Các Bài Suy Niệm Lễ Đức Maria Thăm Viếng Bà Ê-Li-Sa-Bét
- Maria ở lại độ ba tháng–Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. 1
- Thân mẫu Chúa đến với tôi–‘Manna’ 3
- Đức Mẹ Thăm Viếng–GM GB. Bùi Tuần. 4
- Đức Mẹ Đi Thăm Viếng–GM GB. Bùi Tuần. 6
- Thăm viếng bác ái và truyền giáo–TGM Giuse Nguyễn Năng. 9
- Đức Mẹ đi thăm viếng Bà Êlisabeth–GM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan. 9
- Người phụ nữ diễm phúc–Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 11
- Đức Maria thăm viếng bà Elisabeth–Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 12
- Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ–Lm Giuse Đinh Tất Quý. 14
- Đức Maria vội vã lên đường–Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên. 16
- Cuộc viếng thăm tình yêu– Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An. 16
- Một cuộc gặp gỡ tuyệt vời–Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT.. 19
- Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth–Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 20
- Thăm viếng yêu thương phục vụ–Lm. Anmai, C.Ss.R.. 22
- Ðức Maria thăm viếng bà Êlisabeth. 24
- Đức Maria thăm viếng. 25
- Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth. 28
- Không khiêm nhường, không biết tạ ơn! 32
- Mẹ Maria gặp gỡ chị họ Elisabeth–Đaminh Trần văn Chính. 35
- Cuộc gặp gỡ lịch sử–JM. Lam Thy DVD.. 36
- Niềm vui thăm viếng–Huệ Minh. 38
- Cuộc viếng thăm đầy ân sủng–Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP. 40
- Niềm vui có Chúa–Nữ đan sĩ Maria Maximiliano Kolbe. 41
- Chia Sẻ Niềm Vui–Radio Veritas Asia–‘Suy Niệm Lời Chúa’ 42
- Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân–JKN.. 44
- Thương thì Thăm—Trầm Thiên Thu. 47
- Tình khúc ngợi khen—Trầm Thiên Thu. 49
- Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế–Lm. Hồng Phúc. 52
- Đức Maria Viếng Thăm Bà Êlisabét–Lm Fx Vũ Phan Long Ofm.. 54
- Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn–‘Tin Mừng Chúa Nhật’ 59
- Lên đường vì yêu–Lc 1,39-56. 61
- Đức Mẹ Thăm Viếng–Trầm Thiên Thu (từ CatholicCulture.org) 62
- Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng– Lm. Anthony Trung Thành. 64
- Đức Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét 66
- Thăm viếng với niềm vui 68
1. Maria ở lại độ ba tháng–Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Từ Nadarét, Chị Maria đã phải đi 160 cây số
để đến nhà ông bà Dacaria.
Ngày nay, người ta cho rằng nhà của ông bà tư tế này là ở En Kerem,
một ngôi làng nằm trên đồi, vây bọc bởi những cây ô liu và vườn nho,
cách Giêrusalem 6 cây số về hướng tây.
Cuộc hành trình vất vả, dài như cuộc hành hương lên Đền Thánh.
Chị Maria không đi một mình,
chắc Chị đi với một người bà con.
Hơn nữa, chị đi với Giêsu đang lớn lên trong lòng Chị.
Khi nghe sứ thần nói bà chị họ Êlisabeth già nua đang mang thai,
Maria thấy mình có bổn phận phải vội vã lên đường.
Chị muốn đem đến cho bà Êlisabeth sự hiện diện của Chị.
Một sự hiện diện khiêm tốn và lịch sự.
Chị đã mở lời chào khi vừa bước vào nhà ông bà tư tế Dacaria.
Chúng ta không rõ Maria đã chào như thế nào,
nhưng lời chào của Chị đã làm bật dậy nơi bà Êlisabeth
một chuỗi những âm vang mạnh mẽ và bất ngờ.
Tai vừa nghe lời chào của cô em Maria,
Êlisabeth thấy thai nhi trong lòng mình nhảy lên vì vui sướng (cc. 41, 44).
Lập tức bà được đầy tràn Thánh Thần.
Thánh Thần đã khiến bà nhận ra những mầu nhiệm lớn lao
đang diễn ra trong cuộc hạnh ngộ ở đây, vào giây phút này.
Êlisabeth lớn tiếng ca ngợi Maria là người phụ nữ diễm phúc nhất.
Maria có phúc vì được chọn làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu độ (c. 42),
và vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với mình (c. 45).
Ngỡ ngàng và ngây ngất trong hạnh phúc, Êlisabeth kêu lên:
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa của tôi đến với tôi thế này?” (c. 43).
Như thế mầu nhiệm ẩn kín nơi Chị Maria, bà Êlisabeth đã biết.
Ngược lại, khi thấy bà chị họ của mình mang thai,
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần đã nói với mình.
Một sự hiện diện mang tính phục vụ.
Maria đã ở với bà Êlisabeth độ ba tháng để giúp bà trong lúc sinh nở.
Tất cả những việc trong nhà, hẳn chị Maria đã tận tâm chu tất.
Khi Chị nhận mình là nữ tỳ của Chúa (Lc 1, 38),
khi bà Êlisabeth gọi Chị là Mẹ của Chúa tôi (c. 43),
thì Chị lại trở nên nữ tỳ phục vụ bà chị họ cao niên.
Sự hiện diện của Chị đem lại cho cả nhà niềm vui và hạnh phúc.
Giêsu vẫn lớn lên từng ngày trong Chị, và Chị cảm nhận điều đó.
Lời ca Magnificat chẳng phải chỉ được cất lên một lần.
Lời ngợi khen ấy thấm nhuần cuộc sống của Chị.
Mãi mãi Chị là nữ tỳ hèn mọn được Thiên Chúa cúi xuống (c. 48).
Và Chị biết mình cũng phải cúi xuống để phục vụ tha nhân.
Mọi cuộc gặp gỡ của chúng ta hằng ngày đều có tính linh thánh.
Trong niềm vui của Thánh Thần, ta vừa cho đi, vừa nhận lãnh,
vừa ngợi khen Chúa, vừa phục vụ con người.
Ước gì chúng ta thấy mình lớn lên nhờ dám mở ra để gặp gỡ.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. Amen.
2. Thân mẫu Chúa đến với tôi–‘Manna’
Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Đấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
và chị cưu mang Đấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Maria đi phục vụ bà Êlisabét, theo ý bạn, đâu là những đặc tính của một người phục vụ tốt?
Nhiều quốc gia chấp nhận cho phá thai. Bạn nghĩ gì về sự kiện đó?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
3. Đức Mẹ Thăm Viếng–GM GB. Bùi Tuần
- Mấy ngày nay tôi đau nhiều. Đêm rồi, những cơn đau làm tôi không sao ngủ được. Tôi nghĩ tới lễ Đức Mẹ đi thăm Bà Elisabét (31.5.2014). Tôi lần chuỗi mân côi, và nói với Đức Mẹ: “Mẹ ơi, con đau lắm, đứng lên không được. Xin Mẹ thương con. Mẹ có thể đến thăm con, được không?”. Tôi nói như thế nhiều lần. Rồi lại lần chuỗi.
- Một lát sau, tôi cảm thấy có một sự gì lạ xảy ra trong tôi. Tôi dần dần như được trầm mình vào một dòng nước thiêng liêng. Dòng nước thiêng liêng ấy rửa tôi khỏi tình trạng lo âu. Tôi cảm thấy tâm hồn được bình an nhẹ nhàng. Tôi thấy mình thực bé nhỏ, hèn mọn, yếu đuối. Đột nhiên, tôi nhớ lời Chúa Giêsu phán xưa: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Với lời đó, Chúa dạy tôi và các môn đệ Chúa hãy là hạt lúa gieo vào lòng đất, để chịu chết đi, thì mới được cùng với Chúa cứu các linh hồn.
- Khi đề cập đến việc cứu các linh hồn, tự nhiên tôi được một ánh sáng thiêng liêng cho thấy: Hiện nay rất nhiều người đang bị quỷ Satan khống chế, xiềng xích, lôi kéo từ tội nọ sang tội kia. Để sau cùng phải sa xuống hoả ngục. Cứu được chỉ một người ra khỏi quyền lực Satan đã là chuyện không dễ chút nào, phương chi cứu nhiều người. Ngay để cứu chính mình cũng là việc không tự mình làm được. Dứt khoát phải nhờ vào Chúa. Mà, để được Chúa cứu, thì hãy khiêm nhường. Hết sức khiêm nhường.
- Tôi như thiếp đi. Rồi tỉnh lại. Tôi nhận ra là Đức Mẹ đã đến thăm tôi. Tôi không nhìn thấy Đức Mẹ. Nhưng chính ở sự Đức Mẹ đến một cách kín đáo tế nhị, mà tôi càng mến phục sự khiêm nhường của Đức Mẹ.
Tôi cảm được sự khiêm nhường của Mẹ là một vẻ đẹp và là một hương thơm, dấu chỉ tình yêu cứu độ của Mẹ.
- Việc Đức Mẹ thăm tôi đã qua rồi. Tôi hết lòng cảm tạ Mẹ. Có hai điều Mẹ để lại trong tôi một cách đặc biệt.
Điều thứ nhất là cảnh nhiều người thời nay bị Satan khống chế.
Chính tôi đã thấy và đang thấy cảnh đó. Thực là ghê gớm. Phúc Âm kể lại một người bị quỷ ám xin Chúa cứu. Chúa hỏi quỷ tên là gì? Nó thưa: Tên tôi là đạo binh.Chúa bắt quỷ phải ra khỏi người đó. Chúng nhập vào đàn heo gần đấy. Đàn heo rất đông từ sườn đồi lao mình xuống vực thẳm (x. Lc 8,26-33). Tôi dám nói là hiện nay các đạo binh quỷ nhập vào một người, một gia đình hay một cộng đoàn cũng đang xảy ra, tuy dưới hình thức nhẹ hơn. Chúng vẫn còn đó. Những người bị ác thần nhập nhiều khi cảm thấy rất khổ, muốn thoát, nhưng không tự mình thoát được. Đức Mẹ dạy tôi là các con của Mẹ hãy sống như hạt lúa gieo vào lòng đất, làm của lễ hy sinh, để cùng với Chúa Giêsu mà cứu họ.
- Điều thứ hai là sự nhiều môn đệ Chúa thời nay đang dần dần coi thường đức khiêm nhường.
Đúng lý ra, người môn đệ của Chúa phải luôn coi mình làkẻ được Chúa sai đi, vì thế phải quan tâm làm tốt những gì Chúa muốn mình làm vì lợi ích các linh hồn. Sống như thế đòi phải rất khiêm nhường. Nhưng thực tế đang xảy ra khác. Nhiều người môn đệ Chúa lại tự đánh giá mình theo những gì mình biết làm, theo khả năng của mình, như mọi người trong xã hội mình sống, chứ không như Chúa muốn. Do đó, họ coi cạnh tranh uy tín, địa vị là bình thường, coi đấu tranh giành thắng lợi cả trong lãnh vực tôn giáo cũng là chuyện hãnh diện, coi tìm vinh quang cho cá nhân mình cũng là làm cho Chúa.
- Những điều trên đây được Mẹ nhắc nhủ cho tôi. Tôi nhận biết là đạo đức đang xuống dốc ở ngoài đời cũng như ở trong đạo. Tôi quyết sửa ngay nơi bản thân tôi. Nhưng thú thưc tôi chưa làm đủ, làm đúng như Chúa muốn. Tôi sám hối và cầu xin Mẹ thương thêm sức cho tôi. Đức Mẹ thôi thúc tôi hãy tận dụng thời gian còn lại để cùng với Chúa cứu các linh hồn. Nếu chần chừ, tưởng chừng mọi sự sẽ êm xuôi cả, chẳng có gì xấu sẽ xảy ra đâu, thì ai biết được những bất ngờ có thể xảy ra!
- Khi tôi đang ngồi viết gần xong bài này, thì tôi nghe còi xe cứu hoả rú. Từ xa rồi gần lại. Tôi mở cửa đi ra, thì thấy xe cứu hoả đang ở sân Toà Giám Mục. Tôi hoảng sợ. Hỏi ra, thì biết dân xung quanh thấy khói đen bốc ra từ một căn phòng khu nhà góc Toà Giám Mục. Họ gọi xe cứu hoả. Đúng là đang có cháy do chập điện. May mà kịp cứu. Tôi nghĩ tới những bất ngờ.
- Thực sự tôi đang thấy những bất ngờ đau đớn đang xảy ra đó đây trên thế giới, trong khu vực, trên Quê Hương và ngay tại địa phương bé nhỏ này. Bất ngờ này kéo theo bất ngờ khác. Tôi hỏi Đức Mẹ, thì Mẹ cho tôi nhớ lại tất cả những gì Đức Mẹ đã cảnh báo ở Fatima. Sẽ có những cơn đau đớn bất ngờ khủng khiếp xảy ra, nếu người ta không sám hối và khiêm nhường tỉnh thức.
Tôi cầu xin Mẹ thương đến viếng thăm Đất Nước Việt Nam yêu dấu của tôi. Xin Mẹ ban cho tất cả đồng bào tôi được yêu thương nhau, biết bảo vệ và phát triển những giá trị đạo đức thiêng liêng cao quý.
Lạy Mẹ, xin đến cứu con khỏi mọi tội lỗi.
4. Đức Mẹ Đi Thăm Viếng–GM GB. Bùi Tuần
Phụng vụ Hội Thánh định ngày 31 tháng 5, để kính nhớ biến cố Đức Mẹ Maria đi thăm viếng bà thánh Isave.
Hằng năm, đến lễ này, tôi thường làm ba việc sau đây:
1/ Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà thân mẫu của Gioan Baotixita. Nhờ cuộc viếng thăm này, Gioan Baotixita được thánh hoá, sau này trở thành người dọn đường cho Đấng Cứu thế.
2/ Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà mẹ già Isave. Nhờ đó Mẹ làm gương cho muôn đời: về sự người trẻ, dù chức cao quyền trọng, nên biết cộng tác với người già, trong chương trình cứu độ.
3/ Nguyện cầu Mẹ vẫn tiếp tục đi thăm các con cái Mẹ, nhất là thăm những đứa con nghèo túng, bệnh tật, lầm lạc, thiếu mọi phương tiện để hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra..
Tôi xin phép triển khai đôi chút ba việc kể trên.
Thánh hoá Gioan Baotixita.
Phúc Âm thánh Luca thuật lại: “Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Giacaria, và chào bà Isave. Bà Isave vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng bà Isave như nhảy lên và bà được tràn đầy Thánh Thần. Bà liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này. Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng chị nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,39-45).
Rõ ràng, bà Isave đã được Chúa soi sáng cho biết người em họ còn rất trẻ của mình mới nhận một vai trò hết sức quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Chúa. Chúa soi sáng cho bà qua một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là bào thai bà đang mang bỗng nhảy mừng, khi Đức Mẹ vừa cất tiếng chào.
Tôi thấy các dấu chỉ trên đây đều xảy ra một cách rất âm thầm. Sự hiểu được ý nghĩa các dấu chỉ này cũng rất âm thầm. Tất cả diễn ra trong bầu khí thanh vắng của nội tâm. Nếu nội tâm không có sự thanh vắng, chắc chắn những ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần sẽ không thể được nội tâm đón nhận.
Xin cảm tạ Chúa đã cho Đức Mẹ và bà thánh Isave một thanh vắng êm đềm trong nội tâm sâu thẳm và nhạy bén.
Xin cảm tạ Chúa vẫn ban cho thời này những nội tâm như thế theo gương Đức Mẹ và bà thánh Isave.
Những việc thánh hoá như thánh hoá Gioan Baotixita vẫn được Chúa làm trong thời nay, cũng vẫn một cách âm thầm lặng lẽ như xưa.
Thế nhưng, thời nay, tại nhiều nơi, việc thánh hoá, thánh hiến, đang có vẻ đóng khung vào những cơ chế mang nặng hình thức, như lễ nghi rườm rà, y phục nhất định, kinh sách dài dòng, hát xướng huyên náo. Thêm vào đó là những tổ chức đón tiếp, trình diễn, mừng chúc, tiệc tùng, tặng quà, trong bầu khí náo động nhộn nhịp, ồn ào. Những khung cảnh như vậy có thể tốt với nhiều điều kiện. Nhưng xem ra đang có chiều hướng phát triển theo tinh thần thế tục. Nếu cứ vậy, thì sẽ không còn sự thanh vắng nội tâm cần thiết. Thay vào đó sẽ là một “sự thánh hoá, thánh hiến” ồn ào, hội nhập vào sự ồn ào của một thế giới hướng ngoại rất xa lạ với sự thánh hoá thực chất của Phúc Âm.
Cộng tác giữa trẻ với già.
Kinh Thánh tả việc Đức Mẹ đi viếng bà Isave là một cuộc “lên đường vội vã” (Lc 1,39). Người vội vã lên đường chính là một người phụ nữ rất trẻ, mới mang thai Chúa Cứu thế bởi phép Chúa Thánh Thần.
Với niềm tin như thế, Đức Mẹ có thể tự hào, tự đắc, tự tin. Nhưng không. Đức Mẹ đã vội vã lên đường. Hướng đi là tìm đến người chị họ Isave. Bà Isave là người đàn bà mà chính thiên sứ Gabriel gọi là “đã già rồi” (Lc 1,36), nhưng mới được thụ thai con trai nhờ ơn Chúa thương ban.
Khi nhìn những bước đi thầm lặng, vất vả, vội vã của người phụ nữ trẻ Maria, Mẹ Đấng Cứu thế, tôi rất xúc động. Mẹ băng qua bao nhiêu dặm đường, để lên vùng núi, tìm thăm người chị họ đã già. Những bước đi vội vã đó đáng trân trọng hơn muôn vàn quà tặng.
Nhưng khi thấy trong giây phút vừa gặp nhau, người chị họ già lại là người chúc khen người em họ còn trẻ, tôi bàng hoàng bỡ ngỡ. Thánh Isave đã mở lòng Maria, để từ đó trào ra những lời tạ ơn Chúa.
Hình ảnh cuộc gặp gỡ thân thiết giữa một bà mẹ trẻ và một bà mẹ già là một gợi ý. Đối với tôi, đó là một gợi ý về sự cộng tác giữa trẻ và già. Hai bên cùng tự do cộng tác, không do áp lực nào. Nhưng cả hai cùng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Hai bên nói đây không phải chỉ hiểu về hai cá nhân. Nhưng cũng được hiểu về cả một thế hệ đi sau và thế hệ đi trước.
Sự cộng tác này hiện nay trở nên cần thiết, khi nhiều tổ chức xem ra đang có nguy cơ phá sản về kỷ cương, và các giá trị đạo đức truyền thống.
Mẹ tiếp tục đi thăm.
Để cứu nguy, nhiều nơi đang phát động việc hành hương đến những nơi Đức Mẹ hiện ra. Người ta vẫn tin những nơi đó linh thiêng. Vì những nơi đó được Đức Mẹ viếng thăm. Tôi rất hoan nghênh những cuộc hành hương đó.
Nhưng, khi suy gẫm về biến cố Đức Mẹ đi thăm viếng bà thánh Isave, tôi vẫn nghĩ rằng: Đức Mẹ có tấm lòng muốn chia sẻ Tin Mừng, muốn hướng về những người khác, muốn lên đường, ra đi cứu độ. Vì thế, tôi thường cầu xin Đức Mẹ thương đến thăm tôi, khi tôi không thể đi hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra. Tôi cũng xin điều đó cho mọi người, không phân biệt họ là ai.
Tôi rất xác tín sự Đức Mẹ có lòng thương xót đặc biệt đối với những người nghèo khổ, bệnh tật, bị trói buộc vào những hoàn cảnh éo le không sao gỡ được. Tôi xin Mẹ đoái thương đến thăm họ.
Hiện nay, nhiều người không công giáo và công giáo, hoặc công giáo bê bối, vẫn thích mang giữ ảnh tượng Mẹ trong nhà và trong mình. Hiện tượng đó cho phép tôi nghĩ rằng: Đức Mẹ đang tìm cách đến thăm từng gia đình và từng người. Thăm một cách lặng lẽ, nhưng thân mật. Từ đó, nhiều người nhận thức dần dần về một thế giới thiêng liêng. Đồng thời họ khát mong gặp được một Đấng thiêng liêng, để đời mình khỏi mất hướng.
Tôi hy vọng những con cái Mẹ cảm nhận được điều đó, để biết bước theo Mẹ và thay Mẹ đến thăm cứu giúp những người đang chìm dần xuống cảnh khổ nguy.
Để kết, tôi xin phép kể một câu chuyện nhỏ:
Một bà mẹ đi chợ, một tay xách giỏ, một tay ẵm đứa con nhỏ . Ở một góc chợ, có một bà lão ăn mày, hai tay giơ lên, miệng nài khẩn kẻ qua người lại. Bà mẹ bồng con đứng lại, rút ở giỏ ra chiếc bánh và ít tiền. Bà không đưa trực tiếp cho bà ăn mày. Nhưng trao cho đứa con đang bồng trên tay. Bà ngồi xuống, bảo con đưa bánh và tiền cho bà lão ăn mày. Đứa bé vâng lời thực hiện từng chi tiết mẹ dạy. Làm xong, đứa bé tỏ vẻ vui mừng hớn hở. Nó làm thay cho mẹ nó.
Bà mẹ đó đã nói với tôi: Bé của con làm thay cho con. Nhưng con cũng làm thay cho Đức Mẹ. Lời đơn sơ đó đủ nói cho tôi sứ mạng mà Mẹ Maria đang trao cho con cái Mẹ trong cuộc sống hôm nay. “Hãy thay Mẹ đi thăm viếng những người khốn khó”. Việc thăm viếng này có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Yếu tố quan trọng nhất của mọi cách thăm viếng theo gương Mẹ là tấm lòng tế nhị, nhạy bén và thương cảm trong Chúa Giêsu.
5. Thăm viếng bác ái và truyền giáo–TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Việc Đức Maria thăm viếng gia đình ông Gia-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét vừa có tính cách bác ái vừa là truyền giáo. Truyền giáo là cùng với Chúa Giêsu đến chia sẻ niềm vui nỗi buồn của kẻ khác và phục vụ họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã đem Chúa đến gia đình ông Gia-ca-ri-a. Cuộc thăm viếng này không những đem lại niềm vui, mà còn đem ân sủng của Chúa xuống trên gia đình người chị họ neo đơn, nhờ đó mà Thánh Gioan Tiền Hô được tẩy sạch tội lỗi, nhảy mừng trong lòng bà Ê-li-sa-bét.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng con rất thường gặp gỡ, thăm hỏi nhau. Bạn bè tri kỷ thỉnh thoảng tâm sự với nhau, bên ly cà phê nóng, bên ly rượu lai rai…, rồi những dịp ma chay cưới hỏi trong xóm trong làng. Thế nhưng con tự hỏi: những khi gặp gỡ kẻ khác, không biết con đã thực sự đem lại niềm vui và ơn thánh của Chúa cho kẻ khác chưa. Con chỉ có thể đem Chúa đến cho kẻ khác khi con có Chúa ở trong mình theo cung cách của Đức Mẹ. Chúa ở trong cung lòng của Đức Mẹ vừa là Thiên Chúa quyền năng, vừa là người con rất thân thiết. Lạy Chúa, khi rước Chúa mỗi ngày, con có Chúa ở trong tâm hồn con. Xin Chúa cho con đón nhận Chúa với tất cả tấm lòng. Đối với con, không những Chúa là Thiên Chúa của con mà còn là Đấng thân yêu nhất, là Đấng mà con có thể hiến dâng cả cuộc sống, có thể hy sinh từ bỏ tất cả những gì ngăn cản con sống với Chúa. Xin Chúa sống trong con như Đấng con quý mến nhất, yêu thương nhất.
Con tin rằng khi đó con có thể đem Chúa đến với người mà con gặp gỡ, để chính họ cũng đón nhận được chính Chúa. Xin Chúa dạy con đem Chúa đến với kẻ khác bằng thái độ yêu thương, phục vụ, chân thành và khiêm hạ giúp đỡ tha nhân. Amen.
Ghi nhớ: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”
6. Đức Mẹ đi thăm viếng Bà Êlisabeth–GM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đang đứng trước một cuộc thăm viếng vừa là chuyện của cuộc đời thường, mà cũng là một mầu nhiệm, Chúa Giêsu vừa đầu thai trong lòng mẹ đã đi thăm vị Tiền Hô tương lai của mình. Cả hai còn trong lòng mẹ mà đã biết nhau. Đức Giêsu đem Thánh Linh đến, Gioan Tẩy Giả trong lòng đã nhảy mừng chào đón Người.
Nhưng hôm nay nhân ngày lễ hành hương kính Mẹ, tôi muốn anh chị em ngắm nhìn dung mạo và tâm hồn Mẹ, người tín hữu đệ nhất của Tân Ước trước mầu nhiệm đi viếng này, và đây là bài học quý giá cho cuộc đời tín hữu của chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay làm nổi bật những thái độ tâm hồn của Đức Mẹ như sau:
Mẹ là người có một Đức tin sâu thẳm.
Mẹ là người có tâm hồn nghèo khó tuyệt vời.
Mẹ là người có con tim tràn đầy tình chia sẻ.
- Đức tin sâu thẳm của Đức Mẹ.
Trong lời chào mừng được Thánh Linh soi sáng của bà Êlisabeth, ta thấy một lời tán dương thật bất ngờ: “Phúc cho em là người đã tin rằng, Chúa đã thực hiện những gì người đã nói với em” (Lc 1,45).
Chúa đã nói gì với Đức Mẹ? Đó là lời sứ thần chuyển đến cho Mẹ trong giờ truyền tin: “Thánh Thần Chúa ngự xuống trên bà, và quyển năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh mà bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Đây là cuộc thụ thai nhiệm mầu, người trần không ai hiểu được. Tiếng xin vâng của Đức Mẹ lúc đó là cả một niềm tin sâu thẳm vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ ôm ấp thánh ý Chúa vào lòng và nguyện cầu cho thánh ý đó trọn vẹn nơi mình. Tiếng “Xin Vâng” của Mẹ là một quyết định vào đời trong Đức Tin, là tiếng nói “có”, không do dự với Thiên Chúa trước một tương lai đang mờ mịt. Con thuyền đời của Mẹ ra khơi mà không nghĩ gì đến sóng gió ba đào, có thể chờ đợi mình. Tiếng Xin Vâng của Mẹ là cả một niềm tin yêu, phó thác cả tương lai mình cho Thiên Chúa. Là sẵn sàng cho gươm đâm thâu trái tim, là chứng kiến và hiệp thông với sự hy sinh của người con yêu trên thập giá.
Tại nhà bà Êlisabeth, Mẹ nhận được một lời tán dương: “Em có phúc”, không phải vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, mà là Mẹ đã tin, đã sẵn sàng để cho Thiên Chúa dẫn dắt mình qua những nẻo đường mới lạ.
Cuộc sống của người tín hữu đúng nghĩa là sống trong thánh ý Thiên Chúa, là bước đi trong Ánh sáng của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, mà nhiều lúc ta thấy không giống với lý luận của người đời, nhiều lúc phải dám nói như thánh Phaolô: “Sự khôn ngoan của người đời là sự dại dột trước mặt Thiên Chúa”. Cuộc đời đầy gian nan, đầy thập giá, người đời coi đó là vô phúc, là thiếu khôn ngoan, thì người tín hữu phải đánh giá đó là của lễ Tình yêu theo Tin Mừng, Chúa mời gọi ta dâng hiến.
Để đạt tới hạnh phúc như vậy, ta cần phải học cho được tâm hồn nghèo khó của Đức Mẹ.
- Tâm hồn nghèo khó của Mẹ.
Tâm hồn nghèo khó là bài học đầu tiên Chúa dạy các môn đệ Ngài: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Tại nhà bà Êlisabeth, Mẹ đã thể hiện tâm hồn nghèo khó đó như thế nào. Tinh thần hay tâm hồn nghèo khó thì khác với sự thiếu thốn về vật chất mà ta thường coi là bất hạnh. Cùng với tâm hồn nghèo khó là tâm hồn khiêm tốn, nhận ra mình là tạo vật do Chúa dựng nên từ chút vật liệu tầm thường là bùn đất, tro bụi. Nếu chúng ta có trở nên người may mắn, thông minh, tài giỏi, giàu sang hay quyền thế, tất cả đều do Chúa ban cho. Đừng tự mãn như là tự mình tạo nên được. Philatô nói với Chúa: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”, Chúa đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài”.
A đam – Evà đã lầm, khi thấy mình được tự do nói “không” hay nói “có” với Thiên Chúa, bèn quên đi hồng ân đầy tình thương đó, không chịu nghe lời chỉ bảo của Ngài, để theo Satan ăn trái cấm mong được quyền hành như Ngài. Cứ ăn bừa trái cấm, ăn rồi mới thấy mình trần truồng, nghĩ là không còn chi nữa. Mất Chúa là tai hoạ lớn nhất,khủng khiếp nhất cho con người.
Trong bài ca tạ ơn tại nhà bà Êlisabet, Mẹ dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, khi bà Êlisabet ngợi khen Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, lập tức Mẹ lại xưng mình là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Mẹ đang nhìn thấy Chúa dẹp tan người lòng trí kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, bắt người giàu có trở thành tay không. Đó là những kẻ cứ tưởng mình là chúa của mình.
Bài học khiêm nhường của tâm hồn nghèo khó là bài học cứu độ cho con người, và khi Chúa Kitô muốn dâng một của lễ xoá tội trần gian, Ngài đã hạ mình vâng lời Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập tự.
Muốn làm con Chúa, muốn có hạnh phúc Nước Trời, ta cần suy gẫm và cầu xin Đức Mẹ dạy bảo cho chúng ta biết bài học của Chúa Kitô: Sống hiên lành và khiêm nhường trong lòng. “Hãy học cùng Ta,vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” đó là hạnh phúc thật.
- Con tim tràn đầy chia sẻ của Đức Mẹ.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta không bỏ qua được tâm hồn nghèo khó đi đôi với con tim tràn đầy tình chia sẻ của Đức Mẹ. Làm người ai mà không cần đến tình thương. Tham lam, ích kỷ đang làm hao mòn tình thương trên mặt đất nầy.
Từ Nazaret đến Ain Karim, Mẹ đã lên đường mang theo Chúa Giêsu cùng đi với Mẹ. Trước hết thì Mẹ với tư cách là bà con, Mẹ muốn chia vui khi nghe Tin Mừng thiên thần báo thụ thai cách lạ lùng, trước đó 6 tháng. Mẹ cũng hiểu ý Chúa quyền năng muốn mời gọi Mẹ mang theo sứ mệnh mừng vui và bình an cho chị họ mình, khi Mẹ lên đường có Chúa đi theo. Một hoạt động mang tính nhiệm mầu và bác ái.
Cuộc gặp gỡ người ta quen nói là mẹ gặp mẹ, con gặp con và Thánh Linh thì hoạt động. Bà Êlisabet được đầy Thánh Thần và chào mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Gioan thì nhảy mừng trong dạ mẹ, còn Đức Mẹ không ngớt lời ngợi khen Thiên Chúa.
Thiên Chúa tình yêu đang ở giữa lòng Mẹ. Tình yêu đó đang đốt nóng cõi lòng Mẹ, và mọi cử chỉ, hành động của Mẹ đều chan chứa tình yêu.
Mầu nhiệm này cũng là biến cố có liên hệ đến cuộc sống của chúng ta hôm nay. Mỗi người tín hữu vẫn cưu mang Chúa trong cuộc đời đức tin của mình. Sống ở đâu chúng ta cần biết biểu lộ tình yêu để làm chứng cho Chúa ở trong chúng ta và chúng ta là môn đệ Chúa, mọi sự bắt nguồn từ tình yêu.
Gia đình Kitô giáo nào cũng phải là mẫu mực của sự thuận hoà, đầm ấm vì có Chúa tình yêu luôn hiện diện trong gia đình của mình. Và đàng khác nhiệm vụ khẩn trương mà mỗi Kitô hữu không thể quên là phải biết giới thiệu Thiên Chúa Tình Yêu cho biết bao người thành tâm thiện chí muốn biết Chúa.
Chúng ta đến Tàpao xin nhiều ân huệ của Mẹ, xin đừng quên điều Chúa nhăn nhủ: Hãy loan báo Tin Mừng Tình Yêu cho người nghèo khó. Xin Mẹ ban cho chúng ta ân huệ đó.
7. Người phụ nữ diễm phúc–Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A- Phân tích (Hạt giống…)
Đức Mẹ Maria được bà Êlisabét gọi là người có phúc nhất trong tất cả các phụ nữ. Qua đoạn Phúc Âm này, ta có thể thấy được một số lý do khiến Đức Mẹ diễm phúc như thế:
– Vì Mẹ có đức tin vững mạnh: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”.
– Vì Mẹ luôn có Chúa Giêsu trong mình
– Vì Mẹ biết quan tâm mang hạnh phúc đến cho người khác
– Vì Mẹ biết sống như một “người nghèo của Thiên Chúa”: “Kẻ đói nghèo Ngài ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”.
B- Suy gẫm (… nẩy mầm)
- Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)
- “Bà Maria lên đường, vội vã đến miền núi, vào một thành thuộc chi tội Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét.” (Lc 1,39-40)
Mẹ Maria ơi! Ngày xưa Mẹ thật đơn sơ và dễ thương khi hăng hái lên đường giúp bà Êlisabét. Những bước chân nhẹ nhàng, đầy niềm vui phục vụ. Rồi ngày Mẹ lo lắng sợ hãi đem trẻ Giêsu trốn sang Ai cập. Những bước chân nặng nề, cuống cuồng vì tai họa trần gian… Và con không cảm nhận hết tâm trạng của Mẹ khi theo sau Chúa Giêsu trên đường lên núi Sọ. Nhìn những giọt máu của con mình cùng cái chết dành cho loại tử tội xấu xa, những bước chân nhục nhã, đau khổ… Thánh giá Mẹ vác quá nặng mà Mẹ vẫn vượt qua và bước tới.
Con cũng biết “Tin” là “Bước đi”. Nhưng nhiều khi con chới với, con ngã lòng, con chưa có sức bước trong sự dẫn dắt tuyệt vời của Thiên Chúa. Con chưa tin đủ.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con xác tín rằng những bước chân vui buồn khấp khểnh ở đời này, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh hôm nay sẽ làm nên lối nhỏ dẫn lên Trời nếu con bước với lòng phó thác, tin yêu. (Hosanna)
8. Đức Maria thăm viếng bà Elisabeth–Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Vừa mang thai Đức Giêsu, Đức Maria đã vội vã đi thăm bà Elizabeth. Đức Mẹ vừa vào nhà thì việc lạ đã xảy ra: hài nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth! Được Chúa Thánh Thần soi sáng bà đã cất tiếng ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
Lãnh sứ mạng sinh Chúa Cứu Thế, Đức Maria đã nghĩ ngay đến người khác. Mẹ đem Chúa đến cho thân nhân, Mẹ thực thi bác ái trọn hảo. Và theo lời bà Elizabeth, Mẹ nêu gương lòng tin tuyệt vời vào Lời Chúa phán hứa. Chính nhờ niềm tin vững mạnh đó mà Mẹ đã được Thiên Chúa chọn sinh Đấng Cứu Thế.
Phải có tinh thần biết chia sẻ cho người khác
Sau khi đón nhận tin cưu mang Đấng Cứu thế, Đức Maria đã vội vàng đi thăm gia đình Giacaria để chia sẻ niềm vui trong gia tộc. Mẹ ra đi loan truyền niềm vui cho bà chị họ và đem Đấng Cứu Thế đến cho Gioan Tẩy giả. Vì thế, thai nhi nhảy mừng trong lòng mẹ như là lời đáp trả được đón nhận niềm vui cứu độ mà Tin mừng đã trình bày. Maria đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho chính Mẹ niềm vui, niềm vui chờ đón Con Mẹ khi dấn thân phục vụ mà Mẹ đã biểu lộ qua lời ca Magnificat.
Con người không những cần được cung cấp của ăn thức uống cho thân thể, nhưng còn phải được chia sẻ tâm tình trong cuộc sống. Đúng là: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Chúng ta cũng phải theo gương Đức Mẹ mà biết chia sẻ cho người khác vì như người ta nói: “Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, còn nỗi buồn mà được chia sẻ thì được giảm đi một nửa”.
Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng
Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi cho mình nữa.
Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niềm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần: Ngài thêm xác tín về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà bây giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài cất lên lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong kinh ngợi khen Magnificat.
Đức Maria, mẫu gương của bác ái
“Đức Maria đã vội vã ra đi lên miền núi”: điều đó nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia sẻ vui buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến ba, bốn ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.
Dầu Đức Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, lại phải mất ba bốn ngày mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái dặm trường. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của bác ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Đức Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.
Truyện: Lòng bác ái của bác sĩ Longet
Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.
Được hỏi tại sao ông quý mến bệnh nhân như thế?
Bác sĩ Longet đáp:
– Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.
Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ; bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở Giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.
9. Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ–Lm Giuse Đinh Tất Quý
- Thánh Luca thuật lại một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: người mẹ già và người mẹ trẻ.
– Người mẹ trẻ là người đến thăm. Người đó chính là Đức Maria, người đang mang Chúa Giêsu trong lòng, người được gọi là người “có phúc hơn mọi người nữ”, và là người có một niềm tin tuyệt vời.
– Người mẹ già là người được thăm: Đó là bà Êlizabeth. Bà cũng đang cưu mang. Người con bà cưu mang là người con của ân sủng. Người mẹ già và cả con người con của mình đều cảm thấy được diễm phúc trước sự xuất hiện của người mẹ trẻ “Bởi đâu tôi được diễm phúc là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy! Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng chị”.
+ Cuộc viếng thăm mà thánh Luca thuật lại là cuộc viếng thăm tuyệt đẹp: dẹp trong ý nghĩa và đẹp trong thành quả.
Đẹp trong ý nghĩa bởi vì đây là cuộc viếng thăm của hai người mẹ đang cưu mang trong mình những con người thánh.
Và đẹp trong thành quả vì cuộc viếng thăm này đã đem lại những kết quả tuyệt vời: Gioan Tẩy giả được thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ và Mẹ Maria đã để lại cho hậu thế một bài ca, một bài ca thánh, có một không hai trong Lịch sử ơn Cứu độ, để nói lên tâm tình tạ ơn và ca tụng lòng nhân từ của Thiên Chúa
+ Chúng ta cầu xin cho cuộc viếng thăm này trờ thành mẩu mực cho các cuộc viếng thăm nhau của chúng ta.
- Quả vậy khi nhìn vào cuộc sống xô bồ ngày nay, chúng ta thấy chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần, nhất là những người sống nơi thành thị. Có khi hai người ở sát nhà nhau mà không gặp nhau suốt cả tháng trời. “Tình nghĩa láng giềng” ngày càng lợt lạt, thay vào đó là “đèn nhà ai nhà nấy sáng”, và “sống chết mặc bây”. Linh mục Azevedo nhận xét: ngay cả những tu sĩ ở cùng một cộng đoàn mà nhiều khi chỉ “sống bên cạnh nhau” chứ không phải “sống với nhau”. Câu chuyện Đức Mẹ lặn lội đường xa đến thăm và giúp đỡ bà Êlisabeth là một lời nhắc nhở những người sống cạnh nhau hãy nhớ đến nhau.
Hơn nữa khi chúng ta thăm nhau, thử hỏi chúng ta đã đem lại được gì tốt đẹp cho những người chúng ta viếng thăm hay chỉ là những chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc là ngồi lê đôi mách. Việc thăm viếng nhau như thế chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm dịp tội cho nhau và là dịp để nói xấu người khác.
Có lẽ chúng ta cũng phải thành thực kiểm tra lại những cuộc thăm viếng của chúng ta xem: Tôi có mang Chúa đến cho người tôi thăm viếng hay không? Những điều tôi nói có phải là Tin Mừng khiến người được tôi thăm cảm thấy được bình an và hạnh phúc hơn không?
Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn Mẹ.
Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:
– Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.
Ông ta trả lời hững hờ:
– Tôi đã quen sống như vậy rồi.
– Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.
Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:
– Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?
Ông la trả lời cộc lốc:
– Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.
Tôi hỏi ông:
– Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?
– Dĩ nhiên.
Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:
– Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng.
Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.
Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.
10. Đức Maria vội vã lên đường–Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên
George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.
Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.
Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: “Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?”.
Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: “Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống”.
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Isave. Giáo Hội đặt lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.
Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin của bà Isave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ cho Gioan Tẩy giả.
Bên cạnh Chúa Giêsu, từ việc cưới Cana cho đến dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.
Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
Tưởng niệm biến cố Mẹ lên đường đến viếng thăm bà Isave trong ngày cuối tháng hoa này, mỗi người Kitô chúng ta được mời gọi để tin tưởng hơn bao giờ hết sự hiện diện đầy ưu ái của Mẹ có sức mang lại cho chúng ta niềm vui, sự can đảm để tiếp tục dấn bước trong cuộc lữ hành trần gian này.
Những lúc mệt mỏi trong cuộc sống, những lúc tối tăm bao trùm cuộc sống, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ. Một vài Kinh Kính Mừng mà chúng ta có thể chỉ đọc một cách máy móc, đó chính là những giây phút chúng ta đến ngồi bên Mẹ. Ðó không là những phút giây vô ích, trái lại sự thanh thản của Mẹ, lòng quảng đại của Mẹ sẽ là nguồn nâng đỡ chúng ta.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’)
11. Cuộc viếng thăm tình yêu– Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng ngày Lễ Thăm viếng cho chúng ta chân dung của hai người mẹ diễm phúc nhất trần gian: Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế và Isave, mẹ Gioan Tiền Hô.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui, diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần tác động trên Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Isave. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15). Đó là một Lễ Ngũ Tuần đầu tiên mà bà Isave nói dưới tác động của ThánhThần. Đức Maria đã tiếp đón một cách đơn sơ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính cung lòng Mẹ. Cuộc gặp gỡ ngoại hạng này cũng như sáng ngày Phục Sinh, bí mật nầy của Thiên Chúa được giao phó cho phụ nữ trong niềm hân hoan vui sướng chỉ có thể đến từ Chúa Thánh Thần.
Thánh Luca thích nói rằng Thánh Thần sẽ “được đổ tràn đầy trên mọi xác thịt”, khi trích dẫn những lời của tiên tri Gioel. Bà Isave trở thành nữ tiên tri. Bà kêu lên, bằng giọng của lời tung hô phụng vụ : “Maria, em thật có phúc giữa tất cả phụ nữ và hoa trái lòng em được chúc phúc”.
Suy niệm về cuộc gặp gỡ kỳ diệu của hai bà mẹ cho chúng ta những bài học bổ ích.
Đức Maria đã đi thăm người chị họ Isave. Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm vì yêu thương. Chính tình thương đã thúc đẩy bước chân Mẹ. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.
Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang và giữa hai giao ước cũ và mới.
– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ơ lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Isave được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, thì con trẻ Gioan trong lòng mẹ Isave nhảy mừng vui sướng.
– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
Cuộc viếng thăm của Đức Maria là cuộc viếng thăm của tình yêu.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Đức Phật nói: “Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”. Ngài gọi cái khổ ấy là “ái biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.
Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Khi đến thăm bà Isave, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Isave vui mừng, mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Isave, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Isave là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện hơn.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Isave đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con yêu dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn 2000 năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Có đôi bạn trẻ yêu nhau đã nhiều năm nhưng hai gia đình không chấp nhận vì vấn đề tôn giáo. Cô gái là con của gia đình đạo đức. Chàng trai là con gia đình theo đạo ông bà. Nhà gái muốn con rễ theo đạo mới gã con gái. Nhà trai không chấp nhận vì họ quan niệm, con trai theo đạo là bỏ tổ tiên ông bà. Khi đến thăm gia đình chàng trai, qua vài câu chuyện mở đầu, tôi thắp mấy nén nhang trước bàn thờ tổ tiên với lòng thành kính. Hai ông bà quá đổi nhạc nhiên: Cha xứ Nhà thờ mà thắp nhang trước bàn thờ ông bà mình ư? Tôi giải thích cho họ về đạo hiếu về việc thắp nhang của người kitô hữu. Họ nhận ra là lâu nay họ hiểu lầm về đạo Công giáo nên không cho con theo đạo. Hai ông bà vui mừng và sẵn sàng cho con trai gia nhập đạo. Hạnh phúc đến với đôi bạn trẻ ấy. Niềm vui bừng lên khi mọi khúc mắc được giải toả.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẽ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.
Đức Maria viếng thăm, phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Isave. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo Mẹ. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẽ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của con cái Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
12. Một cuộc gặp gỡ tuyệt vời–Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Nói và viết về Mẹ còn gì hạnh phúc bằng? Ngôn từ của thế gian vẫn chỉ có giới hạn không thể diễn tả nổi những điều con người muốn nói về Mẹ, đặc biệt người Mẹ ấy lại cao trọng hoàn toàn hơn bất cứ người Mẹ nào ở trần gian. Mẹ có tên là Maria, người nữ tỳ của Thiên Chúa. Tên Maria bao hàm tất cả những gì đẹp nhất, cao quý nhất mà từ ngữ của con người xem ra không đủ để diễn tả toàn vẹn về Mẹ.
“Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét” (Lc 1, 39-40). Nói lời xin vâng cùng Thiên Chúa, Mẹ Ma-ri-a đã rất tế nhị, vội vàng lên đường, vượt đồi, qua núi, đến xứ Giu-đê-a, để chia vui với bà chị họ của Mẹ là bà Ê-li-sa-bét cũng đang mang thai con trong lúc tuổi già.Cái thai đã được 6 tháng: “…Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 36-38). Mẹ Maria lòng hân hoan, dạ đơn thành, đã quên hết sự mệt nhọc vì đường xa, khó khăn để tới với bà chị họ yêu quí, để chia sẻ hồng ân vô biên Thiên Chúa đã ban cho Mẹ và bà Ê-li-sa-bét: “Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 40-45).
Mẹ được ân phúc như lời chào của bà Ê-li-sa-bét không chỉ có nghĩa là Mẹ làm Mẹ của Chúa Giêsu về mặt thể lý, nhưng qua cung lòng trinh khiết, không vương tì ố, Mẹ trở nên đền thờ Thiên Chúa, Mẹ thông ban Thần khí là chính Thần khí của Chúa Giêsu. Ma-ri-a trước khi cất cao lời ca ngợi hồng ân vô biên của Thiên Chúa đã đoái thương Mẹ và bà chị họ Ê-li-sa-bét, Chúa Thánh Thần đã tỏ lộ cho bà Ê-li-sa-bét hiểu rõ rằng người phụ nữ đang ở trước mặt mình không chỉ là người em họ của mình nhưng đó chính là Mẹ của Thiên Chúa: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43). Phần Mẹ Ma-ri-a, Mẹ cũng nhận ra rằng đứa con đang trong lòng dạ của bà chị họ Ê-li-sa-bét, không phải là một đứa con bình thường, nhưng là một quà tặng quí giá, vị tiền hô Thiên Chúa ban tặng để Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Điều này đã xẩy ra sau đó 30 năm bên bờ sông Giođan, khi Gioan chỉ cho nhân lọai thấy Đấng Cứu Thế: “Đây Chiên thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Mẹ cất tiếng ca tạ ơn Thiên Chúa qua kinh “Magnificat “. Đây mãi mãi nói lên tâm tình sâu kín của tâm hồn cầu nguyện của Mẹ. Mẹ đã ca ngơi hồng ân của Thiên Chúa. Một hồng ân vô giá của Thiên Chúa trao ban nhưng không cho Mẹ và cho nhân lọai. Tất cả đều là ân sủng. Thiên Chúa đi tìm những gì nghèo hèn và yếu kém để nâng dậy và bù đắp. Mãi mãi Mẹ và nhân lọai ca tụng, tạ ơn Thiên Chúa vì ơn cứu độ chứa chan nơi Chúa Giêsu.
Cuộc gặp gỡ hết sức quan trọng của Mẹ Ma-ri-a và bà chị họ Ê-li-sa-bét có tính cách hết sức lịch sử trong cuộc hành trình đức tin để nhận lãnh ơn cứu độ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cung lòng khiết trinh của Mẹ đã thúc đẩy Mẹ đem niềm vui tới cho bà chị họ và nhân lọai qua thánh Gioan Tiền Hô đang được bà Ê-li-sa-bét cưu mang. Đây là sự chia sẻ, sự quan hệ giữa người với người. Đi thăm viếng là ra khỏi nhà mình, nhưng ý nghĩa quan trọng là ra khỏi chính bản thân của mình, quên mình, quảng đại chia sẻ tình thương và đến với con người. Đây cũng là ý lực giúp chúng ta ra khỏi cái vỏ an toàn, sự ích kỷ, để co cụm lại trong con người của mình, để vượt qua mọi trở ngại, mọi thử thách, đến với mọi người để cảm thông, phục vụ, hy sinh loan báo Tin Vui, giới thiệu Đức Kitô cho nhân lọai, cho con người. Và như thế, cuộc gặp gỡ của Mẹ và bà Ê-li-sa-bét mang ý nghĩa thật cao cả, tuyệt vời.
Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ đã mau mắn ra khỏi nhà, ra khỏi chính mình để quảng đại đến và ở lại phục vụ bà chị họ Ê-li-sa-bét, để cùng với bà chị họ, ca ngợi, tạ ơn hồng ân tuyệt vời Thiên Chúa đã làm cho Mẹ, cũng như cho bà chị họ. Amen.
13. Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth–Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Nghe các bài đọc Lời Chúa trong Thánh lễ kính Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth hôm nay, chúng ta như nghe được tiếng reo vui và những nụ cười hân hoan mừng rỡ, niềm hân hoan và tiếng reo mừng này là tiếng reo mừng của Dân Chúa sau hàng ngàn năm mong đợi lời Chúa hứa nay đã được thực hiện.
Trước hết là niềm hân hoan sung sướng của hai bà mẹ: Bà Maria và Bà Elizabeth, Tin mừng cho thấy: Trong những ngày ấy, Maria vội vã lên đường ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giudea và vào nhà ông Zacaria – Elizabeth. Cụm từ trong những ngày ấy, nói lên sư sốt sắng hân hoan của mẹ ngay sau biến cố truyền tin thưa tiếng xin vâng, biến cố ấy đem lại cho mẹ niềm hân hoan hạnh phúc vì mẹ biết rằng đã đến thời Thiên Chúa viếng thăn Dân Người, và lời của các tổ phụ, các ngôn sứ nay đang được thực hiện nơi cung lòng của mẹ, vì mẹ vừa cảm nhận một mầm sống mới nảy sinh trong lòng mẹ chính là Con Thiên Chúa. Niềm vui ngâp tràn trong lòng mẹ, đây không chỉ là niềm vui riêng của mẹ, mà còn là niềm vui của cả dân tộc và của cả nhân loại, vui vì Đấng Cứu Độ đã đến, Mẹ vui mừng hân hoan vì Thiên Chúa không còn ở xa, nay Ngài đã đến và ở trong tâm hồn Mẹ, Mẹ vui vì mẹ có Chúa trong tâm hồn.
Một khi có Chúa trong tâm hồn, thì người ta không thể ngồi im và giữ riêng cho mình, cũng vậy, khi có Chúa, Mẹ Maria đã muốn đem Chúa đến cho người khác, qua thái độ vội vã của mẹ, chúng ta nhận ra điều đó. Đồng thời, với một tâm hồn nhạy bén, Mẹ biết rằng người chị em của mình cũng đang tràn ngập niềm vui mừng vì: Chúa đã cất đi nỗi tủi nhục cho bà, cho bà Elizabet được mang thai khi tuổi đã cao. Chính vì thế, niềm vui của cả hai người phụ nữ như đã đan quyện vào nhau ngay khi họ vừa gặp nhau, vừa cất lời chào nhau, Bà Elizabet cũng đã được Thánh Thần soi sáng và nhận ra ân lộc đầy tràn mà Chúa ban cho cô em gái mình là Maria, bà đã cất lời ca tụng mẹ: Em thật có phúc hơn mọi người nữ và người con em cưu mang cũng được chúc phúc, còn Mẹ Maria thì cất lên lời ngợi khen: Linh Hồn tôi ngợi khen Đức Chúa.
Cũng nhờ Ơn Thánh Thần soi sáng, mà lần đầu tiên, Bà Elizabét đã gọi em của mình là Mẹ Thiên Chúa: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi? Đây là một chức vị vô cùng cao trọng mà Chúa ban cho Đức Maria, nay được bà Elizabet xưng tụng. Bà Elizabet cũng cho thấy niềm vui sướng ấy còn lan tỏa đến Gioan, lúc đó còn đang là một thai nhi ở trong lòng bà cũng đã nhảy lên vì vui sướng. Theo các thánh giáo phụ, thì cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ của hai bà mẹ, song cũng là cuộc gặp gỡ của hai người con và là cuộc gặp gỡ giữa Thiên chúa và Dân Người, cuộc gặp gỡ đem lại ơn cứu độ. Cùng với lời xưng tụng Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, Bà Elizabeth còn ca tụng mẹ Maria: Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện. Tất cả những lời ca tụng của bà Elizabeth dành cho Mẹ cũng là lời tuyên xung ca tụng của toàn thể giáo Hội và nhân loại tôn vinh mẹ.
Lời reo vui của hai người phụ nữ này đã được tiên tri Sophonia tiên báo: Reo vui lên hởi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào nhà Israel hỡi vì Đức Chúa đã rút lại án phạt, đã đẩy lui quân thù, Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa. Vị Tiên tri đã nhìn thấy trước ngày này, ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa, ngày Ngài viêng thăm để đem ơn cưu độ cho dân Người đem lại an vui và hạnh phúc cho xứ sở.
Cùng những lời ca ngợi và tâm tình dạt dào niềm vui của Elizabeth, Đức Maria đã diễn tả niềm vui sâu thẳm của Mẹ qua lời kinh Ngợi khen. Mẹ nhìn nhận tất cả những những sự lạ lùng đang diễn ra trong cuộc đời Mẹ là bởi quyền năng Thiên Chúa và tình thương của Ngài đang bao phủ cuộc đời Mẹ: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu độ tôi. Mặc dù được bà Elizabet goi mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Đức Maria chỉ dám khiêm nhường nhận mình là thân phận nữ tỳ hèn mọn, không dám mơ tưởng ước muốn điều gì, tất cả những gì đang xảy ra là vì Chúa đã ghé mắt đến Mẹ, Mẹ ý thức rất rõ rằng, chính vì được Chúa nhìn tới, được Chúa yêu thương nên Mẹ trở nên đáng yêu trước mặt Chúa, và được mọi người khen ngợi.
Mừng lể Đức Maria đi thăm bà elizabeth hôm nay, chúng ta được mời gọi nhìn vào tấm gương của Mẹ, Mẹ Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc đem Chúa đến cho tha nhân, một khi đã gặp Chúa, một khi có Chúa trong tâm hồn, chúng ta cũng được mời gọi, hay nói đúng hơn được thúc đẩy để ra đi, để lên đường trở thành người đem Chúa đem niềm vui đến cho người khác. Chúng ta được mời gọi sống làm sao để mọi người gặp gỡ tiếp xúc với chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang ở trong tâm hồn chúng ta, trở thành người đem niềm vui và hạnh phúc đến cho người khác. Chúng ta sẽ không thể đem niềm vui đến cho người khác khi chúng ta không thực sự vui, cũng vậy chúng ta không để đem hạnh phúc và bình an đến cho người khác khi tâm hồn và cuộc sống chúng ta không hạnh phúc không bình an.
Để có sự bình an và hạnh phúc trong tâm hồn, thì điều cần thiết trước tiên đó phải là một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn ngay thẳng trong lời nói và hành động; kế đến, đó phải là một tâm hồn có Chúa: Chúa chỉ cư ngụ trong tâm hồn của những người khiêm nhường thực sự, dám mở rộng cánh cửa tâm hồn để cho Chúa đi vào, dám nuôi dưỡng để cho Ngài lớn lên trong tâm hồn của mình. Chúa đang chờ đợi để được bước vào tâm hồn mỗi người, qua việc rước lễ mỗi ngày, qua việc lắng nghe và gẫm suy Lời Chúa, Chúa sẽ đến ở với chúng ta và biến cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta ngập tràn niềm vui hạnh phúc và bình an, và thúc đẩy chúng ta đem niềm vui và bình an đến cho anh chị em mình.
Ngày nay do bận rộn với công việc, hầu như con người đánh mất thói quen thăm viếng nhau, giúp đỡ nhau, mừng lễ Mẹ đi thăm viếng bà Elizabet, là dịp để chúng ta nhìn lại các mối tương quan họ hàng bạn bè, để biết dành cho nhau những phút giây thân tình, hãy đến với nhau bằng sự chân thành và quảng đại, hãy dành cho nhau những tình cảm thân thiện, để góp phần làm cho bầu khí gia đình, lối xóm, xứ đạo mỗi ngày thêm ấm cúng thân tình hơn.
Xin Đức Mẹ giúp chúng ta cũng có được cái nhìn nhạy bén của trái tim, nhận ra những nhu cầu của anh chị em, và quảng đại giúp đỡ chia sẻ. Amen.
14. Thăm viếng yêu thương phục vụ–Lm. Anmai, C.Ss.R
Thăm viếng! Một nhu cầu hết sức tự nhiên, hết sức bình thường của con người và chuyện bình thường như thế thì có gì đâu để mà nhớ, để mà mừng. Mỗi một cuộc thăm viếng mang ý nghĩa, mang niềm vui, mang ý nghĩa khác nhau nhưng cuộc thăm viếng của Đức Trinh Nữ Maria hết sức đặc biệt để rồi ngày hôm nay Giáo Hội mừng kính cuộc thăm viếng của Mẹ. Cuộc thăm viếng của Mẹ được trọn vẹn niềm vui bởi vì Mẹ đã lên đường một cách vô vị lợi và Mẹ đã mang Chúa đến cho người khác.
Thánh Sử Luca ghi lại rất ngắn gọn: “Khi ấy, bà Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1, 39). Đơn giản thế thôi: đi đến miền núi. Ngày hôm nay đi lên miền núi cũng là một điều khó khăn huống hồ gì thời của Đức Mẹ. Nếu như tính toán về phương tiện đi lại, điều kiện vật chất thì chẳng ai dại gì mà đi đến cái vùng núi xa xôi hẻo lánh như vậy. Vượt trên cách trở của địa lý và vượt trên sự tính toán thường tình của con người, Mẹ Maria đã ra đi và ra đi một cách “vội vã”. Thánh Sử thêm chữ “vội vã” như muốn nói về lòng hăng say, nhiệt tình của Mẹ dù là lên núi khó khăn cách trở. Nếu lên núi với cái bộ mặt ũ rũ, với cái thái độ lề mề chậm chạp chắc có lẽ là chán lắm, đàng này Đức Mẹ đã “vội vã”!
Một cách diễn tả đơn sơ, vài ba hàng ngắn gọn, chúng ta nhận ra Đức Maria đã đi thăm bà chị họ mình với một tâm tình hết sức là dễ thương, nhiệt tình, chịu thương, chịu khó …
Đặc biệt hơn các cuộc thăm viếng khác ở chỗ là vừa vào nhà, bà Êlisabét nghe tiếng Bà Maria chào thì bỗng dưng đứa con trong bụng nhảy lên. Không chỉ đứa con trong bụng nhảy lên mà mẹ nó được “đầy Thánh Thần”. Đến đây thì quá rõ, chẳng còn gì phải bàn cãi nữa, cuộc thăm viếng của Đức Mẹ quả thật là hết sức đặc biệt và đầy ý nghĩa.
Cuộc thăm viếng của Mẹ vốn đã có ý nghĩa nhưng với xã hội ngày hôm nay, ý nghĩa ấy lại càng được nhân lên gấp bội vì lẽ ngày hôm nay, người ta tính toán với nhau nhiều quá, người ta đã khép lòng lại với anh chị em đồng loại nhiều quá! Và có đi thăm đi chăng nữa cũng chỉ với cái hình thức của con người, của cuộc đời là “có qua có lại mới toại lòng nhau” chứ không còn mang ý nghĩa vô vị lợi như Mẹ nữa. Hơn nữa, khi Mẹ thăm viếng, Mẹ đã không chỉ tung hô Chúa, giới thiệu Chúa mà còn mang Chúa lại cho người khác. Và trong cuộc đời, nếu nhìn kỹ một chút, nếu chìm lắng một chút: có Chúa là có tất cả.
Và thử dừng lại một chút để nhìn lại cuộc đời của Mẹ. Đâu phải bỗng dưng hay vô tình mà Mẹ có Chúa và Mẹ mang Chúa cho người khác. Nếu như Mẹ không có Chúa thì làm gì Mẹ có thể mang Chúa cho người khác, Mẹ chia sẻ niềm vui có Chúa trong đời Mẹ cho người khác được.
Điểm này trong cuộc thăm viếng của Mẹ hết sức quan trọng: muốn mang Chúa, muốn giới thiệu Chúa cho người khác thì trong mình, trước tiên phải có Chúa. Và muốn có Chúa như Mẹ, cần và cần lắm đời sống chiêm niệm, đời sống đơn sơ hoàn toàn tín thác cho Chúa.
Nếu như Đức Maria ồn ào náo động như nhiều người Do Thái cùng thời với Mẹ thì làm sao mà Mẹ có Chúa được? Nếu như Đức Maria trông chờ vào Đấng Mêsia như nhiều người Do Thái thời ấy trông chờ thì làm sao mà Mẹ cưu mang Đấng Cứu Độ trần gian thật được? Và nếu như Đức Maria là người sống bề ngoài, sống cái bề nổi của cuộc đời thì làm sao mà Mẹ khiêm tốn sống trong sự quan phòng của Chúa được.
Nơi Mẹ Maria, có một dấu ấn hết sức đặc biệt đó là Mẹ hết sức quảng đại. Chúng ta, ngày hôm nay, nhiều khi cứ vun vén cho bản thân mình với lối sống đậm chất của ích kỷ, của vun vén nên hình ảnh quảng đại của Mẹ ngày hôm nay cũng là một bài học hết sức to lớn của mỗi người chúng ta. Khi Mẹ cho đi niềm vui thì niềm vui của Mẹ không chỉ nhân hai, nhân bốn mà nhân đến vô cùng.
Thế nên, cuộc thăm viếng của Mẹ hôm nay không chỉ mang niềm vui cho gia đình Êlisabét mà còn mang lại niềm vui cho những ai tự xưng mình là con của Chúa, là con của Mẹ.
Nếu là con của Mẹ thật thì mỗi một cuộc thăm viếng của ta cũng phải giống như Mẹ, nghĩa là cuộc thăm viếng ấy hoàn toàn vô vị lợi và cuộc thăm viếng ấy mang Chúa cho người khác. Có quá đáng chăng khi nói rằng thăm viếng vô vị lợi và có Chúa thì cuộc thăm viếng ấy mới có ý nghĩa và mang niềm vui trọn vẹn. Nếu thăm viếng mà ẩn ý dưới một nguồn lợi nào đó hay là cuộc thăm viếng ấy mình chỉ đi tìm mình thì cũng vui lắm nhưng nó chưa tròn vẹn và chưa mang ý nghĩa cao đẹp như Mẹ.
Thi thoảng có dịp nhìn lại cuộc thăm viếng của Mẹ để ta soi chiếu những cuộc thăm viếng của ta. Xin Mẹ nâng những cuộc thăm viếng của chúng ta thêm tầm cao lên một chút, thêm ý nghĩa lên một chút. Xin Mẹ soi sáng, giúp đỡ chúng ta có những cuộc thăm viếng tròn vẹn ý nghĩa như cuộc thăm viếng của Mẹ với gia đình Êlisabét xưa vậy.
15. Ðức Maria thăm viếng bà Êlisabeth
Thánh Luca chỉ tường thuật biến cố xảy ra bên ngoài thôi, nhưng ta cần phải chiêm ngắm đức bác ái của thiếu nữ Maria 16 tuổi đã hăng hái lên đường đến chào mừng và giúp đỡ bà chị già 60 tuổi mới được làm mẹ. Suốt dọc đường ba ngày trên lưng lừa từ Nadaret đến Aim-Karen, Maria con người giản dị duyên dáng cất tiếng hát bài ca Manhiphicat (Magnificat) của bà Anna, mẹ ngôn sứ Samuel, làm bài ca của mình, qua tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa đã để lại một mầu nhiệm nói lên hành động của Thiên Chúa gắn liền với đức tin của chúng ta, dẫn chúng ta vào ơn cứu độ. Cần thiết chúng ta phải đặt mình vào địa vị của bà Êlisabét để Đức Maria đến thăm hỏi chúng ta. Điều đó khó khăn lắm không? Ngài tốt đến độ đến thăm ai chẳng sợ lặp lại câu: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội!”
Nơi nhiều người chỉ thấy thoáng qua, thấy rung động chút ít trước sự kiện siêu nhiên; không được thường xuyên trong sáng; đôi khi bác ái, thương cảm. Nhưng chưa đủ. Một tâm hồn chân thành với mình và với người khác phải được mở ra trước ơn Thiên Chúa, ta thấy rõ điều đó nơi Thánh Phaolô. Khi còn là kẻ bách hại, ông đã hoạt động chân thành đến điên cuồng. Khi trở lại, ông càng thầm tín mạnh mẽ hơn nữa để hoạt động cho Chúa và cho dân được tuyển chọn, ông đã dương cao chính nghĩa của người Nadaret. Trước một tâm hồn chân thành, dù là thứ chân thành xấu, Thiên Chúa không thể từ bỏ. Thiên Chúa bắt đầu cảm hóa họ. Đức Maria cũng tham gia can thiệp. Mẹ đến đóng ấn trên những công trình Thiên Chúa và giúp những công trinh đó phát triển. Điều đó rất cần… Chúng ta cần suy nghĩ để thấy rằng tất cả chúng ta một phần nào giống như bà già Êlisabét, đầy thiện chí, đầy ham muốn tốt, nhưng lại cằn cõi và lo sợ…
Ước chi Đức Maria đến can thiệp cho, ước chi cuộc thăm viếng của Mẹ tăng cường cho những cố gắng của chúng ta, biết chạy đến xin mẹ cứu giúp! Người ta nói Mẹ là tình yêu tuyệt diệu. Con tim con sẽ luôn luôn kêu khấn Maria như mẹ của mọi thiện chí…
Vậy chúng ta với tất cả niềm tin mời Mẹ đến vì hy vọng rằng Mẹ làm cho đời sống đức tin của chúng ta sinh hoa trái. Chúng ta tuyên xưng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, không phải là một Thiên Chúa xa xôi, bắt chúng ta mang gánh nặng giơí răn, nhưng là Thiên Chúa rất nhỏ bé đang chờ đợi giúp làm cho đức thành tín lớn lên trong chúng ta. Đức Maria cũng mang đến cho chúng ta một kho tàng là nhận biết Đức Giê-su là Chúa. Mong chúng ta mở lòng ra đón nhận và đừng bao giờ từ chối cuộc thăm viếng của Mẹ Maria. Đừng bao giờ!.
L.P
16. Đức Maria thăm viếng.
Ngày lễ này đã được Đức Urban VI thiết lập vào năm 1389, vào khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, phù hợp với những chi tiết Phúc Âm. Ngày lễ hôm nay ghi nhớ việc Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Elizabeth, lúc ấy đã cao niên và đang có thai. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui về những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai chị em. Ngày lễ này – nhằm ngày kết thúc tháng Năm kính Mẹ – cho chúng ta thấy tinh thần chiêm niệm, sự phục vụ, và đức khiêm nhượng thẳm sâu của Mẹ, dạy chúng ta biết mỗi khi đi đâu, chúng ta cũng phải theo gương Mẹ Maria, trở nên một nguồn vui cho toàn thể nhân loại.
Phục vụ vui tươi.
Hãy đến mà nghe, hỡi tất cả các bạn là những người kính sợ Chúa, tôi sẽ kể cho các bạn những điều Người đã làm cho tôi.1 Đó là những lời trong Ca Nhập Lễ hôm nay.
Ngay sau ngày Truyền Tin, Đức Maria lập tức đi thăm bà Elizabeth tại miền đồi núi xứ Giuđêa, cách Nazareth chừng bốn năm ngày đàng. Thánh Luca viết: “Trong những ngày ấy, Maria vội vã ra đi lên miền đồi núi, đến một thành xứ Giuđêa”. Sau khi được sứ thần cho biết về việc bà Elizabeth có thai, Đức Trinh Nữ đã vội vàng ra đi để phụ giúp những công việc cho bà chị họ. Không ai buộc Mẹ phải đi: Thiên Chúa, qua sứ thần, cũng không đòi Mẹ phải làm như thế, và cả bà Elizabeth. Đức Maria có thể ở nhà để bắt đầu chuẩn bị cho Con Mẹ, Đấng Cứu Độ, sắp chào đời; nhưng Mẹ đã hân hoan, vội vã lên đường để đến giúp đỡ bà Elizabeth.
Chúng ta đồng hành với Đức Maria trong lời cầu nguyện, và thân thưa với Mẹ bằng những lời trong bài đọc Một hôm nay: Reo vui lên! Nữ Tử Sion! Hãy hò la, hỡi Israel! Hãy vui mừng, hãy hoan hỉ hết lòng, nữ tử Jerusalem!… Có ở giữa ngươi, Giavê Thiên Chúa của ngươi. Anh hùng vạn thắng! Vì ngươi, Người hân hoan vui sướng. Với ngươi, Người làm mới lại Tình Yêu của Người. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui.
Thật dễ dàng tưởng tượng ra niềm vui chan chứa và những ước vọng vĩ đại nơi tâm hồn Đức Maria. Thiên thần đã cho Mẹ biết, Này đây chị họ bà là Elizabeth đã cao niên và đã có thai. Đó là cuộc mang thai kỳ diệu và liên quan đến biến cố Đấng Cứu Thế sẽ đến. Sau lộ trình dài, Đức Maria đã đến nhà ông Giacaria và chào bà chị họ. Và khi bà Elizabeth vừa nghe lời chào của Đức Maria, hài nhi liền nhảy mừng; và Elizabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Cả gia đình được biến đổi vì sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lời chào của Mẹ thật hiệu quả: làm cho bà Elizabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Qua lời tiên tri trên môi miệng của Mẹ, Mẹ đã làm tuôn trào một dòng ân thánh cho người chị họ như từ một nguồn suối… Thực vậy, nơi đâu Đấng ‘Đầy Ơn Phúc’ đặt chân đến, mọi sự đều được chan chứa niềm hân hoan.6 Ảnh hưởng tuyệt vời này Chúa Giêsu đã thực hiện qua Đức Maria, Đấng ngay từ đầu đã liên kết với công trình cứu độ và niềm vui được Chúa Kitô đem đến cho trần thế.
Ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng hôm nay cho chúng ta nhìn thấy một khía cạnh trong đời sống nội tâm của Đức Maria, đó là tinh thần khiêm nhượng phục vụ và tình yêu vô vị kỷ dành cho những ai cần đến sự trợ giúp của Mẹ. Biến cố trong mầu nhiệm thứ hai Mùa Vui của chuỗi Mân Côi mời gọi chúng ta hãy hiến thân mau mắn, vui tươi, và chân thành cho người chung quanh. Nhiều khi sự phục vụ tốt nhất chúng ta có thể thực hiện là chia sẻ với họ niềm hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn chúng ta. Nhưng chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều này khi chúng ta sống thân mật với Chúa, qua việc trung thành giữ trọn những giờ cầu nguyện trong ngày sống. Việc kết hợp với Thiên Chúa và thực hành các nhân đức siêu nhiên luôn luôn kéo theo niềm hứng thú thực hành các nhân đức nhân bản: Đức Maria đem niềm vui đến cho gia đình bà chị họ, bởi vì Mẹ ‘mang’ Chúa Kitô.8 Chúng ta ‘mang’ Chúa Kitô trong lòng, và với Người là niềm vui chứa chan, đến bất cứ nơi nào chúng ta đến, dù khi làm việc, hoặc khi viếng thăm bè bạn hoặc những ai đang yếu đau hay không? Sự hiện diện của chúng ta có làm cho người khác vui tươi hay không?
Tìm Chúa Giêsu qua Mẹ Maria.
Khi Đức Maria đến, bà Elizabeth được tràn đầy Thánh Thần và đã reo lên: Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và Con trong lòng em đang cưu mang cũng đầy phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe lời em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.
Bà Elizabeth không những chúc tụng mà còn giải thích vì sao Đức Maria lại là người diễm phúc: đó là vì Hoa Trái trong lòng Mẹ, Người Con của Mẹ muôn đời được chúc phúc. Thử nghĩ về những lần chúng ta lặp lại lời ấy khi lần chuỗi: Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ! Chúng ta có đọc những lời ấy vui tươi như bà Elizabeth hay không? Những lời ấy như một soi động liên kết chúng ta với Mẹ trên trời, khi chúng ta làm việc, đi lại, hoặc nhìn lên ảnh tượng Mẹ.
Đức Maria và Chúa Giêsu luôn luôn cận kề bên nhau. Những việc kỳ diệu nhất Chúa Giêsu đã thực hiện, ngày xưa cũng như hiện nay, luôn luôn trong sự hợp nhất thân mật với Mẹ Người, Đấng Trung Gian Mọi Ơn. Công đồng Vatican II đã nói, Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô tử nạn.
Hôm nay, một lần nữa chúng ta lại ý thức rằng mỗi lần gặp Mẹ Maria là chúng ta lại hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nếu tìm kiếm Mẹ Maria, bạn sẽ gặp được Chúa Giêsu. Và bạn sẽ biết hơn về những gì trong trái tim của một Thiên Chúa tự hạ, Đấng đã sẵn sàng cho chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày. Tặng ân lớn lao nhất Thiên Chúa ban cho nhân loại – để chúng ta được hiểu biết và yêu mến Người – đã khởi đầu từ đức tin của Mẹ Maria, và hôm nay điều ấy đã được bà Elizabeth minh chứng. Sự tràn đầy ân sủng mà sứ thần loan báo là Quà-Tặng-chính-Thiên-Chúa. Đức tin của Mẹ Maria, được bà Elizabeth chúc tụng trong ngày Thăm Viếng, đã nói lên Đức Trinh Nữ Nazareth đã đáp lại ân huệ này như thế nào. Đức Trinh Nữ Maria, người thưa lời fiat trọn vẹn và vô điều kiện, đã xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà ông Giacaria với tư cách Mẹ Thiên Chúa. Đây là khám phá của bà Elizabeth, cũng là của chúng ta; và đó là điều chúng ta cảm thấy luôn luôn lạ lùng.
Bài ca Magnificat.
Đặc trưng của mầu nhiệm Mân Côi này là bầu khí mừng vui lan tỏa: mầu nhiệm Thăm Viếng là mầu nhiệm của niềm vui. Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng trong lòng mẹ; bà Elizabeth, mừng vì được làm mẹ, đã cất lời chúc tụng Thiên Chúa; và trước những lời ca ngợi của bà chị họ, Đức Maria đã nâng tâm hồn lên Thiên Chúa trong bài ca Magnificat, một bài ca chan chứa niềm vui ơn cứu độ. Mái nhà ông Giacaria và bà Elizabeth toát lên tinh thần Cựu Ước với vẻ thánh thiện, trong khi Đức Maria mang trong lòng mình Mầu Nhiệm khởi đầu Tân Ước. Magnificat là bài ca của thời đại Đấng Cứu Thế, gồm chứa cả niềm phấn khởi của Israel xưa và nay… Lời kinh Magnificat của Đức Maria thực sự đã trở thành lời nguyện của Giáo Hội qua mọi thời gian.
Đây là bối cảnh giúp chúng ta nhận thức ý nghĩa đầy đủ về điều kín nhiệm Mẹ Maria đang ấp ủ trong tâm hồn. Mầu nhiệm lớn lao được sứ thần tỏ cho Mẹ đã được thể hiện qua bài ca Magnificat. Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và tâm trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi. Những lời ấy tràn đầy sự cao quí và nói lên sự kết hợp mật thiết với Đấng Cứu Độ, đó là tấm gương phản chiếu linh hồn Đức Maria.
Cùng với bài ca hân hoan và khiêm nhượng này, Đức Trinh Nữ Maria còn để lại cho chúng ta một lời tiên tri. Mẹ nói, Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi là người diễm phúc. Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước hiệu ‘Mẹ Thiên Chúa,’ và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó. Nhất là từ khi công đồng Êphêsô, Dân Thiên Chúa đã gia tăng lòng tôn kính Đức Maria cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu, cầu khẩn và noi gương đúng như lời Mẹ đã tiên báo: ‘Muôn thế hệ sẽ khen tôi là người diễm phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.’
Trong cuộc đời mình, Đức Maria không nổi bật về những việc kỳ vĩ: Phúc Âm không đề cập đến bất cứ một phép lạ nào Mẹ đã thực hiện khi còn tại thế, và chỉ ghi lại vắn tắt về những lời Mẹ đã nói ra. Đời sống bên ngoài của Mẹ giống như mọi bà mẹ khác trong các gia đình. Tuy nhiên, lời tiên tri phi thường của Mẹ đã được ứng nghiệm từng chữ. Ai có thể kể được tất cả những lời ca tụng, những lời kêu cầu Mẹ, những đền thánh, những bia tạ ơn, những việc sùng kính đối với Mẹ? Suốt hai mươi thế kỷ, Mẹ đã được mọi người xưng tụng ‘diễm phúc’: các nhà trí thức, những người mù chữ, các bậc vua chúa, những quân nhân, các nhà kinh doanh, nam và nữ, trẻ em và người cao niên… Chúng ta cũng đang làm ứng nghiệm lời tiên tri của Mẹ ngay lúc này, khi từ thâm tâm, chúng ta thưa cùng Mẹ: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Chúng ta đã kêu cầu Mẹ một cách đặc biệt trong tháng Năm, nhưng tháng Năm không thể chấm dứt. Nó phải tiếp tục mãi trong cuộc đời chúng ta. Lòng sùng kính và yêu mến của chúng ta đối với Mẹ không thể nhạt nhòa nơi tâm hồn chúng ta. Đúng hơn, nó phải tăng tiến và biểu hiện qua đời sống chứng nhân, theo gương Mẹ Maria, ‘tên của một loài hoa tuyệt đẹp mà tôi vẫn reo lên mỗi sáng và mỗi chiều tối’ – như thi sĩ Dante đã nói lên (Paradiso, 23, 88). Khi tìm ra Mẹ Maria, chúng ta cũng tìm thấy Chúa Giêsu.
Magnificat anima mea Dominum! – Linh hồn tôi ngợi khen Chúa – tâm hồn Mẹ đã tôn vinh Thiên Chúa khi cưu mang Người trong lòng, và bước đi với Người.
Ôi lạy Mẹ! Ước chi chúng con cũng được như Mẹ: vui mừng trong Chúa và chiếm hữu được Người.
17. Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth
- LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Từ thế kỷ VI, bên Giáo hội Đông phương, thánh truyện Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth theo Thánh sử Luca (1:39-56) được đọc ngày thứ Sáu sau Chúa nhật III mùa Vọng nhưng chưa phải là lễ, đến sau thì mừng lễ vào ngày 2 tháng 7.
Bên Tây phương, năm 1263, Dòng Phanxicô khởi xướng mừng lễ này. Năm 1386, Công đồng Prague nước Áo công nhận lễ này do mỹ ý của Đức Cha Gioan Jenstein, Tổng Giám mục thành Prague mừng lễ vào ngày 28 tháng 4 với hai lý do:
- Xin ơn hiệp nhất Giáo hội trong thời kỳ có sự tranh chấp giữa Giáo hoàng giả Clementê III tại Avignon (Pháp) với Đức Urbanô VI tại Rôma.
- Mừng lễ này ngoài mùa Chay, và trong mùa Phục sinh sau lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3.
Năm 1389, Đức Urbanô VI chuẩn bị thành lập lễ này trong khắp Giáo hội để công bố Năm Thánh 1390. Nhưng chưa kịp thi hành thi ngài băng hà ngay năm đó. Đức Bônifaciô IX lên nối quyền liền thi hành quyết định của vị tiền nhiệm, năm 1401 ngài thành lập lễ này vào ngày mùng 2 tháng 7 hàng năm trong khắp Giáo hội. Năm 1441, Công đồng Basel (Thụy Sĩ) xác nhận lễ này. Đức Sixtô IV soạn kinh Nhật tụng đặc biệt. Đức Thánh Piô V đưa lễ này vào sách kinh Phụng vụ. Năm 1608 Đức Clêmentê VIII đặt kinh Phụng vụ và lễ như ngày nay. Năm 1969, Đức Phaolô VI đổi sang ngày 31 tháng 5 sau ngày lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3, và trước lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả ngày 24 tháng 6.
- Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
Lễ Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth liên quan tới lễ Thiên sứ Gabrie truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai Chúa Giêsu, vì sau khi chịu thai Chúa, Đức Mẹ từ Nazareth miền Bắc, hối hả đi thăm viếng Thánh Elizabeth ở Ain Karim, một thành nhỏ bé miền Nam, cách Giêrusalem chừng 5 miles về phía tây. Trong biến cố này có ba nhân vật tỏ ra thái độ rõ rệt:
- Thánh Elizabeth được ơn Thánh Linh soi sáng nhận biết chức phẩm cao sang của Đức Mẹ, đã khiêm hạ nói: “Bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa tôi đến với tôi?” (Lc 1:43).
- Thánh Gioan Tẩy giả còn là thai nhi cũng nhận biết Chúa Giêsu trong lòng Đức Mẹ nên đã nhảy mừng (Lc 1:44).
- Đức Mẹ nhận thấy Chúa Giêsu trong cung lòng Mẹ đã sớm làm những việc lạ lùng và, Mẹ được đặc ân cao cả nên Mẹ đã khiêm hạ cất tiếng cao rao chúc tụng Chúa (Lc 1:46-55). Chỉ có Chúa Giêsu âm thầm trong cung lòng Đức Mẹ, không tỏ ra dấu hiệu nào. Coi như Chúa thụ động nhưng lại rất chủ động trong biến cố Thăm viếng này. Chúa thường giấu ẩn uy quyền của Người để tỏ cho chúng ta biết quyền lực của Người vô hình, chuyển động mọi sự, điều khiển mọi sự cách kín đáo. Thế nhưng ảnh hưởng quyền lực của Người rất sống động và sâu rộng. Người làm cho thai nhi Gioan được khỏi tội Nguyên tổ trong lòng Thánh Elizabeth. Đó là phép lạ đầu tiên trong ơn thánh mà Chúa âm thầm làm ngay khi còn trong cung lòng Mẹ Maria.
Một trong những mầu nhiệm cao siêu của Kitô giáo là việc hợp nhất Chúa làm trong chúng ta và cách bí nhiệm Người thăm viếng chúng ta:
- a) Bề trong do Chúa Thánh Linh và ơn thánh của Người;
- b) Bề ngoài do các Nhiệm tích, nhất là Nhiệm tích Thánh Thể. Chúng ta hãy niềm nở mật thiết tiếp rước Chúa mỗi khi Người thăm viếng linh hồn chúng ta, nhất là khi chúng ta rước lễ.
III. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Sôphônia 3:14-18.
Dưới thời vua Josia (640-609), nước Giuđêa lâm cảnh hỗn loạn về tôn giáo và xã hội, nhưng tiên tri loan báo án phạt sẽ chấm dứt và Giuđêa sẽ được hưởng cảnh thanh bình: “Hãy vui lên! Hãy hoan hỉ trong lòng, hỡi nữ tử Sion, vì vua ngươi ở giữa ngươi. Người là anh hùng vạn thắng. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui”.
Sự vui mừng ngày Đức Mẹ viếng thăm bà Elizabeth cũng như sự vui mừng cảnh thanh bình nước Giuđa thời tiên tri Sôphônia (Zephania), vì Mẹ Maria cưu mang thai nhi Giêsu trong cung lòng Mẹ như Hòm bia Tân ước có Thiên Chúa ở giữa dân Người. Thai nhi Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth (Lc 1:41) như vua David nhảy mừng trước hòm bia (2 Sm 6:12). Bà Elizabeth ca tụng Mẹ Maria (Lc 1:41) như vua David ca tụng Obed-Edom (2 Sm 6:12). Mẹ Maria ở lại nhà bà Elizabeth ba tháng (Lc 1:56) như hòm bia lưu lại ba tháng tại nhà Obed-Edom (2 Sm 6:11).
Bài đọc II: Rôma 12:9-16.
“Hãy yêu mến nhau tha thiết. Hãy làm tôi Chúa với lòng nhiệt thành và tâm thần sốt sắng. Hãy chia sẻ cho người túng thiếu. Hãy ân cần cho khách đỗ nhà. Hãy vui với người vui”. Đó là những nét đặc sắc của tình bác ái nổi bật trong truyện Đức Mẹ thăm viếng, và là những đặc tính tươi đẹp của các môn đệ của Chúa Kitô.
Phúc âm: Luca 1:39-56.
Mẹ Maria vội vã đi thăm bà Elizabeth để chia sẻ niềm vui cả hai được mang thai cách lạ và để giúp đỡ bà chị họ trong tuổi già. Thánh sử Luca không nói tên địa danh mà bà Elizabeth ở là thành Ain-Karim miền phụ cận Giêrusalem, mà chỉ nói: “Một thành xứ Giuđa miền sơn cước”. Những bước gót sen của Mẹ Maria trong dịp này đã được tiên tri Isaia diễn tả: “Đẹp thay trên các núi non, chân người sứ giả, kẻ loan báo bình an, kẻ loan tin mừng, kẻ loan báo ơn cứu độ và nói với Sion: Thiên Chúa của ngươi là Vua” (Is 52:7).
Mang thai nhi Giêsu, Mẹ Maria là một dụng cụ ban phúc lành cho bà Elizabeth và thai nhi của bà. Qua lời chào của Mẹ Maria, lời tiên tri của thiên thần được thực hiện: “Từ trong lòng mẹ, nó sẽ được đầy tràn Thánh Thần” (Lc 1:15). Nhận biết Chúa Giêsu trong cung lòng Mẹ Maria, bà Elizabeth lên tiếng ca khen Mẹ và Con lòng Mẹ, rồi bà tỏ ra vinh dự được Mẹ Chúa đến viếng thăm. Lời ca khen của bà Elizabeth vọng vang lời thượng tế ca ngợi bà Giuđitha: “Phúc cho con nơi Đấng tối cao, hơn mọi người nữ” (Gđt 13:18). Bà Giuđitha, chém đầu tướng Holoferne để giải cứu dân của bà, là hình ảnh Mẹ Maria trong nhiệm cuộc giải thoát nhân loại (Lc 24:21).
Bà Elizabeth xác nhận hiệu quả lời chào của Mẹ Maria: “Thai nhi trong lòng bà nhảy mừng”. Hai lời bà chúc tụng Mẹ Maria:
Lời 1: Về điều Thiên Chúa đã làm cho Mẹ (Lc 1:42). Lời này giống như là một phụ nữ ca ngợi Mẹ (Lc 11:27).
Lời 2: Mẹ diễm phúc vì Mẹ tin (Lc 1:45). Lời này giống như lời Chúa khen tặng Mẹ vì Mẹ nghe và giữ lời Chúa (Lc 1:28).
Mẹ Maria nhận biết điều lạ lùng đã xảy ra nơi Mẹ, nên Mẹ cất tiếng ngợi khen Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại. Danh Người là Thánh” (Lc 1:49). Mẹ Maria trở về nhà, sau khi bà Elizabeth hạ sinh Gioan Tẩy giả, vì khi Mẹ đi thăm bà thì bà đã có thai được sáu tháng (Lc 1:36) và Mẹ ở lại nhà bà ba tháng (Lc 1:56).
- LỜI CÁC THÁNH
– Thánh Ambrosiô: Mẹ lên đường không phải vì không tin lời sứ thần báo cho Mẹ, mà vì hối hả ước ao làm ơn cho gia đình bà chị. Sung sướng vì được làm cho người khác sung sướng, và tận lực thi hành đức ái.
– Thánh Augustinô: Qua Mẹ, tình thương đổ xuống người cơ khổ, ân sủng đổ xuống những kẻ vô ơn, và ơn tha thứ được ban phát cho những người tội lỗi.
– Thánh Phêrô Kim Ngôn: Mẹ Thiên Chúa đã khám phá ra ân sủng, để cung cấp ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ phát sinh ơn sủng. Đó là một ân sủng dư dật để độ phúc cho mỗi người chúng ta, để trào đổ dạt dào sóng dư ân sủng đó xuống mọi thụ tạo.
– Thánh Ilđêphong: Lạy Mẹ, trong hết mọi ân sủng Chúa đã định ban cho loài người, không có ơn nào mà Chúa không muốn đổ xuống qua tay Mẹ, vì Chúa đã ký thác cho Mẹ hết báu tàng, hết mọi phú quí về ơn sủng Người ban.
– Thánh Germanô: Ôi Maria, không ai được cứu độ nếu không nhờ Mẹ; không ai được hưởng ơn trời nào nếu không có Mẹ.
– Thánh Đamascenô: Mẹ là Thánh đô rộng mở đón tiếp hết những ai cầu xin Mẹ. Hỡi các con Mẹ hãy đến mà lãnh nhận tràn đầy ơn sủng vượt trên mọi khát vọng của các con.
– Lạy Mẹ Chí Thánh Thiên Chúa, xin mở tình thương cho chúng con, vì Mẹ là ơn độ phúc của cả nhân loại.
– Thánh Đamianô: Mẹ là kho báu chứa gồm hết mọi thánh ân. Lạy Mẹ là hy vọng của chúng con, chúng con biết hết mọi báu tàng tình thương của Chúa đều ở trong tay Mẹ.
– Thánh Bênađô: Chúa đã tàng trữ nơi Mẹ Maria toàn thể mọi ơn sung mãn, nên chúng ta có được hy vọng nào, ân sủng nào, ơn cứu độ nào là đều lãnh nhận từ tay Mẹ.
– Chúng ta hãy đi tìm ân sủng, và hãy nhờ Mẹ mà tìm. Cứ xin điều gì là Mẹ được điều ấy. Không bao giờ Mẹ có thể bị từ chối.
– Mẹ Maria được tặng ban cho thế giới di chuyển tình thương để qua Mẹ các ân sủng được liên tiếp trao ban từ trời cao xuống cho nhân loại.
– Thánh Albertô: Mẹ là Đấng quản thủ kho báu của Chúa Giêsu.
– Thánh Bonaventura: Mẹ gồm chứa báu tàng của Thiên Chúa là Chúa Giêsu và cùng với Chúa gồm chứa nguyên ủy và nguồn mạch hết mọi ân sủng.
– Lý do nào đã thúc đẩy Mẹ hối hả đi thăm nhà Gioan Tẩy giả nếu không phải là đức ái thiêu đốt tâm hồn Mẹ.
– Lời của Mẹ có mãnh lực lớn lao biết bao, vì Mẹ vừa mới nói, Chúa Thánh Thần liền xuống đầy lòng bà Elizabeth.
– Thánh Bênađinô: Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần.
– Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ.
– Thánh Laurensô Brinđisi: Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ.
– Thánh Anphong: Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy giả Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình ông nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, ngày Lễ Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là Lễ Mẹ ban ân sủng.
- GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
– Đức Phaolô VI: Lễ Thăm viếng nhắc nhớ việc Rất Thánh Trinh Nữ Maria đang cưu mang Con Mẹ đi viếng thăm, giúp đỡ bà Elizabeth, và công bố lòng xót thương của Thiên Chúa cứu chuộc.
– Đức Gioan Phaolô II
- Mẹ Maria hiện diện một cách linh thiêng giữa chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ với cùng một cặp mắt mà bà Elizabeth đã nhìn xem Mẹ khi Mẹ vội vã tới viếng thăm bà, và nghe lời Mẹ chào bà thì bà nói: “Ngay lúc tiếng em chào vừa đến tai chị, thì hài nhi trong dạ chị liền nhảy mừng” (Lc 1:44). Niềm vui bà Elizabeth cảm thấy nêu bật ân huệ có thể ẩn chứa trong lời chào mừng, khi lời chào đó do một tấm lòng tràn đầy Thiên Chúa. Những bóng tối của tình trạng cô độc đè nén một tâm hồn, thường có thể bị tia sáng một nụ cười và một lời nói âu yếm phá tan.
- Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: “Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm” (Lc 1:45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là “đức tin”. Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: “Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ”.
– Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn “mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta” (Ga 1:14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án “bất khả hữu = impossible” này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.
Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.
– Công đồng Vatican II
Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết, Đức Maria đã vội vã đến thăm bà Elizabeth, và được bà ấy chào mừng là người có phúc, vì đã tin vào sự Cứu rỗi Chúa đã hứa, và vị Tiền hô nhảy mừng trong lòng mẹ.
Lm. Phêrô, CMC
18. Không khiêm nhường, không biết tạ ơn!
Ngày 04-10-2006, giáo dân của Giáo Phận Bắc Ninh tập trung rất đông đủ tại nhà thờ Chính tòa Giáo Phận để cử hành thánh lễ An táng cho Đức Cha Giuse Nguyễn Quang Tuyến. Trong phần tiễn biệt, người ta rất ấn tượng với những dòng di chúc của Đức Cha. Nói đúng hơn, đây là lá thư mục tử cuối cùng của cuộc đời ngài trên dương thế. Tâm thư này được viết trước khi lên bàn mổ để các bác sĩ thực hiện ca phẫu thuật mà ngài đã được báo cho biết là 95% sẽ chết, chỉ có 5% là sống sót.
Trong bức tâm thư đó, ngài viết cho mọi thành phần trong gia đình Giáo Phận. Tuy nhiên, người ta chú tâm hơn với phần viết cho các nữ tu của Tu hội Con Đức Mẹ Hiệp Nhất. Nội dung đại khái như sau: “Các con yêu quý, khi ở trong Giáo Phận, cha thấy các con thua kém chị em của các hội dòng khác. Bởi vì họ trổi trang hơn chúng con về nhiều mặt, nào là: kiến thức, khả năng mục vụ, giáo tiếp, nhan sắc… Tuy nhiên, cha nhận thấy nơi chúng con tấm lòng đơn sơ, chân thành. Đây chính là nét đẹp nơi tâm hồn chúng con. Cha thiết nghĩ có khi lớ ngớ như chúng con lại dễ vớ Thiên Đàng nhanh hơn cha”.
Khi viết cho các nữ tu như vậy, có lẽ Đức Cha muốn nói lên một điều, đó là Chúa thương những người hiền lành, đơn sơ, chân thành, nhất là khiêm nhường.
Tại sao vậy? Thưa, bởi vì người khiêm nhường là người thuộc về Thiên Chúa, nên dễ dàng đi vào mối tương quan mật thiết với Người.
Ngược lại, người kiêu ngạo là người không thuộc về Thiên Chúa, và đương nhiên, không thể hiệp thông được với Người. Nói cách khác, khiêm nhường là con đẻ của Thiên Chúa. Kiêu ngạo là con đẻ của ma quỷ. Chính vì vậy mà Thiên Chúa bênh đỡ và bảo vệ người khiêm nhường, còn kẻ kiêu ngạo thì sẽ bị Người tiêu diệt như lời thánh Phêrô đã nói: “Thiên Chúa chống lại kiêu kiêu ngạo” (1 Pr 5,5).
- Mẹ Maria, Người Nữ Tỳ khiêm hạ
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ Đức Maria viếng thăm bà Êlisabeth hôm nay làm toát lên vẻ đẹp của sự chia sẻ và khiêm nhường nơi Mẹ Maria.
Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Luca giới thiệu cho chúng ta một người phụ nữ tuyệt vời: ngài là người tràn đầy ân sủng; là người có phúc hơn hết mọi người phụ nữ và nơi cung lòng của ngài sẽ xuất hiện Đấng Cứu Chuộc mà muôn dân mong đợi.
Tuy nhiên, với những ơn cao trọng lớn lao như vậy, tác giả lại cho thấy được xảy ra nơi một Nữ Tỳ hèn mọn và rất đỗi khiêm nhường, người đó chính là Mẹ Maria.
Thật vậy, chắc chắn Mẹ là người biết rõ Người Con mà mình đang cưu mang là ai? Người Con ấy quyền thế cao sang biết chừng nào? Hơn nữa, lời ca tụng của bà chị họ là Êlisabeth lại càng làm nên sự uy nghi, tự hào, bà nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ […] Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi” (x. Lc 1, 42-43)
Tuy nhiên, Mẹ Maria đã không tự kiêu để nhận những vinh dự đó về cho mình, ngược lại, Mẹ đã dâng nó lại cho Thiên Chúa trong tâm tình khiêm nhường của một người nữ tỳ hèn mọn.
Quả thật, nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ được những ơn cao trọng có một không hai trong lịch sử nhân loại như vậy, Mẹ phải hãnh diện đến tự kiêu. Nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ biết mình có phúc hơn mọi người phụ nữ trên trần gian, ắt Mẹ sẽ vỗ ngực xưng tên để huênh hoang, tự đắc với đời. Và như một hệ quả, nếu không khiêm nhường tuyệt đối, Mẹ sẽ phá hoại chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trong sự kiêu ngạo.
Vì thế, nơi Mẹ Maria, Mẹ đã đón nhận hồng ân của Thiên Chúa trong tâm thế của một người môn đệ, một nữ tỳ khiêm nhu. Điều này đã được chứng minh khi Mẹ cất lên lời kinh Magnificat để ca ngợi Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu mà Người đã làm trên phận nữ tỳ hèn mọn của mình.
Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ lội ngược dòng lịch sử cứu độ để nhận thấy bàn tay uy quyền và thương xót của Thiên Chúa đã cứu và giải thoát dân khỏi biết bao nguy biến.
Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ Maria đã gia nhập vào dòng người thánh thiện để ca ngợi sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, khi Người đưa cánh tay mạnh mẽ để hạ gục kẻ kiêu căng, truất bỏ những người quyền thế, để người giàu có trở về tay không, còn người nghèo khổ, thấp hèn lại được đầy dư.
Cuối cùng, cất lên lời kinh Magnificat, Mẹ Maria đã cùng với muôn người ngóng trông ơn cứu độ để cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa, bởi vì Người đã thực hiện lời hứa với các Tổ phụ và Tiên tri khi trao ban Con Một của Người xuống trần gian cứu chuộc con người.
- Sứ điệp Lời Chúa
Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta cũng cùng nhau lội ngược dòng để đọc lại lịch sử cuộc đời của mình dưới tâm thức của người thụ ơn, để thấy được những điều kỳ diệu mà Chúa đã làm trên cuộc đời chúng ta.
Những ơn đó là: ơn được sinh ra làm người trong một gia đình. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Được lớn lên với biết bao ân cần, lo lắng của mọi người mà Chúa gửi đến để chăm sóc cho ta. Ngài cũng cứu chúng ta biết bao lần qua những cơn bạo bệnh. Ngài che chở ta và giải thoát ta khỏi biết bao nguy biến, tai ương… nhất là ơn được sống tới ngày hôm nay. Rồi sức khỏe, trí thông minh, và rất nhiều khả năng khác mà Thiên Chúa không ngừng ban cho chúng ta…
Tuy nhiên, khác với Mẹ Maria, nhiều khi chúng ta chưa đủ nhạy bén hay vô tình mà quên đi nghĩa vụ của người thụ ơn với Thiên Chúa. Hoặc cũng có lúc chúng ta có thái độ giảm nhẹ mầu nhiệm để thay vào đó là khái niệm tự nhiên có, nên việc biết ơn có vẻ cũng vì đó mà bị giảm nhẹ theo!
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể do sự kiêu ngạo, lạnh nhạt, khô khan, nên chưa khiêm nhường đủ để nhận ra ân sủng của Thiên Chúa trên cuộc đời mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta khi đứng trước hồng ân lớn lao như vậy, hãy có tâm tình của Mẹ Maria để cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Người đã làm trên và trong cuộc đời chúng ta. Đồng thời, noi gương Mẹ, mỗi người cũng hãy chia sẻ niềm vui với những anh chị em xung quanh, nhất là sẵn sàng giúp đỡ những ai cần đến chúng ta, để vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người hôm nay cũng là những mối ưu tư và lo lắng của chúng ta.
Mặt khác, luôn sống tâm tình khiêm nhường và tín thác nơi Thiên Chúa, biết nhạy bén như Mẹ Maria để không chỉ bản thân mình cần cám ơn, chúc tụng Thiên Chúa, nhưng chúng ta còn làm những bổn phận đó trong tư cách là dân Thiên Chúa khi cảm tạ và chúc tụng thay cho người khác.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, đường lối khiêm nhường là cách thức Thiên Chúa thể hiện quyền năng. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương khiên nhường của Đức Trinh Nữ Maria để sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa và để thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng con.
Xin cũng cho chúng con biết quan tâm, lo lắng cho mọi người, nhất là những người khổ đau, nghèo đói đang cần đến chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
19. Mẹ Maria gặp gỡ chị họ Elisabeth–Đaminh Trần văn Chính
Vào một buổi chiều hôm đó trong nhà thờ, đầy nghẹt những người cùi hủi. Đức cha Maigret đứng bên bàn thờ quay xuống hỏi họ:
Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng và phục vụ các con. Thì đây tôi xin giới thiệu: cha Đamien (Joseph Damien de Veuster 1840-1889 người Bỉ. Ngài đã đến và sẽ ở lại để chăm sóc, phục vụ và chia sẻ với các con từ nay cho đến chết. Các con có vui mừng không?
Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng bên cạnh Đức giám mục mà chẳng hiểu tí gì! Rồi họ từ từ tiến lên cung thánh, họ đến bên cha, sờ vào mặt, vào tay và vào áo cha…Cha hỏi Đức giám mục: Họ làm gì vậy?. Đức cha giải thích: Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người từ nơi phương xa, chẳng có bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ và lại đẹp trai nữa, không bệnh tật gì mà tự nguyện đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin vào mắt mình nên họ mới xúm lại sờ mó vào người cha xem thử cha có thực sự bị bệnh phong cùi như họ không? Rồi họ nói với nhau rằng: “Không, cha không bệnh tật gì và cha đẹp trai quá!”.
Vào năm 1873, cha Đamien đã tự tình nguyện ra đảo Molokai, nơi mà chính quyền Hawaii thời đó “thu gom” những người bất hạnh bị bệnh cùi hủi ra sống ở đảo nhằm cách ly, tránh sự lây lan cho xã hội. Vì thế họ bị bỏ mặc, sống lạc loài và cô đơn trên đảo, không nhận được bất cứ một sự chăm sóc nào về thể xác cũng như tâm linh!
Cha Đamien đã đến và biến đổi một trại cùi hiu quạnh bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài thành một trung tâm sinh hoạt yên vui như một gia đình lớn.
Và rồi sau mười sáu năm tận tình phục vụ những anh chị em cùi, cha đã bị lây bệnh và qua đời vào năm 1889. Vì thế cha được mệnh danh là “Tông Đồ người cùi”.
(Ngài được phong chân phước ngày 04/06/1995 và được phong hiển thánh ngày 11/10/2009).
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ đi thăm viếng gia đình bà Elisabet. Chúng ta thấy theo tường thuật của Phúc Âm, thì ngay sau khi nói lời “xin vâng” để chương trình cứu thế của Thiên Chúa được bắt đâu thực hiện thì Đức Mẹ đã “vội vã” lên đường đên thăm gia đình người chị họ. Đây không phải là một cuộc thăm viếng bình thường, mà là chuyến đi mang niềm vui của ơn cứu độ đến cho tha nhân. Niềm vui này thật quan trọng và lớn lao đến nỗi bà chủ nhà Elisabet, khi thấy Đức Maria đến đã phải thốt lên rằng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm viếng tôi”. Và Gioan tuy chỉ là một thai nhi cũng đã vui mừng mà nhảy lên trong dạ mẹ. Như vậy chúng ta thấy, khi nhận được niềm vui của Tin Mừng cứu độ, Mẹ đã không giữ lại cho riêng mình mà đã vội vã lên đường đi chia sẻ niềm vui ấy cho mọi người.
Với tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế, thì lẽ ra người phải đến chăm nom, phục vụ và ngợi khen Đức Mẹ phải là bà Elisabet. Nhưng vì lòng khiêm nhường, Đức Mẹ đã không quản ngại đường xá xa xôi vất vả, và không phải là không có những mối nguy hiểm trên đường! Nhưng Mẹ vẫn đến để thăm viếng phục người chị em này.
Noi gương Đức Mẹ, chúng ta là những người được mệnh danh là “người có Chúa” tức những Ki-tô hữu thì cũng phải có bổn phận đem Chúa đến giới thiệu cho tha nhân. Nhưng trước hết hãy học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường và yêu thương. Bởi chỉ có thực sự khiêm tốn và yêu thương chân thành chúng ta mới có thể đem Tin Mừng cứu độ cho tha nhân được.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta biết thể hiện những hành động yêu thương quí mến mọi người mà chúng ta gặp gỡ, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Chúng ta có thể trao cho họ những nụ cười tươi thắm, những lời nói nhỏ nhẹ chân thành, những ánh mắt thiện cảm nhân từ… Như thế là chúng ta đã mang niềm vui, an bình đến cho mọi người, và nhất là chúng ta đã thể hiện được là người có Chúa Ky-tô đang ngự trị nơi tâm hồn của chúng ta.
- Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, còn biết bao người chưa nhận biết Chúa. Xin ban Thánh Thần thức tỉnh tâm hồn họ để nhờ đó họ nhận ra chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ trần gian mà họ phải tôn thở, kính mến để cuộc sống dương gian này mang lại ý nghĩa thực sự cho họ, và cũng xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết bổn phận mình là Ky-tô hữu, thì phải đem Chúa đến cho mọi người và đem mọi người về cho Chúa, bằng đời sống yêu thương, bác ái, hy sinh và phục vụ của mình. Amen.
- Sống Lời Chúa:
Mỗi ngày cố gắng hy sinh làm việc thiện, có ý cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo.
20. Cuộc gặp gỡ lịch sử–JM. Lam Thy DVD
Đúng vào ngày kết thúc Tháng Hoa kính Đức Mẹ (31/5), Giáo Hội cử hành lễ Đức Maria Thăm Viếng Bà Ê-li-sa-bét. Vì sao có cuộc thăm viếng này? Vì khi truyền tin cho Đức Maria là Ngôi Lời sẽ Nhập Thể trong cung lòng của Đức Mẹ, sứ thần có báo cho Mẹ một tin vui: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.” (Lc 1 38). Bà Ê-li-sa-bét là chị họ của Đức Maria, vì thế Đức Mẹ “vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa” (Lc 1, 39) để viếng thăm và ở lại với người chị họ 3 tháng.
Xét theo sự giao tế của con người, khi thấy chị em có tin vui thì đến chia vui là chuyện bình thương. Tuy nhiên, nếu để ý một chút sẽ thấy bà Ê-li-sa-bet với Đức Maria chỉ là chị em họ, mà con đường từ nơi Đức Maria tới nơi bà Ê-li-sa-bét phải vượt qua một chặng đường đồi núi chập chùng rất dài (đi bộ phải mất 2 – 3 ngày đường), đầy khó khăn nguy hiểm, đó sẽ là trở ngại lớn khiến khó lòng thực hiện được ý định viếng thăm nhau. Vậy mà Đức Mẹ vẫn “vội vã” tới thăm, điều này cho thấy phải có một động lực rất mạnh thúc đẩy Mẹ lên đường. Không những thế, Mẹ còn ở lại chăm sóc người chị họ cho tới khi bà mãn nguyệt khai hoa. Như vậy thì cuộc thăm viếng lịch sử này đã hàm chứa 2 chiều kích nền tảng của Ki-tô Giáo: Chia sẻ và Phục vụ trong Yêu thương.
1- Chia sẻ: Trước khi có cuộc thăm viếng của Đức Maria, thì đã có cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đến trao ban Con Một của Người cho nhân loại trong cung lòng của Đức Mẹ. Chính Chúa Giê-su là Đấng cứu độ và giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết đời đời. Người mang lại nguồn ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa cho những ai tin tưởng và đón nhận tình yêu của Người. Khi Đức Mẹ “xin vâng” thì cũng là lúc Mẹ được tràn đầy Thánh Thần, và chính đó là động lực thúc đẩy Mẹ thể hiện việc đem Tình Yêu chia sẻ cho tha nhân. Nói cách khác là ngay từ lúc này, Đức Mẹ đã thi hành sứ vụ “đi khắp tứ phương loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15) như về sau Đức Giê-su Thiên Chúa hằng giảng dạy và sai phái các môn đệ của Người.
Đức Maria viếng thăm là đem Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, cũng là Con của Mẹ đến với gia đình bà Ê-li-sa-bet. Và vì thế, nên bà E-li-sa-bét mới nói: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1, 43-45). Vì yêu thương, nên dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi đầy cam go, nguy hiểm, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm người chị họ. Chính tình yêu đã thúc đẩy bước chân Mẹ. Quả thật hình ảnh cao đẹp này cũng đã được tiền định từ trước, nên ngôn sứ Xô-phô-ni-a mới viết “Thánh vịnh mời gọi Si-on vui mừng” (xc bài đọc 1 hôm nay: Xp 3, 14-18a) và ngôn sứ I-sai-a hết lời ca tụng: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin Mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ.” (Is 52, 7).
Đến như Bài ca Ngợi Khen (Magnificat) tuy là lời Đức Mẹ chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, nhưng đó lại là Tin Mừng đem đến cho mọi người, nếu biết tin yêu và vâng phục thánh ý của Thiên Chúa (như Đức Mẹ) và hân hoan vui mừng đón nhận (như hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét và thai nhi Gio-an Bao-ti-xi-ta). Thật thế, “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”
2- Phục vụ: Nếu chỉ tới thăm rồi về ngay thì chưa đủ, mà Đức Mẹ còn “ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.” Khi Đức Mẹ tới viếng thăm thì bà chị họ đã có thai được 6 tháng, bây giờ Mẹ ở lại thêm 3 tháng nữa, tức là ở lại với người chị họ tới ngày bà sinh con. Rõ ràng Đức Mẹ ở lại chỉ với mục đích duy nhất là để giúp đỡ, chăm sóc thai phụ trong những ngày cuối thai kỳ. Người phụ nữ có thai rất cần có người ở liền bên phục vụ, mà người đó phải là phụ nữ, bởi có những việc người chồng không thể làm được. Hành động phục vụ của Đức Mẹ chính là vâng phục tuyệt đối thánh ý của Thiên Chúa (“những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho chúng ta.” – Lc 1, 2), mà khi Người Con của Mẹ trưởng thành đã giảng dạy và thực hiện (“Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em… Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” – Mt 20, 26).
Trong cuộc sống xô bồ ngày nay, chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần, nhất là những người sống ở thành thị. Có khi sống liền vách với nhau mà cũng không hề có được tình nghĩa “tối lửa tắt đèn có nhau, bán anh em xa mua láng giềng gần”! Tình nghĩa láng giềng ngày càng lợt lạt, thay vào đó là “đèn nhà ai nhà nấy sáng, sống chết mặc bay”. Ngược lại, có những người thăm viếng nhau hàng ngày, mỗi ngày bỏ rất nhiều thời giờ để nói chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, đơm điều đặt chuyện. Việc họ thăm viếng chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm cớ cho nhau phạm tội (dèm pha, nói xấu, thậm chí còn xúc xiểm gây thù chuốc oán người khác). Ấy mới chỉ là nói về việc thăm viếng nhau đã khan hiếm như thế, thì không hiểu việc yêu thương phục vụ sẽ còn khó kiếm đến như thế nào!
Như vậy thì cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Mẹ dành cho gia đình ông Da-ca-ri-a là khởi đầu cho Giao Ước Mới đem Tin Mừng đến cho nhân loại. Đức Maria thăm viếng vừa để chia sẻ Tin Mừng vừa để phục vụ anh em, đã thể hiện cụ thể và sinh động nhất tình cảm “yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12, 30-31). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương tuyệt vời cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm viếng nhau, chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa đến phục vụ cho tha nhân luôn luôn và mãi mãi phải là sứ vụ của con cái Chúa, không thể khác hơn.
“Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, ngay khi còn cưu mang Thánh Tử Giê-su, Thánh Mẫu Maria đã được Cha soi sáng và người đã đi thăm bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Ðức Maria ngợi khen Cha muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giê-su Ki-tô Con Cha là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Cha hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-sa-bét).
21. Niềm vui thăm viếng–Huệ Minh
Sau khi sứ thần Gabrien cho biết Đức Mẹ được chúc phúc và cưu mang con Thiên Chúa, Đức Mẹ vui mừng khi người chị họ của mình là bà Êlisabét cũng được chúc phúc. Đức Mẹ đã vội vã lên đường đến thăm chị họ của mình.
Động lực thúc đẩy Đức Mẹ lên đường là do lòng yêu mến và tình người của Đức Mẹ. Khi đã có lòng yêu thương thì có gian nan, xa xôi thì cũng điều vượt qua. Đức Mẹ biết chị họ đã già, lại có thai lần đầu tiên và được sáu tháng nên rất cần người giúp đỡ. Đức Mẹ đã đến ở và giúp người chị của mình. Học nơi mẹ, chúng ta đừng có thái độ làm ngơ hờ hững với anh em họ hàng của mình. Chúng ta hãy yêu thương, quan tâm giúp đỡ khi họ cần vào lúc thuận tiện có thể. Nhờ đó, chúng ta được thêm niềm vui và anh em mình cũng được hạnh phúc như Đức Mẹ vậy.
Chuyến viếng thăm của Đức Mẹ có bao nhiêu mục đích, song mục đích chính yếu vẫn là chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình Dacaria. Gioan vui mừng nhảy lên trong lòng mẹ nhờ gặp gỡ được Đấng Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ. Bà Êlizabeth kêu lớn tiếng và nói: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em cưu mang cũng được chúc phúc… Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em, sau lời chào của Đức Mẹ.
Đức Mẹ không những đem niềm vui cứu độ đến cho gia đình Dacaria mà còn ở lại với bà Êlizabeth độ 3 tháng để giúp đỡ, sẻ chia, an ủi, bởi hơn bao giờ hết, những ngày tháng sắp sinh nở, và sau khi sinh nở, cần thiết biết bao sự giúp đỡ của người khác. Đức Mẹ đã làm như thế để Êlizabeth hoàn toàn có thể yên tâm trong việc cộng tác phần mình vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: “Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm” (Lc 1, 45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là “đức tin”. Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: “Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ”.
Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn “mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án “bất khả hữu” này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.
Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.
Đức Mẹ đi thăm chị họ của mình cũng có thể nói là Mẹ ra đi truyền giáo. Theo Tin Mừng viết thì Đức Mẹ đi một mình. Nhưng với niềm tin của chúng ta, Đức Mẹ đi cùng với Thiên Chúa vì Mẹ đã được Thiên Chúa chúc phúc, được tuyển chọn, là người của Chúa, thuộc về Chúa và cũng đang cứu mang Con Một Thiên Chúa. Như vậy trên đường đến thăm chị họ, Đức Mẹ luôn có Chúa đi cùng. Đức Mẹ đi trong niềm vui và mang niềm vui đến cho mọi người. Niềm vui ấy được thể hiện nơi thai nhi của bà Êlisa bét: “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”(x Lc 1,44). Chúng ta hãy bắt chước Mẹ lên đường trong niềm tin rằng chúng ta không bao giờ đi một mình, chúng ta luôn có Chúa thân hành và hiện diện.
Hình ảnh vui tươi phục vụ và nhất là niềm vui mang Chúa đến cho mọi người nơi Mẹ gợi cho chúng ta một cung cách sống quảng đại, yêu thương và dấn thân phục vụ. Noi gương Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi ra đi mang Chúa đến cho mọi người, như lời của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: Đức Maria, trên con đường đi thăm viếng bà Elizabeth, đã trở nên ngôi nhà tạm sống động, vì Mẹ đang cưu mang trong cung lòng mình Con Thiên Chúa”. Để có thể thực hiện được điều này, mỗi người chúng ta cần phải có Chúa trong mình, cần phải sống kết hiệp với Chúa, trở nên những ngôi nhà tạm sống động của Chúa. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng cần phải biết siêng năng lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, để có thể lắng nghe và nhận ra được thánh ý Chúa trên cuộc đời mình, từ đó hăng say cất bước ra đi mang niềm vui đến cho mọi người.
Qua cuộc viếng thăm ấy, Đức Mẹ cảm thấy vô cùng hạnh phúc không gì diễn tả nổi. Đức Mẹ đã cất cao bài “Magnificat”. Một bài ca vang mãi muôn đời. Bài hát mà Giáo Hội đã làm lời kinh trong phụng vụ. Cùng với Giáo Hội chúng ta hãy hát lên và sống bài ca ấy. Bài ca của niềm vui trọn vẹn và đích thực. Niềm vui vì nhìn thấy được công trình cứu chuộc của Thiên Chúa; vui vì tìm được nguồn chân lý, công bằng và sự thật và vui vì con đường đến với Thiên Chúa còn có rất nhiều người cùng đi.
Thăm viếng người khác một cách chân thành với mục đích đem yêu thương, an vui, hạnh phúc đến cho họ là một trong sứ điệp quan trọng của lời Chúa hôm nay. Muốn có thể đem yêu thương, an vui hạnh phúc cho người khác, đòi các tín hữu phải là người có niềm vui cứu độ. Xin Chúa cho các tín hữu luôn biết mở lòng ra cho Chúa đến để khi tâm hôn có Chúa chúng ta có thể bắt chước Đức Mẹ đem niềm vui cứu độ đến với tha nhân.
22. Cuộc viếng thăm đầy ân sủng–Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP
Trong cuộc sống, nơi các mối tương quan, hẳn sự cảm thông, liên đới là điều quan trọng. Có sự cảm thông, chúng ta dễ dàng tôn trọng, hiểu biết, và đón nhận nhau hơn. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau để giúp nhau thăng tiến…
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.
Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt phục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét… Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.
Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.
Qua mỗi ngày sống, mong sao mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.
23. Niềm vui có Chúa–Nữ đan sĩ Maria Maximiliano Kolbe
Xp 3,14-18a; Rm 12,9-16b; Lc 1,39-56
(http://hoidongxitothanhgia.com/)
Khát vọng niềm vui ẩn chứa nơi tâm hồn con người. Ai ai cũng mong có được niềm vui hoàn hảo, trọn vẹn và bền vững. Nhưng niềm vui ở đâu nếu không phải ở nơi những con người có Chúa trong lòng, những người gặp Chúa trong cuộc đời? Niềm vui đó được thể hiện rõ nét nhất nơi Đức Maria trong ngày Đức Maria đi thăm người chị họ Ê-li-sa-bét mà bài Tin Mừng hôm nay thuật lại.
- Niềm vui có Chúa
Đức Maria đã được sứ thần mời gọi “Mừng vui lên”. Hôm ấy, Mẹ càng vui vì có Chúa trong lòng mình. Mẹ vui vì cảm nhận được tình yêu thương của Chúa trên cuộc đời Mẹ cũng như trên dân tộc của Mẹ. Mẹ vui vì Chúa đã làm cho Mẹ bao điều cao cả, đến nỗi hết mọi đời sẽ khen Mẹ có phúc (Lc 1,48-49).
Niềm vui được manh nha từ trong Cựu ước. Bài đọc thứ I ghi lại lời mời gọi, qua đó loan báo niềm vui: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi… Đức vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3,14-15). Niềm vui được loan báo này đã thành hiện thực qua Đức Maria. “Đức vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” ấy chính là Đức Giêsu đang ngự trong lòng Đức Maria.
Đứng trước ân huệ lớn lao là được cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, Mẹ chỉ biết dâng lời chúc tụng Chúa bằng bài ca “Ngợi khen” (Magnificat), mà chúng ta hát trong giờ Kinh Chiều. Ngày xưa, dân Ít-ra-en vui mừng ca tụng Chúa qua những thánh vịnh, thánh thi vì họ thấy Chúa hiện diện giữa họ, yêu thương họ (Tv 33; 149 …).
- Niềm vui chia sẻ Niềm vui
Khi có Chúa trong mình, có niềm vui trong mình, Đức Maria vội vã lên đường để chia sẻ niềm vui đang trào tràn với người chị họ Ê-li-sa-bét (Lc 1,39). Mẹ đã không quản ngại, dù đường xa cách trở, dù núi non cheo leo. Mẹ chia sẻ niềm vui vì mình được cưu mang Chúa, là Chúa Tể muôn loài, lại là Đấng cứu chuộc mọi sinh linh. Mẹ chia sẻ niềm vui với người chị họ cao niên. Chị là người hiếm muộn mà Chúa đã cho chị mang thai và sắp được làm mẹ, sắp rửa được tủi nhục không con theo quan niệm thời ấy giờ.
Mẹ đã cảm nghiệm được niềm vui yêu thương nên Mẹ sống quảng đại. Mẹ đến để phục vụ, chăm sóc người chị trong những ngày sắp mãn nguyệt khai hoa. Tình bác ái này được thánh Phao-lô nói đến trong bài đọc II, trích từ thư Rôma chương 12: chúng ta phải yêu thương nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn với nhau, cầu nguyện cho nhau, sốt sắng phục vụ Chúa, ngay cả người bắt bớ mình, mình cũng phải chúc lành. Chân phước Tê-rê-sa Calcutta qua kinh nghiệm phục vụ, trao ban của ngài, cũng đã nói: “Ai trao ban cách vui vẻ là trao ban nhiều hơn thế”.
- Niềm vui đón nhận
Bà Ê-li-sa-bét vui vì bà biết đón nhận niềm vui từ người em họ, bà vui vì được người em họ của bà đến viếng thăm, vui vì em đến chăm sóc mình trong lúc thai nghén. Niềm vui to lớn nhất là được Đức Maria đem Chúa đến cho gia đình mình, vui vì Chúa đến cư ngụ trong nhà của mình. Niềm vui của bà được lan truyền qua người con trong bụng, khiến người con ấy tuy chưa chào đời mà đã nhảy mừng. Niềm vui bà Ê-li-sa-bét có được, bà nhận ra được Chúa đến nhà bà là nhờ Chúa Thánh Thần ban cho bà (Lc 1,41), vì như chân phước Phao-lô VI đã viết: “Nơi chính Thiên Chúa, tất cả đều là niềm vui bởi tất cả đều là ân ban (Tông huấn Gaudete in Domino 9/5/1975).
Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống niềm vui và trao ban niềm vui. Vì Kitô hữu là người có Chúa Kitô. Chúng ta vui vì có Chúa trong mình, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình dương thế. Chúng ta vui vì có những anh chị em Kitô hữu khác cùng sống với chúng ta trong cuộc đời, có người bạn đường chia sẻ niềm vui nỗi buồn của kiếp người với chúng ta. Đó cũng là dịp để chúng ta thực tập, thi thố, trao ban niềm vui cho những người chúng ta gặp gỡ. Đồng thời chúng ta cũng biết ơn đón nhận tình thương, niềm vui từ anh chị em trao ban cho chúng ta.
24. Chia Sẻ Niềm Vui–Radio Veritas Asia–‘Suy Niệm Lời Chúa’
Trong bầu khí mừng lễ Chúa Giáng sinh, phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elizabeth.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Mikêa cho thấy lời Chúa hứa là Người sẽ gặp dân Người và điểm quan trọng là tiên tri gọi đích danh thành Bêlem và cho biết từ đó sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel. Với lời hứa đó, con người sống trong hy vọng và từ nay Thiên Chúa không còn gặp gỡ con người trong tiếng sấm kinh hồn, trong chớp lòa khủng khiếp, mà trong một Đấng xuất thân từ một địa điểm rõ rệt trên mặt đất này. Và chính Đấng đó sẽ chăn dắt Israel trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Thiên Chúa.
Như thế từ 700 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, tiên tri Mikêa đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và ở cùng con cái loài người. Đó là một điểm khuyến khích niềm hy vọng, sự mong chờ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đến gặp gỡ con người, ở với con người và hướng dẫn con người trên con đường về Nước Thiên Chúa.
Bài đọc thứ hai trích từ thư gởi tín hữu Do Thái của thánh Phaolô, diễn tả một cách chính xác hơn, cụ thể hơn Đấng đến gặp con người mà tiên tri Mikêa chỉ diễn tả cách lờ mờ trong hy vọng. Đấng đó đến với một thể xác để thi hành thánh ý Chúa trong thân xác của mình thay thế cho bao nhiêu của lễ toàn thiêu, của lễ đền tội. Đấng đó chính là Chúa Giêsu, Ngài đã đến và đã là điểm gặp gỡ hữu hình giữa Thiên Chúa và con người. Ngài là trung gian giữa trời và đất. Nơi Ngài, con người nhìn thấy Thiên Chúa hữu hình để qua Ngài, con người đem lòng yêu mến những sự vô hình, và Thiên Chúa chí tôn chí thánh yêu mến con người yếu đuối, tội lỗi khi nhìn thấy nhân loại nơi Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, vì Chúa yêu thương con người qua những gì Chúa quí mến nơi Con Một Chúa Nhập thể làm người. Đó là một sự gặp gỡ nhiệm mầu mà chỉ có Thiên Chúa mới bắc cầu qua được vực thẳm xa cách giữa Thiên Chúa và con người đó. Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà chúng ta được nên thánh và được vui mừng tiến về thiên quốc, qua vực thẳm đã được Thiên Chúa bắc cầu gặp gỡ.
Tiếp đến chúng ta thấy người cộng tác trực tiếp và tích cực cho cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người này, chính là Đức Maria. Người đã mang thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, để cung cấp cho Ngôi thứ hai một thân xác theo ý định Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác”.
Với hình ảnh Maria đi viếng bà Elisabeth nơi Phúc Âm hôm nay, các thánh trong Giáo Hội hay suy niệm đó là hình ảnh người đem Chúa đến cho nhân loại. Khi nói đến sự gặp gỡ đầu tiên trong thân xác với thân xác, giữa Thiên Chúa và con người này, thánh Luca đã diễn tả một quang cảnh tràn ngập niềm vui.
Trước tiên niềm vui của bà Elisabeth, bà đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: “Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa”. Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: “Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!”
Đến lượt Maria, người cũng vui mừng và từ đáy lòng thốt lên kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”. Lời kinh tuyệt vời cô đọng từ trong Kinh Thánh mà Giáo Hội hằng ngày dùng để ca tụng Chúa trong giờ Kinh Chiều của mình.
Tiếp đến là Gioan, dầu còn trong lòng mẹ cũng cảm thấy được niềm vui gặp Đấng cứu độ. Chính Elisabeth đã âu yếm để ý đến con mình và nói lên cho mọi người biết: “Này, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”. Truyền thống Công Giáo cho rằng: khi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, chính là lúc Gioan được tha tội tổ tông và được thánh hóa nhờ ơn cứu chuộc của Đấng Cứu Thế.
Tất cả mọi người đều vui mừng trong Phúc Âm Chúa nhật hôm nay, mà nguyên nhân của sự vui mừng đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Nhưng ở đây, Chúa nhật này, chúng ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elisabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng dàn xếp tất cả những gì đã làm tôi phiền muộn bực bội khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và tôi sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn. Và vì lễ Giáng sinh là lễ để chia sẻ niềm vui, cho nên tôi cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.
25. Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân–JKN
Câu hỏi gợi ý:
- Ta học được những gì trong việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét? Thăm viếng có phải là một việc mà tình yêu đòi buộc phải có không?
- Thăm viếng cũng là dịp đem Chúa đến cho người khác. Nhưng đem Chúa đến cho người mình thăm viếng bằng cách nào?
- Giữa những hành động cụ thể biểu lộ yêu thương đích thực, và những lễ tế, kinh kệ làm theo thói quen, Thiên Chúa ưa chuộng cái nào?
Suy tư gợi ý:
- Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Êlisabét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả. Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Êlisabét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Êlisabét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế!
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói: «Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ», ngài gọi cái khổ ấy là «ái biệt ly khổ». Tục ngữ có câu: «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!» (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.
- Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabét, Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong bụng bà cũng vui theo mà «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Êlisabét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu chẳng những mang niềm vui, mà còn biến đổi hai mẹ con bà Êlisabét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Như thế, đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Có những người nói về Chúa rất nhiều và rất hay, nhưng họ không thật sự có Chúa trong bản thân họ. Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Êlisabét đâu! Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
- Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Do tình yêu vô biên phổ quát của Ngài, Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Nhưng hiện nay Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta. Khi ta đến với họ, Ngài cũng muốn ta coi họ như hiện thân của Ngài, nghĩa là như chính bản thân Ngài.
Ngài đã chẳng từng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
26. Thương thì Thăm—Trầm Thiên Thu
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng, năm A
Người ta thăm viếng nhau vì quý mến, vì thương yêu, vì tình cảm, chứ chẳng ai ghét nhau mà lại đến thăm nhau. Thăm viếng nhau còn có mục đích là an ủi nhau và giúp đỡ nhau, đặc biệt là đối với các bệnh nhân, người già yếu, người khuyết tật, người gặp hoạn nạn, các thai phụ,… Nói chung, quá trình đó được bắt đầu từ đức ái: Thương thì Thăm.
Để có thể thăm viếng nhau như vậy, người ta phải có lòng khiêm nhường, như mầu nhiệm thứ hai trong Mùa Vui của Kinh Mân Côi, chúng ta cầu xin: “Đức Mẹ thăm viếng Thánh Isave, xin cho con được lòng khiêm nhường”. Quả thật, đức khiêm nhường rất quan trọng vì đó là nên tảng của mọi nhân đức.
Đức Maria là thôn nữ nghèo, nhưng nhu mì và dễ thương vì luôn sống khiêm nhường, và là thụ tạo đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Thiên Chúa.
Sứ thần Gáprien truyền tin vui nhưng Nàng Maria lại bối rối. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Cô Maria, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Nghe sứ thần nói mình sẽ làm mẹ, Đức Maria “hoảng hồn”, nhưng sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Cô, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Cô, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35), đồng thời chứng minh một thai phụ mang tiếng là son sẻ mà lại đang mang thai là người chị họ Êlidabét, vì “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37). Thở phào nhẹ nhõm, Đức Mẹ Ô-kê ngay lập tức (Lc 1:38) mà không chút đắn đo. Phúc chồng lên phúc!
Thuở xưa, Thiên Chúa cũng đã động viên các cô gái: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao? Lý do còn hơn cả sự tuyệt vời: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời! Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Cả Cựu Ước và Tân Ước, mệnh lệnh cách “đừng sợ” được nhắc tới nhiều lần để động viên mọi người. Khi chúng ta “không sợ” là bắt đầu có sự can đảm, có can đảm là có sức mạnh, có sức mạnh là có Chúa Thánh Thần. Kỳ diệu quá chừng! Chúa Thánh Thần hoạt động rất tinh vi.
Khi “không sợ” thì người ta có thể làm được nhiều thứ. Một trong các vấn đề nòng cốt là thực hiện đức ái, nhân đức quan trọng trong Kitô giáo. Nhưng Thánh Phaolô cảnh báo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Bác ái có nhiều dạng và nhiều mức độ, cần phải can đảm thực sự mới có thể thực hiện. Không dễ đâu!
Thánh Phaolô giải thích thêm về đức ái: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12:12-17). Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng phải vậy thôi, và đọc kỹ từng chữ, chúng ta sẽ thấy “nhức đầu” đấy, chứ không đơn giản như chúng ta thường nghĩ.
Thánh sử Luca cho biết rằng, sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45). Cái PHÚC không đâu xa, mà do mình, nếu thực sự TIN. Tuy nhiên, tin mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng tưởng mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo!
Lúc đó, Đức Maria chúc tụng Thiên Chúa bằng “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat, Lc 1:45-55) độc đáo:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Thánh Luca cho biết rằng “Dì Maria ở lại với Bác Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56).
Khi Đức Maria thụ thai, Chị Êlisabét đã có thai được sáu tháng. Đức Maria ở lại với chị Êlisabét khoảng ba tháng, vị chi là Chị Êlisabét đã đến lúc khai hoa nở nhụy. Trong những ngày cuối thai kỳ, phụ nữ rất cực khổ và mệt mỏi, rất cần sự giúp đỡ của người khác. Lúc này, Đức Maria đã đến tháng thứ ba của thai kỳ, chắc hẳn cũng mệt mỏi, nhưng Đức Maria vẫn giúp đỡ người chị của mình với lòng khiêm nhường và yêu thương chân thành. Đó là bài học vô giá mà Đức Mẹ muốn truyền thụ cho chúng ta về hai chữ T quan trọng trong cuộc sống: Thăm (viếng) và Thương (yêu).
Lạy Thiên Chúa từ ái, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con một Người Mẹ tuyệt vời, xin giúp chúng con biết noi gương và yêu mến Mẹ luôn luôn. Xin biến đổi chúng con để mỗi chúng con sớm trở nên khí cụ bình an của Ngài.
Lạy Mẹ nhân lành, chúng con xin tận hiến cuộc đời cho Mẹ, xin thương hướng dẫn và che chở chúng con trong mọi hoàn cảnh, và xin dẫn đưa chúng con về với Chúa. Xin Mẹ đoái thương nước Việt Nam bé nhỏ của chúng con, nhất là trong hoàn cảnh có nguy cơ chiến tranh Biển Đông hiện nay. Xin Mẹ ngăn tay kẻ thù và biến đổi tà tâm thành thiện tâm, xin cho Nước Việt và thế giới được hưởng tự do, công lý và hòa bình đích thực của Thiên Chúa.
Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
27. Tình khúc ngợi khen—Trầm Thiên Thu
TRINH NỮ XIN VÂNG VÌ MẾN CHÚA
MẸ HIỀN PHỤC VỤ BỞI YÊU NGƯỜI
Cuộc đời Đức Mẹ là một Tình Khúc Ngợi Khen không ngừng du dương tán tụng hồng ân Thiên Chúa. Vừa được trở thành Mẹ Thiên Chúa và biết tin người chị họ cũng đã được diễm phúc làm mẹ được nửa năm, Đức Maria liền vội vã lên đường đi thăm chị và cùng chia sẻ niềm vui lớn lao trong tâm tình chị em.
Thánh Bênađinô nói: “Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần. Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ”. Còn Thánh Laurensô Brinđisi cho biết: “Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ”.
Đặc biệt hơn, Thánh Anphong Ligôri cho biết: “Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy Giả, Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, lễ Đức Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là lễ Đức Mẹ Ban Ân Sủng”. Ôi, thật kỳ diệu và thú vị biết bao!
Với kinh nghiệm cuộc sống, ai cũng biết rằng thăm viếng là một cách giao tiếp phổ biến trong xã hội đời thường. Chắc chắn không ai lại không một lần thăm viếng người khác, có thể chỉ là hỏi thăm bình thường hoặc chuyện vãn khi nhàn rỗi, đặc biệt là những cuộc thăm viếng dành cho người già, bệnh nhân, trẻ mồ côi, người nghèo, tù nhân, nạn nhân,…
Có thể khác nhau về mức độ khi thăm viếng nhau, nhưng điều cốt lõi cần thiết vẫn phải là vì đức ái, như Thánh Phaolô khuyên: “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:16). Chỉ vì đức ái mà hành động thì chuyện nhỏ cũng trở nên giá trị trước mặt Thiên Chúa, không vì đức ái mà chỉ vì “lấy lòng” hoặc “che mắt thế gian” thì chuyện lớn cũng không có giá trị gì đối với Thiên Chúa. Có thể nói rằng, ở cấp quốc gia và về lĩnh vực chính trị, có thể có gì đó gọi là “giả hình” khi người ta có những cuộc viếng thăm với danh nghĩa là “chính thức”, bởi vì đó là những cuộc thăm viếng nhau theo lời mời chứ không tự ý. Tất nhiên ở đây phải được hiểu với nghĩa tương đối.
Tương tự, trong cuộc sống đời thường và bình dân, người ta chỉ thăm viếng nhau vì quý mến nhau, thương yêu nhau, thân thiện với nhau, chứ chẳng có ai ghét nhau mà lại đến thăm nhau. Khi thăm viếng nhau còn có mục đích là an ủi nhau và giúp đỡ nhau, đặc biệt là đối với các bệnh nhân, người già yếu, người khuyết tật, người gặp hoạn nạn, các thai phụ,… Nói chung, quá trình đó cần phải được bắt đầu từ đức ái: thấy thương thì thăm (4T) và thân tình thì thăm (4T), và hai điều đó đúc kết thành 4T: Tình Thương Thành Thật.
Một loạt mẫu tự “tê”, có thể là “tê” bình thường mà cũng có thể là “tê” thật, bởi vì thực hành được 4T đó không hề đơn giản. Để có thể thăm viếng nhau chân tình, người ta phải có lòng khiêm nhường thực sự, đúng như mầu nhiệm thứ hai trong Mùa Vui của Kinh Mân Côi: “Đức Mẹ thăm viếng Thánh Isave, xin cho con được LÒNG KHIÊM NHƯỜNG”. Điều cầu xin đó thực sự cần thiết, bởi vì đức khiêm nhường rất quan trọng và là nên tảng của mọi nhân đức, là viên đá góc của tòa nhà nhân đức. Đức khiêm nhường là “ông vua” đối nghịch với “quỷ vương” là thói kiêu ngạo.
Là tín nhân Công giáo, ai cũng biết rằng Đức Maria là một thôn nữ nghèo, nhưng sống nhu mì và dễ thương, bởi vì thục nữ Maria luôn sống khiêm nhường, đồng thời còn là một thụ tạo đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Thân Mẫu của Đấng Cứu Thế. Đức Mẹ là một con người vô cùng đặc biệt, Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ để làm gương sáng cho chúng ta soi vào hằng ngày.
Nàng Maria vô cùng bối rối khi được Sứ thần Gáprien truyền Tin Vui. Biết thế nên Sứ thần liền trấn an: “Thưa bà Maria, XIN ĐỪNG SỢ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Đức Mẹ còn rất trẻ nhưng được tôn xưng là “bà”, chứng tỏ Đức Maria rất đáng kính trọng: “Đức Nữ rất đáng kính chuộng, Đức Bà là Đấng trọng thiêng, Đức Bà là Đấng đáng tôn trọng” (Kinh Cầu Đức Bà). Vừa nghe sứ thần nói mình sẽ làm mẹ, Đức Maria “giật thót mình”, thế nhưng sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35), đồng thời sứ thần còn dẫn chứng cụ thể về một thai phụ mang tiếng là son sẻ mà lại đang mang thai là bà Êlidabét (Isave), người chị họ của Đức Maria. Sứ thần xác định rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37). Thế thì không có gì lo lắng nữa, cũng chẳng đắn đo chi cả, Đức Mẹ chấp nhận ngay (Lc 1:38). Nhân đức chồng lên nhân đức, ân phước chồng lên ân phước. Quả thật, Trinh Nữ Maria vượt trên cả sự tuyệt vời!
Từ thuở xa xưa, chính Thiên Chúa cũng đã từng động viên các cô gái trẻ: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao? Lý do còn hơn cả sự tuyệt vời: “Này Sion, ĐỪNG SỢ, chớ kinh hãi rụng rời! Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Cả Cựu Ước và Tân Ước, mệnh lệnh cách “đừng sợ” được nhắc tới nhiều lần để động viên mọi người. Khi chúng ta “không sợ” là lúc chúng ta bắt đầu có sự can đảm, có can đảm thì có sức mạnh, có sức mạnh là có Chúa Thánh Thần. Thật kỳ diệu quá chừng! Chúa Thánh Thần hoạt động rất tinh vi, liên lỉ tác động để hướng chúng ta về Thiên Chúa.
Lòng can đảm rất cần thiết. Khi có lòng can đảm, người ta có thể làm được nhiều thứ, như Thánh Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi làm gì cũng được”. Một trong các vấn đề nòng cốt là thực thi đức ái, nhân đức quan trọng trong Kitô giáo – và cả trong đời thường, bởi vì ai cũng muốn yêu và được yêu. Thế nhưng phải luôn cảnh giác, bởi vì Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Bác ái đa dạng và có nhiều mức độ, phải thực sự can đảm mới có thể thực hiện. Không dễ chút nào cả, coi bộ “căng” dữ nghen!
Không chỉ có vậy, Thánh Phaolô còn giải thích thêm về đức ái: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12:12-17). Xem ra có vẻ “dài dòng”, nhưng phải vậy thôi, và nếu để ý mà “nuốt lấy” từng chữ, từng ý, có thể chúng ta sẽ cảm thấy “nhức đầu” chứ chẳng đơn giản như chúng ta tưởng đâu!
Trình thuật Lc 1:39-56 kể lại cuộc thăm viếng của Đức Maria dành cho Bà Chị Êlidabét, Giáo Hội gọi đó là lễ Đức Mẹ Thăm Viếng (Visitatio Mariæ). Có điều đặc biệt: Lễ này không chỉ được mừng kính trong Công giáo Rôma, mà cả trong Chính Thống, trong một phần Anh giáo và Tin Lành.
Thánh sử Luca cho biết rằng, sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria VỘI VÃ lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được ĐẦY TRÀN THÁNH THẦN, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật CÓ PHÚC vì đã TIN rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).
Thật lạ lùng, cái PHÚC chẳng ở đâu xa xôi mà ở rất gần, ngay trong mỗi con người, tức là do chính mình – nếu thành tâm TIN thực sự. Tuy nhiên, có điều cần lưu ý lời của Thánh TS Teresa Avila: “Tin mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng tưởng mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo”. Kể ra cũng nhiêu khê, một khoảng rất mong manh giữa TIN và TƯỞNG, rất dễ lầm tưởng đấy!
Hai chị em cùng hân hoan hàn huyên tâm sự. Sau khi nghe Chị Isave bày tỏ niềm hạnh phúc vì “được Mẹ Thiên Chúa đến thăm”, Đức Maria vang lời chúc tụng Thiên Chúa bằng “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat, Lc 1:45-55), một bài Thánh Ca độc đáo, bất hủ, không tín nhân nào lại không biết.
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Trong bài Thánh Ca này, Lòng Chúa Thương Xót đã được Đức Mẹ đề cập chứ không phải ngày nay mới được nói tới – từ khi Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh Nữ tu Faustina và thiết lập lễ Lòng Chúa Thương Xót (CN II PS). Và Thánh sử Luca cho biết rõ ràng: “Dì Maria ở lại với Bác Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56).
Qua Kinh Thánh, chúng ta biết rằng khi Đức Maria thụ thai, bà chị Êlisabét cũng đã có thai được sáu tháng. Đức Maria ở lại với chị Êlisabét khoảng ba tháng, vậy là bà chị Êlisabét sắp đến ngày khai hoa nở nhụy. Trong những ngày cuối thai kỳ, phụ nữ rất cực khổ và mệt mỏi, thế nên rất cần sự giúp đỡ của người thân. Lúc này, Đức Maria đã đến tháng thứ ba của thai kỳ, chắc hẳn cũng mệt mỏi, nhưng Đức Maria vẫn giúp đỡ người chị của mình với lòng khiêm nhường và yêu thương chân thành. Đó là bài học vô giá mà Đức Mẹ muốn truyền thụ cho chúng ta về điều kỳ diệu trong cuộc sống: Tình Yêu Thương. Vâng, đức ái (đức mến, tình mến, lòng mến) vô cùng quan trọng – quan trọng cả đời này và đời sau (x. 1 Cr 13:13). Tình Yêu Thương bất tử, còn mãi mãi…
Cùng với Đức Mẹ, ước gì cuộc đời của mỗi chúng ta luôn là bản Tình Khúc Ngợi Khen kính dâng Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh.
Lạy Thiên Chúa là tình yêu vĩnh hằng, thật diễm phúc khi chúng con được Ngài trao ban một Người Mẹ tinh tuyền là Đức Trinh Nữ Maria. Xin giúp chúng con biết noi gương và yêu mến Đức Mẹ, biết nhìn mọi người bằng ánh mắt nhân ái. Xin Chúa biến chúng con thành khí cụ bình an trong Đại Gia Đình Đa Đồng Đường của Ngài.
Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng con xin chúc tụng Mẹ và tận hiến cuộc đời cho Mẹ. Xin Mẹ đồng hành, hướng dẫn và che chở chúng con suốt đời, xin dẫn chúng con về gặp Con Yêu của Mẹ. Xin Mẹ thương Nước Việt bé nhỏ của chúng con và những đất nước gặp hoạn nạn – tinh thần và thể lý. Xin Mẹ biến đổi tà tâm thành thiện tâm để cả thế giới cùng tận hưởng nền tự do đích thực, vui sống trong công lý và hòa bình viên mãn của Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
28. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế–Lm. Hồng Phúc
Chỉ còn mấy hôm nữa là đến Lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn và thể xác để đón mừng Chúa. Chúa chỉ đi vào lịch sử có một lần, nhưng Chúa còn đến trong tâm hồn chúng ta nhất là trong những kỷ niệm này.
Thánh Phaolô nói: Ngài đến sinh ra bởi một người Nữ (Gal. 4, 4). Nhân vật nêu gương cho chúng ta hơn cả trong việc chuẩn bị đón ngày Chúa đến là Đức Mẹ, người Nữ diễm phúc được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Loài người không lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Trời và đất đã gặp nhau trong cung lòng Trinh nữ. Mẹ đã trở nên Hòm bia thánh mang ơn cứu độ cho nhà Israen. Luca viết: “Maria chổi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi” đến thăm bà chị họ Isave. Mẹ đến mang tình bác ái, giúp đỡ một người đang cần sự giúp đỡ. Mẹ đến mang ơn cứu độ cho Gioan mà cuộc đời sẽ mật thiết liên hệ với con Mẹ.
Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ như cảm động nhận ra Đấng đến với mình. Thiên thần đã loan báo: “Từ trong lòng mẹ, trẻ ấy sẽ được đầy Thánh Thần” (Lc. 1, 15). Con hân hoan thì Mẹ cũng vui mừng vì được “Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, như “song lộc triều nguyên” dâng lời cảm tạ.
Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” – Magnificat (Lc. 1, 46-56).
Tất cả sự cao trọng của Mẹ, như lời Bà Chị nói, là “đã tin rằng lời Chúa phán sẽ được thực hiện”. Mẹ sống nội tâm, luôn luôn đón nhận Lời Chúa, mau mắn thi hành trong tinh thần đức Tin và phó thác. Đó là bài học cho chúng ta khi suy niệm đoạn Phúc âm “Thăm viếng” này.
Đức Mẹ và Thánh Giuse đang ở Nagiaret, một làng bé nhỏ miền Bắc Do-thái. Mẹ mong chờ ngày con sinh ra như các bà mẹ mong chờ con, nhưng Mẹ càng mong chờ và Mẹ biết rằng con đến là ơn cứu độ đến với nhân loại. Mẹ sống hoàn toàn phó thác và trông cậy vì Mẹ biết rằng 800 năm về trước, nhà tiên tri Michê (trong bài đọc I) đã tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ ở Bêlem, một thị trấn miền Nam cách đó đến 4, 5 ngày đàng. Nhưng, việc Chúa thì Chúa lo. Và Chúa đã dùng một ông vua chọc trời khuấy nước, ra một sắc lệnh kiểm kê dân số, một sắc lệnh có tính cách phô trương nhưng ngầm thực hiện ý nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse và Đức Mẹ thuộc chi họ Đavit quê ở Bêlem nên phải về đó khai sổ bộ. Thế là hai ông bà lên đường. Có lẽ Giuse kiếm được con lừa và ngồi trên lưng lừa do Giuse hướng dẫn, Mẹ ra đi, cà tật cà tang, hướng về Giêrusalem. Đường dài 150 cây số.
Mỗi khi có dịp về xứ Giuđêa, mọi người Do-thái đạo đức đều ghé qua Giêrusalem kính viếng Đền thờ. Hai ông bà hẳn cũng đã làm như vậy, rồi trực chỉ Bêlem cách thủ đô 8 cây số về phía Nam.
Trời đã về chiều. Luca viết: “không có chổ cho hai ông bà trong quán trọ” (2, 7). Quán trọ ở đây theo tập tục Do-thái, là một khu vườn có giếng nước trong có căn nhà lộ thiên cho du khách nghèo ngủ qua đêm. Giuse thấy không tiện để Đức Mẹ trong quán công cộng vào một lúc quan trọng nhất của đời người đàn bà, nên đã tìm về những hang đá tự nhiên ở ngoại ô, nơi có các mục đồng hay lùa chiên vào nghỉ đêm.
“Trong lúc đang ở đó thì Maria sinh hạ con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (2, 6). Mẹ làm lấy mọi tác động, vì Mẹ cưu mang con nhiệm lạ thì cũng sinh con mà không tổn thương sự khiết trinh, cũng như ngày kia, Con Mẹ sẽ ra khỏi mồ đóng ấn niêm phong. Rồi Mẹ đặt con nằm trong máng cỏ gối quì thờ lạy, làm cái việc xa xưa nay chưa ai từng làm là thờ lạy Con. Vì “Mẹ sinh ra Con nhưng Con là Cứu Chúa của Mẹ”. (Thánh Ephrem).
Lạy Chúa, xin đến lại trong tâm hồn con, để con được đón Chúa bằng bàn tay dịu hiền, bằng trái tim nồng cháy của Mẹ.
29. Đức Maria Viếng Thăm Bà Êlisabét–Lm Fx Vũ Phan Long Ofm
1.- Ngữ cảnh
Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, tác giả Lc bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan chào đời (Lc 1,5-25), loan báo Đức Giêsu chào đời (1,26-38) và Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (1,39-56). Truyện thứ ba này giả thiết có hai truyện đầu và bổ sung cho hai truyện đó. Truyện thứ ba này đóng vai trò nối kết hai truyện trước, đặc biệt liên kết cc. 24-25 với cc. 36-37. Đã soạn thảo bài tường thuật về loan báo Gioan chào đời, sau đó, mô phỏng theo bài ấy mà soạn ra bài nói về loan báo Đức Giêsu chào đời, nay tác giả Lc dùng giai thoại Đức Maria đi thăm viếng bà Êlisabét để liên kết truyện hai lời loan báo cách chặt chẽ hơn. Câu truyện ở 1,5-24a được tiếp nối với 1,57-66.
Trong giai thoại trước, sứ thần cho biết: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng [episkiasei] trên bà” (1,35). Tác giả đã mượn lại hình ảnh Đám mây sáng che phủ Nhà Tạm (Xh 40,35: “Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu/rợp bóng [epeskiazen] trên đó, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm”) tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của Yhwh (Đức Chúa) với Israel để nói về Đức Maria lúc này: người được coi như là Hòm Bia Giao ước.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Maria gặp bà Êlisabét (1,39-41);
2) Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (1,42-45):
3.- Vài điểm chú giải
– Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (42): Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào như thế: bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18).
– đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng … Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (41.42.43): Tác giả Lc đã dựa vào 2 Sm 6 (vua Đavít chuyển Hòm Bia về Giêrusalem), 1–2 Sb và sách Giuđitha để viết 1,39-56: Đức Maria là “Hòm Bia giao ước” mới cũng đang di chuyển về phía nam (Giuđa).
2 Sm 6
Lc 1,39-56
Trong xứ Giuđa (2)
Trong xứ Giuđa
Dân vui
Êlisabét và con vui
Đavít nhảy mừng
Gioan nhảy mừng (44)
Dân reo
Êlisabét reo, anephônêsen (42)
Vào nhà Ôvết Êđôm (10)
Vào nhà Dacaria (40)
Hòm Bia: nguồn phúc (11-12)
Maria:nguồn phúc (41.44)
Bởi đâu tôi được Hòm Bia Đức Chúa đến nhà tôi? (9)
Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi? (43)
Ở nhà Ôvết Êđôm ba tháng (11)
Ở với bà Êlisabét độ ba tháng (56)
– Kêu lớn tiếng (42): Động từ anephônêsen (“reo”) chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1 Sb 16,45.42) và đặc biệt trong cuộc di chuyển Hòm Bia (1 Sb 15,28 và 2 Sb 5,13).
– Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (42): Ở đây tác giả đặt song đối Đức Maria với Gđt 13,18-19, như thế ám chỉ Đức Giêsu là Thiên Chúa:
Gđt 13,18-19
Lc 1,42
Bà được chúc phúc…
Em được chúc phúc…
giữa tất cả các phụ nữ
hơn mọi người phụ nữ
Và Đức Chúa là Thiên Chúa
Và quả lòng dạ em cưu mang
được chúc phúc (eulogêmenos)
được chúc phúc (eulogêmenos)
– Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm tác giả Lc nêu ra để chứng tỏ các lời ngôn sứ đã ứng nghiệm: Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabrien hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
– 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Maria được báo tin:
30 ngày x 6 = 180 ngày
– 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời:
30 ngày x 9 = 270 ngày
– 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng:
= 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày
= 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Ít-ra-en”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Malakhi (3,1).
– Em thật có phúc, vì đã tin (45): Nhận định khiến độc giả nghĩ ngay đến Abraham, vị tổ phụ đã mở đầu lịch sử cứu độ bằng hành vi đức tin (x. St 12,1-5).
4.- Ý nghĩa bản văn
Trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét, tác giả Lc cho thấy kinh nghiệm của một người phàm lần đầu tiên hiểu ra điều gì đã xảy ra cho Đức Maria và phản ứng khi hiểu được điều ấy. Ở tại trung tâm, có Thiên Chúa và hoạt động của Người đối với Đức Maria, nơi Mẹ mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã được thực hiện.
* Đức Maria gặp bà Êlisabét (39-41)
Khi đã được biết rằng người chị họ của mình đã mang thai trong tuổi già, Đức Maria đã vội vã đi lên miền núi. Chuyến đi không dễ dàng, nhưng người vẫn vội vã. Có thể nói, với cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, chuyến đi dài được tác giả của tác phẩm hai tập là Lc và Cv trình bày dọc theo tác phẩm, đã bắt đầu. Con Thiên Chúa từ trời đã xuống trần gian, rồi Người đi từ Nadarét lên Giêrusalem, còn các môn đệ của Người sẽ đi từ Giêrusalem, qua Samaria, và đến tận cùng trái đất, tất cả các đấng đều vội vã, dù gặp biết bao khó khăn.
Là Hòm Bia của giao ước mới, Đức Maria mang trong lòng mình “Con Đấng Tối Cao” (1,32), là Đấng mạc khải, là nguồn ơn phúc, là nguyên do đưa lại niềm vui. Đức Maria vội vã đưa Đức Kitô đến với những người khác. Đức Maria đi trong tư cách là người tin vào lời Thiên Chúa qua trung gian sứ thần Gabriel.
* Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (42-45)
Cuộc gặp gỡ với giữa Đức Maria với bà Êlisabét nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa người với sứ thần Gabriel: cả hai vị đều nhận định người đầy ơn phúc. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người; phúc lành của Thiên Chúa tiếp tục ở trên người. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người cùng với hoa quả lòng người. Phúc lành của Thiên Chúa là quyền lực và sức mạnh làm cho có thể có sự sống và bảo tồn sự sống. Đức Maria là người “được chúc phúc” theo cách đặc biệt: quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa đã làm cho người có khả năng chuyển thông sự sống nhân loại cho Đức Giêsu: Người là Con Thiên Chúa, cũng là
Chúa tể sự sống, sẽ chiến thắng cái chết và ban sự sống vĩnh cửu. Tiếng kêu lớn của bà Êlisabét là một lời ca tụng hành động của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một nỗi kinh ngạc chan chứa niềm vui đối với Maria, người đã được Thiên Chúa làm cho những việc cao cả như thế.
Bà Êlisabét diễn tả nhận định của bà về cách xử sự của Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. TrongCựu Ước, có hai người phụ nữ được chào bằng những lời này, đó là bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18). Các bà đã đánh bại các đoàn quân áp bức dân các bà. Kinh Thánh không tường thuật những gì các bà đã làm hầu chuẩn nhận cho chiến tranh, nhưng để cho thấy Thiên Chúa có thể làm những việc kỳ diệu bằng cách dùng những con người không phù hợp về phương diện loài người, những con người không có uy lực. Khi ghi nhận bà Êlisabét chào Đức Maria như vậy, tác giả Lcbảo chúng ta rằng Đức Maria thuộc về một hạng người, tuy bị coi là không phù hợp, lại được Thiên Chúa dùng mà đưa lại ơn cứu độ cho chúng ta. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm một việc phi thường nhất trong lịch sử: Ngài ban cho chúng ta Con của Ngài.
Nếu Đức Maria được như thế, thì chỉ do cốt yếu và trước tiên Mẹ là người đã tin. Cách đối xử của Thiên Chúa đối với Đức Maria được diễn tả bằng ân sủng và phúc lành; cách đối xử của Đức Maria đối với Thiên Chúa được diễn tả bằng lòng tin. Đức Maria đã tin vào Thiên Chúa, vào giá trị của lời Người, quyền năng của Người. Đức Maria đã diễn tả niềm tin đó qua tiếng “xin vâng” với sứ điệp của sứ thần. Lịch sử dân Israel mở ra với hành vi đức tin của Abraham; lịch sử cứu độ thế giới mở ra với hành vi đức tin của Đức Maria.
Bà Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (c. 43). Lời này cũng được lấy từ Cựu Ước. Đavít dùng những lời này khi Hòm Bia Giao ước được di chuyển về Giêrusalem. Ông đã reo lên: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2 Sm 6,9). Có những chi tiết khác liên kết cuộc viếng thăm của Đức Maria với Hòm Bia Giao ước. Cả Đức Maria và Hòm Bia ở lại “ba tháng” trong miền Giuđê; Hòm Bia được đón tiếp trong niềm vui và lễ mừng, và đưa phúc lành đến gia đình đã nhận lấy Hòm Bia (2 Sm 6,10-11); khi Đức Maria vào nhà Dacaria, trẻ Gioan (đại diện cho dân Cựu Ước đang trông chờ Đấng Mêsia) đã nhảy lên vui sướng.
Phần Đức Maria, người vẫn tiếp tục sống thân phận nữ tỳ: không chỉ đến thăm bà Êlisabét, nhưng còn ở lại ba tháng, để phục vụ.
+ Kết luận
Bà Êlisabét gặp Đức Maria. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của một con người với mẹ của Đức Chúa như tác giả Lc mô tả, hoàn toàn đơn giản và thanh thoát. Cuộc gặp gỡ này chan hòa niềm tâm tình phấn khởi và niềm vui tươi hân hoan. Bà Êlisabét tự giới thiệu cho chúng ta như là người đã tôn kính Đức Maria trước tiên. Bằng những lời “em được chúc phúc”, “Thân Mẫu Chúa tôi”, “em thật có phúc”, bà phác họa những đường nét chính của dung mạo Đức Maria: công trình của Thiên Chúa nơi người, tương quan của người với Chúa Giêsu Kitô, thái độ của người đối với Thiên Chúa. Tất cả những điều này, bà Êlisabét hiểu được nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng. Cuộc gặp gỡ này đã là cơ hội cho phép bà có một kinh nghiệm hết sức mạnh mẽ và một niềm vui thật chan hòa.
Một điều quan trọng hơn nữa, đó là khi giới thiệu tư cách đặc biệt của Đức Maria, bà Êlisabét không ngờ đang đưa chúng ta đến chỗ đối diện với Đấng mà Đức Maria đang cưu mang trong lòng: Người không những là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Đấng Tối Cao, mà cũng là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.
Đàng khác, tác giả Lc muốn chúng ta thấy Đức Maria như là Hòm Bia Giao ước. Thiên Chúa đã chọn không ở trong một tòa nhà, nhưng ở trong lòng dạ một người phụ nữ.
5.- Gợi ý suy niệm
- Phần thứ nhất của Kinh Kính Mừng hoàn toàn lấy từ Tân Ước, liên kết các lời nói đầu tiên của thiên thần (“Kinh mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”) với những lời nói đầu tiên của bà Êlisabét (“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”). Sứ thần đã gọi Đức Maria là “đầy ơn phúc”; bà Êlisabét đã gọi người là “có phúc lạ” (= được chúc phúc). Cả hai vị đều diễn tả trước hết quan hệ Thiên Chúa tạo ra với Đức Maria, cách thức Người ngỏ lời với Đức Maria. Tất cả những gì người ta có thể nói về Đức Maria tùy thuộc tương quan này. Đức Maria vui sướng được sống trong tương quan này. Chúng ta có sống với lòng biết ơn trong sự lệ thuộc vào Thiên Chúa chăng?
- Đức Maria được bảo là “có phúc” vì người đã tin rằng lời Chúa hứa với người sẽ được hoàn tất (c. 45). Thiên Chúa đã hứa biết bao điều qua các ngôn sứ? Khi thấy rằng các lời hứa của Thiên Chúa chậm được thể hiện, dân nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã đặt niềm tin tưởng vào chính họ, nên đã kết thúc trong thất bại. Đức Maria “có phúc” vì đã tin tưởng vào Thiên Chúa. Mẹ biết rằng cho dù bề ngoài thế nào, Lời Chúa sẽ được thực hiện.
- Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (1,32), Con Thiên Chúa (1,35) và sẽ sinh hạ Người ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như bà Êlisabét đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Êlisabét chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; đồng thời bà biết rằng bà không ở ngang tầm với Thân Mẫu Đức Chúa, nhưng không hề tị hiềm. Bà bày tỏ sự kính trọng đối với Đức Maria. Trong khi đó, Đức Maria, Mẹ Đức Chúa, lại ở lại nhà bà Êlisabét. Sự kính trọng các khác biệt không chống lại sự hiệp thông thân tình và vui tươi.
- “Do mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria chính là điển hình của kiểu sống mà chúng ta phải theo. Trước tiên, người đã đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của người; sau đó, những gì người đã lãnh nhận, người đã chia sẻ. Mỗi lần chúng ta rước lễ, Đức Giêsu là Ngôi Lời trở thành thịt trong cuộc đời chúng ta. Vậy đấy đã là Lễ Tế Tạ Ơn đầu tiên: phần dâng lễ chính là Đức Maria dâng Con của người nơi mình, còn bàn thờ người đã thiết lập là tấm lòng của người. Là người duy nhất có thể khẳng định với một niềm tin tưởng tuyệt đối: “Này là Mình tôi”, kể từ lúc đó, Đức Maria đã dâng chính thân người, sức mạnh của người, toàn thân người, để tạo nên Thân Thể Đức Kitô” (CP. Têrêsa Calcutta).
- Có Chúa trong mình không chỉ là đặc ân dành riêng cho Đức Maria. Mỗi cộng đoàn và mỗi người trong chúng ta phải trở thành như Đức Maria, một “Hòm Bia Giao ước”. Nhiệm vụ của chúng ta là mang Chúa đến cho người khác. Một điều có thể bảo cho biết là chúng ta đang là một “Hòm Bia Giao ước”, đó là niềm vui. Bất cứ đi đâu, Đức Maria đều tuôn đổ niềm vui (x. Lc 1,41.42.45-48). Sự hiện diện của chúng ta có đưa niềm vui đến cho người khác không?
30. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn–‘Tin Mừng Chúa Nhật’
Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca. Vừa gợi lên cuộc lên đường vội vã liền sau đó đã cho thấy lý do. Nếu Đức Maria vội vã lên đường, thì không phải là để tìm xem, lời thiên thần có đúng không, nhưng là để “vui với người vui” và đưa tới ơn phúc Mẹ giúp đỡ. Mẹ Thiên Chúa đã trở nên đấng trung gian các ơn phúc. Miền núi, cuộc hành trình hướng về đây là dãy núi miền cao nguyên Giuđa, kéo dài từ vùng Samari. Ngày nay không ai biết rõ đích xác thành phố mà Maria nhằm tới, một truyền thống đã có trước thời thập tự quân cho là đất làng Ain-Karim ngày nay. Làng này cách thủ đô Giêrusalem khoảng bảy cây số về phía tây. Khách hành hương nay tới kính viếng một nhà nguyện mang tên Thăm viếng. Từ Nadaret, phải bốn ngày đường mới tới nơi.
Lời chào thăm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa hướng về người được nhận lời chào, vì vừa nghe lời chào thai nhi trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng và bà được tràn đầy Thánh Thần. Sự nhảy mừng này có một cái gì khác hẳn với sự cựa quậy của một thai nhi vào những tháng cuối cùng khi bà mẹ có một xúc động bất ngờ. Vì sự xúc động của Elizabeth không phải là nguyên nhân mà là kết quả của sự nhảy mừng của thai nhi Gioan. Thai nhi nhảy mừng vì tác động của ơn Chúa, là điều mà thiên sứ đã báo trước: “Con trẻ sẽ được đầy dẫy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15), mà được thánh hoá nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Sau thai nhi, bà mẹ Elizabeth cũng được đầy tràn Thánh Thần, và lập tức bày tỏ niềm cảm xúc chẳng những bằng những lời được linh hừng mà còn bằng cả giọng nói xúc động. Vì bà nói lớn với Maria: “Em là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ, và thai nhi trong lòng em là phước hạnh lớn lao”. Như thế bà đã diễn tả hai lời chúc phúc song song mà thiên sứ Gáprien đã nói với Đức Maria trước đó. Bà ca tụng cô em, đặt cô cao trọng hơn tất cả trong giới phụ nữ. Bà cũng cho thấy, ngay cả khi cô em chưa nói gì, bà đã biết Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế. Bà kính tặng cho thai nhi chưa được sinh ra danh hiệu “Chúa”, danh hiệu mà Thánh Vịnh áp dụng cho Đấng Mêsia trông đợi. Thật vậy, và đã thêm: “Thật vinh hạnh cho tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm”. Bà không chút nghi ngờ gì về điều đã xảy ra trong lòng cô em Maria và bà đã thấy rõ dấu chỉ: “Vì vừa nghe lời em chào, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy mừng”. Như thế bà cho biết có mối liên hệ lệ thuộc giữa thai nhi Gioan nhảy mừng với chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, bà bày tỏ đây là “hãy nhảy mừng”, và còn hơn cả cảnh núi đồi nhảy mừng mà Thánh Vịnh đã diễn tả trước sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, vì đây là một thai nhi nhảy mừng vì được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Thế nào những lời ca tụng vừa đưa ra, bằng một kiểu kết điểm Elizabeth chúc phúc: “Thiên Chúa ban phúc cho em, vì em tin lời Ngài hứa sẽ thành sự thật”.
Qua đoạn Lời Chúa này, chúng ta học được gương yêu thương của Đức Maria:
Vừa mới thưa với Chúa: “Tôi là tôi tớ của Chúa” Đức Maria đã hành động như thể là tôi tớ của loài người. Ngay sau khi được loan báo được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria lên đường là vì muốn giúp đỡ và chia vui với người chị già. Qua lời loan báo, sứ thần cho thấy bà Elizabeth đang cần được giúp đỡ, vì bà sắp sinh con. Trong sứ điệp, sứ thần không bảo phải đi, chỉ gợi cho thấy. Thế là Maria thu xếp sẵn sàng ra đi, không để chậm trễ.
Dầu Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khoẻ nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, phải ít nhất bốn ngày dòng dã mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do để mà từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản được Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria quét sạch mọi chần chừ và lưỡng lự đó. Từ xưa, Đức Maria đã quen quan tâm đến người khác hơn nghĩ đến chính mình, thì lúc này, Mẹ cũng không phải đo lường cân nhắc sự bất tiện của chuyến đi xa, Mẹ chỉ nghĩ đến việc cần giúp đỡ bà chị già, và cứ như thế, Đức Maria lên đường.
Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn nghĩ tới chính mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xảy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nãi ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.
Lại còn phải tránh cho ta những tính toán ích kỷ, những điểm tựa để khỏi phải giúp đỡ tha nhân, thay vì sáng kiến để tránh khỏi, hãy tìm cách làm nhẹ gánh nặng cho tha nhân, để giúp đỡ họ.
Thay vì phải ép lòng giúp đỡ vì không thể tránh được, hãy biểu lộ thái độ mau mắn thực sự. Mong ước sao ta luôn ở tư thế sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ.
Nhưng phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.
Chúa Giêsu rất yêu thương các môn đệ ở trần gian, Chúa Giêsu biết rõ Chúa Cha đã trao mọi quyền hành cho Ngài… Vì thế, Chúa đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn quấn ngang lưng, Chúa đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1.3). Giờ đây chúng ta thấy Mẹ Chúa, người vừa được thiên sứ báo tin được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, người tự tình đi làm đầy tớ bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ Người biết Thiên Chúa đã ban cho Người địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả các phụ nữ Israel, một địa vị mà không một người phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Mẹ tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.
Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Mẹ không muốn tỏ ra nhân vật quan trọng, dầu Mẹ quan trọng nhất trong các tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một người thiếu nữ đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng. Mẹ làm những công việc đó cho bà chị già như là làm cho Chúa. Mẹ luôn tỏ ra nhỏ bé để dường như Elizabeth không lấy làm ngại ngùng khi nhờ Mẹ làm bất cứ việc hèn hạ nào. và Mẹ không đặt một giới hạn nào cho tình yêu Chúa, Mẹ cũng không có một hàng rào cho tình yêu tha nhân. Không bao giờ Mẹ thấy một việc nào là quá thấp, là quá thường, quá hèn hạ. Mẹ đã làm với tất cả sự vui vẻ dường như không có ai nhận ra sự vất vả và đôi khi ghê tởm mà Mẹ đã phải âm thầm khắc phục. Với nụ cười của niềm vui buổi gặp gỡ đầu tiên, Mẹ đã duy trì gìn giữ bên trong nhà người thân này.
Thái độ mau mắn sẵn sàng giúp đỡ đó, chẳng phải chỉ giới hạn nơi nhà bà Elizabeth, tất cả những ai cần được giúp đỡ, Mẹ rất sẵn sàng, trong điều kiện và thời giờ cho phép. Ngay từ đó Đức Maria đã biết từng hoàn cảnh mà “làm tôi thiên hạ”. Thái độ đó đối với chúng ta, cũng như hẳn xưa kia đối với bà Elizabeth, luôn là đối tượng của lòng ngưỡng mộ kính yêu. Ngày nay chữ tôi tớ đã mang một ý nghĩa hèn kém hạ giá, không dám dùng, và nhất là thực hiện ý nghĩa của từ ấy. Ước chi chúng ta cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ tha nhân.
Chúng ta phải khó khăn lắm mới thực hiện được giáo huấn của Đức Kitô: Ai lớn nhất hãy làm như người nhỏ nhất, ai làm đầu phải hầu thiên hạ. Gương Đức Maria còn đó để khích lệ: ai là đầu, ai có phúc hơn mọi người nữ, thế mà Mẹ trở nên bé nhỏ, trở nên rốt hết. Ai dám thống trị kẻ khác khi thấy gương Mẹ tự tình phục vụ như thế?
Mẹ cũng dậy nghệ thuật phục vụ trong những công việc tầm thường, tự chọn lấy cho mình những công việc nhọc nhằn, tởm gớm, tự tình thi hành với nét mặt vui tươi. Đã từng có một người tớ nữ không hề than trách công việc đè nặng trên vai, không bao giờ càu nhàu trong công tác phục vụ, đó là gương mẫu cho chúng ta!
Ngày nay trong vinh quang thiên quốc, Mẹ vẫn ân cần giúp đỡ tất cả mọi người, chúng con vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Mẹ, và Mẹ kêu gọi chúng ta cộng tác với Mẹ trong việc giúp đỡ mọi người.
31. Lên đường vì yêu–Lc 1,39-56
Hôm nay, Giáo hội kỷ niệm cuộc thăm viếng của Đức Maria đến với bà chị họ E-li-za-beth. Ngay khi nhận được lời truyền tin của Sứ thần, Đức Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu thế, và người chị họ của Mẹ cũng đang cưu mang một người con trai do quyền năng và tình thương của Chúa ban cho, Mẹ đã vội vã lên đường đi thăm bà chị ho của mình, một cuộc thăm viếng thánh thiện và mang nhiều ý nghĩa cao quý.
Vấn đề được đặt ra là tại sao Đức Maria lại vội vã lên đường trong cuộc thăm viếng này như thế? Có phải Đức Maria muốn ra đi để xác minh lời Sứ thần nói về bà E-li-za-beth có đúng sự thật hay không? Câu trả lời chắc là không, vì Đức Maria đã tin ngay từ đầu rồi. Bởi thế mà bà E-li-za-beth mới nói với Đức Maria rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 45). Mẹ không bao giờ nghi ngờ bất cứ điều gì Chúa đã nói với Mẹ qua miệng của Sứ thần cả. Vậy thì có phải Đức Maria muốn gặp bà chị họ để khoe niềm vinh dự là mình được chọn là Mẹ Đấng Cứu thế không? Cân trả lời cũng là không phải thế. Vì Mẹ là một người rất khiêm hạ, tự xưng mình mình là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38). Cho nên, đối với Mẹ chắc không hề có chuyện đi khoe khoang hay kiếm tìm vinh dự cho mình. Ta thấy rõ là khi Đức Maria được bà E-li-za-beth ngợi khen “em thật có phúc” và “bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm”, thì Đức Maria đã quy những lời tán dương, ca ngợi ấy về Thiên Chúa ngay lập tức: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà E-li-za-beth trở thành một dịp cho hai bà mẹ diễm phúc ca tụng Thiên Chúa hết lòng. Ai cũng nhận ra được rằng, mình đã được Thiên Chúa yêu thương cách lạ lùng, vượt sức tưởng tượng hay ước muốn: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1, 49). Hai bà mẹ cảm nghiệm niềm hạnh phúc đã ngập tràn trong tâm hồn và không còn dám ước mơ gì hơn, bởi lẽ Thiên Chúa đã đong đầy tâm hồn của các ngài những niềm vui thánh thiện.
Cuộc ra đi vội vã của Đức Maria đến nhà bà E-li-za-beth chỉ đơn thuần là một cuộc thăm viếng như bao cuộc thăm viếng khác mà thôi. Đức Maria ý thức rằng, người chị họ E-li-za-beth đang rất cần sự trợ giúp vì bà E-li-za-beth mang thai trong lúc tuổi già và sắp sinh con. Đức Maria vội vã đến với bà E-li-za-beth chỉ vì muốn giúp người chị họ của mình một tay trong lúc sinh con mà thôi. Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang đầy tình tương thân tương ái trong đó. Đó cũng là bài học cho chúng ta hôm nay. Chúng ta có ý thức sự bối rối, neo đơn của người khác để sẵn sàng và vội vã đến với họ không? Hay trong xã hội náo nhiệt này, chúng ta chỉ biết sống cho mình: “đèn nhà ai nấy sáng” hay “sống chết mặc bây”.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria còn là việc mang Chúa đến cho gia đình bà E-li-za-beth nữa. Như xưa, Hòm Bia Thiên Chúa lưu lại 3 tháng tại nhà ông Ôveđ Êđom và Chúa đã ban cho gia đình ông rất nhiều phúc lộc, thì việc lưu lại 3 tháng của Đức Maria với Chúa Giêsu trong lòng cũng mang lại bình an và niềm vui cho gia đình ông Dacaria rất nhiều. “Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào , thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 43-44). Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng cứu thế của Ngài trước khi sinh ra: Ngài đã thánh hoá Gio-an Tẩy giả ngay lúc còn trong bụng mẹ. Và Gio-an cũng đã thi hành sứ vụ tiền hô của mình là nhảy mừng khi Đấng Cứu Thế đến.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria đến với bà E-li-za-beth là lời mời gọi chúng ta hãy nhìn lại chính mình: Chúng ta có biết mang Chúa, mang bình an và niềm vui đến cho những người chúng ta gặp gỡ không? Mục đích những cuộc thăm viếng của tôi đến với người khác là gì? Có cần thiết cho tôi và cho họ không…?
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy cho chúng con biết quan tâm đến người khác và không ngừng khao khát mang Chúa đến cho người khác với tâm hồn thanh khiết như Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng biết trở thành những sứ giả mang bình an, niềm vui và hạnh phúc đến cho những người chúng con gặp gỡ. Amen
32. Đức Mẹ Thăm Viếng–Trầm Thiên Thu (từ CatholicCulture.org)
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng nhắc nhở chúng ta về các sự thật và sự kiện này: Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Êlidabet ngay sau khi được Sứ thần truyền tin; Thánh Gioan Tẩy giả khỏi tội Nguyên tổ khi còn trong lòng mẹ, lúc Đức Mẹ cất tiếng chào; Elizabeth’s proclaiming of Mary – theo linh hứng của Chúa Thánh Thần – là Mẹ thiên chúa và “được chúc phúc giữa các phụ nữ”; Thánh ca siêu phàm Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Chúa) trở thành một phần trong lời cầu nguyện chính thức của Giáo hội. Sự Thăm Viếng thường được mô tả trong nghệ thuật và là mầu nhiệm trung tâm trong các sự sùng kính của Thánh Phanxicô Salê.
LỊCH SỬ
Lễ này kính chào Đức Mẹ đã mang trong lòng chính Vua Trời Đất, Đấng Tạo Tác thế gian, Con Thiên Chúa, Mặt Trời Công Chính. Đức Maria được diễm phúc làm “Mẹ Thiên Chúa” và nhận biết hồng ân xuống trên Thai nhi Gioan, Đức Mẹ đã thốt lên lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:46-49).
Lễ này có nguồn gốc từ Thời Trung Cổ, được Dòng Phanxicô duy trì từ trước năm 1263, và mau chóng lan truyền khắp Giáo hội hoàn vũ. Trước đây, lễ này kính vào ngày 2 tháng Bảy. Nay được cử hành vào khoảng giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả, phù hợp với trình thuật Phúc Âm. Một số nơi mừng lễ này theo thực tế và thánh hóa các thai nhi. Phụng vụ sử dụng màu Trắng.
Theo Sách lễ năm 1962 thời Chân phước GH Gioan XXIII, hôm nay là lễ Đức Maria Trinh Vương và Thánh nữ Aurelia Petronilla. Ngày nay, lễ Đức Maria Trinh Vương được cử hành vào ngày 22 tháng Tám. Thánh Aurelia Petronilla được Thánh Phêrô, giáo hoàng tiên khởi, hướng dẫn vào đức tin. Bà qua đời sau ba ngày từ chối kết hôn với Flaccus, một nhà quý tộc ngoại giáo. Không có chứng cớ lịch sử về việc bà tử đạo, nhưng một bức bích họa (fresco) thời sơ khai cho thấy bà chịu tử đạo. Ngày nay, lễ Thánh Aurelia Petronilla không còn trong lịch phụng vụ.
THĂM VIẾNG
Cuộc thăm viếng bắt đầu: “Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1:39). Như một bài thơ trữ tình mở đầu cách diễn tả của Thánh sử Luca về cuộc thăm viếng. Chúng ta có thể cảm thấy ấm lòng và thánh thiện, lòng yêu thương gấp rút đã thúc đẩy Thục Nữ Maria băng qua núi đồi để đến với người chị họ. Trái tim Đức Mẹ đã đập nhịp đập của Đức Kitô.
Nhiều phụ nữ, nếu đang mang thai, sẽ từ chối đi trên con đường gập ghềnh để có thể bày tỏ lòng tử tế với người khác. Họ sẽ nói rằng họ có trách nhiệm với chính mình và thai nhi trước khi làm điều gì hoặc đến với người khác, sợ “động thai”. Nhưng Mẹ Thiên Chúa không đắn đo những điều như vậy. Thánh Êlidabet cũng sẽ sinh con, và dù Con Trẻ trong lòng Đức Mẹ là Thiên Chúa, Đức Mẹ vẫn không thể làm ngơ nhu cầu cảu Thánh Êlidabet – hầu như không thể tin được đối với chúng ta, nhưng đó là tính cách của Đức Mẹ.
Đức Mẹ chào Chị Êlidabet, và vừa nghe lời chào, con trẻ Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Ngay cả trước khi sinh ra, sự hiện diện của Ngài đã đem lại Sự Sống.
Làm sao Thánh Êlidabet biết điều gì đã xảy ra với Đức Mẹ? Điều gì làm Thánh Êlidabet nhận biết Cô em họ cũng đang mang thai như mình, là Mẹ Thiên Chúa? Thánh Êlidabet biết điều đó nhờ con trẻ trong lòng mình, khi con trẻ nhảy mừng trong lòng. Nếu chúng ta thực hành việc suy niệm này, chúng ta sẽ có kinh nghiệm như Thánh Êlidabet.
Nếu Đức Kitô lớn lên trong chúng ta, nếu chúng ta bình an, hồi tưởng, vì chúng ta cho rằng điều đó quan trọng, Ngài sẽ lớn mạnh trong chúng ta; nếu chúng ta nhiệt thành, “vội vã” đến nơi nào đó theo sự thúc giục trong lòng, vì chúng ta tin Chúa Giêsu muốn chúng ta có mặt ở nơi đó, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta được thúc đẩy càng ngày càng nhiều để mà hành động theo sự thúc đẩy theo xung động tình yêu của Đức Kitô. Chúng ta sẽ có câu trả lời theo các xung động này, chúng ta sẽ được đánh động và vui mừng.
Thánh Êlidabet là bổn mạng các thai phụ. Biểu tượng: Thánh Êlidabet chào mừng Cô em Maria, một phụ nữ luống tuổi đang mang thai Thánh Gioan Tẩy giả, Thánh Êlidabet đồng hành với Thánh Dacaria.
Những việc cần làm:
– Đọc Lc 1:39-47, câu chuyện về Cuộc Thăm Viếng. Suy niệm những lời trong kinh Magnificat và kinh Kính Mừng, hai lời cầu nguyện của lễ này. Với những người có con cái, tùy theo tuổi tác, hãy tổ chức một buổi cầu nguyện chung, và rồi cùng thảo luận về ý nghĩa hai lời cầu nguyện này như một gia đình.
– Lễ này nhắc chúng ta sống bác ái với những người hàng xóm và với mọi người. Hãy giúp đỡ mẹ (dù đang mang thai hay không), hãy giúp đỡ người già và các bệnh nhân, nếu có thể thì hãy mời một người nghèo đến cùng dùng bữa với gia đình,…
33. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng– Lm. Anthony Trung Thành
Lịch sử cứu độ là lịch sử của những cuộc viếng thăm. Đó là những cuộc viếng thăm giữa Thiên Chúa và dân Người. Thật vậy, sau khi hoàn tất công trình tạo dựng, Thiên Chúa không bỏ rơi con người nhưng luôn viếng thăm để ban ơn và có khi để khiển trách, trừng phạt con người. Khi Adong Evà phạm tội, Ngài viếng thăm để ra hình phạt đồng thời để hứa ban Đấng Cứu Độ (x. St 3,1-24). Rồi, Ngài viếng thăm dân Ngài qua các ngôn sứ và các vị lãnh đạo dân Do Thái: Ngài viếng thăm và thi ân giáng phúc cho ông Ab-ra-ham và hứa sẽ làm cho dòng dõi ông nên đông đúc như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển (x. St 22,17); Ngài viếng thăm Mô-sê qua bụi gai bốc cháy để truyền lệnh cho ông giải thoát dân Is-ra-el ra khỏi đất Ai-cập (x. Xh 3, 1-12); Ngài ở với ngôn sứ Giê-rê-mi-a để cứu sống và giải thoát (x. Gr 15,20) và Ngài luôn đồng hành với các ngôn sứ để truyền cho họ nói Lời của Ngài cho dân chúng; Cuối cùng, chính Ngài đã viếng thăm nhân loại qua chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã viếng thăm gia đình ông Gia-ca-ri-a qua trung gian Đức Maria. Cuộc viếng thăm này có hai chiều kích đặc biệt: chiều kích thứ nhất là chiều kích chia sẻ. Mẹ Maria mang Chúa đến để chia sẻ với bà chị họ. Nhờ đó, Thánh Gioan Tẩy Giả được khỏi Tội Nguyên Tổ ngay từ trong lòng Bà Ê-li-sa-bét. Chính bà Ê-li-sa-bét đã vui mừng thốt lên rằng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 43-45). Chiều kích thứ hai là chiếu kích phục vụ. Tin mừng cho biết, Mẹ Maria”ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Khi Mẹ đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét thì bà đã cưu mang Gioan được sáu tháng. Mẹ ở lại đó ba tháng, tức là những tháng cuối cùng trước khi bà Ê-li-sa-bét hạ sinh. Đây là những ngày tháng khó nhọc vất vả nhất của người phụ nữ mang thai. Mẹ biết được như vậy, nên Mẹ đã tự nguyện ở lại đó để chăm sóc, phục vụ, giúp đỡ bà chị họ. Điều đó thể hiện tinh thần thăm viếng mang chiều kích phục vụ của Mẹ.
Về phần Đức Giêsu, sau thời gian sống ẩn dật tại làng quê Na-za-rét, Ngài bắt đầu hành trình truyền giáo là bắt đầu những cuộc viếng thăm: Ngài đi khắp mọi nơi và gặp gỡ mọi người để biến đổi và chữa lành họ; Ngài viếng thăm ông Gia-kêu khi ông đang ngồi trên cây sung; Ngài viếng thăm ông Lê-vi tại bàn thu thuế; Ngài viếng thăm gia đình La-za-rô và cho ông đã chết Bốn ngày được sống lại; Ngài viếng thăm và chữa lành cho mẹ vợ của ông Phê-rô…Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma qủi kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người (x. Cv 10, 36-38). Tin mừng còn cho biết: Nhờ Ngài mà kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, kẻ mù được xem thấy, kẻ câm nói được, kẻ chết sống lại, kẻ nghèo khó được nghe Tin mừng. Chắc chắn Mẹ Maria cũng đồng hành với Chúa Giêsu trên mọi nẻo đường truyền giáo để thăm viếng, an ủi tất cả mọi hạng người trong xã hội. Đặc biệt, Mẹ có mặt tại tiệc cưới Cana để khẩn cầu Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu ngon giúp cho gia chủ trong lúc bế tắc. Mẹ hiện diện dưới chân Thánh giá để lãnh nhận sứ mạng làm Mẹ loài người. Sau khi về trời, Mẹ còn thăm viếng loài người bằng những lần hiện ra nơi này nơi khác như ở Lộc Đức, ở Fatima, ở Lavang…Còn Đức Giêsu, sau khi Phục Sinh, Ngài còn hiện ra nhiều lần nhiều nơi để viếng thăm và cũng cố đức tin cho các Tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên. Có thể nói, những cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và của Đức Maria là mẫu mực cho các cuộc viếng thăm giữa con người với nhau qua mọi thời đại. Đó là những cuộc viếng thăm đem lại niềm vui, tình thương và ơn cứu độ.
Các Tông đồ lãnh nhận sứ mạng Đức Giêsu trao phó, tiếp tục ra đi đến với muôn dân. Sách Công vụ Tông đồ kể lại các sinh hoạt của Giáo hội sơ khai cho chúng ta thấy điều đó. Các Ngài ra đi khắp mọi nơi để thăm viếng, rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu đã chết và sống lại. Riêng Thánh Phaolô, sau khi trở lại, Ngài đã thực hiện nhiều cuộc hành trình truyền giáo đến với dân ngoại. Nhờ đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập. Từ đó tới nay, Giáo hội không ngừng ra đi để thăm viếng muôn dân: Đó chính là sự “ra đi” của các nhà truyền giáo, các giám mục, linh mục, tu sỹ và giáo dân. Đặc biệt, từ thời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cho tới nay, các Đức Giáo Hoàng thường thực hiện những cuộc thăm viếng mang tính quốc tế: Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã có 129 cuộc viếng thăm ngoài thành Rôma. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đến viếng thăm một ngôi đền Hồi giáo ở Syria; viếng thăm vùng Thánh Địa Giêrusalem… Các cuộc viếng thăm của Ngài ảnh hưởng đến việc hòa giải các dân tộc và tôn giáo. Đức Giáo hoàng Benedictô XVI và Đức Giáo hoàng Phanxicô tiếp tục ra đi. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường quan tâm đặc biệt đến các vùng ngoại vi. Ngài đã đến với những người tị nạn tại đảo Lampedusa, trại tù Casal del Marmo…Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy “ra đi” để đem Tin mừng đến với với những người bần cùng nhất, những người sầu khổ, những người còn trong bóng tối tội lỗi. Chính vì thế, các cuộc viếng thăm của Ngài không những đem lại sự hòa hợp các dân tộc mà còn đem lại niềm vui và sự an ủi cho những người thấp cổ bé miệng trong xã hội.
Viếng thăm cũng là bổn phận của mỗi người chúng ta hôm nay: Viếng thăm để thực hiện bổn phận truyền giáo; Viếng thăm để thực hiện bổn phận liên đới giữa chúng ta với các mối tương quan như ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn hữu. Chúng ta hãy bắt chước gương viếng thăm của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và Đức Maria. Hãy có những cuộc viếng thăm tha nhân một cách vô vị lợi. Hãy viếng thăm tha nhân khi vui cũng như lúc buồn như lời Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Hãy viếng thăm tha nhân trong sự thành thật không giả hình, viếng thăm trong tình yêu thương huynh đệ: “Đức ái không được giả hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau” (Rm 12, 9-11); “Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà” (Rm 12, 13). Đặc biệt, chúng ta hãy siêng năng viếng thăm những người nghèo đói, bệnh tật, cô thế cô thân, những kè tù đày… để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho họ. Vì khi chúng ta thăm viếng họ là chúng ta đang thăm viếng Chúa. Tin mừng theo Thánh Mathêu, chương 25, Đức Giêsu đã đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” Ngài nói thêm: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Ước mong rằng, ngày lễ Mẹ Thăm Viếng hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta luôn biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, đem niềm vui có Chúa và tinh thần phục vụ cho họ như gương mẫu của Đức Maria. Amen.
34. Đức Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét
Nghe tin bà Êlisabét mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ Maria đã vội vã lên đường thăm viếng chị mình. Lý do để mẹ thăm viếng có lẽ rất đơn giản như cách người ta vẫn làm: vừa là để chia vui với chị, vừa để giúp đỡ người chị của mình. Con đường Mẹ phải đi khá dài, khoảng 160 cây số, từ miền quê Nadarét phía Bắc lên miền núi Giuđê phía nam. Người ta ước chừng nếu đi bộ thì khoảng 5-6 ngày. Đó quả là một hành trình nhiều gian khó đối với một người phụ nữ mang thai và thời gian đi với Mẹ chắc cũng sẽ kéo dài hơn.
Chúng ta có thể dễ dàng mường tượng niềm vui diễn ra như thế nào khi hai bà mẹ cùng mang thai này gặp gỡ nhau. Nhưng ở đây, tác giả Tin Mừng còn cho chúng ta thấy một niềm vui sâu xa hơn: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên và bà được đầy Thánh Thần.” Ta tự hỏi khi gặp bà Êlisabét, Mẹ đã chào hỏi thế nào? Tin Mừng không nói rõ, nhưng có lẽ Đức Maria cũng chỉ chào hỏi thông thường như người Do Thái vẫn làm khi gặp gỡ nhau: “Shalom!”, có nghĩa là cầu chúc”bình an” Nhưng ở đây lời chào của Mẹ không đơn giản là cầu mong bình an, lời chào ấy còn làm cho bà Êlisabét tràn đầy Thánh Thần và đứa con trong bụng nhảy lên vui mừng. Do đâu lời chào của Mẹ làm sao lại có sức mạnh của ân sủng lớn lao đến như vậy?
Khi nói lời “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận sứ mạng cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa. Một khi Mẹ để cho Ngôi Lời chiếm ngự tâm hồn và chính máu thịt Mẹ lại đang nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế, thì mọi lời nói, mọi hành động của Mẹ, dù đơn sơ nhỏ bé nhất, cũng đã trở thành quà tặng mang lại điều kỳ diệu. Một khi tâm hồn trong tình trạng ân sủng, chứa chan ơn cứu độ, thì trong mọi tương quan, bất kỳ lời nói và hành động nào của Mẹ cũng đều mang hoa trái của ân phúc cho những người Mẹ gặp gỡ.
Như thế việc Mẹ Maria thăm viếng bà Êlisabét không chỉ đơn giản là một bài học nhân bản về lòng quảng đại, sẵn sàng giúp đỡ khác. Qua cuộc thăm viếng này, Mẹ Maria đã chỉ ra cho chúng ta con đường để trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô: đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa và lên đường chia sẻ niềm vui cứu độ với tha nhân.
Hai bà mẹ trong Tin Mừng hôm nay, Đức Maria và bà Êlizabét, hớn hở mừng vui, không phải vì được những thứ vật chất để đổi đời, nhưng vì nhận được ân phúc của Chúa, tức là được chính Chúa ngự trong tâm hồn. Những người có Chúa ở cùng, thì biết cách trao tặng chính mình và sống hướng về người khác. Mẹ Maria và bà Êlizabét “hớn hở mừng vui”, nhưng cả hai lại không nói về ơn phúc của chính mình, mà nói về ơn phúc của người khác, vui với niềm vui của người khác. Bà Êlizabét nói về ơn phúc của em mình và ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Còn Đức Maria, sau những lời ngợi khen của bà Êlizabét, Mẹ đã cất tiếng ca tụng Thiên Chúa thay cho cả nhân loại, cho những ai đang khiêm tốn đợi trông ơn cứu độ:
“Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.”
Lạy Ngôi Lời nhập thể,
xin hãy đến ở cùng chúng con,
để cuộc đời chúng con đầy tràn niềm vui của ơn cứu độ;
xin biến đổi chúng con thành con người mới trong Chúa,
nhờ đó chúng con có khả năng trao tặng chính mình,
và công bố Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Amen.
35. Thăm viếng với niềm vui
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả.” (Lc 1,49)
Suy niệm: “Các cuộc thăm viếng luôn để lại niềm vui, nếu không phải lúc đến, thì cũng lúc ra về” (Ngạn ngữ Bồ Đào Nha). Chắc chắn cuộc thăm viếng của Đức Ma-ri-a ở Ain-Karim đem lại niềm vui lớn lao cho bà Ê-li-sa-bét khi mới đến, cũng như trong suốt thời gian ba tháng sau đó. Khi mới gặp Đức Ma-ri-a, Bà Ê-li-sa-bét đã kêu lớn tiếng, cảm thấy vinh dự được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm mình. Niềm vui ấy đạt đến đỉnh điểm khi thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ, được “giáp mặt” thai nhi Giê-su, được ơn khỏi tội nguyên tổ từ giây phút đặc biệt này. Niềm vui ấy tiếp tục lan tỏa trong mái nhà ông bà Gia-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét ba tháng ròng rã khi Đức Ma-ri-a mang danh phận là Mẹ Thiên Chúa, nhưng sống phận nữ tì phục vụ bà mẹ Ê-li-sa-bét trong những ngày chuẩn bị sinh nở người con đầu lòng của mình.
Mời Bạn: Có lẽ thời gian bên gia đình, điện thoại, máy vi tính, thư giãn, tán gẫu… chiếm khá nhiều quỹ thời gian của bạn. Bạn cũng hãy sắp xếp để quan tâm hơn đến bao người đang cần sự viếng thăm thân tình của bạn: người cao tuổi, bệnh nhân, người nghèo… trong giáo xứ.
Sống Lời Chúa: Mỗi tuần tôi dành một giờ đi thăm viếng những người “bé nhỏ” (người nghèo, người đau ốm, neo đơn…) đang cần sự thăm viếng, nâng đỡ, khích lệ của tôi để sống niềm tin.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ nêu gương cho con khi danh là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại sống phận nữ tì của Ngài qua việc thăm viếng phục vụ bà Ê-li-sa-bét. Xin cho con nhạy bén trước nhu cầu của những người chung quanh, để con vui vẻ, sẵn lòng dành thời gian thăm viếng họ. Amen.
- “Mẹ sống để phục vụ, Mẹ đi để trao Chúa Giêsu”
Con Thiên Chúa, từ ngày truyền tin, lại còn là con Đức Maria. Hồng ân ấy, Đức Maria không giữ cho riêng mình, Người đã vội vã lên đường, đi thăm người bà con để chia sẻ cho nhau.
Biến cố gặp gỡ giữa Maria và Elisabeth đã làm nổi bật lên hai đặc trưng: Đức tin và sự trao ban – phục vụ.
- Đặc trưng niềm tin
Với khoảng cách giữa Nazareth và Ain Carem (khoảng 100km) với liên lạc thời đó, tin tức về một phụ nữ mang thai ở cách xa nhau như thế, Maria chỉ biết được nhờ tin vào Lời Chúa qua miệng thiên sứ Gabriel mà thôi. Niềm tin của Đức Maria được khẳng định khi Mẹ thưa “xin vâng” một cách dứt khoát và điều này được chính bà Elisabeth đã thốt lên lời ca ngợi “phúc cho bà là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).
Từng câu từng chữ trong lời ca tụng của bà Elisabeth đều mang đầy ý nghĩa, nhưng điều bà nói cuối cùng mới thực quan trọng: “Em thật có phúc, vì đã tin…” (Lc 1,49). Câu nói này có thể đặt cận kề với tước hiệu “đầy ơn phúc” trong lời chào của thần sứ.
Qua lời chào của thiên sứ Gabriel và lời tán dương của bà Elisabeth dành cho Đức Maria, cho thấy chân lý về Đức Maria hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, chỉ vì Mẹ đã tin. Công đồng Vaticano II dạy: “Phải bày tỏ sự vâng phục của đức tin (Rm 16,26; 2Cr 10,5-6) đối với Thiên Chúa mạc khải, nhờ đó con người hoàn toàn tự nguyện phó thác vào Thiên Chúa”. Cách diễn tả đức tin này đã được Đức Maria thực hiện nơi bản thân mình cách trọn vẹn. Giây phút quyết định là lúc truyền tin, và các lời của bà Elisabeth: “Em thật có phúc vì đã tin” được áp dụng vào giây phút chính xác đó . Với cả lý trí và ý chí, Đức Maria đã đáp lại tiếng Chúa bằng cả con người trọn vẹn đầy nhân tính và nữ tính, và lời đáp trả của đức tin này bao hàm một sự cộng tác hoàn hảo với hồng ân trợ lực của Thiên Chúa và một sự sẵn sàng trọn vẹn cho hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng dùng hồng ân của mình làm cho đức tin luôn hoàn hảo.
- Đặc trưng đức ái (trao ban và phục vụ)
Việc Đức Maria vội vã ra đi đến Ain Carem khi vừa được báo tin là người chị họ trong lúc tuổi già đã mang thai được sáu tháng, được thôi thúc bởi ba động lực là để chia sẻ niềm vui, trao ban “ân sủng” và tinh thần đức ái: Đức Maria đến chia sẻ niềm vui kép đôi vì vừa được cưu mang Chúa Giêsu, vừa vui mừng cho bà Elisabeth được Thiên Chúa cất đi nỗi nhục son sẻ của bà; Đức Maria đến để đem Chúa Giêsu đến cho Gioan được nhảy mừng và bà Elisabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần; và Đức Maria đến để giúp đỡ bà Elisabeth trong thời kỳ thai nghén. Tất cả được gói gọn trong một động lực duy nhất là đức ái tuyệt hảo của Mẹ Con Thiên Chúa.
Niềm vui trước hết và trên hết mà Đức Maria muốn chia sẻ chính là niềm vui được Thiên Chúa cứu độ. Được cứu độ là niềm vui lớn nhất mà bao thế hệ đợi chờ, chính vì thế mà Đức Maria, người được cứu độ đầu tiên, tràn ngập niềm vui, vừa cất tiếng chào thì Gioan trong dạ bà Elisabeth cũng nhảy lên vui sướng vì ơn cứu độ đã đến. Đức Maria mang đến cho gia đình bà Elisabeth ân sủng của Thiên Chúa, vì Mẹ tràn ngập ân sủng, nên ân sủng đó trào tràn trên bà Elisabeth làm cho bà cất lớn tiếng và ca ngợi Mẹ Thiên Chúa.
Đức Maria mang trong mình Đấng là ân sủng và được bao quanh bằng ân sủng của Thánh Thần, Mẹ hiểu rõ bản chất của ân sủng không cho phép tích trữ và giữ lấy như của riêng, mà cần phải trao ban, ân sủng không dừng lại nơi Mẹ mà được tặng ban cho con cái loài người. Thật vậy, nếu ân sủng là để phân phát, thì người làm đầu chỉ có thể là để phục vụ (x. Mt 23, 11), và thế giới ân sủng còn là thế giới của tình thương.
Tình thương bao la và cao thượng vốn được xây dựng trên hy sinh và dâng hiến. Nơi đó, không chờ đợi để nhận lãnh hay để được phục vụ, mà là luôn tìm cách trao ban, chia sẻ và hiến tặng.
Tóm lại, qua biến cố Đức Maria thăm viếng bà Êlizabeth, Chúa muốn dạy chúng ta sống tinh thần của Mẹ Maria là sống trong ơn nghĩa của một tâm hồn đầy Chúa, cưu mang Chúa trong trái tim mình, để rồi mau mắn đem Chúa đến cho tha nhân. Đặc biệt cụ thể hoá việc làm chứng cho Chúa qua chính đời sống phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin phó thác, để chúng con biết xin vâng như Mẹ Maria; xin cũng tăng thêm cho chúng con đức ái, để chúng con biết sống trao ban và phục vụ như Mẹ Maria. Nhờ đó, cùng với Mẹ Maria, chúng con xứng đáng là những người con thảo của Cha trên trời. Amen.