũng cao như tiêu chuẩn và đòi hỏi:

– Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.

Yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương chúng ta. Về số lượng, Chúa đã yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ thù địch, bằng chứng là trên thập giá, Ngài đã cầu nguyện cho những kẻ làm khốn mình:

– Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết việc chúng làm.

Về phẩm chất, Chúa đã yêu thương chúng ta tới mức đã đổ hết máu mình ra để tầy xóa tội lỗi chúng ta như lời Ngài đá phán:

– Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.

Trong cuộc sống, có những vị thánh, nhờ ơn Chúa, đã thực hiện được một ty cao cả như thế, chẳng hạn các thánh Tử đạo Việt Nam đã đổ máu đào để làm chứng cho Chúa, thánh Maximilianô Kolbê đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù, Cha Đamiêng đã tình nguyện sống giữa những người phong cùi ở hải đảo Molokai để giúp đỡ họ, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã tận tình chăm sóc những người bất hạnh và nghèo khổ.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương Chúa truyền dạy hay chưa? Nếu có, thì tình thương của chúng ta đã vượt khỏi những người thân quen, để tìm đến với những kẻ bất hạnh và khổ đau, nhất là đến với kẻ kẻ thù oán, ghét bỏ chúng ta hay chưa?

Chúng ta có giám hy sinh thời giờ, tiền bạc và công sức để giúp đỡ những kẻ chẳng may gặp phải tai ương hoạn nan, như người Samaria nhân từ đã làm cho kẻ gị cướp đánh dọc đường hay không?

Chúng ta có nhớ rằng số phận đời đời của chúng ta lệ thuộc vào những hành động bác ái yêu thương chúng ta đã làm hay đã không làm để giúp đỡ nhung người chung quanh hay không?

Dĩ nhiên, không phải mọi Kitô hữu đều có lòng bác ái yêu thương, nhưng chắc chắn rằng những người có lòng bác ái yêu thương đều là môn đệ của Chúa và như vậy họ đều là Kitô hữu, như lời Ngài đã xác quyết:

Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.

Nếu bây giờ tạm gác bỏ những việc bên ngoài như xưng tội rước lễ, tới nhà thờ đọc kinh cầu nguyện…để chỉ căn cứ vào những việc bác ái yêu thương, thì liệu người khác có còn nhận ra chúng ta là Kitô hữu, là môn đệ của Đức Kitô nữa hay không?

Cầu nguyện

Lạy Chúa, trong cuộc sống có lẽ chúng con đã nghe và đã nói quá nhiều về tình yêu, nhưng còn việc làm thì lại chẳng được bao nhiêu. Chúng con chỉ mới yêu bằng tai, thương bằng miệng, chứ chưa thực sự yêu thương bằng việc làm, bằng hành động. Xin Chúa giúp chúng con biết giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ nghèo túng và khổ đau, để nhờ đó chúng ta trở nên người môn đệ đích thực của Chúa.

 

3.     Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Tòa án nhân dân thành phố Hán Trung, tỉnh Thiêm Tây, Trung Quốc vừa tuyên án tử hình đối với Zhang Koukou, 36 tuổi.

Zhang phạm tội giết hại 3 người hàng xóm, bao gồm ông Wang Zizin (70 tuổi) cùng hai con trai Wang Zhengjun (40 tuổi) và Wang Xiaojun (46 tuổi) ngụ tại huyện Nam Trịnh, thành phố Hán Trung. Án mạng xảy ra ngày 15/12/2017 đúng vào dịp Tết Nguyên Đán.

Mới đây, tại phiên xử ngày 8/1/2019, tòa cho biết bị cáo Zhang đã theo dõi gia đình nạn nhân khi họ viếng mộ vào buổi tối; kế đó đâm chết 2 người con trai của gia đình Wang đang trên đường về nhà.

Tiếp theo, bị cáo đột nhập vào nhà họ Wang, đâm liên tiếp vào nạn nhân Zixin cho đến khi ông cụ thiệt mạng.

Bị cáo trở về nhà lấy 1 con dao khác và 2 bình xăng, sau đó đập nát cửa kính ô tô của Wang Xiaojun, đặt thi thể các nạn nhân vào trong rồi châm lửa đốt để phi tang chứng cứ. Nhưng cuối cùng, sự thật cũng được phơi bày và kẻ thủ ác đã phải trả giá cho tội lỗi của mình.

Theo phiên tòa, động cơ giết người đã bắt nguồn từ 22 năm trước. Năm 1996, mẹ bị cáo cãi nhau với cậu thanh niên nhà hàng xóm là Wang Zhengjun, đập vào đầu anh ta bằng một mảnh kim loại.

Wang Zhengjun kế đó lấy khúc gỗ đập vào đầu người phụ nữ dẫn đến tử vong. Cậu bé Zhang Koukou lúc đó 13 tuổi cũng có mặt tại hiện trường, tận mắt chứng kiến cái chết của mẹ và nung nấu ý định trả thù suốt hơn 20 năm nay.

Trở lại năm 1996, xét thấy Wang Zhengjun chỉ mới 18 tuổi, hơn nữa người phụ nữ còn tấn công trước, tòa đã xử phạt Zhengjun 7 năm tù giam và yêu cầu bồi thường cho gia đình nạn nhân 9.639,3 nhân dân tệ (tương đương 32,8 triệu đồng theo tỷ giá hiện nay). (Theo SCMP)

Nhìn lại lịch sử loài người có lẽ không lúc nào mà không có những câu chuyện thương tâm về việc báo thù: Báo thù giữa các quốc gia, báo thù giữa các bộ lạc, báo thù giữa các dòng họ, báo thù giữa các gia đình, báo thù giữa các tập thể và cá nhân, thậm chí báo thù ngay trong các thành viên của một gia đình. Người ta báo thù vì quyền, vì tiền, vì tình. Người ta cũng có thể báo thù chỉ vì người khác đẹp hơn, giàu có hơn, tài giỏi hơn mình. Trường hợp xảy ra trong bài đọc thứ I là một ví dụ: Vua Saolê ghen tức Đavít, tìm cách trả thù Đavít chỉ vì Đavít tài giỏi hơn, đánh được nhiều kẻ địch hơn, được dân chúng mến mộ hơn mình. Có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng nuôi hận thù, tìm cách trả thù người khác vì những lý do trên hay vì những lý do không đâu. Nhưng dầu là lý do nào đi chăng nữa thì đối với người kitô hữu không bao giờ được phép báo thù. Tin mừng hôm nay Đức Giêsu dạy chúng ta rằng: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình.” (Lc 6,27-38). Như vậy, Đức Giêsu dạy chúng ta không những không được báo thù mà còn phải yêu kẻ thù, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ nữa.

Chính Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta mà Ngài còn làm gương cho chúng ta. Trong ba năm cuộc đời công khai, Ngài đã từng tha thứ tội lỗi cho nhiều người: Cho Giakêu, cho Lêvi, cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình… Dù biết Giuđa là kẻ phản bội, nhưng Ngài vẫn nhiều lần dùng cách này hay các khác để can ngăn, nhằm giúp Giuđa từ bỏ ý định phản bội của mình. Khi Phêrô chém đứt tai một tên lính đến bắt Ngài, Ngài không coi nó là kẻ thù, trái lại đã lập tức chữa lành tai cho hắn. Đặc biệt, trên thập giá trước khi trút hơi thở cuối cùng, Ngài đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34).

Các thánh cũng đã làm gương cho chúng ta: Đứng trước những cơn mưa đá người ta ném vào Ngài, Thánh Stêphanô bình tĩnh cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông qùi xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa xin đừng chấp họ tội này.”(x. Cvtđ 7, 59-60). Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến nhà tù thăm, nói chuyện và tha thứ cho Ali Agca là kẻ bắn Ngài tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 13/05/1981. Trước khi trút hơn thở cuối cùng, Thánh Maria Goretti đã nói với Cha giải tội rằng: “Con muốn anh Alexandro cũng được ở trên Thiên đàng với con.” Chính Alexandro là kẻ giết Ngài.

Bài đọc thứ nhất hôm nay kể lại cho chúng ta biết về sự kiện vua Saolê cùng với ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít. Nhưng trong một tình huống khó lường. Chẳng những vua Saolê không làm gì được Đavít, trái lại Đavít có thể lấy mạng vua Saolê một cách dễ dàng khi vua còn ngủ. Nhưng Đavít đã không làm thế. Đavít đã không giết kẻ đang làm hại chính mình.

Tóm lại, yêu kẻ thù là lời dạy của Đức Giêsu, là nét đặc trưng trong cách sống của người kitô hữu. Tuy vậy, lời dạy này vẫn luôn khó thực hiện đối với mọi người. Vì thế, trong cuộc sống ít nhiều chúng ta đã nuôi hận thù trong tư tưởng, lời nói, thậm chí đã từng trả thù người khác. Xin Chúa tha thứ cho chúng ta, đồng thời xin cho mọi người chúng ta biết noi gương Chúa, noi gương các thánh, noi gương hành động của Đavít trong bài đọc thứ nhất, luôn biết yêu kẻ thù, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ nữa. Làm được như vậy mới xứng đáng là người kitô hữu, như một giáo phụ đã khẳng định rằng: “Ai không yêu thương kẻ thù của mình, thì người đó không phải là Kitô hữu.”

 

4.     Bác ái vô biên – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)

Tất cả các nền luân lý của nhân loại đều đề cập đến yêu người, nhưng yêu thương kẻ thù thì đặc biệt chỉ có giáo lý Đức Giêsu đòi hỏi thôi. Kẻ thù được xác định rõ ràng là những kẻ oán ghét, nguyền rủa, nhục mạ mình, là những kẻ vả má đánh đập, làm hại bóc lột mình đến cả áo mặc nữa. Chứ không phải kẻ thù xa lạ của đoàn thể hay đất nước. Kẻ thù chính cá nhân ta mới rất khó tha thứ và yêu thương.

Sách Đông Châu Liệt Quốc có kể hai anh em Cựu Tử và Bạch Tử tranh nhau chiếm ngai vàng nước Tề. Quản Trọng phò Cựu Tử, bạn chí thân của ông là Bào Thúc Nha phò Bạch Tử. Quản Trọng mưu bắn giết Bạch Tử để tôn Cựu Tử làm Vua, Bạch Tử không chết. Nhưng Cựu Tử lại bị Lỗ Hầu giết chết. Bạch Tử sống sót trở về làm Vua nước Tề. Bạch Tử phong Bào Thúc làm tướng quốc. Bào Thúc không dám nhận, lại tiến cử Quản Trọng.Vua rất kinh ngạc hỏi sao ông dám tiến cử kẻ thù đã mưu giết ta?. Bào Thúc nói: Vua muốn giữ nước Tề thì không cần Quản Trọng, nhưng muốn làm Vua thiên hạ thì phải nhờ Quản Trọng. Vua đã quên thù để lập nghiệp lớn.

Có phải Bạch Tử yêu thương kẻ thù như Đức Giêsu dậy chăng? Bạch Tử tha cho Quản Trọng và phong cho làm tể tướng không phải vì yêu kẻ thù, mà chỉ vì yêu mình, muốn Quản Trọng giúp mình làm bá chủ thiên hạ.

Bài đọc I cũng kể David đã không giết Saolê là kẻ thù đang đem 3000 quân đi lùng bắt giết David. Có phải David yêu kẻ thù chăng? Chắc là phải, vì David đã kính trọng Vua Saolê, là người đã được Chúa xức dầu. Như vậy, David vì mến Chúa mà tha thứ cho kẻ thù. Lòng kính mến Thiên Chúa chính là nền tảng đức bác ái vô biên. Ai nhận biết Thiên Chúa là Cha mình, mới nhận ra mọi người là anh em thật của mình và không còn ai là kẻ thù.

Đức Giêsu là con Thiên Chúa, đã muốn cho tất cả mọi người là anh em của Ngài, nhờ đó mọi người được làm con Thiên Chúa, cho nên không còn ai là kẻ thù. Vì thế, dù biết Giuda là kẻ nội phản, dẫn quân dữ đến bắt Ngài, Ngài vẫn hiền từ thương yêu và gọi Giuda là bạn chí thiết. Tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai, Ngài vẫn làm ơn chữa lành tai cho nó, không coi nó là kẻ thù. Nhất là khi hấp hối đau đớn cùng cực trên thập giá, Ngài vẫn tha thiết cầu khẩn Đức Chúa Cha tha tội những kẻ giết Ngài vì chúng lầm chẳng biết. Thánh Stêphannô thấm nhuần giáo lý yêu thương vô biên đó, nên khi bị những trận cuồng phong ném đá Ngài như mưa, Thánh nhân đã cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông qùi xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa xin đừng chấp họ tội này”. (Cvtđ. 7, 59-60).

Ngày 13/05/1981 cả thế giới đều sửng sốt kinh hoàng về tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát tại chính công trường Thánh Phêrô. Ali Agca, một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ, thủ phạm bắn Ngài, lại được Ngài đến thăm, nói chuyện và tha thứ cho anh. Tình yêu nào đã khiến Đức Giáo Hoàng thương yêu kẻ thù như bạn hữu của mình? Chỉ có tình yêu của Đức Giêsu đã thúc đẩy vị đại diện của Người dưới trần gian này đã có lòng bác ái vô biên như vậy. Chính tình yêu của Đức Giêsu cũng đã thúc đẩy ông Grandhi hết lòng thương yêu kẻ thù bằng dùng phương pháp bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn thoát ách nô lệ dân Anh và hòa giải dân Ấn với Hồi không còn coi nhau như kẻ thù truyền kiếp nữa. Họ đã tôn kính Grandhi như Cha già dân tộc và là vị đại ân nhân nhất của họ. Cả thế giới đều gọi ông là thánh Grandhi. Nhưng ngày 30/01/1948 đang lúc ông cầu nguyện tạ ơn vì bản hòa ước đã ký kết giữa hai dân Ấn-Hồi, thì ông bị chính người đồng bào bắn chết. Ông chỉ kêu lên được hai tiếng: Rama, Rama: Chúa ơi, Chúa ơi và giơ tay làm một cử chỉ tha thứ cho kẻ bắn ông.

Nhà văn Nguyễn Hiến Lê trong Gương Danh Nhân đã hỏi: Nhờ đâu, Grandhi lúc còn nhỏ là con người tầm thường, chơi bời, đàng điếm, ghen tương lại trở nên một thánh nhân vĩ đại của Ấn và của cả thế giới? (Tr. 81). Bách khoa tự đển của Punk đã trả lời: “Ông đã thấm nhuần giáo lý của Đức Kitô, như câu: “Ai vả anh em má bên phải, hãy giơ cho nó má bên kia nữa” “He acknowledged a debt to the teaching of Christ as expressed in …”whosoever shall smite thee on the right check, turn to him the other also”. (Punk, Encyclopedia, 9,11. P. 3896). Chính bài Tin Mừng hôm nay đã biến đổi Grandhi từ một con người hèn yếu, thành một thánh nhân vĩ đại của nhân loại.

Còn đối với mỗi người chúng ta, bài Tin Mừng này có biến đổi chúng ta thành con Chúa biết “thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình” không?

Lạy Chúa, con đã xúc phạm đến Chúa biết chừng nào! Chúa vẫn tha thứ, hy sinh chịu chết cứu chuộc con và cho con được làm con yêu dấu của Chúa. Xin cho con nhận biết lòng từ bi nhân hậu của Chúa, cho con hết lòng yêu thương mọi người, dù họ thù ghét con mãi mãi.

 

5.     Lấy ân trả oán

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Tin mừng Lc 6: 27-38 “Lấy ân trả oán”, đó phải là phương châm hành động của người kitô hữu chúng ta. Không có cách trả thù nào cao quý hơn là yêu thương, tha thứ, giúp đỡ chính kẻ thù của mình. Nói như Thánh Phaolô: “Chúng ta đừng mắc nợ nhau điều gì, ngoài tình yêu mến”.

Những người thổ dân Nam Phi vẫn thường truyền tụng với nhau câu chuyện sau đây:

Có hai người thổ dân thù ghét nhau. Một hôm, một người bắt gặp cô con gái nhỏ của kẻ thù ở trong rừng một mình, hắn liền bắt lấy và chặt đứt hai ngón tay của cô bé. Cô bé vừa chạy về vừa khóc nức nở đau đớn. Còn tên hung thủ vừa đi vừa hò reo:

– “Ta đã trả được thù rồi!”

…Mười mấy năm sau, cô bé đáng thương ấy đã lớn lên và có gia đình. Một hôm, có một người ăn xin đến gõ cửa nhà cô. Ngay tức khắc, cô nhận ra người hành khất chính là kẻ đã hại cô mười mấy năm về trước. Nhưng cô không hề tỏ lòng oán hờn, không một lời mỉa mai, cô vội vàng xuống bếp lấy thức ăn lên hầu hạ kẻ đã hành hạ mình. Khi người hành khất đã ăn uống no say, người thiếu phụ liền đưa bàn tay bị cụt mất hai ngón ra và nói: “Tôi cũng đã trả được thù rồi!”

Anh chị em thân mến,

Lấy ân trả oán“, đó phải là phương châm hành động của người kitô hữu chúng ta. Không có cách trả thù nào cao quý hơn là yêu thương, tha thứ, giúp đỡ chính kẻ thù của mình. Nói như Thánh Phaolô: “Chúng ta đừng mắc nợ nhau điều gì, ngoài tình yêu mến”.

Chỉ có tình thương, chỉ có sự tha thứ mới tiêu diệt được hận thù. Lấy hận thù tiêu diệt hận thù, lấy bạo động trả cho bạo động, con người chỉ đổ thêm dầu vào lửa, thêm lửa vào hận thù và bạo động mà thôi.

Hôm nay Chúa kêu gọi chúng ta: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” – “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống mình”…

Lý tưởng cuộc sống của người con Chúa là nên giống Chúa. Nhưng làm thế nào để nên giống Chúa? Chúa là tình yêu, hoạt động của Chúa là do tình yêu thúc đẩy, là để biểu lộ và phân phát tình yêu cho các loài thụ tạo của Ngài, nhất là cho loài người.

Vì thế, Chúa dạy chúng ta muốn nên giống Chúa phải biết yêu thương. Giới răn của Chúa được tóm tắt trong hai điều là: chúng ta phải kính mến Chúa và yêu thương anh em. Kính mến Chúa thì phải yêu thương anh em, con cái của Ngài, và yêu thương anh em được xem như một dấu chỉ, một sự biểu lộ lòng kính mến Chúa.

Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu phổ quát, nghĩa là không trừ một ai, kể cả những người tội lỗi. Đối với Ngài, có thể nói, những người tội lỗi chính là những người được Chúa yêu thương hơn, đang khi còn hy vọng cứu được: Dụ ngôn người Mục Tử tốt lành đi tìm “chiên lạc” là một bằng chứng rõ rệt. Ngài yêu thương bằng một tình yêu thương vô vị lợi, một tình yêu siêu việt.

Ngài muốn dạy chúng ta yêu thương như Ngài đã yêu, chứ không phải yêu thương một cách tầm thường như lối yêu thương của người “đời”. Không phải chỉ yêu thương những người yêu thương mình, không phải chỉ thi ân cho những người làm ơn cho mình, cũng không phải chỉ cho vay mượn nơi những người mà mình còn trông lấy lại được. Nhưng yêu thương cả thù địch. Hãy cho vay, hãy làm ơn dù không trông báo đền.

Yêu thương như Chúa yêu thương thì sẽ được phần thưởng lớn lao, và phần thưởng lớn nhất sẽ là được trở nên “Con Đấng Tối Cao”, vì Ngài nhân lành đối với những kẻ vô ơn độc ác.

Chúng ta đã yêu thương như thế nào? Có yêu thương như Chúa đã yêu thương không?

Năm 1995 nầy là năm quốc tế cổ võ lòng khoan dung. Liên Hiệp quốc muốn kêu gọi các dân tộc hãy lấy lòng khoan dung mà đối xử với nhau để dàn xếp các cuộc xung đột, tranh chấp, hận thù đang diễn ra trong các nước. Bởi vì khoan dung và tha thứ chỉ cách nhau có một bước gần nhau mà thôi, đối với những ai thành tâm thiện chí muốn xây dựng hòa bình.

Lòng khoan dung thì yêu thương và tha thứ. Con người sẽ tiêu diệt tất cả địch thù và biến họ thành bạn hữu, không phải với sức mạnh của hận thù và bạo lực, nhưng với sức mạnh của tình thương tha thứ. Yêu thương và tha thứ như thế cũng là cánh cửa mở cho sự sống, sự sống của Thiên Chúa, vốn tràn đầy và phong phú, nhưng con người đã đắp những bờ đê thù hận và ích kỷ để ngăn lối yêu thương. Sự sống cũng vốn có sẵn trong tâm hồn mỗi người, nhưng tất cả cứ then cài cửa đóng, để rồi chỉ đến với nhau bằng những tính toán hơn thua, chất chồng thù oán mà không lối thoát. Chỉ có tình thương mới có sức phá vỡ những rào cản cho mạch sống trào dâng và chan chứa.

Giờ đây, cử hành Bí tích Thánh Thể, kính nhớ sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô, chúng ta thấy rõ hơn lòng thương xót của Chúa đã dành cho chúng ta. Chúng ta phải cảm tạ Chúa và phải quyết tâm làm theo điều Chúa đã dạy, chẳng những bằng Lời Ngài mà còn bằng gương mẫu của Ngài nữa. Biết yêu thương, biết tha thứ như Chúa, đó là bài học để cho chúng ta trở nên con cái Chúa.

 

6.     Yêu thương kẻ thù

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

Chủ đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6,27)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Lời Chúa hôm nay đề cập đến một vấn đề rất thực tế, đó là đối xử với những kẻ thù ghét mình. Trong cuộc sống nhiều va chạm, ai trong chúng ta mà không có lần bị người khác ganh ghét, làm hại? Nhưng, là môn đệ Chúa, chúng ta phải đối xử với những người ấy thế nào. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu Chúa muốn chúng ta sống thế nào.

  1. Gợi ý sám hối

Chúng con phạm rất nhiều tội nghịch đức yêu thương, như nói hành nói xấu, giận hờn, ganh ghét, trả đủa, lên án anh chị em.

Chúng con ít biết tha thứ, nhường nhịn Hiện giờ trong lòng chúng con vẫn còn ác cảm với một số người.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (1 Sm 26,2.7-9.12-13.22-23)

Vua Saun dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng bắt Đavít. Một đêm, Saun nằm ngủ mê mệt trong trại thì Đavít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đavít thấy đây là dịp may hiếm có nên xúi Đavít giết chết Saun. Nhưng Đavít không nghe theo. Ông chỉ lấy cây giáo của Saun rồi sang phía bên kia hô lớn bảo Saun thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Saun cảm động và phải thừa nhận Đavít là người sau này sẽ hoàn thành nghiệp lớn.

  1. Đáp ca (Tv 102)

Thánh Vịnh 102 ca tụng Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu: tha thứ muôn ngàn tội lỗi, chữa lành các vết thương, chậm giận và giàu tình thương, không trả báo ta xứng với lỗi lầm…

  1. Tin Mừng (Lc 6,27-38)
  2. Những lời Chúa Giêsu dạy về cách đối xử với kẻ thù ghét mình:

Đừng thù ghét lại nhưng hãy yêu thương, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ.

Đừng trả đũa nhưng hãy nhường nhịn.

  1. Những lời dạy về cách đối xử với tha nhân cách chung:

Làm ơn và cho đi mà không cần đáp trả. Cư xử nhân hậu Đừng xét đoán và kết án. Hãy tha thứ.

  1. Lý do của tất cả những cách cư xử trên là vì Cha trên trời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”; “Đừng xét đoán thì các con sẽ khỏi bị (Cha trên trời) xét đoán, hãy tha thứ thì các con sẽ được (Cha trên trời) tha thứ; hãy cho thì (Cha trên trời) sẽ cho lại các con…”
  2. Bài đọc II (1 Cr 15,45-49) (Chủ đề phụ)

Thánh Phaolô so sánh Chúa Giêsu với nguyên tổ Ađam: Ađam bởi đất mà ra, Chúa Giêsu từ trời mà đến; Ađam chỉ có sinh khí, còn Chúa Giêsu có cả thần khí. Rồi thánh Phaolô cho tín hữu biết rằng họ chẳng những được mang hình ảnh của Ađam mà còn được mang hình ảnh của Chúa Giêsu nữa.

  1. Gợi ý giảng

* 1. Tình huynh đệ, nghĩa cha con

Phải công nhận rằng những điều Chúa Giêsu dạy trong đoạn Tin Mừng này là quá khó: khi bị người khác làm hại, chúng ta chẳng những không được trả thù mà còn phải tha thứ, và hơn nữa còn phải làm ơn cho họ.

Nhưng sở dĩ khó là vì chúng ta coi “người ấy” chỉ là “người dưng”. Nếu chúng ta coi người ấy là “anh em” thì sẽ dễ hơn một phần. Và nếu chúng ta biết nghĩ đến “Cha chung” thì lại càng dễ hơn nữa.

Thực ra, tình thương mà người môn đệ đem ra đối xử với kẻ làm hại mình không phải là tình thương nghèo nàn có sẵn trong tim mình, mà là tình thương bắt nguồn từ con tim của Cha mình, tức là Thiên Chúa, “Đấng vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”.

Khi chúng ta đối xử bằng tình thương của Thiên Chúa như thế thì chúng ta càng là con của Người hơn, và càng là anh em của tha nhân hơn. Đúng như lời Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ là con của Đấng tối cao”.

Và khi chúng ta rộng lượng với anh em mình như thế, thì Cha trên trời sẽ càng rộng lượng hơn đối với chúng ta: “Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em”.

Giáo huấn của Tin Mừng không phải dành cho những kẻ muốn làm anh hùng hay siêu nhân, mà dành cho những ai muốn làm con Thiên Chúa và làm anh em của nhau.

* 2. Tình yêu mặc khải

Chúa Giêsu không phải là một nhà huấn đức, mà là một Đấng mặc khải. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn, Người không nhằm dạy cho chúng ta biết những điều tốt, việc tốt, mà nhằm cho chúng ta biết Đấng tốt lành vô cùng.

Muốn thực sự hiểu biết ai thì phải thử sống như người đó, nghĩ như người đó và làm như người đó.

Khi chúng ta thực hành những điều Chúa Giêsu chỉ dạy trong bài Tin Mừng này thì chúng ta sẽ hiểu Thiên Chúa là thế nào. Chẳng những thế, chúng ta còn trở nên giống như Thiên Chúa.

Và khi chúng ta sống như Thiên Chúa, chúng ta sẽ mặc khải cho người khác biết Thiên Chúa là thế nào.

* 3. Tha thứ là trao ban hai lần

Chuyện “Nghìn Lẻ Một đêm” của Ba Tư có kể lại một phiên toà như sau:

Có hai người anh em ruột bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ đem tên sát nhân đến trước quan toà và yêu cầu xử theo luật “mắt đền mắt răng thế răng”. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật định.

Trước mặt quan toà, tên sát nhân nhận tội và sẵn sàng chịu hình phạt. Chỉ xin hoãn ba ngày để hắn về giải quyết vấn đề liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Giữa lúc quan toà đang do dự, thì từ trong đám đông dự phiên toà có một người giơ tay cam kết:

“Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thay cho hắn”.

Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Đúng kỳ hạn, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang tiến ra pháp trường, dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết việc gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tôi xin trở lại để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của mình để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này”.

Sau lời phát biểu hùng hồn của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông tuyên bố: “Phần tôi, sỡ dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này vì tôi không muốn để cho người ta nói: “Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này”.

Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quí nhất trong trái tim con người.

Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra nói với quan toà: “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: “Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này”.

***

Tha thứ là một cử chỉ anh hùng, là một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, phản ứng thường tình của con người, để bước vào thế giới siêu nhiên của những người con Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.

Tha thứ là thể hiện cao cả nhất của tình yêu. Nếu yêu thương là trao ban thì tha thứ còn lớn hơn cả trao ban, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.

Quả thật, tha thứ là trao ban hai lần. Nếu chúng ta có thể cho đi của cải mình, có thể cho đi chính mạng sống mình vì người mình yêu, thì tha thứ còn cao cả hơn rất nhiều, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.

”Hãy yêu kẻ thù”. Đó là lệnh truyền đã được Chúa Giêsu nhắc lại hai lần trong bài tin Mừng hôm nay. Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Người. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Người đã làm gương cho chúng ta khi Người xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Hơn nữa, Người còn minh oan cho họ: “Vì họ lầm chẳng biết”.

Chính hành vi cao cả này mà Chúa Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Và đó cũng là nét cao quí nhất trong dung mạo của Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người, Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân, để tái tạo và phục sinh với Người.

Nhưng tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù? Yêu người yêu mình thì dễ, ai lại đi yêu kẻ làm hại mình bao giờ. Theo triết gia Nietzsche thì lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” chỉ dành cho người bạc nhược, nhát đảm. Và Chúa Giêsu là con người quá lý tưởng, thiếu thực tế.

Không, Chúa Giêsu không phải là con người quá lý tưởng để quên mất thực tế, Người là con người thực tế đích thực.

Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, làm điều ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giêsu thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực, và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong như cơn lốc xoáy ập tới tiêu diệt mọi người.

Hận thù gây tác hại cho chính con người oán ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người oán thù, đồng thời, huỷ diệt nhân cách của chính họ. Bacon viết: “Khi trả thù, người ta biến mình bằng kẻ thù. Còn khi tha thứ, người ta vượt cao hơn họ”.

Tâm lý học ngày nay khẳng định: “Hận thù thì huỷ diệt, còn yêu thương thì phát triển nhân cách hết sức lạ lùng và hữu hiệu”.

Cuối cùng, tình yêu có phép mầu sẽ biến kẻ thù thành bạn hữu. Nếu hận thù là huỷ diệt, thì tình yêu là xây dựng. Abraham Lincoln có nói: “Biến thù thành bạn, phải chăng là tiêu diệt kẻ thù rồi?” Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ.

Đối với người tín hữu Ki tô, lý do căn bản nhất để chúng ta yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa trong Luca đoạn 6 câu 35: “Anh em hãy yêu kẻ thù… Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao”. Chúng ta sẽ không bao giờ là con cái đích thực của

Cha trên trời, nếu chúng ta không yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một trái tim nhân từ như Chúa, để chúng con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện, hầu mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Người.

Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu sâu xa của Chúa, để chúng con thật tình tha thứ cho nhau. Amen. (Thiên Phúc)

* 4. Yêu thương kẻ thù

Ở Belfast có một gia đình kia. Người chồng bị bắn chết đang khi lái xe đến nhà thờ dự lễ. Sau đó ít lâu, người vợ cùng đứa con đến nhà thờ cầu nguyện. Đứa con hỏi:

– Mẹ ơi, không biết người đã bắn chết cha con có được lên thiên đường không hở mẹ?

Câu hỏi khiến người mẹ bị bất ngờ. Suy nghĩ một lát, bà trả lời:

– Nếu người đó thành thật sám hối thì Chúa cũng tha thứ và cho lên thiên đường.

Đứa con rất khó chịu:

– Nếu có người đó trên thiên đường thì con không muốn lên thiên đường đâu.

Người mẹ càng bối rối hơn nữa. Bà lại suy nghĩ, rồi nói:

– Nếu Chúa đã tha cho ông ta, thì Người cũng sẽ đổi lòng ông ta, khiến ông ta không còn dễ ghét nữa mà thành dễ thương.

Lúc đó đứa con mới thoả mãn. Nó nói với mẹ:

– Vậy thì mẹ con mình hãy cầu nguyện cho ông ta đi.

Bài học quan trọng nhất của đoạn Tin Mừng hôm nay là làm thế nào để chống lại sự ác mà không cần trả thù.

Hầu hết chúng ta nghĩ rằng chỉ cố gắng đừng trả thù là đủ rồi. Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta nhiều hơn thế, Người còn muốn chúng ta yêu thương kẻ thù nữa. Mặc dù việc này rất khó, nhưng chúng ta thấy bà mẹ Belfast đã làm được, và đứa con nhỏ của bà cũng làm được.

Chỉ xét trên bình diện nhân loại thôi thì giáo huấn của Chúa Giêsu cũng rất hữu ích: đà leo thang của sự ác chỉ có thể bị dừng lại bằng việc tiêu hủy nó chứ không phải bỏ qua nó. Trả thù và trả đũa là lấy ác báo ác. Khi chọn thái độ báo thù thì chúng ta bị thù hận làm nhiễm độc. Khi

nuôi lòng hận thù trả thù, chúng ta phải tiêu hao nhiều năng lực. Trả thù chỉ thỏa mãn được sự tức giận của ta nhưng lại làm cho con tim ta trống rỗng. Oscar Wilde viết: “Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù là Người không nhằm đến lợi ích của kẻ thù mà nhắm đến lợi ích của chính bản thân ta. Hơn nữa yêu thương thì đẹp hơn thù hận rất nhiều”.

Nếu lòng thù hận làm tiêu hao năng lực thì ngược lại lòng yêu thương tăng cường nghị lực trong chúng ta. Một trong những việc khó làm nhất là yêu thương kẻ ghét mình. Nhưng tình yêu chân thật là yêu thương cả người khó thương hay không thể thương được. Chỉ người nào rất giàu năng lực mới làm được như thế. Mà việc này có thể làm được, bởi vì sức mạnh của yêu thương lớn hơn sức mạnh của hận thù.

Dù sao thì tha thứ cho kẻ đã làm hại mình là một việc rất khó. Khi bị làm hại, làm sao trong lòng ta không có những cảm giác đau đớn, đắng cay và ý định muốn trả thù? Muốn vượt thắng cảm giác và ý định đó, cần phải chiến đấu rất nhiều. Cầu nguyện chính là sức tăng viện giúp ta chiến

thắng. Bởi đó Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy cầu nguyện. (FM)

* 5. Đừng xét đoán

Chúng ta rất dễ xét đoán người khác. Thế nhưng Chúa Giêsu khuyến cáo rằng khi ta xét đoán người khác tức là ta xét đoán chính mình: “Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị xét đoán”.

Câu chuyện sau đây có thật:

Một buổi sáng, vị linh mục đang dâng Thánh lễ thì thấy một người đàn bà đến trễ. Cha rất bực bội nên khi bà này lên rước lễ thì cha không trao Mình Thánh Chúa. Điều này làm cho bà rất đau lòng.

Thực ra bà là người rất ham dự Lễ. Từ trước tới nay bà không bao giờ đi trễ. Nhưng hôm nay chồng bà đột ngội ngã bệnh; đứa con gái tàn tật lại lên cơn. Bà phải nán lại để chăm sóc chồng con. Nguyên việc trễ lễ đã là một mất mát rất lớn đối với bà rồi. Thế mà cha lại không cho bà rước lễ!

Sở dĩ vị linh mục làm thế vì ã xét đoán một cách hồ đồ. Và cách làm của linh mục này chính là lời kết án tính hồ đồ của người.

Câu chuyện trên phải là một sự cảnh cáo chúng ta đừng xét đoán cách hồ đồ. Thực ra, xét đoán là một điều rất khó. Muốn xét đoán cho đúng thì ta phải thấy đầy đủ hết mọi khía cạnh của sự việc. Thấy mọi khía cạnh của sự việc cũng chưa đủ, cần phải hiểu thêm về hoàn cảnh và động cơ thâm

sâu của sự việc đó nữa. Trong khi đó, thường chúng ta chỉ thấy một phương diện thôi, và chỉ thấy bề ngoài thôi. Tóm lại, chúng ta chưa có đủ yếu tố để xét đoán.

Chắc ai trong chúng ta cũng có lần là nạn nhân bị người khác xét đoán. Hãy nhớ lại xem khi đó chúng ta đau khổ như thế nào. “Điều gì bạn không muốn người khác làm cho bạn thì bạn đừng làm cho người khác” (Hillel).

Vả lại, ai trong chúng ta mà không cần được Thiên Chúa xét đoán khoan hồng, bởi vì “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được?” Vì thế chúng ta cũng phải khoan hồng với anh em chúng ta. “Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (FM)

* 6. Hãy cho mà không mong được đáp trả

”Thiên Chúa sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và tràn đầy mà đổ vào vạt áo của anh em”.

Trong câu nói trên, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thuộc trong nghề nông. Hay nói rõ hơn, đó là trong việc đong lúa: những người gian lận hoặc keo kiệt thì dùng loại đấu thiếu dung lượng; chẳng những thế khi đong thì đong vội vã để lúa chưa kịp lóng xuống mà đấu đã đầy tới

miệng. Còn người công bình và rộng lượng thí dùng đấu chính xác, lại còn dằn, còn lắc để lúa trong đấu càng nhiều càng tốt.

Chúa Giêsu đã dùng hành ảnh ấy để khuyến khích chúng ta đối xử rộng lượng. Nếu chúng ta rộng lượng thì sẽ được Thiên Chúa rộng lượng lại gấp

bội.

Viktor Frankl là một tù nhân trong trại tù Auschwitz thời Quốc Xã Đức. Ông kể lại rằng một người trong trại tù mà ông lấy làm sung sướng nhất mỗi khi được gặp, đó là anh đầu bếp F. Khi tới giờ ăn, mỗi tù nhân bưng một cái tô, xếp hàng tới lãnh cháo nơi các đầu bếp. Các đầu bếp kia

thường nhìn mặt tù nhân, hễ gặp người nào mà hắn có cảm tình thì hắn múc cho một tô đầy, còn người nào mà hắn không ưa thì chỉ được một tô lưng. Riêng anh đầu bếp F này thì chẳng nhìn mặt ai cả, ai đưa tô ra anh cũng đều múc đầy.

Tại sao anh F làm như thế? Viktor Frankl không biết. Nhưng ta có thể đoán là anh F cũng là một tù nhân, trước đây cũng đã phải bưng tô chờ các đầu bếp đong cháo, một số lần bị đong lưng và một số lần được đong đầy. Nay anh được làm đầu bếp và được trao trách nhiệm đong cho người

khác, anh làm theo lời Chúa Giêsu nói “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì hãy làm cho người ta như vậy”.

Chúng ta càng mở rộng cửa lòng cho người khác thì lòng chúng ta càng được mở rộng để đón nhận ơn ban của Chúa. Cái đấu chúng ta dùng để đong cho người khác cũng là cái đấu Chúa dùng để đong cho chúng ta. (FM)

* 7. Chuyện minh họa

Solzhenitsyn kể một chuyện sau đây xảy ra trong thời Thế chiến thứ hai:

Khi đó là tháng 12 năm 1943. Chiến sự đang diễn ra ác liệt trong lúc tuyết rơi tầm tã đến nỗi người ta không nhìn rõ mặt nhau. Có hai người lính nằm bên cạnh nhau. Phía trước có bóng một người mà họ nghĩ là quân địch. Hai người lính này chỉa súng về phía đó nhả đạn. Họ khuyến khích nhau bắn cho hăng, họ chuyền đạn cho nhau, thỉnh thoảng còn chia nhau khi thì chai nước khi thì gói thuốc hút.

Một lúc sau, cái bóng phía trước biến mất. Hai người lính tạm nghỉ, bỏ súng trường xuống, cởi nón sắt và áo khoác ra. Lúc đó họ mới có dịp nhìn rõ nhau. Một anh đeo quân hiệu con đại bàng, anh kia đeo ngôi sao. Thì ra một anh là lính Đức, một anh là lính Nga, tức là hai kẻ thù của nhau.

Lập tức hai người nhảy một bước ra xa nhau, rút súng ngắn chỉa về phía người kia. May là súng không nổ vì trời quá lạnh. Hai người xông vào ôm nhau vật lộn. Vật chán rồi mệt quá nằm lăn ra tuyết.

Diễn biến sự việc có nhiều điều đáng ta suy nghĩ: a/ Hai người lính ấy đã vật lộn với nhau không phải vì chính trị, cũng chẳng phải vì lòng yêu nước, mà chỉ vì họ đều là nạn nhân của một suy nghĩ sai lầm và mù quáng “Nếu ta thương xót kẻ thù thì kẻ thù sẽ giết chết ta”; b/ Câu chuyện còn

cho thấy một sự thật khác nữa, đó là: kẻ thù cũng dễ thành bạn, mà bạn cũng dễ thành kẻ thù, bởi vì trong kẻ thù cũng có một cái gì đó mà ta thích, và trong người bạn cũng có một cái gì đó mà ta không ưa. (FM)

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên kẻ dữ cũng như người lành. Tin tưởng vào tình thương hải hà của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh luôn kêu gọi con cái mình triệt để tuân giữ luật bác ái của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / luôn chân thành yêu thương nhau.
  2. Trên thế giới ngày nay / hận thù và bạo lực vẫn còn đang ngự trị trong đời sống của nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái Kitô giáo / thâm nhập vào mọi sinh hoạt trần thế / để hết thảy mọi người được sống trong hòa bình và an vui.
  3. Anh em phải có lòng từ bi như Cha anh em là Đấng từ bi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu biết chân thành lắng nghe / và cố gắng sống theo Lời Chúa Giêsu đã dạy trong Tin mừng.
  4. Anh em đừng xét đoán / thì sẽ khỏi bị Thiên Chúa xét đoán / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết can đảm từ bỏ tật xấu hay xét đoán người khác cách bất công / vì không ai là người hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin hãy dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa, để chúng con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, và đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Chúng con cầu xin

  1. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Trong số 7 lời xin trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh đến lời xin ơn biết tha thứ. Chúng ta cũng hãy tha thiết xin Cha trên trời giúp chúng ta biết tha thứ cho anh chị em chúng ta.

VII. Giải tán

Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về và nhớ thực hiện lời Chúa dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”.

 

7.     Luật yêu thương

  1. Lời Chúa hôm nay dễ hiểu nhưng khó thực hành.

Luật yêu thương không phải thời Chúa Giêsu mới có. Luật này đã được nói tới từ lâu nhưng nó mới chỉ có tính cách tiêu cực.

Hillel một trong những Rabbit nổi tiếng của Do Thái, đã trả lời cho người đến xin ông ta dạy cho mình biết tất cả luật pháp chỉ trong thời gian anh ta có thể đứng cò cò trên một chân, ông bảo:

“Điều gì đáng ghét cho ngươi thì ngươi đừng làm cho kẻ khác, đó là tất cả luật pháp, các sự khác chỉ là giải thích”.

Philô, một vĩ nhân Do Thái sống tại Alexandria đã nói: “Điều gì anh ghét thì đừng làm cho bất cứ ai”.

Socrates, một nhà hùng biện Hi lạp nói: “Những gì khiến anh bực bội do kẻ khác gây ra cho mình, thì anh cũng đừng làm những sự ấy cho kẻ khác”.

Các triết gia của phái khắc kỷ có một nguyên tắc căn bản hơn: “Điều gì anh không muốn kẻ khác làm cho anh thì anh đừng làm cho ai khác”.

Khi người ta hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có lời nào có thể làm luật thực tiễn cho cả đời sống con người không?”. Cụ trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”.

Tóm lại, tất cả các hình thức trên đều là tiêu cực. Dù không phải dễ để giữ mìnhđừng làm các điều đó, và cũng vô cùng khó khi chúng ta phải ép mình làm cho kẻ khác điều mà chúng ta muốn họ làm cho mình.

Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật yêu thương đã có một khuôn mặt mới. Nó có tính cách tích cực hơn: “Hãy làm cho kẻ khác những điều như chúng ta muốn kẻ khác làm cho chúng ta.” (Lc 6,31)

Tại Newban (Châu Úc), mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên nghèo. Một lần kia, mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, toàn thể mình mẩy anh ta bầm tím. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến để điều tra và khi cảnh sát đến hỏi anh: “Ai đã đánh anh?” thì người thanh niên này nhất định không chịu trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh và bỏ ra về. Lúc đó, mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:

– Sao con không khai người đánh đập con với cảnh sát?

– Thưa mẹ, – cậu ta trả lời – nếu con khai ra thì người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những đau khổ của người đó cũng sẽ không thể làm giảm đi nỗi đau khổ của chính con!

Có lẽ phải can đảm lắm mới có được cách ứng xử như vậy. Nào có ai muốn khổ cho mình đâu….Vậy thì đừng làm cho người khác. Ai mà lại không muốn cho mình được yên hàn bình an, hãy cố mà làm cho người khác như vậy. Đó là điều Chúa muốn.

  1. “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. (Lc 6,31)

Lời Chúa chẳng có gì khó hiểu.

Ông chủ cửa hàng bán thú nuôi mang tấm biển “Tại đây bán chó con” đóng lên cửa ra vào.

Một cậu bé xuất hiện bên dưới tấm biển hỏi:

– Ông định bán những chú chó con này bao nhiêu ạ?

– Cũng tùy, từ 30 – 50 đô-la, cháu ạ.

Cậu bé thò tay vào túi móc ra một ít tiền lẻ:

– Cháu chỉ có 2 đô-la và 37 xu. Ông cho phép cháu ngắm chúng nhé.

Người chủ mỉm cười, huýt sáo ra hiệu. Năm chú chó lơn tơn chạy ra, có một con chậm chạp theo sau. Ngay lập tức cậu bé chỉ vào chú chó khập khiễng:

– Con chó nhỏ ấy làm sao thế ạ?

– Bác sĩ bảo rằng xương chậu nó bị khiếm khuyết nên phải khập khiễng, què quặt suốt đời.

– Đây chính là con chó cháu muốn mua – cậu bé tỏ vẻ rất thích thú.

– Không, ta nghĩ cháu không nên mua nó. Còn nếu cháu thật sự thích nó thì ta tặng cho cháu đó.

Cậu bé hơi bối rối, nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng, rồi chìa tay đáp:

– Cháu không muốn được ông tặng. Nó cũng đáng giá như những con chó khác và cháu sẽ trả đủ tiền cho ông. Đây là 2 đô-la 37 xu và cháu sẽ đưa ông thêm 50 xu mỗi tháng đến khi nào đủ tiền.

– Cháu không nên mua con chó này. Nó không thể chạy nhảy vui đùa với cháu như những con chó khác – người chủ tỏ vẻ phản đối.

Cậu bé lặng lẽ đưa tay kéo ống quần lên, để lộ chiếc chân trái bị teo cơ đang được nâng giữ bằng một khung kim loại. Nhìn lên người chủ, nó dịu dàng nói:

– Cháu cũng đâu thể chạy nhảy vui đùa, và con chó này cần một ai đó thông cảm với nó ông ạ!

Nhìn lại cuộc đời của Chúa ta thấy Chúa đã không chỉ nói suông nhưng những điều Ngài dạy thì Ngài đã làm trước.

Lạy Chúa,

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

là Lời Chúa, Lời linh thiêng, Lời uy quyền, Lời hằng sống,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. Amen.

 

8.     Tiến mãi không ngừng

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Ghi lại kinh nghiệm sống của mình trong tập nhật ký có tựa đề là Những người bạn muôn thuở, bà Ressa Marita, vợ của triết gia công giáo người Pháp Jack Maritain đã viết như sau:

“Trong cuộc sống thiêng liêng, chúng ta không nên so sánh mình với ai cả, mà chỉ so sánh mình với mẫu gương trọn lành của Chúa mà thôi. So sánh mình với kẻ khác, ta sẽ thấy mình dễ bị cám dỗ, thấy những điểm tiêu cực nơi anh chị em và trở nên tự kiêu, luôn cho mình là tốt hơn. Nhưng nếu nhìn vào mẫu gương trọn lành của Chúa, ta được mời gọi canh tân liên lỉ, tiến mãi không ngừng, vì Chúa là Ðấng trọn tốt trọn lành vô cùng”.

Những lời tâm sự của bà Ressa Marita hướng chúng ta đến những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ mà tác giả Phúc Âm thánh Luca đã ghi lại nơi chương 6.

Mức độ đo lường của tình yêu thương chúng ta là không có mức độ nào cả, hay đúng hơn là chính mẫu gương trọn tốt trọn lành vô cùng của Thiên Chúa Cha. Bao lâu còn sống trên trần gian này, chúng ta còn cần tiến thêm mãi trên con đường yêu thương. Không ai dám tự phụ cho rằng mình đã thành toàn, đã đạt đến mức độ trọn lành như Thiên Chúa rồi. Những hành động yêu thương được Chúa Giêsu nhắc đến mà tác giả Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại là những hành động yêu thương thiết thực, yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

“Hãy ra đi mà không tính toán hơn thiệt, đừng xét đoán, hãy tha thứ”. Ðó là những chân trời mới, bao la, rộng mở tình yêu thương nơi tâm hồn người môn đệ Chúa. Chúng ta không thể nào chỉ nói ngoài môi miệng mà còn cần phải thực hiện tình yêu thương như Chúa đã nêu gương bằng những hành động cụ thể. Nếu không, ta sẽ bị xét xử như là những kẻ giả hình, nói mà không làm, không sống thật Lời Chúa dạy.

Một cô giáo nọ ra bài cho các học sinh như sau: “Chiều nay về nhà, mỗi em phải làm một việc tốt đối với người thân nào đó trong gia đình”.

Ngày hôm sau, một em học sinh đến trường than phiền với cô giáo như sau: “Thưa cô, con không thể tiếp tục làm công tác này được nữa”.

Trước sự ngạc nhiên của cô giáo, học sinh này giải thích như sau: Bữa cơm tối qua con đã khen mẹ nấu ngon. Thay vì vui mừng, mẹ con nổi giận nói con chọc tức và gián tiếp chê bữa ăn không ngon. Con giải thích với mẹ nhưng mẹ không tin, và nổi giận ra lệnh con phải rửa chén để chứng minh cụ thể bữa ăn ngon.

Tiếc thay, em bé thành tâm khen ngợi mẹ, nhưng người mẹ thì ngược lại không tin, cho rằng em giả vờ khen và có hậu ý nào khác. Thay vì yêu thương thật tình và cảm nhận tình thương của anh chị em đối với mình, thì nhiều lúc ta cũng hành động như người mẹ trong câu chuyện vui trên. Ta nghi ngờ tình thương của anh chị em vì có bao giờ ta yêu thương thật sự anh chị em đâu, có chăng chỉ là những lời nói xã giao bên ngoài cho qua lúc. Thật là, suy bụng ta ra bụng người.

Đọc lại đoạn Tin mừng trên, ta cần xét xem mình đã sống những lời dạy của Chúa Giêsu đến mức độ nào rồi? Thánh Luca đã nhấn mạnh đến tình yêu thương nhân từ, trong khi đó tác giả Mátthêu đã ghi lại nơi câu song song “các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Sự trọn lành của Thiên Chúa là sự trọn lành của tình yêu thương và lòng nhân từ, không phải tình yêu nhân từ có giới hạn của con người, nhưng là tình yêu thương vô giới hạn của con người, nhưng là tình yêu thương vô giới hạn của Thiên Chúa “Chúng con hãy nhân từ như Cha các con Đấng ngự trên trời là Đấng nhân từ”. Đây là điều mà chúng ta phải cầu xin hằng ngày để có thể sống như Chúa, yêu thương như Chúa và tha thứ như Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con quả tim của Chúa để con yêu thương như Chúa, nhờ sức mạnh của Chúa nâng đỡ con. Amen.

 

9.     Sự tha thứ cho tất cả

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)

Hầu hết mọi người đều biết câu chuyện chiến đấu của Đavit, một thiếu niên đã chiến thắng Gôliat, người khổng lồ. Bằng việc đó Đavit đã cứu thoát dân Israel khỏi một chiến tranh khủng khiếp với dân Philistines. Chiến thắng trên đã làm cho toàn dân yêu quý Đavit nhưng đã làm cho Saolô oán ghét. Saolô tự nhủ rằng Đavit là kẻ thù của mình và hắn đang cố gắng tranh đoạt ngai vàng. Vua đã cố gắng nhưng không thành công trong việc giết Đavit, trong bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay, Đavit có cơ hội giết vua nhưng vì lòng kính trong đấng đã được Thiên Chúa xức dầu, ông đã từ chối làm việc đó. Ông đã thật sự tha thứ cho vua, người đã luôn luôn tìm cách giết ông.

Ngày hôm nay chúng ta có thể tìm thấy đâu một gương mẫu giống như Đavit? Chắc chắn không phải giữa những chính trị gia đang mạt sát nhau bằng lời nói trên Tivi trong suốt thời gian bầu cử. Chúng ta có một mẫu gương tuyệt hảo trong con người của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Sau khi ngài đã được chữa lành khỏi một cuộc tấn công mưu sát, ngài bị bắn nơi quảng trường thánh Phêrô, một trong những việc đầu tiên ngài làm đó là thăm viếng người đã ám sát ngài trong tù và ban cho hắn sự tha thứ và giao hòa.

Một người đàn ông gian dối tố cáo Đức Hồng Y Bernardin, tổng giám mục của Chicago, đã xâm phạm tình dục hắn ta khi còn trẻ. Người đàn ông chẳng bao lâu đã rút lại câu chuyện lố bịch của mình. Thật dễ hiểu nếu Đức Hồng Y đã đưa ra những lời phản bác mạnh mẽ chống lại những lời gian dối kia. Nhưng đúng hơn là Đức Hồng Y đã tìm đến để ban sự tha thứ cho người đàn ông đó.

Đây là hai mẫu gương kỳ diệu của sự tha thứ. Nhưng chúng ta nhìn qua bên kia những mẫu gương của cn tới con người của Đức Giêsu. Chúa Giêsu đã rao giảng sự nhân từ, sự tha thứ và giao hòa như chúng ta đã nghe trong bài Phúc Âm ngày hôm nay. Giáo huấn của Ngài thì rất nhiều và đối nghịch với những gì chúng ta đã nghe và thấy trong xã hội của chúng ta. Chúa Giêsu cũng thực hành những gì Ngài đã rao giảng. Chúa Giêsu đã nhìn xuống những người đóng đinh Ngài và cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.

Chúng ta phải trở nên những người đi theo giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu. Chúng ta phải có lòng thương xót, tha thứ và có lòng kính trọng. Chúng ta phải đi con đường đó cách công khai riêng biệt. Thí dụ, một số người Công Giáo không đồng ý với Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục Mỹ khi họ chống đối lại án tử hình. Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục thấy rõ việc hành hình một con người sẽ làm giảm giá trị chúng ta xuống một tình trạng dã man thay vì giáo huấn của Chúa Giêsu đã nâng chúng ta lên. Đó là thời gian mà những người Công Giáo đã bỏ đi những giá trị của một xã hội có tính cách trả thù báo oán để trân trọng nguyên tắc của Đức Kitô. Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa ra một hình phạt thích hợp cho những tội nhân tử hình.

Chúng ta được kêu gọi đi theo giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu trong những gì đã ảnh hưởng đến cá nhân chúng ta, các bạn không thể sống bao lâu có người nào đó làm tổn thương bạn cách sâu xa hoặc nói những điều xấu xa đằng sau lưng bạn hoặc thật sự làm một điều gì đó hại bạn một cách nghiêm trọng. Những điều tổn thương này chúng ta không được nuôi dưỡng, giữ lại. Chúng ta phải xóa bỏ chúng bằng cách hiến tặng sự tha thứ và giao hòa cho bất cứ ai làm hại mình.

Trong mỗi Thánh Lễ chúng ta nghe tiếng Đức Kitô vang lên: “Này là chén Máu Ta sẽ đổ… Máu này sẽ đổra cho các con và nhiều người được tha tội”. Hãy lãnh nhận Đức Kitô trong phép Thánh Thể, hãy dự phần vào Máu của Ngài đã đổ ra để tha thứ, ban cho chúng ta sức mạnh mà chúng ta cần để tha thứ và giao hòa với mọi người, không được oán ghét hay rắp tâm báo thù. Chúng ta có thể và phải trở nên giống như chính Chúa Kitô.

 

10. Yêu thương kẻ thù

Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong Tình Yêu là sống trong Thiên Chúa; ai sống trong hận thù, người đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Ðã đi vào cuộc sống là đặt mình vào tương quan với Thiên Chúa: hoặc là sống cho và với Thiên Chúa; hoặc là chối bỏ Ngài.

Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.

Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Chúa Giêsu đã không rao giảng bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ơn gọi cao cả của người Kitô hữu: Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tha thứ không ngừng, bởi vì chỉ có lòng tha thứ, chúng ta mới thực sự trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người.

 

11. Hãy yêu kẻ thù

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Nếu cứ lấy hận thù đáp trả thù hận thì chẳng có thể giải quyết được gì, nhiều khi chỉ gây thêm đau thương tang tóc mà thôi. Nhưng hận thù đã có mặt khắp nơi, nó có mặt giữa anh chị em chúng ta và nó ẩn tàng ngay trong lòng chúng ta. Hận thù đã ăn sâu vào máu thịt được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Trong dân gian, chúng ta thấy đầy dẫy những câu chuyện hận thù, con trả thù cho cha, cha trả thù cho con, không biết bao người đã chạy theo cái kiểu thù hận chồng chất như vậy.

Nếu cứ lấy hận thù đáp trả thù hận thì chẳng có thể giải quyết được gì, nhiều khi chỉ gây thêm đau thương tang tóc mà thôi. Nhưng hận thù đã có mặt khắp nơi, nó có mặt giữa anh chị em chúng ta và nó ẩn tàng ngay trong lòng chúng ta. Hận thù đã ăn sâu vào máu thịt được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Con người ngày nay sống trong một thế giới hoảng loạn của hận thù, không còn biết đi về đâu, không còn biết tin vào ai.

Nhiều người đang sống trong thù hận, suy nghĩ, hành động hay lời nói chất chứa những hờn oán và nguyền rủa.

Họ tìm cách phục thù sau một thời gian thù hận, cứ như thế mãi mà cũng không biết rằng mình sẽ ra sao.

Họ chìm đắm trong những sầu khổ, trong những ý thức hệ, trong đấu tranh hoặc xây dựng một chủ thuyết nào đó.

Họ bị mắc kẹt vào quan niệm hay những ý kiến riêng tư mà quên rằng những điều đó chỉ mang đến những đau khổ mà thôi.

Trong lịch sử nhân loại hận thù đã mang đến cho loài người biết bao đau thương chết chóc, không chỉ trong phạm vi cá nhân, mà nhiều khi cho cả một tập thể lớn rộng như trường hợp của Thành Cát Tư Hãn:

“Ngay sau khi đã thôn tính gần như toàn bộ Châu Á, Thành Cát Tư Hãn tiếp tục tính đến các quốc gia vùng Trung Đông.

Để thể hiện ý muốn của mình, ông đã gửi một món quà gồm nhiều châu báu và mỹ nữ tới Đế quốc Khwarezm, được hộ tống bởi khoảng 500 binh lính.

Tuy nhiên, người Khwarezm tỏ ra không mấy thiện chí với một chủng tộc “sinh sống trong túp lều”, và họ thẳng thừng từ chối bằng cách hạ sát toàn bộ những binh lính hộ tống đoàn vận chuyển.

Cho tới lúc này, Thành Cát Tư Hãn vẫn tỏ ra hết sức bình tĩnh, ông cho người Khwarezm một cơ hội thứ hai khi tiếp tục gửi một sứ giả đến thương lượng với họ. Và người Khwarezm đã mắc một sai lầm khủng khiếp khi gửi trả Thành Cát Tư Hãn cái đầu của vị sứ giả đáng thương này.

Để trả thù cho tất cả những nạn nhân xấu số trên, Thành Cát Tư Hãn đã phát động một cuộc thảm sát với quy mô có lẽ chỉ đứng sau cuộc thế chiến thứ hai.

Bốn vị tướng xuất sắc nhất, trong đó có Bạt Tốc Đài, cùng với binh đoàn gồm 200.000 chiến binh thiện chiến đã tiêu diệt hoàn toàn một đội quân có số lượng lớn gấp năm lần. Toàn bộ đế quốc Khwarezmia bị xóa sổ, với khoảng 4.000.000 người thiệt mạng. Lịch sử mô tả rằng “ngay cả chó mèo cũng không được tha mạng”.

Chưa thỏa mãn cơn giận dữ của mình, Thành Cát Tư Hãn còn cho làm chệch hướng toàn bộ những dòng sông trên lãnh thổ Khwarezmia nhằm mục đích xóa sổ hoàn toàn quốc gia này trên bản đồ thế giới.”

Hậu quả của hận thù là như thế đó, nên trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta “hãy yêu kẻ thù”. Quả thật, bình thường, yêu tha nhân đã khó, bây giờ lại phải “yêu kẻ thù” làm sao chúng ta thực hiện nổi, nhưng thánh Luca đã ghi lại Lời Chúa hôm nay “hãy yêu kẻ thù”.

“Yêu kẻ thù”, nhiều khi chúng ta chỉ đơn giản nghĩ là chúng ta có thể nén giận đối với kẻ thù, nhưng theo quan điểm của Đức Giêsu thì như thế là chưa đủ.

Chúng ta có thể tha thứ, không trả đũa, nhưng như thế vẫn chưa đủ.

Điều Chúa muốn là: “hãy yêu kẻ thù”.

Những kẻ theo Chúa không phải đồng thuận những gì đối phương đã làm cho họ, họ không phải ngưỡng mộ hay ưa thích, nhưng phải yêu mến kẻ thù.

Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta phải “yêu kẻ thù”.

Yêu bằng tình yêu agapè chớ không phải là tình yêu Eros.

Eros là thứ tình yêu vị kỷ, chỉ biết thu vào, tìm kiếm mình trong người khác.

Còn Agapè là thứ tình yêu xả kỷ, vị tha, chỉ biết tìm hạnh phúc cho người khác. Đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác, quên mình, quên hạnh phúc của mình để nghĩ đến người khác. Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó dựng nên những rào cản giữa chúng ta và tha nhân.

Agapè là một tình yêu rộng mở, không loại trừ. Nó không phải là tình yêu thương chỉ dành cho những người thân thuộc nhưng cho tất cả mọi người, xấu cũng như tốt. Nó không phải là tình yêu theo bản năng, ưa thích những gì tốt đẹp nơi người khác, mà là sẵn lòng vươn tới tha nhân, hành động chỉ vì lợi ích của tha nhân.

Chúa Giêsu còn nhấn mạnh: “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em (Lc 6,27-28).

Nói như thế là Người đã gợi lên trong chúng ta một ý niệm hoàn toàn mới về sự đòi hỏi của tình yêu. Tình yêu sẽ chẳng là gì nếu không hướng tới hành động. Hành động của tình yêu có khi mang lại những kết quả phi thường, thậm chí có thể biến kẻ thù thành bạn hữu như có câu chuyện kể rằng:

“Có hai người thổ dân rất thù ghét nhau. Một ngày kia, một trong hai người gặp cô con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Hắn đã bắt cô gái và lấy dao chặt đứt hai ngón tay của cô bé. Cô bé vừa chạy về vừa khóc lóc đau đớn, còn tên hung thủ thì vừa đi vừa đắc chí hô lớn: “ta đã trả thù được rồi”.

Mười mấy năm sau, cô bé đáng thương ấy đã lớn lên rồi có gia đinh. Một hôm, có một người ăn xin đến gõ cửa nhà cô. Cô nhận ra ngay ngươi hành khất chính là kẻ đã chặt tay cô cách đây mười mấy năm.

Không một chút oán hờn, không một lời trả đũa, cô vội vàng vào nhà và mang thức ăn ra tiếp đãi kẻ đã từng hành hạ mình. Khi người hành khất đã ăn no rồi, người phụ nữ liền đưa bàn tay cụt mất hai ngón cho ông ta xem vào nói: “tôi cũng đã trả thù được rồi”.

Hận thù không thể được đáp trả bằng hận thù.

Hận thù phải được đáp trả bằng tình thương. Tình thương giống như miếng đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thật sự, để họ tiến lại gần nhau, kết hợp với nhau.

Nó có một mãnh lực bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ tình thương này mà người ta có thể tìm gặp lại nhau, vượt qua không gian và thời gian. Đó chính là mục đích Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “hãy yêu kẻ thù”. Amen.

 

12. Yêu người tột độ

“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù va làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc. 6, 27-28)

Qua đoạn Tin Mừng này, Đức Kitô dẫn chúng ta tới đỉnh cao của bác ái, càng đi theo Người càng dốc hết hơi, leo lên cao mãi, cao mãi liên tục.

“Hãy yêu thương kẻ thù”, Chúa dạy thế, không lý thuyết xuông nhưng rất cụ thể. Người cho thấy những công việc rõ ràng trước mắt, không để chúng ta phải tưởng tượng. “Hãy làm ơn cho kẻ ghét anh em, chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em…”. Tất cả những kẻ đó không phải là ảo ảnh ma quái, nhưng là con người bằng xương bằng thịt mà lý tự nhiên mình phải xa lánh, ghét bỏ. Chính những kẻ đó phải được nâng đỡ, phải sẵn lòng mỉm cười với họ.

Đức Kitô nói thêm: “Ai vả má bên này, thì hãy giơ má bên kia. Ai đoạt áo ngoài đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin hãy cho, ai lấy gì của anh thì đừng đòi lại…”.

Có lẽ chúng ta sẽ thẳng thắn trả lời: “Lạy Chúa, Chúa đã đi quá mạnh, không thể tới được”. Nhưng, Đức Kitô vẫn tiếp tục không khoan nhượng: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những kẻ tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân nghĩa? cả kẻ tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay để được trả lại sòng phẳng.

Không thể tới được bác ái Kitô giáo, chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ. Làm sao sống vượt mức như thế! sống yêu thương tột độ! nhiều môn đệ của Chúa đã sống vượt mức như thế và còn sống vượt mọi mức tới tột độ nữa. Họ đã theo Đức Kitô Đấng giầu lòng thương xót và tha thứ. Đức Kitô sẽ hài lòng và âu yếm nhìn Phê-rô và tất cả mọi người đã nên giống Người.

 

13. “Hãy yêu kẻ thù”

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen. Luật mới kiện toàn luật cũ. Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:

– Luật cũ cấm giết người. Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em. Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.

– Luật cũ cấm hành vi ngoại tình. Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn. Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…

– Luật cũ quy định thủ tục li dị. Luật mới triệt để cấm li dị.

– Luật cũ cấm thề gian. Luật mới dạy sống chân thực. Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.

Trang Tin mừng Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.

– Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.

– Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”. Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.

– Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào. Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.

“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là:

– Làm ơn cho kẻ ghét mình.

– Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.

– Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

– Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.

– Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.

– Ai lấy gì thì đừng đòi lại…

Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.

“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.

“Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.

Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quãng đại tha thứ.

“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.

Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

Tại sao phải yêu kẻ thù?

Yêu người yêu mình thì dễ. Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao! Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan. Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi. Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực. Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ. Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.

Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi. Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh. Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền. Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.

Bài đọc 1 kể chuyện Đavit. Với những chiến thắng ngoài mặt trận, Đavit được quần chúng mến mộ suy tôn. Điều đó khiến vua Saun coi ông như là một mối đe dọa và tìm mọi cách để giết chết. Đavit có một cơ hội để giết chết Saun, nhưng ông đã từ chối làm điều đó vì trong mắt ông, Saun vua Itraen là một nhân vật thiêng liêng.Tình yêu giải phóng những năng lực phi thường trong con người.Quyền năng của tình yêu lớn hơn quyền năng của những điều xấu.Một trong những điều khó khăn nhất của mỗi người là yêu thương một người thù ghét mình.Vì thế, tình yêu đích thực là yêu thương người ghét mình.Lòng nhận hậu mạnh hơn thù oán. Phải có sức mạnh cảu tình yêu để vượt qua những cảm giác đắng cay và lòng muốn trả thù khi bị người khác đối xử tệ hại. Sự tha thứ không bao giờ dễ dàng. Phải cầu nguyện để tha thứ chiến thắng.

Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, nhân hậu và giàu lòng thương xót. Chúa Giêsu đến thế gian dùng tình yêu để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi. Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt. Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu.Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: ”Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).

Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng:Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?

Hoa hồng trả lời:Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?

Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.

Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.

 

14. Yêu thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Khi nói đến Phật giáo thì người ta nghĩ ngay đến cụm từ “từ bi – hỉ xả”, nói đến Khổng giáo thì không thể không liên tưởng đến “trung dung – chính danh chính phận, nói đến Lão giáo thì phải nói đến “vô vi” còn khi nói đến Công Giáo thì người ta thường nhấn mạnh đến “công bình – bác ái”. Có thể nói đó là những nét đặc trưng của từng tôn giáo để người ta phân biệt. Đã từng hỏi bà con tín hữu rằng bác ái là gì thì dễ thường được câu trả lời là yêu thương. Tuy nhiên khi hỏi rằng nếu chỉ hiểu yêu thương theo nghĩa luân lý thì có khác gì tổ tiên ông cha dạy chúng ta “thương người như thể thương thân” hay “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” thì chắc chắn còn đó nhiều tín hữu Kitô không thể trả lời cách rõ ràng và chính xác dĩ nhiên là cách tương đối mang tính khả tín.

Có thể trả lời không sợ sai lầm rằng bác ái là yêu thương nhau nhờ, trong, với và như Chúa đã yêu thương chúng ta, đặc biệt qua Đức Kitô, Con một Thiên Chúa đã làm người. Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật VII TN C mà Giáo hội cho trích đọc, cách riêng qua bài đọc thứ nhất trích Sách Samuel quyển thứ nhất (1Sam 26, 2.7-9.12-13.22-23) và bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 6,27-38) trình bày tiến trình yêu thương cách cụ thể khởi đi từ mặt tiêu cực đến động thái tích cực.

– Yêu thương theo nghĩa tiêu cực là không làm hại tha nhân. Các triết gia và hiền giả xưa đã từng khuyên dạy điều này. “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Khổng Tử); “Điều gì anh ghét chịu đựng thì đừng làm cho bất cứ ai” (Philô); “Những gì khiến anh bực bội bởi tay người khác gây ra, thì đừng làm những sự ấy cho tha nhân” (Socrates). Ông Tobia cha cũng khuyên dạy cậu Tôbia con: “Điều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15).

Bài đọc thứ nhất trích Sách Samuel tường thuật câu chuyện Đavít trong một tình huống thuận lợi tình cờ có thể giết chết Saolê nhưng ông đã không ra tay mặc dầu khi ấy Saolê đang lùng giết ông. Lý do mà Đavit đưa ra để ngăn không cho Abisai giết vua Saolê là vì Saolê là người đã được Thiên Chúa xức dầu.

– Yêu thương theo nghĩa tích cực là nỗ lực thực thi điều tốt, điều tốt nhất cho tha nhân theo khả năng và hoàn cảnh của mình bất kể họ là người thân hay kẻ lạ, là người dễ thương hay là đáng ghét, là người yêu thương mình hay là kẻ đang thù ghét mình và làm hại mình. Chúa Giêsu truyền dạy: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, và hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Để làm nổi rõ chân lý này Chúa Giêsu đã dùng lối nói ngoa ngữ nghĩa là nói quá đi như “ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,1-27-30). Và lý do Chúa Giêsu đưa ra để đòi hỏi chúng ta phải sống yêu thương cách tích cực và đến cùng đó là vì tất cả mọi người dù là công chính hay tội nhân đều là con cái của Thiên Chúa, Đấng nhân hậu từ bi, là Cha toàn năng chí ái. Động thái yêu thương theo nghĩa tích cực này được tóm lại trong lề luật vàng mà Chúa Giêsu đã khẳng định là trọng tâm của mọi lề luật và lời các ngôn sứ: “Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31; x.Mt 78,12).

Vấn đề đặt ra là làm sao ta có thể vượt qua tâm lý tự nhiên thường tình để yêu thương kẻ đang thù ghét ta, để làm ơn cho những người đã hãm hại ta cách bất công và vô cớ? Thiết nghĩ rằng chỉ có niềm tin được thể hiện qua việc rèn luyện nhân đức và nhất là biết nhìn vào Chúa Giêsu để biết sống yêu thương đúng cách thế phù hợp với từng đối tượng theo từng hoàn cảnh. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ bày tỏ tình yêu khi động viên khích lệ người yếu đuối, cùng khổ, khi nhân hậu tha thứ người có tội biết khiêm nhu mà cả khi Người nghiêm khắc vạch trần những sai lầm của nhiều vị lãnh đạo trong Do Thái giáo hay cả vua Hêrôđê thì cũng là yêu thương họ muốn làm ơn cho họ.

Hội Thánh Công Giáo đã cụ thể hóa đạo yêu thương trong kinh “Thương người có mười bốn mối: Thương xác bảy mối – Thương linh hồn bảy mối”. Yêu thương không chỉ là biết cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống… mà còn phải biết răn bảo kẻ có tội, mở dạy kẻ mê muội… Vấn đề là chúng ta phải biết áp dụng mối yêu thương nào cho đối tượng nào, hoàn cảnh nào cho phù hợp với cả tấm lòng son. Để thực hiện lý tưởng này chắc chắn cần phải có sự xác tín và cảm nghiệm sâu xa về tình Cha trên trời được thể hiện qua Đấng làm người là Giêsu Kitô, đồng thời không thể thiếu sự luyện tập sống yêu thương quảng đại cách tiệm tiến cụ thể từng ngày.

 

15. Tinh thần Phúc Âm mới. Yêu mến thù địch

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa – của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Có thể nói ai cũng biết bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc, kể cả người ngoài Kitô giáo. Hết mọi người đều biết đạo Chúa dạy phải yêu mến thù địch và làm ơn cho những kẻ oán ghét mình. Hơn nữa, người ta còn biết đến cả chi tiết của lời Chúa dạy: Nào kẻ tát má này thì hãy chìa má kia nữa cho nó, và người đoạt áo choàng cũng đừng cản nó lấy áo lót. Không biết trong thế gian này đã được mấy người thi hành triệt để những điều dạy này? Hay người ta phải giải thích lệnh Chúa truyền một cách “bóng bẩy” hơn? Hai bài Kinh Thánh kia đọc trong thánh lễ hôm nay có giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng chính xác hơn không? Chúng ta cứ thử xem thế nào!

  1. Bài sách Cựu Ước

Câu chuyện Ðavít xứng đáng đi trước bài Tin Mừng. Ngay ở thời Cựu Ước, người ta đã biết tha thứ cho cừu địch. Ðavít tha chết cho Saul mặc dù vua này chỉ muốn thủ tiêu Ðavít. Ðọc kỹ lại câu chuyện, chúng ta còn khám phá được nhiều chi tiết đáng kể nữa.

Như mọi người biết Saul là vị vua đầu tiên của con cái Israen. Ông đã có thời được Chúa tin dùng và chúc phúc. Nhưng ông đã bất trung, làm nhiều điều tội lỗi, khiến Chúa phải chọn một người khác để thay thế ông. Ðó là Ðavít, một cậu bé chăn chiên có mái tóc hoe, đôi mắt xinh xắn và dáng vẻ khôi ngô. Chúa cho Ðavít thắng được tên Gôliát từng đe dọa thách thức con cái Israen. Nhờ đó Ðavít được đưa vào đền vua. Nhưng những tiếng ken của dân chúng lại làm cho Saul ghen ghét Ðavít. Bao nhiêu cạm bẫy ông đặt ra, Ðavít đều thoát khỏi. Lòng Saul lại càng như lửa cháy. Ðavít biết thân phận đành bỏ trốn, lang thang lâu năm nơi đất khách quê người và thường phải lấy sa mạc mênh mông làm nơi ẩn núp. Nhưng Saul vẫn không buông thả. Bài sách Samuen hôm nay cho thấy ông lấy cả 3,000 tinh binh, thân hành di truy lùng Ðavít.

Chắc chắn cuộc săn đuổi đã khiến ông mệt nhọc. Ông phải nằm ngủ, nhưng quân binh vẫn đóng trại chung quanh. Ðavít nhìn thấy, Và đem theo một người bộ hạ. Ðavít đã có thể lén đến gần Saul mà chẳng ai biết gì. Sung sướng, tên bộ hạ xin phép hạ thủ Saul. Ðavít không cho, chỉ lấy cây giáo và chóe nước nơi đầu chỗ Saul nằm rồi đi. Sang đến bên kia sườn núi, Ðavít mới lên tiếng đánh thức quân binh của Saul và nói cho họ rõ: Hôm nay nếu muốn sát hại Saul, thì Ðavít đã làm xong.

Người ta có thể nghĩ Ðavít có thái độ quân tử không? Lịch sử cũng kể nhiều vị đại tướng và hoàng đế tha chết cho kẻ thù một cách cao thượng như vậy. Nhưng bấy giờ Ðavít không phải là hoàng đế hoặc đại tướng mà vẫn còn là một kẻ cô đơn phải lẩn trốn sự truy lùng của quân binh nhà vua. Ðavít đã không hành động như các nhà chính trị và quân sự hào hiệp. Chàng nhỏ bé hơn nhiều. Mặc dù được Chúa chọn, chàng vẫn cư xử như kẻ bầy tôi của vua Saul. Chàng chưa thay đổi gì cả, kể từ ngày được xức dầu, ngoại trừ bản chất đơn sơ, đạo đức của kẻ mục tử bây giờ được thêm ơn Chúa đã dám liều mạng trong nhiều cử chỉ hào hiệp.

Chính vì vậy đoạn văn này không thể là một trang anh hùng ca, mặc dù có nhiều yếu tố khiến tác giả có thể dùng để tạo nên một áng văn như thế.

Ở đây, Ðavít không tỏ ra là một tay anh hùng, nhưng chỉ là một tâm hồn đạo đức, Ðavít không để cho bộ hạ lấy đầu Saul chỉ vì chàng kính sợ Chúa và giữ lời Chúa truyền dạy. Chàng biết Saul là đấng đã được xức dầu và Luật pháp không cho phép ai động đến một con người như thế. Chàng không nghĩ đến quyền lợi của mình, chàng tôn trọng ý Chúa. Chàng để Chúa quyết định cho Saul.

Do đó, nếu chỉ đọc đoạn văn hôm nay, chúng ta mới chỉ thấy lòng đạo đức của Ðavít. Lòng kính sợ Chúa đã khiến chàng không muốn tra tay trên đấng được xức dầu của Ðức Giavê. Phải đọc thêm nữa, đọc tất cả những đoạn nói đến quan hệ giữa Saul và Ðavít, chúng ta mới thấy rõ lòng yêu kẻ thù của Ðavít. Mặc dù Saul luôn tìm cách hạ sát mình, Ðavít từ đầu chí cuối vẫn một lòng kính yêu đối với chủ mình. Chàng không xét đến quyền lợi riêng nhưng luôn chỉ muốn cầu hòa và không bao giờ có lòng thù ghét Saul. Với bối cảnh chung như vậy, chúng ta có thể bảo đoạn văn hôm nay cũng nói lên lòng yêu thương thù địch của Ðavít. Chàng đã tha chết cho kẻ luôn tìm cách sát hại mình một cách vô cớ. Và đoạn văn này xứng đáng đi trước bài Tin Mừng hôm nay.

Tuy nhiên một lần nữa chúng ta đừng quên lòng đạo đức của Ðavít. Chính vì kính sợ Chúa mà chàng đã cư xử rất quảng đại và hào hiệp với Saul. Nhà vua không ngớt thù ghét chàng, nhưng chàng lại luôn giữ một lòng kính yêu. Ðavít vẫn còn treo cao tấm gương đó cho chúng ta khi muốn thi hành lời Tin Mừng hôm nay.

  1. Bài Tin Mừng

Tác giả Luca trong đoạn văn này tỏ ra không quan tâm nhiều lắm đến khía cạnh văn chương. Nghe đọc lần đầu chúng ta chẳng thấy luận lý gì cả. Các tư tưởng xem ra được viết ra bừa bãi không theo một thứ tự nào cả. Cũng có láy đi láy lại một vài ý nhưng tác giả không dụng ý xếp thành hệ thống, khiến người đọc và nghe khó nhớ được tất cả.

Là vì đây là đoạn văn tiếp nối Bài giảng trên Núi về các Mối phúc thật, diễn tả tinh thần Phúc Âm mới mẻ của Chúa Giêsu. Người tiếp tục bài giảng lạ lùng ấy bằng đoạn văn hôm nay, có thể nói không phải để đưa ra thêm ý tưởng nào, nhưng chỉ để trưng ra một số các thí dụ để giải thích thêm về tinh thần Phúc Âm. Tinh thần này là một sự sống mới, sự sống của chính Thiên Chúa muốn chia sẻ với loài người. Chắc chắn không một công thức nào có thể diễn tả đầy đủ. Một bài thuyết minh dài với cấu trúc chặt chẽ cũng không hứa hẹn hơn. Người ta phải chọn nhiều quan điểm, nhiều khía cạnh để nhìn vào, họa may chân lý mới, hiện lên được trong sự phong phú của nó.

Vậy, ở đây Chúa Giêsu muốn dùng nhiều ví dụ khác nhau để đưa thính giả của Người vào tinh thần mới của Phúc Âm. Và đám thính giả này, theo Luca cho biết ở đầu Bài Giảng Trên Núi, là nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo. Nhưng thật ra khi nói, Chúa Giêsu lại ngước mắt nhìn riêng các tông đồ. Chúng ta có thể hiểu các môn đồ đây là Nhóm 12 tông đồ mà Người mới chọn. Tuy nhiên, đúng hơn nên hiểu từ ngữ theo một nghĩa rộng hơn, bao gồm tất cả các môn đệ. Nhất là nơi Luca, chữ môn đồ thường ám chỉ mọi tín hữu trong Hội Thánh buổi sơ nguyên. Như vậy, có thể nói Luca viết bài này cho tất cả chúng ta nay là môn đồ của Chúa Giêsu.

Người dùng một số ví dụ để đưa chúng ta vào tinh thần Phúc Âm mới của Người. Trước hết, Người dạy chúng ta “hãy yêu mến thù địch và làm ơn cho những người oán ghét các ngươi”. Những ý sau chỉ diễn tả thêm. Nào là hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa, khẩn cầu cho kẻ ngược đãi, kẻ tát má này hãy chìa má kia nữa. Chúng ta không có điều kiện để phân tách tỉ mỉ từng câu từng chữ, nhưng chúng ta phải biết Chúa muốn dạy gì đây.

Người thế gian thường oán ghét thù địch và chỉ muốn làm hại nó hoặc chỉ muốn cho nó bị hại. Còn tinh thần mới của Chúa đem đến là lòng yêu thương và làm ơn. Nhưng để hiểu rõ ý của Chúa, có lẽ tiên vàn chúng ta phải xác định ai là thù địch. Ðối với người Do Thái, hết mọi người không phải là con cái Israen đều là thù địch – vì họ có tôn giáo khác và luôn luôn trở thành cạm bẫy dụ dỗ họ rơi vào đa thần tà giáo. Thế nên có thể nói vì muốn bảo vệ một cách quá khích mà người Do Thái coi mọi người như thù địch… Sang đến môi trường của Luca, nói với các môn đồ của Chúa, thù địch theo nghĩa trên bây giờ lại là những người Do Thái và đặc biệt là hoàng đế Rôma và các khanh tướng của ông đang bắt đạo thời bấy giờ.

Vậy tinh thần mới của Phúc Âm bây giờ không giống như các lệnh truyền thời Cựu Ước nữa. Chúa Giêsu đã đến thiết lập Nước Trời, không đóng khung trong một dân tộc và truyền thống của dân tộc ấy, nhưng mở rộng hai cánh tay trên thập giá để đón nhận mọi tâm hồn thống hối ăn năn. Người đến đem tình yêu cứu độ đến cho mọi người tội lỗi. Môn đệ của Người không còn được kỳ thị ai nữa. Ngay đối với những kẻ bắt bớ mình, họ cũng phải theo gương Chúa trong mầu nhiệm Cứu Thế; chấp nhận sỉ nhục, đau thương và khẩn cầu chúc phúc cho kẻ làm khổ mình “vì chúng không biết việc chúng làm”. Trong mầu nhiệm thánh giá cứu chuộc Chúa Giêsu Kitô giống như Người Tôi Tớ đau khổ trong sách các tiên tri. Thế nên ở đây tác giả Luca gợi lên hình ảnh tát má, giật áo… những điều mà Ðức Giêsu Kitô cũng đã phải chịu. Tác giả không có ý bảo chúng ta phải thi hành theo chữ đen, nhưng dạy chúng ta phải có tinh thần như Chúa chúng ta trong mầu nhiệm Thánh Giá. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ đọc thấy một tinh thần mới, tinh thần của các mối phúc thật, được diễn tả trong đoạn văn này, hơn là khẳng định đây là những việc mà chúng ta phải thi hành theo nghĩa đen. Nói đúng hơn, có tinh thần của Chúa Cứu Thế trong mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh rồi, thì mới hiểu và mới làm được những lệnh truyền kia, và còn làm hơn thế nữa, miễn sao chứng tỏ được mình là môn đồ của Chúa.

Cũng vì vậy mà Luca không dừng lại ở những việc trên. Người còn đi xa hơn, nói đến việc cho vay mượn và cho của cải. Người không nghĩ đến những điều người viết trong sách Công vụ Sứ đồ sao? Các môn đồ thời ấy biết chia sẻ cho nhau để ở giữa họ không ai phải thiếu thốn. Lòng yêu mến thù địch đã biến sang tình huynh đệ chân thật mà Chúa Giêsu đã dạy bảo và đã gọi là lệnh truyền và giới răn mới của mình. Và nền tảng, nguồn gốc của tinh thần và lệnh truyền ấy, chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thương xót con cái loài người, trước đây thù địch với Người và với nhau. Người cho Con Một của Người xuống thế, đem lòng thương xót đó đến hòa giải hết thảy nên một dân tộc mới là đoàn con và là đoàn chiên của Chúa. Chính lòng thương xót đã đổi mới họ và ban cho họ sự sống mới, sự sống của lòng thương xót, khiến ai có sự sống mới cũng phải đầy lòng thương xót.

Sách Tin Mừng Luca đã được mệnh danh là tác phẩm của lòng thương xót. Ðoạn văn hôm nay nằm trong tác phẩm ấy. Nó cũng chẳng muốn nói gì hơn là dạy ta hãy theo gương lòng thương xót của Chúa biểu lộ đặc biệt trong mầu nhiệm Cứu Thế để chúng ta luôn có nếp sống và thái độ xót thương mọi người, khiến không ai còn là thù địch hoặc xa lạ, nhưng hết thảy đã trở thành anh em vì đã là môn đồ của Chúa. Nếu ngay trong đạo Do Thái cũng chỉ có một loại thù nghịch đáng kể là thù nghịch làm hư hỏng niềm tin; mà tinh thần mới của Phúc Âm đã hủy bỏ loại thù nghịch đó rồi, thì đối với người môn đồ của Chúa không còn có thể có một mối thù nghịch nào nữa, khiến đạo của họ mới thật là bác ái yêu thương. Thực tế họ có thể sống được như vậy không?

  1. Bài thơ Phaolô

Thánh Tông Ðồ rất thực tế. Bức thư này của người thường được gọi là Bức Thư của người Công Giáo, nói đến nếp sống Công Giáo trong Hội Thánh Công Giáo, đang khi thư Rôma được gọi là thư của người Tin Lành vì được những người này yêu thích cách riêng. Vậy trong thư nói về nếp sống Công Giáo, Phaolô không ảo tưởng nghĩ rằng mọi môn đồ của Chúa đều đã hoàn toàn và có thể thi hành các lệnh truyền của Chúa cách dễ dàng. Ðặc biệt tinh thần mới mà Chúa Giêsu đã mang đến, theo thánh nhân, chúng ta đón nhận trong thân xác yếu hèn, chẳng khác những bình sành lọ đất. Chúng ta khó giữ được. Và càng khó thi hành được. Bởi vì chúng ta không thần thiêng như Thiên Chúa. Chúng ta được cấu tạo bằng thể xác và linh hồn. Hơn nữa Ơn Chúa đến đổi mới chúng ta, nâng cao bản tính con người lên, kết hợp và chia sẻ sự sống Thiên Chúa, khiến nơi chúng ta vừa có con người cũ do Ađam lưu truyền vừa có con người mới do Chúa Giêsu mặc cho. Con người Ađam do tự đất, nên luôn hướng chiều về đất. Con người Giêsu do tự trời, nên muốn kéo chúng ta lên những sự cao siêu. Con người do đất là người trần ai, muốn sống như người phàm trần, con người do Chúa kéo chúng ta bắt chước nếp sống của Người. Vì người môn đồ ở trong một thế hai chiều như vậy, nên họ luôn bị giằng co. Tự nhiên họ muốn đối xử với mọi người theo cách thế gian là yêu bạn hữu ghét thù địch. Nhưng ơn của Chúa, tinh thần mới của Phúc Âm mà họ nhận được khi tái sinh trong phép rửa, lại thúc giục họ thi hành lệnh truyền của Chúa là yêu mến thù địch.

Do đó, kết luận hiển nhiên là nếu muốn thi hành điều Chúa dạy, họ phải tăng cường tinh thần của Người. Thánh lễ cho ta cơ hội đặc biệt để làm công việc này. Nhờ thân thể vinh quang của Chúa Giêsu mà chúng ta được lãnh nhận, Thánh Thần được ban thêm cho ta, sức sống thần linh được tăng cường để chúng ta lựa chọn nếp sống Phúc Âm. Chúng ta được hạnh phúc hơn đã sống theo tinh thần của Chúa, Ðấng đã đến để thi hành công cuộc hòa giải. Người lôi kéo chúng ta vào mầu nhiệm Cứu Thế, nơi mà kẻ tội lỗi và trước đây là thù địch cũng được hưởng lòng thương xót, để hết thảy trở nên Dân mới và là anh em với nhau. Xin cho chúng ta nhờ thánh lễ này được nhiều tinh thần ấy.

 

16. Ba điều kiện để xét đoán

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)

Những ai phải dọn bài giảng, gặp được đoạn Tin Mừng hôm nay thì đúng là tin mừng, mừng lắm luôn bởi vì có quá nhiều điều có thể rút ra, có quá nhiều đề tài nói đến, chứ không như một số đoạn PÂ, đọc mãi mà vẫn không giải được một ý gì cả để lên đề tài. Trong khi các đề của đoạn Tin Mừng hôm nay thì nhiều vô kể như:

– Hãy yêu kẻ thù: kẻ thù là ai? Yêu họ thế nào?

– Hãy tha thứ; tha thứ cái gì, có khó không?

– Hãy nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ

– Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán.

Ba cái HÃY và 1 cái ĐỪNG. Tôi xin dừng ở cái Đừng đó với câu hỏi: Tại sao Chúa nói “Đừng xét đoán.” Tại sao Chúa cấm xét đoán?

Trả lời cho câu hỏi này cũng không khó lắm, nhưng chúng ta có thể chuyển đề tài bằng cách trả lời 1 câu hỏi khác mà vẫn không đi xa đề: Tại sao Chúa cấm xét đoán à chuyển thành: Khi nào ta được phép xét đoán?

Theo thánh Tôma, tiến sĩ vĩ đại của Giáo Hội, ta được phép xét đoán khi có đủ 3 điều kiện này:

– khi được trao quyền xét đoán

– khi biết rành mạch sự việc phải xét đoán

– khi hoàn toàn thanh sạch mọi thành kiến.

Cả 3 điều kiện này, được uỷ quyền, biết rành mạch, sạch thành kiến ít ai có thể đạt được cả 3 nên hay nhất là đừng xét đoán. Ta có thể nghe Chúa Giêsu sẽ nói như sau: Các con đừng xét đoán vì các con không hội đủ điều kiện khắt khe của người xét đoán đâu

 Được trao quyền xét đoán.

Thánh Giacôbê trong thư của ngài đã nói 1 câu nghe giật mình: Chỉ có một mình Thiên Chúa đặt ra lề luật và có quyền xét xử. Còn ngươi là ai mà dám xét đoán tha nhân. (Gc 4,12)

Chỉ một mình Chúa mới có quyền xét đoán. Nhưng Chúa cũng thông quyền này cho các Tông đồ, Giám Mục, Linh mục. Chúng ta đừng ham quyền này! Khổ lắm. Honor, Onus: vinh quang quàng nặng.

Các LM khi ngồi toà Giải tội là đóng vai trò xét xử. Thử hỏi các LM, nhất là lớn tuổi khổ nhất là gì. Các LM cha xứ: khi người này người kia vào trình bày sự việc, xin cha: ý cha thế nào, kiến cha làm sao? Lại phải xét phải đoán. Chẳng sung sướng gì đâu. Cha mẹ trong gia đình cũng được chia quyền này. Khổ.

Vì thế những ai chẳng được giao phó cho quyền này, hãy vui lên tạ ơn Chúa chứ đừng nhận vào mà lãnh đủ.

Rồi khi hội đủ điều kiện 1, phải có điều kiện 2 nữa:

 Phải biết rành mạch sự việc:

 Một LM ngồi toà phải trải qua muôn luân lý dài và rắc rối, mới có thể xét định được đâu là tội, đâu là không. Nếu không rành, rất nguy hiểm cho người đi xưng tội: tội giải được không giải, tội không giải được lại giải, có tội thì nói không sao, không sao thì bảo là nặng lắm… Một trong những điều kiện để chọn lựa ơn gọi tu trì, nhất là ơn gọi LM là óc phán đoán, óc phân biệt. Nếu thíếu, nếu yếu, thường được khuyên rút lui. Nếu không tự ý rút lui, sẽ cưỡng chế cho về. Còn khi đã là linh mục, gặp tai nạn chấn thương phần não, trở nên mát mát, hâm hâm, thì có thể làm lễ, nhưng không được ngồi toà… xét xử.

Điều này cho ta thấy để xét đoán, ngoài quyền được trao, còn phải rành sự việc mà sự việc ở đây đâu phải là chiếc búa, cái đinh, mà là con người có dáng vẻ bề ngoài nhưng cũng có phần tâm linh bí ẩn, ai dò cho thấu.

Kinh-thánh đã nói người ta chỉ xem xét được bên ngoài, chỉ có Chúa mới là đấng thấu suốt tâm can. Một việc bề ngoài ta coi là lỗi, nhưng biết đâu lại chẳng trở thành nhân đức.. nhờ thiện chí, nhờ ý tốt. Ta sẽ nói thêm khi kết luận.

Có quyền xét xử rồi lại phải am tường sự việc con người nữa. Nhưng để xét đoán tốt như vậy vẫn chưa đủ, còn phải:

 Sạch mọi thành kiến nữa

 Einstein nói: Phá vỡ 1 thành kiến còn khó hơn phá vỡ 1 nhân nguyên tử! Do đó, ta thực là khó để loại sạch mọi thành kiến được: không ưa thì dưa có giòi. Đã thích ai thì thích cả lối đi. Đã ghét ai thì ghét cả tông chi họ hàng. Có thiện cảm với ai thì dễ gì nhìn thấy lỗi họ được. Có ác cảm, yên trí với ai rồi, khó xử tốt. Ngôn ngữ bình dân gọi yên trí là tật. Tật là khó chữa. Tật yên trí. Có cả trăm câu chuyện để làm ví dụ cho tật yên trí này. mỗi người trong chúng ta chắc ai cũng đã có hơn một lần kinh nghiệm.

Tại sao Chúa nói: Đừng xét đoán. Ta đã trả lời gián tiếp: vì 3 điều kiện để được xét đoán quá khắt khe ít ai đạt được: quyền xét đoán, biết rành mạch, sạch thành kiến. Nên ta đừng xét đoán. Đây không chỉ là 1 lời khuyên, nhưng còn là 1 lời hứa, mà Chúa nói rõ, đừng xét đoán sẽ không bị Chúa xét đoán. Ta không khai thác điểm này, mà sẽ trở về với điều kiện 2, để xét đoán phải rành sự việc. Số là:

Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Ngày đầu tiên đến đất Tề, đói khát, may có người đem biếu ít gạo. Khổng Tử phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi là đệ tử Khổng Tử cưng nhất, ở nhà thổi cơm. Khổng Tử là thầy, nằm đọc sách. Đang đọc, nghe cái “cọc” từ bếp vọng lên. Liếc nhìn xuống bếp thấy Nhan Hồi lấy đũa xới cơm cho vào tay vắt lại, rồi liếc mắt nhìn quanh, không thấy ai, Nhan Hồi đưa cơm vào miệng. Khổng Tử thấy hết, nên ngửa mặt lên trời than: người học trò ta tin tưởng nhất, lại ăn vụng thầy, ăn vụng bạn, đốn mạt đến thế là cùng. Chao ôi, bao kỳ vọng đặt vào Nhan Hồi, thế là trôi theo mây khói.

 Sau đó, Tử Lộ và nhóm hái rau từ rừng về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử nằm im đau khổ. Rồi cơm rau dọn lên, môn sinh chắp tay mời thầy. Khổng Tử ngồi dậy nói:

 – Các con ơi, ta đi từ Lỗ sang Tề, đường xa vạn dặm. Hôm nay, ngày đầu tiên trên đất Tề, thầy nhớ quê hương đất Lỗ, nhớ đến tổ tiên, thầy muốn dâng bát cơm đầu tiên nhớ đến cha mẹ thầy. Các con nghĩ có nên không?

Trừ Nhan Hồi, các đệ tử đều đáp, thưa thầy nên. Khổng Tử nói: Nhưng không biết nồi cơm này có sạch không?

Học trò ngơ ngác không hiểu ý thầy, chỉ trừ Nhan Hồi chắp tay nói: thưa thầy nồi cơm này không được sạch. Khổng Tử hỏi tại sao? Nhan Hồi đáp:

– Khi cơm chín, con mở vung xem cơm đã thực chín đều chưa, thì một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi từ trên rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con cũng nhanh tay đậy vung, nhưng không kịp. Sau đó, xới cơm bẩn định vất đi… thì con chợt nghĩ, cơm thì ít, anh em thì đông, bỏ lớp cơm bẩn đi, vô tình bỏ mất một xuất cơm, anh em phải ăn ít lại, nên con ngưng vất đi và đã mạn phép thầy và anh em con ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn cơm sạch xin để phần thầy và anh em. Như vậy con đã ăn phần cơm, bây giờ chỉ xin ăn phần rau nữa thôi. Và thưa thầy, vì nồi cơm con đã ăn trước rồi, nên không nên dùng để cúng nữa ạ!

Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời mà than: “Chao ôi, thế ra trên đời có nhiều việc chính mắt ta trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu đúng sự thật. Chao ôi, suýt nữa Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ.”

Vậy ta còn ham xét đoán nữa không?

 

17. Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Tin mừng Lc 6: 27-38 Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi tiến thêm một bước, vì chúng ta có Chúa Kitô trong lòng: “Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả…”

Suy niệm:

Nói đến kẻ thù thì thường chúng ta lên án, kinh tởm, trốn chạy, tránh mặt… Người ta xem là kẻ thù là người không đội trời chung, có nó thì không có tôi… Đó chỉ là suy nghĩ của thế gian, còn với người của Chúa, người thuộc về Chúa, chúng ta được mời gọi sống bao dung hơn.

Bài đọc trích sách Samuel quyển I cho chúng ta bối cảnh Saolê vì ghen tức, tìm cách sát hại Đavid. Ông đem ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít. Ban đêm Ðavíd và Abisai đến nơi quân sĩ của vua đóng, Saolê thì đang nằm ngủ trong lều, cây giáo của ông thì cắm xuống đất ở phía đầu, nhưng rồi Ðavíd chỉ lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu của Saolê trong khi mọi người vẫn ngủ say. Ðavít đã làm một việc nghĩa đáng khâm phục với người đang lùng giết hại mình khi sang phía bên kia, đứng trên ngọn núi đàng xa, ngài hô lên rằng: “Chúa sẽ báo đáp cho mỗi người tuỳ theo sự công minh và thành tín cuả họ, vì hôm nay Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay giết đấng được Chúa xức dầu”.

Vâng, đó cũng chính là giáo huấn của Chúa Giêsu. Không chỉ dạy chúng ta biết yêu mến những người thân cận, người yêu mến mình nhưng Chúa dạy ta còn cần phải yêu mến cả những người làm hại đến ta nữa. Yêu mến những người thân cận, kẻ yêu thương mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì làm gì còn ân với nghĩa. Những người lương dân bên ngoài cũng làm được như thế mà, vậy chúng ta là Kitô hữu có hơn được gì đâu?

Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi tiến thêm một bước, vì chúng ta có Chúa Kitô trong lòng: “Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Ðấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” Tục ngữ Việt Nam chúng ta có câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, vậy chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em Ðấng nhân từ.” Một điều tưởng chừng như vô lý không thể thực hiện được, nhưng không phải là không thể.

Vào 5g17’ chiều ngày 13/5/1981, tại quảng trường Thánh Phêrô, Mehmet Ali Ağca, một sát thủ được các lực đen tối thuê ám sát Đức Gioan Phaolô II. Tên “sói xám” thứ 23 là xạ thủ chuyên nghiệp, ở đằng sau dãy đầu tiên, rất bình thản và dứt khoát; mục tiêu của sát thủ là không phương tiện đề kháng, không có lối thoát, ra tay không thương xót, chỉ cách Đức Thánh cha không đầy 3m. Cuộc tấn công xảy ra trong khi Đức Gioan Phaolô II đang đứng trong một chiếc xe và đi chào thăm, bắt tay tín hữu tại quảng trường. Bốn tiếng súng đột nhiên vang lên và ngài ngã quỵ bên ngoài Vương cung thánh đường Thánh Phêrô (thành Vatican), trong sự hoảng loạn của mọi người xung quanh. Xe cứu thương nhanh chóng đưa ngài đến bệnh viện Gemell trong tình trạng nguy kịch. Một y tá kể lại trước khi các bác sĩ gây mê để tiến hành phẫu thuật, Đức Giáo hoàng đã nói: “Sao họ có thể làm việc này”? Ngài bị trúng 2 phát đạn ở vùng bụng, phải trải qua một ca phẫu thuật kéo dài khoảng hơn 5 tiếng đồng hồ trong khi hàng triệu tín hữu đều cầu nguyện cho ngài.

Cảnh sát cho biết trước đó Mehmet Ali Agca đã bị kết tội vì sát hại biên tập viên của một tờ báo ở Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 2/1979, tuy nhiên Agca đã trốn thoát khỏi nhà tù vào cuối năm đó. Ngày 20/7/1981, phiên tòa xét xử Agca được diễn ra, tay súng bị kết án tù chung thân. Nhưng hai năm sau biến cố ấy, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II bình phục và đã đến thăm Agca trong nhà tù ở Roma vào ngày 27/12/1983. Ngài và người đã ám sát ngài ngồi nói chuyện thân mật trong tù. Với một thái độ trìu mến, Đức Thánh Cha nghiêng người về phía kẻ đã ám sát mình, và sau đó ngài đã quyết tâm giữ kín nội dung cuộc nói chuyện này. Ngài đã tuyên bố tha thứ cho hành động của Agca, và đã can thiệp để Agca được trả thự do vào năm 2000. Sau đó, Agca còn bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ và phải ngồi tù vì sát hại một biên tập viên báo trước đây, song đã được thả vào năm 2010 do một số lệnh đặc xá.

Qua việc tập luyện các nhân đức Kitô giáo, con người ngày càng đạt tới sự trưởng thành con người Kitô hữu. Có thể nói, đoạn Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc, vén mở một lý tưởng mà người Kitô hữu phải vươn tới. Abraham Lincon, vị tổng thống Kitô giáo của nước Mỹ cũng nói, “Chúng ta chỉ có thể tiêu diệt kẻ thù bằng cách biến kẻ thù thành bạn hữu”.”Hãy yêu kẻ thù”: kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp. Đó nhiều khi không phải là kẻ cầm dao muốn sát hại mình nhưng là người vu khống mình. Đó nhiều khi không là kẻ tát vào mặt mình nhưng là người nói xấu sau lưng mình, bằng mặt nhưng không bằng lòng. Đó là người không đoạt áo của mình nhưng tìm cách bêu rếu mình. Đó là những người hay làm phiền và lợi dụng mình, Đó là những người tự nhiên mình không ưa, hay không ưa mình.

Chúa Giêsu không đòi chúng ta yêu kẻ thù như yêu người thân, vì về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Người mời gọi mỗi chúng ta yêu bằng hành động: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.” Cho không có nghĩa phải là vật chất mà đơn giản có khi chỉ là một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời cầu nguyện cho họ thay đổi và chính chúng ta cũng được biến đổi.

Khi làm điều tốt như thế, ít ra chính mình được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng. Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, chúng ta không còn coi họ là kẻ thù của mình nữa, mà là những người anh chị em cũng đáng thương bên cạnh chúng ta vậy. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi. Thiết nghĩ, đó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên, chẳng phải là một hành vi của kẻ nhu nhược, nhưng là dấu hiệu của lòng can đảm dám bỏ qua cho nhau.

Lạy Thiên Chúa là Cha, xin cho con ý thức mình là Kitô hữu, được mời gọi sống nhân hậu như Cha trên trời. Và chính Cha đã diễn tả tình yêu ấy qua Đấng Cứu Thế, Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người, Người đến để tha thứ và canh tân thế giới này, xin cho con nhận ra chỉ có tình yêu mới làm cho con người ta biến đổi nên tốt hơn. Amen.

 

18. Công lý Chúa

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm có lúc mình là nạn nhân của bạo hành, lúc khác mình lại gây bạo hành làm tổn thương đến danh dự người khác. Bạo hành gây ra hoặc do lời nói hoặc do việc làm. Khi đau khổ do bạo hành xẩy ra cần phải tìm cách giải quyết. Theo thói thường xã hội quan niệm công bằng theo nghĩa: có ăn, có trả; làm lỗi tất phải thường. Gây thiệt hại, đương nhiên phải đền bù. Đức Kitô dậy các môn đệ cách đối xử cách lành mạnh, cao thượng hơn. Ngài kêu gọi tránh dữ, làm lành; tránh trả đũa nhưng gây thiện cảm. Gây thiện cảm với người làm cho mình đau khổ là điều tưởng khó hơn ngồi tù ngục tối. Theo Đức Kitô, gây thiện cảm không phải là cách hành xử cao thượng mà chính là lối sống của người Kitô hữu. Để giao hoà với kẻ nhục mạ, làm khổ mình, Kitô hữu cần sức mạnh nội tâm qua cầu nguyện, phải can đảm đánh thắng cái tôi trong mình và í chí kiên quyết mới có thể thực hiện được điều đó.

Đức Kitô kêu gọi ‘hãy yêu mến kẻ thù’ c.27 bởi Kitô hữu cần có thái độ sống, không phải theo lề thói xã hội, mà sống theo gương Thầy Chí Thánh. Hành xử theo gương Đức Kitô chính là không vui mừng khi thấy kẻ làm hại mình gặp đau khổ, trái lại Kitô hữu hãy ‘làm ơn cho kẻ ghét anh em’. c. 27b.

Thứ đến ‘chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em’ c.28a bởi vì thù oán gây chiến tranh; trong khi chúc lành và tha thứ kiến tạo hoà bình.

Quan trọng hơn cả là ‘cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em’ c.28b. Sức mạnh của cầu nguyện không phải chỉ mang ơn phúc đến cho người mình cầu cho mà chính người cầu nguyện được hưởng ân phúc Chúa ban. Lời cầu giúp Kitô hữu nhận biết không phải nhu cầu của riêng mình, mà giúp nhận ra nhu cầu của kẻ làm hại mình. Họ có đau khổ riêng của họ và chính những đau khổ tiềm ẩn đó là nguyên nhân dẫn đến hành động làm hại người khác. Nhận biết đau khổ của kẻ làm hại mình là bước đầu dẫn đến tha thứ, giao hoà. Sức mạnh của cầu nguyện còn làm cho người làm hại ta nhận biết cái sai trái của chính cá nhân họ và từ đó họ tìm cách thay đổi lối sống tốt lành hơn.

Công lí Đức Kitô truyền dậy không phải là kết án hay luận phạt mà chính là tha thứ và yêu thương. Thiếu đời sống cầu nguyện sẽ rất khó tha thứ bởi tự ta không thể tha thứ dễ dàng cho kẻ làm hại mình. Cần ơn Chúa. Với ơn Chúa thì mọi sự đều có thể bởi lúc đó ta không còn phải tự sức riêng mình, mà có ơn Chúa phù trợ, thúc đẩy việc giao hoà trở nên dễ dàng hơn, dễ thực hiện hơn. Thánh Phaolô đã khẳng định điều trên khi Ngài viết:

Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta’. Rm 8,31

Trả thù, trả đũa chính là hành xử cùng cung cách xã hội quan niệm về công lí. Trả đũa hay trả thù dễ hơn là tha thứ và đại đa số chọn cách dễ. Thực ra, trả đũa là đồng hoá mình thành một thành phần của kẻ làm hại ta. Hành xử cùng cung cách xã hội không phải là cách Đức Kitô hướng dẫn. Đời sống Kitô hữu không theo thói thường là kết án, hay đầy ải, tù đầy mà chính là tha thứ và yêu thương. Đây chính là cách Đức Kitô đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: ‘Tôi không lên án chị đâu, chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa’ Gn 8,11.

Món quà cao quí nhất Kitô có để cho đó là món quà tha thứ. Tha thứ cho lỗi lầm riêng mình và tha thứ cho lỗi lầm của anh em. Kẻ giầu có, quyền thế trong xã hội thường cố gắng có thêm tiền, thêm quyền mà ít quan tâm đến như cầu của người nghèo khó. Kết quả là kẻ giầu càng giầu, kẻ nghèo càng đói. Đức Kitô dậy các Kitô hữu cách sống tha thứ và yêu thương để thay đổi quan niệm sống trong xã hội.

 

19. Hãy có lòng nhân hậu như Chúa

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Chuyện kể rằng: “Có hai người thổ dân Nam Phi rất giận ghét hiềm khích nhau, mối thù mỗi ngày càng sâu đậm, chỉ mong ước có dịp thuận tiện nào để phục thù cho hả cơn giận. Ngày nọ, người kia gặp thấy một bé gái con của kẻ thù mình trong một khu rừng, anh ta bỗng nổi cơn xung giận tóm lấy cô bé, rút dao chặt cụt hai ngón tay, rồi thả cho đi. Cô bé vừa chạy về nhà vừa khóc nức nở, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn tiếng tỏ vẻ thỏa chí: “Ta đã trả thù được rồi!” Ngày tháng trôi qua, thấm thoát đã mười mấy năm, cô bé đã lập gia đình, có chồng con và cảnh gia thất đầm ấm sung túc. Bỗng một buổi chiều kia, có một người hành khất đến xin của bố thí. Bà chủ nhà đã nhận diện ra người hành khất đó chính là kẻ đã chặt hai ngón tay mình, vội vã trở vào trong nhà tìm cách “Báo thù”, bằng cách bà đem sữa bánh ra cho ông ta ăn, trao cho ông ta một số tiền để có kế sinh nhai. Khi ấy bà giơ bàn tay cụt ra và nói: “Tôi cũng đã trả thù được rồi! Người hành khất nhận ra người mình trả thù trước kia nay có tấm lòng nhân từ tha thứ “Lấy ân trả oán” cho mình, ông khóc lóc và xin lỗi tủi hỗ vô cùng.

Bài đọc I kể Đavít đã không giết Saolê là kẻ thù đang đem 3000 quân đi lùng bắt giết Đavít. Có phải Đavít yêu kẻ thù chăng? Chắc là phải, vì Đavít đã kính trọng Vua Saolê, là người đã được Chúa xức dầu. Như vậy, Đavít vì mến Chúa mà tha thứ cho kẻ thù. Lòng kính mến Thiên Chúa chính là nền tảng đức bác ái nhân từ vô biên. Ai nhận biết Thiên Chúa là Cha mình, mới nhận ra mọi người là anh em thật của mình và không còn ai là kẻ thù. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Rõ ràng, lòng nhân từ của con người gồm hai hành động “yêu thương và tha thứ”, mà lòng nhân từ của con người do Thiên Chúa ban cho. Qủa thế, con người ngay đầu đã “nhân chi sơ tính bản thiện”. Chính tâm thiện này được Thiên Chúa đặt để vào trong lòng con người khi Ngài dựng nên họ và nhờ cái chết của Chúa Giêsu. Cho nên, Chúa Giêsu hằng mong muốn rằng: “Anh em phải có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Mt 5,37).

Khi nói đến lòng nhân hậu, chúng ta nghĩ ngay đến việc ăn ngay ở lành, làm lành lánh dữ hay nói đúng hơn là làm theo tiếng nói của lương tâm, mà tiếng lương tâm chính là tiếng nói của Thiên Chúa ở trong lòng ta (Sách GLTHCG, số 1776). Thế nhưng, ngày nay, lòng người không còn chỗ cho Chúa ngự, tiếng nói của Chúa không còn vang dội trong lòng của họ nữa, tại sao? Vì lòng của họ đầy ắp điều xấu, hay chai lì với tội lỗi, đến nỗi không biết rằng họ đang sống phần “con” mà mất phần “người”, chẳng màng chi tới việc tốt xấu, thiện ác nữa. Cho nên, họ chẳng tha thiết gì với lòng nhân và hạnh phúc đời sau. Nếu con người sinh ra, sớm nở tối tàn như bông hoa và cuối cùng trở về với cái không vô tận, với sự thù hận, gian ác hay với một cõi lòng tan nát và đầy bợn nhơ, thì còn gì là giá trị và ý nghĩa của con người và đời người, cho nên Chúa Giêsu nói: “Thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26,24).

Vì vậy, để có lòng nhân hậu như Thiên Chúa, trước hết, chúng ta phải tin vào Thiên Chúa, Lời Ngài và sống đúng Lời Ngài dạy vì chưng nếu không có Thiên Chúa và Lời Ngài soi dẫn làm sao chúng ta trở thành người ăn ngay ở lành, làm theo đúng ý Chúa, vì lương tâm con người có thể sai lầm nhưng Lời Chúa chân lý, không bao giờ sai. Bên cạnh đó, chúng ta phải áp dụng Lời Chúa vào ngay trong cuộc sống đời thường của chúng ta qua việc cầu nguyện, hy sinh, yêu thương, tha thứ, phục vụ, sẻ chia đồng hành với hết mọi người trong đó có kẻ thù ta bằng cách cống hiến sức lực, tài năng, và vật chất của mình cho họ, kèm với trái tim thương xót, bao dung, đồng thời tôn trọng nhân phẩm của họ, khi ấy chúng ta mới có phúc và lòng nhân hậu như Thiên Chúa, như lời tha tội của Chúa Giêsu Kitô trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Nghe thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!”, “sống không để bụng để không mang theo”

Chúa Giêsu đến thế gian để đẩy lui sự ác, đã chết để tẩy xóa sự hận thù, đã sống lại để tẩy trừ tội lỗi chúng ta. Vì vậy, Người không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt; và lòng nhân hậu yêu thương tha thứ là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui hận thù tội lỗi nơi con người, làm thay đổi đời sống có ý nghĩa hơn. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khẳng định: “Cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến”.

Ngày 13/05/1981 cả thế giới đều sửng sốt kinh hoàng về tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát tại chính công trường Thánh Phêrô. Ali Agca, một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ, thủ phạm bắn Ngài, lại được Ngài đến thăm, nói chuyện và tha thứ cho anh. Tình yêu nào đã khiến Đức Giáo Hoàng thương yêu kẻ thù như bạn hữu của mình? Chỉ có tình yêu của Đức Giêsu đã thúc đẩy vị đại diện của Người dưới trần gian này đã có lòng nhân hậu vô biên như vậy. Còn đối với mỗi người chúng ta, ước gì qua Lời Chúa hôm nay biến đổi chúng ta thành con Chúa biết “thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình. Lạy Chúa, chúng con đã xúc phạm đến Chúa biết chừng nào! Chúa vẫn tha thứ, hy sinh chịu chết cứu chuộc chúng con và cho chúng con được làm con yêu dấu của Chúa. Xin cho chúng con nhận biết lòng từ bi nhân hậu của Chúa, và cho chúng con hết lòng yêu thương mọi người, dù họ thù ghét con mãi mãi. Amen.

 

20. Đừng nhìn nhau là kẻ thù

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Những năm gần đây, trên các phương tiện truyền thông hay xuất hiện cụm từ “những thế lực thù địch” đang chống phá nhà nước Việt Nam. Vậy, những thế lực thù địchnày từ đâu ra, sao càng ngày càng nhiều và gây lo sợ cho chính phủ đến thế?! Nhưng có một điều lạ là không ai giải thích rõ “thế lực này là ai?”, và chỉ thấy những dân oan luôn bị gán ép là bị thế lực thù địch lôi kéo, đôi khi họ cũng gán ép cho các tôn giáo bị thế lực này lôi kéo..

Thực ra, nếu mình sống tốt thì sẽ không bao giờ có thù địch. Nhất là nguời Việt Nam luôn coi nhau là anh em vì “tứ hải giai huynh đệ”. Con người sống biết nhường, biết nhịn, biết phải, biết trái thì sẽ không có tranh chấp thù địch nhau. Gọi nhau là thù địch nghĩa là sợ tranh dành miếng ăn, chỉ biết chiếm phần mình nên ai xen vào quyền lợi của mình tức là thù địch chăng? Nếu sống bên nhau mà vẫn xem nhau là thù địch thì làm sao đất nước phát triển? Nếu vẫn xem nhau là thù địch thì vẫn còn kỳ thị và loại trừ lẫn nhau?

Người Công Giáo không có kẻ thù. Người Công giáo nhìn đâu cũng thấy mọi người là anh em con một Cha trên trời. Nếu ai nói mình là người Công giáo mà còn thù ghét anh em mình tức là không còn là môn đệ của Thầy Giê-su, vì Thầy Giê-su đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”. Điều này chính Chúa Giê-su đã làm gương. Ngài đã dùng tình yêu để có thể xoá bỏ hận thù.Ngài yêu thương con người nên nhẫn nại chờ đợi con ngườiquay trở về để Ngài giang cánh tay ôm ấp thứ tha. Ngài luôn kiên nhẫn trong những lầm lỗi con người. Sự kiên nhẫn của Ngài không phải là ngồi đó mà là dấn thân để giúp họ cải tà quy chính. Ngài đã sống tột đỉnh của tình yêu tha thứ khi Ngài tha thứ cho người giết hại mình. Ngài đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “lạy cha, xin tha cho họ,vì họ làm mà không biết việc họ làm”.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. Vượt lên trên tình yêu tha thứ đó là lòng nhân từ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không xét đoán tội chúng ta như chúng ta đáng tội. Ngài đã yêu thương và yêu thương cho đến cùng.

Cuộc sống con người luôn có những sai lầm. Sai lầm do vô tri. Sai lầm do nhẹ dạ. Sai lầm do cố ý. Những sai lầm của tha nhân khiến chúng ta bực mình. Đôi khi chúng ta muốn thanh trừng cho hả dạ. Nhưng lời Chúa luôn nhắc chúng ta hãy tha thứ để được tha thứ. Hãy tha thứ để có bình an trong cuộc sống. Không tha thứ là ta đang ôm ung nhọt trong người khiến mình đau nhức cả đời. Chỉ có tha thứ mới hạnh phúc và bình an.

Nhưng đáng tiếc, nhân loại hôm nay luôn chìm đắm trong biển máu của hận thù, chia rẽ, tranh chấp và chiếm đoạt. Bản thân chúng ta đôi khi cũng khó lòng tha thứ cho những người có lỗi với chúng ta. Người trong nhà đôi khi còn nhìn nhau như kẻ thù làm sao sống yêu tha nhân được. Vợ chồng còn không tha thứ cho nhau làm sao sống thuỷ chung với nhau. Người trong một nước mà còn nhìn đâu cũng thấy thù địch làm sao chung sống hoà bình.

Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau để mang lại cho thế giới sự hiệp nhất và bình an. Chúa muốn chúng ta hãy dùng những nghĩa cử tha thứ, bao dung để cho Nước tình thương của Chúa trị đến.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn nhận sự yếu đuối của mình mà sống khiêm tốn trước lời sửa dạy của anh em. Đồng thời, biết cảm thông tha thứ những lỗi lầm của tha nhân. Amen.

 

21. Tinh thần mới – R. Gutzwiller

Cho tới nay, Chúa Kitô vẫn ưu tiên cho các môn đệ; giờ đây, lời Ngài nói, rõ rệt nhằm cho mọi thính giả của Ngài. Cái nhìn của Ngài nhắm vào tương lai, đến chỗ kết thúc nước Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đây, Đấng đã tỏ hiện ra nơi Ngài, cũng phải xuất hiện qua những kẻ thuộc về Ngài nữa: bước đầu nhắm vào bề trong và ẩn dật, tuy nhiên, lại là một thực tại sống động.

  1. Yêu cầu

Điều Chúa đòi hỏi tiên vàn không phải là cầu nguyện và hành động, nhưng là phải có những tâm tình mới. Ngài muốn có sự canh tân tâm hồn, sự cải cách bên trong con người. Tinh thần đây là lòng yêu mến, lòng yêu mến mà mức độ trải rộng ra hết sức của nó: Hãy yêu thương kẻ thù. Lòng yêu mến phải bao bọc mọi người, không loại trừ ai kể cả những kẻ thù địch dữ tợn nhất. Theo nguyên tắc, lòng yêu thương này vô giới hạn; ánh sáng của nó sẽ chiếu giãi trong khắp các xó xỉnh, và sức nóng của nó sẽ đốt nóng mọi sự.

Tâm tình là điều chính yếu, nhưng chỉ là những tâm tình chân thực khi phát xuất ra các việc làm. Hãy làm ơn cho những kẻ ghen ghét các anh chị.

Tình yêu tự trong bản chất là tốt lành (vì nó sinh ra từ Thiên Chúa là Tình Yêu). Việc làm và ảnh hưởng của Tình yêu sẽ tất nhiên là tốt lành. Hãy làm lành! Ta không được quyền lấy ghen ghét đáp trả ghét ghen, không được ăn miếng trả miếng, nhưng là phải lấy tình thương che phủ mọi sự, bởi vì sự thiện phải mạnh hơn sự ác.

Ta chỉ thực sự có tinh thần mới, một khi ta ao ước điều tốt lành cho chính kẻ thù ghét ta. Hãy chúc lành cho những kẻ nguyền rủa các anh chị. Ta phải cầu Chúa chúc lành cho những kẻ ghen ghét và nguyền rủa, để sự ác bị đánh quỵ ở mọi nơi. Lòng yêu thương chân thật sẽ không gò ép số phận trong sự cứng nhắc, nhưng đặt tất cả trong lòng bàn tay nhân từ của Thiên Chúa.

Hãy cầu xin cho những ai vu khống các anh chị. Im lặng không có nghĩa là tránh né, một sự im lặng giận dữ hoặc một sự từ khước là do sự bực tức hay mệt nhọc. Trái lại phải kiên trì mang lấy gánh nặng của mình, đặt vào tay Thiên Chúa mọi cái đè nén tâm hồn. Thái độ này làm cho tâm hồn con người được thư thái và khiến con người đối diện với những kẻ ghét mình, nguyền rủa hay vu khống mình mà không chút sợ sệt.

Tình yêu chúc lành và cầu nguyện: đó là sức mạnh mới và thần trí mới có khả năng vượt tất cả mọi sự. Mệnh lệnh chặt chẽ của luật pháp khi ấy hoá thành mềm dẻo, tương quan giữa các hữu thể nằm trên một bình diện hoàn toàn mới mẻ. Cộng đồng nhân loại từ đây vâng phục một luật lệ khác: đó là tinh thần mới Chúa Kitô đòi buộc.

  1. Thực hiện.

Tinh thần này được trình bày bằng hai thái độ: tích cực và tiêu cực.

Thái độ tích cực

Ai yêu mến thì sẵn sàng chịu đựng và cho đi không ngừng. Ai vả má này hãy đưa má kia nữa; ai lột áo ngoài cũng đừng cản nó lấy áo lót.

Lòng ích kỷ tiêu tan bởi vì cái tôi đã biến vào nơi Thiên Chúa. Con người không còn hành động theo quan điểm của riêng mình, nhưng bao quát mọi biến cố bởi vì việc họ kết hợp với Thiên Chúa làm cho họ vượt quá chính mình. Do đó, bao giờ câu trả lời của Chúa cũng làm cho ta ngạc nhiên vì nó bất ngờ. Lúc nào họ cũng sẵn sàng, tươi vui, chấp nhận điều xấu và thực thi điều thiện. Người đó sống trên bình diện hoàn toàn khác hẳn.

Chính vì đặt căn bản trên nước Thiên Chúa mà họ hành động và suy tưởng trong những phạm vi khác nhau của sinh hoạt nhân loại.

Thái độ tiêu cực.

Lòng yêu mến loại trừ mọi thứ vụ lợi riêng tư. Nếu anh chị yêu mến những kẻ mến thương anh chị, thì còn ân nghĩa gì? Những kẻ tội lỗi cũng yêu mến những kẻ yêu thương họ. Một quy luật đồng nhất đó được dùng cho những ai làm điều thiện, cho vay mượn tiền bạc… Người cho đi chỉ để mong được lại là kẻ tìm kiếm chính mình. Con người mới phải có sự sung mãn nội tâm dồi dào, cho đi không tính toán, không đợi chờ phần thưởng. Mọi tính toán đều đi ngược vơí bản chất thâm sâu nhất của đức bác ái.

Lý do: một thái độ tương tự như thế chỉ có thể có nơi Thiên Chúa, được Ngài gợi ý và hướng về Ngài. Anh chị sẽ là con cái của Đấng Tối cao, vì chính Người nhân lành với những kẻ vô ơn cũng như ác độc.

Bí nhiệm thâm sâu nhất của nước Thiên Chúa là lòng yêu mến của Thiên Chúa. Con người chỉ là con kênh để Thiên Chúa đổ tràn nước của Ngài xuống. Ngài là động lực, là lý do hiện hữu. Con người đón nhận nơi Ngài tất cả để rồi thông chuyển tất cả. Lòng yêu thương của họ không chút sợ sệt, giống như ngọn lửa leo lét trong chiếc lò dương thế: ngọn lửa của Thiên Chúa không ngừng thắp lên và sẽ chẳng bao giờ bị tiêu hao.

Người nào từ Thiên Chúa sinh ra thì có sự sống của Thiên Chúa nơi mình và qua đó có sự sung mãn và phong phú, tất cả những thứ đó chỉ có thể từ Thiên Chúa mà đến. Họ không cần phải so đo hơn thiệt, tính toán cẩn thận, bủn xỉn chi li hay lo lắng cho tương lai. Họ có thể ban phát vơí bàn tay đầy ắp, vẻ mặt tươi vui, không lo lắng đến đáp trả hay kết quả. Họ phân phát nhân danh Chúa, nhờ Chúa và với Chúa; còn hiệu quả về phía nhân loại là một điều hoàn toàn tuỳ thuộc.

Chỉ có con người như thế; sinh vật của Thiên Chúa trong nước Ngài, mới có được tinh thần mới này và mới có thể tìm kiếm và phát triển tinh thần ấy trong bản thân mình theo những yêu cầu của Chúa. Trong trường hợp này, họ đã được thưởng nếm Thiên đàng ở ngay trần gian, và xem như nước Thiên Chúa thực sự đã cất cánh bay.

Như thế các vị thánh, những con người thực sự của Thiên Chúa, tượng trưng cho sự chiếu giãi vinh quang sẽ đến và làm cho người ta tiên cảm được những gì sẽ xảy ra trong ngày Chúa trở lại.

 

22. Gieo gì, gặt nấy

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ càn khôn và Ngài đã đặt ra quy luật để điều hành vạn vật. Một trong những quy luật đó là “Gieo gì, gặt nấy.” Đây là quy luật phổ quát, bất di bất dịch, chi phối mọi hoạt động của vũ trụ cũng như con người.

Quy luật này vận hành như sau:

Nếu chúng ta đứng giữa những vách núi bao quanh và thét lên một lời nguyền rủa: “Khốn cho ngươi!” thì sẽ có nhiều lời nguyền rủa “Khốn cho ngươi! Khốn cho ngươi!…” liên tục dội lại bên tai. Trái lại, nếu chúng ta la vang những lời chúc phúc: “Phúc cho anh!” thì sẽ có nhiều lời “phúc cho anh! phúc cho anh!…” vọng về.

Nếu người nông dân mang một thúng lúa đi gieo, thì khi đến mùa, anh ta sẽ thu hoạch về nhà cả trăm thúng lúa khác; Khi anh ta gieo một thúng bắp, thì anh sẽ thu hoạch được hằng trăm thúng bắp. Trái lại, khi anh ta gieo cỏ xấu vào ruộng của mình, thì khi đến mùa, anh ta chỉ thu hoạch toàn cỏ dại.

Quy luật này đã được Thiên Chúa ghi khắc vào lương tâm con người từ khi mới dựng nên họ.

Quy luật này được nhân gian phát biểu như sau:

– “Ác giả ác báo” hay là “Quả báo”.

– “Cha mẹ hiền lành để phúc cho con.”

– “Ở hiền, gặp lành.”

– Còn thánh Phao-lô trong thư Ga-lát (6,7-8) thì dạy rằng: “Gieo giống nào thì gặt giống đó”. Ngài viết: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được hoa trái của Thần Khí là sự sống đời đời” (Galat 6,7-8).

– Và Chúa Giê-su cũng dạy cho muôn người ghi nhớ bài học đó như sau: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Ngài sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6, 37-38).

Vì nắm vững quy luật nầy, nên có nhiều người dù không được biết giáo lý của Hội thánh, không biết mười điều răn… nhưng vẫn sống theo lương tâm, ăn ở ngay lành và không dám phạm tội ác, vì họ sợ quả báo, sợ quy luật gieo gì gặt nấy. Họ tin rằng khi gây ra một tội ác thì mai sau sự ác sẽ dội ngược về và giáng xuống trên đầu họ, trên con cháu của họ. Họ cũng tích cực làm từ thiện, làm việc phúc đức… vì tin rằng phúc lộc sẽ quay trở lại với mình.

Đúng vậy, “gieo gì, gặt nấy” là quy luật muôn đời. Khi làm điều ác, con người tự gieo hoạ cho mình. Hôm nay gieo gió, ngày mai sẽ gặt bão. Hôm nay làm điều phúc đức, mai đây sẽ được phúc lành.

Từ lời Chúa dạy, chúng ta có thể rút ra bài học quý báu cho mình: phúc hay hoạ đều do mình mà ra cả.

Nếu chúng ta muốn rước họa vào thân thì cứ làm điều ác, chắc chắn mai đây tai hoạ sẽ giáng xuống trên đầu: “Kẻ nào xét đoán sẽ bị xét đoán, kẻ lên án sẽ bị lên án…” “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26, 52).

Nếu chúng ta muốn thu hoạch nhiều ơn phúc thì hãy yêu thương mọi người, hy sinh phục vụ, tha thứ cho người ta, làm ơn làm phúc cho kẻ khác… chắc chắn đời ta sẽ được dồi dào ơn phúc, như lời Chúa phán: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Ngài sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa dạy chúng con biết rằng làm điều thiện là gieo trồng hạnh phúc; Làm điều ác là tự rước họa vào nhà.

Xin cho chúng con ghi khắc bài học này vào tâm khảm và đem ứng dụng vào cuộc sống hằng ngày để thu hoạch cho mình nhiều hạnh phúc, nhiều niềm vui ở đời này và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

 

23. Chú giải của Fiches Dominicales

“THƯƠNG XÓT NHƯ CHA LÀ ĐẤNG THƯƠNG XÓT”

  1. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
  2. Một tình yêu không loại trừ và vô vi lợi

Thánh sử Luca đã nhập đề bài Chúa giảng “ở chỗ đất bằng” bằng những “mối phúc” “mối họa” Chúa gởi đến cho những người bị cuộc sống bầm dập hoặc phải chịu bách hại vì đức tin. Giờ đây Luca muốn đề cập đến một thái độ hoàn toàn đặc trưng của người môn đệ Đức Giêsu: lòng yêu thương những kẻ thù, những kẻ “ghét ” họ, “nguyền rủa” họ, những kẻ muốn chiếm đoạt danh tiếng, của cải và thân xác họ.

Đức Giêsu bắt đầu trình bày đòi hỏi cơ bản này: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em”.

  1. Cousin xác định.’ “Đây không phải vì lòng quý nên ta có đối với người trong gia đình, hay là tình bằng hữu đối với người đồng trang lứa, càng không phải là tình yêu say đắm! Đó là vấn đề biết quý trọng và cư xử tốt với kẻ thù và biết biểu lộ tâm tình ấy bằng cử chỉ và lời nói” ( “L’Evangile de Luc “, Centurion, tr. 96)

Tiếp theo là những thí dụ Đức Giêsu đưa ra để mời gọi các môn đệ khi bị người ta đối xử hung bạo, thì đáp lại bằng “thái độ bất hung bạo, hãy nhường nhịn hết mình: “Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong..,”

Sau cùng, Đức Giêsu đưa ra luật vàng cho cung cách cư xử của các môn đệ: không chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình, bởi lẽ “ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế”, hãy yêu thương nhau cách vô vị lợi, không tính toán, chỉ chờ đợi sự đáp trả ở một mình Chúa mà thôi: “Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao “.

  1. Giống lình yêu của Chúa Cha:

Khi cư xử như vậy, khi thực hành yêu thương kẻ thù, khi từ chối cướp quyền thẩm phán của Thiên Chúa, các môn đệ sẽ là “con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác “; khi noi gương lòng nhân hậu của Thiên Chúa, họ sẽ nên giống Người.

– Khi cư xử như vậy, người môn đệ sẽ theo gương Thầy mình là Đấng, suốt cuộc đời và một cách trối vượt trong cuộc Khổ nạn của Người, đã thực thi tình yêu thương và tha thứ, mà Người đã đòi hỏi nơi họ. R. Meynet bình giảng: “Đức Giêsu đã chịu để cho tên đầy tớ Thầy cả Thượng phẩm tát mình, và

đã chịu để cho người ta đánh đòn, Người ta đã lột không chỉ áo ngoài của Người, mà cả áo trong nữa. Người đã giang hai tay và đưa cả hai chân ra cho người ta đóng đinh vào thập giá. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng và phó linh hồn, Người còn cầu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hình Người. Thế mới biết, khi Chúa Cha yêu thương phường vô ân và quân độc ác, tình yêu ấy đã dẫn Người đi tới tận đâu: Người đã không từ chối ban chính Con Một mình. Tình yêu của Chúa Cha đối với mọi người đã hóa thân trong con người Đức Giêsu” (L’evangile selon saint Luc. Phân tích tu từ”, tập 2, trg 80).

  1. BÀI ĐỌC THÊM
  2. “Nếu chúng ta muốn bắt chước Chúa Giêsu”

(L. sintas, trong “Parole de Diêu pour la méditation ét l’homélie. Năm C”. Médiaspaul, 1994, trg 83).

Nếu ta đọc những lời này vào lúc lòng ta không có điều chi ray rứt và ta đang vui tính, thì có thể thấy những lời ấy thật tuyệt vời. Trái lại trong trường hợp ta bị nhục mạ, phải cay đắng vì là nạn nhân của một bất công, thì những lời của Đức Giêsu xem ra không thể chịu nổi. Thế nhưng chính trong những giờ phút ấy, Lời Chúa mới tỏ cho thấy nó có sức mạnh và sự thật. Thế nghĩa là thế nào?

Chúa nói với ta rằng: “Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ “. Bằng lời vắn gọn đó, Đức Giêsu ban cho ta một cái nhiệt kế để đo lường mức độ lòng tin của ta.

Thực ra, vấn đề đích thực là thế này: Lòng tin làm thay đổi cái gì trong cuộc sống của tôi? Có khi nào tôi đề ra những việc làm mà giả như không phải là Kitô hữu, thì tôi sẽ không

đặt ra chăng? Yêu thương kẻ làm hại tôi, việc làm đó, một người có lương tri bình thường không nghĩ ra đâu. Để gợi ý cho tôi, Thiên Chúa đã không nề hà, vì tự mình chúng ta sẽ không nghĩ ra được điều đó. Thiên Chúa đã xuống. trần, sống kiếp phàm nhân giống hệt chúng ta. Người đã phải sống trong những hoàn cảnh đáng ghét, hoàn cảnh của một người mà chung quanh chỉ gặp toàn là thù địch. Trong hoàn cảnh như thế đó Đức Giêsu đã xin tha thứ cho những kẻ làm khổ Người. Nếu ta muốn bắt chước Đức Giêsu, thì việc chọn sống những tâm tình và thái độ của Người đến độ biết tha thứ cho kẻ thù, thiết tưởng là điều khẩn thiết!

Là Kitô hữu là tin rằng Đức Giêsu đã cuốn hút ta đến độ chính người sống trong ta. Người muốn nhờ chính con người của ta, con tim và trí tuệ, ánh mắt và lời nói của ta để nói với những con người thời nay, điều mà Người đã nói cách đây hai ngàn năm, trước mặt những người đương thời với Người. Người đã nói gì? Chỉ một sự thật này thôi: Thiên Chúa thương xót tất cả những ai thù ghét Người. Làm sao những người đương thời với chúng ta hôm nay sẽ nghe được lời này của Đức Giêsu nếu chính chúng ta không nói cho họ biết ơn tha thứ của Thiên Chúa là như vậy đó?

  1. “Chúng ta được mời gọi phải vượt thắng chính mình”

( “Célébrer” Tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ và

Phụng vụ, số 216, trg 26)

Những lời Tin Mừng này có lẽ khiến ta phải hoài nghi, và xem ra càng không mấy thích hợp với những thực tại khắc nghiệt thường ngày bị chi phối bởi luật rừng. Có người sẽ bĩu

môi cười: “giơ má kia à “.

Ta đừng lẫn lộn tử tế với ngu xuẩn…? Há chính Đức Giêsu đã không vặn hỏi kẻ đánh Người rằng: “Tại sao anh đánh tôi? “, mà không giơ má bên kia đó sao? Ta thấy rõ rằng Đức Giêsu muốn kêu gọi ta vượt lên chính mình; Người thúc ép ta phải có lối cư xử ngoại hạng của người Kitô hữu.

sứ điệp của Người được gởi đến “cho anh em là những người đang nghe tôi đây “, những người đang đón nhận mạc khải của phúc âm. Đó là những người đã chịu phép rửa, những người đã trở lại để sống trong Giáo hội và học dưới mái trường của vị Tôn sư dạy làm điều phi thường. Như ánh sáng đức tin, họ am hiểu lời Người. Có khó tính chăng nữa cũng phải nhận rằng cách cư xử theo Kitô giáo, việc noi gương bắt chước Đấng hằng tha thứ, dù là kẻ hành hình mình, bất quá chẳng phải là điều quá phi lý. Chẳng qua là con đường khôn ngoan vượt bực còn bí ẩn đối với “kẻ phàm nhân” thôi. Há chúng ta chẳng có được kinh nghiệm về niềm vui lớn lao khi ta xử sự theo lòng thương xót hoặc khi ta được chứng kiến những việc làm của tinh thần vị tha, tinh thần chia sẻ, tinh thần tha thứ và tinh thần yêu thương “điên rồ ” đó sao? Những lời của Đức Giêsu vẫn có thể được những người sống ngoài Giáo hội hữu hình “nghe ra ” và thực hành. Không thiếu những lời nói và hành động phi thường nơi những con người “sống ngoài ” Giáo hội. Đó phải là động cơ thúc đẩy ta

dâng lên lòng biết ơn là mềm vui, vì chính họ cũng là con Đấng tối Cao.

Chớ gì lòng thương xót luôn luôn là cái đấu để chúng ta đong cho người khác…nhưng phải là cái đấu đã dằn đã lắc và đầy tràn?.

 

24. Cho đi

Disraeli, một chính khách nổi tiếng của Anh, lần kia đáp tàu trở về nước. Cùng chung chuyến tàu có một phu nhân mang theo đứa nhỏ, nhưng vì bà không ngó ngàng gì đến con khiến nó cứ khóc thét lên. Hành khách ai cũng bực mình, có người còn dọa ném nó xuống biển. Lúc đó Disraeli đã làm một việc mà có lẽ ít ai ngờ tới: ông ẵm lấy đứa bé, nói chuyện và cười đùa với nó. Đứa bé không khóc nữa và còn vui vẻ hơn khiến ai nấy cũng được vui lấy.

Câu chuyện trên cho thấy cách thức Disraeli thu phục nhân tâm: thay vì dùng uy quyền ra lệnh cho người đàn bà, ông đã dùng tình thương để bù vào sự thiếu sót bổn phận của bà. Đó quả là một minh họa cho lời dạy của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay.

“Ân đền, oán trả” là một áp dụng cụ thể cho các công bằng giao hoán. Từ khi có ý niệm về luật pháp, thì việc báo oán cũng được qui định. Luật clủa người Babylon chẳng hạn: “Nếu kẻ nào làm cho một người thuộc giai cấp dưới mất mắt hay gẫy chân tay, thì phải chịu sự mất mắt hay gẫy chân tay để đền bù”. Người Do thái cũng áp dụng luật này, nhưng không phân biệt giai cấp: “Mắt đền mắt, răng thế răng, mọi người đều có quyền được đền bù xứng đáng”. Thật ra, ý niệm về công bằng này không hoàn toàn chi phối luật lệ Do thái. Sách Lv 19,18 viết: “Ngươi sẽ không báo oán, không căm thù với con cái dân ngươi”. Hoặc Cn 25,21: “Nếu kẻ thù ngươi đói, hãy cho nó ăn, nếu nó khát, hãy cho nó uống”. Tuy nhiên, họ không buộc phải giữ những điều này, họ vẫn có thể đòi “mắt đền mắt, răng đền răng”.

Chúa Giêsu đến để kéo con người khỏi cái vòng oán thù lẩn quẩn này. Có thể xem cái vả má là đụng chạm đến danh dự, một xúc phạm đến vật chất. Dù bị xúc phạm đến vật chất hay tinh thần, người môn đệ của Chúa Giêsu không được vị vào đó để đòi báo oán. Hành động như thế không phải là nhu nhược, nhưng là diễn tả thái độ quả cảm sẵn sàng cho đi. Càng cho đi, người môn đệ càng gần với Chúa Giêsu, Đấng đã cho đi ngay cả mạng sống mình. Đồng thời sự cho đi cũng đưa con người lại gần với nhau, bởi vì trao ban là mở lối cho cảm thông. Thực hành lời Chúa dạy: “Ai xin thì hãy cho, ai vay muợn thì đừng từ chối” tức là đã tạo được một nối kết, nhiều nối kết sẽ tạo nên bền chặt. Một sợi tơ nhện thật mong manh, nhưng nhiều sợi vẫn có thể cầm giữ con mồi. Cũng vậy, một sự cho đi xét cho cùng chẳng đáng gì, nhưng nếu cả thế giới biết cho đi thì vẫn đủ sức cầm giữ sự ác.

Xin Chúa cho chúng ta biết sẵn sàng cho đi để trong trao ban, chúng ta sẽ được nhận lãnh, sẽ gặp được bình an và để người anh em chúng ta cùng hưởng nếm được hạnh phúc thật.

 

25. Nhìn ra nhau là anh chị em

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Có một Rabbi nọ hỏi một tín hữu Do Thái: “Có biết khi nào đêm nhường chỗ cho ngày không?” Sau một hồi nghĩ ngợi, tín hữu nọ mới trả lời: “Thưa thầy, đêm nhường chỗ cho ngày có lẽ khi người ta nhận ra ánh sáng bình minh đang ló ở chân trời”. “Không”. “Hay là khi người ta phân biệt được bụi cây với một người chăng?” Rabbi lắc đầu nói: “Không phải thế, đêm nhường chỗ cho ngày là khi mỗi người nhận ra gương mặt người khác là một người anh chị em của mình. Bởi vì cho tới khi nào con người không nhìn ra nhau là anh chị em, thì khi đó, đêm đen vẫn còn dày đặc trong tâm lòng chúng ta”.

Lời nói thâm trầm trên đây của Rabbi Do Thái nọ, có lẽ giúp chúng ta suy hiểu nghĩa sứ điệp mà Giáo Hội nhắn gởi chúng ta hôm nay.

Ơn gọi của chúng ta để trở nên thánh trọn lành như Thiên Chúa, là Ðấng vô cùng xót thương con người và ban giới răn hướng dẫn toàn cuộc sống của chúng ta, là cái lôgic của Tin Mừng yêu thương ấy mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Sách Samuel có viết về hành xử thánh thiện của vua Ðavít. Mặc dù vua Saolê ghen tương truy nã, nhưng khi có dịp thủ tiêu nhà vua, Ðavít đã không phạm tội giết vua theo ý kiến của hai người anh họ là hai tướng tài của mình. Ðavít minh chứng cho nhà vua thấy ông có thể hạ sát người, nhưng không làm vì ba lý do:

Thứ nhất, nhà vua là người được Thiên Chúa xức dầu tuyển chọn nên là người của Chúa. Do đó cần được tôn trọng, mặc dầu có khuyết điểm và hèn yếu đến đâu đi nữa.

Thứ hai, chính nghĩa là lẽ phải của trung thực đáng tin cậy, thì không dùng bạo lực bất công và các phương thế hèn hạ đen tối của sự dữ.

Và thứ ba, phương thế duy nhất giúp loại bỏ hận thù chống đối một cách vĩnh viễn không phải là giết đi, là triệt hạ, nhưng là cảm hóa để biến thù địch trở thành bạn hữu.

Khi theo ba nguyên tắc hành xử trên đây, Ðavít không chỉ lên tiếng cho nhà vua thấy mình là một tôi trung rất am tường phép Chúa và luật nước, mà còn chứng minh cho nhà vua thấy lòng nhân từ quảng đại của mình nữa. Nghĩa là Ðavít chứng tỏ ông là người vừa có tài, vừa có đức và do đó, là người lãnh đạo lý tưởng và phó thác việc xét xử và thưởng phạt cho Chúa. Ðavít tuyên xưng lòng tin vào sự công thẳng và tình yêu thương quan phòng của Ngài. Ðây là đặc điểm hiếm thấy nơi các nhà lãnh đạo chính trị xã hội trần gian. Trong khi đó, cung cách hành xử của vua Saolê chứng minh cho chúng ta thấy nhà vua đã vừa thiếu tài, thiếu đức, lại không phải là một minh quân. Thấy Ðavít có tài, có được mưu kế hơn người, đánh đâu thắng đó, được quần thần kính nể, được tin tưởng và toàn dân thương mến nên vua ghen tương, mà nhất là sợ Ðavít chiếm ngôi của mình. Thay vì trọng dụng Ðavít, giữ Ðavít ở lại phục vụ và trợ giúp quyền thế của mình, thì vua sanh lòng mấy lần mưu sát Ðavít, khiến cho Ðavít bị bắt buộc phải trở thành người sống ngoài vòng pháp luật. Nghĩa là vua Saolê đã tự chặt lấy cánh tay mặt của mình. Lòng ghen tương đã khiến cho tâm trí nhà vua mờ tối, đem ba ngàn quân truy nã vị tướng tài ba lỗi lạc của đất nước. Chính với thái độ sống hẹp hòi và thiếu sáng suốt, không biết trọng tài trọng hiền trên đây đã dẫn đưa dòng họ đến ngày tận diệt.

Thái độ sống quảng đại liêm chính của Ðavít đã khiến cho chúng ta thấy nơi ông gương mặt của chính Ðức Giêsu Kitô, vẫn luôn luôn tha thứ cho những người lầm lạc và cầu nguyện cho những kẻ giết mình. Các giáo huấn của Chúa Giêsu như ghi trong chương 6,22-38 của thánh Luca, chứng minh cho thấy sự thật này qua hình thái của nền văn chương khôn ngoan. Thánh Luca thu góp các lời rao giảng của Chúa Giêsu liên quan đến luật sống yêu thương đại đồng và kiểu cách hành sự nhân từ, thương xót vô biên theo mẫu gương của chính Thiên Chúa. Khi mời gọi chúng ta yêu thương kể cả kẻ thù địch, là Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu sống tình yêu thương vượt xa mực thước và các nấc thang giá trị theo tâm thức của con người trần gian. Người đời thường chỉ yêu kẻ yêu mình và ghét kẻ ghét mình. Những người sống tinh thần Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu thì yêu cả kẻ thù của mình nữa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chỉ rao giảng mà Ngài còn sống làm gương nữa, bằng cách hiến chính mạng sống mình để đền bù tội lỗi cho toàn nhân loại. Ở đây, Chúa Giêsu đề ra ba hình thức cụ thể trong nỗ lực sống yêu thương thù địch:

Thứ nhất, hãy làm điều lành phước đức cho kẻ thù ghét. Chúng ta lo lắng tạo dựng hạnh phúc cho họ sống được như thế, chúng ta mới xứng đáng là con Chúa, nếu Kitô hữu thù hận thì có khác gì họ.

Thứ hai, hãy chúc lành cho những người chúc dữ và nguyền rủa chúng ta. Ơn gọi của Kitô hữu là trở thành chúc lành cho người khác, đổ phước lành của Chúa xuống cho người khác và biến đổi môi trường họ sống trở thành môi trường đầy ơn phước của trời cao. Ơn phước phần hồn và kể cả ơn phước phần xác nữa.

Thứ ba, là cầu nguyện cho kẻ bắt bớ ngược đãi chúng ta để cho họ được ơn hối cải tâm lòng, thay đổi lối sống, từ bỏ kiểu cách sống gian tham độc ác, từ bỏ kiểu cách nói năng và hành xử của dã thú để sống người hơn và tin nhận Chúa và trở thành con cái Ngài.

Yêu người như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động đối chất với bạo lực, luôn luôn sẵn sáng chia sẻ và quảng đại, không từ chối ai điều gì, là một thứ cụ thể cho mọi kiểu cách hành xử, là luật vàng của lòng yêu thương bác ái. Chúng ta muốn người khác làm những gì cho mình thì cũng phải làm tất cả những điều đó cho người khác. Chúng ta muốn người khác kính trọng yêu thương và trợ giúp chúng ta phải không? Hãy biết kính trọng yêu thương và trợ giúp họ như thế. Chúng ta muốn người khác dịu hiền thân thiện và an ủi đỡ nâng chúng ta phải không? Hãy dịu hiền, thân thiện và an ủi đỡ nâng họ như vậy. Chúng ta muốn người khác khoan hồng nhân thứ và cảm thông mọi tội lỗi yếu hèn và thiếu sót của chúng ta phải không? Hãy khoan hồng nhân thứ và thông cảm mọi tội lỗi yếu hèn và thiếu sót của người khác như vậy. Nếu ai cũng đem luật vàng trên đây ra thực hành nơi gia đình, giữa cộng đoàn, ngoài xã hội, thì chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, một cuộc cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử loài người sẽ xảy ra. Hòa bình, hạnh phúc, và thịnh vượng sẽ chan hòa trái đất này, sẽ chan hòa trong tâm lòng mỗi người, trong mọi gia đình, trong mọi quốc gia và trên toàn thế giới mà không cần phung phí biết bao nhiêu tài nguyên và nhân lực cho các dịch vụ chiến tranh; mà không phải mua bán, chế tạo vũ khí; mà không cần phải bắn giết tàn phá lẫn nhau. Cũng không cần phải thương thuyết, vất vả hòa đàm, tranh cãi, tốn tiền, tốn của, tốn giờ hao phí hơi sức, mà thường không đi đến kết quả cụ thể của việc làm. Luật yêu thương dung thứ mà Chúa Giêsu Kitô đề nghị với loài người, không chỉ là giải pháp cho mọi vấn đề xã hội mà loài người chưa sao giải quyết được, nhưng còn là con đường dẫn đưa tín hữu cho đến đỉnh trọn lành và trở nên thánh thiện và dung thứ như Chúa. Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô 15,45, thánh Phaolô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Kitô chính là Ðấng Cứu Thế và là con đường dẫn chúng ta đến cuộc sống thần thiêng bất diệt. Nếu con đường tội lỗi đã đưa Adong và toàn con cái loài người xa rời Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình, thì giờ đây, Chúa Giêsu Kitô đến trần gian để dẫn đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa. Ngài là Adong mới trao cho con cái loài người cuộc sống mới qua một tinh thần sống mới. Tinh thần của Tin Mừng yêu thương đại đồng, tinh thần của cuộc sống hướng trọn về Thiên Chúa và lấy Ngài làm mẫu mực duy nhất cho cuộc sống. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta bí quyết làm thế nào để sống hạnh phúc, làm thế nào để tạo dựng hạnh phúc cho nhau và cách mạng thế giới. Chúng ta có can đảm chấp nhận và đem ra thi hành hay không?

 

26. Yêu thương

Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: “Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ”.

Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.

“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những anh em được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu ước, bất cứ ai không thuộc về dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạ, là kẻ thù địch, không được yêu thương.

Chúa Giêsu đã đến để mặc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu:

* Thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa.

* Thứ hai: tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.

Nhưng lại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, đấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.

Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.

 

27. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Theo Tin Mừng Mát-thêu, trong bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã đề cập tới những đức tính cốt yếu của người môn đệ Chúa. Đã là cốt yếu thì hẳn cũng là khó khăn vất vả mới tập tành và thể hiện trong cuộc sống. Đặc điểm của những đức tính này là đi ngược với cách ứng xử của con người trong xã hội, do đó những đức tính ấy làm cho khuôn mặt Ki-tô hữu không giống ai, nhiều khi họ thấy mình lạc lõng giữa dòng đời. Nhưng tất cả những đức tính ấy được gồm tóm trong câu kết luận của Chúa Giê-su: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca sau khi trình bày bài giảng khai mạc của Chúa Giê-su dưới đất bằng, cũng ghi lại một câu kết luận của Chúa về một vấn đề vô cùng gai góc – yêu thương kẻ thù – khi Người lấy Chúa Cha làm tiêu chuẩn: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36). Thật là “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”! Thánh Mát-thêu trình bày con đường nên thánh của Ki-tô hữu một cách bao quát, pháp lý và nguyên tắc. Còn thánh Lu-ca thì vẽ con đường nên thánh cho ta một cách đơn sơ hơn, thực tế hơn, tuy không có nghĩa là dễ dàng hơn đâu. Vậy vấn đề thánh Lu-ca nêu lên gợi cho ta mấy thắc mắc: ai là kẻ thù của ta và tại sao lại lấy lòng nhân từ mà đối xử với kẻ thù?

  1. a) Ai là kẻ thù?

Tôi nhớ câu đầu trong bài hát “Kẻ thù ta” của một ông nhạc sĩ Việt Nam (Phạm Duy) là: “Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai?” Khi xác định một người là “kẻ thù của ta” thì ta đã ngầm hiểu rằng người ấy có tội đối với ta. Tội lớn thì thù lớn, khó mà tha và quên được; còn tội nhỏ thì cũng có thể tha và quên được vì khi nhìn lại chính mình ta thấy mình cũng có nhiều tội nhỏ đối với người khác.

Trong bài giảng, Chúa Giê-su đã nêu lên một số hành động của kẻ thù ta: nguyền rủa, vu khống, vả má, đoạt áo ngoài của ta. Chắc chắn một điều là thực sự ta không có lỗi gì để đáng chịu những hành vi bất công ấy. Vậy khi làm những hành vi bất công ấy cho ta, họ đã có lỗi với ta và trở thành kẻ thù của ta.

Nói người lại ngẫm đến ta! Khi ta xúc phạm đến một người là ta có tội với người ấy và ở mức độ nào đó ta trở thành kẻ thù của người ấy. Nếu quả như vậy, thì tất cả chúng ta đều là kẻ thù của Thiên Chúa. Đúng thế, kẻ thù đích thực của Thiên Chúa là ma quỷ và sự dữ. Ma quỷ còn muốn kéo theo con người cùng với chúng làm kẻ thù của Chúa khi nó hoạt động trong ta, cám dỗ ta sa ngã phạm giới răn Chúa. Mà ai trong thế gian này chẳng có tội, ngoại trừ Đức Ki-tô? Cho nên tội nguyên tổ đã đưa toàn thể nhân loại vào tư thế kẻ thù của Thiên Chúa. Giả như Thiên Chúa không yêu thương “kẻ thù” của Người là nhân loại tội lỗi, thì Người đã để họ hư mất luôn cho rồi và Người sẽ tạo dựng một nhân loại khác thay thế! Nhưng bản chất của Thiên Chúa là yêu thương và nhân từ, nên Người không hành xử trái với bản tính của Người. Cũng giống như trong Tin Mừng Mát-thêu, bản chất của Thiên Chúa là hoàn thiện, nên ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Người. Do đó, Thiên Chúa mới hoạch định một kế hoạch gọi là nhiệm cục cứu rỗi, để Người lấy lòng nhân từ mà đối xử với kẻ thù của Người.

  1. b) Tại sao phải lấy lòng nhân từ mà đối xử với kẻ thù và biểu lộ lòng nhân từ cách nào?

Một cách cụ thể qua con người Chúa Giê-su, ta có thể nhận ra nhân loại đã xúc phạm Thiên Chúa như thế nào và Thiên Chúa đã đối xử lại với họ ra sao. Ai nói Chúa Giê-su không bị nguyền rủa và chúc dữ? Thân nhân Người cho Người là một tên khùng (Mc 3:21). Các kinh sư bảo Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám (Mc 3:22). Trước giờ chết trên thập giá, Thiên Chúa còn bị nguyền rủa và chúc dữ: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23:39). Chúa Giê-su đã bao lần bị vu khống lân la với những kẻ xấu nết và tội lỗi. Kẻ thù Chúa muốn kết luận về Người: Gần mực thì đen mà! Bị vả má và đánh đòn thì vô kể, đến nỗi Phi-la-tô muốn dùng hình ảnh đau thương của Thiên Chúa làm người (Ecce homo) để gợi lòng thương hại của con người, vậy mà cũng không xong.

Nhưng Đấng dạy ta phải thương yêu kẻ thù đã sống trọn vẹn bài học ấy trước khi dạy ta. Người chúc lành cho mọi người. Người vẫn một lòng thương cả ông Phê-rô lẫn Giu-đa. Người đã cầu nguyện cho họ, xin Cha tha thứ cho họ. Từ trên thập giá Người đã tha thứ cho kẻ thù của Người. Những tên lính chia nhau áo ngoài, Người cho luôn cả áo trong. Người còn cho nhân loại luôn cả những giọt nước và máu cuối cùng trong trái tim yêu thương của Người. Đó là tất cả những cách cụ thể Chúa Giê-su biểu lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Chúa Giê-su bao giờ cũng thực tế. Dạy nhiều quá, chúng ta đâu có nhớ và làm nổi. Cho nên Người đưa ra một vài điều thực tế nhất, những điều ta hay gặp nhất trong đời sống hằng ngày. Đó là đừng xét đoán, đừng lên án, và hãy tha thứ. Lòng nhân từ sẽ là cặp kính để ta nhìn người khác, cặp kính đó chính Thiên Chúa ban cho ta. Nhìn qua đó, ta sẽ không thấy được ai là kẻ thù ta, mà chỉ thấy người khác là con Chúa, là người anh chị em của ta.

  1. c) Suy nghĩ và cầu nguyện

Yêu thương kẻ thù và tha thứ cho kẻ thù là hành vi của duy Thiên Chúa nên loài người không thể làm được. Nhưng Thiên Chúa đã cho con người khả năng có thể yêu thương kẻ thù và tha thứ kẻ thù khi Người cho chúng ta một con người mẫu là Chúa Giê-su. Vậy tôi đã học nơi Chúa Giê-su ở những điểm này chưa? Tôi có kết hiệp với Người để yêu thương và tha thứ kẻ thù của tôi không? Nếu không, thì tôi phải làm gì để kết hiệp với Chúa Giê-su?

Ai là kẻ thù gần nhất của tôi? Hoàn cảnh thù ghét như thế nào? Tôi có cách thức cụ thể nào để yêu thương và tha thứ người ấy?

Tôi tập cách nào để không lên án và xét đoán người khác?

“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

đón nhận người khác là điều vượt quá sức con,

vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

con không thể nào kính trọng kẻ khác được,

vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói,

vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con

trong những ngày khó khăn đó,

xin hãy nhắc cho con nhớ rằng

tất cả chúng con đều là con cái Chúa

và đừng để con quên lời Chúa nói:

“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất

là làm cho chính Ta.” – Trích trong PRIER

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 112)

 

28. Luật yêu thương

Một phụ nữ nọ ngạc nhiên khi nghe tin Abraham Lincoln nói lên sự tử tế của quân đồng minh. Bà ta nói: “Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên tập trung lại để tiêu diệt kẻ thù hơn là đối xử tốt với họ”.

Linclon trả lời: “Thưa bà, chúng ta tiêu diệt kẻ thù khi đối xử tốt với họ”. Đó cũng chính là sự khôn ngoan và lòng nhân ái toát ra từ lời Chúa dạy trong Tin mừng hôm nay.

Thật vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra một phát lý hoàn toàn mới mẻ so với Cựu ước qui định: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. So với các dân tộc chung quanh, luật Cựu ước cho thấy dân Irael đã đạt được một ý thức khá cao về công bình. Nhưng Chúa Giêsu đến kể kiện toàn lề luật: thay cho thứ công bình “Mắt đền mắt, răng đền răng”, Chúa Giêsu đề ra luật của yêu thương và được qui tóm trong một lề luật duy nhất là mến Chúa, yêu người.

Luật yêu thương ấy không có giới hạn, cũng chẳng có luật trừ. Yêu thương là yêu thương mọi người và yêu thương cho đến cùng. Qua cách cư xử của Ngài đối với các tội nhân và ngay cả kẻ thù của Ngài, Chúa Giêsu đã chứng tỏ một tình yêu không điều kiện, không giới hạn, không luật trừ, và tình yêu ấy được thể hiện trọn vẹn qua cái chết của Ngài trên thập giá.

Khi tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa và khi nối kết hai giới răn mến Chúa yêu người, Chúa Giêsu cũng chỉ cho con người thấy được ơn gọi đích thực của nó. Chỉ có một cách thể hiện hữu đối với con người đó là sống yêu thương. Khước từ yêu thương, con người tự chối bỏ chính mình. Đón nhận mạc khải của Chúa Giêsu, người Kitô hữu hiểu rằng chỉ bằng yêu thương, họ mới sống đúng ơn gọi làm người, và tỏ bày hình ảnh của Thiên Chúa mà họ mang trong mình.

Ước gì chúng ta ý thức được sứ mệnh cao cả của mình, để trong mọi sự và trong mọi quan hệ, chúng ta luôn thúc đẩy và hướng đến bởi một động lực duy nhất là tình yêu.

 

29. Kẻ nội thù

Không có gì hủy hoại sức con người bằng lòng thù hận: cừu hận là một hành động tự sát, ghét người cũng có nghĩa là ghét chính bản thân. Truyện Liễu thị Xuân Thu có kể lại như sau: Một người nọ nằm mơ thấy có người đeo gươm tự dưng đi vào tận nhà mắng chửi, nhổ vào mặt, rồi bỏ đi. Giật mình tỉnh dậy, anh ta ngồi bực dọc suốt đêm không sao ngủ được. Sáng hôm sau, anh tâm sự với một người bạn: “Từ thủa nhỏ đến giờ tôi vẫn là người hiếu dũng, chưa hề bị ai làm nhục, thế mà đêm hôm qua bị đứa nào làm nhục, tôi định tìm cho kỳ được đứa ấy để trả thù, nếu tìm thấy nó rồi thì tốt, còn không, chắc tôi phải chất mất”. Từ hôm đó, cùng với người bạn, sáng nào anh cũng ra đứng ngoài đường để rình. Rình ba ngày mà vẫn không thấy bóng dáng kẻ thù. Cuối cùng, anh ta về nhà uất cả người lên mà chết.

Câu truyện trên đây có lẽ chỉ là một dụ ngôn để nói lên sức tác hại của sự hận thù mà con người cưu mang trong tâm hồn. Lòng thù hận chính là kẻ nội thù nguy hiểm nhất, chỉ có một kẻ thù như thế mới có sức hủy hoại con người. Ít hay nhiều, xem ra ai trong chúng ta cũng có kẻ thù. Có những người ghen ghét hoặc tìm cách hãm hại chúng ta đã đành, mà chính chúng ta cũng không thiếu những kẻ để ghét bỏ và thù hận. Chúa Giêsu cũng có nhiều kẻ thù, đó là những kẻ rình rập, đeo đuổi để hãm hại Ngài. Đứng trước sự dữ và hành động gian ác, Chúa Giêsu không hề nhân nhượng. Ngài lên án gắt gao tất cả những gì xúc phạm đến Thiên Chúa và con người. Trong trái tim Ngài không có chỗ cho bất cứ tâm tình bất chính nào. Tuy nhiên, đối với các tội nhân là những kẻ làm điều ác, Chúa Giêsu luôn tỏ ra khoan dung. Ngài tha thứ cho chính những kẻ hành hạ và đóng đinh Ngài vào thập giá. Trong tâm hồn Ngài không có bất cứ tâm tình thù hận nào đối với kẻ thù của Ngài. Qua cử chỉ ấy, Chúa Giêsu đã mạc khải cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa, đồng thời thể hiện được khả năng và ơn gọi của con người là sống yêu thương. Qua cử chỉ tha thứ ấy, Chúa Giêsu bày tỏ trọn vẹn chân lý về con người. Con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu, cho nên con người chỉ có thể sống trọn vẹn ơn gọi của mình bằng cách sống yêu thương, và yêu thương như chính Thiên Chúa, nghĩa là yêu thương và tha thứ cho kẻ thù của mình. “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện”. Đây không chỉ là một lý tưởng, mà còn là một đòi hỏi tất yếu đối với con người. con người có sống cho ra người và có đạt được nhân cách của mình hay không, là tùy ở nó có biết sống yêu thương và tha thứ như Thiên Chúa hay không. Nguyện xin Chúa loại trừ khỏi tâm hồn chúng ta mọi thứ cừu hận và ban cho chúng ta tình yêu của Ngài, để chúng ta luôn biết nhìn mọi người như hình ảnh Thiên Chúa, và yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.

 

30. Yêu thù địch

Trong lịch sử những cuộc đấu tranh dành độc lập, Mahtma Ganhdi là người để lại tấm gương sáng chói nhất. Do cuộc tranh đấu bất bạo động, ông đã dành được sự độc lập cho đất nước khỏi sự đô họ của Anh quốc mà không phải đổ nhiều máu và tốn nhiều nhiều súng đạn. Người Anh ra đi trong danh dự và vẫn được người Ấn xem như những người bạn. Lấy tình thương làm nền tảng, Ganhdi kêu gọi đồng bào ông dù tranh đấu cho sự thật, công lý và quyển lợi của mình, nhưng vẫn yêu thương và tha thứ cho kẻ thù. Chủ trương tranh đấu bất bạo động, như Ganhi đã có lần thú nhận, được múc lấy từ chính giáo lý tình thương của Chúa Giêsu.

Tình thương mà Chúa Giêsu rao giảng là tình thương không biên giới, vượt mọi ranh giới của gia đình, chủng tộc, ngôn ngữ, màu da, để nối kết mọi chiều kích của nhân loại, kể cả kẻ thù địch. Chúa Giêsu không bao giờ rao giảng 1 giáo lý mà chính Ngài không thực hiện trước. Kẻ thù không đội trời chung của người Do Thái là Samari đã được Ngài dành cho một sự ưu ái đặc biệt. Ngài còn thách đố người Do Thái khi giới răn yêu thương. Nhưng có lẽ không có gì vương giả vàng trung thực hơn trong cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng khi chịu treo trên thập giá Ngài vẫn mỡ miệng tha thứ cho những kẻ đang hành hạ Ngài.

Cử chỉ tha thứ ấy của Chúa Giêsu là mạc khải tình yệu của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương không loại trừ người nào, Thiên Chúa yêu thương và thức ho cả những kẻ chối bỏ xà xúc phạm đến Ngài. “ Hãy nhân từ như Cha chúng con là Đấng nhân từ”. Kêu gọi các môn đệ noi gương Cha trên trời, Chúa Giêsu mặc cho tình yêu và tha thứ chiều kích của đức tin: sống yêu thương và tha thứ là thể hiện của niềm tin, nghĩa là người ta không thể tôn thờ Thiên Chúa mà không yêu thương và tha thứ cho người đồng loại của mình. Người Kitô hữ yêu thương và tha thứ cho kẻ thù bởi vì họ muốn làm dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Sống trong một xã hội xây dựng trên hận thù, lấy sự phân biệt bạn thù làm châm ngôn xử thế, người kitô hữu vẫn còn có thể chứng minh cho mọi người thấy rng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động trong xã hội ấy bằng chính tình yêu thương và lòng tha thứ của các tín hữu của Ngài.

 

31. Yêu thương

Chúa Giêsu nhắc lại đường lối chung của đời sống rồi Ngài loại bỏ bằng câu hỏi: “Thì còn ân nghĩa gì?’’ Thường thì người ta khoe mình cũng tốt như những người chung quang. Rất có thể họ đúng như vậy. Nhưng Chúa Giêsu hỏi: “Ngươi tốt hơn người thường được bao nhiêu?” Tiêu chuẩn để chúng ta so sánh không phải là với người lân cận, có thể chúng ta bằng họ. Nhưng chúng ta phải so sánh mình với tiêu chuẩn của Thiên Chúa, và như vậy chúng ta còn xa lắm với tiêu chuẩn của Ngài.

Ấy là để chúng ta nên giống như Thiên Chúa, vì đó là ý muốn của Thiên Chúa trong các hoạt động của Ngài. Chúa khiến mưa xuống trên kẻ lành và kẻ dữ. Chúa nhân từ đối với kẻ làm vui lòng Ngài mà cũng nhân từ đối với những kẻ làm buồn lòng Ngài. Tình yêu Thiên Chúa bao bọc thánh nhân cũng như tội nhân. Chúng ta phải noi gương mẫu tình yêu đó. Nếu chúng ta cũng tìm lợi ích cho kẻ thù nghịch, thì chúng ta mới thực sự là con cái Thiên Chúa.

Mội người Ba – Lan đã kể câu chuyện cảm động và người đã chứng tỏ lòng thương yêu của kẻ thù – là anh ta – như sau: “Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi đã giết bà Hammelmann, và tôi cũng bắt luôn bốn người con của bà. Tôi nhìn thấy họ chết trong vũng máu. Sau khi cảnh sát bắt được tôi, tôi bị đưa ra tòa. Quan tòa tuyên án: “Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải ngồi tù hai mươi năm.”

Đang khi ở trong tù, tôi có nhận được một lá thư. Đây là một lá thư hết sức lạ lùng của ông Hammelmann. Ông đã viết lá thư này cho tôi vì ông đã nhận được tin chánh quyền Polish sẽ không cho phép tôi trở về quê hương của tôi là Ba – Lan. Ngay cả cánh quyền Đức cũng để nói rằng: “Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức.” Bức thư của ông Hammelmann viết: “Tôi tha thứ cho anh về việc anh giết vợ và bốn con tôi. Tôi cũng đang vận động với chánh quyền Đức để họ cho phép anh có thể ở trong nhà tôi và tôi sẽ giúp anh sống một đời sống lương thiện.”

Trong thư ông cắt nghĩa: “Tại sao tôi giúp đợ anh? Tại sao tôi lại có thể tha thứ cho anh về tội anh tàn sát gia đình tôi? Tôi có thể làm điều này vì Thiên Chúa đã làm một điều lạ cho tôi. Ngài đã ban cho tôi Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần của Thiên Chúa bây giờ dẫn dắt đời sống tôi và Ngài ban sức cho tôi có thể tha thứ cho anh.”

Bây giờ tôi biết được rằng Thánh Thần của Thiên Chúa phải có một quyền năng siêu việt. Ngài đã cất mối tử thù khỏi lòng một ngày và ban cho ông ta một tấm lòng muốn giúp đỡ tôi mặc dầu tôi đã giết vợ con ông ta.”

 

32. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Các mối phúc đã phác họa dung mạo người môn đệ Chúa Giêsu, biết chấp nhận những thua thiệt trong cuộc đời và bị bách hại về thể xác cũng như tinh thần vì họ muốn sống theo giáo lý của Người. Phản ứng tự nhiên của người bị bách hại là không thể đội trời chung với kẻ thù là người bách hại mình, chứ nói chi tới việc yêu thương kẻ thù. Có lẽ vì thế mà Tin Mừng Lu-ca đặt vấn đề yêu thương kẻ thù ngay sau các mối phúc, coi như một điều kiện căn bản để có thể sống những mối phúc nói trên. Vậy bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục quảng diễn những mối phúc bằng những trường hợp cụ thể rút từ lối sống của người đời và đòi hỏi người môn đệ phải sống ngược lại lối sống ấy thì mới nói lên được căn tính của người đi theo Chúa.

1) Yêu thương kẻ thù

Đã chọn đi ngược với lối sống của thế gian, môn đệ Chúa không thể đồng hành với người đời ở bất cứ nơi nào và dĩ nhiên đã trở thành thù địch với nhau rồi. Môn đệ Chúa sống theo quy luật của các mối phúc, còn người đời sống theo quy luật của các mối họa. Người môn đệ Đức Ki-tô lấy Thiên Chúa làm điểm tựa, vì chính Người mới là nơi cư ngụ vĩnh viễn (Nước Thiên Chúa), sự no đủ đích thực, hạnh phúc trường sinh và phần thưởng lớn lao. Ngược lại, người đời lấy chính họ làm cứu cánh và lấy thế gian cùng những gì thuộc về nó làm phương tiện, đó là sự giàu có sang trọng, no nê phè phưỡn, vui chơi trác táng và tiếng tăm địa vị.

Từ sự khác biệt ấy, môn đệ Chúa trở thành cái gai trước mắt người đời và luôn luôn phải đối phó với việc bị tẩy chay và bách hại. Trước tình trạng phũ phàng ấy, Chúa Giêsu đưa ra một bài học độc đáo và thực tế. Ở đây ta nhận thấy hoàn cảnh khác với hoàn cảnh trong Tin Mừng Mát-thêu. Là Tin Mừng viết cho người Do-thái, Mát-thêu đưa ra những so sánh như: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Còn Lu-ca là Tin Mừng viết cho anh em Dân ngoại nên không trưng dẫn Lề Luật, mà chỉ đề cao Chúa Giêsu là Luật tối cao: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây”. Vậy Chúa Giêsu đã nói gì về những điều môn đệ Người phải làm khi gặp trường hợp bị kẻ thù bách hại?

Trước hết, hãy yêu thương kẻ thù, đó là nguyên tắc căn bản thứ nhất. Để sống tình yêu thương này, người môn đệ phải lấy đức mà đáp lại oán, lấy việc lành mà trả cho việc dữ. Nguyên tắc thứ hai là mức độ yêu thương và làm ơn ít ra phải tích cực và hơn mức bình thường, vì yêu thương bao giờ cũng vượt trên mức công bằng. Yêu thương đòi ta phải đi bước trước và chủ động. Với yêu thương, người môn đệ làm chủ được mình. Thay vì theo thói đời là nguyền rủa lại kẻ nguyền rủa mình, người môn đệ biết tự chế, bắt mình phải theo lệnh truyền của lòng yêu thương mà nói điều tốt cho kẻ thù. Họ thắng được lòng tham tự nhiên lúc nào cũng muốn giữ cho mình, mà sẵn sàng quảng đại cho đi.

Tuy nhiên, nghe nói vậy nhưng thực hành lại là vấn đề khó khăn vô cùng. Tại sao ta lại phải làm một điều “trái tự nhiên” như vậy? Chúa Giêsu có đòi hỏi quá đáng không? Dựa vào đâu mà ta có thể biện minh cho việc yêu thương kẻ thù? Chúa Giêsu cho ta câu trả lời.

2) Có yêu thương kẻ thù, “anh em mới là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”

Cha nào con nấy. Đó là lý do. Ta phải yêu thương kẻ thù, vì chính Thiên Chúa, Cha chúng ta, yêu thương kẻ thù của Người. Nhưng kẻ thù của Thiên Chúa là ai? Là những kẻ dữ, những kẻ tội lỗi. Nói như thế thì mọi người đều là kẻ thù của Thiên Chúa, vì tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi, chứ có ai là vô tội trước mặt Người đâu. Thế mà Người vẫn thương ta, vẫn sai Con Một Người đến để kêu gọi những người tội lỗi và Con Một Người còn chấp nhận chết khổ nhục để xóa bỏ tội lỗi ta.

Nếu Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã và vẫn đang yêu thương ta là “kẻ thù” của Người, thì ta phận làm con cái Người lại có thể làm ngược lại với đường lối của Người hay sao? Chúa Giêsu đề cập tới vấn đề ân nghĩa ở đây. Việc Thiên Chúa yêu thương ta mặc dù ta thân phận tội lỗi, đó là một ân nghĩa. Ân nghĩa thuộc bình diện yêu thương, chứ không phải công bằng. Cho nên đối với kẻ thù, ta không chỉ đối xử công bằng, nhưng phải tích cực hơn để đi vào lãnh vực yêu thương. Trong công bằng có sự tính toán và sòng phẳng. Còn yêu thương thì chỉ nghĩ đến cho đi, vì yêu thương là ân huệ. Thiên Chúa đã yêu thương ta nên cho ta mọi thứ ân huệ và cuối cùng cho ta Ân Sủng đầy tràn tức là Con Một Người.

3) “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”

Mỗi tác giả Tin Mừng có một cách để định nghĩa thế nào là nên thánh. Mát-thêu thì nêu lên định luật: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Còn Lu-ca thì thực tế hơn: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).

Mặc dù ta là “kẻ thù” của Thiên Chúa, nhưng Người vẫn đối xử nhân từ với ta. Đối xử nhân từ là đối xử không theo lẽ công bằng, nhưng theo lẽ tình yêu. Mà tình yêu thì có những lý lẽ riêng của nó, nhiều khi không hiểu được. Cụ thể là tình yêu Thiên Chúa. Con tim của Thiên Chúa có những lý lẽ ở ngoài lối suy nghĩ của con người. Nhân từ của Thiên Chúa là phong cách đặc biệt để biểu lộ tình yêu của Người. Người yêu thương kẻ thù của Người bằng cách tỏ ra nhân hậu đối với chúng. Chẳng những Người không xét đoán, không lên án, mà còn tha thứ nữa. Thật không thể hiểu được Thiên Chúa yêu thương cách đó! Đấy là đấu Thiên Chúa đong cho ta và Người cũng muốn ta đong như vậy cho người khác.

4) Suy nghĩ và cầu nguyện

Chúa Giêsu đã sống định luật “yêu thương kẻ thù” như thế nào? Tôi đọc thấy gì trong những sách Tin Mừng về điểm này? Có khi nào tôi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong lãnh vực này không?

Kẻ thù đáng kể nhất của tôi hiện giờ là ai? Tôi có kế hoạch nào thực thi lời Chúa để yêu thương họ?

Hay xét đoán là một nết xấu thường tình. Vậy tôi sẽ làm cách nào để tập không xét đoán người khác? Trong ý nghĩ? Trong lời nói?

Cầu nguyện

“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

đón nhận những người khác

là điều vượt quá sức con,

vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

con không thể nào kính trọng kẻ khác được,

vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

mà yêu mến người khác

làm cho tim con đau nhói,

vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau

và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

trong những ngày khó khăn đó,

xin hãy nhắc cho con nhớ rằng

tất cả chúng con đều là con cái Chúa

và đừng để con quên lời Chúa nói:

“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất

là làm cho chính Ta.” – Trích trong PRIER

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 112)

 

33. Hãy yêu kẻ thù

Vào ngày 13.05.1981, cả thế giới đều sửng sốt kinh hoàng trước cái tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát tại chính công trường thánh Phêrô. A-li Ac-ca (Ali Agca), một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ thủ phạm bắn ngài, ngay lúc đó đã bị bắt giam. Về phần Đức Giáo Hoàng, sau một thời gian chữa trị đã bình phục và việc đầu tiên Ngài làm là đến nhà tù thăm A-li, nói chuyện lâu giờ với anh ta và sẵn sàng tha thứ tội ám sát ngài của anh ta. Chính tình yêu mến Đức Giêsu đã thúc đẩy vị đại diện của Người dưới trần gian, có lòng bác ái vô biên, là tha thứ cho kẻ giết hại mình, giống như Thầy chí thánh cũng đã từng cầu xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ thù ghét giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

Người xưa có câu: “Ác gỉa ác báo”; “Gieo gió gặt bão”; Làm điều ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giêsu để tha thứ cho tha nhân những sự xúc phạm của họ đối với mình thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực, và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong.

Một nhà tâm lý đã nói rằng: “Nếu anh nuôi lòng thù hận muốn giết kẻ thù đã làm hại anh, thì anh hãy sắm sẵn hai chiếc quan tài: Một chiếc để dành cho kẻ thù sẽ bị anh giết chết, còn chiếc thứ hai sẽ dành cho chính anh. Vì anh cũng sẽ bị chết dần chết mòn do lòng thù hận gây ra”. Thực vậy, hận thù gây tác hại cho chính người thù ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người nuôi sự oán thù trong lòng. Nó hủy diệt nhân cách của họ. Ba-con nói: “Khi trả thù, người ta biến mình ngang hàng với kẻ thù. Còn khi tha thứ thì người ta vượt cao hơn hẳn kẻ thù”.

Các chuyên gia tâm lý ngày nay đều công nhận rằng: “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương thì phát triển nhân cách một cách lạ lùng và hữu hiệu”. Tình yêu có phép mầu sẽ biến thù thành bạn. Ap-ram Lanh-côn (Abraham Lincon) nói: “Biến thù thành bạn, tức là ta đã tiêu diệt kẻ thù rồi vậy!”. Chính Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã dạy chúng ta: “Anh em hãy yêu kẻ thù…Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. Hãy cho đi thì sẽ được cho lại!”.

 

34. Yêu như Chúa yêu

Chúa yêu quá sức mình. Yêu để rồi, không còn kể gì đến bản thân mình nữa. Yêu đến nỗi tha thứ quá dễ dàng.

Chẳng hạn, trong giờ xử án Chúa Giêsu, thánh Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng tìm trong Tin Mừng, chẳng thấy có lời nào Chúa trách móc thánh Phêrô về tội chối Thầy. Nếu là tôi, không chừng tôi sẽ ghi lòng, sẽ nhớ mãi khuôn mặt kẻ bội phản và không dễ tha thứ. Hoặc có thể tôi sẽ tức tối, đau buồn vì người môn đệ của mình từ chối mình.Nhưng Chúa Giêsu thì không. Chẳng những Chúa không tức tối, không vạch mặt kẻ phản bội, mà sau khi sống lại, Chúa còn công khai ban quyền cho thánh Phêrô coi sóc Hội Thánh. Chúa lặp đi, lặp lại đến ba lần: “Ngươi hãy chăn dắt đàn chiên của ta”. Chúa yêu quá sức, yêu đến nỗi bất chấp tội của thánh Phêrô.

Khi hấp hối trên thánh giá, người trộm cùng bị đóng đinh bên phải Chúa Giêsu có cả một quá khứ tội lỗi đến nỗi người ta phải giết đi, vậy mà chỉ cần một lời nói thôi: “Thưa Thầy, Khi Thầy về nước của Thầy, thì cho tôi theo với”, ngay tức khắc, quá khứ đen tối của anh được lấp hết. Chúa trả lời dứt khoát: “Ngay hôm nay, anh ở trên thiên đàng với Ta”. Chúa yêu, yêu quá sức lẽ mình. Yêu đến mức, chỉ trong nháy mắt, mọi khuyết điểm, Chúa đều phủ lấp hết, quyên hết, tha thứ hết.

Kinh nghiệm cho thấy: tha thứ là một việc làm khó. Nhưng khó không có nghĩa là không thể làm được, chỉ sợ lòng ta cố chấp, tự ái, kiêu căng và nuôi mãi hận thù. Ước gì mỗi chúng ta luôn ý thức lời Chúa dạy, luôn biết để cho Lời của Người trở thành mọi phản ứng, mọi suy nghĩ và hành động của bản thân mình, để chính Lời Chúa làm sức mạnh, giúp ta xóa bỏ thù hận, xóa bỏ mọi ngăn cách, để tha thứ và để sống yêu thương.

 

35. Tha thứ

Chuyện “Nghìn Lẻ Một Đêm” của Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau:

Có hai người anh em ruột bắt trói được thủ phạm giết gia đình. Họ đem tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật “ Mắt đền mắt răng thế răng”. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật định.

Trước mặt quan tòa, tên sát nhân nhận tội và sẵn sàng chịu hình phạt. Chỉ xin hoãn ba ngày để hắn về giải quyết vẫn đề liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trong coi từ nhỏ. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì từ trong đám đông dự phiên tòa, có một người giơ tay cám kết: “Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thay cho hắn”.

Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Đúng kỳ hạn, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang tiến ra pháp trường, dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết việc gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tôi xin trở lại để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của mình để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này”.

Sau lời phát biểu hùng hồn của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này vì tôi không muốn để cho người ta nói: “Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này”.

Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quí nhất trong trái tim con người.

Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra nói với quan tòa: “Thưa Ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: “ Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này”.

Tha thứ là một cử chỉ anh hùng, là một lỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, phản ứng thường tình của con người, để bước vào thế giới siêu nhiên của những người con Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.

Tha thứ là thể hiện cao cả nhất của tình yêu. Nếu yêu thương là trao ban thì tha thứ còn lớn hơn cả trao ban, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.

Quả thật, tha thứ là trao ban hai lần. Nếu chúng ta có thể cho đi của cải mình, có thể cho đi mạng mình vì người mình yêu, thì tha thứ còn cao c hơn rất nhiều, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.

“Hãy yêu kẻ thù”. Đó là lệnh truyền đã được Đức Giêsu nhắc lại hai lần trong bài tin mừng hôm nay. Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Người. khó như không phải là không có thể. Chính Người đã làm gương cho chúng ta khi Người xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. hơn nữa, Người còn minh oan cho họ: “Vì họ lầm chẳng biết”.

Chính hành vi cao cả này mà Đức Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. và đó cũng là nét cao quí nhất trong dung mạo của Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người, Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân, để tái tạo và phục sinh với Ngài.

Nhưng tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù? Yêu người yêu mình thì dễ, ai lại đi yêu kẻ làm hại mình bao giờ? Theo triết gia Nietzsche thì lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” chỉ dành cho người bạc nhược, nhát đảm. và Đức Giêsu chính là con người quá lý tưởng, thiếu thực tế.

Không, Đức Giêsu không phải là con người quá lý tưởng để quên mất thực tế, Người là con người thự tế đích thực.

Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, làm điều ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Đức Giêsu thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực, và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong, như cơn lốc xoáy ập tới tiêu diệt mọi người.

Hận thù gây tác hại cho chính con người oán ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người oán thù, đồng thời, hủy diệt nhân cách của chính họ. Bacon viết: “Khi trả thù, người ta biến mình bằng kẻ thù. Còn khi tha thứ, người ta vượt cao hơn họ”.

Tâm lý học ngày nay khẳng định: “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương thì phát triển nhân cách hết sức lạ lùng và hữu hiệu”.

Cuối cùng, tình yêu có phép mầu sẽ biến kẻ thù thành bạn hữu. Nếu hận thù là hủy diệt, tình yêu là xây dựng. Abraham Lincoln có nói: “biến thù thành bạn, phải chăng là tiêu diệt kẻ thù rồi?” Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ.

Đối với người tín hữu Kitô, lý do căn bản nhất để chúng ta yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa trong Luca đoạn 6 câu 35: “Anh em hãy yêu kẻ thù… Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao”. chúng ta sẽ không bao giờ là con cái đích thực của Cha trên trời, nếu chúng ta không yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.

 

36. Lòng nhân từ Chúa

Có hai người thổ dân Nam Phi rất giận ghét hiềm khích nhau, mối thù mỗi ngày càng sâu đậm, chỉ mong ước có dịp thuận tiện nào để phục thù cho hả cơn giận. Ngày kia, một trong hai người gặp thấy một bé gái con của kẻ thù mình trong một khu rừng, anh ta bỗng nổi cơn xung giận tóm lấy cô bé, rút dao chặt cụt hai ngón tay, rồi thả cho đi. Cô bé vừa chạy về nhà vừa khóc nức nở, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn tiếng tỏ vẻ thỏa chí lắm: “Ta đã trả thù được rồi!”

Ngày tháng trôi qua, thấm thoát đã mười mấy năm, cô bé đã lập gia đình, có chồng con và cảnh gia thất đầm ấm sung túc. Bỗng một buổi chiều kia, có một người hành khất đến xin của bố thí. Bà chủ nhà trẻ nhận diện ra, người hành khất đó chính là kẻ đã chặt hai ngón tay mình, vội vã trở vào trong nhà tìm cách “Báo thù”, bằng cách bảo người giúp việc đem sữa bánh ra cho ông ta ăn, trao cho hắn một số tiền để có kế sinh nhai; Khi ấy bà giơ bàn tay cụt ra và nói: “Tôi cũng đã trả thù được rồi! Người hành khất xúc động khóc ròng, vì cảm phục trước tấm lòng nhân từ tha thứ “Lấy ân trả oán” cho người đã làm hại mình.

Theo thường tình, người ta yêu thương kẻ mến thương mình, đền ơn cho người ân nhân của mình, cho vay mượn để được hoàn lại với lời lãi xòng phẳng. Đó chỉ là luật công bằng giao hoán, không ân nghĩa gì, ai cũng làm được, cả những kẻ thù nghịch cũng đáp trả nhau cân xứng, mắt đền mắt, răng thế răng, ân đền ân, oán trả oán, ân oán công minh. Theá nhöng, giaùo huaán cuûa Chuùa thì khaùc: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm ơn cho kẻ ghét mình, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống mình”. Là con cái Chúa, chúng ta cần có thái độ nào trước những lời giáo huấn Chúa để lại cho chúng ta? Đã bao nhiêu lần Chúa tha thứ cho chúng ta, những lỗi lầm chúng ta đã phạm đến Người, khi chúng ta thật lòng sám hối và hứa quyết chừa cải nơi Tòa Cáo Giải? Không những Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả, mà Chúa còn quên đi mọi lỗi lầm của chúng ta và thương yêu chúng ta hơn nữa, dường như chúng ta chưa hề lỗi phạm đến Người. Để chúng ta ghi tâm khắc cốt bài học bác ái, nhân từ tha thứ như một lẽ sống, giúp chúng ta biết tạo nên một cuộc sống an bình hạnh phúc, biến đổi trần gian nên Thiên Đàng được Chúa hiển ngự, Chúa đã dạy chúng ta hằng ngày dâng lên Chúa lời nguyện này: Xin tha nôï chuùng con, nhö chuùng con cuõng tha keû coù nôï chuùng con. Vì tha thứ cho anh chị em là điều kiện để chúng ta được Chúa thứ tha.

 

37. Yêu thương kẻ thù

Yêu thương kẻ thù, điều đó khó thật, nhưng không phải là bất khả thi, tức là vẫn có thể thực hiện được, và dĩ nhiên để có thể thực hiện đòi hỏi người ta một tình yêu thương cao hơn quan niệm bình thường. Trong thực tế đã có những người, dù không phải là Ki-tô hữu, dù chưa biết Tin Mừng của Chúa, thực hiện điều này.

Người ta kể rằng: gần biên giới hai nước Lương và Sở, tức Hồ Nam ngày nay, có hai người làm nghề trồng dưa: một người ở nước Lương, một người ở nước Sở. Nhờ sự chăm tưới và bón phân, vườn dưa của người nước Lương lên tốt, kết quả rất mỹ mãn và hàng năm đem lại một mối lợi đáng kể. Còn anh chàng ở nước Sở, lười biếng, cỏ chẳng làm, dưa không tưới và bón phân, dĩ nhiên không kết quả bao nhiêu. Thấy vậy anh ta sinh ghen ghét, đêm đêm lẻn sang vườn người phá hoại. Vườn dưa đang tốt, song mỗi ngày cứ thấy lụi dần, tìm hiểu và biết được kẻ phá hoại, tức mình lắm, định trả đũa. Nhưng trước khi thi hành, anh đem việc đến trình quan huyện là Tống Tựu. Tống Tựu can và nói: “Làm như thế chỉ tổ gây hằn thù, tôi khuyên anh: thay vì trả đũa, mỗi đêm lẻn sang đó tưới và bón phân. Nhưng phải bí mật đừng cho nó trông thấy”. Thấy bên kia không trả đũa, lại nhận ra vườn của mình mỗi ngày xanh tốt. Sau lâu ngày mới biết người kia đã không báo oán mà còn làm ơn, anh liền sang xin lỗi. Hai gia đình đã kết thân và cùng trở nên giàu có.

Với một nền đạo đức tự nhiên người xưa còn thực hiện lòng nhân ái như thế. Vậy tại sao các Ki-tô hữu, được siêu nhiên trợ lực, lại đầu hàng trước huấn lệnh đó sao? Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương kẻ thù. Đây là điểm vàng son của tình yêu Ki-tô giáo. Thực vậy, yêu kẻ yêu mình, đó là lẽ thường tình. Nhưng yêu được người không yêu mình, yêu kẻ ghét mình, làm hại mình, đấy mới là yêu thật, đấy mới xứng danh là con Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa. Trước nhan Thiên Chúa, không còn là bạn hay thù, nhưng chỉ là đối tượng của tình yêu. Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương: yêu từng người, yêu hết mọi người, yêu vô tư, yêu quảng đại, yêu với chính tình yêu của Chúa và yêu như Chúa yêu. Một khi có tình yêu như vậy, nhất định chúng ta sẽ xóa bỏ mọi hiềm thù ghen ghét, nhất định chúng ta sẽ khoan dung quảng đại với mọi người. Tóm lại, muốn là một Ki-tô hữu đích thực, chúng ta phải phấn đấu đạt tới cao điểm bác ái đó. Với gương của Chúa và sự trợ lực của Chúa, cùng với thiện chí và cố gắng của chúng ta, chúng ta sẽ thực hiện được giáo huấn Chúa dạy.

 

38. Yêu thương kẻ thù

Tha thứ và yêu thương, đó là thể hiện lòng nhân từ. Muốn trở nên con của Cha trên Trời thì con người cũng phải sống khoan dung như Ngài. Và sở dĩ Chúa Cha đối xử với kẻ bất lương như với người công chính là vì một lẽ rất đơn giản: tuy là tội lỗi nhưng họ vẫn là hình ảnh của Thiên Chúa, Chuá không thể bỏ rơi những gì Người đã dựng nên, nếu không thì lòng nhân hậu của Chúa lại chịu thua tội lỗi sao? Mọi tội lỗi không xóa được hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Vì Thiên Chúa không chịu bỏ rơi con người tội lỗi, nên người đã sai Con Một Người đến thế gian, để theo đuổi con người cho đến cùng.

Phạm Duy hát: Kẻ thù tôi đâu có phải là người, Giết người đi thì ta ở với ai? Một con người phàm mà còn có lòng nhân ái như thế, huống gì là Thiên Chúa. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó đi? Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác là tội lỗi nhưng Người không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt; và lòng khoan dung là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Mađalêna là một ví dụ.

Nhưng dù sao thì việc thực hiện những lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay không phải là dễ; làm con Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải cố gắng sống khoan dung trong mọi nghịch cảnh. Có điều đáng lưu ý là ơn Chuá luôn luôn đi kèm với sự cố gắng của con người. Và đối với Thiên Chúa thì không có gì mà không thể được.

Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng: Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả? Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?

Hoa hồng là hình ảnh của con người. Bạn hãy là một đóa hoa hồng nhỏ đối với mọi người.

 

39. Yêu thương kẻ thù

Khi một cuộc chiến tranh vừa kết thúc, người ta nhận thấy dấu vết của nó còn để lại trên cả một dân tộc: Nào là nghèo đói và túng thiếu, nào là đổ vỡ và tan hoang, nào là những bất công và bóc lột, nào là những cô nhi và quả phụ, nào là những nhà tù và những nghĩa trang…

Thế nhưng, cùng với thời gian người ta dần dần quên đi, để rồi mọi cố gắng, mọi nỗ lực đều được tập trung vào việc kiến thiết lại xứ sở và làm đẹp cho đất nước. Phải chăng đó là một dấu hiệu tốt chứng tỏ các dân tộc đã sẵn sàng tha thứ, lấy tình thương xóa bỏ hận thù và mong muốn được chung sống trong bình an và thịnh vượng.

Còn về phương diện cá nhân thì sao?

Người ta thường diễn tả một cách đáng cay và chua xót như sau:

– Rửa tội và kitô hóa cho cả một dân tộc thì dễ hơn là rửa tội và kitô hóa cho một cá nhân đã mang nặng tinh thần thế gian, tinh thần ngoại giáo, bởi vì khó mà tha thứ cho một kẻ nào đó đã nói hành nói xấu và xúc phạm đến bản thân chúng ta.

Trong những hoàn cảnh cụ thể như thế, trí nhớ của chúng ta không còn là một khả năng hay quên, trái lại nó đã làm việc một cách hăng say và đắc lực với tất cả công suất của nó, mặc dù chúng ta không muốn.

Bởi đó, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta:

– Đừng lấy ác báo ác.

Và Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay cũng đã truyền dạy:

– Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.

Điều đó có nghĩa là đừng đánh lại kẻ đã đánh chúng ta, đừng ném lại kẻ đã ném chúng ta, bằng không chúng ta cũng đã chẳng làm gì hơn những người ngoại đạo.

Và Chúa Giêsu còn nói tiếp:

– Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.

Thế nhưng, có kẻ lại cho rằng:

– Hành động như vậy là hèn nhát. Phải dạy cho chúng một bài học, bằng không chúng cứ lấn át mãi. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ cho thấu đáo, chúng ta thấy đó chỉ là một cái cớ để che dấu việc chúng ta đang chạy theo tinh thần thế gian và rời xa tinh thần của Chúa.

Đừng lấy oán đền oán đã lành, người Kitô hữu chúng ta còn phải đi xa hơn thế nữa, bằng cách lấy ân đền oán, lấy tình thương xóa bỏ hận thù: Nếu kẻ thù đang đói, hãy cho ăn. Nếu kẻ thù đang khát, hãy cho uống. Chính với những việc làm như thế, chúng ta mới có thể cảm hóa được những kẻ thù của chúng ta, bởi vì cách thức hiệu nghiệm nhất để tiêu diệt kẻ thù không phải là chém giết, nhưng là làm cho họ trở thành những người bạn. Đồng thời những việc làm như thế còn là một phản ảnh trung thực cho tinh thần Kitô giáo, biến chúng ta trở thành giống Thiên Chúa, Đấn đã làm cho mặt trời mọc lên và chiếu sáng trên người lành và kẻ dữ, cũng như đã làm mưa xuống cho người công chính và kẻ bất lương. Trên một tờ báo, người ta đã đưa ra một câu hỏi như sau:

– Bạn sẽ hành động thế nào với khẩu hiệu: hãy trả lại cho họ cái họ đã làm cho bạn?

Phần đông các độc giả đã trả lời:

– Hãy trừng phạt. Hãy báo thù. Hãy trả đũa. Hãy dạy cho cho họ một bài học nhớ đời.

Tuy nhiên,trong số các thư gủi về tòa soạn, có bức thư của một em nhỏ. Em nhỏ này đã trả lời như sau:

– Hãy cám ơn.

Ba chữ “hãy cám ơn” của em nhỏ này phải chăng đã phản ảnh đúng tinh thần của Chúa mà chúng ta phải thực thi trong cuộc sống hôm nay, một cuộc sống vốn còn chất đầy những hận thù và ghen ghét.

 

40. Kẻ thù

Một địa điểm truyền giáo nằm chênh vênh trên sườn núi heo hút nơi cao nguyên Trung Hoa lục địa. Đó là một điểm truyền giáo của các cha thừa sai Milanô, nước Italia. Địa điểm truyền giáo này gồm một bệnh xá và một nhà mồ côi dành cho các em gái do các nữ tu Italia trông coi. Các linh mục thừa sai ít khi có mặt vì phải thường xuyên đi làm mục vụ ở xa. Do đó, các nữ tu đảm trách mọi việc không những liên quan tới bệnh nhân và các em mồ côi, nhưng còn nhiều việc khác nữa, như dạy giáo lý, tổ chức những giờ đọckinh. Đó là vào năm 1951, khi các thừa sai chưa bị trục xuất khỏi Trung Hoa. Nghe biết về lòng tốt của các nữ tu nên bệnh nhân nhiều nơi tìm đến bệnh xá để được các chị khám bệnh và phát thuốc. Riêng các bé gái được đưa tới viện mồ côi phần lớn chỉ vì cha mẹ quá nghèo không thể nuôi chúng được. Nhưng cũng có một số em bị bỏ rơi vì những lý do khác. Dù sao ở đây các em được lớn lên trong niềm tin vào Thiên Chúa quan phòng trong cụ thể dưới sự săn sóc tận tụy của các nữ tu. Ngoài giờ học chữ và học giáo lý, các em còn được dạy nghề đan, thêu và dệt. Nếp sống trầm lặng của nhà mồ côi ở nơi hẻo lánh này không khác chi nếp sống của một đan viện, gồm có học hành, làm việc và cầu nguyện. Mỗi buổi chiều người ta đều nghe lời kinh vang lên từ cửa miệng các em mồ côi “Lạy Chúa Giêsu bé thơ, con yêu mến Chúa!” Nhưng vào một buổi chiều mưa, tại nhà mồ côi bỗng xuất hiện một toán người đàn ông có vũ trang. Họ đứng nghênh ngang trước mặt các chị, súng cầm trong tay, miệng quát tháo: “Muốn sống thì đứng im!” Tên chỉ huy ra lệnh cho đàn em trói các nữ tu lại, cười đắc chí: “Hừ, tốt lắm. Phen này mấy lão Giám Mục phải trả cho chúng tao một khoản tiền lớn. Nếu không chịu, tao sẽ cắt cổ từng mụ một.”

Khi ấy có người đưa tin bệnh đậu mùa đang lan tràn ở vùng Latan, sào huyệt của đảng Hắc Long là đảng cướp cạn đã từng giết nhiều người. Tên đầu đảng bắt đàn em mở các thùng thuốc chúng vừa cướp được. Nhưng chúng thất vọng vì toàn là thuốc với nhãn hiệu Italia, chẳng ai đọc được! Khi ấy chị Nga (Natalia), nữ tu trẻ nhất của địa điểm truyền giáo nói với tên chỉ huy “Tôi là y tá. Tôi biết các tên thuốc và cách dùng” Hắn nhìn chị Nga với cặp mắt nghi ngờ: “Mụ biết chữa bệnh đậu mùa đen à?” Trước câu hỏi vừa khiêu khích lại vừa khinh bạt, chị Nga điềm tĩnh trả lời: “Vâng, tôi biết.” Hắn hỏi tiếp: “Vậy mụ có biết bệnh đậu mùa đen là bệnh giết người không?” Chị Nga trả lời: “Tôi biết chứ!” Hắn lại hỏi: “Thế mụ dám tình nguyện đến Latan sao?” Chị Nga dịu dàng trả lời: “Nếu ông muốn, tôi sẵn sàng đến cứu sống dân chúng vùng Latan.” Hắn liền tươi nét mặt nhưng cũng vẫn ra bộ khinh bạt: “Được rồi, vậy mụ hãy đi theo cái ông Chúa bị đóng đinh của mụ đi.”

Quả là giây phút cảm động khi chị Nga nhìn từng chị em có thể là lần chót: “Xin các chị cầu nguyện cho em, chúng ta hẹn gặp nhau trên trời!” Thấy tay mình còn bị trói, chị Nga nói với bọn cướp: “Xin các ông cởi trói cho tôi chứ!” Đoàn người rời cứ điểm truyền giáo và xuống núi. Bóng dáng chị Nga nữ tu cứ xa dần rồi mất hút sau khúc đường dốc dưới nắng chiều của vùng cao nguyên Trung Quốc.

Câu chuyện nói trên tự nhiên làm cho ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay trở nên sống động. Lời Chúa Giêsu dậy các môn đệ xưa về yêu thương đối lại với thù ghét, chúc lành đối lại với nguyền rủa,

– Người đã “yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình” (c.27).

Người chịu “nhạo báng, đánh đập, xúc phạm” (Lc 22,63-65) chỉ vì yêu và muốn cứu chuộc những kẻ ngược đãi mình. – Người đã “chúc lành” (c.28) cho những kẻ đóng đinh Người trên khổ hình thập giá bằng lời cầu: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34). – Ở chặng đường thánh giá thứ mười, Đức Giêsu đã sống theo nghĩa đen những điều Người dạy các môn đệ là: “Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại.” (cc.29-30).

Vậy khi chị Nga nữ tu hy sinh đi cứu sống bọn cướp Hắc Long là nạn nhân của bệnh đậu mùa đen, thì cũng chỉ là để theo sát gót bước Đức Giêsu, Đấng đã “yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình” (c.27) mà thôi.

 

41. Yêu thương

Theo tờ báo Christian Digest, một người đàn bà làm việc từ thiện ở thành phố Luân Đôn gặp một cô gái giang hồ đang nằm liệt trong một căn phòng trống, vắng lạnh. Như một người mẹ hiền, người đàn bà có đạo này tận tay chăm sóc cô gái từng miếng ăn hớp uống, giặt dũ nệm ra, đốt lửa, và làm cho bầu khí của căn phòng thêm ấm cúng và sáng sủa hơn. Sau khi thu dọn xong, bà nói với cô gái: “Tôi có thể cùng cô cầu nguyện không?” Cô gái làng chơi lạnh lùng đáp: “Không! Bà đâu có thương tôi. Bà làm những việc đó để được về Thiên đàng thôi.” Nhiều ngày trôi qua, người đàn bà vẫn tận tình chăm sóc cô gái, và lòng cô gái vẫn cứ chát chúa, lạnh lùng. Rồi đến một ngày kia khi sức khỏe cô gái gần bình phục, bà khẽ nói với cô gái: “Này cô, cô sắp lành bệnh rồi, tôi sẽ không trở lại đây nữa. Vì là ngày cuối tôi xin phép được hôn cô một lần thôi.” Và rồi đôi môi tinh khiết chỉ biết nói lời dịu ngọt và lời cầu nguyện đã chạm vào đôi môi bị hoen ố với những lời nguyền rủa và tình yêu bất chính. Và lòng cô gái đã mềm ra và bị chinh phục bởi lòng thương xót hầu như không bờ bến của người đàn bà ngoan đạo. Người đàn bà trên có lẽ đã thực hiện đến mức thượng thặng những lời khuyên của Chúa Kitô trên đồi xưa: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình… hãy cho vay mượn mà không trông báo đền…, hãy tha thứ… đừng xét đoán, đừng kết án… hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” (Lc 6:27-38). Những lời khuyên trong bài giảng trên đồi dựa trên nguyên tắc “luật vàng” mà các vị lãnh đạo tinh thần vẫn rao giảng. Luật vàng ở dạng tiêu cực: “Đừng xét đoán để các con khỏi bị xét đoán.” Luật vàng ở dạng tích cực: “Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ.” Vì thánh Luca chủ chương viết Sách Tin Mừng cho dân ngoại, những lời khuyên dựa trên nguyên tắc luật vàng sẽ dễ dàng được chấp nhận bởi lương dân. Một khi lương dân đã chấp nhận nguyên tắc luật vàng, họ được mời gọi để sống cách cao thượng hơn theo tinh thần của Chúa Kitô. Là môn đệ của Chúa Kitô, họ được mời gọi để “yêu cả kẻ thù, tha cho người ghét mình, và để cho người ta vả lẫn má bên kia.” Sự mời gọi này không dựa trên nguyên tắc luật vàng, nhưng được đặt nền tảng khác là chính Thiên Chúa, Đấng vốn nhân hậu với những kẻ bội bạc và gian ác (Lc 6:35). Có lẽ người Việt Nam chúng ta phải cố gắng vượt bực mới có thể thực thi lời khuyên của Chúa Giêsu Kitô. Nước Việt Nam đã phải chiến đấu 1000 năm với Nước Hoa xâm lăng, 100 năm với ách đô hộ của Nước Pháp. Không biết đến bao giờ những vết thương đó mới có thể được chữa lành bằng sự tha thứ, cảm thông, và bác ái của Chúa Kitô? Với sức con người, có lẽ những vết thương đó sẽ không bao giờ lành. Nhưng với ơn Chúa và nỗ lực của mỗi người, dân Việt sẽ hưởng bình an thực sự.

 

42. Yêu thương

Bài Tin Mừng thánh sử Luca kể lại luật yêu thương tuyệt vời của Chúa Kitô. Chúa dạy chúng ta cách sống, cách xử thế đối với mọi người. Chúa dạy hãy yêu người khác như yêu bản thân mình. Người khác đây có thể là người yêu chúng ta, thương chúng ta, nhưng cũng gồm cả những người không yêu chúng ta, ghét chúng ta, và cả những người làm hại chúng ta nữa. Chúng ta thấy luật Chúa dạy cao trọng vượt bậc. Đó là luật vàng trong đạo Chúa. Người Do thái quen sống với luật công bằng: mắt đền mắt, răng đền răng. Nhưng từ đó họ đã đi đến chỗ báo oán báo thù, để rồi lại có những luật lệ nhằm giảm thiểu sự trả thù đó bằng sự tha thứ và kêu gọi yêu thương. Nhưng phải chờ tới Tân ước Chúa Giêsu mới chính thức công bố luật yêu thương, tha thứ. Chúa đưa ra một số thí dụ: “Ai vả má này, hãy đưa thêm má kia”, “ai đòi áo ngoài, hãy đưa cả áo trong”, “ai xin hãy cho, ai chiếm đoạt đừng đòi lại”, “hãy chúc lành cho kẻ chúc dữ mình”, “hãy cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình”.

Chúa dạy như thế không có nghĩa là Chúa đề cao lối sống buông xuôi, đầu hàng, cam chịu. Nhưng Chúa muốn dạy rằng: hãy khôn ngoan dùng tình thương là thượng sách. Tình thương mới xóa bỏ hận thù, lấy ơn mà đền oán, chứ không thể áp dụng “dĩ độc trị độc”. Thực tế, trả thù không bao giờ xóa bỏ được hận thù, mà còn chồng chất hận thù lên mãi. Cho nên, chúng ta thấy những lời Chúa dạy thật sự là hữu lý và có giá trị cho mọi thời đại. Có lẽ cuộc đời chúng ta vẫn sống theo lối “ăn miếng trả miếng”, “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại” nên chúng ta thấy khó am hợp với những lời Chúa dạy là tha thứ, yêu thương. Chúa dạy chúng ta hãy sống yêu thương tối đa giữa cá nhân với nhau, và giữa cá nhân với nhân quần xã hội. Nếu mỗi người đều cố gắng đối xử như vậy thì cuộc sống này, trần gian này sẽ tốt đẹp, an bình và tươi vui hơn biết bao. Giáo huấn của Chúa, khó thì khó thật, nhưng không phải là bất khả thi, tức là vẫn có thể thực hiện được, và dĩ nhiên để có thể thực hiện đòi hỏi người ta một tình yêu thương cao hơn quan niệm bình thường. Trong thực tế đã có những người, dù không phải là Kitô hữu, dù chưa biết Tin Mừng của Chúa, thực hiện điều này. Người ta kể rằng: gần biên giới hai nước Lương và Sở, tức Hồ nam ngày nay, có hai người làm nghề trồng dưa: một người ở nước Lương, một người ở nước Sở. Nhờ sự chăm tưới và bón phân, vườn dưa của người nước Lương lên tốt, kết quả rất mỹ mãn và hàng năm đem lại một mối lợi đáng kể. Còn anh chàng nước Sở, lười biếng, cỏ chẳng làm, dưa không tưới và bón phân, dĩ nhiên không kết quả bao nhiêu. Thấy vậy anh ta sinh ghen ghét, đêm đêm lẻn sang vườn người phá hoại.

Vườn dưa đang tốt, song mỗi ngày cứ thấy lụi dần, tìm hiểu và biết được kẻ phá hoại, tức mình lắm, định trả đũa. Nhưng trước khi thi hành, anh đem việc đến trình quan huyện là Tống Tựu. Tống Tựu can và nói: “Làm như thế chỉ tổ gây hằn thù, tôi khuyên anh: thay vì trả đũa, mỗi đêm lẻn sang đó tưới và bón phân. Nhưng phải bí mật đừng cho nó trông thấy”. Thấy bên kia không trả đũa, lại nhận ra vườn của mình mỗi ngày xanh tốt. Sau lâu ngày mới biết người kia đã không báo oán mà còn làm ơn, anh liền sang xin lỗi. Hai gia đình đã kết thân và cùng trở nên giàu có.

Với một nền đạo đức tự nhiên người xưa còn thực hiện lòng nhân ái như thế. Vậy tại sao các Kitô hữu, được siêu nhiên trợ lực, lại đầu hàng trước huấn lệnh đó sao?

Hơn nữa, Chúa còn dạy chúng ta hãy yêu thương kẻ thù. Đây là điểm vàng son của tình yêu Kitô giáo. Thực vậy, yêu kẻ yêu mình, đó là lẽ thường tình. Nhưng yêu được người không yêu mình, yêu kẻ ghét mình, làm hại mình, đấy mới là yêu thật, đấy mới xứng danh là con Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa. Trước nhan Thiên Chúa, không còn là bạn hay thù, nhưng chỉ là đối tượng của tình yêu.

Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương: yêu từng người, yêu hết mọi người, yêu vô tư, yêu quảng đại, yêu với chính tình yêu của Chúa và yêu như Chúa yêu. Một khi có tình yêu như vậy, nhất định chúng ta sẽ xóa bỏ mọi hiềm thù ghen ghét, nhất định chúng ta sẽ khoan dung quảng đại với mọi người.

Tóm lại, muốn là một Kitô hữu đích thực, chúng ta phải phấn đấu đạt tới cao điểm bác ái đó. Với gương của Chúa và sự trợ lực của Chúa, cùng với thiện chí và cố gắng của chúng ta, chúng ta sẽ thực hiện được giáo huấn Chúa dạy.

 

43. Yêu thương kẻ thù

Theo tờ báo Christian Digest, một người đàn bà làm việc từ thiện ở thành phố Luân Đôn gặp một cô gái giang hồ đang nằm la liệt trong một căn phòng trống, vắng lạnh. Như một người mẹ hiền, người đàn bà có đạo này tận tay chăm sóc cô gái từng miếng ăn hớp uống, giặt dũ nệm ra, đốt lửa, và làm cho bầu khí của căn phòng thêm ấm cúng và sáng sủa hơn. Sau khi thu dọn xong, bà nói với cô gái: “Tôi có thể cùng cô cầu nguyện không?” Cô gái làng chơi lạnh lùng đáp: “Không! Bà đâu có thương tôi. Bà làm những việc đó để được về Thiên đàng thôi.” Nhiều ngày trôi qua, người đàn bà vẫn tận tình chăm sóc cô gái, và lòng cô gái vẫn cứ chát chúa, lạnh lùng. Rồi đến một ngày kia khi sức khỏe cô gái gần bình phục, bà khẽ nói với cô gái: “Này cô, cô sắp lành bệnh rồi, tôi sẽ không trở lại đây nữa. Vì là ngày cuối tôi xin phép được hôn cô một lần thôi.” Và rồi đôi môi tinh khiết chỉ biết nói lời dịu ngọt và lời cầu nguyện đã chạm vào đôi môi bị hoen ố với những lời nguyền rủa và tình yêu bất chính. Và lòng cô gái đã mềm ra và bị chinh phục bởi lòng thương xót hầu như không bờ bến của người đàn bà ngoan đạo.

Người đàn bà trên có lẽ đã thực hiện những lời khuyên của Chúa: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình, hãy cho vay mượn mà không trông báo đền, hãy tha thứ, đừng xét đoán, đừng kết án, hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”.

Thánh Luca chủ chương viết Sách Tin Mừng cho dân ngoại, những lời khuyên dựa trên nguyên tắc luật vàng sẽ dễ dàng được chấp nhận bởi lương dân. Một khi lương dân đã chấp nhận nguyên tắc luật vàng, họ được mời gọi để sống cách cao thượng hơn theo tinh thần của Chúa Kitô. Là môn đệ của Chúa Kitô, họ được mời gọi để “yêu cả kẻ thù, tha cho người ghét mình, và để cho người ta vả lẫn má bên kia.” Sự mời gọi này không dựa trên nguyên tắc luật vàng, nhưng được đặt nền tảng khác là chính Thiên Chúa, Đấng vốn nhân hậu với những kẻ bội bạc và gian ác (Lc 6:35). Phần thưởng của những người thực thi lời huấn dụ này là sẽ được trở nên con cái của Thiên Chúa và sẽ lãnh nhận phần thưởng trọng hậu trong Nước Trời. Những người không tin có Thiên Chúa, không tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không tin có đời sau, sẽ coi những lời khuyên trên là phi lý và dại dột.

 

44. Nền văn minh tình thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP)

Ngày Valentine vừa qua tạo bao nhiêu rạo rực cho những người đang yêu nhau. Tình yêu là một sức mạnh vô hình nối kết những người không quen biết vào một thực tại. Thực tại đó là cộng đồng tình yêu. Tình yêu không hề biết đến giới hạn. Nhưng thực tế, nhiều thách đố vẫn đến với tình yêu. Thách đố lớn nhất chính là kẻ thù bị đặt ra ngoài vòng tình yêu và cũng là dấu chứng tỏ tình yêu cũng biết đến giới hạn. Nhưng dưới mắt Đức Giêsu, tự bản chất, tình yêu không có giới hạn, vì chính Người đã phá tung giới hạn đó.

THÁCH ĐỐ

Cuộc sống tự bản chất là một cuộc giao lưu giữa những người đang sống. Từ đó biết bao thái độ và tình cảm đã đưa đẩy con người tới chỗ hợp tan tan hợp. Hỉ nộ ai cụ ái ố dục là thất tình trong nhịp sống trần hoàn. Có cách nào vượt qua những tình cảm đó mà vẫn còn là con người không? Tình cảm có thể đẩy đưa con người vào hố sâu diệt vong hay nâng cao con người tới đỉnh cao hạnh phúc. Làm cách nào Đức Giêsu giúp con người vượt qua những cái tầm thường và sống anh hùng trong tình yêu?

Khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6:27), Đức Giêsu đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy? Nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Kitô. Bình thường ai cũng yêu kẻ thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói yêu kẻ thù mình. Đời có vay có trả. Ân oán giang hồ. Không ai có thể xây dựng với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn. Không thể đội trời chung với kẻ thù.

Đức Giêsu không dạy chúng ta cách nhận dạng kẻ thù. Nhưng muốn chúng ta nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hại chúng ta. Đó là một nghịch lý! Nhưng Tin Mừng thường được thành hình giữa những nghịch lý như thế. Tai chúng ta không vui chút nào khi nghe: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6:28-29). Nhưng Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người nghe. Tin Mừng đặt vấn đề rất hắc búa, có sức thức tỉnh lòng người. Ý chí lớn lao đang ngủ yên trong lòng người. Đức Giêsu muốn lôi con người vùng dậy khỏi giấc ngủ ngàn năm đó. Người muốn con người đối diện với kẻ thù với một thái độ cao cả. Kẻ thù có thể là một vấn đề hóc búa nhất. Nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.

Tại sao Đức Giêsu lại đưa ra một đòi hỏi quá gắt gao như vậy? Trước hết, “Đức Giêsu không nói về tình cảm đối với kẻ thù, nhưng về một hành động của ý chí. Bạn không thể hiểu được loại tình yêu này – Nó đòi một nỗ lực đầy ý thức. Yêu thương kẻ thù có nghĩa là hành động vì lợi ích tối đa cho họ. Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, và có thể tìm cách giúp đỡ họ” (Life Application Study Bible 1991:1807).

Cần nhận diện rõ khuôn mặt kẻ thù. Chắc chắn kẻ thù cũng là tha nhân, nhưng là một thứ tha nhân đặc biệt. Không thể vì yêu kẻ thù, chúng ta lại tiết lộ hết bí mật và liều mạng trước âm mưu thâm độc của họ. Yêu kẻ thù một cách thiếu khôn ngoan sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đối với kẻ thù, Chúa cũng dạy chúng ta “phải khôn như rắn” (Mt 10:16) trước những âm mưu thâm độc. Nhưng đồng thời cũng không nên đề phòng quá đến nỗi kẻ thù luôn giữ một khoảng cách nguy hiểm đối với ta. Trái lại, phải cho họ thấy tất cả sức mạnh Tin Mừng. Chỉ có Tin Mừng mới lấp đầy khoảng cách giữa kẻ thù và chúng ta. Phải cho họ thấy tất cả những nét hào hùng của Tin Mừng trong thái độ và hành động của môn đệ Chúa Kitô. Chỉ có Tin Mừng mới có thể tạo nổi “những hướng dẫn giúp xây dựng Văn Minh Tình Thương bắt đầu từ việc sám hối cá nhân” (Gioan Phaolô II, Catholic World News Service, 14/2/2001). Quả thực, kẻ thù hiện diện như một dấu chỉ hối thúc chúng ta phải sám hối. Đừng mong đợi kẻ thù thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi trước.

Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao đó, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thày Chí Thánh đã vạch ra con đường dẫn kẻ thù vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao, Kitô hữu cần phải đi bước trước. Bước đầu tiên Thày chí thánh đã thực hiện khi bước lên thập giá. Thày đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Sở dĩ Thày làm được như thế, vì Thày đã noi gương Chúa Cha “là đấng nhân từ” (Lc 6:36). “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35). Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Nhưng chính ở hành vi tha thứ, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội ác.

NOI GƯƠNG THÀY CHÍ THÁNH

Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho kẻ thù. Chúng ta chỉ là phàm nhân, làm sao có một tấm lòng đại lượng như Thiên Chúa? Đòi hỏi của Đức Giêsu thật gắt gao. Nhưng nếu đòi hỏi một điều gắt gao đó, tất nhiên Đức Giêsu muốn nhìn thẳng vào thực tế. Thực tế đó, chính Đức Phật cũng đã vạch ra: “lấy oán báo oán, oán oán chập chùng”. Ngày xưa chính vua Đavít có một hành vi anh hùng chỉ vì ông nhận ra Saulê là “đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26: 11). “Đó là một nhận thức về trách nhiệm thánh, chứ không phải là một hành vi tha thứ hay xót thương” (Faley 1994:177). Cao hơn một bậc, Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ thù ngay khi đang quằn quại trong vũng máu đào. Chính sự tha thứ ấy cho thấy không còn lý do gì khiến chúng ta phải trả miếng cho kẻ thù. Không ai là kẻ thù đối với những người tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và đều đáng được xót thương. Ngay chính khi tha thứ, chúng ta cũng cần được tha thứ. Thực tế chúng ta cần được tha thứ nhiều hơn mức ta tưởng. Tất cả đều là con cái của Đấng giàu lòng thương xót. Là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không thể nào không có tấm lòng bao dung trước những lỗi lầm tha nhân. Nói khác, mỗi lần đối xử tệ hại với người khác, nhất là với kẻ thù, vô tình chúng ta đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Vả lại, nếu không biết thương xót, chúng ta cũng sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Đó là điều Chúa nói: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37).

Không những là hình ảnh Thiên Chúa, “chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:49) cứu độ muôn dân. Chính Người là hiện thân của lòng Chúa xót thương. Đó là động lực mạnh nhất giúp ta thắng vượt những xung động hay quyền lợi nhất thời, để hết sức hoạt động phục vụ quyền lợi thiết thực của kẻ thù. Quyền lợi đó chính là ơn cứu độ Chúa đã dầy công tạo lập cho họ. Tất cả sự nghiệp của Người là qui tụ muôn dân. Nếu còn phân biệt bạn với thù, làm sao sự nghiệp của Người có thể hoàn thành trong trần gian? Làm sao chúng ta có thể hoàn thành được những gì còn dở dang trong công cuộc cứu chuộc của Chúa?

Một hoạt động ngoạn mục của Giáo hội đang diễn ra tại Ấn độ. Giữa lúc bị một tổ chức Ấn giáo cực đoan cản trở, Giáo Hội vẫn hiên ngang đến cứu giúp 50,000 gia đình nạn nhân vụ động đất tàn khốc vừa xảy ra ngày 26/01/2001. Tổ chức đó đã từng là thủ phạm giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo tại Ấn độ (VietCatholic, 15/02/2001). Chắc chắn Giáo hội đã vượt qua những ranh giới thường tình để thực hiện đòi hỏi Tin Mừng hôm nay. Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại một tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa ngay trên mặt đất này.

 

45. Nền văn minh tình thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP)

Ngày Valentine vừa qua tạo bao nhiêu rạo rực cho những người đang yêu nhau. Tình yêu là một sức mạnh vô hình nối kết những người không quen biết vào một thực tại. Thực tại đó là cộng đồng tình yêu. Tình yêu không hề biết đến giới hạn. Nhưng thực tế, nhiều thách đố vẫn đến với tình yêu. Thách đố lớn nhất chính là kẻ thù bị đặt ra ngoài vòng tình yêu và cũng là dấu chứng tỏ tình yêu cũng biết đến giới hạn. Nhưng dưới mắt Đức Giêsu, tự bản chất, tình yêu không có giới hạn, vì chính Người đã phá tung giới hạn đó.

THÁCH ĐỐ

Cuộc sống tự bản chất là một cuộc giao lưu giữa những người đang sống. Từ đó biết bao thái độ và tình cảm đã đưa đẩy con người tới chỗ hợp tan tan hợp. Hỉ nộ ai cụ ái ố dục là thất tình trong nhịp sống trần hoàn. Có cách nào vượt qua những tình cảm đó mà vẫn còn là con người không? Tình cảm có thể đẩy đưa con người vào hố sâu diệt vong hay nâng cao con người tới đỉnh cao hạnh phúc. Làm cách nào Đức Giêsu giúp con người vượt qua những cái tầm thường và sống anh hùng trong tình yêu?

Khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6:27), Đức Giêsu đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy? Nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Kitô. Bình thường ai cũng yêu kẻ thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói yêu kẻ thù mình. Đời có vay có trả. Ân oán giang hồ. Không ai có thể xây dựng với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn. Không thể đội trời chung với kẻ thù.

Đức Giêsu không dạy chúng ta cách nhận dạng kẻ thù. Nhưng muốn chúng ta nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hại chúng ta. Đó là một nghịch lý! Nhưng Tin Mừng thường được thành hình giữa những nghịch lý như thế. Tai chúng ta không vui chút nào khi nghe: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6:28-29). Nhưng Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người nghe. Tin Mừng đặt vấn đề rất hắc búa, có sức thức tỉnh lòng người. Ý chí lớn lao đang ngủ yên trong lòng người. Đức Giêsu muốn lôi con người vùng dậy khỏi giấc ngủ ngàn năm đó. Người muốn con người đối diện với kẻ thù với một thái độ cao cả. Kẻ thù có thể là một vấn đề hóc búa nhất. Nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.

Tại sao Đức Giêsu lại đưa ra một đòi hỏi quá gắt gao như vậy? Trước hết, “Đức Giêsu không nói về tình cảm đối với kẻ thù, nhưng về một hành động của ý chí. Bạn không thể hiểu được loại tình yêu này – Nó đòi một nỗ lực đầy ý thức. Yêu thương kẻ thù có nghĩa là hành động vì lợi ích tối đa cho họ. Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, và có thể tìm cách giúp đỡ họ” (Life Application Study Bible 1991:1807).

Cần nhận diện rõ khuôn mặt kẻ thù. Chắc chắn kẻ thù cũng là tha nhân, nhưng là một thứ tha nhân đặc biệt. Không thể vì yêu kẻ thù, chúng ta lại tiết lộ hết bí mật và liều mạng trước âm mưu thâm độc của họ. Yêu kẻ thù một cách thiếu khôn ngoan sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đối với kẻ thù, Chúa cũng dạy chúng ta “phải khôn như rắn” (Mt 10:16) trước những âm mưu thâm độc. Nhưng đồng thời cũng không nên đề phòng quá đến nỗi kẻ thù luôn giữ một khoảng cách nguy hiểm đối với ta. Trái lại, phải cho họ thấy tất cả sức mạnh Tin Mừng. Chỉ có Tin Mừng mới lấp đầy khoảng cách giữa kẻ thù và chúng ta. Phải cho họ thấy tất cả những nét hào hùng của Tin Mừng trong thái độ và hành động của môn đệ Chúa Kitô. Chỉ có Tin Mừng mới có thể tạo nổi “những hướng dẫn giúp xây dựng Văn Minh Tình Thương bắt đầu từ việc sám hối cá nhân” (Gioan Phaolô II, Catholic World News Service, 14/2/2001). Quả thực, kẻ thù hiện diện như một dấu chỉ hối thúc chúng ta phải sám hối. Đừng mong đợi kẻ thù thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi trước.

Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao đó, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thày Chí Thánh đã vạch ra con đường dẫn kẻ thù vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao, Kitô hữu cần phải đi bước trước. Bước đầu tiên Thày chí thánh đã thực hiện khi bước lên thập giá. Thày đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Sở dĩ Thày làm được như thế, vì Thày đã noi gương Chúa Cha “là đấng nhân từ” (Lc 6:36). “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35). Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Nhưng chính ở hành vi tha thứ, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội ác.

NOI GƯƠNG THÀY CHÍ THÁNH

Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho kẻ thù. Chúng ta chỉ là phàm nhân, làm sao có một tấm lòng đại lượng như Thiên Chúa? Đòi hỏi của Đức Giêsu thật gắt gao. Nhưng nếu đòi hỏi một điều gắt gao đó, tất nhiên Đức Giêsu muốn nhìn thẳng vào thực tế. Thực tế đó, chính Đức Phật cũng đã vạch ra: “lấy oán báo oán, oán oán chập chùng”. Ngày xưa chính vua Đavít có một hành vi anh hùng chỉ vì ông nhận ra Saulê là “đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26: 11). “Đó là một nhận thức về trách nhiệm thánh, chứ không phải là một hành vi tha thứ hay xót thương” (Faley 1994:177). Cao hơn một bậc, Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ thù ngay khi đang quằn quại trong vũng máu đào. Chính sự tha thứ ấy cho thấy không còn lý do gì khiến chúng ta phải trả miếng cho kẻ thù. Không ai là kẻ thù đối với những người tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và đều đáng được xót thương. Ngay chính khi tha thứ, chúng ta cũng cần được tha thứ. Thực tế chúng ta cần được tha thứ nhiều hơn mức ta tưởng. Tất cả đều là con cái của Đấng giàu lòng thương xót. Là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không thể nào không có tấm lòng bao dung trước những lỗi lầm tha nhân. Nói khác, mỗi lần đối xử tệ hại với người khác, nhất là với kẻ thù, vô tình chúng ta đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Vả lại, nếu không biết thương xót, chúng ta cũng sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Đó là điều Chúa nói: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37).

Không những là hình ảnh Thiên Chúa, “chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:49) cứu độ muôn dân. Chính Người là hiện thân của lòng Chúa xót thương. Đó là động lực mạnh nhất giúp ta thắng vượt những xung động hay quyền lợi nhất thời, để hết sức hoạt động phục vụ quyền lợi thiết thực của kẻ thù. Quyền lợi đó chính là ơn cứu độ Chúa đã dầy công tạo lập cho họ. Tất cả sự nghiệp của Người là qui tụ muôn dân. Nếu còn phân biệt bạn với thù, làm sao sự nghiệp của Người có thể hoàn thành trong trần gian? Làm sao chúng ta có thể hoàn thành được những gì còn dở dang trong công cuộc cứu chuộc của Chúa?

Một hoạt động ngoạn mục của Giáo hội đang diễn ra tại Ấn độ. Giữa lúc bị một tổ chức Ấn giáo cực đoan cản trở, Giáo Hội vẫn hiên ngang đến cứu giúp 50,000 gia đình nạn nhân vụ động đất tàn khốc vừa xảy ra ngày 26/01/2001. Tổ chức đó đã từng là thủ phạm giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo tại Ấn độ (VietCatholic, 15/02/2001). Chắc chắn Giáo hội đã vượt qua những ranh giới thường tình để thực hiện đòi hỏi Tin Mừng hôm nay. Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại một tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa ngay trên mặt đất này.

 

46. Yêu thương

Có một chị nữ tu nọ đặc trách quán cơm bình dân trong một trường học, vào những giờ đông người đến mua thức ăn cho bữa trưa hoặc bữa chiều thì chị phải chịu nghe không biết bao nhiêu là những lời than phiền, trách móc, đòi hỏi và cả khi bị mắng chửi trước mặt mọi người, vì không đáp ứng được nhu cầu bất chợt của những người mua thức ăn. Nhưng, dù vậy lúc nào chị cũng luôn luôn vui tươi phục vụ như không có gì xảy ra.

Một hôm có người tò mò hỏi chị cho biết lý do tại sao chị vẫn vui tươi phục vụ như vậy? Chị trả lời như sau: Thường tình thái độ sống của chúng ta chịu ảnh hưởng hay đúng hơn bị lèo lái bởi ảnh hưởng của những kẻ khác. Phần tôi thì tôi đã cố gắng không sống theo tâm thức thường tình này, họ bất kính vô lễ đối với tôi, nhưng đó không phải là lý do để tôi trở thành bất kính vô lễ đáp lại họ. Chúng ta dễ dàng theo luật trả thù “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng Chúa Giêsu trong bài Phúc âm của Chúa nhật VII mùa thường niên năm C hôm nay nhắc lại cho ta một việc quan trọng, chúng ta không dùng lửa để chống lại lửa, nhưng là lấy sự lành đáp lại sự dữ.

Chúa Giêsu, Người giảng dạy và đã sống nêu gương cho ta. Chúng ta có thể đọc lại đoạn Phúc âm Chúa nhật hôm nay như sau:

Tổng thống Abraham Lincol đã bị những người hầu cận phê bình là tỏ ra quá lịch thiệp vui vẻ cả đến những kẻ thù chính trị đã từng lăng nhục ông, nhưng ông thường trả lời họ như sau: Với thái độ thân thiện, tôi đã loại được kẻ thù và biến họ thành bạn của tôi. Các anh không thấy sao? Thật ra, đây là điều dễ nói hơn là làm. Tình yêu thương tự nhiên của chúng ta thường bị giới hạn trong những kẻ thân hay những ai tốt với chúng ta. Chúa Giêsu biết vậy nên Ngài không ngừng khuyến khích chúng ta hãy can đảm đi xa hơn: “Nếu anh em yêu thương ai yêu thương anh em thì có gì đặc biệt hơn đâu? Những kẻ thu thuế cũng làm như vậy”.

Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy bắt chước mẫu gương của Đức Chúa Cha trên trời. Chúng ta không thể nào hy vọng mình có thể làm được, nếu không nhờ sự trợ giúp và sức mạnh của Chúa để vượt qua được vòng luẩn quẩn là lòng hận thù triền miên qua việc trả thù cách này hay cách khác. Cần phải phá bỏ vòng luẩn quẩn này như Chúa Giêsu đã thực hiện qua thập giá, qua cái chết hy sinh chính mình.

Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta canh tân đời sống, yêu thương, tha thứ theo Tin Mừng. Thánh Augustinô đã nói: “Có nhiều cách thức để làm việc bố thí, để giúp ta lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, nhưng không có cách nào cao cả hơn là cách chúng ta tha thứ thật lòng cho người anh em đã xúc phạm đến ta”.

Chúng ta hãy nhớ lại lời kinh Lạy Cha, hãy nghiêm chỉnh xét mình và nhất là hãy xin Chúa ban cho ta sức mạnh thực hành lời xin tha thứ: “Lạy Cha, xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

 

47. Yêu thương

Phụng vụ lời Chúa hôm nay nêu bật chủ đề đức dung thứ Kitô giáo. Bài Tin Mừng thánh Luca được trích từ những giáo huấn của Chúa Giêsu đã giảng dạy. Cấu trúc song song của Tin Mừng thánh Luca và Tin Mừng thánh Matthêu xếp các qui luật cộng đoàn này sau bài giảng “Tám mối phúc thật”, hay còn được gọi là “Hiến Chương Nước Trời”. Vì đó là những qui tắc nền tảng như một bản hiến pháp để thành lập dân Chúa và định hình cho Hội thánh, thì phần qui luật cộng đoàn cũng có thể được coi là bộ luật luân lý hướng dẫn mọi lãnh vực sinh hoạt, xã hội, tôn giáo của những người tin Đức Kitô.

Một yếu tố không thể không nhấn mạnh, đó là cộng đoàn Hội thánh được qui tụ do niềm tin nơi Đức Kitô Phục Sinh và nhận được sinh khí mới do Thánh Thần của Đấng Phục sinh. Chính trong bối cảnh của cộng đoàn Phục sinh này xuất hiện cảm nghiệm sâu sắc về sức mạnh Thánh Thần, Đức Kitô đã và còn đang biến đổi những gì phàm tục, tội lụy và giới hạn nơi con người cũ xưa thành một con người mới, thụ tạo mới với mọi sức vóc sung mãn theo mô hình của chính Đức Kitô.

Cũng chính trong cộng đoàn nhuệ khí bừng bừng ấy, các quyển Tin Mừng hình thành không như tác phẩm của lý trí suy luận, hoặc của óc sáng tạo giàu chất lãng mạn, nhưng như là tinh hoa tích tụ lại từ vốn sống rất hiện thực, rất sinh động và thánh thiêng. Nói cách khác, cộng đoàn Kitô hữu như được mô tả trong Tin Mừng không chỉ thuần là một lý tưởng, một mẫu mực được phác họa cho một nỗ lực sẽ thành đạt trong tương lai, càng không thể là dấu hiệu của nỗi hoài vọng và một cõi địa đàng trải ra trước mắt, song đúng hơn đây chính là bức tranh xác thực của một nếp sống đã và vẫn còn tiếp diễn xuyên suốt thời gian và không gian, nếp sống của những người được đón nhận thực tại vào Nước Thiên Chúa.

Thánh Phaolô viết cho tín hữu Côrintô: “Những ai thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến”. Nhờ lãnh nhận Thánh Tẩy trong mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, Kitô hữu đã hoàn toàn chết đi với con người cũ tội lỗi, nô lệ của thế gian để sống lại trong con người mới của ân sủng, tự do, chia sẻ chiến thắng vinh quang bất diệt của Đấng Phục sinh. Do đó, có thể nói qui luật sống của cộng đoàn Kitô hữu được trình bày trong Tin Mừng không thể bị giản lược thành một số lời khuyến thiện đẹp đẽ để ai nấy tùy nghi, tùy sức thực hiện, nhưng phải coi đó là những đức độ tất yếu phải có, phải thi hành nơi mỗi cá nhân và toàn thể cộng đoàn tín hữu Kitô.

Thật vậy, có một sự khác biệt sâu xa giữa hành vi anh hùng mã thượng của bậc trượng phu quân tử, như việc chàng dũng sĩ Đavid tha mạng cho kẻ cựu thù là vua Saolê, mặc dù cơ hội báo oán đang nằm trong tay, so với đức dung thứ của Kitô hữu khi họ bỏ qua cho kẻ xúc phạm hoặc hãm hại mình. Hành vi dẫu cao thượng của chàng Đavid có lẽ do nhiều động lực tình cảm gia đình và chính trị, vua Saolê là nhạc phụ của anh, nên anh phải cân nhắc những hậu quả có thể xảy ra trong cuộc sống gia đình giữa anh và công chúa Micam, nếu như anh sát hại phụ vương của nàng. Mặt khác, vì anh đang rất cần hậu thuẫn của đám quần chúng vốn còn nặng ân tình với Saolê. Chàng Đavid không muốn cho phe bảo hoàng ghép cho mình cái tội thí chúa, và tận thâm tâm chàng Đavid còn muốn ngăn ngừa một điều lệ đe dọa cho chính bản thân mình sau này khi anh tuyên bố: “Vua là thiên tử, là bất khả xâm phạm, vì đã được Giavê Đức Chúa xức dầu tấn phong”.

Trong khi đó, người tín hữu Kitô không toan tính so đo một điều gì khác, trong việc thực thi đức dung thứ ngoài ước muốn được xứng danh là con cái Thiên Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, chỉ có vậy và đơn giản như vậy: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Được trở nên hoàn thiện như Hiền Phụ trên trời chính là động lực, là chuẩn mực luân lý Kitô giáo. Kitô hữu thực thi đức dung thứ và yêu thương kẻ thù, đó là một trong những nét độc đáo của Kitô giáo. Không điều kiện, không mong bất kỳ một hình thức đáp trả bồi hoàn nào, họ hành động và ứng xử như thể đó chính là bản chất của họ, là ơn gọi của họ.

Kitô hữu không bận tâm đến việc luận công phạt tội, vì tin đã có Thiên Chúa công minh cầm cân nẩy mực. Được thưởng công và trắng án trước pháp đình Thiên Chúa không thể coi là lý do của đời sống luân lý Kitô hữu, những người đã được giải thoát khỏi gông ách của tội lỗi, những người đã nắm trọn quyền thừa kế Nước Thiên Chúa, những người sẽ ngồi ghế thẩm phán xét xử thế gian. Bằng không, họ vẫn còn sống trong tội lỗi, chung đụng với những kẻ tội lỗi, hành xử như những kẻ tội lỗi: “Nếu anh em yêu thương những kẻ yêu thương mình thì có ơn nghĩa gì đâu, ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ”.

Giả như nói đến phần thưởng dành cho trọn một đời thủy chung với giáo huấn của Chúa, Kitô hữu sẽ chẳng mong mỏi nhận được một phần thưởng nào khác hơn là chính Thiên Chúa, là tình yêu hiền phụ của Người.

 

48. Yêu thương

Phụng vụ các bài đọc Lời Chúa hôm nay đã phác thảo nên một bức tranh đẹp về lòng yêu thương và tha thứ.

– Bài đọc 1 kể lại câu chuyện xưa giữa vua Saulê và Đavid: vua Saulê vì ganh ghét đã luôn tìm hại Đavid, nhưng Đavid là một con người có tâm hồn cao thượng và lòng đại độ đã tha thứ và thậm chí tha chết cho vua Saulê mặc dù mạng sống của vua Saulê đã được trao vào tay Đavid.

– Bài trích thư của thánh Phaolô đã tô điểm rõ nét hơn về sự sống yêu thương và tha thứ nơi mỗi Kitô hữu, đó là sự sống mới trong Đức Kitô, là sự sống của những người được nhận lãnh và sống bởi Thánh Thần của Đức Kitô Phục sinh.

– Trọng tâm mà hai bài đọc muốn dẫn đến chính là lời mời gọi yêu thương và tha thứ, là nội dung đoạn Lời Chúa trong Phúc âm Luca chúng ta vừa nghe đọc.

Đức Giêsu lên tiếng dạy các tông đồ: “Các con hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con”.

Quả thực, những lời này mới nghe qua, chúng ta thấy thật là vô lý và khó có thể chấp nhận theo như lẽ thường trong cuộc sống con người: Làm sao tôi có thể yêu thương và tha thứ cho kẻ hay gây rối và luôn tạo nên những phiền phức cho tôi; thật là nhục nhã vô lý và không công bằng chút nào khi phải yêu thương và tha thứ cho kẻ đã hạ nhục tôi, hạ nhục gia đình tôi, những người thân quen của tôi… Chắc hẳn mỗi người hiện diện nơi đây còn có thể đặt ra rất nhiều câu hỏi nữa: tại sao, vì sao tôi phải yêu thương và tha thứ cho kẻ thù nghịch với tôi như lời Đức Giêsu dạy các tông đồ mà chúng ta vừa nghe.

Bình tâm lại, chúng ta thấy đây không chỉ là lời dạy mà còn là lệnh truyền, là lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu mời gọi các tông đồ và những kẻ theo Ngài phải có một tấm lòng yêu thương tha thứ vượt lên trên cách suy nghĩ và hành xử như lối người đời vẫn hằng cư xử với nhau. Quả thật, Đức Giêsu đã nhấn mạnh: Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có ân nghĩa gì đâu? ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ… nếu anh em làm ơn cho những kẻ yêu mình, thì người tội lỗi cũng làm được như thế. Như vậy, Đức Giêsu mời gọi mọi người hãy biết mở lòng mình ra cho tình yêu của Thiên Chúa được thấm nhập hầu biến đổi để chúng ta cũng biết mở rộng tâm hồn để mến yêu và tha thứ những lỗi lầm cho anh em đồng loại như ta được Thiên Chúa yêu mến và thứ tha.

Chúa Giêsu đã không dạy chúng ta một cách bâng quơ hời hợt bên ngoài của lời nói, nhưng Ngài còn đi xa hơn, Ngài lấy chính Thiên Chúa làm khuôn mẫu cho chúng ta về lòng yêu thương và tha thứ, Ngài nói: “Các con hãy có lòng nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”.

Lần giở lại lịch sử cứu độ, chúng ta có thể bắt gặp được vô số chứng cứ và hình ảnh về lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa.

Trong Cựu ước, lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa đối với loài người bày tỏ qua một chuỗi các sự kiện:

. Thiên Chúa đã yêu thương sáng tạo ban lời hứa ơn cứu độ cho nguyên tổ.

. Một Abraham, một Mosê đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mạc khải cho biết chính Ngài là Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín.

Còn rất nhiều chứng cứ và hình ảnh mà các tác giả Cựu ước dùng đến để nói lên Thiên Chúa là Đấng yêu thương, bởi vì Ngài là Đấng thánh không thích hủy diệt, không thích tội nhân phải chết nhưng muốn họ hoán cải để được sống và đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa… như lời sách Ezêkiel đã viết: “… vì đường lối của Ngài không giống đường lối của chúng ta, và tư tưởng của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực”.

Lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa không chỉ dừng lại trước những tội lỗi của nhân loại để chờ đợi họ hoán cải thống hối hầu sửa trị và nhắc nhở họ biết tin tưởng và quay về với Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã đi bước trước đến với con người, tình yêu tuyệt đỉnh của Thiên Chúa đã được biểu lộ qua việc trao ban người Con Một cho thế gian là chính Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã đến trong thế gian, đó là một hành động, là một hồng ân mà Chúa Cha ban tặng. Ngài đến để loan báo lòng yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa. Quả thật, suốt cuộc đời tại thế, trọng tâm lời rao giảng của Đức Giêsu là tình yêu của Thiên Chúa, Đức Giêsu thường dạy dỗ các tông đồ: “… các con hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

… Cao điểm của việc rao truyền lòng yêu thương và tha thứ đó chính là Hy tế thập giá, Đức Giêsu đã đổ máu mình ra để hoàn tất công trình cứu độ hầu ban phát tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại.

Qua Đức Giêsu, chúng ta đã được nhận lãnh lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa. Vậy mỗi Kitô hữu phải làm gì đây để tiếp nối vào sứ mạng yêu thương và tha thứ trong thế giới hôm nay?

Hằng ngày, mỗi người chúng ta vẫn dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy: Lạy Cha chúng con ở trên trời… xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con… Quả thật, đây là lời thú tội và cầu xin trước Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho mình thì chính bản thân cũng phải biết tha thứ cho anh em khi họ lỗi phạm đến chúng ta.

Lòng yêu thương và tha thứ quả thật là một thách đố lớn lao cho tất cả mọi người nhưng đó vẫn là điều khả thi. Một cách cụ thể trong cuộc sống hôm nay, để có thể hóa giải những tranh chấp, hận thù, oán hờn… thiết nghĩ mỗi người phải tự giác đi bước trước: hãy học biết quảng đại, hãy tôn trọng, chấp nhận nhau trong những khác biệt của cuộc sống, thậm chí trái ngược nhau; đừng tìm cách hạ bệ, tranh chấp thắng thua, nhưng hãy biết cho và đón nhận, hãy cùng nhau nhìn về một hướng và giúp nhau đạt tới chân lý là chính Thiên Chúa. Muốn được như thế, thiết nghĩ mỗi cá nhân với sức riêng thì khó mà thực thi nhưng hãy cậy dựa vào ơn Chúa qua việc cầu nguyện và đến với các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh thể để nhờ việc kết hiệp này, chúng ta cũng biết yêu thương và tha thứ theo gương Chúa Giêsu hầu biết hoán cải nội tâm trở nên người môn đệ đích thực và xứng đáng lãnh nhận lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa.

Chúng ta vừa cùng nhau điểm qua một số nét về lòng yêu thương và tha thứ. Quả thật, yêu thương và tha thứ là ý muốn là lệnh truyền của Thiên Chúa vì nó bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ cách tột đỉnh qua hành động ban tặng chính Con Một là Đức Giêsu Kitô, và nhờ mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh, Đức Giêsu đã hoàn tất công trình cứu độ hầu ban phát tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Ước mong nhờ việc chiêm ngắm và suy niệm mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Đức Giêsu trong cuộc sống mỗi ngày, chúng ta học được nơi Ngài bài học yêu thương và tha thứ như lời Ngài vẫn hằng dạy bảo các tông đồ xưa kia: Nếu các con không biết tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng sẽ không tha thứ cho các con, nhưng nếu các con biết tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho các con.

 

49. Tha thứ

Có hai anh em ruột bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ đem tên sát nhân đến trước tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt, răng thế răng. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật định. Trước mặt quan tòa, tên sát nhân nhận tội và sẵn sàng chịu hình phạt, nhưng chỉ xin hoãn ba ngày để về giải quyết vấn đề liên quan đến một người cháu gái được ký thác cho hắn trông coi từ thuở nhỏ.

Giữa lúc quan tòa đang do dự thì từ trong đám đông có một người giơ tay cam kết: Tôi xin đứng ra bảo lãnh cho tên tử tội, nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thay cho hắn. Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Đúng kỳ hạn, giữa lúc mọi người chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, thì hắn hiên ngang tiến ra pháp trường và dõng dạc tuyên bố: Tôi muốn trung thành với lời cam kết để người ta sẽ không nói: chữ tín không còn trên mặt đất này.

Sau lời phát biểu của tên tử tội, ông bảo lãnh cho hắn cũng tuyên bố: Sở dĩ tôi bảo lãnh cho người này vì tôi không muốn để cho người ta nói: lòng quảng đại không còn trên mặt đất này.

Sau hai lời tuyên bố trên, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói: chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi để người ta sẽ không nói: Lòng tha thứ không còn trên mặt đất này.

Tha thứ là một cử chỉ anh hùng, là một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, phản ứng thường tình của con người để bước vào thế giới siêu nhiên của những người con Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời. Tha thứ là thể hiện cao cả nhất của tình yêu. Nếu chúng ta có thể cho đi của cải và chính mạng sống minh vì người mình yêu, thì tha thứ còn cao cả hơn rất nhiều vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.

Hãy yêu kẻ thù. Đó là lệnh truyền đã được Chúa Giêsu nhắc lại hai lần trong bài Tin mừng hôm nay. Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Ngài. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta khi Ngài xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã hành hạ Ngài. Và hơn nữa, Ngài còn minh oan cho họ: Vì họ lầm chẳng biết. Chính hành vi cao cả này mà Chúa Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Và đó cũng là nét cao quí nhất trong dung mạo của Đấng Cứu thế. Ngài đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Ngài đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân, tái tạo và phục sinh với Ngài.

Nhưng tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù? Yêu người yêu mình thì dễ, ai lại đi yêu kẻ làm hại mình bao giờ. Theo triết gia Nietzche thì lời khuyên yêu kẻ thù chỉ dành cho những kẻ bạc nhược, nhát đảm mà thôi. Và Chúa Giêsu chính là con người quá lý tưởng và thiếu thực tế.

Người xưa có câu “ác giả ác báo”, làm điều ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa, thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong như cơn lốc xoáy ập tới tiêu diệt mọi người.

Hận thù gây tác hại cho chính con người người oán ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người oán thù, đồng thời hủy diệt nhân cách của chính họ: Khi trả thù, người ta biến mình thành kẻ thú. Còn khi tha thứ, người ta vượt cao hơn họ. Tâm lý học ngày nay khẳng định: hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương thì phát triển nhân cách hết sức lạ lùng và hữu hiệu. Cuối cùng, tình yêu có phép mầu sẽ biến kẻ thù thành bạn hữu. Nếu hận thù là hủy diệt, thì tình yêu là xây dựng. Biến thù thành bạn, phải chăng là tiêu diệt kẻ thù rồi? Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ.

Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản nhất để chúng ta yêu thương kẻ thù chính là lời Chúa truyền dạy: Anh em hãy yêu thương kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Chúng ta không bao giờ là con cái đích thực của Cha trên trời, nếu chúng ta không yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.

 

50. Yêu thương kẻ thù

Trong một gia đình kia, chẳng may người chồng bị bắn chết khi lái xe đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Sau đó ít lâu, người vợ cùng đứa con đến nhà thờ cầu nguyện. Đứa con hỏi: Mẹ ơi, không biết kẻ đã bắn chết cha con có được lên thiên đàng không? Câu hỏi khiến người mẹ bị bất ngờ. Suy nghĩ một lát, bà trả lời: Nếu người đó thành thật sám hối, thì Chúa cũng tha thứ và cho lên thiên đàng. Đứa con rất khó chịu: Nếu có kẻ đó trên thiên đàng, thì con không muốn lên thiên đàng đâu. Người mẹ càng bối rối hơn nữa. Bà lại suy nghĩ, rồi nói: Nếu Chúa tha cho ông ta, thì Ngài cũng sẽ đổi lòng ông ta khiến ông ta không còn dễ ghét nữa, mà thành dễ thương. Lúc đó đứa con mới thỏa mãn và nói với mẹ: Vậy thì mẹ con mình hãy cầu nguyện cho ông ta đi.

Bài học quan trọng nhất của Tin mừng hôm nay là làm thế nào chống lại sự ác mà không cần trả thù. Hầu hết chúng ta nghỉ rằng chỉ cố gắng đừng trả thù là đủ rồi. Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta nhiều hơn thế, Ngài còn muốn chúng ta yêu thương kẻ thù nữa. Mặc dù việc này rất khó, nhưng chúng ta thấy hai mẹ con trong câu chuyện đã làm được.

Chỉ xét trên bình diện nhân loại mà thôi, thì giáo huấn của Chúa Giêsu cũng rất hữu ích: đà leo thang của sự ác chỉ có thể bị dừng lại bằng việc tiêu hủy nó chứ không phải bỏ qua nó: trả thù và trả đũa là lấy ác báo ác. Khi chọn thái độ báo thù, chúng ta bị thù hận làm nhiễm độc. Khi nuôi lòng hận thù báo oán, chúng ta bị tiêu hao nhiều năng lực. Trả thù chỉ thỏa mãn được sự tức giận của chúng ta, nhưng lại làm cho con tim chúng ta ra trống rỗng. Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù, Ngài không nhằm đến lợi ích của kẻ thù, mà nhắm đến lợi ích của ban thân chúng ta. Hơn thế nữa, yêu thương thì đẹp hơn hận thù rất nhiều.

Nếu lòng thù hận làm tiêu hao năng lực, thì ngược lại, lòng yêu thương tăng cường nghị lực trong chúng ta. Một trong những việc khó làm nhất là yêu thương kẻ ghét mình. Nhưng tình yêu chân thật là yêu thương cả những người khó thương hay không thể thương được. Chỉ người nào rất giàu năng lực mới làm được mà thôi. Tuy nhiên, việc này có thể làm được bởi vì sức mạnh của yêu thương lớn hơn sức mạnh của hận thù.

Dù sao thì tha thứ cho kẻ làm hại mình là một việc rất khó. Khi bị hại, làm sao trong lòng chúng ta không có những cảm giác đau đớn, đắng cay và ý định trả thù? Muốn vượt thắng cảm giác và ý định đó, cần phải chiến đấu rất nhiều. Cầu nguyện chính là sức tăng viện giúp chúng ta chiến thắng. Bởi đó, Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ ngừng.

 

51. Đừng xét đoán

Chúng ta rất dễ xét đoán người khác. Thế nhưng, Chúa Giêsu khuyến cáo rằng khi chúng ta xét đoán người khác, tức là chúng ta xét đoán chính mình: Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị xét đoán.

Vào một buổi sáng, vị linh mục đang dâng thánh lễ thì thấy một người đàn bà đến trễ. Cha rất bực bội, nên khi thấy bà này lên rước lễ, cha không đã trao Mình thánh Chúa. Điều này làm cho bà rất đau lòng. Thực ra, bà là người rất siêng năng tham dự thánh lễ. Từ trước tới nay, bà không bao giờ đi trễ. Nhưng hôm nay, chồng bà đột ngột ngã bệnh, đứa con gái tàn tật lại lên cơn. Bà phải nán lại cham sóc chồng con. Nguyên việc trễ lễ đã là một mất mát rất lớn đối với bà rồi. Thế mà cha lại không cho bà rước lễ. Sở dĩ vị linh mục làm thế là vì ngài đã xét đoán một cách hàm hồ. Và cách làm của ngài là lời kết án tính hàm hồ của ngài.

Câu chuyệntrên phải là một sự cảnh cáo để chúng ta đừng xét đoán một cách hàm hồ. Thực ra xét đoán là một điều rất khó. Muốn xét đoán cho đúng thì chúng ta phải thấy đầy đủ mọi khía cạnh của sự việc. Thấy mọi khía cạnh của sự việc cũng chưa đủ, cần phải hiểu thêm về hoàn cảnh và động cơ thâm sâu của sự việc đó nữa. Trong khi đó, thường chúng ta chỉ thấy một phương diện mà thôi và chỉ thấy bề ngoài. Tóm lại, chúng ta chưa có đủ yết tố để xét đoán.

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có lần là nạn nhân bị người khác xét đoán. Hãy nhớ lại xem khi đó chúng ta đau khổ như thế nào: Điều gì bạn không muốn người khác làm cho bạn, thì bạn cũng đừng làm cho họ. Vả lại, có ai trong chúng ta không cần được Thiên Chúa xét đoán khoan hồng? Bởi vì nếu Chúa chấp tội, thì nào ai đứng vững được?

Vì thế, chúng ta phải khoan dung với anh em. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy.

 

52. Hãy cho

Thiên Chúa sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng, đã dằn, đã lắc và tràn đầy mà đổ vào vạt áo của anh em.

Trong câu nói trên, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thuộc của nghề nông. Hay nói rõ hơn, đó là việc đong lúa: những kẻ gian lận hoặc keo kiệt thì dùng loại đấu thiếu, chẳng những thế, khi đong thì đong vội đong vàng để lúa chưa kịp lóng xuống mà đấu đã đầy tới miệng. Còn người công bình và rộng lượng thì dùng đấu chính xác, lại còn dằn, còn lắc để lúa trong đấu càng nhiều càng tốt.

Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh ấy để khuyến khích chúng ta đối xử rộng lượng. Nếu chúng ta đối xử rộng lượng với người khác thì bãn thân chúng ta sẽ được Thiên Chúa đối xử rộng lượng gấp bội.

Một tù nhân kể lại rằng: một người trong trại mà ông lấy làm sung sướng nhất mỗi khi được gặp, đó là anh đầu bếp. Khi tới giờ ăn, mỗi tù nhân bưng một cái tô, xếp hàng tới lãnh cháo nơi những anh đầu bếp, hễ gặp người nào mà họ có cảm tình, thì họ sẽ múc cho một tô đầy, còn người nào mà hắn không ưa, thì hắn chỉ múc cho có lưng tô mà thôi. Riêng anh đầu bếp này thì chẳng cần nhìn mặt ai cả, bởi vì ai đưa tô ra, anh cũng đều múc cho đầy.

Tại sao anh đầu bếp này lại làm như thế? Người tù không biết, nhưng chúng ta có thể đoán ra rằng anh đầu bếp này cũng là một tù nhân, trước khai cũng đã phải bưng tô chờ các đầu bếp múc cháo. Một số lần bị múc cho có nửa tô và một số lần được múc cho đầy tô. Nay anh được làm đầu bếp và được trao trách nhiệm múc cho người khác. Anh đã làm theo lời Chúa Giêsu nói: anh em muốn người ta làm gì cho mình,thì hãy làm cho người ta như vậy.

Chúng ta càng mở rộng cửa lòng cho người khác, thì lòng chúng ta càng được mở rộng để đón nhận những ơn ban của Thiên Chúa. Cái đấu chúng ta dùng để đong cho người khác cũng chính là cái đầu Chúa sẽ dùng để đong lại cho chúng ta.

 

53. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

ĐỐI XỬ VỚI CON NGƯỜI

ĐỐI XỬ VỚI THIÊN CHÚA

Dường như người ta đối xử với nhau thế nào thì đối xử với Thiên Chúa cũng như vậy! Ngày xưa, người ta đã đối xử với người tên Yêsu làng Nazarét thế nào, thì đó là điều họ đã đối xử với Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì nếu người anh em họ thấy mà họ không yêu thương thì làm sao họ có thể yêu thương Đấng họ không thấy được (1Ga.4, 20)! “Vì xưa Ta đói ngươi đã cho ăn, Ta khát ngươi đã cho uống… Những gì ngươi làm cho một trong những người bé mọn nhất, là làm cho chính Ta… Những gì ngươi không làm cho những kẻ nghèo hèn nhất, là đã không làm cho chính Ta” (Mt.25, 35.40.45).

Bài đọc thứ nhất trong sách Samuel cho ta thấy cách đối xử rất đẹp của Đavít đối với vua Saolê. Saolê đi lùng bắt giết Đavít, người cô thế cô thân lúc đó; nhưng Đavít đã không giết Saolê khi có dịp. Tại sao? “Vì có ai tra tay hại đấng Đức Chúa xức dầu tấn phong mà vô sự đâu!” Đavít không hạ sát Saolê, vì ông kính sợ Thiên Chúa. Thái độ Đavít đối xử với Saolê, phản ánh thái độ thâm sâu Đavít có đối với Thiên Chúa. Đavít không dám làm trái lệnh Đức Chúa. Đavít không lấy lý trí và lý luận của mình làm tiêu chuẩn hành động, nhưng niềm tin vào Thiên Chúa và cách hiểu về Thiên Chúa. Nếu lấy chính mình là tiêu chuẩn, thì Đavít đã phải giết Saolê vì Saolê đang tìm giết ông, để Saolê sống thì mạng sống Đavít còn bị đe dọa, nên nếu tin vào mình, nếu để tìm sự an toàn theo lý trí mình thì Đavít đã phải giết Saolê. Cách hành xử của Đavít hàm chứa cách đối xử của Đavít đối với Thiên Chúa. Với Đavít, Thiên Chúa là tuyệt đối và là tất cả. Niềm tin và sự an toàn của Đavít tựa trên Thiên Chúa Quyền Năng chứ không dựa trên Đavít với lý trí và sức mạnh của ông.

Đức Yêsu dạy các môn đệ: “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc.6, 27). Tại sao lại phải yêu thương kẻ thù ghét mình? Tại sao lại phải giúp đỡ người không thích mình và tìm cách làm hại mình? Bởi vì nếu mình cư xử như vậy, mình chẳng hơn gì kẻ tội lỗi vì họ cũng làm như vậy! Nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do chính là “hãy nhân từ, hãy yêu thương như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc.6, 36).

Thiên Chúa mời gọi con người sống như Ngài. Ngài là Đấng nhân từ yêu thương, Ngài muốn con cái Ngài sống nhân từ yêu thương như Ngài. Nếu ai không sống như Ngài, thì không phải là con cái Ngài. Yêu thương mọi người và ngay cả kẻ thù ghét mình, không phải là việc phải làm vì đó là mệnh lệnh từ ngoài đối với những người con cái Thiên Chúa nhưng vì đó là bản chất người con cái Thiên Chúa. Đã là người con Thiên Chúa thì sống yêu thương, vì họ không có kẻ thù, theo nghĩa họ không thù ghét ai; nếu có ai thù ghét họ, thì đó là do người đó, chứ họ thì không thù ghét bất cứ ai cả. Như Thiên Chúa là Đấng yêu thương và chỉ biết yêu thương, thì những con cái của Thiên Chúa cũng yêu thương và chỉ biết yêu thương.

Yêu thương thuộc bản chất của những người con cái Thiên Chúa. Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa. Ai yêu thương thì là con cái Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không là con cái Thiên Chúa. Ai thù ghét là con cái ma quỷ, hiểu theo nghĩa, họ đã hành xử như ma quỷ; trong một cuộc tranh luận, Đức Yêsu đã nói với người Do Thái: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian trá” (Ga.8, 44). Yêu thương tha nhân, ở mức độ thứ nhất, là điều phải làm vì đó là giới răn của Thiên Chúa cho con người; nếu mình không thực hiện, mình không làm theo điều Thiên Chúa dạy bảo. Ở mức độ cao hơn, sống yêu thương vì tự bản chất mình thấy mình phải yêu thương; vì mình là con cái Thiên Chúa nên cách hành xử của mình cũng phải giống như cách Thiên Chúa hành xử, nghĩa là sống yêu thương.

Đức Yêsu là người đã yêu thương tất cả mọi người, cả những kẻ giết Ngài. Trên thập giá, Đức Yêsu đã thành khẩn nài xin Thiên Chúa Cha tha cho những kẻ giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34). Đức Yêsu không chỉ dạy, nhưng Ngài đã sống điều mình dạy: “Thầy nói với anh em là những kẻ đang nghe Thầy nói đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho người nguyền rủa anh em, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc.6, 27-28). Đức Yêsu đã không thù hận người làm hại Ngài, mà Ngài còn yêu thương họ, muốn điều tốt lành cho họ. Ai thù hận, thì không được hạnh phúc. Đức Yêsu không thù hận, Ngài luôn yêu thương, Ngài luôn hy vọng, Ngài luôn mong chờ người tội lỗi ăn năn sám hối để họ được bình an. Đức Yêsu tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài cầu xin và chờ mong tất cả nơi Thiên Chúa. Người yêu thương là người luôn chờ mong và hy vọng nơi con người, ngay cả những kẻ theo con mắt người đời không còn đáng tin và chẳng còn hy vọng gì nữa. Chỉ những người yêu thương mới còn sức sống; còn những người không hy vọng gì nơi con người, thì họ sống mà như đã chết, và đối tượng mà người này không hy vọng gì, cũng đã chết đối với họ.

Thánh Têphanô, vị tử đạo tiên khởi của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, cũng đã sống như Thầy mình. Ngài đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv.7, 60). Không thù hận nhưng yêu thương cả những kẻ giết mình, đó là dấu chỉ cho thấy một người đã có cái nhìn và suy nghĩ giống như Đức Yêsu, người con Thiên Chúa đích thực. Bình an hạnh phúc, là tình trạng của người đã được sống trong tình yêu Thiên Chúa, và muốn những điều tốt lành cho tha nhân như chính Thiên Chúa. Khi một người trở nên con Thiên Chúa, suy nghĩ, ao ước như Thiên Chúa, thì Nước Trời đã hiện diện trong lòng họ (Lc.17, 21). Dưới một khía cạnh nào đó có thể nói: thiên đàng đã ở nơi tâm hồn họ.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Đã có khi nào bạn cảm nghiệm bình an hạnh phúc trên đời? Xin chia sẻ nếu được.
  2. Lòng thương cảm, động lòng thương, là dấu chỉ của tình yêu thương như Thiên Chúa muốn. Bạn nghĩ sao về quan điểm này?

 

54. Yêu cả kẻ thù mình – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Sự khôn ngoan đích thực được thể hiện không chủ yếu bằng lời nói nhưng bằng cách sống trong đời sống thường ngày của mỗi người.

Yêu kẻ ghét mình

Đavid bị vua Saul thù ghét, săn đuổi để giết, nhưng Đavid vẫn sống theo Luật Chúa, không hại kẻ Thiên Chúa xức dầu phong vương khi có thể làm điều đó. Dưới cái nhìn nhân loại, Đavid đã hành xử dại dột, bỏ mất một cơ may “nghìn năm một thuở” để khử trừ kẻ thù mình, nhưng Đavid đã chọn Thiên Chúa, không chọn lợi ích trước mắt theo con người. Giữ luật Chúa, là yêu người, và yêu kẻ thù ghét mình.

Chúa Yêsu trong tin mừng theo thánh Luca hôm nay đã dạy: “yêu kẻ thù ngươi, làm điều tốt cho kẻ ghét ngươi, chúc lành cho kẻ nguyền rủa ngươi, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi ngươi… Cho kẻ xin ngươi, đừng đòi lại điều người ta lấy của ngươi, làm cho người khác điều ngươi muốn người khác làm cho mình… Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, không kết án thì sẽ không bị kết án. Tha thứ thì sẽ được tha thứ. Cho thì sẽ được tặng lại… Hãy thương xót như Thiên Chúa Cha là Đấng thương xót”. Nếu mỗi người sống theo những điều Chúa dạy trên, người đó sẽ sống bình an hạnh phúc.

Đức Yêsu là người đã sống trọn vẹn điều Ngài đã dạy. Những người thù ghét Ngài, tìm cách làm hại Ngài, hành hạ Ngài, giết Ngài, Ngài vẫn yêu thương. Trên thập giá Ngài vẫn xin Chúa Cha tha thứ cho họ. Ngài chỉ biết yêu mà thôi.

Không dễ để yêu kẻ ghét mình

Làm sao có thể yêu được kẻ thù ghét mình, luôn nói xấu mình, luôn tìm cách làm hại mình? Nội chuyện nhìn thấy mặt người đó, mình đã cảm thấy khó chịu, làm sao nói đến chuyện yêu người đó, thích người đó?

Yêu có nhiều mức độ, chẳng hạn không ao ước những điều chẳng lành cho họ, không muốn làm hại họ, muốn điều tốt lành cho họ. Về cảm tính, có thể mình không dễ dàng để cười hoặc nói chuyện với họ, nhưng nếu mình cố gắng vượt qua chính mình để nói hoặc cười, là mình đang “yêu” họ đó. Tình yêu không chủ yếu hệ tại cảm tính nhưng do lý trí. Chẳng hạn trong nghi thức bí tích hôn phối, vị đại diện Hội Thánh không điều tra “anh chị có yêu nhau không?”, nhưng “anh chị có tự do không?”, và lời thề hứa không là “yêu nhau” nhưng “sẵn sàng nhận X (hoặc Y) làm chồng (hoặc vợ), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy lúc gian nan cũng như lúc thịnh vượng, để yêu thương và tôn trọng suốt đời”. Yêu thương và tôn trọng ở đây được hiểu như hành vi của lý trí và ý muốn, chứ không phải của cảm tính. Nói như vậy không muốn phủ nhận khía cạnh cảm tính, thân xác của tình yêu.

Con vật chỉ sống theo khuynh chiều của thể xác hay bản năng; con người sống theo lý trí. Sống theo lý trí, không là lừa dối mình, nhưng là sống theo ơn gọi làm người. Nếu lý trí thấy điều nào đó là đúng, là phải làm thì mới là người tốt, thì người ta phải sống theo điều đó dù mình thấy sợ, hay điều đó làm tổn hại về lợi ích vật chất của mình. Khi người ta có khunh chiều xác thịt, và lý trí thấy không được làm như vậy, vì như vậy là sai trái, thì người ta không được làm. Xin Chúa giúp mỗi người nhận ra lời mời gọi vươn lên làm con Chúa, và xin Chúa cho mỗi người có nghị lực để thực hiện những gì Thiên Chúa gợi lên trong tâm trí mình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Yêu kẻ thù ghét mình, được gì và mất gì?
  2. Tại sao Kitô giáo là đạo “yêu thương”?
  3. Xin bạn liệt kê những câu Kinh Thánh nói về yêu thương.

 

55. Cuộc thảo luận tốt về Kitô giáo

Trong cuốn sách tựa đề “We Really Do Need Each Other” (Chúng Ta Rất Cần Nhau), một giáo sư về tôn giáo trình bày một cái nhìn cá nhân những điều mà Chúa Giêsu phán trong Phúc Âm:

Tôi không thể nào mà quên được một buổi chiều khi tôi trở về từ một cuộc tĩnh tâm ở trên núi Sierra. Tôi đang trên đường với khoảng 4 hoặc 5 chiếc xe trước tôi cũng đang xuống núi. Chúng tôi vừa lái vừa ngắm cảnh với tốc độ nhanh hơn khoảng chừng 1 hoặc 2 mile với tốc độc đã được ấn định cho đến khi một viên cảnh sát hú còi kêu chúng tôi dừng lại. Trong đám chúng tôi có năm người, và chúng tôi đều nghĩ rằng đây chỉ là một chuyện dở hơi. Trên sườn núi hiu quạnh này cách xa thành thị đến cả 50 miles, năm tài xế giận dữ và một viên cảnh sát trẻ. Chúng tôi phải đứng ở ngoài trời nóng như đốt, và tức tối bởi vì cái chuyện bất công mà viên cảnh sát đang làm. Khi tôi nhìn thấy viên cảnh sát trẻ đang viết ticket thì đồng thời tôi cũng nhận ra một điều là anh ta đang run. Nhìn kiểu điệu của anh ta tôi nhận ra ngay đây là ‘lính mới’, anh ta đang viết với bàn tay và đôi chân run run. Nhìn thấy anh ta mà sự phản ứng bực bội của tôi đã đổi hẳn. Không phải là bởi vì việc anh ta làm đúng, nhưng là bởi vì thái độ của tôi đối với anh ta đã thay đổi hẳn. Tôi nhìn anh ta không phải như là một kẻ thù, nhưng là một viên cảnh sát trẻ, mới ra nghề, hồi hộp run sợ khi bắt tay làm việc, và muốn làm việc đó cho đúng và mau để khỏi phải phiền phức gì hết.

Anh ta đứng đó, hồi hộp run sợ, tôi biết được cảm nghiệm của anh ta. Ở đằng sau lớp áo cảnh sát của anh chính là một con người sống động.

Đó là một điều tuyệt diệu. Tôi đã học được một vài điều quí giá trên con đường đó, một trong những cái đó chính là không một ai trên đời này là con người vô giá trị.

“Không một ai là người vô giá trị!” Đó là một trong những nguyên tắc chung chung về cách giao tế giữa con người với con người mà nó được bao bọc bằng một chiếc vòng Kitô giáo. Chúng ta thấy điều đó thật là hữu lý. Cũng giống như câu “Hãy yêu thương nhau” và “Yêu thương kẻ thù”, đó là những câu nói mà chúng ta có thể chấp nhận được. Đó là điều mà chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận, và bởi vì nó dễ dàng nên chúng ta lập đi lập lại mỗi ngày Chúa nhật. Nói một cách khác chúng ta có thể ghép những câu ở trên thành một câu, “Không một ai là người vô giá trị… Hãy yêu thương nhau… Hãy yêu thương anh em mình.” Đó là một cách nói chuyện tốt của Kitô giáo.

Mỗi người chúng ta hôm nay đến đây với nhiều lý do. Tôi mong rằng một trong những lý do đó chính là các bạn đến đây để nghe lời Chúa nói với chúng ta qua Phúc Âm và bài giảng.

“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại” (Lk 6:27-30).

Có phải vấn đề Đạo Chúa Kitô được chấp nhận một cách dễ dàng và trọn vẹn chăng? Nói một cách chung chung, mỗi người đang hiện diện trong nhà thờ này là những Kitô hữu tốt và trung thành. Thế nhưng, cũng phải thú nhận là nhiều lần chúng ta vô nhà thờ, ngồi đó bắt chân chéo, nghe Lời Chúa với những chia trí, nhưng không biết đón nhận để đem ra thực hành.

Các bạn tự hỏi mình xem các bạn có phải là những người lắng nghe Lời Chúa theo thói quen hay không? Có phải có cái gì đó ngăn trở các bạn làm cho các bạn không nhận ra giá trị của người khác? Có phải cuộc sống Kitô hữu của các bạn theo thói quen của các bạn thôi chăng?

“Chúa Giêsu yêu tất cả mọi người.” Đó là câu truyện tốt về Kitô giáo. “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em…” Theo bạn, có phải Lời Chúa trong thời gian khó khăn này không còn tác dụng nữa chăng? Hay đó là bằng chứng cho chúng ta thấy rằng chúng ta đã không cố gắng để thi hành Lời Chúa?

Đa số chúng ta mong muốn sống bằng tình yêu, nhưng chỉ một đôi lúc nào đó thôi. Đa số chúng ta còn chưa hết lòng tin rằng tình yêu sẽ tác dụng trên người khác, trừ những người nào yêu thương chúng ta chẳng hạn vợ, chồng, con cái, cha mẹ, hoặc là bạn bè. Đa số chúng ta còn chưa hết lòng nhìn thấy tất cả vũ trụ là chương trình của tình yêu. Đa số chúng ta còn chưa thấy bản nhạc của tình yêu trên thế giới một cách hoàn toàn.

Đây là Chúa Giêsu Kitô, Tình Yêu nhập thể, đã đến để chỉ cho chúng ta: Tình yêu với một mấy chiếc bánh và vài con cá đã nuôi cả hàng ngàn người; tình yêu chữa lành người phong cùi; ban ánh sáng cho kẻ bị mù lòa; ban lại sự sống cho kẻ đã chết. Tất cả là việc làm của Tình Yêu.

 

56. Đừng xét đoán

Xét đoán được ghép bởi hai động từ là xét và đoán. Xét là tìm hiểu, đoán là phỏng chừng. Xét thì khó vì phải tìm hiểu hoàn cảnh, nguyên nhân, phân tích để có sự kiện rõ ràng. Đoán thì dễ hơn, chỉ cần ước lượng là thế, phỏng chừng như vậy, đoán thì dựa trên những điều không đủ chắc, không rõ sự thật. Khi nói xét đoán một người thì có phần xét và có phần đoán. Nhiều khi phần đoán lại nhiều hơn phần xét. Sai lầm nảy sinh từ đó.Ngay cả Đức Khổng Phu Tử cũng có khi xét đoán sai lầm về học trò của mình như trong câu chuyện kể sau đây: Hôm đó, Nhan Hồi nấu cơm dưới bếp, Khổng Tử đọc sách ở nhà trên đối diện với nhà bếp cách một cái sân nhỏ. Đang nằm đọc sách bỗng Khổng Tử nghe tiếng cộp từ nhà bếp vọng lên. Khổng Tử ngừng đọc liếc mắt xuống thấy Nhan Hồi từ từ mở vung lấy đũa xới cơm cho vào nắm tay vo chặt, rồi đậy vung lại và từ từ đưa cơm lên miệng. Mọi hành động của Nhan Hồi không qua mắt Khổng Tử. Thở dài, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than: Chao ôi! học trò đệ nhất của Khổng Tử mà lại ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này ư? Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là nay tan thành mây khói cả! Tröôùc khi aên Khoång Töû hoûi: Hôm nay ngày đầu tiên đến đất Tề, thầy trò ta may mắn có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ, thầy nhớ đến cha mẹ thầy, cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy. Các con tưởng có nên chăng? Nhan Hồi đứng im, các môn sinh đều chắp tay thưa: Thưa thầy nên lắm! Khổng Tử lại nói: Nhưng không biết nồi cơm này có sạch không? Tất cả các học trò đều không hiểu ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ Nhan Hồi chắp tay thưa: Thưa thầy nồi cơm này không được sạch. Khổng Tử hỏi: Tại sao? Nhan Hồi đáp: Thưa thầy, khi cơm chín con đã mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa. Chẳng may một cơn gió thổi tới, bồ hóng và bụi bay vào làm bẩn cả nồi cơ. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đo, con xới cơm bẩn ra định vứt đi. Nhưng con lại nghĩ: cơm thì ít mà anh em thì đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này đi thì vô tình bỏ mất một phần cơm, anh em phải ăn rút lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và anh em, con ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy cùng tất cả anh em. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi, bây giờ con xin phép không ăn nữa, con chỉ ăn phần rau. Và thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa. Nghe Nhan Hồi nói thế, Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời mà than: Chao ôi! thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu đúng sự thật! Suýt tí nữa thì Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!

Đọc xong câu chuyện trên đây chúng ta liên tưởng đến lời Chúa Giêsu dạy “Các con đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán”. Ai đeo kính đen thì nhìn cài gì cũng tối cả. Lưỡi đắng thì ăn cái gì cũng đắng cả.

Đừng xét đoán, đây là lệnh truyền của Chúa. Cần sữa mình trước mới có thể giúp sữa người khác. Không xét đoán trái lẽ, đó là luật yêu thương công bình. Thánh Giuse thấy Đức Mẹ có thai nhưng ngài không xét đoán xấu, ngài chỉ âm thầm ôm lấy nổi đau lặng lẽ ra đi. Nhờ vậy mà ngài đã nên người công chính. Người có lòng mến Chúa, có tâm hồn đơn sơ thì không bao giờ nghĩ xấu cho ai, trái lại họluôn nghĩ tốt, nói tốt về người khác. Thánh Têrêxa Hài Đồng khi thấy chị nào có lỗi thì thường tự bảo mình rằng: chị đó chẳng may lỗi một điều, nhưng biết đâu lại chẳng đã làm được một trăm điều lành mà tôi không thấy. Biết đâu lỗi lầm của chị chỉ là cái màn Chúa dùng để che nhân đức sâu xa của chị.

 

57. Suy niệm của JKN

TINH THẦN CÔNG BẰNG VÀ YÊU THƯƠNG CỦA KITÔ GIÁO

Câu hỏi gợi ý:

  1. Giới bụi đời, dân giang hồ chủ trương «ân đền oán trả», đó có phải là luật công bằng không? luật này có tốt không? Ta đã sống khá hoàn hảo luật này chưa?
  2. Sự công bằng mà Đức Giêsu chủ trương, có phải là công bằng kiểu «ân đền oán trả» không? hay Ngài chủ trương không công bằng? Thứ công bằng của Ngài là công bằng gì?

Suy tư gợi ý:

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Đức Giêsu đưa ra hai cách hành xử: một là hành xử dựa trên luật công bằng không tình thương của phường tội lỗi, và hai là hành xử dựa trên luật yêu thương của người môn đệ Chúa.

  1. Luật công bằng thiếu tình thương của phường tội lỗi

Theo Đức Giêsu, cách hành xử thường tình của những người thu thuế hay phường tội lỗi là «yêu thương kẻ yêu thương mình», «làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình», «cho vay để được trả lại sòng phẳng». Như vậy, dù là người tội lỗi, họ vẫn chủ trương luật công bằng, sòng phẳng, trong cả chuyện yêu thương, nghĩa là ai yêu thương mình, thì mình phải yêu thương lại người ấy. Vì thế, họ chỉ yêu thương người thân hay bạn bè mình mà thôi, vì yêu những người ấy thì họ sẽ được yêu lại. Họ đòi hỏi: «Có qua có lại mới toại lòng nhau».

Một cách tương tự, giới giang hồ, bụi đời ở khắp nơi đều chủ trương «ân đền, oán trả». Mang ơn ai, thì họ nhất quyết phải biết ơn và đền ơn người ấy. Họ gây oán hay làm thiệt hại ai, thì theo luật giang hồ, họ sẵn sàng bồi thường cho người ấy. Còn ai gây oán hay gây bất công cho họ, thì họ cũng sẵn sàng trả thù, nghĩa là phải tạo thiệt hại trở lại một cách tương xứng cho kẻ đã gây thiệt hại cho mình. Họ chủ trương không khác gì luật Cựu ước: «Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết bầm đền vết bầm, vết thương đền vết thương» (Xh 21,24).

Theo Đức Giêsu, phường tội lỗi hay gian ác đều hành xử như thế. Nếu ta cũng hành xử như thế thì ta có hơn gì họ đâu? Còn nếu ta gây bất công, làm thiệt hại người khác mà không đền bù, sống thiếu công bằng (cho dù là thứ công bằng không tình thương), v.v… thì ta còn xấu xa và tệ hại hơn họ nữa. Hạng người tội lỗi mà còn tôn trọng luật công bằng, nếu ta không tôn trọng luật ấy thì ta thật không đáng được gọi là Kitô hữu, là người theo Chúa. Thế mà khá nhiều người lỗi luật công bằng hằng ngày nhưng vẫn vỗ ngực tự hào mình theo Chúa, mình là môn đệ Chúa!

  1. Luật công bằng và yêu thương của người Kitô hữu

Là người Kitô hữu, là môn đệ Đức Giêsu, nếu ta tự cho rằng mình không thuộc hạng người tội lỗi, thì ít ra ta cũng phải giữ được khá hoàn chỉnh những luật mà chính hạng tội lỗi cũng tôn trọng, đó là luật công bằng. Luật công bằng là luật tối thiểu, là luật nền tảng trong xã hội mà chính người xấu cũng chủ trương phải tuân giữ, huống gì những người tự cho mình là tốt.

Nhưng người Kitô hữu không thể tự hài lòng khi mình chỉ giữ được những luật tối thiểu ấy. Đức Giêsu mời gọi những kẻ theo Ngài phải đi xa hơn sự công bằng đó, vì nếu không đi xa hơn thì ta có hơn gì hạng tội lỗi, vì chính họ cũng chủ trương sự công bằng và có thể thực hiện được sự công bằng ấy. Nhưng cho dù có chủ trương và thực hiện được luật ấy, họ vẫn bị liệt vào hàng tội lỗi.

Theo lập luận của Đức Giêsu, nếu ta chỉ giúp đỡ những người mà ta biết họ sẽ giúp đỡ lại ta, chỉ cho vay những ai ta nghĩ là sẽ hoàn trả lại ta, còn nếu cho ai vay mà người ấy không trả được thì ta bực tức, nói xấu, dùng đủ mọi biện pháp để đòi cho bằng được, bất chấp họ bị kẹt, v.v… nếu chỉ hành xử được như thế thì ta tốt hơn hạng tầm thường hay tội lỗi ở chỗ nào? Vì kẻ tầm thường và tội lỗi cũng hành xử y như thế!

Điều quan trọng mà người Kitô hữu – tức những người theo Chúa – phải làm là có tình thương đích thực. Tình thương luôn luôn vượt khỏi sự công bằng thường tình. Nghĩa là: để là một Kitô hữu đích thực, thì một đằng phải luôn giữ luật công bằng một cách hoàn hảo đối với người khác, một đằng phải thực hiện tình thương. Tình thương khiến chúng ta không đòi hỏi những người nghèo khó hơn, những người lâm cảnh khó khăn hơn mình phải giữ sự công bằng như thế đối với mình. Nghĩa là «hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả». Không đòi hỏi như thế không phải là không công bằng, mà là thực hành một thứ công bằng cao hơn: công bằng có tình thương.

  1. Công bằng có tình thương

Công bằng có tình thương khác với thứ công bằng máy móc, là công bằng thiếu tình thương. Thứ công bằng có tình thương là thứ công bằng mà ta vẫn áp dụng trong nội bộ gia đình chúng ta. Trong gia đình, chúng ta có thể tốn rất nhiều tiền cho đứa con tàng tật, tốn cho nó hơn tất cả mọi người khác – vì tiền thuốc thang, vì phải ăn uống cách đặc biệt – đang khi chính nó không làm ra tiền và cũng chẳng làm được gì. Những cha mẹ có tình thương đích thực sẽ thương những đứa con tàn tật hoặc hư đốn một cách đặc biệt và sẵn sàng hy sinh cho chúng nhiều hơn những đứa con khác. Đó chính là công bằng có tình thương, thứ công bằng «làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu».

Phân phát của cải cho người giầu và người nghèo, người cần ít và người cần nhiều, theo cùng một tiêu chuẩn như nhau, thì đúng là công bằng, nhưng là một thứ công bằng thiếu tình thương, và một cách nào đó không hợp lý. Người giầu mà đòi người nghèo cũng phải sòng phẳng với mình trong vấn đề vật chất tiền bạc, thì đúng là theo luật công bằng, nhưng không phải là thứ công bằng mà Đức Giêsu chủ trương. Ngài chủ trương: «Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy».

Có những chế độ xã hội chủ trương thứ công bằng này – là «làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu» – nhưng không thực hiện nổi. Chính Đức Giêsu Chúa chúng ta cũng chủ trương thứ công bằng này khi tuyên bố: «Khi đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế bạn mới thật có phúc» (Lc 14,13-14). Vì thế, đây là thách đố đối với người Kitô hữu. Nếu chúng ta không thực hiện nổi thứ công bằng này trong đời sống chúng ta – ít nhất là giữa Kitô hữu với nhau, hay ít hơn nữa là giữa đám thân nhân bạn bè thân quen của mình – thì một cách nào đó, chúng ta đang chứng tỏ điều Đức Giêsu chủ trương cũng không tưởng như chủ trương của những chế độ xã hội không tưởng kia.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con vẫn tự hào mình là Kitô hữu, nhưng rất nhiều khi con lại chủ trương và ủng hộ một thứ công bằng không tình thương. Xin cho con một trái tim bằng thịt biết yêu thương, để con sống công bằng với mọi người, nhưng là thứ công bằng có tình thương, thứ công bằng mà Đức Giêsu chủ trương như trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

58. Hãy đối xử nhân từ – Lm. Trần Bình Trọng

Theo khuynh hướng đổi chác tự nhiên của loài người, thì ai làm ơn cho mình, mình nên trả ơn cho họ; ai ghét mình, mình phải ghét lại; ai chửi mình, mình phải chửi lại họ. Theo luật công bình cũng vậy. Luật công bình trong Cựu ước đòi: mắt đền mắt; răng đền răng. Điều đó có nghĩa là ai móc mắt mình, mình có quyền móc lại mắt họ, và ai bẻ gẫy răng mình, mình có quyền bẻ lại răng họ, Luật cônh bình trong xã hội hiện tại cũng vậy. Người phạm pháp phải bị kết án tuỳ theo tội nặng nhe họ đã phạm.

Vì thế mà lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay phải yêu kẻ thù có thể trở thành đề tài cho người đời nhạo báng. Làm sao người ta có thể yêu kẻ thù? Ai lại nhu nhược đến nỗi theo lời Chúa dạy khi người khác vả má này, mình lại đưa cả má kia cho họ vả. Ai lại khờ dại đến nỗi khi người khác lấy áo ngoài, lại cho cả áo trong. Ai lại vô tư đến nỗi khi người khác lấy gì của mình, mình không đòi lại. Trong cái xã hội hưởng thụ và tranh sống, cái nguyên tắc yêu vô vị lợi của Chúa xem ra như là một giáo lý không tưởng, xa lạ với cuộc sống thực tế.

Chúa đến dạy ta luật từ bi, nhân hậu và bác ái thay vì luật báo thù báo oán. Nếu chỉ nghĩ đến chuyện tư lợi, trao đổi và đề đáp, thì đó là đổi chác và thương mại. Chúa nhận xét: Nếu anh em yêu những kẻ yêu thương mình,.. làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình,.. cho vay mà hi vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa, ngay cả người tội lỗi cũng làm như vậy (Lc 6:32-34). Và rồi Chúa bảo: Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hi vọng được đền trả (Lc 6:35). Và Chúa bảo thêm: Anh em hãy có lòng nhân từ, … Anh em đừng xét đoán, … Anh em đừng lên án, … Anh em hãy tha thứ, … Anh em hãy cho, … (Lc 6:36-38).

Hôm nay ta cần nhận thức rằng xét đoán là quyền của Chúa, và chỉ có Chúa là Đấng phán xét công minh, vì Chúa thấu suốt tâm hồn của mỗi người. Khi ta đoạt lấy quyền xét đoán của Chúa, thì cái xét đoán của ta rất dễ bị sai lầm. Ngay cả tại tòa án dân sự, mặc dầu có luật sư biện hộ cho can phạm, chánh án và bồi thẩm đoàn cũng sai lầm. Theo hiệp hội tranh đấu cho tự do nhân quyền ở Hoa ky, thì từ năm 1900 tới 1992, có 25 người bị hành quyết oan, vì toà kết án lầm và 318 người bị tù cũng vì toà án lầm lẫn. Trước toà án lương tâm của mỗi người, biết bao lần ta cũng kết án người khác cách vô căn cớ. Tệ hơn nữa ta còn kết án người khác là xấu thay vì chỉ kết cái cái hành động xấu của họ. Hành động xấu của một người có thể chỉ xẩy ra một lần vì yếu đuối hay vì bệnh hoạn. Ta kết án người khác nhiều khi chỉ dựa trên một lời nói, một cử chỉ hay một hành động của họ, thay vì dựa trên toàn diện con người của họ và dựa trên tất cả các công việc làm của họ.

Nguyên tắc từ bi, nhân hậu, bác ái của Chúa dạy ta tránh việc phê bình, xét đoán. Tuy nhiên trong cuộc sống hằng ngày, ta vẫn phê bình, chỉ trích và xét đoán. Vậy có lẽ ta cần tìm ra cái căn nguyên cội rễ của việc tại sao có chuyện phê bình, xét đoán vô cớ. Tìm ra cái căn nguyên cội rễ của việc hay phê bình chỉ trích vá xét đoán vô căn cớ là bước khởi đầu cho việc chữa trị tính xét đoán. Sở dĩ người ta phê bình, chỉ trích, xét đoán có thể là để che đậy những cái chướng, những khuyết điểm và thất bại của mình để đánh lạc hướng người khác về mình. Và đó là một hình thức tự vệ.

Sống đức ái chân thực như lời Chúa phán là cái thước đo cái mối liên hệ của mỗi người với Chúa, thước đo mức độ đời sống thiêng liêng của mỗi người. Ta không thể trở nên môn đệ đích thực của Chúa, nếu giáo lý về đức ái chân thực của Chúa không ăn nhập gì đến cuộc sống hiện tại của mỗi người.

 

59. Yêu người như Chúa

(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô quang Kiệt)

Bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay đều nói về sự tha thứ. Nhưng ở mức độ khác nhau.

Bài đọc I tường thuật sự tha thứ của Đa-vít. Đa-vít làm ơn mà mắc oán. Sau khi chiến thắng Gô-li-át, giải phóng dân Do thái khỏi tay người Phi-li-stinh, ông được dân chúng ca ngợi. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối với Đa-vít khiến vua Sa-un ghen tỵ. Sa-un tìm bắt Đa-vít để giết đi. Hôm nay, sau một cuộc săn lùng mệt mỏi, Sa-un ngủ thiếp đi trong hang đá. Đa-vít đến mà không ai hay biết. Có thể giết Sa-un, nhưng Đa-vít đã không làm. Trong Đa-vít có cái mà ta gọi là bao dung, độ lượng, cao thượng. Tuy nhiên sự tha thứ của Đa-vít vẫn chưa hoàn toàn tự phát. Ông không dám giết Sa-un một phần vì sợ xúc phạm đến “người được Thiên chúa xức dầu”.

Trong quan hệ giữa người với người, nếu tha thứ bạn sẽ được tiếng là độ lượng, còn người được tha thứ bị coi là thua kém bạn. Bạn được lợi còn người kia bị thiệt.

Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải vượt qua cái thường tình. Người muốn môn đệ vươn đến sự tha thứ hoàn hảo. Sự tha thứ hoàn hảo của Tin mừng phải biểu lộ bằng hành động cụ thể: “Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản họ lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại”.

Không chỉ dừng lại ở hành động bên ngoài, sự tha thứ hoàn hảo phải thấm sâu vào lý trí, không lấy ác báo ác, nhưng cũng không nghĩ xấu về người khác: “Anh em đừng xét đoán, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa lên án”.

Thấm vào lý trí đã là một bước tiến dài nhưng vẫn chưa đủ, sự tha thứ còn phải lan đến tận trái tim là trung tâm của tình yêu. Khi đã chiếm lĩnh được trái tim, sự tha thứ trở nên một sức mạnh kỳ diệu dẫn đến những hành động tích cực, lấy đức báo oán, đem yêu thương xoá bỏ hận thù. Khi ấy ta mới có thể thực hành Lời Chúa dạy: “Anh em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình, phải chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.

Với những lời dạy dỗ trên, Đức Giêsu muốn cho môn đệ của Người tha thứ và yêu thương không phải như người thường nhưng như Thiên Chúa “Người nhân hậu cả với những phường vô ân, với những quân độc ác”. Người muốn cho các môn đệ của Người “từ bi như Cha trên trời là Đấng từ bi”.

Với những lời dạy dỗ trên, Đức Giêsu muốn thanh tẩy thế giới sạch mọi oán thù. Không phải chỉ sạch oán thù ngoài mặt nhưng sạch từ trong thâm tâm mỗi người. Không phải chỉ bằng mặt mà còn phải bằng lòng. Sào huyệt vững chắc nhất của oán thù không phải ở nơi người khác nhưng ở trong lòng ta. Muốn thế giới hết oán thù, chính bản thân ta phải từ bỏ oán thù trước. Muốn thế giới sống trong yêu thương, chính ta phải yêu thương trước. Yêu thương giống như ngọn lửa thắp lên rồi sẽ cháy lan mạnh mẽ. Yêu thương giống như bầu khí toả ra sẽ lan tới từng buồng phổi, sẽ thấm vào từng mạch máu. Yêu thương chính là sức mạnh biến đổi thế giới sâu xa nhất. Yêu thương là cuộc cách mạng bền vững nhất.

Đức Giêsu không chỉ nói suông. Chính Người đã thực hành những điều Người nhắn nhủ các môn đệ. Người để cho quân lính bắt đi như con chiên hiền lành đứng trước người thợ xén lông. Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người. Người không nói một lời nào trách móc những kẻ làm điều ác cho Người. Sau cùng, lúc bị treo trên thánh giá, Người còn cầu nguyện cho những kẻ giết Người. Người đã minh chứng một tình yêu nguyên tuyền không bợn chút oán thù. Người đã minh chứng một tình yêu mãnh liệt vượt qua mọi ghen ghét.

Hạt giống yêu thương Người đã gieo xuống. Người mong ta tiếp tục vun tưới cho cây yêu thương kết trái đơm hoa. Ngọn lửa yêu thương Người đã thắp lên. Người mong ta hãy đem lửa ấy chiếu soi khắp thế giới.

Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1- Khi có người xúc phạm đến bạn, bạn thường tìm cách báo thù hay tìm cách tha thứ?

2- Mỗi khi mang mối oán thù trong lòng, bạn cảm thấy thế nào? Thanh thản hay bứt rứt?

3- Bạn đã tha thứ cho ai bao giờ chưa? Bạn cảm thấy thế nào sau khi đã tha thứ?

4- Bạn đã được tha thứ nhiều. Bạn cảm thấy thế nào mỗi khi lầm lỗi mà được tha thứ?

 

60. Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 7 Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thương yêu hết mọi người, ngay cả kẻ thù nữa.

1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23:

Đa-vít có cơ hội thuận tiện để giết vua Sa-un, kẻ đã truy sát mình, nhưng Đa-vít đã tha chết cho vua bởi vì ông tin làm như thế là chống lại với người được Thiên Chúa xức dầu tấn phong.

1Cr 15: 45-49:

Thánh Phao-lô so sánh A-đam với Đức Ki-tô. Nhờ A-đam, chúng ta được sự sống tự nhiên; nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng.

Lc 6: 27-38:

Đức Giê-su nhấn mạnh đến bổn phận yêu thương kẻ thù và những trách nhiệm của đức ái huynh đệ.

BÀI ĐỌC I (1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23)

Sách Sa-mu-en quyển một là một tác phẩm quan trọng đặc biệt vì sách ghi lại bước ngoặc “lịch sử” đã dẫn đưa dân Ít-ra-en lần từng bước từ “thể chế các thủ lãnh” sang “thể chế các vua”. Ba vĩ nhân thống trị tất cả mọi biến cố của giai đoạn lịch sử này là ngôn sứ Sa-mu-en, vua Sa-un và vua Đa-vít.

  1. Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất:

Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất trong toàn bộ lịch sử Ít-ra-en. Ông có tất cả những nét quyến rũ của những anh hùng huyền thoại. Ông khôi ngô tuấn tú: “Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1Sm 16: 12); nghệ sĩ đàn hạc (1Sm 16: 16, 23); dũng cảm đến độ liều lĩnh (1Sm 17: 34-36, 40t; 18: 6-9, 26-27); không biết mệt mõi, hiếu động, nhất là sau khi đã phải trốn chạy khỏi triều đình Sa-un, ông sống cuộc sống phiêu bạt rày đây mai đó (1Sm 21-30).

  1. Đa-vít có tấm lòng khoan dung nhân từ:

Sách Sa-mu-en quyển một kể cho chúng ta một trong những câu chuyện Đa-vít phải rời bỏ triều đình vua Sa-un mà trốn chạy khỏi sự truy sát của vua Sa-un. Vua Sa-un dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng bắt Đa-vít. Một đêm, vua Sa-un ngủ mê miệt trong trại thì Đa-vít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đa-vít thấy đây là một dịp may hiếm có nên xúi Đa-vít giết chết vua Sa-un. Nhưng Đa-vít không nghe theo. Ông chỉ lấy cây giáo của Sa-un rồi sang phía bên kia hô lớn bảo vua Sa-un thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Sa-un cảm động và phải thừa nhận Đa-vít là người sau này sẽ hoàn thành nghiệp lớn.

BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 45-49)

  1. Nhờ A-đam, chúng ta có được sự sống tự nhiên:

Một lần nữa thánh Phao-lô chú ý đến A-đam (x. 15: 22-23). Cách thức chúng ta sống hiện nay, bản chất hiện nay, hình dáng, vẻ bên ngoài của chúng ta (“thân thể” của chúng ta) được tạo dựng theo khuôn mẫu của A-đam. Chúng ta được tạo nên hình thể từ đất nhưng chúng ta sống nhờ hơi thở mà Thiên Chúa thổi vào chúng ta. Chúng ta là một “sinh linh” (St 2: 7); chúng ta là một “thân thể có sinh khí” (1Cr 15: 44). Thân thể này có những đặc tính của một thân thể địa giới: kiếp sống phàm nhân phải chết, hèn hạ và yếu đuối (15: 42-43). Chúng ta ghi nhận rằng ở dây thánh Phao-lô trở lại quan điểm Kinh Thánh cựu trào hơn, khi nối kết cái chết với thân phận con người chứ không với tội lỗi.

  1. Nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng:

Trái lại, nhờ Đức Ki-tô phục sinh, người Ki-tô hữu có được sự sống thần thiêng (15: 45). Thân thể của Ngài từ “trời mà đến” (15: 40), chứ không từ đất mà ra, vì thế là “thân thể có thần khí” (15: 44). Thân thể sống lại của chúng ta sẽ không là thân thể có sinh khí, nhưng thân thể có mối liên hệ với Thần Khí Thiên Chúa. Thân thể chúng ta sẽ không giống như mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, nhưng giống như thân thể của Đức Ki-tô phục sinh (15: 49), vì chúng ta được thông phần sự sống của Ngài.

Khi gọi Đức Ki-tô là “A-đam cuối cùng” (15: 45), thánh Phao-lô công bố rằng Ngài là người đầu tiên khai mở mục đích tối hậu của lịch sử. Thánh nhân cũng công bố rằng A-đam đầu tiên dự kiến A-đam sau cùng: con người, như mục đích tự nhiên của mình, phải mang hình ảnh của Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Lc 6: 27-38)

Tin Mừng hôm nay áp dụng “Các Mối Phúc và các Mối Họa” của Tin Mừng tuần trước vào cuộc sống cụ thể của con người. Tin Mừng bắt đầu với lời của Đức Giê-su: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây” (6: 27) nhắc nhớ đến đám thính giả vây quanh Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và để được chữa lành bệnh tật (6: 17-19).

1.Yêu thương kẻ thù (6: 27-35):

Sau các Mối Phúc ngỏ lời với những người bị đè bẹp trong cuộc sống và các Mối Họa được gởi đến cho những người chỉ coi sự giàu sang phú quý như cứu cánh cuộc đời mình, thì phần này mở ra và đóng lại với huấn lệnh “hãy yêu thương kẻ thù” (6: 27 và 6: 35). Những kẻ thù ở đây được nhận dạng qua những hành vi họ làm: “nguyền rủa anh em” và “vu khống anh em” (6: 28), đó là những kẻ bách hại các Ki-tô hữu đã được nói đến ở Mối Phúc thứ tư (6: 22).

Ở trung tâm của phân đoạn này là luật vàng: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (6: 31). Luật này được giải thích bởi những huấn lệnh vây quanh, trước hết những huấn lệnh thuộc thể truyền lệnh ở ngôi thứ hai số ít: “Anh” (6: 29-30) và sau đó những mệnh lệnh thuộc thể điều kiện ở ngôi thứ hai số nhiều: “Anh em” (6: 32-34). Hình ảnh đưa cả má bên kia cho người ta tát và trao luôn cả áo trong cho kẻ khác, xin thì cho, lấy thì đừng đòi lại, đó là một thái độ bất bạo động không tìm cách chống cự lại kẻ ác. Để ý đến việc chuyển từ ngôi thứ hai số ít sang ngôi thứ hai số nhiều gợi lên sự vượt quá tương quan liên bản vị. Như thế luật vàng được trình bày một cách tích cực: tính hỗ tương mà luật này phải dựa vào: làm cho người khác điều thiện mà mình muốn người khác làm cho mình được xác định trong các câu 29-30, ngay cả vượt qua trong các câu 32-34. Thực vậy, ba câu hỏi nhắc lại rằng chỉ có việc không tính toán, không cho để được cho lại, hoàn toàn vô vị lợi mới phân biệt cách ăn nếp ở của người tín hữu với cách ăn nếp ở của những người tội lỗi, những người này cũng biết nhân ái đối với những ai đối xử với họ như vậy. Trong phân đoạn này, thính giả được mời gọi hằng ngày phải vượt qua chính mình, phải sáng tạo để “làm điều thiện” cho tha nhân, nhất là cho những kẻ không muốn làm điều thiện cho mình.

Tất cả những thực hành trên phải được hiểu theo quan điểm của cặp đóng khung (6: 27 và 35): lòng yêu thương đối với kẻ thù được đòi hỏi cách triệt để ở đây. Những thực hành như thế không mong được đền ơn đáp nghĩa nào trên bình diện con người; nếu có đó chỉ là phần được ban mà thôi. Người tín hữu chỉ trông chờ lời đáp của Thiên Chúa. Đáp lại ba hành vi phục vụ người khác (6: 35a) là phần thưởng đến từ Thiên Chúa (6: 35b). Ở đây cũng như Mt 5: 9, 45, chính trên cơ sở những tương quan liên vị mà người tín hữu được đồng hóa với Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa. “Ở nơi việc yêu thương kẻ thù chiếu sáng trong chúng ta họa ảnh của Thiên Chúa, Cha chúng ta, Ngài, qua cái chết của Con của Ngài, đã chuộc lại khỏi sự hư mất đời đời và hòa giải với Ngài nòi giống con người, trước đây vốn đã không thân thiện và thù ghét Ngài” (St Pius V Catechism, IV, 14, 19).

  1. Phải có lòng nhân từ (6: 36-38)

Lời mời gọi của Đức Giê-su: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, là câu then chốt của đoạn Tin Mừng này, tức lả “bắt chước Thiên Chúa”, như Fray Luis giải thích: “Phẩm chất đầu tiên của nhân đức này chính là nó làm cho con người nên giống Thiên Chúa và giống đức tính vinh quang nhất ở nơi Người, lòng từ bi nhận hậu của Ngài (Lc 6: 36). Vì chắc chắn sự hoàn thiện bậc nhất một thọ tạo có thể có là phải nên giống Đấng Tạo Hóa của mình; và càng nên giống Người, càng nên hoàn thiện” (Book of Prayer and Meditation, third part, third treatise).

Khuôn mẫu của lòng nhân từ mà Đức Giê-su phô bày trước chúng ta là chính Thiên Chúa, Đấng mà thánh Phao-lô nói về Người: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn năng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2Cr 1: 3-4). Đức Pi-ô X dạy rằng “Đây là luật mà một người Ki-tô hữu phải áp dụng: phải có lòng nhân từ đối với những ai lâm cảnh gian nan khốn khó như thử chính chúng ta, và cố gắng chữa trị họ. Giáo Hội công bố luật này khi cho chúng ta một loạt những công việc vật chất đầy lòng nhân ái như thăm viếng và săn sóc bệnh nhân, cho người đói khát của ăn thức uống… và những công việc tinh thần đầy lòng nhân ái như dạy những người thất học, sửa lỗi người bị lầm lạc, tha thứ những xúc phạm…”(Catechism, 944t.).

Như vậy, những câu 37-38 cũng minh họa điều mà lòng nhân ái phát sinh. Bằng bốn ý tưởng: hai câu phủ định: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án”, và hai câu khẳng định: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại”, Chúa Giê-su kêu gọi đừng phê phán người khác, đừng giam hãm người ta mãi mãi theo cách đánh giá chắc chắn như đinh đóng cột. Người tín hữu không có thể thay thế Thiên Chúa để lên án người khác, cũng không muốn người khác đối xử với mình như vậy, đấy là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi: rốt cuộc chính Ngài sẽ xét xử, sẽ lên án hay tha thứ, sẽ ban ơn dư dật. Cách hành xử của tôi đối với người khác như thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ cư xử với tôi như vậy.

 Chúng ta đã đọc trong Kinh Thánh chuyện tích bà góa xứ Xa-rếp-ta, bà mà Thiên Chúa đã truyền nuôi ngôn sứ Ê-li-a thậm chí dù chỉ với một nắm bột còn lại trong hũ và chút dầu còn lại trong vò. Ấy vậy, Người đã thưởng cho tấm lòng quảng đại của bà với một hũ bột không vơi và vò dầu không cạn (1V 17: 9tt.). Sự việc cũng đã xảy ra như thế khi một cậu bé đã sẵn lòng dâng hiến năm chiếc lúa mạch và hai con cá cho Đức Giê-su mà Người hóa nhiều để nuôi một đám đông dân chúng (x. Ga 6: 9). Đây là hai ví dụ sống động về điều Thiên Chúa làm khi chúng ta cho Ngài điều chúng ta có, ngay cả nếu quà tặng của chúng ta chẳng là bao nhiêu. Thiên Chúa không để cho ai đó vượt qua mình về tấm lòng quảng đại: “Hãy đến với Người với lòng quảng đại và hỏi Người như trẻ thơ: Còn gì mà Chúa không cho con khi Chúa đã đòi con ‘điều này’?” (Bl. J. Escriva, Con Đường, 153). Chúng ta cho Thiên Chúa bao nhiêu trong cuộc đời này, Ngài sẽ cho chúng ta bấy nhiêu, thậm chí còn nhiều hơn trong cuộc đời mai sau.

  1. Không thỏa hiệp với sự gian ác:

Tuy nhiên, việc từ chối xét đoán người khác không đồng nghĩa với thái độ dửng dưng với điều chân và thiện. Đôi khi, trong hoàn cảnh mà kẻ gian ác là người có thế lực và quyền hành, viện cứ yêu thương kẻ thù mà từ chối xét đoán lại trở nên đồng lõa với hành động của kẻ gian ác. Đó không là đức ái mà Đức Giê-su đã dạy, như lời dạy của Công Đồng Vatican II: “Thực ra, đức ái và lòng nhân hậu này không bao giờ cho phép chúng ta trở nên dửng dưng với điều chân và thiện. Hơn thế nữa, chính đức ái thúc bách các môn đệ Chúa Ki-tô loan báo cho mọi người chân lý cứu rỗi. Nhưng phải phân biệt lầm lỗi, điều luôn luôn phải loại bỏ, với người lầm lỗi vì người lầm lỗi vẫn còn giữ được nhân phẩm, ngay cả khi họ có những ý niệm sai lầm hoặc hơi lệch lạc về tôn giáo. Chỉ có mình Thiên Chúa là quan tòa và là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn: bởi vậy Ngài ngăn cấm chúng ta xét đoán tội lỗi bên trong của bất cứ người nào” (Gaudium et spes, 28).

 

61. Chú giải của William Barclay

Luật Vàng

Không có giới răn nào của Chúa Giêsu gây nhiều tranh luận bàn cãi cho bằng giới răn dạy yêu kẻ thù mình. Trước khi có thể vâng giữ luật đó, chúng ta phải tìm hiếu ý nghĩa của nó. Ngôn ngữ Hy Lạp có ba từ dùng chỉ yêu thương. Có danh từ “eran” diễn tả ái tình xác thịt, như nam yêu nữ. Có từ “philein” diễn tả tình yêu đối với người thân thuộc, gần gũi, một tình yêu đằm thắm. Cả hai từ này đều không được dùng ở đây. Chữ dùng ở đây là “agapan” mà chúng ta phải phiên dịch khá dài dòng.

Agapan diễn tả một cảm thức của lòng trắc ẩn mạnh mẽ đối với nhưng không, nó có nghĩa là mặc dù người đó cư xử tệ, xấu thế nào đi nữa, chúng ta cũng chỉ mong ước cho người đó được hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta sẽ tình nguyện và quyết tâm hy sinh để ăn ở tử tế nhân từ với người đó. Điều này rất có ý nghĩa, chúng ta không thể yêu kẻ thù như yêu những người thân thuộc nhất của chúng ta, vì như thế là phản tự nhiên, không thể có được. Nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng, bất kể người nào đó làm gì với chúng ta, dù họ làm nhục chúng ta, bạc đãi, làm tổn thương chúng ta, thì chúng ta vẫn cứ làm điều tốt lành cho họ. Điều nảy sinh từ chỗ này là tình yêu của chúng ta đối với người thân thuộc là điều tất yếu tự nhiên không tránh được. Chúng ta nói đến sự “phải lòng”, đó là một sự việc xảy đến cho chúng ta. Nhưng tình yêu đối với kẻ thù không những là một việc của trái tim, mà còn là việc của ý chí nữa. Đó là một việc mà nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ thực hiện được.

Đoạn Kinh Thánh này gồm hai thực tại lớn về nền luân lý Kitô giáo:

  1. Luân lý Kitô giáo là tích cực. Nó không bao gồm những việc cấm, mà nói đến những việc phải làm. Chúa Giêsu ban cho chúng ta Luật Vàng này: chúng ta hãy làm cho kẻ khác y như chúng ta muốn người khác làm cho mình vậy. Luật này thấy trong những bài học của nhiều tác giả dưới hình thức tiêu cực. Hillel một trong những rapbi nổi tiếng của Do Thái, đã trả lời hco người xin ông dạy cho tất cả Lề Luật chỉ trong thời gian anh ta có thể đứng cò một chân, ông bảo: “Điều chi đáng ghét cho người thì ngươi đừng làm cho người khác, đó là tất cả Lề Luật, các sự khác chỉ là giải thích”. Philo, một vĩ nhân Do Thái tại Alexandria đã nói “Điều gì anh ghét chịu đựng thì đừng làm cho bất cứ ai”. Isocrates, một nhà hùng biện Hy Lạp nói: “Những gì khiến anh bực bội bởi tay kẻ khác gây ra, thì đừng làm những sự ấy cho kẻ khác”. Các triết gia thuộc phải Khắc Kỷ có một luật căn bản là: “Điều gì anh không muốn kẻ khác làm cho anh thì anh đừng làm cho ai khác”. Khi có người hỏi Đức Khổng Tử rằng: “Có lời nào có thể làm luật thực tiễn cho cả dao con người không?”. Ông trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”.

Các hình thức trên đều là tiêu cực. Không phải dễ khi giữ mình đừng làm các việc đó, và càng vô cùng khó khi chúng ta phải ép mình để làm cho kẻ khác điều mà chúng ta muốn họ làm cho mình. Chính bản chất của luân lý Kitô giáo là không phải chỉ không làm điều xấu, nhưng phải tích cực làm điều tốt.

  1. Luân lý Kitô giáo đặt nền tảng trên điều vượt mức bình thường. Chúa Giêsu nhắc lại đường lối chung của đời sống rồi Ngài loại bỏ tất cả bằng câu hỏi: “Đieù đó có hơn gì?”. Thường thì người ta khoe mình cũng tốt như những người chung quanh. Rất có thể họ đúng như vậy. Nhưng Chúa Giêsu hỏi: “Ngươi tốt hơn người thường được bao nhiêu?”. Tiêu chuẩn để chúng ta so sánh không phải là với người lân cận, có thể chúng ta bằng họ. Nhưng chúng ta phải so sánh mình với tiêu chuẩn của Chúa, và như vậy, chúng ta còn xa lắm với tiêu chuẩn của Ngài.
  2. Lý do cho lối sống Kitô giáo là gì? Là để chúng ta được nên giống như Chúa, vì đó là ý muốn của Chúa trong các hoạt động của Ngài. Chúa khiến mưa xuống trên kẻ lành và kẻ dữ. Chúa nhân từ đối với kẻ làm vui lòng Ngài mà cũng nhân từ đối với kẻ làm buồn lòng Ngài. Tình yêu của Chúa ôm ấp thánh nhân cũng như tội nhân. Chúng ta phải noi gương mẫu tình yêu đó. Nếu chúng ta cũng tìm ích lợi nhất cho kẻ thù, thì chúng ta mới thực sự là con cái Chúa.

Câu 38 nghe có vẻ lạ “họ… mà đổ vào vạt áo anh em”. Người Do Thái mặc chiếc áo dài rộng xuống tới gót chân và thắt một đai ở ngang hông. Khi kéo áo lên cao, người ta có thể để được nhiều thứ ở phần bên trên. Theo ý đó, ngày nay chúng ta sẽ nói “người ta sẽ đổ đầy túi ngươi”.

 

62. Tha thứ sẽ được thứ tha

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

“Hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình”. Đây là lệnh truyền của Đức Giêsu và là nội dung của Luật Thiên Chúa. Khi sống theo tinh thần này của Đức Giêsu, chúng ta đã đi vào cốt lõi của tình yêu, bởi vì nếu yêu thì đâu còn ranh giới giữa bạn và thù!

Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ của mình yêu thương kẻ thù. Lấy cái thiện mà thắng cái ác.

Đức Giêsu không chấp nhận sự dữ, lòng gian ác, cũng như tội lỗi. Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài loại bỏ họ, vì sứ mạng của Ngài đến để cứu người tội lỗi ra khỏi sự gian ác, biến người tội lỗi thành người công chính. Điều này đã được chứng minh qua hình ảnh nhân từ của Đức Giêsu với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, hay như Giakêu, người thu thuế, như Phêrô kẻ chối Chúa, như người trộm lành bị đóng đinh cùng… Đỉnh cao của sự tha thứ chính là lời cầu xin Chúa Cha tha tội cho kẻ giết mình.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta một định luật căn bản rằng: muốn được yêu thế nào thì hãy yêu người khác như vậy. Ai lại không muốn được kẻ khác yêu thương? Ai lại muốn kẻ khác ghét mình bao giờ?

Nếu yêu được cả kẻ thù thì hẳn sẽ không còn chuyện mắt đền mắt, răng đền răng… Không còn ranh giới giữa bạn và thù, không còn chuyện phe tả phe hữu. Đồng thời, khi có tình yêu với ngay cả kẻ thù, chúng ta sẽ không rơi vào tình trạng mong muốn ơn huệ theo kiểu có qua có lại như: “Ông mất chân giò, bà thò nậm rượu”. Mặt khác, chúng ta sẽ dễ vượt qua chuyện xét đoán, vì ý thức rằng mình cũng đâu hơn gì người khác, thế mà mình đã được Chúa yêu thương bỏ qua, đến lượt mình, hãy tha thứ để được thứ tha, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm cho chúng con, để chúng con sẵn sàng đi vào và sống tận căn của Lề Luật, đó là yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét chúng con. Xin cũng cho chúng con hiểu rằng, đây là điều kiện cần để được Thiên Chúa thứ tha. Amen.

 

63. Chú giải của Noel Quesson

Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.

Điều hoàn toàn mới mẻ của Tin Mừng nằm trong các lệnh truyền mà Đức Giêsu ban cho những người chấp –nhận lắng nghe người. Đặc tính của đạo Đức Kitô giáo không chỉ là yêu thương bởi vì mọi đạo Đức của cqn người đều đòi hỏi điều đó mà là yêu “kẻ thù của chúng ta”. Đây là một tình yêu thương phổ quát không loại trừ một ai.

Từ “kẻ thù mà Đức Giêsu sử dụng là một từ rất mạnh có nguy cơ bị hiểu sai. Người ta thoáng nghe nói “Tôi không có kẻ thừ’. Vả lại Đức Giêsu đã cẩn thận đưa ra các ví dụ không hạn chế về kẻ thù: Những ai ghét tôi… những ai nói xấu tôi… những ai vu khống tôi… Và để nắm hết mọi tâm mức của đạo đức Tin Mừng, chúng ta phải hiện thực hóa từ ngữ “kẻ thù”.

Trên bình diện cá nhân: Đức Giêsu đòi tôi phải yêu thương những ai phê bình tôi… những ai chọc tức tôi… những ai không đồng ý với tôi… những ai công kích tôi bằng mọi cách suy nghĩ, phục sức, cầu nguyện, bỏ phiếu của họ…

Trên bình diện của nhóm và môi trường tôi sống: Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người yêu mến những ai là kẻ thù của nhóm các môn đệ, những người bách hại, những người chống đối, những hạng người và nhóm người không suy nghĩ như tôi.

Quả là một cuộc cách mạng to lớn trên thế giới, nếu mỗi Kitô hữu bắt đầu thực hiện thật sự điều Đức Giêsu đã nói chúng ta phải làm!

Trước khi đi xa hơn trong bài đọc và suy niệm của tôi tôi dừng lại một lúc để đặt những cái tên và những khuôn mặt vào những lời này của Tin Mừng và để cầu mong điều tốt lành, để cầu nguyện thật sự… cho họ.

Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại.

Sau những thái độ “nội tâm”, luôn luôn đứng đầu trong quan điểm của Đức Giêsu, giờ đây là những thái độ bên ngoài” và là hậu quả cụ thể của thái độ nội tâm. Lòng yêu thương kẻ thù phải đi đến những hành động tích cực đối với họ.

Nhưng cùng với những nhà chú giải, chúng ta hãy quan niệm rằng Đức Giêsu không ban bố một luật pháp gồm bốn điểm về “cái và”, “áo ngoài”, “sự: xin xỏ”, sự “lấy trộm”… Thật vậy, ở đây chúng ta có những ví dụ nhằm minh họa một cách hành động hoàn toàn mới. Những ví dụ này cố tình nghịch lý và dễ nhớ. Người ta sẽ chứng tỏ mình thiếu ý thức về sự chú giải Kinh Thánh và đơn giản là thiếu lương tri khi giải thích theo mặt chữ và theo đường lối chính thống những lời ấy của ngôn ngữ ‘Do Thái, như thể thật sự phải đưa má trái cho người đã vả má phải của bạn.

Ví dụ mà Đức Giêsu dùng ở đây liên quan đến cùng một loại nghịch lý như khi Người nói phải móc mắt mình hoặc chặt tay mình (Mt 5,29-30). Trong thực hành, những cách hành động ấy sẽ hoàn toàn vô ích. Mắt bị móc không bảo vệ người ta tránh khỏi một sự vấp phạm khác. Cái vả thứ hai cũng không ngăn cản được cái vả thứ ba và còn lâu mới làm cho kẻ ác có những tình cảm tốt lành hơn! Chính Đức Giêsu sẽ cho lời giải thích tốt nhất về câu nói của Người khi Người không đưa má kia cho người thuộc hạ đã vả Người trước mặt’ thượng Tế: “Nếu, tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23).

Nhưng nếu chúng ta phải tìm cho mình những thái độ tương ứng với những công kích mà chúng ta phải chịu, không nên vì thế làm giảm nhẹ yêu sách của Tin Mừng. Thật vậy nếu Đức Giêsu đã không “giơ má kia ra”. Người đã đi xa hơn nhiều: Người đã để Người ta đánh đòn Người đến đổ máu, Người đã hiến hoàn toàn thân xác cho những kẻ đánh đập Người… “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Isaia 50,6). Các “gương ấy ở trong Kinh Thánh. Và Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta điều gì mà Người đã không làm trước.

Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.

Đây chính là điều mà người ta gọi là “quy luật vàng”. Một trong các nguyên tắc sơ đẳng của mọi nền đạo đức.

Thầy Hillel, cùng thời với Đức Giêsu đã nói: “Anh không thích điều gì, chớ làm điều đó cho người thân cận”. Và các triết gia khắc kỷ đã nói tương tự: “Điều gì anh không muốn người ta làm cho mình, anh đừng làm cho ai khác”. Nhưng chúng ta nhận thấy rằng chính Đức Giêsu đem lại cho luật ấy một hình thức tích cực. Phải làm mọi điều tốt lành có thể làm được cho người thân cận… dù với kẻ thù.

Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa. Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy đọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả.

Là những Kitô hữu, những môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không tốt hớn những người khác… Tuy nhiên, rõ ràng Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta khác những người khác. Sự khác nhau ấy là gì? Điều gì phải là đặc tính của một Kitô hữu? Đó là “yêu thương những người không yêu thương chúng ta”. Tư tưởng sâu sắc của Đức Giêsu là tình yêu thương của chúng ta phải được giải phóng khối mới cộng đồng tự nhiên của chúng ta: Gia đình, môi -trường, quốc gia, nòi giống của chúng ta. Giữa những người giống nhau, sự liên đới là tự nhiên, tự phát. Phải dám nói điều này: sự liên đới không phải là một sự thiện tự thân; ngay cả những “người tội lỗi”, những người độc ác, những kẻ áp bức, ích kẻ… có thể sống với nhau bằng sự liên đới rất vụ lợi hoàn toàn hướng về lợi lộc và chống lại những người khác. Hỡi ôi! đâu phải vì tính ích kỷ trở thành tập thể mà nó sẽ ít nguy hiểm hơn.

Tình yêu thương của Kitô giáo là một. tình yêu thương không biên giới, không giới hạn.

Nhân đây, chúng ta hãy ghi nhận bằng cách nào mà Luca muốn làm cho người nghe ngài tức là dân ngoại hiểu được nên đã thay đổi câu nói của Đức Giêsu mà Mát-thêu thuật lại trong bản văn bang tiếng Do Thái: “Ngay cả người ngoại cũng chặng làm như thế sao?”. (Mt 5.47). Luca đã thay bằng từ “người tội lỗi”. Và biến đổi lối nói “nghi vấn” thành lối nói “khẳng định”: “Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế” (Lc 6,33)Vì thế, Sự khẳng định của Đức Giêsu trở nên hoàn toàn rõ ràng, và áp dụng cho tất cả mọi người!

Cũng thế, trong đoạn văn song song, Mátthêu không nói, về việc “cho vay”. ‘Còn Lu ca không bao giờ bỏ mất cơ hội. Rồi về “tiền bạc”. Đối với ngài, trong toàn bộ Tin Mừng của mình, việc chia sẻ của cải là dấu chỉ thật sự, rõ ràng của Tình yêu thương. Và chúng ta phải thừa nhận rằng quả thật cho tiền bạc của mình cũng khó như yêu thương các kẻ thù của mình!

Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là còn Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.

Những lời này nhấn mạnh nhân tính thông thường chỉ ở mức trung bình, cách xa dự án của Thiên Chúa biết bao… Và Thần Khí, Vương quyền của Thiên Chúa phải chiếm lĩnh chúng ta từ bên trong để biến đổi chúng ta. Cho đến thời Đức Giêsu, nhân loại đã dùng bạo lực để trả đũa bạo lực. Và, ngay cả trong Kinh Thánh, phải gây ra thánh chiến để tiêu diệt, đập tan kẻ thù, dùng tôn giáo để loại trừ những kẻ thủ của Thiên Chúa! (Đệ nhị luật 7, 1-6-20,10-18 – 25,19; Giosuê 6,17; Dân số 21,2; 1 Samuen 15,18). Cho đến thời Đức Giêsu, và ngay cả trong Kinh Thánh người ta cầu nguyện chống lại các kẻ thù (Tv 17,13; Tv 28,4 – 69,23-29; v.v…). Từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta phải “cầu nguyện cho họ “.

Và lý tưởng đề ra sẽ không là gì cả nếu không có Thiên Chúa, chính Thiên Chúa… một lý tưởng phải không ngừng đạt đến và không có giới hạn, Lời nói ấy làm người ta ngạc nhiên! Con người yêu mến kẻ thù sẽ nhận một phần thưởng: Sẽ là “con của Đấng Tối Cao” và rõ ràng là danh hiệu này là danh hiệu đã ban cho Đức Giêsu trong ngày đức Maria!được truyền tin! (Lc 1,32). Ơn làm con Thiên Chúa được ban cho người nào “kiến tạo hòa hình” (Mt 5,9). Yêu thương kẻ thù chúng ta là việc siêu phàm… thánh thiêng! Đó là điều mà Thiên Chúa không những làm… vì Người vẫn” nhân hậu với cả phường vô ân – và quân độc ác”, như lời Đức Giêsu đã bày tỏ.

Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị ‘Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em dấu đủ lượng đã dằn, đủ lực và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.

Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta bản tính thâm sâu của Chúa Cha: Người nhân hậu và yêu thương đến tận cùng. Người ta sẽ không bao giờ nói lại điều đó cho đủ: Thiên Chúa không phán xét ai, Thiên Chúa không kết tội ai, Thiên Chúa tha thứ cho tất cả các kẻ tội lỗi. Và Người yêu cầu chúng ta bắt chước Người. Và Người còn đi đến chỗ nói với chúng ta rằng sự phán xét của riêng chúng ta có thể nói được trả v~ trong tay chúng ta: “Đó là… anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy… xin tha tội cho chúng con như chúng con lòng tha…”.

Điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa chấp nhận sự ác! Không có gì giống nhau, và sẽ không bao giờ có gì giống nhau giữa Thiên Chúa và sự bất công, sự hành hạ, độc ác hèn hạ, ích kỷ. Và những người nào làm những việc như thế sẽ không có phần với Người”. Những kẻ bất hạnh khốn nạn ấy tự mình làm hại mình, tự mình lên án mình khi ngoan cố từ chối sự tha thứ của người. Và Thiên Chúa sẽ khóc với những giọt lệ đời đời (đó là thập giá! ) trên những ai từ chối yêu mến Người. Hoả ngục, đó là mặt trái của Thiên Chúa, và không do Thiên Chúa tạo ra. Chính Thiên Chúa, chỉ là lòng nhân hậu. Còn bạn, bạn đã ở về phía Thiên Chúa chưa?

 

64. Suy niệm của Noel Quesson

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Luca tóm tắt một số lời khuyên quan trọng của Đức Giêsu, mà Mát-thêu đã tập họp lại trong Bài giảng trên núi.

Đó là những thái độ chủ yếu của Tin Mừng.

Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Anh em phải yêu thương kẻ thù …

Trên lý thuyết, chúng ta quá quen “biết” những lời này.

Tuy nhiên, theo Đức Giêsu, đó không phải là điều thuộc phạm vi hiểu biết, hay lý thuyết. Những “kẻ thù” được nói đến, Đức Giêsu liệt kê trong những thí dụ sau đây: Kẻ oán ghét … kẻ nguyền rủa … kẻ nhục mạ … kẻ vu khống … kẻ đánh đập … kẻ lột áo … kẻ cướp đoạt …

Tất cả những hạng người này, không phải là những ý tưởng, cũng không phải là những yêu ma không thực, mà là những con người bằng xương bằng thịt.

Phải dám kiếm tìm chung quanh mình những con người mà để yêu thương họ ta phải khó khăn vất vả nhất … Đó là những kẻ làm “hại” ta cách này hay cách khác.

Hãy yêu thương họ … Hãy làm ơn cho họ … Hãy chúc lành cho họ … Hãy cầu nguyện cho họ … Hãy cho … Đừng đòi lại …

Đó không phải là những ý tưởng, những tình cảm … mà là những hành động thực sự, những thái độ cụ thể.

Quả thực, Tin Mừng không phải là điều dễ sống. Nó không phải là thứ “nước bông” trang điểm!

Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.

Hãy tự đặt mình vào địa vị người khác. Lạy Chúa, đó là việc khó biết bao! Xin hãy đến giúp con.

Nếu anh em chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả những người tội lỗi cũng yêu thương kẻ thương họ.

Và nếu anh em chỉ làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế.

Mát-thêu dùng hai hình ảnh để so sánh “những người thu thuế” và “những người dân ngoại” (Mt 5,46-47). Còn Luca, để khỏi động chạm đến độc giả của mình, là những người anh em dân ngoại trở lại hay sẽ trở lại, ông đã chuyển dịch lời của Đức Giêsu theo kiểu nói dễ hiểu hơn với họ, nên dùng: “những người tội lỗi”. Thực ra, đó cũng chỉ diễn tả một tư tưởng, nhưng với kiểu nói mới mẻ hơn.

Đúng vậy, tư tưởng cốt yếu của Đức Giêsu là: “tình yêu” của chúng ta phải mang tính phổ quát, bằng cách cố giải gỡ mình khỏi những cộng đồng tự nhiên (như gia đình, môi trường sống, quốc gia, chủng tộc): Ở đó, hầu như ta thể hiện yêu thương cách tự phát. Tình liên đới không phải là điều tốt tự nó. Cần phải nói như thế, bởi vì ngay cả những kẻ tội lỗi, những kẻ ác độc, những người chuyên đàn áp, những kẻ ích kỷ … cũng có thể sống tình liên đới rất vụ lợi giữa họ, nhắm tới tư lợi và chống lại kẻ khác!

“Tình yêu không biên giới” là một nhu cầu bức thiết: nó vượt trên mọi luật tâm lý và xã hội, tuy những luật đó rất tự nhiên và thực tế. Tình yêu của chúng ta phải nối kết được mọi chiều kích của toàn thể nhân loại, kể cả những kẻ thù và đối nghịch!

Anh em phải yêu thương kẻ thù, phải làm ơn và cho vay mượn mà không mong đền trả.

Đó là thứ tình yêu vô vị lợi, cho không.

Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao bội phần, và anh em sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu cả với phương vô ân, với những quân độc ác. Anh em phải có lòng từ bi, như Cha anh em là Đấng từ bi.

Như thế, không chỉ là mọi sự vượt xa về “lượng” (số người được yêu trên toàn thế giới rộng lớn, tăng hơn), mà còn là một vượt xa về “phẩm” (yêu như Thiên Chúa yêu, bằng cách mô phỏng tình yêu vô biên, từ đó trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa Cha, Đấng yêu thương hết mọi người, ngay cả “những kẻ thù của Người”).

Đừng xét đoán … Đừng lên án … Hãy tha thứ … Hãy cho …

Tôi để cho mỗi lời vang lên trong tôi, từng lời một, lời này nối tiếp lời kia. Rồi tôi cầu nguyện …

 

65. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

NGƯỜI ĐỆ TỬ ĐÍCH THỰC

Bài giảng trên cánh đồng của Luca không chỉ ngắn hơn bài giảng của Mt 5-7; mặc dù trong 30 câu phần lớn đều song song với 107 câu của Matthêu nhưng giọng điệu hoàn toàn khác. Chỗ nào Tin Mừng thứ nhất làm nổi bật thái độ tôn giáo của các môn đệ Chúa Kitô khác biệt trong nhiều điểm với thái độ của các Kinh sư Do Thái, thì về phần mình Luca tìm cách liên kết cộng đoàn Kitô hữu với Israel hơn là tạo những khoảng cách –điều mà tự nhiên cộng đoàn đã làm. Ông trình bày cho Thêophilê, trước kia là người ngoại giáo (x. 1,3), như bản mẫu của sứ điệp Tin Mừng, điều độc đáo hơn cả trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu, không hề có trong kho tàng khôn ngoan của các dân tộc.

Sau các mối phúc nói cho những người bị đè bẹp trong cuộc sống, thì phần thứ hai, một cách hành xử tuyệt đối đặc biệt trước hết được đề nghị với các môn đệ: yêu thương kẻ thù. Lý lịch của những kẻ thù này được biểu lộ qua các hành vi họ làm (cc. 27-28): đó là những kẻ bách hại các Kitô hữu được nói đến trong mối phúc thứ tư. Nói với những kẻ đang nghe Ngài -một gợi nhớ đến câu 18- Chúa Giêsu yêu cầu họ có tình thương (agapè) đối với những ai ghét họ. Đây không phải là vấn đề tình cảm mà người ta có đối với một phần tử gia đình, cũng không phải tình bằng hữu với một kẻ ngang hàng, càng không phải thứ tình yêu đam mê. Đây là việc tôn trọng và khoan dung đối với kẻ thù, được biểu lộ bằng cử chỉ và lời nói. Một yêu cầu như thế đã thực vậy ở các câu 27-28, được nhắc lại ở câu 35. Vậy, những câu được đóng khung như thế phải được hiểu theo quan điểm này; chúng minh hoạ một đòi hỏi căn bản.

Những thí dụ mới đầu được trình bày ở ngôi thứ hai số ít: sự bất bạo động đối với ai bạo hành người tín hữu, sự trao ban cách thường quen… ngay cả cho kẻ trộm; phải nhường nhịn trong tất cả ý nghĩa của từ này (cc. 29-30). Rồi tới”luật vàng” (c.31) mở ra một triển khai mới bằng từ”anh em”. Hãy để ý: việc chuyển từ ngôi thứ hai số ít (ở đây, (cc. 29-30; xa hơn, (cc. 41-42) qua ngôi thứ hai số nhiều gợi lên sự vượt quá tương quan liên bản vị. Như thế”luật vàng” được trình bày cách tích cực: tính hỗ tương mà luật này phải dựa vào (làm cho người khác điều thiện mà mình muốn nhận nơi họ) được xác định, ngay cả được vượt qua, trong, trong các câu 31-34. Thực vậy, ba câu hỏi nhắc lại rằng chỉ có việc không tính toán và không cho để được cho, chỉ có tính cách vô vị lợi mới phân biệt cách ăn ở của những người tội lỗi, những người này cũng biết yêu thương, nhân ái đối với những ai đối xử với họ như vậy. Trong sáu câu này, thính giả được mời gọi hằng ngày phải vượt qua chính mình, phải sáng tạo để làm điều thiện cho kẻ khác, nhất là cho kẻ không muốn làm điều thiện cho mình.

Có thể rằng một thực hành như thế sẽ ”tước khí giới” đối phương –sức mạnh của những người bất bạo động mà Gandhi đã sử dụng chẳng hạn… nhưng Chúa Giêsu không nói gì đến chuyện đó, bởi vì Ngài nhấn mạnh sự kiện là không được tìm kết quả trên bình diện con người; nếu có thì đó chỉ là phần được ban thôi. Người tín hữu chỉ trông chờ lời đáp của Thiên Chúa. Đáp lại ba hành vi phục vụ người khác (c.35) là lòng biết ơn của Thiên Chúa (nguyên văn là ân sủng, phần thưởng): nó làm cho trở thành con cái của Thiên Chúa. Ở đây cũng như ở Mt 5,9-45, chính trên cơ sở những tương quan liên vị mà có sự đồng hoá của người tín hữu với Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa.

Câu 36 là một câu then chốt, nó vừa đóng lại phần khai triển ở trên vừa mở ra phần hai ngắn gọn: sự từ chối xét đoán người khác (cc. 37-38). Cả hai đều dựa trên việc bắt chước Thiên Chúa. Người tín hữu vừa được hứa ban cho trở thành con của Chúa, ước gì họ đừng quên cách ngôn”Cha nào, con nấy!”. Đã được hình thành ở Lv 19,2 đề tài bắt chước Thiên Chúa nhắm tới sự”thánh thiện”. Trong bài giảng của Matthêu thì nói nên hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5,48). Đó là một ưu phẩm khác của Thiên Chúa được đề cao ở đây: cảm thông, nhân từ, trong chiều hướng của Xh 34,6, nơi đó Thiên Chúa tự tuyên bố là Đấng cảm thông và đầy tình thương xót. Chính cách hành xử của Chúa Cha thiết lập và làm cho khả thi tình yêu của tín hữu đối với kẻ thù, cũng y như việc từ chối không đoán xét anh em.

Như vậy những câu 37-38 cũng minh hoạ điều mà lòng thương xót làm nảy sinh. Bằng bốn ý tưởng –hai câu phủ định và hai khẳng định- Chúa Giêsu kêu gọi người ta mãi mãi trong một lượng giá chắc như đinh đóng cột. Người tín hữu không có thể thay thế Thiên Chúa để lên án người khác, cũng không mong người khác đối xử với mình như vậy, đấy là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi: rốt cuộc chính Người sẽ xét xử, sẽ lên án hay tha thứ, sẽ ban phát dư dật. Cách hành xử của tôi đối với người khác như thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ xử với tôi như vậy.

 

66. Yêu kẻ thù, lòng nhân ái từ bi (Lc 6,27-38)

(Chú giải của Học Viện Piô Giáo Hoàng)

  1. Những người giàu có mà CGS đã chúc dữ trong đoản văn trước đây đã ra đi, nên bây giờ CGS quay lại nói với các môn đệ đang có mặt. Ngài phán bảo với họ cách uy quyền: “Nhưng Ta bảo các con”. Lời Ngài mói là lời đến từ TC. Ngài nói như kẻ có quyền, chứ không như các tiến sĩ luật và các người biệt phái (Mt 7,28). CGS đã thu tóm cả lề luật tức là việc chu toàn ý muốn TC vào giới luật tình yêu: “ngươi phải yêu mến TC, TC ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi; và yêu đồng loại như chính mình” (10,27). Được phần trước với những lời chúc phúc và chúc dữ, CGS đã cho biết cách thế để yêu mến TC hết lòng. Bây giờ Ngài đề cập đến vấn đề yêu thương tha nhân.

CƯ cũng nói đến giới luật yêu thương tha nhân: “Hãy yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv 19,18). CGS tách riêng giới luật này và nâng nó lên trên mọi giới luật khác trong lề luật để nói lên tầm quan trọng to lớn của nó: Ngài cũng đem lại một lối giải thích mới. Tha nhân chính là mỗi người. Dù là kẻ thù ta. Từ lối giải thích căn bản về tình yêu, nghĩa là phải yêu cả kẻ thù. Trong Lc, toàn bộ luân lý trong diễn từ công bố trên đồng bằng dựa trên cơ sở lối chú giải căn bản về tình yêu kể cả việc yêu kẻ thù.

“Kẻ thù các con” (c.27) chính là những người thù nghịch với nhóm môn đệ, những kẻ vu khống, những người bách hại, những kẻ thù của mỗi một môn đệ. CGS buộc phải yêu thương họ. Tình yêu lòng thiện cảm, có thể bị ép buộc không? Người ta có thể dễ dàng chiếm được tình cảm, tình yêu chăng? Tình yêu mà CGS truyền dạy chính là làm điều thiện, là chúc phúc, là cầu bầu. Theo CGS, yêu không nhất thiết là cảm nghiệm một tình cảm nào đó (càng tốt nếu từ một tâm tình tiêu cực biến đổi thành một tâm tình tích cực, tuy nhiên, không phải luôn luôn như thế); yêu chích là điều gì đó cho một ai, cho cả người ghét ta, nguyền rủa ta, bạc đãi ta.

Tình yêu tha nhân không chỉ hệ tại việc tha thứ những bất công mình phải chịu. Yêu thì không còn nói đến tha thứ, phải giả thiết là đã tha thứ trước rồi. Môn đệ CGS dĩ nhiên phải chu toàn tát cả những gì có lợi cho kẻ thù. Người môn đệ phải lấy ơn báo oán, chúc phúc cho những người chúc dữ, cầu nguyện cho những người bạc đãi mình. Ai yêu kẻ thù mình thì không chỉ tự mình dấn mình phục vụ kẻ thù bằng việc thiện mình làm cho họ, nhưng còn làm TC nhập cuộc giúp đỡ kẻ thù bằng cách cầu xin Ngài ban cho kẻ thù mình điều mình không có khả năng thực hiện. Đối với các môn đệ thì lòng yêu thương kẻ thù phải thâm nhập vào trong mọi lãnh vực của cuộc sống họ: trong hành động cụ thể bên ngoài, trong những ước muốn, trong lời nói, ngay cả trong tâm hồn.

  1. Yêu kẻ thù thật khó, chúng ta phải tự vệ chống bất công, muốn trả thù khi người cư xử bất công với chúng ta. Một cách nào đó chúng ta muốn ngăn cản điều ác lan tràn bằng cách trả đũa, báo phục nghiêm khắc: “Ta làm cho ngươi điều mà ngươi đã làm cho ta: mắt đền mắt, răng đền răng” (x. Mt 5,38). CGS đòi buộc không được lấy ác báo ác, cũng như đừng nên làm gì chống lại điều ác. Ngài đòi buộc phải lấy thiện thắng ác. Những nguyên tắc này có giá trị đối với những bất công cá nhân chúng ta phải chịu: “Với người tát má con…” (c.29) chúng cũng có giá trị khi người ta vi phạm tư sản của chúng ta: “Với người lấy áo choàng con…” (c.29).

Người môn đệ của CGS phải vui mừng phân phát, ban tặng cách vô giới hạn. “Phàm ai xin, con hãy cho” (Lc 30), chứ đừng xét đến quốc tịch, tính ngưỡng, tư tưởng hay thái độ cá nhân, phẩm giá của người đó…” CGS còn đi xa hơn nữa: dù tài sản ta có bị cướp mất do bạo lực hay mưu mô, ta chớ đòi bồi hoàn. Ai phải chịu hoàn cảnh như thế, đừng tự vệ, đừng tìm cách lấy lại những gì đã mất. Sự bất công phải chăng phải trở nên công bình?

Chúng ta không thể bình thản nghe những yêu sách như thế của CGS? Không có gì trong chúng ta phản kháng lại các đòi buộc như thế? Phải chăng thâm tâm ta không có gì biện bác chống lại hay sao? Phải chăng như thế là đã chối bỏ nhân vị và quyền lợi cá nhân? Phải chăng như thế là mở ngõ cho sự ác hoành hành? Là khuyến khích cho những bản năng xấu xa đê hèn nhất của con người tăng triển?

Những gì được đưa ra ở đây gây quá nhiều ngạc nhiên, chúng ta xem ra có vẻ nghịch lý, bởi vì thực tế con người cư xử với nhau theo những luật lệ hoàn toàn khác thế. Các ví dụ này cho thấy lối cư xử thường tình của con người trái ngược biết bao với ý muốn TC và cũng cho thấy Nước TC cần chiếm hữu họ để biến đổi họ. Chúng ta nghĩ sự ác sẽ bị tiêu diệt, nếu chúng ta chống lại sự ác, lấy ác báo ác. Nhưng CGS công bố: chỉ có điều thiện mới thắng điều ác. Ngài mang nước TC đến, và nhờ mọi thiện hảo trong Ngài lan tỏa, sự thiện sẽ chiến thắng sự ác.

Cách thức CGS diễn tả rất gợi hình, cụ thể, cứng rắn. Ngài muốn gieo rắc ưu tư lo lắng, muốn thức tỉnh lay động, hoán cải những tâm hồn xấu xa. Những thí dụ Ngài đưa ra đây minh giải cho một thái độ, một trạng thái tinh thần mà Ngài muốn phổ biến. Đây không phải là một bài học luân lý với những điều kiện này thì phạm tội, những tuân giữ kia thì không phạm tội. Ngài không có chủ ý ban hành một lề luật mới gồm bốn phần: phần thứ nhất: khi ai đánh con má này…Thứ hai: khi ai lấy áo con… Thứ ba:…Nếu hiểu như thế là chưa quán triệt lời Ngài. Những thí dụ này là những hình ảnh nói lên cách cụ thể một thái độ căn bản. Đó là thái độ mà chính CGS muốn có, và môn đệ là người thể hiện hành động trong muôn vàn hoàn cảnh của cuộc sống hiện tại cụ thể.

  1. Làm thế nào để thể hiện lòng yêu thương kẻ thù bằng hành động cụ thể? Tôi phải làm gì cho tha nhân? Cho cả kẻ thù tôi? Các bậc khôn ngoan, các tiến sĩ luật Do thái và ngoại giáo đã nói về điều này qua “luật vàng”. Ông già Tobia đã truyền luật này lại cho con: “Điều chính con không thích, đừng làm cho kẻ khác” (Tob 4,15). Một tiến sĩ luật Do thái, ông Hillel, phát biểu một châm ngôn tương tự: “Đừng làm cho tha nhân điều ngươi không thích” (x. J.Bonsirven, Textes rabbiniques số 633). Học thuyết khôn ngoan của người Hy lạp cũng đã biết luật này từ lâu. Những người thuộc phái hắc kỷ đã diễn dịch luật này như sau: “Điều ngươi không muốn người ta làm cho chính ngươi, thì ngươi cũng đừng làm cho kẻ khác”. Con người mang sẵn trong mình sách Lề luật và qui tắc đích thực về thái độ phải có đối với những người đồng loại. Chính những hoài bão, nhu cầu con người muốn tạo cho họ dạy họ điều phải làm.

“Điều các con muốn… các con hãy làm cho người ta như vậy” (c.31). Các bậc khôn ngoan đưa ra một qui luật để con người đừng làm cho tha nhân điều gì có thể làm cho chính mình khó chịu. Hiển nhiên ở đây họ cũng trình bày “luật vàng” ấy cách tích cực, nhưng họ chú ý ngay đến cả những hậu quả tốt mà người thực thi luật đó được hưởng đến nỗi châm ngôn ấy một cách luẩn quẩn nói lên tính ích kỷ: tôi chỉ làm cho kẻ khác điều tôi mong chờ họ làm cho tôi, hay hơn nữa, tôi có thể làm cho họ điều tôi ước ao cho chính tôi. CGS đổi mới “luật vàng” này trong hai điểm: không phải làm điều tiện để được lại điều thiện, nhưng phải khai mào cho điều thiện mà không cần được đáp trả. Đàng khác (nhưng bản văn Lc không nói đến điểm này vì Lc viết phúc âm cho những Kitô hữu từ ngoại giáo trở lại) luật này được trình bày như là bảng tóm lược tư tưởng thánh kinh: lề luật và các tiên tri (Mt 5,12 và 22,40).

  1. “Và nếu các con yêu mến những kẻ yêu mến các con, thì còn ân nghĩa gì?” (c.32). Các môn đệ CGS phải chu toàn ý muốn TC trong một mức độ toàn vẹn và triệt để hơn các người khác. Họ không thể sống như các người tội lỗi. Họ là muối đất, là ánh sáng, là thành xây trên núi (Mt 5,13tt). Chính vì thế họ phải yêu thương mà không cần đáp trả, tình yêu của họ không đặt nền tảng trên tính cách hỗ tương. Nếu chỉ yêu thương những kẻ yêu thương họ, thì họ không hơn gì người tội lỗi. Họ phải yêu thương ngay cả những kẻ mà họ không thể mong chờ đáp trả hay thưởng công. Phải yêu thương như vậy bởi vì đó là ý muốn của TC, bởi TC cũng hành động như thế. “Khi con bố thí, thì tay trái đừng biết việc tay phải làm, hầu việc con bố thí được giữ kín; và Cha là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ hoàn trả lại cho các con” (Mt 6,3tt).

Tình yêu biểu lộ qua việc thiện ta làm, qua việc cho vay mà không hy vọng lấy lại (c.34). Kẻ biết yêu thương đều có mặt ở những nơi khốn khổ. Tình yêu mà Chúa Kitô muốn nói là một tình yêu sinh động. “Hỡi các con nhỏ, chúng ta đừng yêu thương bằng lời nói, bằng đầu lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân lý” (1Gio 3,18). Vậy CGS có thể đòi buộc yêu thương, bởi vì đó là một tình yêu, biểu lộ qua hành động. Tình yêu đó có thể tỏ hiện trong người sẵn sàng cởi mở và cảm thông những nỗi cùng cực của tha nhân. Kẻ nào thực sự quan tâm đến tha nhân thì có năng lực yêu thương thật sự.

CGS hứa ban thưởng cho kẻ biết yêu thương như thế. Thì còn ân với nghĩa gì? TC biết rõ những hành động của con người. Ngài thi ân giáng phúc và ân cần săn sóc cho những ai hành động đẹp lòng Người.

  1. “Không trông báo đền” (c.35), đó là dấu chỉ tình yêu nơi các môn đệ. Không được người ta biết ơn, tán tụng, đền đáp. Yêu thì không tính toán. Tình yêu phát xuất từ thâm sâu con người và lan rộng. Ngay cả khi cho vay, người môn đệ cũng đừng trông mong được bồi hoàn nhưng cho vay chỉ vì muốn giúp đỡ kẻ khác. Vì khi yêu thương kẻ thù phải loại bỏ hy vọng được yêu lại; chính vì thế yêu kẻ thù là tình yêu đích thực nhất của các môn đệ CGS. Điều thúc đẩy các môn đệ yêu thương chính là ý muốn của TC, quyền năng của Ngài, gương mẫu của CGS thày chúng ta, và lời Ngài.

Người môn đệ chu toàn giới luật yêu thương kẻ thù này sẽ được thưởng lớn, người đó sẽ được gọi là con Đấng tối cao. Đây chính là danh từ được gán cho CGS trong cảnh truyền tin: “người này sẽ được nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao; TC sẽ ban cho người ngôi báu Đavit, tổ phụ Ngài” (1,31). Kẻ nào chu toàn giới luật yêu thương kẻ thù, sẽ được quyền làm con TC và như thế sẽ được tham dự vào quyền cai trị của chính CGS.

Làm con TC không chỉ là một thực thể đáng mong ước và chỉ xảy ra vào thời thế mạt; con người đã được làm con TC ngay từ lúc thực sự biết yêu thương kẻ thù. Do tình yêu không vụ lợi không đòi đáp trả người môn đệ trở nên giống TC; bởi TC cũng hoàn toàn tốt lành đối với kẻ vô ơn và ác đức. Người môn đệ trở nên con của Đấng tối cao, của Đấng tốt lành vượt trên mọi hành động của con người.

  1. Người “xót thương” là người biết cảm xúc trước nỗi cùng cực của con người, biết mở lòng cảm thông nỗi khắc khoải và cùng cực của tha nhân, biết cứu giúp tất cã những ai thống khổ.

CGS công bố TC là một người Cha đầy thương xót. Nước TC được khởi đầu bằng việc loan báo ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm, bằng việc giải chiếu ánh sáng cho người mù tối, giải phóng những kẻ bị áp bức. CGS được sai phái đến thế gian để loan báo thời cứu độ đã đến và mang ơn cứu độ đến. Ngài đã rảo khắp xứ để thực thi việc thiện. Ngài tha tội lo lắng cho tội nhân, nói đến niềm vui của Chúa Cha trên trời khi có tội nhân trở về với Ngài trong thời kỳ ân sủng này (5,11-32). Sứ mệnh của CGS được diễn tả một cách chủ yếu trong lời Ngài kêu mời vào giao tế với các tội nhân (Lc 15,4-10; 7,36-47; 18,10-14; 19,1-10).

Lòng thương xót của Chúa Cha dạy cho các môn đệ biết điều chính họ phải làm. CGS đòi hỏi người ta phải thực hiện điều mà người Do thái gọi là “bắt chước TC”. Cũng như TC đã cho con người trần truồng áo mặc. Cũng như TC đã viếng thăm những kẻ bịnh hoạn (Stk 18,1), ngươi cũng hãy thăm viếng bệnh nhân… Cũng như TC được gọi là Đấng đầy xót thương và tốt lành, ngươi cũng hãy cố gắng sống để được gọi là người biết xót thương và tốt lành, ngươi hãy bố thí mà không chờ phần thưởng… Cũng như TC được gọi là tốt lành… Cũng thế ngươi hãy sống tốt lành.

Vậy tình yêu có hai qui tắc nhờ đó con người có thể đo lường và cảm nghiệm được lối cư xử cụ thể của mình. Đó là ước muốn của chính tâm hồn mình: yêu tha nhân như chính mình – và lòng xót thương của Cha trên trời. Hai qui tắc đó trong thực tế chỉ là một; vì người môn đệ là con của Đấng tối cao, là hình ảnh của TC. CGS tái tạo hình ảnh của TC trong con người bởi vì Ngài đến loan báo quyền thống trị của Đấng tối cao, là Cha đầy thương xót của chúng ta.

  1. Thương xót và yêu thương con người trước tiên là không xét đoán họ: “Đừng xét đoán…” (c.37). Kẻ nào tìm hiểu xem tha nhân có đáng được xót thương và yêu mến không, người đó đã vi phạm giới luật yêu thương; vì tình yêu là nhưng không, do lòng xót thương trước nỗi cùng cực của tha nhân. Xét đoán chỉ có hai giai đoạn: lượng giá và kết án. CGS không muốn lượng giá và xét đoán ai. Hẳn nhiên, ở đây không có vấn đề xử dụng quyền tư pháp như trong một xã hội nào đó (CGS đã không bao giờ lên án việc xử dụng quyền tư pháp trong các dụ ngôn của Ngài hay ở những nơi khác). Ở đây chỉ có những phán đoán được thể hiện qua tư tưởng hay lời nói. Những lời phán đoán đó không bỏ lượng giá luân lý về hành động, nhưng cấm tuyên bố người hành động như thế là có tội.

CGS đã đòi buộc phải yêu thương kẻ thù và phải có lòng thương xót: “Hãy yêu thương kẻ thù – hãy biết xót thương”. Chỉ có TC là Đấng xét đoán mới có thể đòi hỏi con người trả lẽ vào thời của Ngài. Kẻ nào đặt mình là người xét xử tha nhân, thì TC sẽ xét đoán người ấy. Cách thức tôi đối xử với tha nhân sẽ định rõ cách thức TC đối xử với tôi.

  1. Tội phạm và lầm lỗi mà tha nhân đã có thể gây ra cho tôi, rất có thể ngăn cản tôi xót thương và yêu mến họ. CGS chỉ cho ta hai con đường để vượt qua trở ngại đó: là biết tha thứ và ban tặng chính mình. Nhờ tha thứ, hàng rào ngăn cách giữa tôi và tha nhân không còn nữa; nhờ trao ban chính mình, tôi được nối kết với tha nhân.

Đòi buộc phải tha thứ cũng như đừng kết án lại được đặt vào trong viễn tượng Ngày Thẩm phán cuối cùng đang đe dọa con người. “Các con sẽ được tha thứ” và “các con sẽ được người ta cho lại”, hai câu này qui chiếu về ngày thẩm phán sau hết. Bấy giờ, TC sẽ xét đoán chúng ta theo lối cư xử của chúng ta. Một cách nào đó, lời phán xét chung thẩm đang ở trong tầm tay ta. “Xin tha tội chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (11,4).

Ngày thưởng công sẽ đến. Đó là một ngày thu hoạch rất phong phú cho những ai đã biết ban phát. TC giống như một nông gia trả lương rất hậu cho công nhân của Ngài (đồng lương ở đây được diễn tả qua hạt lúa). Một nông gia hà tiện đổ đầy đấy lúa, rồi gạt cho sát, hầu khỏi phải cho quá số lượng cần thiết. Một nông gia đại độ sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn đã lắc, hầu có thể ban phát nhiều hơn số lượng cần thiết, ông đổ đầy, tràn đấu lúa. TC giống như nông gia đại độ ấy. Ngài rất đại lượng trong việc thưởng công. Đồng lương Ngài ban phát cho không phải là đồng lương người ta đáng được, nhưng là một món quà tặng do lòng rộng rãi của Ngài, Ước gì ý niệm thưởng công, trả lương, không làm cho chúng ta thu hẹp lối diễn tả tình yêu vô biên của TC nơi chúng ta. Điều mà TC ban, luôn là vô hạn nhiều hơn điều chúng ta đã phân phát. “các con hãy vui mừng và hoan lạc vì phần thưởng các con trên trời rất lớn lao”.

Dầu vậy, dù TC không hẹp hòi khi ban ân huệ, Ngài cũng chỉ ban phát cho những ai đã biết trao ban.

Diễn từ về lòng thương yêu kẻ thù được loan báo trong viễn tượng ngày chung thẩm cuối cùng. Nhưng nó không kết thúc sau lời đoán xét và án phạt của TC, mà lại kết thúc với lời mô tả lòng tốt vô biên của Ngài. Lối hành văn của các câu trước có một nhịp điệu như nhau, nhưng đến câu nói của lời Chúa ban ân huệ: “Và các con cũng sẽ được ban cho” lại có cung điệu trang trọng hơn. Như thế trọng tâm của vấn đề được dời từ sự nghiêm khắc qua lòng tốt của TC, từ xét đoán qua hạnh phúc, từ lời đe dọa qua lời hứa, từ sợ hãi qua hy vọng.

Phần kết luận (c.38b) là một lời canh chừng: đong đấu nào, trả đấu ấy. Kẻ nào cho ít, sẽ nhận được ít. Kẻ nào cho dư đầy – hình ảnh về TC đại độ hiểu ngầm dưới đây – sẽ nhận được dư đầy. Tuy nhiên lòng thương xót vượt quá mọi giới hạn, mọi điều công bình mà TC sẽ chứng tỏ trong ngày Ngài thẩm phán không phải là không có điều kiện. Kẻ nào biết trao ban và tha thứ cho con người, sẽ nhận được dư đầy ân huệ và được TC tha thứ. Kẻ nào không biết trao ban và tha thứ thì đừng có hy vọng được TC ban và tha thứ.

KẾT LUẬN

Điều CGS muốn dạy qua những câu nói thẳng thừng này, với một cung giọng đông phương và rất gần với não trạng của thính giả là: trong các tương giao xã hội của con cái TC, dù đối xử với nhau, dù đối xử với kẻ khác hay ngay cả với kẻ thù, thì họ phải dùng một thứ lề luật khác vì lề luật báo thù hay luật công bình giao hoán mà con người thời cổ thường dùng. Bởi thế, các mối tương giao ấy nhất thiết phải là có tính cách huynh đệ: chúng ta tất cả là con cùng một cha trên trời. Qui luật tối thượng trong các tương quan giữa con người không phải là công bình nhưng là tình yêu.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Kẻ thù mà đoạn sách phúc âm này nói đến là kẻ thù ở trong nhóm, hay trong quốc gia đang sống. Vấn đề không phải là thay đổi các tâm tình sâu xa đối với kẻ thù, vì những tâm tình này độc lập với ý muốn chúng ta cho con. Nhưng vấn đề được đặt ra lúc có dịp cụ thể chúng ta phải có những hành động cụ thể giúp đỡ kẻ thù: cho kẻ thù đói khát ăn, săn sóc nếu họ bị thương, chôn cất một tử thi… Điều này đôi lúc đòi ta phải anh hùng can đảm, không những chỉ để vượt lên trên mối ghê tởm tự nhiên đối với họ, nhưng để tỏ ra mình cũng có “thiện cảm” với kẻ thù dân tộc. Hẳn nhiên, ở đây không có vấn đề giúp đỡ về quân sự (vì như thế là chống lại huấn lệnh về tình yêu, bởi chưng giúp đỡ về quân sự chính là trở lại chống đối người thân cận mình). Nhưng vấn đề ở đây là khi có thể trả thù kẻ thù bị ta bắt giam, ta hãy đối xử cách nhân bản và theo đức ái Kitô giáo.
  2. “Kẻ thù” mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống hàng ngày là tất cả những ai lân cận hay quen biết chúng ta mà lại phỉnh gạt chúng ta dưới bất cứ hình thức nào, là tất cả những ai tự nhiên có ác cảm với chúng ta, tất cả những ai luôn chống đối lại chúng ta khi chúng ta lên tiếng. Tất cả những ai lợi dụng sự cộng tác của chúng ta, tất cả những ai không tôn trọng chúng ta, tất cả những ai nói xấu sau lưng chúng ta, tất cả những ai bóc lột, chà đạp, vô ơn với chúng ta… Những kẻ thù ấy luôn đi sát ta. Chính CGS đòi chúng ta phải yêu thương giúp đỡ họ khi gặp cơ hội thuận tiện, phải tha thứ họ tận đáy lòng. Hẳn nhiên một thái độ như thế không có gì là “tự nhiên” hay tự phát cả. Trong một vài trường hợp chúng ta có lẽ muốn chết đi hơn là làm hòa với một ai đó sống cạnh chúng ta mà đã phỉnh gạt chúng ta. Và đó chính là điều mà CGS đòi buộc nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ Ngài: chết đi cho những cảm tình tự nhiên để mặc lấy một lần thay cho tất cả tâm hồn quảng đại của Đức Kitô, Đấng đã tha thứ cho kẻ thù khi hấp hối trên thập giá. Điều CGS đòi buộc chúng ta không thể thực hiện được nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào bản tính con người. Nhưng TC sẽ ban ân sủng, sức lực siêu nhiên để giúp chúng ta vượt lên trên sự đối kháng nội tâm, và thực sự trở nên những con người mới phát sinh từ Chúa Thánh Thần, những con người đích thực của Đấng tối cao (c.35). Không thể trở nên môn đệ đích thực của CGS khi chưa chịu chết đi cho chính mình. Nhưng nếu bằng lòng chết đi cho chính mình, bấy giờ chúng ta sẽ khám phá ra một cuộc sống mới trong Chúa Kitô, vì chính Chúa Kitô sẽ biến đổi tâm hồn chúng ta và ban cho chúng ta tâm tình yêu thương tất cả mọi người như anh em. Bấy giờ, trong vui mừng và hoan lạc, chúng ta có thể nói với thánh Gioan: “Chúng tôi biết chúng tôi đã đi từ cõi chết đến sự sống bởi vì chúng tôi đã yêu mến anh em mình” (1Gio 3,14).

 

67. Cách sống của môn đệ

  1. HÌNH THỨC

Xét về hình thức (cách dùng chữ, dùng hình ảnh…) bản văn Luca có những đặc điểm sau đây:

1) Lv 19,18 cũng có lời dạy yêu thương “Hãy yêu thương tha nhân như chính bản thân mình”. Lc đã thay chữ “tha nhân” (prochain) bằng chữ “kẻ thù”. Câu 27 “Hãy yêu thương kẻ thù”.

Người thời Cựu ước cũng biết mở rộng tình thương ra khỏi phạm vi hạn hẹp của gia đình, nhưng chỉ mở rộng tới “tha nhân” (hiểu là những kẻ ở ngoài gia đình mà được mình thích). Đức Giêsu mở rộng tới chỗ không ai ngờ. Đó là: “kẻ thù”.

2) Mt 5,40: “Ai muốn kiện con để đoạt áo trong…”

Lc 6,29: “Ai đoạt con áo choàng…” Rộng hơn: không nhẹ nhàng trong một vụ kiện, mà mạnh mẽ vì là một sự tấn công.

3) Mt 5,42 ghi: “À qui te demande, donne”.

Lc 6,30 ghi: “À quiconque te demande, donne…”: rộng hơn.

4) c.31: “Các con muốn người ta làm chi cho mình thì hãy làm cho người ta như thế”. So với một số câu khác thì câu này tích cực hơn:

       – Sách Nho: Kỷ sở bất dục – Vật thi ư nhân.

       – Tb 4,15: Điều mà con không thích thì đừng làm cho người khác.

       – Ông Hillel: Điều con không thích thì đừng làm cho tha nhân.

       – Trường phái Hy Lạp Stoiciens: Điều ngươi không muốn người ta làm cho bạn thì bạn đừng làm cho người ta.

Chẳng những tích cực, câu này còn biểu lộ sự quãng đại có sáng kiến trước (không đợi cho có kinh nghiệm về sự khó chịu người khác gây cho mình rồi mới dựa vào đó để đừng gây cho người ta).

5) c.33: “Nếu các con làm ơn…” so với Mt 5,47 “Nếu các con chào hỏi…” Ta thấy Lc sửa lại cho hợp với thính giả người lương (“chào hỏi” là thói quen của thính giả Do Thái và Phương Đông).

“… thì có gì là ơn với nghĩa”: so với Mt 5,46 “… thì còn đáng thưởng công chi nữa”: bớt đi tính vụ lợi, nhấn mạnh đến tính miễn phí vì lợi ích vì gợi tới ơn Chúa.

6) c.35: “… các con… sẽ được gọi là Con Đấng Chí tôn”: đây chính là tước hiệu của Đức Giêsu (Lc 1,32): kẻ nào yêu thương kẻ thù thì được mang cùng tước hiệu với Đức Giêsu.

7) c.36: “Như Cha các con là Đấng xót thương” so với Mt 5,48: “Như Cha là Đấng trọn lành”. Lc không nói mơ hồ, mà diễn tả sự trọn lành bằng một đức tính cụ thể là xót thương.

8) cc 37.38: “Sẽ không bị xét đoán… không bị lên án… sẽ được cho…”: đây là những passif divin hiểu ngầm tác nhân của những động từ ấy là Thiên Chúa.

  1. NỘI DUNG

Đoạn Tin mừng này đề cập đến ba điều: Yêu thương kẻ thù – Đừng xét đoán (lòng thương xót) và Hãy cho đi (lòng tốt).

I – YÊU THƯƠNG KẺ THÙ (CC 27-36)

27-28 Cựu ước cũng có giới luật yêu thương: Lv 19,18 “Ngươi hãy yêu thương cận nhân” (ton prochain). Đức Giêsu chú giải chữ “cận nhân” ấy một cách rộng rãi hơn: Cận nhân là bất cứ ai, không giới hạn, kể cả kẻ thù. Thực ra trong số những cận nhân, kẻ thù là đối tượng khó thương nhất. Nên khi Đức Giêsu cụ thể hóa tình thương cận nhân vào đối tượng này thì tình thương trở thành vừa cụ thể nhất vừa cao nhất.

Thế nhưng làm sao có thể ép tình thương được? Nói đúng ra yêu thương xét theo nó là một tình cảm thì không thể ép được. Điều Đức Giêsu dạy ở đây là: làm ơn – chúc phúc – cầu nguyện. Nếu có được tình cảm thì càng tốt, còn nếu chưa có thì hãy làm những việc ấy, dần dần chúng có thể đưa đến tình cảm thật.

Đặc biệt, khi cầu nguyện cho kẻ thù thì người môn đệ kéo Chúa vào cuộc theo: họ xin Chúa làm cho kẻ thù điều mà bản thân họ chưa làm nỗi.

29-30 Khuynh hướng tự nhiên là muốn trả đủa, lấy ác báo ác. Đức Giêsu dạy ta đừng trả đủa, đừng lấy ác báo ác.

Khi trả đủa, người ta tưởng rằng có thể lấy sự ác để chiến thắng sự ác. Thực ra như thế là rất sai. Sự ác chỉ có thể bị chiến thắng bởi sự thiện mà thôi.

Vả má, đoạt áo, xin và đoạt của đều là những thí dụ Đức Giêsu dùng để diễn tả thái độ lấy thiện báo ác trên. Những thí dụ này ta không nhất thiết phải theo đúng (vả lại chúng được diễn tả cách cường điệu). Phải luôn nhớ điều quan trọng là “lấy thiện báo ác” và mỗi người cố gắng thể hiện ra bằng những thí dụ hợp với hoàn cảnh mình.

c.31: “Các con muốn người ta làm chi cho mình thì hãy làm như thế cho người ta”. So với lời dạy của nhiều người khác (xem phần A) thì lời này của Đức Giêsu tích cực hơn và rộng rãi hơn.

32-34 Tình thương của người môn đệ không được dựa trên những tính toán có qua có lại. Họ yêu thương chỉ vì đó là cách hành động của Thiên Chúa yêu thương mọi người mà không mong được đáp đền.

c.35 Ai yêu thương như thế thì được gọi là “Con Đấng Tối cao”. Đây chính là tước hiệu được đặt cho chính Đức Giêsu (xem Lc 1,32).

c.36: Như thế tình thương của người môn đệ có hai nguyên tắc hướng dẫn: Một là như chính mình. Hai là như Cha. Thực ra hai nguyên tắc này cũng thành một bởi vì người môn đệ chính là “Con Đấng Tối cao”.

II – ĐỪNG XÉT ĐOÁN: (CC.37)

Đã yêu thương thật thì sẽ không xét đoán, bởi vì nếu xét đoán xem đối tượng có đáng được ta yêu hay không, tức là đã giới hạn cho tình thương rồi.

Thế nhưng phải chăng ta cũng không được có cảm nghĩ này nọ về một người nào đó? Ở đây phải phân biệt: có thể đánh giá về một hành động của người ta (xấu hay tốt), nhưng không được từ đó mà đưa ra kết luận tốt xấu về con người của người đó được.

III – CHO ĐI: C.38

Đức Giêsu dùng hình ảnh ông chủ ruộng đối xử với thợ mình: người chủ keo kiệt thì đong lúa thật kỹ (để chỉ vừa đủ thôi, thí dụ đong nhanh, lấy cây để gạt miệng đấu) người chủ rộng lượng thì có ý đong sao cho thật đầy (dằn, lắc, đổ vun lên vv…) nếu ta cư xử với người khác thế nào (keo kiệt hay rộng lượng) thì Thiên Chúa cũng cư xử với ta như thế đó.

KẾT LUẬN

Tương quan giữa người môn đệ với kẻ khác không còn phải dựa trên luật trả đủa của Cựu ước, cũng không dựa trên luật công bình phân phối của người đời, mà phải dựa trên tình thương huynh đệ: Mọi người đều là anh em vì có cùng một Cha trên Trời.

 

68. Thực thi yêu thương để biến thù thành bạn

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay là bản tóm lược các lời Đức Giê-su dạy về cách cư xử đối với kẻ thù và những kẻ gian ác, để xứng đáng làm con Thiên Chúa và tóm lại như sau:

Hãy chúc lành để đáp lại những kẻ nguyền rủa; Hãy xin Chúa ban điều tốt lành cho những kẻ vu khống mình; Hãy dùng nhu thắng cương và lấy ơn báo óan; Hãy làm trước cho kẻ khác điều mình muốn họ làm cho mình. Hãy tỏ lòng khoan dung nhân từ đối với những kẻ vô ơn bạc ác với mình. Làm ơn và cho vay mượn mà không mong báo đền. Không xét đoán ý trái và đừng vội kết án tha nhân. Hãy quảng đại tha thứ và cho đi. Tất cả những điều tốt ấy sẽ không vô ích, nhưng sẽ được Thiên Chúa báo đền ở đời sau.

CHÚ THÍCH:

– C 27-28: +Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em: Kẻ thù ở đây cụ thể là những kẻ ganh ghét làm hại ta, những người nguyền rủa, vu khống, đánh đập và tước đoạt tài sản của ta… Yêu kẻ thù không phải chỉ về phạm vi tình cảm suông, nhưng là đáp trả những việc xấu của kẻ gian ác như: Chúc lành cho kẻ nguyền rủa ta, cầu nguyện cho kẻ vu khống ta.

– C 29-31: +Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy: Đây là một nguyên tắc căn bản trong cách đối nhân xử thế. Tô-bi-a cha cũng khuyên Tô-bi-a con tương tự: “Điều con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15). Còn Đức Khổng Tử thì dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều mình không muốn, thì đừng làm cho người). Lời Đức Giê-su nói đây nhấn mạnh tính tích cực: Các môn đệ cần noi gương Thiên Chúa trên trời, Đấng“luôn tỏ lòng nhân hậu đối với mọi người, ngay cả phường vô ơn và kẻ độc ác”, Người sẵn sàng ban ơn lành cho những kẻ thù ghét mình.

– C 35: +Con Đấng Tối Cao: Ai đối xử khoan dung với kẻ thù như thế sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao”, một danh hiệu được ban cho vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (x. 2 Sm 7,14). Đức Giê-su cũng được gọi bằng danh hiệu này khi sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x. Lc 1,32). Ngòai ra, những ai “ăn ở thuận hòa” cũng được gọi là “con Thiên Chúa” (x. Mt 5,9).

– C 36-37: +Anh em đừng xét đoán… Đừng lên án… Hãy tha thứ…: Xét đoán là một hành vi nhân linh, mà mọi người cần thực hiện trong cuộc sống. Sự xét đóan khôn ngoan sẽ giúp người ta phân biệt được người tốt kẻ xấu, điều nào đúng hay sai, quan trọng nhiều hay ít, việc gì cần làm trước hay làm sau… Nếu biết xét đoán đúng và áp dụng phương pháp hữu hiệu thì mọi việc sẽ thành công. Ở đây, Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Đừng xét đoán”, nghĩa là đừng đoán xét ý trái cách bất công cho người khác, vì việc kết án chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, “Đấng thấu suốt mọi bí ẩn” vào ngày tận thế. Còn hiện tại, Thiên Chúa không phán xét ai, không kết tội ai và luôn khoan dung tha thứ cho những kẻ tội lỗi có lòng sám hối ăn năn… Sau này chúng ta có được xét xử khoan dung hay không, là tùy thái độ của ta đối với tha nhân thế nào, như lời Chúa phán: “Anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy”. Tùy theo chúng ta có sẵn sàng tha thứ lỗi lầm cho tha nhân hay không, như lời Đức Giê-su đã dạy trong kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).

HỎI ĐÁP:

– HỎI: Khi dạy “Giơ má bên kia cho kẻ vả mặt mình, không cản nó lấy luôn cả áo trong.”.. Phải chăng Đức Giê-su muốn các môn đệ cứ để mặc cho kẻ gian ác lộng hành, để chúng tiếp tục làm hại nhiều người hiền lương yếu đuối?

ĐÁP: Thực ra đây chỉ là một kiểu nói nghịch lý, được cường điệu hóa theo cách nói của người Do thái, tương tự như lời Chúa đòi người ta phải tự móc mắt, chặt tay chân, nếu các bộ phận ấy nên dịp tội cho mình (x. Mt 5,29-30). Người ta không được hiểu những lời này hoàn toàn theo nghĩa đen. Bằng chứng là khi bị điệu ra xét xử, Đức Giê-su đã không đưa má kia cho tên thuộc hạ của thượng tế Khan-na khi hắn vả mặt Người, trái lại Người còn hạch lại nó rằng: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Tuy vậy, Đức Giê-su luôn đòi môn đệ phải biết nhẫn nhịn chịu đựng kẻ gian ác. Có lần Người đã quở trách hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an khi họ xin Thầy dùng sấm sét tiêu diệt dân làng Sa-ma-ri vì họ đã từ chối đón tiếp thầy trò vào ở trọ trong làng của họ (x Lc 9,55). Ngôn sứ I-sai-a cũng tuyên sấm về thái độ của người Tôi Trung của Đức Chúa, ứng nghiệm nơi Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn như sau: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Ở đây Đức Giê-su chỉ muốn dạy các môn đệ một phương thức đấu tranh bất bạo động: Hãy dùng tình thương để cảm hóa kẻ ác, lấy nhu thắng cương, lấy sự hiền lành chinh phục những kẻ cường bạo, theo nguyên tắc “thêm bạn bớt thù và biến thù thành bạn”, giúp cho những kẻ gian ác có cơ hội hòan lương.

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: “Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6,38a).
  3. CÂU CHUYỆN:

1) Định luật quả báo trong giao tiếp xã hội:

Cách đây ít lâu có một phụ nữ viết một bài đăng trên một tạp chí tôn giáo, kể lại kinh nghiệm về định luật quả báo trong quan hệ giao tiếp với tha nhân như sau:

“Tôi là một phụ nữ tuổi trung niên và tính tình khép kín. Tôi không thích giao tiếp với bất cứ ai vì sợ bị họ quấy rầy. Chính vì thế mà tôi đã sống cô đơn nhiều năm trong một căn hộ chật hẹp với số tiền trợ cấp xã hội ba tháng một lần. Thái độ khép kín đó đã làm cho tôi bị suy nhược thần kinh. Một ngày nọ tôi bị đau nặng phải đi điều trị tại một bệnh viện miễn phí. Nằm viện đã lâu mà bệnh tình cũng không thuyên giảm. Trong thời gian này tôi cảm thấy cô đơn vì không có ai đến thăm. Chỉ có cô em gái của tôi ở nước ngoài là còn nhớ đến tôi và mỗi dịp lễ Giáng Sinh cuối năm đều gửi cho tôi một thùng quà kèm theo một thiệp chúc mừng No-en. Rồi một ngày nọ, cô em gái duy nhất kia lại bị chết đột ngột do tai nạn giao thông. Tin này khiến cho tôi càng thêm tuyệt vọng. Một hôm, tình cờ tôi đọc được một thông báo trong tập san của bệnh viện nơi tôi đang điều trị, nội dung như sau: “Tổ chức thiện nguyện chúng tôi đang cần có thêm người tình nguyện phục vụ các bệnh nhân tê liệt tại tầng lầu ba của bệnh viện”. Thế là tôi quyết định đăng ký làm thử công việc thiện nguyện này để tránh sự nhàm chán trong thời gian nhàn rỗi. Chỉ có Chúa mới biết tại sao tôi lại tình nguyện làm một việc vất vả không lương này. Nhưng theo tôi hiểu thì chắc là Người muốn dùng việc ấy để chữa lành bệnh cho tôi.

Ngày nọ, tôi được bà trưởng hội phân công đến giúp cho một bà cụ bị tê liệt mà đã từ lâu không một thân nhân nào còn đến thăm hỏi giúp đỡ. Bà cụ thường tủi thân và luôn than vãn trách móc con cháu đã đối xử tệ bạc với bà. Nhận thấy cụ cần được động viên an ủi, nên tôi hay đến ngồi bên cạnh, vừa bóp tay chân cho cụ vừa lắng nghe cụ tâm sự. Mỗi lần như vậy, cụ lại có dịp kể cho tôi nghe những nỗi đau khổ mà chồng con đã đối xử tệ bạc với cụ. Một hôm tôi ghé tai khẽ nói với cụ rằng: Tôi có một bà mẹ có nét mặt phúc hậu rất giống cụ. Tôi cảm thấy yêu cụ như yêu mẹ ruột của tôi. Nghe vậy, nét mặt cụ đột nhiên biến đổi: Cụ im lặng nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi: “Có thật vậy không hả cô?”. Tôi trả lời: “Đúng thật như vậy đó! Con rất yêu cụ như yêu mẹ ruột của con!”. Và ngay lúc ấy, tôi cảm thấy trong người tôi một mối xúc cảm lạ lùng, nó làm biến đổi con tim vốn chai lỳ của tôi. Trước đây tôi không có thiện cảm với ai, nhưng giờ đây tôi lại thấy mọi người đều dễ thương và tôi sẵn sàng tiếp xúc với những người đau khổ để đem niềm vui và tình thương đến cho họ. Cũng từ ngày đó tôi không còn cảm thấy căng thẳng thần kinh nữa và tôi quyết định không uống thuốc chữa bệnh thần kinh mỗi ngày như trước nữa. Tôi ăn ngủ bình thường và lên cân. Căn bệnh suy nhược thần kinh của tôi tự nhiên biến mất hẳn. Trong lần tái khám định kỳ, bác sĩ chữa trị cho tôi rất ngạc nhiên khi thấy tôi bình phục rất nhanh mà không cần uống thuốc mỗi ngày như trước”.

Câu chuyện nói trên cho thấy: Chính khi chúng ta thể hiện tình thương đối với tha nhân là lúc chúng ta cũng nhận được ơn chữa lành căn bệnh tinh thần của mình.

2) Phương cách tiêu diệt kẻ thù hữu hiệu nhất:

Trong cuộc nội chiến tại nước Hoa Kỳ, sự hận thù giữa hai miền Nam Bắc ngày một thêm sâu đậm. Lần kia, tổng thống ÁP-RA-HAM LANH-CÔN (Abraham Lĩnoln) đã bị nhiều người Bắc Mỹ chỉ trích khi ông chủ trương cần đối xử khoan dung đối với những đám dân nổi loạn ở miền Nam. Những người này nhắc cho Lincoln nhớ rằng cuộc chiến tranh giữa hai miền vẫn đang tiếp diễn. Theo họ, quân đội miền Nam là kẻ thù, và tất cả bọn họ đều cần phải bị tiêu diệt. Bấy giờ tổng thống LANH-CÔN đáp: “Cách tiêu diệt kẻ thù hữu hiệu nhất chính là biến kẻ thù trở thành bạn hữu của chúng ta bằng lòng khoan dung tha thứ”.

Lời nói của Lanh-côn rất phù hợp với lời Đức Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em… Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Vì Người nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác” (Mt 5,27-28.35).

  1. THẢO LUẬN: Ta nên làm gì đối với những người đang thù ghét và nói xấu ta?
  2. SUY NIỆM:

1) Ác giả ác báo:

Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, “Gieo gió gặt bão”: Ai làm ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm óan thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới hóa giải hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giê-su để tha thứ cho tha nhân điều họ đã xúc phạm đến ta thì phản ứng dây chuyền của sự ác là sự hận thù sẽ tăng thêm, rồi bạo lực sẽ kéo theo bạo lực và tất cả chúng ta đều rơi vào hố diệt vong.

2) Hậu quả tai hại của lòng thù hận:

Một nhà tâm lý đã nói rằng: “Nếu anh nuôi lòng thù hận và muốn giết chết kẻ thù đã làm hại anh, thì anh hãy sắm sẵn hai chiếc quan tài: Một chiếc dành cho kẻ thù sắp bị anh giết, còn chiếc kia sẽ dành cho chính anh. Vì anh cũng sẽ bị chết dần chết mòn do sợ hãi bị trả thù hay sợ sự trừng phạt của công lý”. Thực vậy, hận thù gây tác hại. Nó làm tổn thương về tinh thần cho người đang nuôi oán thù trong lòng. Nó còn huỷ diệt nhân cách của họ như Ba-con đã nói: “Khi trả thù, người ta biến mình thành ngang hàng với kẻ thù. Còn khi tha thứ thì người ta sẽ vượt cao hơn kẻ thù của mình”.

3) Phương cách hóa giải hận thù:

Các chuyên gia tâm lý ngày nay đều công nhận rằng: “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương mới làm phát triển nhân cách con người”. Tình yêu có phép mầu để biến thù thành bạn. Áp-ram Lanh-côn (Abaham Lincon) nói: “Biến thù thành bạn, tức là ta đã tiêu diệt kẻ thù rồi vậy!”. Chính Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay đã dạy chúng ta: “Anh em hãy yêu kẻ thù… Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. Hãy cho đi thì sẽ được cho lại!”(Lc 6,35).

4) Chúng ta nên làm gì?:

– Tìm ra nguyên nhân khiến ta bị thù ghét để khắc phục:

Hầu hết sự ganh ghét của người khác đối với ta là do nỗi sợ hãi không còn được tôn trọng và yêu thương. Việc xác định nguyên nhân ta bị ganh ghét là bước đầu cần làm để hóa giải sự thù ghét của kẻ khác. Sự ganh ghét có thể do chúng ta có ngoại hình đep hơn; được nhiều người quý mến hơn; được cấp trên tín nhiệm và trao trách nhiệm cao hơn; được hưởng phúc lộc dồi dào hơn… Sau đó, chúng ta sẽ khắc phục nguyên nhân và tìm cách hóa giải thù ghét như sau:

– Kín đáo khen ngợi những ưu điểm của đối phương:

Lời khen thành thật ưu điểm của đối phương cách tế nhị là một phương thế hữu hiệu để hóa giải hận thù và biến thù thành bạn như Tuân Tử đã nói: “Ai khen ta mà khen phải là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy.”

– Đi bước trước để làm hòa với kẻ thù ghét mình:

Sự xuất hiện của những người ganh ghét trong cuộc sống là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả Đức Giê-su vốn là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34), nhưng vẫn bị các đầu mục dân Do thái thù ghét và chỉ trích: “Ông ta là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7,34). Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách hóa giải những thù ghét của kẻ khác bằng cách đi bước trước đến với họ và “biến thù thành bạn”.

– Biến thù thành bạn bằng việc thực thi Lời Chúa cụ thể như sau:

+ Cầu xin Chúa ban ơn lành cho những kẻ nói xấu và vu khống cho ta;

+ Lấy ơn báo óan: Làm điều tốt cho những kẻ thù ghét làm hại ta;

+ Làm ơn và cho vay mà không mong báo đền;

+ Tránh xét đoán ý trái và không kết án tha nhân cách hồ đồ bất công;

+ Sẵn sàng tha thứ không chỉ bảy lần nhưng tha bảy mươi lần bảy;

+ Quảng đại cho đi bằng lời khen thành thật để động viên tinh thần và chia sẻ vật chất…

Đây là những việc sẽ khó thực hiện nếu không quyết tâm cao và không được ơn Chúa ban ơn trợ giúp. Khi bị người khác thù ghét nói xấu và làm hại, chúng ta cần bình tĩnh tìm cách hóa giải hận thù để ngày một nên môn đệ đích thực của Chúa Giê-su.

  1. NGUYỆN CẦU

Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trước tha nhân, nhưng biết quảng đại mở ra, biết vươn tâm hồn lên cao, vượt qua mọi ích kỷ tầm thường của loài người, để mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Xin cho con đủ sức vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen cùng mọi trả thù ti tiện. Xin cho con luôn giữ được tâm hồn bình thản, không để cho bất cứ yếu tố bên ngoài nào làm xáo trộn, khuấy động tâm can con.

Lạy Chúa. Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu được những người tự nhiên con có ác cảm. Xin cho vòng tay con rộng mở để ôm cả những kẻ đang ganh ghét, vu khống và làm hại con. Nhờ đó con hy vọng sẽ được Chúa tha thứ tội lỗi và xứng đáng làm con thảo của Chúa Cha trên trời.

  1. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

69. Yêu như Thầy đã yêu

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Lc 6: 27-38 Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong Tình Yêu là sống trong Thiên Chúa; ai sống trong hận thù, người đó cũng chối bỏ Thiên Chúa.

Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong Tình Yêu là sống trong Thiên Chúa; ai sống trong hận thù, người đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Ðã đi vào cuộc sống là đặt mình vào tương quan với Thiên Chúa: hoặc là sống cho và với Thiên Chúa; hoặc là chối bỏ Ngài.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy ngay trong gia đình đã có những tranh chấp, cãi vã; hàng xóm cũng kiện tụng, đánh nhau; thế giới thì không ngừng chiến tranh, khủng bố…

Và ta thường thấy theo bản tính tự nhiên, người ta dễ dàng niềm nở với người có thiện cảm với mình mà không cần một cố gắng nào; Chúa Giêsu bảo những kẻ tội lỗi cũng làm được như thế. Nhưng sẽ không dễ chút nào khi phải nhoẻn miệng cười thân ái với người mình không hy vọng gì được chào đáp lại hay phải tha thứ cho một người đã cho mình thấm thía kinh nghiệm “làm ơn mắc oán”.

Chính vì vậy, sống nhân đức yêu thương Kitô giáo không phải là việc dành cho những người khiếp nhược, trái lại phải dũng cảm và nỗ lực vượt trên tính tự nhiên. Người Kitô hữu nhờ ơn Chúa giúp, ý thức mình được Thiên Chúa tha thứ, hiểu rõ Chúa đang dùng đời họ để trải dài tình yêu của Ngài, và bằng ý chí kiên vững, họ dám sống như Chúa Giêsu sống, “người mẫu” của đức yêu thương.

Chúa Giêsu cho biết Chúa Cha yêu thương ban mưa thuận gió hòa cho cả người công chính cũng như kẻ bất lương. Ngài còn dạy các môn đệ phải biết yêu thương kẻ thù. Yêu kẻ thù là chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, và cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình.

Chúa Giêsu đã dạy yêu thương và Ngài đã sống điều Ngài dạy. Trên thập giá, Ngài xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ…” Yêu thương, tha thứ quả là điều vô cùng khó. Chỉ nguyên việc không tìm cách trả đũa kẻ gây ra những đau thương bất hạnh cho mình đã là khó, nói chi đến việc làm ơn, cầu nguyện cũng như chúc phúc cho những kẻ thù nghịch với mình.

Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.

Chúa Giêsu cho biết không hề có sự chia cắt giữa mến Chúa và yêu người, vì là hai khía cạnh của một điều răn duy nhất: điều răn yêu thương. Vì thế, chúng ta không thể hẹp lòng với tha nhân, kể cả với kẻ thù, mà vẫn nghĩ rằng mình mở lòng với Thiên Chúa. Hẹp lòng với tha nhân cũng là hẹp lòng với Thiên Chúa. Điều này được giải thích ở lời khấn xin trong kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Không phải Thiên Chúa từ chối ban ơn tha thứ cho chúng ta, nhưng vì lòng chúng ta quá hẹp không thể đón nhận ơn tha thứ của Ngài. Theo thánh Phao-lô, mở lòng đối với tha nhân chính là yêu thương. Yêu thương thìø tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả. Vào lúc từ giã cuộc đời, khi đối diện với Thiên Chúa, mọi ân huệ khác đều biến mất, chỉ còn duy đức yêu thương tồn tại vĩnh viễn, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Chúa Giêsu đã không rao giảng bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.

Chúa Giêsu đã nói với chúng ta hãy “yêu thương như Người”. Ở đây, Người nói hãy trở nên “một” như Ba Ngôi Thiên Chúa! Nhưng trong câu này, Người còn thêm rằng, chính sự giống nhau đó làm nên Giáo hội mang tính “thừa sai”. Công đồng Vatican II, Công đồng đầu tiên trong lịch sử đề cập tín điều về Giáo hội một cách trực diện, trong Hiến chế tín lý quan trọng “Lumen Gentium” (Anh sáng muôn dân), đã đặt trọn vẹn suy tư’của mình trên một kiểu nói của thánh Xy-pri-anô, giám mục thành Các-ta-gô vào khoảng năm 250: “Giáo hội là một dân tộc rút ra sự hiệp nhất cho mình, từ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần”. Giáo hội là sự mở rộng cho nhân loại, kiểu tương quan liên vị hoạt động trong Thiên Chúa Giáo hội là “bí tích hữu hình” của Thiên Chúa, là “dấu chỉ” của Người: “Giáo hội, ở trong Đức Kitô, như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện để kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, và để hiệp nhất với toàn thể nhân loại”

Chúa Giêsu đã trở nên một mẫu gương sống động về việc thực thi khuôn mẫu tình yêu này. Dẫu cho bị người Do Thái chống đối, sỉ nhục và giết chết, ấy vậy mà ngay trong những giây phút đau đớn nhất trên thập giá, Người vẫn xin Chúa Cha tha thứ cho họ. Cổ nhân có câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Là những người con của Chúa, chúng ta được mời gọi để trở nên nhân từ như Cha chúng ta ở trên trời bằng việc bước theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương và tha thứ.

Là môn đệ của Chúa Giêsu phải khác hơn: Tránh làm một hành vi tiêu cực để đáp lại một hành vi tiêu cực, thì chưa đủ. Họ còn phải đáp trả oán ghét bằng tình yêu hy sinh, việc bị khai trừ bằng việc làm ơn, những sỉ vả bằng lời chúc phúc và bị xoá tên bằng việc cầu nguyện. Tức là họ không chỉ tìm cách giữ cho ổn định đời sống xã hội, nhưng còn phải diễn tả cách xử sự của Thiên Chúa ra cho anh chị em đồng loại. Họ phải cố gắng làm một điều “hơn”.

Lời Chúa hôm nay là một thách đố đối với con. Qua lời Chúa hôm nay, xin cho con không chỉ thuộc lòng lời Chúa dạy, nhưng còn biết noi gương Chúa để tha thứ cũng như cầu nguyện cho những kẻ thù ghét mình, hầu nhờ đó con có thể hóa giải hận thù, góp phần kiến tạo bình an cho những người xung quanh và cho thế giới hôm nay.