Các Bài Suy Niệm Lễ Cầu Cho Các Linh Hồn

Các Bài Suy Niệm Lễ Cầu Cho Các Linh Hồn

  1. Luyện ngục. 2
  2. Các linh hồn. 5
  3. Sống lại 7
  4. Các linh hồn. 8
  5. Nghĩ về sự chết – ĐGM Bùi Tuần. 9
  6. Luyện ngục. 13
  7. Luyện ngục. 15
  8. Bên kia sự chết 16
  9. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK.. 18
  10. Các tín hữu đã qua đời 22
  11. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. 24
  12. Cái chết 25
  13. Bốn bà vợ. 27
  14. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn. 29
  15. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn. 31
  16. Thân xác và linh hồn – John W. Martens. 32
  17. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền Lâm.. 34
  18. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40. 34
  19. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42. 36

III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27. 37

  1. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền. 38

Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi 38

Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối 40

  1. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn. 42
  2. Tưởng nhớ người đã ra đi. 44
  3. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. 48
  4. Lòng biết và thảo kính đối với tổ tiên. 51
  5. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản. 54
  6. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình Thái 57
  7. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần. 59
  8. Tri ân tình cha, tình mẹ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 61
  9. Bóng câu cửa sổ. 64
  10. Luyện Ngục nơi Tình Yêu chiếu sáng. 68
  11. Tình Yêu Là Bí Quyết Của Hạnh Phúc Gospelnet 139 (2.11.2003) 72
  12. ĐƯỜNG ĐỜI Gospelnet 139 (2.11.2003) 76
  13. CHIA SẺ:NHỮNG NẤM MỘ Gospelnet 139 (2.11.2003) 77
  14. Tưởng nhớ người qúa cố. 81
  15. SUY TƯ VỀ HẠNH PHÚC VĨNH CỬU.. 84
  16. Chữ Tâm trong chữ Hiếu. 93
  17. Ðời đời và niềm hi vọng Kitô giáo. 96
  18. Ý nghĩa việc cầu nguyện cho những người thân yêu. 101
  19. Tại sao chúng ta cầu nguyện cho linh hồn những người quá cố?. 102

1. Luyện ngục

CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI

Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục?

Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện.

Vào ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định. Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên:

– Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.

Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy:

– Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa mãn với chính bản thân mình?

Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa?

Thì đây, luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã, thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta.

Và khi hình ảnh ấy đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.

Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hột khi cho rằng:

– Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.

Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.

Thánh vịnh 118 đã bảo:

– Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.

Chính Chúa Giêsu cũng đả xác quyết:

– Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.

Lòng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với nhau qua tín điều về luyện ngục.

Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ.

Từ đó, chúng ta thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn.

Và hình phạt đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài.

Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.

Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.

Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục.

Vậy luyện ngục là gì?

Tôi xin thưa:

– Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui.

Hay nói một các khác:

– Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.

Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.

Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong cuộc sống này:

– Đừng bình thản trong tội lỗi.

Đồng thời cũng là một thôi thúc:

– Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.

Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:

– Cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu rỗi.

2. Các linh hồn

Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân “Liên minh thiên đàng”. Công việc của hãng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người thân quen đã qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư trên một tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế nào để chuyển lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. “Liên minh thiên đàng”. Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình nguyện chuyển giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa “Liên minh thiên đàng” tuyển chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không có gì mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng bưu điện này ngày càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp nước Mỹ mà còn lan sang các lục địa khác nữa.

Mới nghe qua, nhất là đối với những người vô tôn giáo hay không tin có đời sau thì câu chuyện trên chẳng những kỳ quặc mà còn phi lý không thể chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng ta không có gì đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi. Bởi vì, giáo lý công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa người còn sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.

Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín điều của người công giáo và hãng bưu điện “Liên minh thiên đàng” của Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong muốn. Còn các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân quen đã qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình, dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay không mà thôi.

Thật vậy, con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa, khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có.

Nếu thế thì chúng ta, những người còn sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.

Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà thôi.

Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.

Đó là chưa nói đến tình máu mủ mà chắc chắn không ai trong chúng ta nở lòng nào quên tình nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu giúp của chúng ta. Còn xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng ta hoặc vì lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn và chuộc lỗi lầm cho họ.

Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ đến người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng đáng lám con cái của Chúa.

3. Sống lại

Trong tháng 11 là tháng dành riêng để cầu nguyện cho người chết, chúng ta cũng được mời gọi để suy niệm về sự chết.

Tác giả Elizabeth Khoctheoros, một chuyên gia tâm lý về cái chết đã phát biểu trong buổi khải giảng tại một trường học ở Mỹ như sau: “Ở cuối đời chỉ có một điều thực sự đáng kể là phải tự hỏi rằng mình đã có can đảm để sống không?”.

Phải tự hỏi mình có can đảm để sống không? Bởi vì phần đông trong chúng ta ai cũng sợ sự chết và nhất là sợ chết. Quả thực, chết là một thực tại đáng sợ nhất trong cuộc đời, chết là một hành động phản tự nhiên nhất là ta phải trải qua trong cuộc sống. Chính vì thế về mặt luân lý người ta không ngừng đi tìm đủ mọi cách để tránh nghĩ về sự chết hay phủ nhận cái chết sẽ không đến với chúng ta.

Trong ngôn ngữ thông thường dường như chúng ta cũng tránh nói đến cái chết, người chết được gọi là người quá cố, người khuất núi, người đã yên giấc nghìn thu hay người đã ra đi trước chúng ta. Nhưng muốn hay không cái chết vẫn là người bạn đồng hành mỗi ngày với chúng ta, chúng ta chứng kiến không biết bao nhiêu người thân thương ruột thịt chết, chúng ta chứng kiến cái chết qua các qua cái phương tiện truyền thông mỗi ngày. Đối với những người không có niềm tin, cái chết quả là một phi lý nhất trong cuộc sống, nhưng đối với những ai có niềm tin thì chính cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, đó là thái độ mà mỗi Kitô hữu vẫn thể hiện khi đứng trước cái chết. Cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, bởi chúng ta vẫn tin rằng bên kia cái chết cuộc sống vẫn tiếp tục, đó là cuộc sống trong cõi phúc trường sinh. Đây là niềm tin, niềm hy vọng mà chúng ta được mời gọi để nuôi dưỡng mỗi ngày.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta củng cố niềm tin và hy vọng. Chúa Giêsu không những rao giảng về sự sống lại, chính Ngài là sự sống lại, sự Phục sinh của Ngài là bảo chứng của cuộc sống và làm chứng cho lời rao giảng của Ngài. Chính sự Phục sinh của Ngài mà niềm của chúng ta được xây dựng. Thật thế, như lời thánh Phaolô khẳng định trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì Đức tin của chúng ta thật là hão huyền”. Niềm tin vào sự Phục sinh mang lại ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta, với niềm tin Phục sinh chúng ta tìm được can đảm để sống, mặc dù có trải qua nghịch cảnh thử thách, khổ đau; với niềm tin Phục sinh chúng ta vẫn tiếp tục tìm thấy ý nghĩa cuộc sống.

Tháng 11 chúng ta không khỏi ngậm ngùi nhớ lại người thân thương đã chết, chia ly cách biệt vẫn là nỗi đau nhất trong cuộc sống. Nhưng với niềm tin Phục sinh, chết như được dẹp bỏ, người chết như vẫn hiện diện gần gũi với chúng ta. Đây chính là nguồn diễm phúc của những ai có niềm tin vào sự sống lại.

4. Các linh hồn

Tục ngữ Việt Nam có câu: Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn. Hay: con ai chẳng là con cha, cháu ai là chẳng cháu bà cháu ông. Hai chữ cội nguồn đã mang lại toàn bộ ý nghĩa của đạo làm con đối với các bậc sinh thành mà bất cứ ai sinh ra trong cuộc đời đều có bổn phận phải ghi nhớ và gìn giữ. Theo tháng năm, từ đông sang tây, từ bắc chí nam, đâu đâu cũng vang lên giai điệu về chữ hiếu như là lời báo đáp và ghi ơn tổ tiên mình.

Chính vì thế, hàng năm Giáo Hội công giáo đã dành trọn tháng 11 để tưởng nhớ những người quá cố, để sống lại đạo làm con. Người công giáo vẫn có thói quen tốt lành xin lễ cho ông bà tổ tiên, viếng nghĩa trang cùng với việc tảo mộ. Ngoài ra, trong ba ngày đầu năm, Giáo Hội Việt Nam đã dành ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Hòa lẫn với chủ đề kính nhớ tổ tiên, Giáo Hội cũng đã nhắn gửi tới từng người con phải biết yêu chuộng ý nghĩa thiêng liêng cao cả: con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm.

Cũng thế, anh em Phật giáo hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch cũng có mùa vu lan để báo hiếu. Vào dịp này, mỗi người đều xướng lên tám lòng biết ơn của mình. Có người không quen ăn chay trường, song vào thời điểm này, người ta thể hiện lòng hiếu đó bằng việc ăn chay trọn tháng bảy âm lịch, hay có những người bận rộn công việc đời thường vào dịp này họ cố gắng thu xếp thời gian để đến một ngôi chùa quen thuộc dự lễ cầu siêu cho linh hồn ông bà cha mẹ đã qua đời. Họ tin rằng nhờ đó, bổn phận của họ được chu toàn. Với truyền thống lâu đời của người phật tử là cầu mong để được đáp đền ơn tam bảo, báo hiếu cha mẹ sinh thành dưỡng dục…

Còn ở Tây phương, người ta không có tục thờ cúng tổ tiên bởi vì chữ hiếu nơi họ không được nâng lên thành đạo. Thế nhưng họ có những ngày mà người Việt Nam chúng ta chưa có. Họ đã chọn ra hai ngày trong năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Đó là ngày của mẹ (mother’s. day) vào ngày chúa nhật thứ hai trong tháng năm và ngày của cha (father’s. day) vào ngày chúa nhật thứ ba trong tháng sáu.

Quả là đã mang trong mình dòng máu linh thiêng của tổ tiên, dù là người công giáo, phật giáo hay bất cứ ai cũng đều thể hiện lòng biết ơn một cách trân trọng đối với các bậc sinh thành. Trở về cội nguồn tổ tiên, chúng ta một lần nữa nói lên lòng biết ơn sâu sắc, đối với cácbậc tiền nhân.

Vì thế, chúng ta cùng nhau thắp lên một nén nhang để cùng nhớ ơn, ca ngợi công ơn tổ tiên và cầu nguyện cho tất cả những ai đã từng một lần chắp cánh cho chúng ta buớc vào cuộc đời và sống trọn vẹn ý nghĩa của con người.

5. Nghĩ về sự chết – ĐGM Bùi Tuần

Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào. Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.

Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không?

Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.

Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.

Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời.

Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.

Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.

Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.

Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.

Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.

Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.

Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:

  1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.

Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó. Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.

  1. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.

Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không?

  1. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.

Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34).

Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:

“Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa”(1Ga 3,14-19).

“Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,19-21)

Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ. Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.

Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại. Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.

Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.

6. Luyện ngục

Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.

Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ:

– Nếu luyện ngục là như vậy, thì đâu có gì tệ lắm.

Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố:

– Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.

Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ. Vậy luyện ngục là gì?

Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.

Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.

Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời:

– Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu.

Ông cụ đáp lại:

– Lên thiên đàng, thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi.

Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.

Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.

Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.

Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.

Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.

7. Luyện ngục

Nói tới luyện ngục, hẳn chúng ta không khỏi có những cảm nghĩ buồn vui lẫn lộn. Vui vì người vào đó sớm muộn gì rồi cũng sẽ có ngày ra. Buồn vì số người vào đó chắc chắn là đông đảo. Hay nói một cách khác: mấy ai sẽõ thoát được lửa luyện tội?

Ngay từ xa xưa, Giáo Hội vẫn tin rằng những người đã chết trong tình trạng ơn nghĩa cùng Chúa, nhưng còn vướng mắc những tội nhẹ, hay chưa đền bù hết những hình phạt tạm bởi tội, sẽ phải vào luyện ngục đền bù cho xong, rồi mới được lên thiên đàng, hưởng hạnh phúc muôn đời cùng Chúa.

Cựu Ước đã đề cập tới luyện ngục khi ghi lại hành động cao đẹp của ông Macabêô, khi ông quyên tiền gửi về Giêrusalem để dâng của lễ xóa tội cho một số anh em binh lính đã chết, mà lúc còn sống đã mang trong mình những ảnh tượng ngẫu thần, là điều mà lề luật Do Thái ngăn cấm.

Chúa Giêsu trong Tin Mừng cũng đã nói về luyện ngục:

– Hãy liệu làm hòa với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước mặt quan tòa, quan tòa lại trao ngươi cho tên lính canh và ngươi sẽ bị tống vào ngục. Ta bảo thật cho ngươi biết: ngươi sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,25).

Ra khỏi đó, không phải là ra khỏi thiên đàng, vì thiên đàng không phải là nơi đền bù tội lỗi. Ra khỏi đó, cũng không phải là ra khỏi hỏa ngục vì một khi đã rơi vào hỏa ngục, thì đời đời không bao giờ ra được nữa. Như vậy, ra khỏi đó chỉ có thể hiểu là ra khỏi luyện ngục mà thôi.

Tuy nhiên, việc ra khỏ đó lâu hay mau, còn tùy thuộc vào thời gian đền bù. Thật vậy, khi người ta cố tình phạm một tội trọng, thì đã đáng phải sa hỏa ngục. Thế nhưng, vì thật lòng ăn năn, nên tội trọng đó đã được tha, án phạt trầm luân đời đỡi đã được xóa bỏ, nhưng hình phạt tạm, nếu chưa được xóa bỏ hết, thì người ta vẫn phải đền ở đời này, hoặc đời sau trong luyện ngục.

Những linh hồn trong luyện ngục phải chịu đau khổ, nhưng không còn lập được công như khi còn sống ở trần gian, bởi vì thời gian lập công đã hết. Các ngàiï phải chịu đau khổ, nhưng lại không thểu tự cứu lấy mình được. Các ngài phải ở đó cho tới khi trả hết đồng xu cuối cùng.

Do đó, hình phạt ở luyện tội lâu hay mau còn tùy ở tội lỗi và sự đền bù của mỗi người. Tuy nhiên, những người còn đang sống vẫn có thể dâng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ, để xin Chúa sớm giải thoát những linh hồn nơi luyện ngục, trong đó có ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng quyến thuộc và bạn hữu. Những người thân quen này, rất có thể vì yêu thương chúng ta, mà đã không tuân giữ những điều Chúa truyền dạy. Đồng thời chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi không ai tưởng nhớ đến.

Thế nhưng trước hết và trên hết, chúng ta hãy cố gắng cải thiện đời sống, xa tránh tội lỗi, thực thi những việc bác ái yêu thương, để chỉ cho các linh hồn nơi luyện ngục, cũng như để bản thân chúng ta cũng được giảm bớt thời gian thanh luyện sau khi chết.

8. Bên kia sự chết

Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời… Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy.

Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.

Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp “các thánh thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”.

Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha…”. Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.

Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết… Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.

Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống… Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.

Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.

9. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK

TIN MỪNG: Lc 23,33-34.39-43

Câu hỏi gợi ý:

1) Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?

2) Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự gì khác?

3) Người gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay tình yêu? lòng vị tha?

CHIA SẺ

1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục

Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: «Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện”» (DS 856/464).

Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là «nơi» chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là «nơi» thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ…)

2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó phải thật hoàn thiện

Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về «nơi» lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là «luyện ngục».

3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ

Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: «Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta» (Kh 1,5). Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.

Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.

4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc

Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là kho tàng tình yêu.

Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!». Chính vì thế, anh đã được Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: «Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8).

5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí quyết của hạnh phúc

Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.

Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước.

Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó!

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, thánh Gioan nói: «Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không còn khả năng làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.

10. Các tín hữu đã qua đời

Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua đời, chúng ta thường hát:

– Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.

Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.

Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy.

Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận:

– Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.

Một linh hồn nói:

– Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.

Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.

Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.

Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.

Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.

Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ giáo lý cuối cùng như sau:

– Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.

Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ý kiến của một tờ báo Công giáo:

– Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?

11. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa

Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất tốt lành ?” Không doÙ dự, chú bé đáp: “Hãy lên trời sống với Ta”.

Rồi linh mục hõi một em bé gái: “Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao ? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ ?”. Cô bé đáp: “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác”.

Linh mục nói tiếp: “Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục ?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nhìn các con”.

Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời ? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.

Bạn không tìm thấy từ “luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)

Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi  linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).

Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (Amac 12,46).

Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.

Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

12. Cái chết

Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là những người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?

Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.

Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.

Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời để làm gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lý này, hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.

Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?

Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

13. Bốn bà vợ

(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của Frère Trần An Phong)

Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.

Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!

Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!

Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!

Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.

Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.

Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.

– Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?

– Không!

Nàng lạnh lùng đáp.

– Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!

Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:

– Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?

– Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.

Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.

Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:

– Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?

– Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.

Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.

Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:

– Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!

Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.

* * *

Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.

Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất – thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.

Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp – bà vợ thứ hai – nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.

Họ hàng, gia đình mình – bà vợ thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.

Còn cái linh hồn của mình – bà vợ thứ tư – mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.

* * *

“Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!

Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,

Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.

Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,

Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.

Họ tắt hơi là trở về cát bụi,

Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.

Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ

Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ.” (Thánh Vịnh 145: 1-5)

14. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn

(Suy niệm của Lm. Gioan B. Nguyễn Đình Lưu)

“Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.

Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.

Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.

Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.

Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:

“Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng…”

hay:

“Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng,

con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.

Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.

Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương của chốn hỏa hòa rên xiết.

Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.

Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.

Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.

Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao xuyến… thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:

– Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.

– Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta.

– Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót.

– Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.

Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác nơi Chúa.

Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.

Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?

Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.

15. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)

Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:

Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.

Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.

Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!

Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.

Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.

Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.

Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai nói thành lời.

Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái mình.

Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:

Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.

16. Thân xác và linh hồn – John W. Martens

(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

“Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga 6,40).

Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy ra? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy ra. Khi chúng ta giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi vẫn nghĩ tưởng về sự phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết, tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời, cùng với tất cả những ai đã được quyền năng của Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn chúng ta được giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu, khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới cách rời rạc, và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống chúng ta sau khi chết đi, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến và dần dần.

Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai sau, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ thể có đầy tràn hoa màu ruộng đất và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.

Cựu ước rất ít nói về sự phục sinh. Mãi về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân Israel trở về kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về số phận muôn đời của người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng, tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta, cả xác lẫn hồn, sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.

Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria, thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến “linh hồn những người công chính” đã chết. Tác giả viết “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).

Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết “ Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết”.

Tất cả những ai còn sống trong thân xác trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc nước trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: “Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được cư ngụ với Chúa”. Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.

17. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền Lâm

I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40

Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện ngục.

Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.

1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)

Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ một ai.

– Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.

– Các tín hữu đã qua đời, cũng là những người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.

2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)

Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết.

– Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.

Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19,25-27).

– Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.

Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.

II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42

Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:

Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).

Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).

Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.

Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:

  1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.

Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.

Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.

  1. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.

Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.

– Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.

Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.

III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27

Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:

  1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.

– “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”

Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.

– “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”

Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.

– “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”

Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.

  1. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.

– “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”

Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.

Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.

– “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”

Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.

– “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”

Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.

18. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)

Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi

Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.

Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: “Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!”.

Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. “Làm sao các anh biết được tôi ở đây?” – Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả lời: “Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh”.

Những người đã chết cũng đang sống trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông mong nơi những người còn sống.

Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”. Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.

Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:

“Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.

Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.

Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: “Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời” (các số 1030-1031).

Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?

Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.

Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen

Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối

Có một cậu bé hỏi bố rằng:

“Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”

“Chỉ một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.

Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.

“Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.

Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.

Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.

Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.

Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.

Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.

Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:

“Công cha đức mẹ cao dày

Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.

“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:

“Nuôi con buôn tảo bán tần

Chỉ mong con lớn nên thân với đời

Những khi trái nắng trở trời

Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.

Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:

“Ai rằng công mẹ như non

Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn”.

Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:

“Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi mẹ dắt con đi,

Con đi trường học mẹ đi trường đời”.

Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:

“Ai về tôi gửi buồng cau,

Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.

Ai về tôi gửi đôi giầy,

Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi”.

Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:

“Ơn hoài thai, to như bể!

Công dưỡng dục, lớn tợ sông!

Em nguyện ở vậy không chồng,

Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con”.

Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:

“Chim đa đa đậu nhánh đa đa,

Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.

Mai sau cha yếu, mẹ già.

Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?

Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.

Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.

Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen

19. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn

(Trích từ vietcatholic.net – LM. Nguyễn Phước).

Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.

Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.

Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.

Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.

***

Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.

***

“Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục – hoặc ngay cả “một thời gian ngắn của hỏa ngục.” Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác… Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng “lửa” luyện tội là tình yêu Thiên Chúa “nung nấu” trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn” (Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).

***

Lạy Chúa Giêsu,

nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này

thì thật là phiền toái.

Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn

vì phải chia tay với những người thân yêu,

vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.

Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết

như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,

nhưng như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,

Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,

và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,

để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống Vĩnh Hằng.

Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.

Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,

chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.

Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.

Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành

đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.

Sống một đời và chết một lần.

Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.

Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống.

Amen!

(theo Maranatha 89)

20. Tưởng nhớ người đã ra đi.

(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)

Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.

Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.

Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.

Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.

Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.

Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.

Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:

  1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.

Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.

Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.

  1. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.

Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.

Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.

  1. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.

Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.

Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.

Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.

Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.

  1. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.

Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.

Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.

Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.

  1. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.

Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.

  1. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.

Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.

Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.

  1. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.

Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.

Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.

Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.

  1. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.

Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.

Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.

  1. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:

– Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.

– Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.

– Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.

Và tôi tâm niệm rằng:

– Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.

– Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.

– Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.

 

21. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Anh chị em thân mến,

Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.

Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?

Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.

Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.

Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.

Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.

Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!

Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.

Chúng ta cám ơn người trộm “lành”, vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài “Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con”. Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.

Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.

Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?

  1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
  2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.

Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.

Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.

(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).

  1. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???

Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.

22. Lòng biết và thảo kính đối với tổ tiên

(CHẾT CHÓC VÀ THƯƠNG NHỚ)

(Bài giảng của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

Kính thưa quý OBACE, bầu không khí của những ngày cuối năm dường như làm cho con người vội vã tất bật hơn, ai cũng vội vàng và tranh thủ thời gian để hoàn tất kế hoạch của một năm. Có lẽ cũng vì mải chạy theo dòng thời gian và công việc, khiến cho nhiều người đã quên cả sự hiện diện của người bên cạnh, quên cả người thân đang ở trong cùng một mái nhà. Trong không khí vội vàng ấy, thì Giáo Hội đã dành cả một tháng cuối năm để nhắc cho người tin hữu nhớ rằng: dù mỗi người có vất vả bon chen đến đâu thì cũng phải nhớ đến chung cuộc đời mình, và cái chết là điểm hẹn chung của mỗi người. Cũng trong tâm tình ấy, Giáo hội nhắc cho mọi người nhớ đến và cầu nguyện cho các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, người thân, những người đã ra đi trước chúng ta và đã đang an nghỉ trên mảnh đất này, đồng thời biết quý trọng, biết ơn và thảo hiếu với những bậc sinh thành những người đang còn sống.

Tất cả chúng ta sẽ phải chết, đó là sự thật không thể thay đổi, thế nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ chết như thế nào và sau cánh cửa sư chết, điều gì sẽ đến với chúng ta, niềm vui sướng hạnh phúc, hay đau khổ hối hận đời đời, điều đó sẽ tùy thuộc ở nơi mỗi người biết sống hôm nay như thế nào. Tất cả sẽ phải chết, vì đó là thân phận của con người có sinh thì có tử, không ai có thể trốn tránh được. Cái chết nó vốn là tiến trình tự nhiên, nhưng từ khi con người phạm tội, cái chết nó còn mang một ý nghĩa khác, nó trở thành hình phạt cho con người, chính vì thế, cái chết nó trở nên kinh khủng cho con người. Vì sợ hãi, nên con người tìm cách tránh né nó, không dám đương đầu đối diện với nó, và vì thế nhiều người còn tìm cách lẩn trốn nó bằng một cuộc sống ồn ào náo nhiệt, một cuộc sống bận rộn với công việc và quay cuồng với tiền bạc của cải, và khi cái chết đến khiến họ tiếc nuối và sợ hãi.

Mọi người đều phải chết, nhưng điều quan trọng là mỗi người sẽ chết như thế nào và điều gì sẽ đến với chúng ta sau cái chết? Cứ nhìn vào những nấm mồ của những người an nghỉ, chúng ta có thể thấy, nhiều người khi sinh thời họ đã từng là những con người nổi tiếng, ngang dọc khắp nơi, và bây giờ cũng chỉ có một nấm mồ, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì, điều quan trọng là tình trạng hiện nay của họ ra sao, họ đang ở nơi nào? Nhìn như thế để mỗi người có dịp kịp thời điều chỉnh lại nếp sống của bản thân, chúng ta chỉ có thể bước vào nhà của Chúa nếu từ bây giờ chúng ta yêu mến Chúa và chọn Chúa. Chúng ta sẽ phải để lại tất cả ở trần gian và ra đi với hai bàn tay trắng, vì chúng ta không mang gì vào trần gian, thì chúng ta cũng sẽ không thể đem theo bất cứ thứ gì ra khỏi thế gian. Chỉ một thứ tài sản duy nhất chúng ta có thể mang theo đó là tình yêu đối với Chúa và tình thương của chúng ta đối với anh em, và chỉ có một thứ hành lý duy nhất là các việc lành việc tốt, việc bác ái và hy sinh.

Mỗi lần ra đất thánh này không chỉ nhắc cho chúng ta về cái chết, mà còn dịp nhắc cho chúng ta biết cách sống, phải sống thế nào cho trọn đạo làm người và đạo làm con đối với ông bà tổ tiên. Đứng bên nấm mồ của người thân, sẽ không chỉ có những giọt nước mắt thương nhớ, mà còn có những giọt nước mắt của sự hối hận muộn màng vì đã sống vô tình hay phũ phàng với người đã khuất.

Ngày hôm nay trong xã hội mọi sự đều tăng giá, chỉ có đạo đức làm người là giảm giá và mất giá trầm trọng, con người đối xử với nhau càng ngày càng như dã thú, tình cảm gia đình anh em ruột thịt cũng bị coi như hàng hóa, đạo làm con đối với cha mẹ cũng bị tính toán, bao nhiêu cảnh đối xử tệ bạc với mẹ cha đang diễn ra từng ngày xung quanh chúng ta. Có nhưng người đã không tiếc lời chửi mắng cha mẹ, coi cha mẹ không bằng một đứa ôsin trong gia đình, không chỉ chửi bới, nhiều kẻ còn đánh đập nhục mạ những đấng đã dày công sinh thành dưỡng dục mình, người ta có thể bỏ ra bạc triệu cho những bữa nhậu với bạn bè, nhưng cha mẹ lại không được một lời hỏi thăm, một tấm bánh. Đám tang tổ chức cho lớn, xây mộ cho to cho đắt tiền, việc làm đó không phài là báo hiếu, không phải là lòng biết ơn, mà nó chỉ còn là giả hình, là phô trương che mắt thiên hạ.

Thảo hiếu biết ơn tổ tiên và các bậc sinh thành không chỉ là bổn phận của đạo làm con, mà còn là một đòi buộc của Đạo Chúa: Thứ bốn thảo kính cha mẹ. Giới răn này đòi buộc chúng ta phải hết lòng yêu mên, kính trọng, và biết ơn đối với cha mẹ của mình và cả cha mẹ vợ cha mẹ chồng của mình, khi các ngài còn sống và cả khi các ngài đã qua đời; Vì chính cha mẹ là những đấng đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh ra chúng ta, nuôi cho chúng ta khôn lớn với biết bao vất vả gian nan, bao hy sinh, bao mồ hôi nước mắt. Cha mẹ chính là những người đã hy sinh cả cuộc đời để nuôi chúng ta khôn lớn và dạy chúng ta nên người, vì thế chúng ta mắc nợ các ngài món nợ sư sống và món nợ của tình yêu thương. Hãy kính trọng các Ngài, thông cảm an ủi khi các ngài tuổi cao sức yếu, đừng nặng lời, đừng khiến các ngài tủi thân, hãy chịu đựng và chăm sóc các ngài, như ngày xưa các ngài cũng đã từng phải chịu đựng và chăm sóc cho chúng ta. Hãy lo lắng cho phần thiêng liêng của cha mẹ bằng việc giúp các ngài được lãnh nhận các bí tích và ơn Chúa để nâng đỡ cho tuổi già của các ngài, hãy làm tất cả những gì tốt nhất cho cha mẹ khi các ngài còn sống, vì khi cha mẹ mất đi, sẽ mãi mãi không bao giờ tìm lại được.

Không chỉ biết ơn khi cha mẹ còn sống, mà còn phải biết ơn cha mẹ khi các ngài đã qua đời, bằng việc đọc kinh cầu nguyện, bằng việc hy sinh hãm mình, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài, nhắc nhở cho con cháu biết ơn các bậc tổ tiên. Hãy nhớ đến cha mẹ chồng cha mẹ vợ bằng việc chu toàn việc hiếu thảo hương khói, giỗ chạp trong gia đình, đừng để mang tiếng, những người có đạo là những người vô ơn bất hiếu với tổ tiên.

Hãy biết ơn và thảo hiếu với tổ tiên bằng việc giữ lấy nề nếp gia phong của gia đình, thực hiện và làm phát triển tài sản tinh thần mà cha ông đã để lại cho con cháu qua việc giáo dục con cái nên người, qua việc giữ gìn đạo đức gia phong của gia tộc, bảo vệ danh dự của tổ tiên, đừng để cho đồng tiền cho sự nghèo đói làm cho chúng ta trở nên bần tiện nhỏ nhen. Đừng quên giáo dục con cái biết sống hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, bằng chính gường sáng của mình qua việc tôn kính thào hiếu với ông bà, vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy; chúng ta gieo giống nào thì sẽ gặt quả ấy, chúng ta vạch mực đến đâu, thì con cái chúng ta sẽ đi đến đó. Vì thế không có bài học nào sâu đâm và lay động cho bằng bài học bằng gương sáng của cha mẹ.

Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa đồng thời cũng đòi buộc bổn phận của cha mẹ đối với con cái, trước hết là bổ phận giáo dục, nuôi dưỡng. Hãy giáo dục dạy dổ cho con cái sống đúng với đạo làm người làm con Chúa, sống đúng với phẩm giá con người. Đừng quá chú trong đến việc học hành văn hóa mà bỏ qua hoặc coi nhẹ việc giáo dục đức tin cho con cái, và xây dựng nếp sống đạo đức cho cả gia đình. Cha mẹ hãy tạo nên một bầu khí đạo đức và cầu nguyện cho gia đình, và trở thành gương sánh cho con cái trong việc cầu nguyện và các việc đạo đức. Hãy tập cho con cái yêu mến và hăng say làm việc tông đồ trong giáo xứ theo lứa tuổi của mình, vì khi còn nhỏ, các em có thói quen và tinh thần tông đồ, thì sau này các em sẽ trở thành người tín hữu nhiệt thành. Hãy làm cho gia đình mình mỗi ngày trở nên ấm cúng thuận hòa qua các giờ kinh sáng tối mỗi ngày, qua các bữa cơm chung đầm ấm. hãy cố gắng làm cho bữa cơm gia đình thật sư là lúc mọi người được tràn ngập niềm vui và sự chia sẻ, đừng biến bữa cơm trở thành tòa án để kết tội nhau.

Nhưng người cha, hãy thực sự là cột trụ trong đời sống của gia đình, là điểm tựa cho vợ con và cả nhà. Các người mẹ hãy dùng đời sống đạo đức và sự đảm đang của một phụ nữ làm cho gia đình thêm ấm cúng, hãy cùng nhau làm cho căn nhà cùa mình rộn rã tiếng cười, đừng biến gia đình mình trở thành căn nhà trọ sáng đi tối về. Các người làm con hãy góp phần mình làm vơi đi sự nhọc nhằn của cha mẹ bằng việc sống ngoan ngoãn vâng lời và chịu khó học tập và làm việc. Mỗi người hãy sống thế nào để khi ngườui tân có mất đi, mình sẽ không phải hối hận vì đã chưa làm được gì cho họ. Amen

23. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản

(Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)

Anh chị em thân mến,

Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng thế gian” (16,33).

Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô».

Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.

Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».

Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.

Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.

Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến,

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài còn nhấn mạnh: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.

Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời đời”, là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.

Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống máu Người”

“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.

Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; “Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)

Anh chị em thân mến,

những người thân của chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.

Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.

Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

24. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình Thái

(Ga 19, 1.23-27a ; Rm 5, 5-11; Ga 6, 37- 40)

DẪN LỄ: Chúng ta vừa bước vào tháng 11, tháng dành riêng cầu nguyện cho các kẻ đã qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo Hội, qua các Thánh Lễ, lại chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội muốn chúng ta sống ý thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Như vậy, hôm nay quả là dịp tốt để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã khuất; trong đó có ông bà, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta nơi Chủng Viện này. Nhờ Ơn cứu chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đã “vắng bóng”được tha thứ mọi tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên đàng”.

Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn, chúng ta xin Chúa thanh luyện chúng ta trước.

GIẢNG LỄ:

  1. Tôi tin có đời sau.Tôi tin sự sống lại và sự sống vĩnh cửu.

Chẳng phải là tín hữu ngày nay chúng ta mới hùng hồn tuyên tín như thế (Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đã tuyên bố: “Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Ngài, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải là người xa lạ” (G 19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông tin rằng Đấng hằng bênh vực ông vẫn sống và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cõi đất để cứu ông. Niềm tin của ông bền vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy của ông được tạc vào đá cho đến muôn đời.

Là tín hữu, chúng ta xác tín mạnh mẽ vào lời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi Người nói: “Ý của Đấng sai tôi là tất cả những kẻ Ngài đã ban cho tôi, tôi không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). “Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 40).

Không để mất một ai nghĩa là thế nào? Thánh Phaolô, qua thư Rôma, giải thích rõ ràng rằng “ngay khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu, khi chúng ta không có sức làm được gì để cứu lấy mình”. Không để mất một ai là “bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với Thiên Chúa. Giải pháp ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5, 6-11).

Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như vậy để củng cố thêm niềm tin của chúng ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc sống trường sinh hạnh phúc với Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho những người đã chết được, nếu tiên vàn chúng ta còn hiểu nhạt nhoà mơ hồ về Tình yêu Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Kitô như thế.

  1. Phải cầu nguyện cho những vong nhân.

Cầu nguyện cho những người đã khuất là một bổn phận không thể xao lãng của chúng ta.

Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để mất một ai là một chuyện. Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần hiệp thông luôn cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời, chứ không được ỷ lại vào Chúa.

Công đồng Vatican II nhắc lại mầu nhiệm Giáo Hội cùng thông công như sau: “Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được tinh luyện và có những người đang được chiêm ngưỡng rõ ràng Thiên Chúa Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đã chết”.

Hơn nữa, người tín hữu đã chết trong Ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời đời này, thì không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rõ trong sách Khải huyền: “Tất cả những gì ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không được vào thành…” (Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới vào được Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng Florence (1439) mới định tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn.

Purgatorium, chỉ luyện ngục, có nghĩa là tinh luyện.

Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội dâng lễ nài xin Ơn tha thứ cứu độ của Chúa Giêsu cho các linh hồn; suốt tháng 11 này và đặc biệt hôm nay ngày 2.11 còn tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm 3 lễ trong ngày). Giáo Hội kêu gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện cho những người đã khuất. Cầu nguyện là góp phần mình vào mở kho Ân xá, nhường cho các linh hồn nơi luyện ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu mình. Giáo Hội còn khuyến khích đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh hồn, vì: “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” (Tục ngữ).

Thế nên, người sống có nhớ đến, có cầu…thì người chết mới mát mẻ thanh nhàn. Thật ra, không phải cầu cho người “chết”. Nếu chết là chấm tận, hết chuyện thì cầu làm gì và ích lợi gì? Nhưng là cầu cho nguời vượt qua cõi chết, đi vào cõi sống muôn đời.

25. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần

Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.

Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.

Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.

Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.

Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.

Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.

Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.

Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.

Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.

Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.

Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:

 Khám phá ra những chân lý nhân sinh.

 Khám phá ra những hy vọng ứu độ.

 Khám phá ra chính mình.

Khám phá ra chân lý.

Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.

Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.

Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.

Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.

Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.

Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).

Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.

Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.

Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.

Khám phá ra hy vọng

Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.

Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).

Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.

Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.

Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.

Khám phá ra chính mình.

Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.

Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.

Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:

Gọi hãy cảm thương.

Gọi hãy chia sẻ.

Gọi hãy trở về.

Gọi hãy hiến dâng.

Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.

Gọi hãy sám hối và tín thác.

Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.

Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).

26. Tri ân tình cha, tình mẹ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.

Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.

Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: “Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!”.

Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.

Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”…

Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác… Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng… mẹ rất yêu con…”.

Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:

“Công cha đức mẹ cao dày

Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.

“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:

“Nuôi con buôn tảo bán tần

Chỉ mong con lớn nên thân với đời

Những khi trái nắng trở trời

Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.

Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ

Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha

Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:

Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha

Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn

Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:

“Đố ai đếm được lá rừng,

Đố ai đếm được mấy từng trời cao

Đố ai đếm được những vì sao,

Đố ai đếm được công lao mẫu từ”.

Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:

“Nhớ ơn chín chữ cù lau

Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình”.

Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:

“Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi mẹ dắt con đi,

Con đi trường học mẹ đi trường đời”.

Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.

Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: “con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”… Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời.

Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.

27.  Bóng câu cửa sổ

Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,

Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

Một cơn gió thoảng là xong,

Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.

(Tv 103, 15-16)

Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để được rửa tội.

Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.

Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được tìm thấy.

Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự…

Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả đại-họa đó là “một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người.”

Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.

Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước.

Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lý-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: “Chúng ta đừng quan-tâm đến sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ đến sự chết.” Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: “Có thời để sinh ra, có thời để lìa đời.” (Gv 3, 2).

Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: “Thân phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9, 27).

Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên, chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời Thánh-Kinh: “Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét, thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội.”

Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: “Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế.” Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa.” (Mt 22, 21).

Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và “còn lại một mình tôi” trong nơi hoang vắng…!

Thánh Giacôbê đã viết: “Anh em không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi.” (Gc 4, 14). Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.

Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi dệt cửi: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy-vọng.” (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: “Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa”. Tiên-tri I-Sai-A đã suy ngắm: “Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ.” (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử quyển I cũng viết: “Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ, không để lại dấu vết.” (1 Sb 29, 15).

Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: “Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời.”

Thánh Gióp cũng đã từng than-thở: “Vì tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua.” (G 14, 5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói: “Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” (Tv 103: 15,16).

Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: “Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua.” (Is 40, 6-7).

Trong những giờ phút cuối cùng đời mình, Cesar Bergia đã nói: “Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi.”

Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời gào thét sau đây: “Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đã làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước mặt Ngài?” Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo: “Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?” (Dt 2, 3).

Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết những câu sau đây, trong bài thơ ‘Sách Sự Sống’:

“Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi tiền chồng chất.

Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi thanh-thản, bình-an.

Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười nhạo tôi.

Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.

Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.

Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: ‘Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời-giờ.’ “

Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói: “Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi.” Cyrus cũng đồng ý-kiến: “Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một thân-thể hay chết.” Chính Emerson cũng nói: “Bằng chứng hiển-nhiên về sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi kết-luận trái ngược.” Mark Twain đã viết: “Tôi không bao giờ tìm thấy mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng chờ-đợi nó.”

Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua Hezekiah: “Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi đâu.” (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: “Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi.” (Am 4,12).

John Bunyan, tác-giả cuốn “Thiên-lộ lịch-trình”, đã nói lúc ông gần qua đời: “Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng trong cõi đời đời.”

Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: “Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16).

“Sinh ký tử qui” (sống gởi thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi.” (Pl. 1,21).

Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh “Dâng Mình” của Cha Charles de Foucauld như sau:

“Lạy Cha, con phó-thác mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con. Amen.”

28. Luyện Ngục nơi Tình Yêu chiếu sáng

VietCatholic News (28/10/2002 )

Có những điều hối tiếc trong cuộc sống con người đã trải qua, có những dự định tốt lành nhưng chưa bao giờ đạt tới trong cuộc lữ hành, có những trăn trở của con người chưa bao giờ nguôi từ khi sinh cho đến khi chết là được chiêm ngắm tận mắt Đấng là Chân, Thiện, Mỹ. Khắc khoải và mong chờ ấy gặp được và hoàn thành ở cuối con đường của luyện ngục. Đó là một hành trình cần thiết để hoàn tất khát khao sâu thẳm của con người. Trong niềm vui đó, tôi cầu nguyện cho những người đã khuất.

Sách Giáo lý toàn cầu nói về luyện ngục là nơi“những người chết trong ân nghĩa của Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được ơn cứu độ đời đời, còn chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc thiên đàng” Số 1030. Luyện ngục là nơi thanh luyện của những người được chọn cần được thanh tẩy, chuẩn bị cho việc gặp gỡ Thiên Chúa diện đối diện (1Ga 3, 2).

Thanh luyện là sự cần thiết.

Trong một lần, khi nhìn xem những em thiếu nhi đùa giỡn, có một em lỡ tay đánh phải người bạn thân của nó bên cạnh, nó làm cho bạn nó đau, nó muốn xin lỗi bạn, nhưng người bạn kia đang giận dỗi nghỉ chơi với nó ra. Nó đến trước mặt người bạn và khẩn khoản: “bạn hãy đánh lại tớ đi, rồi đừng giận tớ nữa”. Luyện ngục là những hối tiếc xin được làm lại là như thế, tuy rằng không còn có thể lập công phúc, nhưng trong sự tự nguyện của cá nhân và trong niềm tin các thánh thông công, tôi muốn được khuôn đúc lại trong Đức Kitô. về màu nhiệm các thánh thông công, Sách giáo Lý toàn cầu dậy: “Bởi tất cả các tín hữu hợp thành một thân thể duy nhất, cái tốt của người này được thông truyền cho các người khác,… nên phải tin là có sự hiệp thông những điều thiện hảo trong Hội Thánh. Thành phần quan trọng nhất trong Hội Thánh là Đức Kitô, vì Người là Đầu… do đó, sự thiện hảo của Đức Kitô thông truyền cho tất cả các chi thể và sự hiệp thông này được thực hiện qua bí tích của Hội Thánh. Chỉ có cùng một Thánh Thần duy Nhất điều khiển Hội Thánh, nên tất cả những điều thiện hảo Hội Thánh nhận được, tất yếu trở thành vốn chung” (GLTC số 947). Nhờ vốn chung và việc tình nguyện được thanh luyện, mà chính tôi được thành toàn và trở nên con người mới trong Đức Kitô. Thật cần thiết cho tôi con đường thanh luyện nơi luyện tội ấy.

Màu nhiệm của sự sống đã rõ nét trong luyện tội:

Đức Kitô đã chết cho tôi và để cho tôi được sống. Sự sống của lời hứa ấy đã rõ nét trong luyện tội. Luyện tội trở thành nơi chuẩn bị, trở thành nơi bù đắp hoàn thiện những gì thiếu sót, nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô. Bao nhiêu điều thiện hảo khát khao ở dưới thế không hoàn tất được, thời gian thanh luyện là nơi hoàn tất, vậy tại sao tôi lại buồn? Luyện ngục là chốn của niềm vui, nhưng chưa trọn vẹn, dù sao vẫn hơn khi còn ở trần thế. Cảm nghiệm này có lẽ Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã thấy được mối phúc của luyện tội khi chị viết trong những ngày cuối đời: “ Nếu tôi vào luyện ngục, tôi rất hài lòng. Tôi sẽ làm như ba trẻ Do Thái ở trong lò lửa, tôi vừa đi dạo trong lửa cháy vừa hát thánh ca của Tình yêu” (Derniers entretiens). Không thể buồn khi được làm lại tròn đầy từ những gì đã đổ vỡ. Kinh nghiệm của cuộc đời này cho tôi hay điều đó, có những khát khao thực sự làm mới lại từ những đổ vỡ, nhưng hầu như ít khi có thể trọn vẹn được như ước mong. Người ta thường nói: “Ly nuớc đã đổ làm sao có thể hốt lại cho đầy”. ở trần thế này thì không nhưng nơi luyện tội lại làm được và còn hơn thế. Thời gian luyện tội có lẽ là thời gian tốt nhất để hoàn thành con người của mình, vậy có gì mà lo buồn? hãy vui như ba trẻ Do Thái đi lại trong lò lửa có lẽ là thái độ đúng nhất khi vào trong luyện tội. Niềm vui đã chắc chắn khi đã thấy cây mầm sự sống đang phát triển. Sự sống đời đời là nhận biết Thiên Chúa. Nơi thanh luyện tôi đã được nhìn thấy Thiên Chúa của tôi cho dù chưa rõ nét như khi diện đối diện. Vấn đề là thời gian, thời gian của Đêm hướng về ánh sáng.

Luyện tội, nơi kinh nghiệm về Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống:

Thái độ của niềm vui khi được tuyển chọn vào trong nơi thanh luyện, khởi đi từ niềm tin khi tôi còn sống ở trên đường lữ hành. Theo kinh nghiệm niềm tin của ông Gióp, ông đã trải qua những thử thách của Thiên Chúa để rồi cuối cùng nhận định rằng: “Ai sẽ làm cho lời tôi được ghi chép? Ai sẽ dùng bút sắt ghi khắc lời tôi? Ai sẽ dùng chì ghi tạc lời tôi trên đồng trên đá? Vì tôi biết rằng Đấng Cứu chuộc tôi hằng sống, và ngày tận thế tôi sẽ từ bụi đất sống lại; da tôi sẽ bọc thân tôi, và trong xác thịt, tôi sẽ thấy chúa tôi. Chính tôi sẽ thấy Người và mắt tôi sẽ nhìn Người, chớ không ai khác” (Giop 19, 1. 23 – 27 a). Niềm tin vào Thiên Chúa Hằng Sống trong đời này, thắp lên niềm vui yêu mến trong nơi thanh luyện. Thiên Chúa Hằng Sống, Người vẫn sống trong tôi, mãi mãi ở bên tôi và như Thánh Phaolô đã nói một cách thuyết phục với tín hữu Roma, một cách xác tín: “Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô được? có phải là gian truân, buồn sầu đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo chăng? Nhưng chúng ta sẽ thắng được tất cả những sự ấy nhờ có Đấng yêu thương chúng ta. Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay bậc quyền quý, tài sức, dù những sư hiện tại hay tương lai hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 35. 38 -39). Trong niềm tin ấy, khi còn sống ở đời này lẽ nào lại sợ hãi, khi được chuẩn bị ở mãi trong Chúa sau giai đoạn thanh luyện? Không còn là sợ mà trong tôi đang nảy lên một niềm mừng vui bởi người sẽ “tay đỡ tay nâng không để chân tôi vấp phải đá” mà hư mất đời đời. Tôi hy vọng vào Thiên Chúa Đấng Cứu độ tôi hằng sống, Người sẽ cứu thoát tôi, chuẩn bị lại cho tôi ngày diện kiến Thánh Nhan. Nơi luyện tội, tôi sẽ kinh nghiệm hơn về những điều này, bởi thấy được lòng thương xót bao dung của Thiên Chúa, Người đã không rời xa tôi trong ngày tôi lâm vào túng quẫn, Người đã không chia lìa tôi trong ngày sự chết ập tới, và trong ngày tôi chuẩn bị, Người đã mặc lại áo hoàng tử cho tôi. Thật sự là mừng vui khi gẫm về luyện tội trong tình yêu của Thiên Chúa, tim tôi bắt đầu run lên trong từng nhịp đập, bởi biết Người là Thiên Chúa Hằng Sống và Hàng Yêu Thương, Người chữa lành cho tôi .

Luyện ngục, nơi đốt nóng tình yêu:

Đây là một cảm nghiệm của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chị đã lấy mất đi nơi Luyện ngục tính hung hăng mà người ta thường nghĩ. Nếu có lửa của luyện ngục thì lửa đó là lửa Tình yêu, nếu có mong niềm mong mau cứu thoát là niềm mong của ngày Tân nương kết hợp cùng Tân lang. Sự khát khao Tình Yêu làm nên ngọn lửa cháy bỏng lòng yêu mến. ở trên đời này, con người còn cần đến niềm tin vì chưa thấy, nhưng giai đoạn của đời sau còn lại là lòng mến. Thánh PhaoLô trong bài ca Đức mến (1 Cor 13) diễn tả lòng mến ấy, để rồi khẳng định “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến…”. Trong luyện tội có lửa của niềm vui vì đầy tràn hy vọng, hy vọng “Nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng” (TV 35, Kinh Sáng Thứ Tư, tuần 1). Ánh sáng của Người đã soi chiếu tỏ tường hơn khi còn ở trần gian, lửa luyện tội thắp lên ánh sáng của Người để tôi nhìn thấy Ánh sáng. Lửa của sự trừng phạt đã tháo chạy để còn lại lửa của Tình Yêu chữa lành. Thiên Chúa Yêu thương là Thiên Chúa chữa lành, các linh hồn trong luyện tội là được Tình Yêu chữa lành. Và như tiên tri Ezekien loan báo lời của Thiên Chúa: “Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới”. Ngày Thanh Luyện là ngày thực hiện toàn vẹn lời loan báo ấy, Thiên Chúa Người đang làm nên trái tim mới. Thời gian của thanh luyện không còn đau khổ của sự phản bội nữa, không còn sầu thương của mỗi lần vấp ngã, vì đây là thời gian băng bó, thời gian của chữa lành. Thiên Chúa chữa lành là Thiên Chúa biểu lộ tình Chúa yêu thương. Khát khao cháy lên vì thấy cận kề Tình Yêu của Thiên Chúa thực hiện. Khát khao làm tăng thêm lòng mến, khát khao làm cháy tan những vị kỷ, thiêu đốt những gì là bợn nhơ. Thời gian không còn là thước đo của lỗi lầm mà là thước đo của lòng mến. Càng thấy Tình Yêu rõ nét càng ươc ao đến cùng Tình Yêu ấy. Càng muốn đến gần Tình yêu càng mong muốn trở nên xứng đáng với Tình Yêu sắp lãnh nhận. Tình Yêu làm nên ý nghĩa của ngày dài chuẩn bị, không còn là hối tiếc về những sai lầm mà là thời gian tích cực sửa chữa những sai lầm, Tình Yêu làm nên những hành động tích cực. Không còn là là ước mơ nhưng đang thực hiện ước mơ. Không còn là thời gian dự định nhưng là thời gian thực hiện của lòng mến. Hình ảnh mà Thánh Têrêsa mượn để trình bày sự hân hoan của lòng mình nếu như vào luyện ngục là Ba đứa trẻ đang đi trong lò lửa mà như đang dạo chơi. Trong Tình yêu thì không còn chỗ nào là ngục nên chăng đổi từ ngữ Luyện ngục trở thành nơi Thanh Luyện? Nơi của Tình Yêu đốt nóng niềm khát khao.

Chúng ta, những người còn sống cầu nguyện cho những người quá cố là cầu nguyện cho ngày của chờ đợi hợp hôn đến sớm hơn chờ đợi. Luyện ngục không còn là ngục tù giam hãm, trả đũa những gì sai lỗi mà là nơi chuẩn bị trong Yêu Thương và hoàn thành những ước mơ. Các linh hồn ở trong luyện ngục là đã chắc chắn về ngày hợp hôn, đối với những người còn đang lữ hành thì còn đầy phiêu lưu. Vậy hãy xin cho lòng mình, hôm nay trong sự sống này gặp gỡ được lòng thương xót của Chúa và chính nhờ lòng thương xót ấy chữa lành và hoàn tất trong nơi Thanh luyện.

Suy gẫm về điều này, tôi đôi lần ước mơ giản đơn, xin cho con được vào nơi thanh luyện thôi, dù cho đó chỉ là chiếc vé vớt.

 

29. Tình Yêu Là Bí Quyết Của Hạnh Phúc

Gospelnet  139 (2.11.2003)

  1. NIỀM TIN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO VỀ LUYỆN NGỤC

Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công Giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: “Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện” ( DS 856 / 464 ).

Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một “nơi” hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là “nơi” chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. ( Gọi là “nơi” thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên Đàng, Luyện Ngục hay Hỏa Ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ… )

2.THIÊN ĐÀNG ĐÒI HỎI NGƯỜI TRONG ĐÓ PHẢI THẬT HOÀN THIỆN

Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về “nơi” lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không ? Nếu người ở Thiên Đàng mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là “luyện ngục”.

3.TỘI LỖI HAY TÍNH VỊ KỶ LÀ ĐẦU MỐI GÂY ĐAU KHỔ

Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, Thánh Gio-an viết: “Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” ( Kh 1, 5 ). Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc.

Thế nhưng, con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.

Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.

4.TÌNH YÊU HÓA GIẢI ĐAU KHỔ VÀ ĐEM LẠI HẠNH PHÚC

Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa câu nói Đức Giê-su, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” ( Mc 10, 21 ). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là kho tàng tình yêu.

Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giê-su, thương cho Ngài bị hàm oan: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !” Chính vì thế, anh đã được Đức Giê-su nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của Thánh Phao-lô: “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi” ( 1 Pr 4, 8 ).

5.CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ VÌ TÌNH YÊU LÀ BÍ QUYẾT CỦA HẠNH PHÚC

Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này ! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.

Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước.

Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương.

Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu ! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó !

Lạy Cha, Thánh Gio-an nói: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” ( 1 Ga 4, 18 ). Chúng con cảm thấy chính khi chúng con thật sự có tình yêu thì chúng con không còn sợ đau khổ nữa, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi chúng con không còn sợ khổ đau, thì khổ đau cũng không còn có thể tác oai tác quái trên chúng con nữa, không còn khả năng làm chúng con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và chúng con cảm thấy bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là Thiên Đàng. Một Thiên Đàng mà chúng con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.

Gs, NGUYỄN CHÍNH KẾT

30. ĐƯỜNG ĐỜI

Gospelnet  139 (2.11.2003)

Đường đời vòng quanh như một con rắn tự ngoặm lấy đuôi mình. Con người trần trụi từ lúc bắt đầu mở mắt, năm này qua năm khác, đi lên cho tới giữa cuộc đời, vào tuổi trung niên, rồi dần dần đi xuống. Rốt cuộc, với tấm hình hài trần trụi, con người lại trở về vị trí khởi hành.

Dần dần, con người tăng trưởng, tầm vóc cao lên. Rồi một ngày, lưng thêm còng, gối thêm mỏi, thân hình như lụn dần, cuối cùng thì nghiêng mình cúi xuống cát bụi.

Dần dần con người khai triển ngũ quan, mở rộng tầm nhìn tầm nghe, những quan năng khác cũng tăng tiến hoàn chỉnh như thể buổi sáng mở toang các cánh cửa sổ. Rồi mỗi ngày, mắt thêm mờ, tai thêm lãng, khép dần các ngũ quan như thể đóng cửa về đêm.

Mỗi ngày một chút, kiến thức đủ loại tích lũy trong trí nhớ. Đến lúc về già, nói trước quên sau, để đâu quên đấy.

Mỗi ngày một chút, chân thêm vững, tay thêm khéo, miệng thêm lưu loát. Tới ngày xế bóng, tay chân run rẩy vụng về, nói năng chậm chạp lung túng.

Một ngày trước kia bắt đầu tập nói. Một ngày sau này lại nói chẳng ra hơi.

Một ngày trước kia rời vòng tay mẹ, chập chững biết đi. Một ngày sau này không còn sức xê dịch, phải vịn cánh tay con cháu.

Thuở còn nằm nôi, mẹ cho bú mớm, thay lót đổi tã. Rồi sẽ tới ngày phải nằm liệt, con cháu chăm nom, lau mặt thay áo, xúc cơm đổ thuốc.

Một ngày trước kia mở mắt chào đời, làm quen với thế giới chung quanh. Rồi sẽ tới ngày nhắm mắt buông xuôi, vĩnh biệt dương thế.

Một ngày trước kia lần đầu hô hấp, con người sinh ra. Rồi sẽ tới ngày thở hắt ra lần cuối, đi vào cõi chết.

Một ngày xa xưa, trước khi ra đời, chín tháng mười ngày nằm trong dạ mẹ ấm áp, thêm thịt thêm xương mà hình thành cơ thể. Tới ngày cuối cùng đi vào lòng đất giá lạnh, hình hài dần dần phân hóa, thịt xương trở về với tro tàn.

Một ngày xa lắm, con người xuất phát từ người cha mình như một hạt giống truyền sinh. Tới ngày chấm hết cuộc đời trần thế, con người trở về trong Cha của mọi người cha phàm trần, để rồi được tái sinh nơi cõi trường sinh bất tử.

Tới lúc đó, trong một bản thể mới, tất cả lại bắt đầu…

MARIE NOEL ( 1883 – 1967 ), TRÍCH TỪ “NOTES INTIMES” NGƯỜI DỊCH: AN-TÔN LÊ VĂN LỘC

31. CHIA SẺ:NHỮNG NẤM MỘ

Gospelnet  139 (2.11.2003)

 

Một dịp nào đó, chúng ta có dịp rong ruổi băng qua một miền quê, bên những cánh đồng xanh tươi, hoặc sau những lũy tre mượt mà, thế nào chúng ta cũng gặp thấy những nấm mộ nằm chen chúc cạnh nhau. Thông thường những nấm mộ dân Việt được đắp u lên như hình ảnh cái bụng người mẹ đang mang thai. Một thuở xa xưa, chính trong lòng dạ cưu mang của người mẹ mà chúng ta đã nhận lấy sự sống làm người. Rồi cũng đến một lúc, chính từ những nấm mộ đắp u lên như cái bụng người mẹ mang thai, mỗi người chúng ta lại sẽ trở về lòng đất mẹ, “sinh ký tử quy”, trở về để sự sống của chúng ta được đổi mới.

Cũng chính trong nấm mộ là cái chết của Đức Giê-su Ki-tô mà chúng ta đã nhận lãnh sự sống vĩnh cửu. Ngày chúng ta trở về lòng đất mẹ, chúng ta cũng sẽ trở về với Đức Giê-su Ki-tô, để sự sống của chúng ta được đổi mới, được tham dự vào sự sống mới của Đấng đã Phục Sinh.

Tại đất nước Kenya bên Phi Châu, tuy tiếng Swahili vẫn là quốc ngữ, nhưng nhiều bộ tộc nhỏ vẫn nói thứ tiếng riêng của mình, và họ gọi Thiên Chúa là “Ngài” y như người Việt chúng ta. Lại cũng có bộ tộc gọi Thiên Chúa là “Ni-a-xây” ( Nyasaye ) nghĩa là cái “Bụng”, cái “Tử-Cung-Để-Mang-Thai”, và khi chôn cất người chết, họ cũng đắp ngôi mộ u lên thành một cái “Ni-a-xây”, một chiếc bụng người mẹ đang mang thai, giống như dân Việt chúng ta.

Chính Đức Giê-su Ki-tô là Alpha và Omega, những chữ cái đầu hết và cuối hết trong tiếng Hy-lạp ( x. Kh 1, 8 ), Người là Khởi Nguyên và là Cùng Đích, như được ghi trên cây nến Phục Sinh vào tối Thứ Bảy Tuần Thánh trong Lễ Vọng Phục Sinh.

Lạy Chúa Giê-su, chính từ Ngài mà chúng con nhận được sự sống, và cũng chính Ngài là nơi chúng con sẽ quay về khi sự sống của chúng con ở trên cuộc đời này được biến đổi. Chính Ngài là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến. Chính Ngài đã yêu mến chúng con, đã lấy Máu mình để rửa sạch mọi tội lỗi chúng con, để làm cho tất cả chúng con trở thành một vương quốc và hàng tư tế để phụng thờ Thiên Chúa là Cha của Ngài, Amen ( Kh 1, 5 ).

Theo DAILY BREAD 25.4.2000

5.CHỨNG TÁ: NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CHỊ TÊ-RÊ-XA

Gospelnet  139 (2.11.2003)

Chị Tê-rê-xa sinh tại thành Lisieux nước Pháp, nữ tu Dòng Kín Cát-minh, còn được gọi là Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh ngày 3.10.1925. Năm Tê-rê-xa 23 tuổi, chị đã thổ huyết lần đầu tiên vào ngày thứ 6 Tuần Thánh, nhưng sau đó, sức khỏe của chị lại phục hồi. Năm sau, hết Mùa Chay, bệnh lao phổi tái phát quyết liệt. Từ tháng 7, các đồ khâm liệm chôn cất đã được Nhà Dòng chuẩn bị trước…

Những ngày cuối cùng ấy, chị Tê-rê-xa thật sự không còn gì để nương tựa, sức cùng lực kiệt. Chị lại vừa được tin thân phụ là ông Martin được đưa vào điều trị chung với những người điên, và trở thành mục tiêu cho người đời thương hại và khinh miệt. Chị viết trong nhật ký: “Nếu không có Đức Tin thì tôi đã tự sát, không do dự một phút nào !” Và chính khi cận kề cái chết, chị đột nhiên để cho ngòi bút của mình reo lên như một tiếng reo chiến thắng: “Hỡi hải đăng sáng chói của Tình Yêu, ta đã tìm được bí quyết để chiếm lấy ngọn lửa của ngươi !”

Ngày 30.7.1897, người ta tưởng chị không sống nổi qua đêm hôm ấy. Nhưng mãi đến hai tháng sau, ngày 30.9, chị mới qua đời trong cơn khát nước và ngạt thở cùng cực của chứng lao phổi và loét ruột trầm trọng. Giờ phút hấp hối, chị thốt lên một cách mệt nhọc: “Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa nỡ bỏ con ?” Không, Thiên Chúa đã không bỏ rơi chị, một tâm hồn bé nhỏ nhưng thánh thiện đến tuyệt vời, một tâm hồn quả cảm trong lòng tin phó thác, vượt qua mọi nghịch cảnh của cuộc đời. Bởi vì, như chị nói: “Sự điên khùng của tôi chính là hy vọng !”

Theo cha BERNARD BRO, OP, trích từ CONTRE TOUTE ESPÉRANCE

6.TÀI LIỆU: NGHI THỨC CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI

Gospelnet  139 (2.11.2003)

Nghi thức này được cử hành trước Thánh Lễ ngày 2 tháng 11. Có thể chuẩn bị hương, hoa, nến cho những người có thân nhân trong Giáo Xứ đã qua đời trong suốt năm qua. Họ sẽ là những người đại diện cho cộng đoàn để dâng hương, hoa, nến, tượng trưng cho tấm lòng thành cầu nguyện cho ông bà tổ tiên đã qua đời của cả Giáo Xứ…

  1. DẪN NHẬP:

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Hằng năm Giáo Hội dành trọn tháng 11 để chúng ta suy niệm về mầu nhiệm các Thánh, cùng thông công với ba thành phần: Giáo Hội trong vinh quang của Thiên Chúa; Giáo Hội đang trong thời gian thanh luyện; và Giáo Hội còn đang lữ thứ ở trần gian. Ba thành phần nhưng vẫn là một Giáo Hội duy nhất, thân mình duy nhất mà Đức Ki-tô là Đầu.

Ngày hôm qua, ngày 1 tháng 11, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm Giáo Hội khải hoàn trong vinh quang Thiên Chúa: đó là những con người đã trải qua những thử thách lớn lao trong cuộc sống trần gian mà vẫn trung thành với Chúa, đã giặt áo của họ trong Máu của Con chiên là Đức Ki-tô, đang ở cùng Thiên Chúa là Cha và cầu bầu phù giúp cho chúng ta.

Hôm nay, Giáo Hội lại hướng lòng chúng ta đến các linh hồn đang trong thời gian thanh luyện; trong đó có vị là ông bà, là cha mẹ, anh em hay bạn hữu xa gần của chúng ta, có những vị đã dạy dỗ chúng ta phần hồn lẫn phần xác. Đây là những con người đã chết trong bình an của Chúa, là những người chắc chắn sẽ được hưởng phúc vinh quang với Chúa. Vì còn mang những khiếm khuyết của con người trong cuộc sống trần gian, họ còn phải được Thiên Chúa thanh luyện cho xứng đáng với cuộc sống Nước Trời. Do vậy, ngày hôm nay chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì Chúa đã cho những người thân yêu của chúng ta được an nghỉ trong niềm tin vào Chúa. Chúng ta cũng cầu xin Chúa, cậy trông vào lòng thương yêu của Chúa, xin Ngài sớm đưa họ vào hưởng vinh quang Nước Trời.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha đã tự mạc khải là Đấng giàu lòng thương xót. Hôm nay chúng con xin dâng lên Cha những nén hương, những đóa hoa tượng trưng cho lòng hiếu thảo, dâng lên những ngọn nến sáng diễn tả lòng tin tưởng mến yêu của chúng con vào tình thương của Cha. Ước mong lời nguyện của chúng con cũng như hương, hoa và nến được dâng lên trước Thánh Nhan cha. Cúi xin Cha đón nhận những linh hồn ông bà, cha mẹ, những người thân yêu, họ hàng gần xa của chúng con vào Nước của Cha. Amen.

Cộng đoàn cùng hát bài “Lời con như trầm hương…” trong khi đoàn đại diện cho những người có thân nhân đã qua đời trong năm qua, tiến lên dâng hương, hoa và nến trước Cung Thánh…

  1. CÔNG BỐ TIN MỪNG: Ga 11, 1 – 36 ( hoặc một đoạn nào khác thích hợp )
  2. SUY NIỆM:

Chúng ta biết rằng: không phải chỉ con người mới nếm trải cái chết, nhưng tất cả mọi sinh vật có mặt trên trần gian này cũng có ngày phải qua đi. Những thứ vô tri vô giác như nhà cửa, đền đài, cả đến những cái tưởng như trường cửu thiên thu như mặt trời, mặt trăng… tất cả đều sẽ có ngày mục nát, hủy diệt và tan biến.

Đối với con người, cái chết chấm dứt mọi tảo tần mưu sinh, mọi nỗ lực trong cuộc sống, mọi ước mơ tham vọng… Cái chết lại đến bất ngờ, không ai biết chắc được ngày giờ nào và bằng cách nào ! Chúa Giê-su đã căn dặn: “Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết bao giờ sẽ xảy đến. Cũng như một người kia trẩy đi xa, trao nhà cửa cho các tôi tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người canh cửa phải luôn tỉnh thức. Vậy, các ngươi hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết chủ nhà sẽ trở về chập tối hay nửa đêm, khi gà vừa gáy hay lúc tảng sáng, kẻo thình lình Người lại gặp các ngươi đang mê ngủ. Điều Ta nói với các ngươi, Ta cũng đã nói với hết mọi người: Hãy tỉnh thức !”

Cộng đoàn cùng hát bài “Người ơi hãy nhớ…”

  1. CÔNG BỐ TIN MỪNG: Ga 20, 1 – 18 ( hoặc một đoạn nào khác thích hợp )

Thánh Phao-lô nói trong Thư gửi tín hữu Rô-ma: “Vì một người mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết, và như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người bởi vì mọi người đã phạm tội”. Và chúng ta nghĩ rằng: sở dĩ con người phải chết là vì con người có tội. Thế nhưng, Thánh Phao-lô còn nói: “Nếu chỉ vì một người duy nhất sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống…”

Chúng ta cũng biết, trong trình thuật về việc kẻ chết sẽ được sống lại, Chúa Giê-su đã nhắc lại câu chuyện ông Mô-sê nghe tiếng Gia-vê Thiên Chúa phán từ bụi gai bốc cháy: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp”. Thật vậy, Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là Thiên Chúa của người sống ! Chính Chúa Giê-su, khi nói về việc Ngài sẽ từ bỏ thế gian này, Ngài gọi đó là “Giờ” ngài được tôn vinh, là “Giờ” Ngài về cùng Chúa Cha. Ngài bảo: “Ta đã xuất tự Cha và đã đến trong thế gian, bây giờ Ta lại bỏ thế gian mà về cùng Cha”… “Lạy Cha, Giờ đã đến, xin hãy tôn vinh Con Cha, ngõ hầu Con Cha tôn vinh Cha !” Như vậy, đối với Đức Giê-su và đối với những ai tin vào Ngài, cuộc sống này chỉ thay đổi chứ không mất đi, nhưng chỉ là chết đi đối với những ai từ khước không muốn tin vào Ngài.

Chúng ta hãy khẩn nài xin cho được ơn Tin Cậy trọn vẹn vào Đức Giê-su Ki-tô, để nhờ Lòng Tin ấy, chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài. Chính Ngài đã nói với cô Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là ss. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”.

Cộng đoàn cùng hát bài “Con hãy nhớ rằng…”

  1. ĐỌC THÁNH THƯ: 1 Tx 4, 13 – 18 ( hoặc một đoạn nào khác thích hợp )

Lạy Cha trên Trời là Cha chúng con, chúng con dẫu buồn phiền vì số phận phải chết, nhưng chúng con xác tín sẽ được phục sinh, sẽ được cùng sống lại với Đức Ki-tô, Con Cha. Trong niềm tin đó, hôm nay chúng con cùng toàn thể Hội Thánh, cầu nguyện cho những người đã ra đi trước chúng con, cách riêng là ông bà nội ngoại, những người thân yêu của chúng con và cả những người mới qua đời trong năm qua.

Chúng con tha thiết nguyện xin Cha thứ tha muôn tội lụy cho những người thân yâu của chúng con, và cho các linh hồn được sớm về hưởng kiến Thánh Nhan Cha, được ánh vinh quang bất diệt soi chiếu đến muôn đời. Chúng con cầu xin Cha nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

Cộng đoàn cùng hát bài “Từ vực sâu tối tăm…”

Lm. TRỊNH NGỌC HIÊN, DCCT Hà Nội

32. Tưởng nhớ người qúa cố

VietCatholic News (29/10/2002 )

Khi tưởng nhớ người qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian. Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của mỗi người. Nhưng mọi người đều có điểm chung: ai cũng có ngày mở mắt chào đời từ trong bụng mẹ đi ra và ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ quan tài chôn vùi dưới lòng đất mẹ.

Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống vẫn luôn thuộc về nhau. Chúng ta và họ, tất cả đã cùng chung sống với nhau, đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau. Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta.

Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, là muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố. Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời. Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen (Kinh tin kính).

Bánh thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.

Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay nơi nghĩa trang trước nấm mồ :

  1. Tưởng nhớ đến Ong Bà, Cha Mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa. Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, lo lắng dạy dỗ chúng ta nên người. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy hun đúc đời sống niềm tin tinh thần đạo đức chúng ta.

Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ và mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng con đều

nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ.

  1. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc nghìn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì. Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũng như thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.

Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh gía.

  1. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, như mọi người, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.

Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người. Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa. Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa luôn ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.

Các cha giờ đây nằm sâu trong lòng đất mẹ, nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.

  1. Xin nhớ đến các Nữ Tu đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đơiụ sau. Xưa kia chị em đã nghe Tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn sống đời nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và con người. Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của chị em là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.

Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các chị em.

  1. Xin nhớ đến các Bạn bè người quen thân, các Ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp, những giúp đỡ ủi an nhau. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.

Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống và ơn cứu chuộc của chúng ta.

  1. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, đói khát bệnh tật, chiến tranh, những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến. Họ cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: họ cũng được Thiên Chúa cứu độ.

Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.

  1. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:

Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.

 

Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa cứu độ tôi và cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.

 

Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì ngài là Cha đời tôi và hằng yêu mến tôi.

 

Và tôi tâm niệm rằng:

Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại tất cả.

Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.

Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận trở lại.

 

Lm. Nguyễn ngọc Long

33. SUY TƯ VỀ HẠNH PHÚC VĨNH CỬU

Lm. Ngô Châu Minh, CMC

Cuộc sống con người gồm ba vấn đề then chốt quan trọng, liên quan tới hạnh phúc vĩnh cửu bát diệt mai sau mà Lm. Moreaux S.J., người Pháp, nguyên giám đốc đài thiên văn Vatican đã nêu cao trong ba cuốn sách nhan đề:

  1. D’ où venons – nous? = Chúng ta từ đâu mà đến?
  2. Où sommes – nous? = Chúng ta đang sinh sống ở đâu?
  3. Où allons – nous? = Chúng ta đi về đâu?
  4. CHÚNG TA TỪ ĐÂU ĐẾN?
  5. Từ hư vô, Đấng Tạo Hóa tạo dựng nguyên tổ có hồn xác thành người có nam có nữ, được ban cho khả năng truyền sinh qua các thế hệ tới các bậc tổ tiên, tới ông bà cha mẹ sinh thành chúng ta.
  6. Ông bà cha mẹ cho chúng ta thân xác hữu hình với sự sống tự nhiên. Còn linh hồn với sự sống siêu nhiên do Đấng Tạo hóa trực tiếp tạo thành, rồi phú vào thân xác chúng ta vừa được dựng thai trong lòng mẹ, để chúng ta thành người có hồn có xác.
  7. Thân xác chúng ta do Đấng Tạo hóa gián tiếp tạo thành từ nguyên tổ qua các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ. Còn linh hồn chúng ta do chính Ngài trực tiếp tạo thành. Như vậy toàn thân chúng ta do Đấng Tạo hóa là Ông Trời, là Thiên Chúa tác thành. Thánh Phaolô xác quyết: “Do Ngài mà có mọi sự. Và vì Ngài mà có ta” (1 Cr. 8:5). Thiên Chúa tác thành rồi còn bảo tồn, an bài nuôi dưỡng chúng ta như thành ngữ nói: “Trời sinh, Trời dưỡng”. Thánh Phaolô diễn giải: “Thiên Chúa là Đấng ban cho mọi người sự sống, hơi thở, và hết thảy mọi sự… Trong Ngài ta sống, ta cử động, ta có. Như một thi sĩ đã nói: Ta với Ngài cũng đồng nòi đồng giống (Cv. 17:25-28).
  8. Đạo Hiếu khởi đầu từ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ chúng ta. Nếu chúng ta có Hiếu đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ chúng ta, thì chúng ta càng phải có Hiếu với Thượng tổ, là Đấng Tạo hóa, là Thiên Chúa. Có Thượng tổ mới có các bậc tổ tiên; có các bậc tổ tiên mới có ông bà cha mẹ, mới có chúng ta. Triết lý ngàn xưa dạy: “Con người có tổ có tông. Như cây có cội, như sông có nguồn”. Giữ đạo Hiếu với Thượng tổ là Thiên Chúa chẳng qua là theo đạo, sống đạo Thiên Chúa, là tôn thờ yêu mến Ngài.
  9. Tôn giáo khởi đầu từ khi loài người được Thiên Chúa tạo thành từ hư vô, rồi bảo tồn, an bài, nuôi dưỡng và cứu chuộc khi loài người sa trầm.

– Tôn giáo là hình thức đạo Hiếu với Thiên Chúa là Thượng tổ, vì công ơn trời bể Tạo thành và Cứu chuộc với một tình yêu Hiền phụ toàn ái từ muôn thuở đời đời (Gr 31:3).

– Tôn giáo đối với Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa đã tạo thành vũ trụ, muôn loài vạn vật với muôn vẻ tốt đẹp như một chiếc nôi khổng lồ đầy ắp yêu thương cho con cái loài người của Ngài. Đổng trọng Thư nói: “Thiên giả vạn vật chi tổ” (Trời là gốc của vạn vật).

– Tôn giáo đối với Thiên Chúa là siêu tôn (supreme worship), là duy tôn (latria).

  1. Vì Ngài là Đấng tối cao, uy linh, tự hữu, toàn năng, toàn mỹ, toàn thiện, toàn ái. Đức Khổng Tử nói: “Duy Thiên vi đại” (Chỉ có Trời là lớn). Thày Chu Tử nói: “Thượng đế giả. Thiên chi Chúa tể giả”(Vua trên hết là Chúa trên trời).
  2. Vì Ngài nhân lành vô cùng mà cũng công bình vô cùng, nên Ngài chí công chí minh, có quyền thưởng phạt: “Tác thiện giáng chi bách tường. Tác bất thiện giáng chi bách ương” (Làm điều lành thì được xuống muôn phúc lành. Làm điều xấu thì bị xuống muôn tai họa).

– Tôn giáo đối với Thiên Chúa là đạo mạc khải (revealed religion) nghĩa là từ trời tỏ ra, chứ không do phàm nhân nào bày đặt. Đức Khổng Tử xác nhận: “Đạo chi đại, nguyên xuất ư thiên” (Đạo cả là đạo bởi Trời). Như vậy, chỉ duy Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa, là Thượng tổ được mọi người tôn thờ bậc adoration, bậc tôn giáo xác thực, vì mọi người, mọi thời đều do Ngài mà đi vào trần gian này. Các thánh nhân, các bậc tổ tiên và bất cứ phàm nhân nào đều là những thụ tạo (creatures) của Đấng Tạo hóa (Creator) dưới quyền sinh tử của Ngài, nên được tôn kính bậc veneration. Nhờ công đức của các ngài được đẹp lòng Thiên Chúa, các ngài có thế lực cầu bầu cho chúng ta, và độ trì chúng ta được may mắn an lành.

  1. CHÚNG TA ĐANG SINH SỐNG Ở ĐÂU?
  2. Trái đất là một trong chín hành tinh của hệ thống mặt trời (Mặt trời là một trong hàng tỉ ngôi sao làm thành ngân hà. Hàng tỉ ngân hà làm thành vũ trụ). Trước mắt phi hành gia, trái đất trên không trung to hơn mặt trăng gần 40 lần, đẹp hơn mặt trăng 18 lần, đã được Đấng Tạo hóa tạo thành trước đây 4½ tỷ năm cho lơ lửng trong không gian cho quay trên mình trong 24 giờ, và quay chung quanh mặt trời trong 365 ngày trên đường quỹ đạo bầu dục, xa cách mặt trời đúng cỡ cho bốn mùa thay đổi, và đúng độ năng lượng cho loài người và muôn vật cỏ cây trên mặt đất sinh sống. Mặt đất được Chúa Tạo hóa trang bị muôn loài muôn vật, thảo mộc cỏ hoa rực rỡ, và dấu ẩn nhiều tài nguyên phong phú với bầu khí và suối nước thích ứng cho sự sống. Tất cả như một chiếc nôi đẹp đẽ, chan chứa tình yêu, Chúa Tạo hóa chuẩn bị tạo thành loài người và đặt vào, như một bà mẹ sắm sẵn võng tróng cho con bà sinh ra. Thánh Phaolô vắn tắt mô tả công trình tạo thành loài người, và sắp đặt cuộc định cư cho họ trên khắp mặt đất: “Thiên Chúa đã làm cho một người sinh ra cả nhân loại, cho nhan loại lan tràn khắp mặt đất mà ở. Ngài đã định thời gian phân minh cho các dân và biên giới nơi chốn họ ở” (Cv 17:26).
  3. Loài người sinh sống chung quanh vỏ trái đất, như đàn kiến bu bám chung quanh một trái bưởi, có tính cách xã hội, cùng nhau kết đoàn tiếp tục công trình sáng tạo của Chúa Tạo hóa. Họ cùng nhau xây đựng xã hội tốt đẹp, và sống theo lương tâm làm lành tránh dữ theo nhiên luật và thiên luật, mà Chúa Tạo hóa đã ấn định để chuẩn bị cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
  4. Mỗi thế hệ loài người sinh sống trên mặt đất rất hữu hạn. Mỗi đời người trong vòng một trăm năm: “Trăm năm trong cõi người ta” (Cụ Tiên điền Nguyễn Du). Như vậy trần gian chỉ là nơi tạm trú, cư ngụ, ký gửi: “Sinh ký”, nên Thánh Phaolô lưu tâm người đời: “Chúng ta không có thành trì bền vững trên trần gian này” (Dt 13:14). vì “Trần gian không phải là nhà. Thiên cung cao thẳm mới là chính quê”.

4- Khát vọng thâm sâu nhất của con người sống trên trần gian là Hạnh phúc. Ngũ phúc (phú, quí, thọ, khang, ninh) hay Tam phúc (Tài, tiền, tình) rất hữu hạn, nông cạn, phù du, không làm cho con người được thoả mãn. Chỉ có hạnh phúc vĩnh cửu bất diệt mới làm cho lòng người mãn nguyện. Thế nhưng, hạnh phúc trần gian được sử dụng chính đáng sẽ là phương thế hữu ích để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu, là mục đích tối hậu của đời sống con người.

5- Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II gọi cuộc sống ày là “một lữ hành khám phá” (This life is a pilgrimage of discovery).

  1. Khám phá những vẻ đẹp tinh thần trong con người chúng ta và tha nhân, trong mỹ tục và luân lý của gia đình, trong văn hóa và lịch sử của dân tộc, để khai thác, phát triển và xây dựng.
  2. Khám phá những vẻ đẹp trong vũ trụ đất trời để cảm mến, chúc tụng, ngợi khen Đấng Tạo Hóa và tiếp tay công cuộc sáng tạo của Ngài.
  3. Khám phá những chân lý ngàn đời xác thực để tin theo và xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu cho mình và cho tha nhân.

6- Cuộc sống trần gian là một cuộc chiến không ngừng (Pascal). Thánh Augustinô cổ võ chúng ta: “Có chiến đấu mới có chiến thắng. Có chiến thắng mới có triều thiên” và thánh Phaolô cũng khích lệ chúng ta: “Hãy cố chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa đức tin. Hãy cố chiến đấu cho được sự sống đời đời (1 Tm 6:12).

  1. Trần gian này là thung lũng nước mắt (Vale of tears) đầy gian nan khốn khó khổ đau. Nhưng theo hiền triết Pythagore, đau khổ là một phương thế thăng tiến: “Đau khổ là kết quả xa gần của tội lỗi và là cách giáo dục hoàn hảo” vì gian truân thử đức như lửa thử vàng. Và đau khổ, theo thánh Toma a Kempi, còn là mối lợi cao giá: “Những đau khổ hiện tại làm cho ta nên cao thượng, và đem lại cho ta một vinh hiển bất diệt.” Thánh Phaolô giải thích dể chúng ta thêm kiên vững: “Đau khổ trần gian không đáng là gì sánh với vinh phúc Thiên đàng mai sau” (Rm 8:18).

8- Vào trần gian, ta chẳng đem gì, thì ta cũng không đem gì lúc ra đi (1 Tm 6:7); nghĩa là chúng ta sinh ra trần truồng, thì lúc chúng ta từ biệt cõi đời, chúng ta chẳng đem theo được của cải gì, chỉ còn có hành trang công phúc, như Chúa Giêsu khuyên dạy khi chúng ta còn sinh thời: “Các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời (Mt 6:20). Và để lương tâm được bình an, thanh thản trong giây phút rất quan trọng chúng ta từ biệt cõi đời này, thánh Toma a Kempi căn dặn chúng ta: “Bạn hãy cố gắng từ giây phút này sống hẳn hoi, để giờ chết đến, bạn chỉ an vui mà không phải lo sợ”.

III CHÚNG TA ĐI VỀ ĐÂU?

1- Cuộc sống trần gian vắn vỏi mau qua như thoi đưa, như gió thổi, như mây trôi, như bóng xổ, như gang tay, nên cuộc đời là một cuộc lữ hành, mà người đời là lữ khánh, sau cùng đi đến cõi chết. Chết là hậu vận của con người, là tạ thế nghĩa là từ biệt dương thế, hay qua đời nghĩa là gĩa từ đời này sang qua đời sau. Mọi người đều phải chết do án lệ của tội nguyên tổ (1 Cr 15:21-22), mà chỉ chết có một lần, nên tình trạng tâm hồn trong giờ chết mà may hay rủi, thì may rủi trót cả số phận đời đời không còn cách chi thay đổi. Chính vì thế, tình trạng tâm hồn trong giờ chết cực kỳ hệ trọng: một mất, một còn, vĩnh viễn còn hay mất.

2- Chết là linh hồn lìa khỏi xác. Linh hồn linh thiêng, bất tử phải lộ diện trước toà Thiên Chúa để lãnh lấy thành quả đời mình trong thân xác với các việc đã làm lành hay dữ (2 Cr 5:10). Linh hồn người lành sẽ được trường sinh vinh phúc. Linh hồn kẻ dữ không được ghi trong sổ sách sự sống, thì bị xô vào vũng lửa muôn đời cực khổ, tru trếu, khóc than. Đó là cái chết thứ hai (Kh 20:14-15), là bị án hư đi đời đời (2 Tx 1:9), là sự mục nát (Gl 6:8) là sự diệt vong (Pl 3:19).

3- Thân xác người lành và kẻ dữ đều được an táng trong lòng đất, dần dần thối rữa và tan nát thành bụi đất, vì đã được tạo thành bởi bụi đất thì sẽ trở về đất bụi (St 3:19). Đến ngày tận thế, bất thần trong nháy mắt, nghe tiếng loa thổi cuối cùng, người chết sẽ chỗi dậy bất hoại và sẽ biến đổi ( 1 Cr 15:52) do quyền năng của Thiên Chúa (1 Cr 6:14). Người lành kẻ dữ đều sẽ sống lại (Cv 24:15). Đây là chân lý trăm phần trăm chắc chắn, người ta tin hay không, sự việc đó sẽ xảy ra. Bấy giờ Chúa Giêsu sẽ ngự xuống trong vinh quang trên ngai vinh hiển giữa muôn vàn các Thiên thần. Mọi người sống lại được thu họp lại trước thánh nhan Người, và Người phân tách người lành khỏi người dữ như chiên khỏi dê. Người lành ở bên phải, kẻ dữ ở bên trái. Rồi Chúa sẽ phán xét chung tất cả: Người lành được sống muôn đời vinh phúc khác nhau như các ngôi sao hào quang khác nhau (1 Cr 15:41-42). Kẻ dữ lãnh án xử muôn kiếp (Ga 5:20) khổ đau cùng cực, vô phương cứu thoát.

4- Ngày tận thế, xác chết sẽ sống lại, nghĩa là thân xác dù tan rã bất cứ cách nào đều sẽ phục hồi như cũ, nhưng trở nên bất hoại và biến đổi để tái hợp với linh hồn của mình, vì sinh thời cả hai hồn xác cố kết với nhau làm lành hay làm dữ, thì nay cả hai cùng được lãnh thưởng hay cùng phải chịu án phạt. Như vậy là lẽ công bình.

5- Thân phận con người ở đời là “Sinh kỷ tử qui = sống gửi thác về”. Sách Giảng viên đã định hướng: “Mỗi người sẽ đi về nhà đời đời của mình (12:5). Nhà đời đời là tình trạng cuộc sống mới trường sinh, hay là nơi ở ngàn thu vĩnh cửu. Nhà đời đời có hai hướng: Hướng lên là Thiên đàng. Hướng xuống là hoả ngục.

  1. Thiên đàng

Giáo hội Công giáo dùng danh từ caelum để biểu thị nơi ngự trị của Thiên Chúa, và là nơi vĩnh cửu của các phúc nhân, nhưng như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II nói, Giáo hội chú ý đến tình trạng hơn là nơi ở. Thánh Kinh nói về Thiên đàng là một nơi ở và là một tình trạng, đời sống vĩnh cửu, nơi an nghỉ đời đời, Nước Thiên Chúa, Nước Trời, niềm hoan lạc của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô nói: Vào Thiên đàng là được sống bên Chúa (2 Cr 5:8), nghĩa là được hưởng kiến, yêu mến Chúa một cách hết sức toại nguyện. Thánh Phaolô còn mô tả quang cảnh mỹ diệu của Thiên đàng: “Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề nghĩ tới, nghĩa là tất cả những điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người (1 Cr 2:9).

Trong sách Khải huyền, thánh Gioan viết diệu cảnh Thiên đàng mà ngài đã được mạc khải là thành thánh Giêrusalem chói lọi vinh quang Chúa, không còn đêm tối, không cần đèn đuốc hay mặt trời mặt trăng soi sáng, vì vinh quang Thiên Chúa chiếu toả khắp nơi… Tuyệt nhiên không có gì phàm tục, người ô uế, người gian ác, dối trá không được vào Thiên đàng, chỉ những người đã được ghi tên trong sách hằng sống” (Kh 21:11,23,27).

Theo nghĩa Kitô giáo, Thiên đàng là tình trạng vinh phúc siêu nhiên. Vinh phúc siêu nhiên do tại:

  1. Phúc nhân được trực giác nhãn tiền chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Ông Gióp minh chứng: “Ngày tận thế, tôi sẽ từ bụi đất sống lại, chính tôi sẽ thấy Chúa, và mắt tôi sẽ nhìn thấy Người chứ không ai khác” (G 19:25-27). Thánh Phaolô nói rõ thêm: “Không màn che mặt, ta sẽ nhìn ngắm vinh quang Chúa như giọi lại trong gương” (2 Cr 3:18). Thánh Tông đồ còn so sánh chúng ta thấy Chúa bây giờ và sau này trong phúc vinh quang: “Hiện giờ ta thấy như ở trong gương cách mường tượng. Bấy giờ thì tận mắt, diện đối diện. Hiện giờ ta biết một cách khiếm khuyết,nhưng bấy giờ ta sẽ biết cũng như Chúa biết ta” (1 Cr 13:12).
  2. Hạnh phúc của phúc nhân là được toại nguyện hưởng kiến, tràn tim yêu mến Chúa, được hiệp thông với Chúa, được hưởng gia nghiệp với Chúa Kitô. (1 Ga 1:3; Rm 8:17), được Chúa là niềm hoan lạc và là phần thưởng rất mực lớn lao (Mt 25:21; St 14:1), vì Chúa là Đấng tốt lành vô cùng, đáng mến vô cùng, là nguồn gồm đủ tất cả mọi sự thiện hảo, mọi vẻ rực rỡ lộng lẫy lạ lùng trong vũ trụ đất trời. Thánh Augustinô cảm nghiệm: “Chiêm ngưỡng Chúa chỉ một ngày, hạnh phúc hơn ngàn thu được thoả mãn những thiện hảo của mọi thụ tạo”, và hạnh phúc của phúc nhân là toại nguyện đến muôn đời. Bởi vậy mất Chúa là chẳng những vĩnh viễn mất hết mọi sự, mà còn phải khổ cực không bao giờ cùng.
  3. Ngoài Thiên Chúa, không phàm nhân nào tự hữu, hằng hữu, toàn năng, toàn mỹ, toàn thiện, toàn ái, đáng là niềm hoan lạc, là phần thưởng, là hạnh phúc cho chúng ta, và cũng chẳng có quyền năng gì làm cho chúng ta được cực lạc, được hạnh phúc vĩnh cửu.
  4. Trong cuộc định cư hạnh phúc vĩnh cửu (2 Cr 5:1), thân xác khốn hèn của phúc nhân được biến đổi nên giống thân xác vinh quang của Chúa Kitô (Pl 3:21). Phúc nhân sẽ sáng chói như mặt trời (Mt 13:43). Thánh Vianney nhận xét: “Đến ngày tận thế, linh hồn người lành được hương thơm Thiên đàng xức thơm, sẽ tìm gặp tái hợp với thân xác của mình. Thân xác họ chói sáng như kim cương tuyệt đẹp. Người nào càng thánh thiện dưới đất, càng được rực rỡ vinh quang trên trời”. Triều thiên vinh quang của họ sẽ bất diệt (1 Pr 5:4). Kho tàng của họ không hao vơi (Lc 12:33).
  5. Phúc nhân không bao giờ còn phải đói khát, không còn phiền muộn, khó nhọc, không còn chết chóc. Mặt trời nóng bức sẽ không bao giời làm khổ họ nữa. Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ (Kh 7:16; 21:4).

Trong đời hiện tại, chúng ta hãy cố gắng sống ngoan đạo Chúa là đạo bởi Trời, để mai sau trên Quê Trời, chúng ta được trường sinh vinh phúc, được hưởng kiến, yêu mến và tôn vinh Thiên Chúa, đến muôn thuở muôn đời. Ông Mashala một học giả Ấn độ cảm nghiệm: “Đạo có từ Trời xuống, thì đạo đó mới có khả năng đem con người ta lên Trời được”.

  1. Hoả ngục

Hoả ngục là nơi ở của quỉ dữ và là nơi hay tình trạng hình phạt muôn kiếp của kẻ dữ sau khi họ chết.

  1. Thánh Kinh gọi Hoả ngục là lửa thiêu đời đời (Gd 7), là án phạt hư mất đời đời ( 2 Tx 1:9), là nơi giòi bọ không chết, và lửa không tắt (Mc 9:43), là lò lửa, ở đó phải khóc lóc nghiến răng (Mt 13:42), là vũng lửa sinh diêm, là cái chết thứ hai (Kh 21:8), là lửa đời đời đã dọn sẵn cho ma quỉ và các thần của nó (Mt 15:41). Thánh vịnh viết: “Thần chết vây cấp tốc (kẻ dữ) đem chôn sống chúng dưới âm ty (54:16). Tiên tri Isaia nói: “Âm phủ banh họng ra và há mồm ra vô độ, và sẽ nhào vào đó cả phồn hoa… lẫn đô hội, cảnh huyên náo với người hưởng lạc” (5:14).
  2. Giáo hội và các nhà thần học tin rằng Hoả ngục ở giữa lòng trái đất. Ngày 13-7-1917, Đức Mẹ hiện ra tại Fatima với ba trẻ em và cho xem thấy cảnh Hoả ngục hãi hùng. Lucia diễn tả lại: “Đức Mẹ xoè hai tay ra toả ánh sáng thấu trái đất cho chúng tôi xem thấy một biển lửa mà ma quỉ và các linh hồn hình người ngụp lặn trong đó. Họ óng đen và như than hồng nổi trôi trên lửa, hay bị những ngọn lửa tung lên rồi làm rơi xuống với những làn khói, giữa những tiếng tru trếu và những tiếp kêu la đau đớn tuyệt vọng làm cho chúng tôi hãi hùng kinh sợ. Mặt mũi ma quỉ khủng khiếp ghê sợ như những quái vật óng đen như than trong lửa”. Trước cảnh rợn rùng khủng khiếp của Hoả ngục, Đức Mẹ dạy ba trẻ cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi lửa Hoả ngục…”.
  3. Hình khổ Hoả ngục gồm Thất khổ và Giác khổ:
  4. Thất khổ

Thất khổ là bị đoạn tuyệt cho đến đời đời mất Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Một chàng trai không lấy được một cô nàng mà thất tình sầu khổ đến nỗi tự tử không thể sống được nữa. Huống chi đoạ nhân dưới Hoả ngục vĩnh viễn không được hưởng kiến, không được hiệp thông với Chúa thì khốn cực biết đến ngần nào!

Thất khổ được diễn tả qua là Chúa quở phạt: “Hỡi phường bị chúc dữ hãy xéo đi khỏi xa Ta, mà vào lửa đời đời” (Mt 25:41). Ta không biết các ngươi tự đâu đến! Hãy xéo đi xa Ta, hết thảy phường tác ác! Ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng, khi các ngươi thấy Abraham, Giacóp, Isaia cùng các tiên tri trong Nước Thiên Chúa, còn các ngươi thì bị đuổi ra ngoài (Lc 13:27-28).

Thánh Gioan kim khẩu so sánh Thất khổ và Giác khổ: “Lửa Hoả ngục không thể chịu nổi, và những khổ hình của nó khủng khiếp! Nhưng nếu chất đống hàng ngàn ngọn lửa Hoả ngục, thì không là gì sánh với án phạt bị loại trừ ra khỏi vinh phúc Thiên đàng, bị Chúa Kitô ghét bỏ và bị Ngài quở mắng: Ta không biết ngươi là ai!”. Thánh Tôma giải thích: “Đoạ nhân dưới Hoả ngục bị dứt khoát xa lìa cùng đích khát vọng (hạnh phúc vĩnh cửu).

  1. Giác khổ

Giác khổ là hình khổ do cảm giác chịu lửa Hoả ngục thiêu đốt và hành hung. Thánh kinh diễn tả Hoả ngục là “lò lửa”, là “vũng lửa sinh diêm”, là “lửa đời đời”, là “chốn tối tăm mãi mãi tru trếu nghiến răng”.

Thánh Ephrem và thánh Basiliô nói rằng: “Lửa Hoả ngục gây nên sự tối tăm và không ngừng hành hình các đoại nhân mà không tiêu diệt họ”. Thánh Augustinô mô tả: “Lửa Hoả ngục không giống lửa ở đời này”.

  1. Ngoài Thất khổ và Giác khổ, đoạ nhân phải chịu sâu bọ không chết, nghĩa là bị lương tâm giày vò, cắn rứt, không ngừng tru trếu, than thân trách phận vì sinh thời đã quá dại khờ, đã quá cố chấp chìm đắm trong tội, trong sự lầm lạc. Đoạ nhân còn phải chung đụng với quỉ dữ xấu xa gớm ghiếc phun ra những lời căm phẫn oán hờn.
  2. Hình khổ Hoả ngục muôn đời muôn kiếp, dù đếm hết lá trên rừng, hết cát bờ biển vẫn như bắt đầu. Đoạ nhân đã bị sa xuống trầm luân sẽ không bao giờ được ra khỏi. Nguyên sự việc đó làm cho đoạ nhân hoàn toàn tuyệt vọng cùng với các hình khổ càng làm cho đoạ nhân cùng cực đau đớn khổ sầu. Tiên tri Daniel minh chứng: “Trong những kẻ nằm trong đất bụi, nhiều người sẽ chỗi dậy: Kẻ thì được hằng sống. Kẻ khác sẽ chuốc lấy ô nhục, làm đồ gớm ghiếc muôn đời” (12:2). Sách Khải huyền cũng nói: “Mãnh thú và tiên tri giả sẽ bị gia hình ngày đêm đời đời kiếp kiếp (20:10). Và khói hình phạt chúng cứ bốc lên đời đời (14:11). Thánh Tôma tuyên bố: “Bất cứ tội nào làm con người quay đi khỏi Thiên Chúa, coi như họ phải mắc nợ án phạt muôn đời”.
  3. Các đọa nhân bị trầm luân Hỏa ngục chịu án phạt khác nhau tùy mức độ tội lỗi của họ. Chúa Giêsu xác định: “Ta sẽ thưởng phạt từng người theo cách ăn thói ở và hiệu quả công việc họ làm” (Gr 7:9-10), và trong sách Khải huyền: “Tùy ác quả nó làm, mà đong lại lường đôi” (18:6). Thánh Gregôriô Cả nói: Như có nhiều chỗ trong Nhà Cha tùy theo công đức mỗi người, các đọa nhân cũng chịu hình khổ Hỏa ngục khác nhau (tùy theo mức độ tội lỗi của họ).
  4. Không thể nào cứu thoát một linh hồn sa Hỏa ngục, vì tín điều Thông công giữa Giáo hội chiến thắng (Thiên đàng), Giáo hội chiến đấu (Trần gian) và Giáo hội thanh tẩy (Luyện ngục) cho có thể liên lạc giúp đỡ nhau. Còn ai bị sa Hỏa ngục thì vô phương cứu thoát. Thánh Cyprianô tuyên bố: “Lửa Hỏa ngục bất tận không khoan giãn được cho đọa nhân”. Tổ phụ Abraham trên trời nói với người trọc phú bị trầm luân dưới Hỏa ngục rằng: “Giữa chúng ta và các ngươi có một vực thẳm khiến cho bên này không thể qua bên các ngươi, và tự bên đó, người ta không thể đến được với chúng ta” (Lc 16:26). Như vậy, các người bị trầm phạt dưới Hỏa ngục dứt khoát bị đoạn tuyệt với các người còn sống trên dương thế và với các phúc nhân trên thiên đàng. Nhưng không thể biết được ai đã sa Hỏa ngục, nên người ta vẫn phải cầu nguyện, dâng lễ cho họ nếu còn phải thanh tẩy trong Luyện ngục được sớm về trời hưởng trường sinh vinh phúc.

III. Luyện ngục

Luyện ngục là tình trạng hình phạt tạm thời cho những người chết trong ơn nghĩa Chúa, mà còn có tội mọn hay chưa đền tội đủ, để chịu thanh luyện mới được lên thiên đàng vì:
a. Thiên dàng là nơi giãi chiếu vinh quang Thiên Chúa không gì uế nhơ, không gì phàm tục được vào (Kn 7:25; Kh 21:27).

  1. Công việc của mỗi người thế nào lửa sẽ thử nghiệm ( 1 Cr 3:13).
  2. Linh hồn không được ra khỏi Luyện ngục, bao lâu chưa trả hết đồng trinh cuối cùng (Lc 12:29) nghĩa là chưa thanh luyện đền xong tội lỗi.
  3. Hình phạt linh hồn Luyện ngục phải chịu là:
  4. Chưa được hưởng kiến nhan thánh Thiên Chúa.
  5. Chịu lửa Luyện ngục thanh luyện.
  6. Hình khổ Luyện ngục hơn những đau đau khổ dữ dằn nhất trần gian (Thánh Bonaventura). Và hình khổ Luyện ngục nhẹ nhất cũng khủng khiếp hơn mọi đau khổ người ta phải chịu trên dương thế (Thánh Tôma).
  7. Chúa công bình vô cùng phải phạt tội lỗi, chưa cho vào thiên đàng bất cứ điều gì chưa thanh sạch. Nhưng Chúa nhân lành vô cùng lo liệu những phương thế hữu hiệu, giảm bớt hình phạt cho các linh hồn Luyện ngục qua sự cầu bầu của Đức Mẹ, các thánh, của Giáo hội, và những người công chính còn sống trên đời bằng lời cầu nguyện, việc lành phúc đức và dâng lễ cứu giúp các linh hồn.
  8. Đến ngày tận thế, không còn Luyện ngục sau cuộc phán xét chung. Những người còn sống ngày đó không phải chịu thanh luyện mà được Chúa ban ơn tòan xá, và phải chịu những khổ đau hãi hùng trong ngày tận thế để đền bồi tội lỗi. Sau cuộc chung thẩm ngày tận thế chỉ còn Thiên đàng và Hỏa ngục (Rt. Rev. Msgr. Joseph Pohle, Eschatology. pp. 75-91).

Tóm kết lại, thân phận con người chúng ta là loài thụ tạo bởi Đấng Tạo hóa, là Thiên Chúa, là Thượng tổ qua các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ, sinh vào trần gian, cư ngụ một thời gian, mà mục đích sau cùng là từ biệt trần gian này tìm về Hạnh phúc vĩnh cửu, là đuợc Trường sinh vinh phúc trong Nước Trời, là Thiên đàng đến muôn muôn đời. Nhưng tới được Nước Trời để hưởng trường sinh vinh phúc, con người chúng ta phải ra công gắng sức, vì cần phải có dũng lực mới chiếm được (Mt 11:12).

Như vậy mục đích tối hậu con người chúng ta sinh vào trần gian là để đi về Nước Trời được hưởng Hạnh phúc vĩnh cửu. Và cuộc lữ hành cực kỳ quan trọng này phải theo chính lộ mà Thiên Chúa đã ấn định. Nếu lạc hướng, con người chúng ta sẽ bất hạnh, thất phúc, phải khốn khổ vô cùng tận, vô phương cứu chữa, mà người Công giáo nói là “mất linh hồn sa hỏa ngục bị trầm luân muôn đời muôn kiếp”.
Sau cùng, Chúa Giêsu ân cần khuyến cáo chúng ta: “Nào có ích gì cho người ta khi được lời lãi cả thế gian, mà lại mất sự sống mình, (mất hạnh phúc vĩnh cửu), thì sẽ lấy gì để chuộc lại được? (Mt 16:26).

34. Chữ Tâm trong chữ Hiếu

Xin tóm tắt một vài dòng giới thiệu chữ tâm trong chữ hiếu được nhìn từ nhiều lăng kính : Thánh Kinh, Hiếu Kinh, Phật Giáo, và trong dân gian.

  1. Chữ tâm trong Thánh Kinh.

Chữ Tâm trong Thánh Kinh, bắt nguồn từ “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8), vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi phó nộp Con Một của Người cho thế gian.

“Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5, 8). Bởi đó, có lệnh truyền “chúng ta hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” (Ga 15,17). Chữ tâm được biểu lộ cách trọn vẹn nhất là ” Chết cho người mình yêu”, một chữ tâm đi cho đến tận cùng khả năng của con người, “hết lòng, hết sức, hết cả trí khôn”, người Kitô hữu hoàn tất cuộc đời mình trong chữ tâm.

Chữ tâm trong chữ Hiếu ở mười điều răn, được nhấn mạnh trong điều răn thứ tư mở đầu phần hai của Thập Giới, ấn định trật tự của đức ái. Thiên Chúa muốn rằng sau Người chúng ta phải tôn kính cha mẹ, vì đã sinh thành dưỡng dục, và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa. “Hãy trọng kính cha mẹ ngươi, để được sống lâu bền trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12). Thảo Kính cha mẹ, là tương quan phổ quát nhất, nền tảng nhất cho các tương quan khác : Trò đối với thầy, thợ đối với chủ, công dân đối với tổ quốc,…và ngược lại “thảo kính cha mẹ” cũng hiểu ngầm và bao hàm việc cha mẹ có bổn phận với con cái, chủ đối với thợ, thầy đối với trò, người cầm quyền đối với dân…người sống theo đạo hiếu này thì được những phần thưởng thiêng liêng, và những phần thưởng khác của trần thế là an bình và thịnh vượng.

  1. Chữ tâm trong Hiếu Kinh.

Chữ tâm trong học thuyết của Khổng Tử, luôn thiên về thực tiễn và lấy đạo nhân làm chủ yếu. Nhân là lòng yêu thương rộng khắp bao trùm cả con người và vạn vật. Người có đạo nhân là người mang trong mình dòng máu yêu thương, lấy yêu thương để hoàn tất mọi sự trong đời. Khổng Tử chỉ rõ, chữ Tâm bắt nguồn từ bản thân đến gia đình, theo lẽ thường, cha mẹ, anh chị em, là người thân thiết nhất, ta phải kính yêu, rồi đối với người ngoài mới có lòng dung thứ và từ ái được. Do đó, vấn đề hiếu đễ, lễ nhạc, có vai trò rất quan trọng trong Nho Giáo, đức Khổng Tử giảng dạy rất kỹ cho thầy Tăng Sâm, phần này sau thành sách Hiếu Kinh, đời Hán nó được liệt vào quyển kinh thứ bảy, sau Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu.

Hiếu được đặt thành Kinh, cho thấy tầm quan trọng của chữ Hiếu, và trong chữ Hiếu chữ Tâm là quan trọng ” Tận tâm kính dường phụ mẫu”. Từ việc tận tâm với cha mẹ, người con cũng tận tâm với mọi người “Yêu cha mẹ, ghét người chẳng dám: kính song đường, chẳng dám khinh người”. Người yêu kính cha mẹ mình thì thấy cha mẹ người hoặc người già như cha mẹ mình, thì đều yêu kính. Khổng Tử dạy rằng: “Dạy dân thân yêu, chẳng gì hay bằng hiếu; dạy dân lễ nhượng, chẳng gì hay bằng đễ; dời thói đổi tục, chẳng gì hay bằng nhạc; an trên trị dân, chẳng gì hay bằng lễ; lễ đó, kính mà thôi vậy. Cho nên kính của mình cha, thì con đẹp lòng; kính của mình vua, thì bầy tôi đẹp lòng; kính của mình anh, thì em được đẹp lòng; kính một người, mà muôn người được đẹp lòng; phần kính đó là ít, phần đẹp lòng đó nhiều. Ðó là cái gọi là cốt yếu đạo vậy.” (Chương 12, sách Hiếu Kinh).

  1. Chữ tâm trong Phật Giáo.

Thường trong kinh nói hiếu là mẹ tất cả các công đức, hiếu là gốc của hạnh. Nói đến hạnh là nói đến hạnh của Phật, nói đến đạo hiếu là nói đến đạo của Phật.

Hiếu và Hạnh, đều có tâm làm trọng yếu. Trong nhà Phật thường dạy: Tâm thành thì việc tốt. Tâm thành, dù một việc hết sức bình thường mà tác dụng, kết quả rất to lớn. Cho nên nói tới đạo Phật là nói đến tâm. Việc làm của người con Phật là căn cứ từ nơi tâm. Mọi sinh hoạt của ta phải xuất phát từ tâm chân thành. Lượng bao nhiêu cũng tốt nhưng phẩm chất mới có giá trị.

Nói tới tâm thì ai cũng có tâm. Là người mang trong mình dòng máu đỏ, ai cũng từ cha mẹ sinh ra, có sự sống. Chúng ta có ca tụng cha mẹ sinh ra ta với bao nhiêu nhọc nhằn năm tháng nuôi nấng. Có kể hết một đời cũng chưa xong, nhưng theo đó mà trôi tròn hiếu đạo. Việc làm con, chữ hiếu luôn lấy làm trọng thì thân mới vinh.

Chuyện kể rằng: một tu sỹ nọ, muốn lên Tây phương để tìm gặp Phật Tổ. Nhiều người biết được, nên gửi gắm ước nguyện và phẩm vật của họ cho vị tu sỹ, mong sao khi vị tu sỹ, gặp được đức Phật, thì dâng các lễ vật để cúng dường. Nhưng đường dài, n hiều gian khó, năm lụn tháng chầy vị tu sỹ này quá mệt mỏi, do đó ông quên và bỏ đ i hết những gì bạn hữu gửi gắm. Cuối cùng ông cũng đến được Tây Phương, nhưng khi tới nơi ông mới vỡ lẽ tất cả những gì ông đã vứt bỏ, đều đang ở bên Ðức Phật, lòng thành của mỗi người đã làm cho lễ vật của họ đến với Ðức Phật. Còn vị tu sỹ, phải lãnh nhận quả báo, trở về, lặn ngụp trong bùn nhơ, để mà mò tìm những gì mà ông đã vứt bỏ. Cho nên, nói được thì phải làm được. Có tâm thành thì mới có sự hoàn tất tròn đầy.

Dù cho phẩm vật dâng cho cha mẹ khiêm tốn, giản dị, bình thường với tấm lòng tâm thành, cũng được kể là trọng. Thế nên, Tăng sâm có nói: “Hạnh hiếu đứng đầu trăm hạnh tốt. Hiếu cảm đến trời thì mưa gió hoà thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật hoá sinh, hiếu cảm đến người thì mọi phúc đều đến”. Người cảm được như vậy, nói được và làm được như vậy, chính là người đã làm tròn bổn phận hiếu hạnh của mình đối với cha mẹ. Chủ trương của đạo Phật là chính từ mỗi con người chúng ta phải hoàn bị, đầy đủ, thật trôi tròn nhiệm vụ và tư cách của mình. Bao giờ bổn phận của mình chu toàn thì chung quanh mình được ảnh hưởng. Tinh thần đó bắt nguồn từ tâm thành của mỗi người chúng ta.

  1. Chữ tâm trong dân gian.

Nền luân lý bình dân không có tính cách cao siêu, dạy cho ta một quan niệm xử thế tuîêt đích hay một tôn chỉ thoát tục. Mặc dầu, đối với bản thân, nền luân lý ấy khuyên ta có một tư cách cao thượng thanh khiết. “giấy rách phải giữ lấy lề” hoặc ” đói cho sạch rách cho thơm”. Ðôi khi, ta thấy ảnh hưởng rõ rệt của Nho Giáo mà sự bành trướng vượt ra khỏi phạm vi giai cấp Nho sĩ để ảnh hưởng tới đại chúng bình dân. Ta không thể phủ nhận ảnh hưởng ấy được, vì ngày trước cũng đã có nhiều vị quan đem những điều mình biết về Nho Giáo, rồi đem ra dạy cho dân, và trong dân cũng có nhiều người tài giỏi sống đời ẩn dật mà giúp đỡ dân học cái đạo lý làm người qua các sách Thánh hiền. Sự lớn rộng của Nho phong ấy đi vào từng nếp sống gia đình, cái đạo lý ấy làm cho gia đình có một nề nếp, có một bầu khí kính trên nhường dưới, có tôn ti trật tự gắn bó yêu thương.

Nói thế, người Việt Nam không phải là không có nền luân lý riêng, tuy nó không hệ thống như Nho Giáo, nhưng nó bàng bạc khắp nơi, qua những ca dao bình dân, nền luân lý ấy, đôi khi thật đơn giản, bình thường. Người Việt Nam không nhắm tới việc sống như một ông Thánh mà cốt sao tìm được sự hoà thuận trong gia đình: ” Thuận Vợ Thuận chồng, tát bể đông cũng cạn.” Hoặc dạy bổn phận làm con, biết ơn cha mẹ : “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Ðơn giản mà dễ hiểu: “anh em thương nhau như thể tay chân”, hoà hảo là hơn hết đối với xã hội: “Một sự nhịn, chín sự lành”. Lấy lòng nhân quan trọng hơn hết :”Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Sống với nhau cần có một tấm lòng, cái lòng của một luỹ tre xanh mộc mạc, chất phác mà bao công dụng, để rồi đi đâu, cũng nhớ cũng thương tới những luỹ tre xanh ấy.

Xét qua vài góc nhìn về chữ tâm trong chữ hiếu, chúng ta có thể nhận ra rằng, trước khi Kitô Giáo được gieo vào lòng quê Việt Nam, thì từ ngàn đời, Thánh Thần đã chuẩn bị trong tâm hồn người Việt một mảnh đất tốt, để sẵn sàng đón nhận hạt giống Tin Mừng.

 Lm. Ðôminicô Bùi Minh Sơn

35. Ðời đời và niềm hi vọng Kitô giáo

Mỗi lần tết đến xuân về chúng ta thường suyniệm về ý nghĩa của thời gian. Thời gian chẳng qua là một chuỗi của những chuyển động không ngừng. Nhưng không có thời gian nếu không có mức á đến và đi. Nói tóm lại nếu không có đời đời. Tuy nhiên người cộng sản sợ đời đời vì sợ con người sao nhãng nhiệm vụ trần thế. Họ nói tôn giáo là thuốc phiện làm mê mệt dân chúng vì tôn giáo cho con người thấy viễn cảnh đời đời. Ngày nay khi nghiên cứu các tôn giáo khác có nhiều người đâm ra nghi ngờ cái viễn cảnh đời đời của Kitô giáo. Tuy nhiên kinh thánh cho ta tin tưởng về một điều mà tâm hồn nhân loại không bao giờ tưởng tượng ra nổi. (1 Cor 2,9) Có đời đời vì Mạc khải và sự sống lại của Chúa : Nếu Chúa Kitô không sống lại niềm tin của anh em chả đi đến đâu cả..và rồi những người chết trong Chúa Kitô sẽ bị mất mát. Nếu ta đặt niềm tin vào Chúa Kitô cho cuộc sống hiện nay mà thôi, chúng ta là những người đáng thương hơn cả. (1 Co 15,17-19).

Mạc khải cho ta rất nhiều hình ảnh về thế giới bên kia, cõi vĩnh hằng, như là sự hiệp thông với Chúa hay tiệc cưới đời đời. Niềm tin và sự hi vọng vào cuộc sống đời đời đem lại cho ta sự can đảm và sự bình an nội tâm.

Khi loan báo Chúa Kitô Phục sinh mạc khải cũng đoan hứa xác thịt người ta sống lại và sự hằng sống . Nhưng số phận những người đã chết ra sao ? Cựu ước luôn cảnh cáo chuyện chiêu hồn nhưng cũng cho hay là người đã chết không bị tiêu diệt. Họ vẫn sống bên Chúa theo một cách thế nào đó. (Sg 3,1-9) . Việc cầu nguyện cho người chết, tập tục của người do thái như trong sách Maccabêô (2 M 12,43) vẫn được khuyến khích trong giáo hội cho thấy đã có những tập tục đó. Tân ước nói tới một hình ảnh tượng trưng của người do thái về một nơi nào đó người chết chờ đợi nhưng cũng xác định về một liên hệ mới với Chúa Kitô. (cf 2 Co 5,8; Ph 1,23). Như thế liên hệ giữa người còn sống và những người đã chết không bị gián đoạn.

Khi chấp nhận chân lý khi chết cuộc sống con người không bị tiêu diệt mà thay đổi trong một liên hệ mới với Thiên Chúa, Giáo Hội chủ trương là sau khi chết vẫn còn một yếu tố linh thiêng là linh hồn. Vì có liên hệ với Thiên Chúa hằng sống nên linh hồn bất tử (xem công đồng Latran V, DS 1440; FC 267) : Khi hiểu biết linh hồn theo cách thế của sách Khôn ngoan thì cũng xác quyết linh hồn bất tử. Xác tín rằng con người tiếp tục tồn tại sau cái chết trong liên hệ với Thiên Chúa dựa vào niềm tin là Thiên Chúa không phải là Chúa của kẻ chết mà là Chúa của kẻ sống. (Mc 12,27). Giáo hội xác quyết sự tồn sinh và sự tồn hữu sau cái chết của một yếu tố linh thiêng có ý thức và và ý chí để cái tôi của con người tồn tại. Ðể chỉ yếu tố đó giáo hội dùng từ linh hồn theo cách dùng của Thánh Kinh và Truyền thống. ( thư của thánh bộ đức tin về vài câu hỏi liên quan đến vấn đề cánh chung, tháng năm 1979). Vì có linh hồn bất tử con người sẽ gặp Chúa Ðấng Sáng Tạo và Thiên Chúa sau khi chết.

Lúc chết sự hiện hữu của mỗi người được đặt dưới ánh sáng của Thiên Chúa, soi sáng toàn thể cuộc sống. Ðó là phán xét riêng. Sự phán xét riêng này dành cho mỗi người ngay sau khi chết, không đợi đến ngày tận thế. Ðiều này qui định tình trạng giữa cái chết và ngày tận thế ngày toàn thể nhân loại sống lại. Mỗi người đều được Chúa soi sáng đối diện với chân lý. Sự phán xét cứu thoát đối với những người đã chấp nhận lời Chúa Kitô (cf Jn 12,46-48), cho những người đã làm lành và phán xét luận phạt cho những ai đã làm dữ (cf 2 Co 5,10) không có gì là thiên lệch và cho thấy giá trị của mỗi cuộc sống.

Sự cứu độ mang hình thức hưởng nhan Chúa nghĩa là thấy Thiên Chúa Ba Ngôi trong ánh sáng toàn diện (công đồng Florence năm 1439, DS 1305; FC 967). Sự diện kiến này làm cho con người hoàn toàn hạnh phúc. Thiên Chúa là đối tượng của niềm hi vọng kitô giáo và thỏa mãn hoàn toàn mọi khát vọng của con người.

Ðể đạt tới sự chiêm ngưỡng Chúa, một giai đoạn thanh tẩy rất cần thiết. Ta gọi là luyện tội. Không phải là nơi chốn hay thời gian nhưng là một tình trạng. Dù sao giai đoạn này cũng là một hình phạt Thiên Chúa dùng để thanh tẩy tội lỗi của con người. Sự hiệp thông với Thiên Chúa mà cái chết dẫn ta đến, cho ta đau đớn ý thức được những khiếm khuyết của mình, sự từ chối tình yêu của mình và nhu cầu cần phải để cho quyền năng cứu độ của Chúa Kitô thanh tẩy.

Chính Thiên Chúa thanh tẩy và biến đổi. Nhưng truyền thống của Giáo hội công giáo xác quyết rằng những linh hồn trong luyện ngục được hưởng lời cầu nguyện dành cho họ do những người anh em và lời cầu bầu của các thánh đang hạnh phúc hưởng nhan Thiên Chúa.

Việc phán xét trong ánh sáng của Chúa Kitô dẫn đến hai trạng thái trái ngược nhau ; thiên đàng hay hỏa ngục. Ðây là nội dung niềm tin do Thánh Kinh minh chứng trong một kiểu nói nhiều hình ảnh. Viễn cảnh về định mệnh con người này đưa đến nhửng quyết định tối hậu cho cuộc sống con người ở trần gian.

Thiên đàng là thế giới của Thiên Chúa. Chính trong ý nghĩa này mà chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha : Lạy Cha chúng con ở trên trời. Tân ước nói tới nước trời, hay lên trời là đi gặp Chúa Kitô trong nước thiên đàng để ở với người, cư ngụ trong nhà người.

Nước trời hoàn tất cuộc sống, làm tròn cuộc sống trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa và anh em. Thánh Kinh diễn tả sự toàn vẹn: trời là nơi hạnh phúc vĩnh viễn cho con người, tham dự toàn diện vào cuộc sống của Ba Ngôi, nhìn thấy Thiên Chúa diện đối diện, niềm vui và an bình không bao giờ tàn. Sách Khải huyền cho ta thấy một thế giới ánh sáng và cuộc sống.

Hạnh phúc thiên đàng không có tính cách riêng rẽ. Hiệp thông với Chúa cũng là hiệp thông với anh em với tất cả những ai sống trong tình yêu Thiên Chúa, trong Thần Khí của người, với những người đang ở trong thế gian và những người đã ra đi. Chính là hiện thực của tín điều các thánh thông công.

Hỏa ngục là kết thúc của sự từ chối Thiên Chúa cách tuyệt đối và sự trợ giúp của Ngài. Chính là từ chối cuộc sống và niềm vui mà Thiên Chúa muốn ban tặng. Tân ước diễn tả như một trạng thái bị lên án, nghĩa là tuyên án hình phạt đời đời, đã được chuẩn bị cho ma quỉ và bè lũ, như là trạng thái mất mát hoàn toàn và là cái chết lần thứ hai.

Không ai có thể nói người nào đó vào hỏa ngục ï. Nhưng hỏa ngục cho thấy con người có khả năng khước từ cách dứt khoát cuộc sống Thiên chúa ban tặng. Chúa yêu con người quá sức nên kính trọng con người, không bắt buộc họ và tạo nên con người tự do. Chúa muốn cho mọi người được cứu độ, hành động để lôi kéo họ ra khỏi sự dữ và tội lỗi, và mở cửa cho họ đi vào cuộc sống. Nhưng ngài coi trọng tự do của con người và công nhận tầm quan trọng của những quyết định của họ.

“Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Chúng ta đọc trong kinh Tin Kính của công đồng Nicée Constantinople.

Sự trở lại của Chúa Kitô như ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính không phải đơn giản như tái thể hiện cuộc quang lâm đầu tiên, đã đưa Ngài đến cái chết. Nhưng là sự tỏ hiện cuối cùng của Ðấng Phục sinh không còn chết nữa. (Rm 6,9) Triều đại người loan báo và khai mạc và được hết thúc khi ngài trở lại không phải là triều đại ở thế gian này. Tuy nhiên Chúa Kitô vinh quang sẽ đến trong vinh quang chính là Ðấng đã đến, khi phục sinh đã chiến thắng sự chết và tội lỗi, là Ðấng vẫn can thiệp trong cuộc sống của ta nhất là trong các bí tích là những dịp tưởng niệm Ngài cho đến khi Ngài trở lại.

Chúng ta không thể tưởng tượng hay đặt chương trình cho cuộc tái quang lâm của Chúa Kitô vì ngày giờ hay hoàn cảnh chỉ mình Cha trên trời biết trước. Giáo hội luôn lên án chủ nghĩa cho rằng Chúa trở lại sau những ngàn năm lịch sử.

Chúng ta chỉ cần chuẩn bị trong niềm hi vọng việc Chúa trở lại với chiến thắng hoàn toàn sự chết kẻ thù cuối cùng; Ngài xóa bỏ mọi hình thức nô lệ và hiện đến trong vinh quang. Thánh Phaolô cho ta biết :” Nếu người đã chết không sống lại, Chúa Kitô cũng không sống lại. Và nếu Chúa Kitô không sống lại sứ điệp của chúng ta sẽ không có đối tượng và niềm tin của ta cũng vô ích. (1 Co 15, 13-).

Vì Chúa Kitô sống lại nên người ta cũng sẽ sống lại. Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Vì Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa là người đầu tiên từ kẻ chết sống lại, người đầu tiên trong những người đã chết.

Trong cựu ước đã có niềm tin về sự sống lại cá nhân nhất là những người tuẫn giáo trong Israel. Niềm tin những người chết sống lại trước thời gian bị lưu đầy khởi đi từ kinh nghiệm về sự phục hoạt của dân Israel và phát xuất từ xác tín là liên hệ với Thiên Chúa nơi người công chính không thể bị phá hủy, vì các ngài đã hi sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa. Ngài không thể để họ chết đi. Tuy nhiên biến cố Chúa Giêsu sống lại củng cố niềm xác tín vào sự sống lại của những người đã chết.

Sự phục sinh của Chúa Kitô cho thấy tình yêu Chúa Cha mạnh mẻ, trung thành và không gì có thể chuyển lay. Ðó là công việc của Chúa Thánh Thần tiếp tục kết hợp mật thiết với Cha và Con ngay trong khi Chúa Giêsu chịu chết và chịu khổ hình. Thánh Linh được ban chonhững người chịu phép rửa và thêm sức : nếu Thánh Linh đã phục sinh Chúa Kitô từ cõi û chết hiện diện trong anh em , Ðấng đã phục sinh Chúa Kitô cũng ban sự sống cho thân xác hay chết của anh em nhờ Thánh Thần ngự trong anh em. (Rm 8,11).

Nhờ phép rửa và ơn Thánh Linh chúng ta được phục sinh với Chúa Kitô và biến đổi. Xác thịt của chúng ta sẽ biến đổi giống như Chúa Kitô phục sinh. Thánh Phaolô gọi là một thân xác linh thiêng tràn đầy vinh quang.

Chúa Kitô đã nói đừng quá tưởng tưởng về sự biến đổi thân xác này trong tin mừng. Khi người Sađucêô hỏi ngài về chuyện anh chàng có nhiều vợ khi sống lại sẽ ở với ai, Chúa đã phán : Các người sai lầm và không biết được quyền năng của Thiên Chúa. Khi sống lại người ta không còn lấy nhau nữa mà như các thiên thần trên trời. Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống. Thánh Phaolô cho ta thấy thân xác linh thiêng sau khi sống lại khi ngài viết : gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang, gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẻ, gieo xuống là thân thể có sinh khí mà trỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cor 15,42-44).

Việc sống lại của thân xác là sự sáng tạo mới hoàn toàn là tác phẩm của quyền năng Thiên Chúa và giống như một sự sinh sản. Theo Anastase tu viện trưởng núi Sinai vào năm 700 trong bài giảng về sự sống lại thì : Nếu chương trình cứu độ chưa hoàn tất, vì con người luôn chết đi và thân thể họ luôn tan rữa khi họ chết, thì đó không phải là lý do cho ta không tin. Chúng ta đã nhận lãnh trước những điều tốt lành Chúa đã hứa nơi con người trưởng tử, nhờ người ta được mang lên trời và chia xẻ ngai tòa với Ðấng đã mang ta lên cao như thánh Phaolô nói : Với Ngài ngài đã làm cho ta sống lại, với ngài Ngài đã cho ta hiển trị trên trời với Chúa Kitô Giêsu.

Ngoài cái viễn cảnh cá nhân, mạc khải còn mở cho ta thấy viễn cảnh cho toàn thể nhân loại , một sự hoàn tất tập thể cho toàn thể thế giới, trong việc phán xét chung. Liên hệ với việc kẻ chết sống lại cho ta thấy khía cạnh tập thể của việc cứu độ. Không ai được cứu độ một mình. Tất cả được thiết lập theo sự công bình của Thiên Chúa và Chúa Kitô sẽ đến phán xét kẻ sống và kẻ chết, tái tạo vạn vật và trả lại cho Thiên Chúa. Ðiều này cho thấy xét đoán của con người mỏng manh và phiếm diện, nên Chúa Kitô có nói là không nên lên án ai cứ để cỏ lùng mọc chung với lúa.

Tuy nhiên không nên đợi Chúa trở lại cách thụ động. Chúng ta phải làm cho thế giới luôn tốt đẹp theo ý Chúa như trong bài giảng về nước Trời của Chúa Giêsu. Trái đất là nơi khởi đầu cho nước Chúa hứa hẹn cho tương lai và đã được phán xét. Chúa Giêsu đã nói rõ chỉ những người yêu thương trong thế giới này sẽ có chỗ đứng hạnh phúc trong tương lai và ngày thế mạt Chúa sẽ cho thấy cái gì là tốt đẹp , bền vững chân thật trong cõi nhân sinh.

Sau khi tuyên xưng việc kẻ chết sống lại chúng ta tuyên xưng cõi sống đời đời, cuộc sống của thế giới ngày mai. Mục đích cuộc sống con người là cõi sống đời đời. Chúa đã hứa cho ta cuộc sống đó. Cuộc sống này chỉ là sự kéo dài và triển nở cuộc sống kết hợp với Chúa Kitô trong cuộc sống hiện tại. Ðó là cuộc sống mà Chúa là tất cả trong mọi sự, cuộc sống tràn đầy của Ba Ngôi Thiên Chúa. Kinh Thánh nói tới trời mới đất mới. Những gì tốt đẹp trên thế gian này sẽ tồn tại hay hoán chuyển sang thế giới mới như con sâu rọm biến thành con bướm khi mùa xuân trở lại. Hiện nay chúng ta vẫn lãnh nhận ơn sủng cuộc sống đời đời đã bắt đầu, chúng ta đã lãnh nhận những ơn đầu tiên của Thánh Thần Ðấng đã phục sinh Chúa Kitô và chúng ta sống trong niềm hi vọng màu nhiệm phục sinh sẽ hoàn tất trong chúng ta.

Niềm tin và hi vọng Kitô giáo không thể không có những hậu quả trong cách thế đối diện và đến gần cái chết. Phụng vụ diễn tả : Ðối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan thì có chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời. Bộ mặt mới của cái chết cho ta biến đổi cái chết theo gương Chúa Kitô thành một sự hiến dâng sau cùng. Chết như người tin Chúa là phó thác cho tình yêu của Thiên Chúa và hi vọng. Mỗi lần đọc kinh Kính mừng chúng ta vẫn thường xin Mẹ Maria : ” Cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Hãy nhớ mãi lời nhắn nhủ của cha Charles de Foucault: Hãy sống ngày hôm nay như con sắp ra pháp trường tử đạo”

Lm Augustinô Nguyễn Huy Tưởng

 

36.Ý nghĩa việc cầu nguyện cho những người thân yêu

Qua sự cầu nguyện, Chúa Cha đã kêu gọi chúng ta hợp tác với các ý định của Người. Người cho phép chúng ta đóng góp vào những ân ban và những trợ giúp Người dành cho nhân loại. Thật vậy, qua sự cầu nguyện chúng ta có thể xin được cho tất cả những kẻ thân quen và thương yêu những của cải thiêng liêng và vật chất. Chúng ta biết rằng, một lời cầu nguyện, dù thế nào đi nữa, cũng không bao giờ mất hiệu nghiệm, và kẻ nào chúng ta cầu nguyện cho, nhất thiết đều nhận được những ơn lành và những lợi ích qua những lời cầu xin chúng ta gởi lên Trời. Quyền năng Thiên Chúa, nếu không ban cho như mình xin, thì cũng ban cái gì đó tốt hơn cho người liên quan, và một cái gì đó thực sự đáp ứng những ước muốn thầm kín của người cầu xin. Không có lời kinh nào mà không được nhậm lời: đó là một sự thật cho phép chúng ta hiểu giá trị mà Chúa Cha gán cho những điều ước mong mà chúng ta bày tỏ với Người.

Ðối với những người đã qua đời, vai trò của sự cầu nguyện cũng đáng ngạc nhiên lắm, và nó biểu lộ tầm quan trọng của sự hợp tác chúng ta với quyền năng của Thiên Chúa. Chúa Cha muốn ban hạnh phúc của Người cho con cái Người đã chết bình an trong tình bằng hữu với Người. Nhưng, một số người không thể vào ngay cõi phúc thiên đàng, do những thiếu sót chuẩn bị cá nhân lúc họ bước vào cõi bên kia. Họ phải trải qua một cuộc tinh luyện; chúng ta biết cuộc tinh luyện này rất đau khổ, nhưng chúng ta không thể diễn tả nó được. Ðiều huyền diệu của ý định Thiên Chúa, là qua những lời kinh và những lễ vật của chúng ta, chúng ta có khả năng xin cho họ được giảm bớt đau khổ và rút ngắn thời gian đau khổ thử thách. Cho nên, vì lòng nhân lành của người Cha luôn sẵn sàng chấp nhận lời cầu khẩn chúng ta, chúng ta có thể làm cho người đã qua đời tiến nhanh đến thời điểm họ được hưởng hạnh phúc cuối cùng. Mặc dù chỉ có quyền tối cao của Chúa Cha quản trị những số phận con người bên kia cũng như trên mặt đất, nhưng chúng ta có quyền can thiệp hữu hiệu giúp những người chúng ta thương yêu và có quyền mở cửa nơi cư trú thiên đàng cho họ.

Như vậy, người ta hiểu được rằng: Giáo Hội cử hành ngày Các Linh Hồn bằng một cố gắng mãnh liệt hơn về sự cầu nguyện. Tập quán trang hoàng các bông hoa trên ngôi mộ là một biểu thị rất đẹp của những mối thân tình vẫn tiếp tục tồn tại với người qua đời. Nó chứng tỏ rằng tình yêu đối với người thân tiếp tục sống sau sự chia ly do cái chết. Nhưng quan trọng hơn, đó là dấu chứng tình yêu qua sự cầu nguyện. Sự cầu nguyện, thật vậy, không những là một sự tỏ bày lòng kính trọng với những người chúng ta đã yêu thương và còn tiếp tục yêu thương, mà còn nhắm xin Trời cải thiện số phận những kẻ qua đời: nhờ sự cầu nguyện, chúng ta mang đến sự trợ giúp hữu hiệu nhất, cho những kẻ đau khổ đang khao khát hạnh phúc chiếm hữu Thiên Chúa.

Chỉ cần chúng ta tự hỏi các linh hồn mong muốn chúng ta làm điều gì cho họ, là chúng ta hiểu được tầm quan trọng của sự cầu nguyện. Chắc chắn chúng ta không biết được có phải những người chúng ta yêu thương còn ở trong thời kỳ đau khổ trước khi vào thiên đàng? Chúng ta không có chỉ dẫn nào về vấn đề này, và thời điểm vào thiên đàng lại nằm trong bí mật của những quyết định của Thiên Chúa. Nhưng những lời kinh chúng ta dâng cầu cho các kẻ qua đời, không bao giờ là vô ích; nếu những lời kinh đó không còn ích lợi gì cho những kẻ chúng ta cầu xin cho, vì họ đã vào cửa hạnh phúc, thì những lời kinh đó lại sinh ích lợi cho những kẻ khác, những kẻ cần đến sự can thiệp giúp này, để đạt tới cùng đích số phận của mình. Vả lại, đức bác ái nhiều khi thúc giục những người Kitô hữu phải cầu nguyện cho các linh hồn ở thế giới bên kia đang bị đau khổ tột cùng hoặc bị mọi người lãng quên.

Chúng ta cảm tạ Chúa Cha cho phép chúng ta giúp đỡ cách hiệu nghiệm như vậy, trong mầu nhiệm của thế giới bên kia, những người thương yêu đã từ biệt chúng ta.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Quang Sách

 

37.Tại sao chúng ta cầu nguyện cho linh hồn những người quá cố?

Dịp kỷ niệm 1.000 năm ngày viện phụ Odilon, viện phụ thứ năm của đan viện Cluny, cổ võ việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục vào ngày 02.11 hằng năm, Ðức Thánh Cha đã gửi một Sứ-điệp đến Ðức giám mục Autun, Chalon và Mâcon kiêm Viện-phụ Ðan viện Cluny, nhiệt liệt khuyến khích các tín hữu sốt sắng cầu nguyện cho người quá cố để họ được tha thứ mọi hình phạt do tội lỗi. Sứ-điệp được công bố tại Rôma ngày 12.9.1998 với nội dung như sau :

Kính gửi Ðức cha Raymond Séguy, Giám mục Autun, Chalon và Mâcon, Viện phụ Cluny,

Trong năm kỷ niệm một ngàn năm thành lập lễ các linh hồn do thánh Odilon (+1049), viện phụ thứ năm của đan viện Cluny, đồng thời kỷ niệm một trăm năm vị tiền nhiệm của Ðức cha là Ðức hồng y Perraud thành lập Hiệp-hội các bà Cluny chuyên cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, kỷ niệm bốn mươi năm thành lập tạp chí “Lumière et Vie”, Ánh Sáng và Sự Sống chuyên cổ võ việc cầu nguyện cho người quá cố, tôi vui lòng hiệp ý với tất cả những người trong năm nay tham dự các buổi lễ cầu nguyện cho những người đã ra đi trước chúng ta.

Thực vậy, sau ngày lễ các thánh, trong đó Giáo Hội hân hoan cử hành tình hiệp thông của các thánh và ơn cứu độ con người, thánh Odilon đã nhắn nhủ các đan sĩ cầu nguyện đặc biệt cho những người quá cố, nhờ đó góp phần cách huyền diệu giúp các linh hồn ấy đạt tới hạnh phúc. Từ Ðan viện Cluny, thói quen long trọng cầu nguyện cho những người quá cố dần dần được phổ biến và ngày nay vẫn còn thịnh hành trong Giáo Hội hoàn vũ.

Khi cầu nguyện cho những người qua đời, Giáo Hội chiêm ngưỡng trước tiên mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô, Ðấng đã đạt cho chúng ta ơn cứu độ và sự sống đời đời qua cái chết của Người trên thập giá. Vì thế, cùng với thánh Odilon, chúng ta có thể lặp lại không ngừng : “Thập Giá là nơi tôi nương náu. Thập Giá là Ðường và là Sự Sống cho tôi. Thập Giá là khí giới vô địch của tôi. Thập Giá đẩy lùi mọi sự dữ. Thập Giá phá tan tăm tối”. Thập Giá của Chúa nhắc nhở cho chúng ta rằng : toàn thể cuộc sống được Ánh sáng Phục Sinh soi chiếu ; không có tình trạng nào hoàn toàn là tuyệt vọng, hư mất? vì Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết và mở cho chúng ta con đường sự sống chân thật? Ơn cứu độ được hiện thực nhờ hy tế của Chúa Kitô, nhờ đó con người chuộc tội mình và được giao hòa với Thiên Chúa.

Niềm hy vọng của chúng ta dựa trên Hy Tế của Chúa Kitô. Sự phục sinh của Ngài khai mạc thời kỳ sau hết. Niềm tin vào sự sống vĩnh cửu như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính đồng thời mời gọi hy vọng vui tươi sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa nhãn tiền. Tin “xác loài người sẽ sống lại” là nhìn nhận rằng có một mục đích sau cùng, một cứu cánh chung cuộc của mọi đời người. Cứu cánh ấy thỏa mãn được mọi ước muốn của con người đến độ không còn mong ước sự gì khác ngoài mục đích ấy. Thánh Augustinô đã diễn tả cùng một ước muốn đó cách tuyệt hảo khi nói rằng : “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa và tâm hồn chúng con sẽ được an nghỉ cho đến khi nào được ở trong Chúa”.

Vì thế, tất cả chúng ta đều được mời gọi sống với Chúa Kitô ngự bên hữu Chúa Cha và chiêm ngưỡng Ba Ngôi Chí Thánh, vì Thiên Chúa là đối tượng chính của niềm cậy trông Kitô-giáo. Cùng với ông Gióp, chúng ta có thể thốt lên : Giờ đây “tôi biết rằng Ðấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” (G 19,25t). Chúng ta cũng nhớ rằng : Nhiệm Thể Chúa Kitô đang chờ đợi sự hiệp nhất vào ngày tận thế, khi tất cả mọi chi thể được ở trong hạnh phúc hoàn toàn, và “Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi người” (1 Cr 15,28).

Thực vậy, Giáo Hội hy vọng ơn cứu độ vĩnh cửu cho mọi con cái mình và cho mọi người. Chúng tôi tin rằng Giáo Hội là cần thiết cho ơn cứu độ, vì Chúa Kitô là Ðấng Trung Gian Duy Nhất và là Con Ðường Cứu Ðộ. Ngài sẽ cứu chúng ta trong Thân Thể Ngài là Giáo Hội. Nhưng ý Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, và những ai không vì lỗi của họ mà không được biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, họ vẫn trung thành tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng thi hành thánh ý Chúa được nhìn nhận qua những mệnh lệnh của lương tâm, thì những người ấy có thể được ơn cứu rỗi, và số người đó chỉ có Thiên Chúa biết.

Trong khi chờ đợi sự chết hoàn toàn bị đè bẹp, con người tiếp tục cuộc lữ hành trên mặt đất ; có những người sau khi hoàn tất cuộc sống còn phải chịu sự thanh tẩy ; sau cùng có những người được hưởng vinh quang và chiêm ngưỡng Ba Ngôi Thiên Chúa trong ánh sáng viên mãn. Chỉ có công nghiệp của các thánh, lời cầu nguyện huynh đệ của chúng ta, trợ giúp những ai đang chờ đợi được hưởng kiến Thiên Chúa. Việc cầu nguyện cho người quá cố cũng như đời sống của những người đang sống theo các giới răn của Chúa đạt được những công nghiệp nhắm hoàn tất ơn cứu độ. Trong tình bác ái huynh đệ ? chúng ta đáp ứng ơn gọi sâu xa của Giáo Hội, đó là cứu vớt những linh hồn yêu mến Chúa đời đời. Ðối với các linh hồn trong luyện ngục, tình trạng phải chờ đợi hạnh phúc vĩnh cửu, mong mỏi được gặp gỡ với Ðấng được yêu mến khiến họ đau khổ vì hình phạt phải chịu do tội lỗi khiến họ phải xa Chúa, nhưng chắc chắn rằng sau khi hoàn tất thời kỳ thanh luyện, linh hồn sẽ đến gặp Ðấng mình hằng ao ước.

Sự chiêm ngưỡng cuộc sống những người đã theo Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta sống đời kitô tươi đẹp và ngay chính, làm cho chúng ta xứng đáng với nước Chúa. Vì thế chúng ta được mời gọi hãy sống “tỉnh thức – siêu nhiên”, theo kiểu nói của Ðức hồng y Perraud, để chúng ta chuẩn bị mỗi ngày cho đời sống vĩnh cửu. Như Ðức hồng y John Newman đã nhấn mạnh : “không những chúng ta phải tin, nhưng còn phải tỉnh thức ; không những yêu mến, nhưng còn phải tỉnh thức ; không những vâng phục, nhưng còn phải tỉnh thức”. Có thể sự tỉnh thức là một thử thách xem mình có phải là kitô-hữu hay không, vì tỉnh thức có lẽ là tách rời khỏi cái hiện tại và sống với tư tưởng về Chúa Kitô như Ngài mong muốn xưa kia và như Ngài sẽ trở lại, mong ước Ngài đến trong vinh quang.

Những lời chuyển cầu và kêu xin của Giáo Hội được dâng lên Thiên Chúa có một giá trị rất lớn lao. Chúng là đặc tính của một tâm hồn, phù hợp với lòng từ bi Chúa. Chúa luôn để cho tâm hồn Ngài bị xúc động vì những lời khẩn cầu của con cái, vì Ngài là “Thiên Chúa của kẻ sống”. Trong lời nguyện chung và lời cầu cho người quá cố, cộng đoàn phó dâng cho Chúa Cha đầy tình thương xót tất cả những người quá cố, để qua việc thanh tẩy trong lòng, họ được luyện sạch và được hạnh phúc trường sinh. Khi phó thác các linh hồn ấy cho Chúa, chúng ta nhìn nhận mình liên đới với họ và chúng ta tham dự vào phần rỗi của họ trong mầu nhiệm tuyệt diệu về tình hiệp thông của các thánh. Giáo Hội tin rằng các linh hồn còn bị cầm giữ trong luyện ngục được trợ giúp nhờ lời cầu nguyện của các tín hữu, nhất là bằng thánh lễ đền tội dâng trên bàn thờ cũng như bằng việc làm phúc và các việc đạo đức khác. Thực vậy, sự thánh thiện được sống thực sự chỉ phát xuất từ sự tham gia vào đời sống thánh thiện của Giáo Hội, và chính nó cũng là sự đóng góp đầu tiên và cơ bản cho sự thánh thiện của Giáo Hội vốn là một cộng đồng các thánh hiệp thông.

Vậy, tôi khuyến khích các tín hữu công giáo hãy sốt sắng cầu nguyện cho những người qua đời, những người thân thuộc và mọi anh chị em đã quá cố, để họ được tha thứ các hình phạt do tội lỗi và được nghe tiếng Chúa gọi : “Hỡi linh hồn yêu dấu, hãy vào nơi an nghỉ đời đời trong vòng tay nhân từ của Ta đã dọn sẵn cho con hạnh phúc trường cửu”.

Lm. Thiên Lâm 

 

print