Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 1 Mùa chay

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 1 Mùa chay

Thứ hai sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ ba sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ tư sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ năm sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ sáu sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ bảy sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ hai sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 25, 31-46

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”.

Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?”

Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.

“Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”

Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?”

Khi ấy Người đáp lại: “Quả thật, Ta bảo cho các ngươi biết, những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”.

SUY NIỆM 1: Làm cho chính Ta

Suy niệm:

Thi hào Tagore trong tập thơ Gitanjali, bài số 50,

có kể chuyện một người ăn xin, tình cờ gặp nhà vua đi trên cỗ xe.

Anh đầy tràn hy vọng khi cỗ xe dừng lại gần anh, và nhà vua bước xuống.

Anh cứ nghĩ nhà vua sẽ cho anh thật nhiều, nhưng ngài lại chìa tay xin anh.

Người hành khất biết lấy gì mà cho, anh chỉ dâng ngài một hạt lúa nhỏ xíu.

Đến lúc chiều về, khi đổ những thứ trong bị ra, anh thấy một hạt vàng rất nhỏ.

Anh khóc vì tiếc mình đã không cho ngài tất cả những gì mình có.

Có khi nào nhà vua giàu có ngửa tay xin một người ăn mày không?

Hơn nữa, có khi nào Đức Kitô ẩn mình dưới dạng một người ăn xin không?

Trên chuyến xe lửa đi về vùng Darjeeling ở chân núi Hy-mã-lạp-sơn, năm 1946,

Chị Têrêsa Calcutta đã nhận được một ơn gọi thứ hai, dù chị đang tu ở dòng Loreto.

“Chính trong chuyến xe lửa đó, tôi đã nghe tiếng gọi bỏ tất cả

và theo Ngài vào khu ổ chuột – phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất.”

Chị đã viết như thế, và chị còn giải thích thêm:

“Thiên Chúa gọi tôi để làm giảm cơn khát của Đức Giêsu

bằng cách phục vụ Ngài nơi người nghèo nhất trong số các người nghèo.”

Chị Têrêsa được ơn gặp Đức Giêsu Kitô đang đói khát, đang ở khu ổ chuột.

Chị đã cho Ngài tất cả và chị không bao giờ phải ân hận về chuyện đó.

Bài Tin Mừng hôm nay hẳn đã chi phối đời của thánh Têrêsa Calcutta.

Bài này cũng hợp với Mùa Chay, mùa chia sẻ, mùa làm việc bác ái.

Hơn nữa bài này vén mở cho ta thấy một lối hiện diện khác của Đức Giêsu.

Ngài không chỉ hiện diện nơi tấm bánh thánh, nơi tâm hồn ta, nơi Giáo hội,

mà Ngài còn ở nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù.

Khuôn mặt của Ngài xem ra chẳng có gì cao quý, uy nghi, sáng láng,

nhưng đầy nét đau khổ, nhục nhằn, phiền muộn.

Đức Giêsu ở đây không phải là người ban phát đầy quyền năng,

mà là người ăn xin yếu đuối ngửa tay cần ta giúp đỡ.

“Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây,

là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (c. 40).

Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài.

Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài.

Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu.

Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tỵ nạn,

nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.

Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.

Cầu nguyện:

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công

chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm

về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: CHIA SẺ

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Về bổn phận đối với tha nhân, Cựu Ước chỉ đòi hỏi tránh làm điều xấu cho tha nhân. Phải sống công bằng: “Không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình”. “Hãy xét xử công minh cho người đồng bào”. Công bằng là lý tưởng mà mọi xã hội ước mơ. Nhưng cho đến thiên niên kỷ thứ 3 vẫn chỉ là mơ ước. Thực sự những bất công còn quá nhiều và trầm trọng. Nhưng Tân Ước đi đến tích cực hơn. Phải sống bác ái. Phải làm điều tốt. Phải chia sẻ. Chia sẻ đặc biệt quan trọng.

Chia sẻ là một công bằng ở tầm mức cao hơn. Thực vậy, Chúa ban của cải cho mọi người hưởng dùng. Ta không có quyền chiếm hữu quá nhiều trong khi người khác thiếu thốn. Dư thừa là một tội bất công. Chênh lệch trong xã hội là mầm mống bất ổn. Nếu người có quyền không giải quyết nghèo đói, nghèo đói sẽ giải quyết người có quyền.

Hơn thế nữa, chia sẻ là một bổn phận, vì mọi người là anh em của ta. Mỗi người đều có phẩm giá và phải được quyền sống xứng đáng với phẩm giá của mình. Để một người sống không xứng đáng là hạ nhục chính mình. Hơn nữa mọi người là anh em, nên ta có bổn phận giúp đỡ, chia sẻ. Để một người anh em túng thiếu trong khi mình dư dật là một tội lỗi xấu xa. Còn hơn thế nữa, mọi người đều là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa. Để một chi thể đau yếu, chết yểu là giết chết chính thân mình.

Nhưng trên hết, chính Chúa đồng hóa với người nghèo. Ai giúp người nghèo là giúp chính Chúa. Với sự thật này, Chúa nâng cao giá trị việc chia sẻ lên tầm mức đạo đức chính yếu của đạo. Đây là việc quan trọng, không làm sẽ bị tội. Và nâng cao giá trị người chia sẻ, vì khi chia sẻ ta chia sẻ với chính Chúa. Chính Chúa ban cho ta mọi của cải trần gian, thế mà Chúa lại cho ta được vinh dự chia sẻ với Chúa khi Chúa tự nguyện hóa thân trong người nghèo để cần sự trợ giúp của ta. Bổn phận này nâng cao tầm bác ái Kitô giáo. Yêu người không còn phải như yêu chính mình nữa. Mà yêu người phải như yêu Chúa.

Hiểu biết giá trị của chia sẻ như thế ta sẽ mau mắn và rộng rãi chia sẻ với anh em. Yêu mến Chúa thúc đẩy ta chia sẻ với Chúa. Biết chia sẻ là nguồn mạch ơn lành, tại sao ta không có nhiều sáng kiến, tìm ra nhiều dịp và nhiều người để thực hành chia sẻ trong mùa Chay này?

SUY NIỆM 3: Thiên đàng của bác ái.

Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:

– Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?

 Thiên thần trả lời:

– Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.

Vừa lo lắng, vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên của mình có trong sách không.

Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy tên ông.

Thế nhưng điều đó không làm vị tu sĩ thất vọng, ông nói với thiên thần:

– Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.

Thiên thần chiều ý ông, thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.

Tối hôm sau, thiên thần lại hiện ra và mở quyển sổ vàng cho vị tu sĩ xem, lần này ông thấy tên mình dẫn đầu danh sách những người yêu Chúa.

Sau khi vị tu sĩ gia qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1 Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”. Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi”.

Từ khởi đầu, dường như Thiên Chúa đã muốn tạo dựng cho con người một thiên đàng vĩnh cửu trên trần gian này. Trong cơn gió nhẹ của mỗi buổi chiều tà, Thiên Chúa đến truyện vãn với con người, đó là hình ảnh một hạnh phúc vô biên mà con người có thể hưởng nếu ngay từ trần gian này. Thế nhưng khi con người chối từ mối liên lạc với Thiên Chúa và chối bỏ chính mình, con người cũng đánh mât hạnh phúc ấy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến để tái lập thiên đàng tại thế ấy cho con người, Ngài nói với con người rằng con người sẽ có được thiên đàng ấy khi nó biết xây dựng sự hài hoà với Thiên Chúa và với con người. Và vì Thiên Chúa tự đồng hoá với con người, nên chính trong sự hài hoà với tha nhân, con người gặp gỡ Thiên Chúa và tìm lại được thiên đàng đã mất.

Có biết bao ý thức hệ và triết thuyết hứa hẹn cho con người một thiên đàng tại thế, nhưng thứ thiên đàng ấy đã khong bao giờ đền, mà thay vào đó chỉ là hoả ngục của hận thù và chết chóc mà thôi. Làm sao có thể xây dựng được thiên đàng khi người ta chối bỏ hay chà đạp tha nhân, làm sao có thiên đàng khi người ta lấy hận thù làm men cho xã hội. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó là thiên đàng, nhưng ở đâu có tha nhân thì ở đó cũng có Thiên Chúa, bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Mỗi gặp gỡ với tha nhân, mỗi nghĩa cử làm cho tha nhân là một bước tiến vào thiên đàng ngay từ cuộc sống này.

Xin cho chúng ta cảm nếm được hạnh phúc đích thực khi phục vụ tha nhân, và xin cho chúng ta luôn ý thức tha nhân chính là nơi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Người bên phải, kẻ bên trái

Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trườc mặt Người và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua mới phán với người đứng bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” Để đáp lại Đức Vua sẽ bảo rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, thì các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt. 25, 31-40)

Thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta cảnh phán xét ngày tận thế không mấy ngoạn mục: không động đất, không có mặt trời tối tăm, không có những vì sao tắt sáng. Chỉ mình Đức Giê-su trong vinh quang đến ngự trên ngai, dấu chỉ uy quyền phán xét của Người. Uy quyền của Người bao trùm khắp muôn phương: các thiên thần hầu cận, các dân thiên hạ tập hợp trước dung nhan Người. Người ta nghĩ đến có việc gì xảy ra quyết liệt lắm, sau đó không còn xảy ra như thế nữa. Hành động đầu tiên của Con Người là phân tách khối người đó ra: bên phải là kẻ lành, bên trái là kẻ dữ, ở giữa là khoảng trống. Hành động phân chia này thiết lập nên sự phán xét. Sau đó là những lời giải thích về việc phán xét. Việc phán xét không theo chủng tộc như quan niệm Do thái, nhưng theo đời sống luân lý của mỗi người.

Để thưởng cho các người lành bên phải, Đức Giê-su đã phán rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến hưởng nước trời …”. Để phạt kẻ dữ bên trái, Người phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời. Nước trời trước hết là ở gần Thiên Chúa. Còn lửa đời đời là xa lìa Thiên Chúa. Hai nơi đối nghịch nhau đều là đích cuối cùng sau một cuộc sống lâu dài mà Thiên Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi. Con Người chỉ đến phán xét và chấm dứt lịch sử thế giới sau một thời gian Thiên Chúa kiên trì tìm kiếm cứu chuộc loài người.

Những lý do xét xử là những nhu cầu trước mắt: đói, khát, trần truồng, tù đầy, đau yếu. Người lành và người dữ đều ngạc nhiên hỏi: “Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu, ngồi tù đâu? Để đáp lại, Chúa đáp: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Vậy được hưởng nước trời hay bị vào lửa đời đời chính là tiếp đón hay từ chối giúp đỡ Đức Giê-su Ki-tô hiện diện trong một kẻ khốn cực, chính là làm hay không làm giúp người lân cận của mình.

Mùa chay thúc bách chúng ta sống Tin mừng hẳn hoi, nghiêm túc. Sống lời Chúa nghiêm túc giúp chúng ta liên đới với mọi người tốt đẹp ở đời này, đó là cửa vào nước trời đời đời.

G.M

SUY NIỆM 5: YÊU ĐỂ ĐƯỢC SỐNG! (Mt 25, 31 – 46)

Đạo Công Giáo mà Đức Giêsu sáng lập là một thứ đạo yêu thương. Đạo yêu thương này được khởi đi từ tình yêu của Thiên Chúa đối với công trình tạo dựng và suốt dọc dài lịch sử cứu độ trong thời Cựu Ước nơi dân Israel.

Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa cho loài người. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã rao giảng, đã chết để minh chứng tình thương, và đã sống lại để gieo niềm hy vọng. Như vậy, có thể nói rằng: Đạo Công Giáo là “Đạo Yêu Thương”. Ai không yêu thương thì không thuộc về đạo này. Nhưng yêu thương phải đi đến hành động thực tế, chứ không thể yêu trên đầu môi chóp lưỡi!

Hôm nay, bài Tin Mừng đưa chúng ta về viễn cảnh của ngày cánh chung qua giáo huấn của Đức Giêsu.

Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra chính là một hình ảnh về ngày phán xét, nơi đó, vị thẩm phán công bằng, tối cao ngự đến để xét xử.

Điều kỳ lạ, đó là vị thẩm phấn này không xét xử dựa trên chức nghiệp để thưởng công, mà là ngang qua hành vi về sự cảm thông, lòng nhân ái đối với những người bần cùng của xã hội. Lạ kỳ hơn nữa là kết thúc, vị thẩm phán ấy đồng hóa chính mình với những người được giúp đỡ khi tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm cho những người bé mọn ấy là làm cho chính ta”.

Nhìn ra thế giới hôm nay, chúng ta thấy không ít nếu không muốn nói là nhan nhản những hành vi như: bon chen, lừa lọc, mưu mô quỉ quyệt, chiến tranh, hận thù, khủng bố …

Tất cả những điều đó đi ngược lại quy luật của tình yêu, và tất nhiên, không thể đi vào trong mối tương quan với vị thẩm phán trong bài Tin Mừng hôm nay.

Xin Chúa ban cho mỗi người ý thức được hạnh phúc đích thực của chúng ta ở nơi Chúa, và chỉ có nơi Ngài mới trường tồn vạn kiếp. Vì thế, ngay trong giây phút này, xin cho chúng ta biết sống yêu thương nhau để sau này được hưởng niềm vui, hạnh phúc bên Thiên Chúa tình yêu. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Làm cho chính Ta

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.

Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại. Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.

Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh đến xin ăn và xin nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.

Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.

Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: “Hôm nay Ta đã đến với con ba lần và cả ba lần con đều đuổi Ta”.

Ai nghe chuyện này hẳn sẽ chẳng dám đuổi một người nào đó ra khỏi cửa. Vì họ không biết ai đang đứng đó. Và có ai muốn xua đuổi Thiên Chúa?

Suy niệm

Thiên Chúa quang lâm đến để phán xét công minh. Ngài đón nhận những ai xứng đáng trở nên công dân vương quốc Cánh Chung, Đức Kitô đến phán xử theo lòng nhân ái của mọi người. Hình ảnh đó đã được Tin Mừng Matthêu ghi nhận qua giáo huấn của Đức Kitô (x. Mt 25,31-46): Ngài đến phân rẽ nhân loại thành hai bên tả hữu. Tác giả Cl. Tassin giải thích, “bên phải” và “bên trái” trong thời cổ đại chỉ số phận tốt, xấu của con người” (Phúc Âm Matthêu, Centurion, tr. 264).

Là Thiên Chúa Tình Yêu, Chúa Giêsu sống ban phát, chữa lành cho chúng sinh, ban phát bình an cho dân, ban phát thần lương bằng chính Ngài cho nhân loại. Ngài là Thiên Chúa nhập thể nên cảm nghiệm được những thống khổ, thiếu thốn của con người. Chính vì tình yêu, Ngài trở nên như những kẻ bần cùng, thực sự chịu đau khổ như mọi người phải chịu, Ngài trở nên một với họ. Chính vì lẽ đó, Ngài hé mở bí nhiệm tình yêu này: “Ta đói… khát… ốm đau… là khách lạ”. Chúa Kitô tự đồng hóa với những người túng thiếu, Ngài đói, khát, là khách lạ. Chúa Kitô – Vua chúng ta trần trụi, Vua chúng ta yếu đau, Vua chúng ta bị cầm tù. Cho nên những gì chúng ta làm hay không làm cho những người bần cùng, là làm hay không cho chính Thiên Chúa như Đức Kitô khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.

Qua mọi thời, Vua Giêsu vẫn luôn hòa đồng với kẻ khốn cùng, những kẻ ngửa tay xin lòng trắc ẩn của nhân loại. Ngài ở trong các anh em bé mọn nhất, những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bệnh tật lay lắt khắp xóm chợ, những người bị suy sụp tinh thần cần được chia sẻ được yêu thương. Lòng yêu thương kéo sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người, và làm thế giới được tồn tại trong tình yêu như Fyodor Dostoyevky đã cảm nhận: “Lòng trắc ẩn là quy luật chính yếu của sự tồn tại con người”.

Vì thế chúng ta hiểu vì sao những tấm lòng mang tinh thần bác ái được đứng vào hàng ngũ của những kẻ bên phải trong ngày phán xét chung. Ngày chung cuộc theo Tin Mừng, những ai sống trong yêu thương chia sẻ được đón vào vương quốc Vĩnh Cửu tình yêu với Đức Kitô…

Ý lực sống: “Cuộc sống của chúng ta sẽ luôn viên mãn nếu trái tim chúng ta luôn luôn dâng hiến” (Vô danh).

Suy Niệm 7: Giá trị việc lành dữ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu nói về ngày Ngài sẽ trở lại vũ trụ để phán xét mọi người. Ngày đó ta quen gọi là ngày cánh chung hay ngày tận thế. Trong bài Tin Mừng Đức Giêsu gợi lên hình ảnh của tòa phán xét cuối cùng, để dạy chúng ta  sống tinh thần tương thân tương ái với hết mọi người. Đó cũng là tinh thần Mùa Chay đích thực mà Giáo hội mời gọi chúng ta.

2.Trong ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ phân chia loài người thành hai nhóm và Chúa ra ví dụ như người mục tử tách chiên ra khỏi dê. Ban ngày người mục tử có thể chăn dắt chiên và dê lẫn lộn với nhau, nhưng đêm đến ông ta phải tách ra, dê để một nơi và chiên một nơi.

Cũng thế, trong cuộc sống hôm nay, nơi trần gian này, Chúa để người lành kẻ dữ, người công chính và kẻ tội lỗi sống chung lẫn lộn với nhau, nhưng trong ngày tận thế, Chúa sẽ tách ra để người lành được hưởng an vui hạnh phúc, còn người tội lỗi phải vào chốn cực hình muôn đời.

  1. Trong ngày phán xét, Chúa chỉ xét xử dựa trên cách chúng ta cư xử với tha nhân mà thôi. Nếu chúng ta khước từ tha nhân, thì tức là chúng ta khước từ chính Chúa Giêsu, và như vậy Ngài cũng chối bỏ chúng ta trong ngày phán xét. Trái lại, mỗi hành động yêu thương mà chúng ta thực thi cho tha nhân cũng chính là một tiếp đón chúng ta dành cho Ngài và Ngài cũng căn cứ vào đó  để tiếp đón chúng ta trong ngày phán xét.
  2. Qua mọi thời, Đức Giêsu vẫn luôn hòa đồng với kẻ khốn cùng, những kẻ ngửa tay xin lòng trắc ẩn của nhân loại. Ngài ở trong các anh em bé mọn nhất, những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bệnh tật lây lất khắp xóm chợ, những người bị suy sụp tinh thần được chia sẻ được yêu thương. Lòng yêu thương kéo sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người, và làm thế giới được tồn tại trong tình yêu như Fyodor Dostoyevky đã cảm nhận: “Lòng trắc ẩn là qui luật chính yếu của sự tồn tại con người”.

Vì thế, chúng ta hiểu vì sao những tấm lòng mang tinh thần bác ái được đứng vào hàng ngũ của những kẻ bên phải trong ngày phán xét chung. Ngày chung cuộc theo Tin Mừng, những ai sống trong yêu thương chia sẻ được dón vào Vương quốc vĩnh cửu tình yêu với Đức Kitô.

  1. Lòng yêu thương chân thật phải được thể hiện trong đời sống thực tế chứ không trừu tượng.  Bác ái cần hành động chứ không phải lý thuyết xuông. Chúa kể ra sáu tình cảnh rất thực tế và là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống chứ không phải chuyện cao xa trừu tượng: Đói, khát, khách lạ, đau yếu, trần truồng, tù đầy. Nghĩa là đối tượng chúng ta nhắm đến là những thân phận đang cần chúng ta hơn hết.  Điều đặc biệt hơn cả là  Đức Giêsu đồng hóa mình trong những thân phận bất hạnh đó. Những tình cảnh của những con người đau khổ kia lại là hiện thân của Đức Giêsu và là cơ hội cho chúng ta gặp Chúa: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy”(Vinh Sơn).
  2. Như vậy chúng ta thấy Đức Giêsu đặt trước chúng ta  một chân lý tuyệt diệu: là tất cả mọi sự giúp đỡ hay không giúp đỡ, chúng ta làm hay không làm cho anh em mình là làm hay không làm cho chính Ngài.

Bà Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare chủ trương sống tinh thần Tin Mừng, chia sẻ một kinh nghiệm sống như sau: coi những kẻ đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng như Chúa Giêsu bị bỏ rơi rất cần người an ủi giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ ủi an những kẻ đau khổ ấy.

  1. Truyện: Tìm thấy Chúa trong tha nhân.

Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết  trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:

– Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?

– Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.

Vừa lo lắng vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên mình có trong sách không. Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng nhưng không thấy tên ông. Thế nhưng điều đó không làm cho tu sĩ thất vọng. Ông nói với thiên thần:

– Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng  lúc nào cũng yêu mến tha nhân.

Thiên thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.

Sau khi vị tu sĩ già qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó  tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”. Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi” (Mỗi ngày một tin vui).

 

Suy Niệm 8: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Bài đọc sách Lêvi dạy ta cách đối xử với tha nhân, gồm trong hai điều chính:

a/ Công bình

b/ Bác ái

Nhìn chung ta thấy, lời dạy của Cựu Ước có tính cách tiêu cực, “đừng, đừng và đừng” và chưa được rộng (“hãy yêu thương bạn hữu như chính mình”).

Lời dạy của Chúa Giêsu tích cực hơn và cũng rộng rãi hơn. Chúa còn bảo Ngài sẽ coi những việc bác ái tôi làm cho những kẻ bé mọn như là làm cho chính Chúa.

Bà Chiara Lubich, người sáng lập ra phong trào Focolare chủ trương sống tinh thần Tin Mừng một cách triệt để đã chia sẻ một kinh nghiệm sống như sau: Coi những kẻ đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập Giá. Cũng như Chúa Giêsu bị bỏ rơi rất cần người an ủi, giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ an ủi những kẻ đau khổ ấy.

Vâng! Từ khi chọn con đường nhập thể, Chúa đã muốn chúng ta tìm Ngài trong tha nhân, yêu Ngài qua tha nhân và giúp đỡ Ngài cũng qua tha nhân.

Chúng ta tự hỏi, tình yêu có một sức mạnh gì không mà Chúa lại luôn đòi hỏi con người phải yêu thương nhau như thế ?

Tôi xin mượn một câu chuyện được phổ biến trên mạng Internet để trả lời:

Ngày ấy, tôi dạy mẫu giáo tại một ngôi trường nhỏ nằm gọn trong khuôn viên của một tòa nhà xinh đẹp. Mỗi sáng, cứ đúng 9 giờ, tất cả học sinh tụ tập trong căn phòng lớn, bắt đầu một ngày mới bằng bài thể dục đầu giờ. Hơn 50 đứa trẻ, từ 3-6 tuổi, ngồi san sát trên những chiếc ghế xinh xinh đủ màu đặt trên tấm thảm dầy. Những gương mặt thơ ngây bừng sáng khi chúng háo hức hát vang những bài ca, cùng chia sẻ cho nhau những cảm nhận về mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống.

Một buổi sáng nọ, cô hiệu trưởng gặp toàn thể học sinh trong căn phòng lớn và thông báo:

– Hôm nay, chúng ta sẽ tiến hành một thí nghiệm mới.

Cô giơ cao hai cây trường xuân bé xíu đựng trong hai cái chậu con giống hệt nhau.

– Chúng ta có hai cây con. Trông chúng giống hệt nhau, phải không ?

  Tất cả bọn trẻ tò mò nhìn vào hai chậu cây rồi đồng thanh đáp:

– Dạ phải.

Cô nói tiếp:

– Chúng ta sẽ nuôi dưỡng hai cây con này với cùng chế độ ánh sáng, cùng chế độ nước tưới nhưng… với sự quan tâm chăm sóc khác nhau. Rồi chúng ta sẽ theo dõi xem, điều gì sẽ xảy ra khi đặt một cây trong nhà bếp cách xa chúng ta, và một cây ngay tại đây, trên lò sưởi này.

Sau khi đặt một cái chậu trên lò sưởi trong bếp, cô hiệu trưởng dắt bọn trẻ vào bếp, đặt cái chậu lên quầy. Sau đó, cô dẫn những đứa trẻ với những đôi mắt mở to vì bỡ ngỡ trở lại căn phòng lớn.

Chúng ta sẽ đối xử với cây như một người bạn. Trong vài tháng tới, mỗi ngày chúng ta đều hát cho cây trường xuân nghe. Chúng ta sẽ nói cho bạn ấy biết bạn ấy xinh đẹp thế nào và chúng ta yêu mến bạn ấy biết bao. Chúng ta sẽ luôn chúc bạn ấy mọi điều tốt đẹp…

Một bé gái giơ tay:

– Nhưng thưa cô, thế còn cây trong bếp thì sao ?

Cô hiệu trưởng mỉm cười thích thú:

– Chúng ta sẽ dùng cây ấy làm cây “đối chứng” trong thí nghiệm tuyệt vời của chúng ta. Theo các em, chúng ta sẽ làm gì ?

– Chúng ta sẽ không nói chuyện với nó ?

– Đúng. Dù chỉ là một lời thì thầm.

– Chúng ta sẽ không gởi cho nó một lời chúc tốt đẹp nào.

– Đúng.

Và chúng ta sẽ xem chuyện gì sẽ xảy ra.

Bốn tuần sau, mắt của tôi cũng mở to ngạc nhiên như bọn trẻ. Cây trường xuân trong nhà bếp yếu ớt, mảnh khảnh và chẳng lớn được tí nào. Còn chậu cây đặt trong phòng lớn, được bao bọc bởi những lời yêu thương êm dịu, được bọn trẻ hát cho nghe mỗi ngày, đã lớn gấp ba lần với những chiếc lá xanh biếc tràn đầy nhựa sống. Để chứng minh kết quả của cuộc thí nghiệm và cũng để lau khô những giọt nước mắt của những đứa trẻ nhạy cảm, lo lắng cho số phận cây thứ hai khỏi cảnh lẻ loi trong bếp, cô hiệu trưởng cho mang nó lên, đặt ở trong phòng lớn, bên cạnh chậu thứ nhất.

Rồi sau đó họ đối xử với cây này y như đã đối xử với cây thứ nhất trước kia.

 Ba tuần sau, chậu cây thứ hai đã bắt kịp cây trong chậu thứ nhất. Bốn tuần sau, chúng cùng lớn mạnh như nhau.

Tôi ghi nhớ mãi bài học này, và tự đúc kết cho mình câu kết luận: Không ai, không vật gì lớn lên được nếu không có tình yêu.

Vâng, tình yêu quan trọng như thế, nên Chúa luôn đòi hỏi chúng ta phải yêu thương nhau. “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở trong tình yêu, người đó ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ” (1Ga 4,16).

Lạy Chúa,

Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,

xin cho chúng con trở thành tình yêu,

tình yêu bao dung và quảng đại

cho trái tim khô cằn của thế giới. Amen.

Thứ ba sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 6, 7-15

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:

“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ đến chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

“Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con”.

SUY NIỆM 1: Biết rõ anh em cần gì

Suy niệm:

Mùa Chay là thời gian tăng cường việc cầu nguyện.

Nhưng vấn đề là cầu nguyện như thế nào theo đúng ý của Đức Giêsu.

Ngài đã cảnh báo về một thứ cầu nguyện có tính phô trương, tìm mình.

Ngài mời ta cầu nguyện một cách kín đáo (Mt 6, 6).

Cầu nguyện là gặp Cha, Đấng ở nơi kín ẩn và Đấng thấy ở nơi kín ẩn.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng

cầu nguyện không phải là dùng những lời kinh như một thứ ma thuật,

để lèo lái hay cưỡng bách Thiên Chúa phải theo ý mình.

Cầu nguyện là mềm mại để uốn mình theo ý Chúa.

Sức mạnh của cầu nguyện không nằm ở chỗ lắm lời,

vì không phải cứ nói nhiều là được ưng nhậm (c. 7).

Cầu nguyện cũng không phải là thông tin cho Ngài biết về tình trạng của ta,

sợ rằng nếu ta không nói thì Ngài không biết (c. 8).

Thật ra, Thiên Chúa đã biết trước nhu cầu của từng người rồi.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần bày tỏ để có tương quan với Thiên Chúa,

thổ lộ với Ngài cách đơn sơ hồn nhiên như con thơ nói với cha.

Qua kinh Lạy Cha, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện.

Ngài dạy họ gọi Thiên Chúa là Cha, Abba.

Họ được phép gọi như Ngài đã gọi và chia sẻ chức vị làm Con của Ngài.

Một lời cầu nguyện có tính tập thể: “Lạy Cha chúng con.”

Chính vì Cha là Cha của chúng con nên chúng con là anh chị em với nhau.

“Cha ở trên trời”, vì thế Cha lại thấy hết mọi người và ở bên từng người.

Cha thật siêu việt vì Cha ở trên trời cao thẳm;

nhưng Cha lại thật gần gũi,

vì Cha lo cho từng con chim sẻ, từng bông hoa ngoài đồng,

Cha cho mặt trời mọc lên và mưa rơi xuống trên mặt đất.

Ba lời xin đầu tiên của kinh Lạy Cha hướng đến Thiên Chúa Cha.

Hẳn chúng diễn tả tâm tình chủ yếu của Đức Giêsu trong suốt đời.

Bốn lời xin tiếp theo hướng đến nhu cầu của nhóm môn đệ.

Xin bánh mỗi ngày, xin ơn tha thứ, ơn thắng được cám dỗ và sự dữ.

Có khi lời nguyện của chúng ta quá qui về mình, loay hoay với cái tôi,

với những ước mơ tính toán, những âu lo cho nhu cầu vật chất.

Hãy xin Chúa những điều lớn lao cho Nước Chúa trên trần gian,

còn mọi sự khác nho nhỏ, Ngài sẽ ban thêm cho ta.

Cầu nguyện:

Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,

xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha

trong vũ trụ vô cùng lớn,

trong những hạt tử vô cùng nhỏ,

và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.

Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín,

mầu vàng mặt trời xế chiều.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.

Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,

tiếng gió rì rào qua kẽ lá.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.

Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,

hương thơm của nắng xuân dìu dịu.

Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha

khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,

sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,

sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,

và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.

Dưới lòng đất, trên núi cao,

giữa biển sâu, trong rừng vắng,

chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.

Xin cho chúng con

biết chung sống với thiên nhiên này

như một người bạn, một quà tặng Cha ban,

biết giữ gìn ngôi nhà trái đất

để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,

và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.

Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này

và muôn loài Cha đã dựng nên

được cùng với cả nhân loại chúng con

vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: LẠY CHA CHÚNG CON

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Chúa như mưa với tuyết từ trời sa xuống làm đất đai phì nhiêu, đem no ấm cho mọi người. Chúa Giêsu là Ngôi Lời xuống trần gian dậy cho con người biết thánh ý Thiên Chúa để được hạnh phúc. Nên đã dậy ta cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha.

Với kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta biết cầu nguyện là đến với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Cầu nguyện không phải là ăn xin nhưng là tình thân. Không phải đến cửa quan nhưng là về nhà mình. Là chìm vào đáy lòng, trong thân tình để gặp được Chúa là người Cha vô cùng quyền năng nhưng cũng vô cùng yêu thương nhân hậu.

Với kinh Lạy Cha Chúa Giêsu dạy ta biết sống tâm tình hiếu thảo. Người con hiếu thảo lo việc chung của gia đình của cha mẹ. Trong việc chung của cha mẹ, có phần hạnh phúc của con cái. Chương trình của Chúa dành cho ta là tối ưu. Vì thế tiên vàn phải cầu nguyện cho chương trình của Chúa được thực hiện. Khi Nước Chúa ngự đến ta sẽ được thỏa mãn mọi khát vọng.

Với kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta biết sống tình bác ái huynh đệ. Chúa là Cha nên mọi người là anh em. Con người là bất toàn, là sai lỗi. Ta cần Chúa tha lỗi cho ta thì ta cũng phải sẵn sàng tha lỗi cho anh em. Điều này quan trọng để chứng tỏ đức tin. Vì Chúa vô hình ta không thấy được. Nhưng anh em thì ta phải gặp gỡ sống chung hằng ngày. Chính thái độ của ta đối với anh em nói lên đức tin vào Thiên Chúa là Cha.

Với kinh Lạy Cha Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện không phải là lời đầu môi chót lưỡi nhưng phải thực hành. Tâm tình con thảo phải được thể hiện trong việc chăm lo mở rộng Nước Chúa, Tâm tình huynh đệ phải được thể hiện trong đời sống chan hòa yêu thương. Và nhất là trong sự cảm thông tha thứ. Lời cầu nguyện chỉ chân thực khi có thực hành. Lời cầu nguyện chỉ tha thiết khi ta cố gắng hết sức để thực hiện những ước mơ đó trong hành động.

SUY NIỆM 3: Cầu nguyện

Có một nông dân xứ Ars mỗi ngày trước khi ra đồng cũng như khi đi làm về đều ghé vào nhà thờ giây lát. Trong xứ, nhiều người để ý và kính phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày này ông ghé vào nhà thờ làm gì thế”. Người nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.

Câu trả lời của người nông dân trên đây diễn ta được cái cốt lõi của đời sống Kitô hữu, đó là việc cầu nguyện.

Tác giả tập sách Đường Hy vọng chia sẻ kinh nghiệm: “Hoạt động mà không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa, máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con kết hiệp với Thiên Chúa, như một bóng điện sáng là nhờ kết hiệp với máy phát điện. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô là phải cầu nguyện.”

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, qua đó Ngài nêu bật thái độ phải có khi cầu nguyện: Trước hết là tinh thần đơn sơ khiêm tốn, gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng. Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa, chứ không phải là giờ làm bài, là giờ của con tim, chứ không phải là của khối óc. Thứ đến là tinh thần quảng đại tha thứ cho kẻ xúc phạm đến chúng ta. Đó là điều đương nhiên, vì thân phận của con người là yếu đuối, tội lỗi, và mọi người đều mắc nợ nhau trong đức bác ái của lời nói, việc làm, cách suy nghĩ, cho dù chúng ta vẫn giữ được đức công bằng.

Thật ra, như lời thánh Phaolô: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thánh Thần chuyển cầu cho chúng ta bằng những tiếng rên khôn ta. Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được kết hiệp với Đức Kitô và được lãnh nhận hồng ân Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Thánh Thần để phát triển đời sống cầu nguyện, nhờ đó canh tân chính mình và môi trường sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Kinh Lạy Cha

Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.

Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì “Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.

Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.

Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Tha nợ

“Vậy anh em hãy cầu xin như thế này:

“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời

xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển,

triều đại Cha mau đến,

ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày,

Xin tha tội cho chúng con

Như chúng con cũng tha

Cho những người có lỗi với chúng con”. (Mt. 6, 9-12)

Theo các nhà chuyên môn Kinh thánh, trong kinh Lạy Cha, câu “xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đúng hơn câu “xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”.

Câu đó nói tới thân phận của con người là con nợ không thể trả được đối với Thiên Chúa. Đó là tình trạng của kẻ tội lỗi mà chỉ có hồng ân lạ lùng của Thiên Chúa ân xá cho ta được thôi, còn ta không bao giờ đền bù cho đủ.

Lời cầu nguyện này nhắc nhở chúng ta nhớ tới dụ ngôn tên đầy tớ dã tâm bất nhân. Nợ của chúng ta sẽ được tình yêu Thiên Chúa thương tha thứ nếu chúng ta biết yêu thương tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta.

Thánh Gio-an nói: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối. Thực vậy, kẻ không yêu anh em mình trông thấy trước mắt thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy” (1Ga. 4, 20). Chúng ta có thể đánh giá khả năng của chúng ta yêu mến Thiên Chúa bằng tình yêu chúng ta yêu người lân cận.

Tội chống lại tình yêu tha nhân có làm hại chúng ta gì không? Có thể chúng ta vẫn thành thật nói rằng chúng tôi yêu người lân cận cho dù họ là gì chăng nữa. Nhưng rất nhiều lần, chúng ta lãnh đạm với họ; chúng ta viện lẽ rằng không nên xen vào những việc của người khác. Có phải chúng ta một phần nào đã giống như Ca-in từ chối trách nhiệm đã giết em mình, đã giết người là anh em mình chăng?

Câu kết thúc bài Tin mừng hôm nay là: “Nếu anh em tha tội cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em …”. Chúng ta kêu xin tình thương, nhưng lại đánh nhau vì hòa bình. Chúng ta cần phải cố gắng tìm hiểu người ta. Người ta muốn được tha thứ, được thông cảm, nhưng chúng ta đã làm gì cho họ?

Tham dự Thánh lễ lúc này là để thông cảm hiểu biết nhau, để chúng ta chân thành nhìn nhận nhau là anh em, đồng bàn với nhau trong bàn tiệc tế lễ hy sinh, bàn tiệc tình yêu của Chúa và của chúng ta.

SUY NIỆM 6: CẦU NGUYỆN TRONG NIỀM TIN  (Mt 6, 7-15)

Có một linh mục là giáo sư tín lý và luân lý tại nhiều chủng viện và học viện Công Giáo, khi nói về kinh nghiệm của việc dạy Giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, ngài chia sẻ: “Tôi đã dạy Giáo lý cho rất nhiều bạn trẻ dự tòng, có những bạn chỉ với thời gian rất ngắn, là tôi có thể Rửa Tội cho họ được. Tuy nhiên, có những bạn thì năm này qua năm khác, tôi vẫn không Rửa Tội cho!”.

Khi chúng tôi thắc mắc thì được ngài giải thích rằng: “Rửa Tội được hay không, đối với ngài là họ có biết cầu nguyện trong đức tin không? Nếu họ cầu nguyện sốt sắng và tin tưởng, ấy là lúc chúng ta Rửa Tội cho họ được, vì họ đã gặp được Chúa thực sự. Nếu không biết cầu nguyện, thì chúng ta có dạy hết ngày này, tháng nọ hay năm kia thì họ vẫn chỉ là cái xác không hồn mà thôi!”.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ý nghĩa, giá trị và thái độ cần có khi cầu nguyện.

Trước tiên, cầu nguyện ở những nơi kín đáo, tức là có kinh nghiệm cá nhân với Chúa trước khi chúng ta cầu nguyện nơi tập thể, cộng đoàn.

Thứ hai, cầu nguyện cách chân thành chứ không sáo rỗng, hình thức, giả tạo. Cầu nguyện chân thành tức là một tâm hồn khao khát chân lý và sẵn sàng để cho thánh ý Thiên Chúa được thực hiện nơi mình.

Cuối cùng, cầu nguyện với tinh thần tha thứ. Cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa đối với mình thì cũng phải tha thứ cho anh chị em. Đây là lời cầu nguyện sống động và hấp dẫn nhất.

Trong đời sống đạo của chúng ta vẫn thấy có những người cầu nguyện rất dài, nhưng lòng đạo thì lại quá ngắn! Tại sao vậy? Thưa bởi vì họ như con sáo, cuốn băng! Cầu nguyện mà không biết mình làm gì, chỉ mong sao đọc cho hết, nói cho xong là yên tâm! Trong khi đó, không hề thay đổi lối sống khi sứ điệp Lời Chúa đòi hỏi…

Mong sao, lời kinh Lạy Cha mà Đức Giêsu dạy cho các môn đệ hôm nay cũng là lời kinh của chúng ta. Và khi chúng ta cất lên, mỗi người hãy đọc với trọn niềm tin kính, yêu mến và khao khát thực hành điều Chúa dạy. Có thế, đời sống đạo của chúng ta mới thực sự là có Chúa và có tình thương với anh chị em mình.

Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện của chúng ta. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu dạy cách cầu nguyện

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi, tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: Nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”.

Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại kinh Lạy Cha (…) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mạc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái.

Suy niệm

Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cách cầu nguyện: đừng lảm nhảm nhiều lời vì Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài đã hiểu rõ chúng ta đang cần gì. Ðiều quan trọng là chúng ta phải sống trong tương quan thân tình với Cha và với anh chị em như Ngài dạy lời cầu nguyện Abba – Lạy Cha.

So với kinh Lạy Cha của Luca ghi lại, kinh Lạy Cha của Matthêu chi tiết hơn: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Trong lúc đó, Luca ghi nhận vắn tắt hơn: “Lạy Cha, nguyện cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”. Và câu kết của kinh Lạy Cha theo Matthêu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” trong khi Luca trình bày ngắn hơn: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.

Lời kinh Lạy Cha, đầu tiên “nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”: Nước Cha đến là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Ngài loan báo Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (x. Lc 4,43; 8,1; 10,9.11). Vì Cha là tình yêu, khi danh Cha tỏa sáng, là tình yêu Cha trải dài trên trái đất nơi những người con của Cha hiện hữu và ý Cha thể hiện được cả dưới đất cũng như trên trời: Tuân hành thánh ý là nhiệm vụ của Đức Kitô ở trần gian (x. Mt 26,39) là lương thực của Đức Giêsu (x. Ga 4,34).

Bốn lời nguyện tiếp theo, con người trình bày với Cha về các nhu cầu và những sự cần thiết của mình trên đường tiến về quê cha: được nuôi dưỡng, xin được tha thứ – chữa lành tội lỗi và được thắng cuộc chiến đấu với sự dữ bằng sự lành và ân sủng đến từ Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Khi xin “cho chúng con” là chúng ta nói lên, trong tình hiệp thông huynh đệ của mình, lòng tin tưởng của con cái được phó thác nơi Cha trên trời.

Với tâm tình con thảo, “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm nhu tin tưởng” (Giáo lý Công giáo, số 2800). Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát, như Chúa Giêsu khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).

Tất cả thức đẩy chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào Chúa là Cha hiển vinh như định luật tình thương mà Con Thiên Chúa đã mạc khải: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11).

Ý lực sống: “Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi” (Tv 89,2).

 Suy Niệm 8: Kinh Lạy Cha

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Kitô hữu là tâm tình con thảo với Cha trên trời, là thể hiện niềm tin và phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa.

Khi mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa Tình yêu, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mặc lấy chính tâm tình phó thác của Ngài. Khi các Tông đồ xin Ngài dạy họ cầu nguyện, Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha. Đó là trọn tâm tình và cuộc sống vâng phục và phó thác cho Thiên Chúa. Lời cầu xin duy nhất mà Chúa Giêsu không ngừng ngỏ với Thiên Chúa, đó là được xin vâng ý Thiên Chúa.

  1. Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc âm thánh Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu xin đầu tiên nói về Thiên Chúa và 4 lời cầu xin sau hướng về loài người.

Phần 1, có 3 lời hướng về Chúa là Cha chúng ta ở trên trời, sau đó xin cho danh thánh Cha được vinh hiển, nước Cha trị đến trần gian, nhất là tâm hồn con người và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời.

Phần 2 có 4 lời nguyện: xin lương thực hằng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em. Xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hằng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta lìa xa Chúa. Xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.  

  1. Một vấn nạn cho việc cầu nguyện.

Ngày nay, có một sự phục hồi sự cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người thời nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn trong khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu nguyện là đào nhiệm: đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không hiểu biết chính xác những qui luật  chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự tha hóa; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm (Noel Quesson). Chúng ta nghĩ thế nào?

Vào tháng 05 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y học và Đức tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có Đức tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức tin sau khi được giải phẫu tim. Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì  ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thông miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời,  năm C, tr 261).

  1. Bày tỏ cho chúng ta Thiên Chúa  Tình yêu và mời gọi chúng ta sống phó thác, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta  nhìn mọi người  bằng cái nhìn yêu thương của Thiên Chúa. Kinh Lạy Cha không chỉ là tâm tình phó thác của chúng ta dâng lên Thiên Chúa, nhưng còn là niềm tin yêu mà chúng ta dành cho anh em.

Chúng ta không đọc “Lạy Cha của con”, mà đọc Lạy Cha chúng con. Như thế lời kinh này không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa, mà còn nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau. Thiên Chúa Là Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Kinh Lạy Cha không chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh đệ.

  1. Truyện: Lạy Cha chúng con.

Có một Giám mục kia trên đường đi kinh lý giáo phận, ghé thăm gia đình một bà già, người ta nói bà là tấm gương cho cả làng soi chiếu. Trong khi thăm, vị Giám mục hỏi: “Bà thường hay đọc sách đạo đức nào nhất”? Bà trả lời: “Thưa Đức cha, con không biết đọc, con mù chữ”. Nghe nói thế vị Giám mục lại hỏi: “Bà thường hay cầu nguyện, bà thường hay đọc kinh gì”? Bà trả lời: “Thưa Đức cha, con chỉ biết tràng hạt thôi: kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng, kinh Sáng danh, mỗi ngày con đọc đến 10 lần, nhưng không bao giờ con đọc xong”. Vị Giám mục lại hỏi: “Tại sao thế”?

Bà nói tiếp: “Tại vì khi con bắt đầu đọc “Lạy Cha chúng con”, con không hiểu sao Chúa có thể tốt lành đến mức cho phép một bà già hèn mọn như con được gọi Ngài là Cha, điều đó làm con xúc động và con không thể nào đọc tiếp nữa”. Nghe bà cụ nói thế, Giám mục khuyến khích: “Này bà cụ, đó là lời cầu nguyện giá trị bằng tất cả lời cầu nguyện của chúng tôi, bà cứ tiếp tục và luôn cầu nguyện theo cách đó”.

Suy Niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện cách chân thành tự đáy lòng, hoàn toàn tin tưởng vào lòng Cha nhân từ rộng lượng, và phải biết cầu xin những điều tốt lành được tóm tắt trong kinh “Lạy Cha”.

Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, thật hạnh phúc biết bao khi con được thưa lên như vậy. Đó là điều quá cao cả con chẳng dám nghĩ tới, nhưng chính Chúa Giêsu, Con Cha, đã dạy con và nâng con lên để con được xưng hô như thế.

Lạy Cha, đối với con, cầu nguyện là điều rất khó, vì con chẳng biết nói gì với Cha. Con cảm thấy dường như Cha quá xa vời trừu tượng. Xin Cha cho con thực sự cảm nhận được rằng Cha luôn hiện diện sống động trong con, hằng muốn đối thoại với con. Lạy Chúa Thánh Thần, xin nâng đỡ sự yếu hèn của con và xin dạy con biết cầu nguyện.

Lạy Cha, Cha biết rõ mọi nhu cầu của con, của gia đình con, trước khi con cầu xin. Cuộc đời con nằm trong tay Cha. Vì thế con xin Cha cho con biết đến với Cha trong tâm tình cậy trông phó thác. Con trao phó cuộc đời con cho Cha. Con tin rằng Cha luôn ban cho con mọi ơn lành, và những điều Cha ban cho con thì tốt đẹp hơn những điều con ước mơ. Con chỉ xin một điều là cho con thật lòng tin tưởng nơi Cha, vui lòng đón nhận Ý Cha, và quảng đại với anh em như Cha hằng quảng đại với con.

Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho Danh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày, xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

Ghi nhớ: “Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này”.

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Bài Phúc âm hôm nay ghi lại Lời kinh Lạy Cha do chính Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy cầu nguyện như thế này”…, sau đó, Chúa Giêsu liệt kê 7 điều nên xin khi cầu nguyện.

Bài đọc I trích sách Isaia nhấn mạnh đến việc thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.

Như thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy ta điều quan trọng nhất khi cầu nguyện: cầu nguyện để biết ý Chúa và để có thể thực hiện ý Chúa.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Thường trong khi cầu nguyện ta cố nói cho Chúa biết ý của ta và ta xin Thiên Chúa giúp ta đạt được ý đó. Lời Chúa hôm nay cho biết cách cầu nguyện đó hoàn toàn ngược. Đúng ra cầu nguyện phải là xin cho ta được biết ý Chúa, và xin giúp ta thực hiện ý Ngài. Chúa biết mọi sự, cho nên dù ta không nói thì Ngài cũng đã biết ý ta. Phần ta thì không biết ý Chúa nên phải xin Ngài chỉ cho ta biết.
  2. “Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Đừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin”. Chúng ta phải tập cầu nguyện bằng thinh lặng và lắng nghe.
  3. Sau khi nghe bài giảng của một nhà truyền giáo, một cô gái giơ tay hỏi: “Thưa Ngài, xin cho biết cách nào vừa sống theo đường lối Chúa vừa vẫn theo đường lối riêng của mình ?” Nhà truyền giáo bí không trả lời nổi. Có lẽ đó cũng là câu chúng ta thường tự hỏi. Mà cứ hỏi như thế thì sẽ không bao giờ trả lời được, bởi vì làm thế nào có thể đi đường của Chúa mà vẫn giữ lại con đường ý riêng mình cho được! (Christian Youth)
  4. Nhiều người nghĩ rằng sống theo ý Chúa thật là khó. Thực ra điều này thoải mái và dễ chịu như nằm trên một chiếc gối bông, bởi vì ta không thể chọn được thứ gì tốt cho bằng thứ Chúa đã chọn sẵn cho ta, không thể nhắm tới thứ gì hay cho bằng thứ Chúa đã nhắm sẵn cho ta, sống theo ý Chúa thì ta không còn gì phải lo, và không có gì an toàn hơn được. (Gospel Herald).

Suy Niệm 11: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy ta cầu nguyện. Cầu nguyện là để biết ý Chúa để có thể thực thi ý Người.

  1. Thường khi cầu nguyện ta cố nói cho Chúa biết ý của ta và ta xin Thiên Chúa giúp ta đạt được ý đó.

Một du khách đến cầu nguyện bên cạnh bức tường gọi là “bức tường than khóc”, dưới chân nền Đền thờ xưa kia của thành Jêrusalem. Trước hết du khách cất tiếng kêu xin:

– Lạy Chúa là cha chúng con, xin Chúa làm cho thế giới này không còn nghèo khổ và đói khát nữa.

Nghe du khách cầu nguyện như vậy, người hướng dẫn viên Do Thái khuyến khích:

– Thật là một lời nguyện hay! Ông hãy cầu nguyện thêm một lời nữa đi!

Du khách trở lại bên bức tường và cầu nguyện thêm:

– Lạy Chúa, xin cho giặc giã, chiến tranh không còn trên mặt đất này.

Anh hướng dẫn viên Do Thái lại khuyến khích người du khách thêm một lời nguyện nữa cho hòa bình trên thế giới. Người du khách liền sốt sắng tiếp theo:

– Lạy Chúa, xin cho cuộc tranh chấp hiện nay tại Trung đông được giải quyết tốt đẹp, cho người Ả-Rập và Do Thái được sống chung hòa bình, và cho người Do Thái biết trả lại cho người Ả-Rập tất cả những đất đai họ đang chiếm đóng.

Nghe đến đây, anh hướng dẫn viên Do Thái vội vàng ngắt lời người du khách với một giọng giận dữ: – Xin lỗi ông, ông đang nói chuyện với bức tường đấy!

Nói thế rồi anh ta vội kéo du khách đi nơi khác.

Gioan Kim Khẩu nói: “Để lời cầu nguyện của bạn được trọn bề hoàn hảo, bạn hãy lấy đức hiền hậu khiêm nhu mà tô điểm ngôi nhà tâm hồn, lấy cuộc đời công chính mà chiếu soi cho rực rỡ, lấy việc lành phúc đức mà tô điểm, đem đức tin và lòng cao thượng như đá quý mà dát vào tường. Trên tất cả, bạn hãy đặt cầu nguyện làm nóc để hoàn tất ngôi nhà. Và như thế, bạn chuẩn bị cho Thiên Chúa một ngôi nhà hoàn hảo. Nơi đây, bạn đón rước Thiên Chúa như trong cung điện vương giả và lộng lẫy”.

  1. Lời Chúa hôm nay cho biết cách cầu nguyện như thế không đúng. Đúng ra cầu nguyện phải là xin cho ta được biết ý Chúa và xin Chúa giúp ta thực hiện ý Người. Chúa biết mọi sự, cho nên dù ta không nói thì Người cũng đã biết ý ta. Phần ta thì không biết ý Chúa nên phải xin Người chỉ cho ta biết.

Nhiều người nghĩ rằng, sống theo ý Chúa thật là khó. Thực ra điều này rất thoải mái và dễ chịu như nằm trên một chiếc gối bông, nếu như ta biết nghĩ rằng, ta không thể chọn được thứ gì tốt cho bằng thứ Chúa đã chọn sẵn cho ta, không thể nhắm tới thứ gì hay cho bằng thứ Chúa đã nhắm sẵn cho ta. Sống theo ý Chúa ta không còn gì phải lo và không có gì an toàn hơn được. (Gospel Herald)

Người thanh niên tên là Tony Belade bỗng trở nên quen thuộc với nhiều người, kể từ khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm tiểu bang California bên Hoa Kỳ, dạo mùa hè 1987. Nhiều người đã được chứng kiến buổi đón tiếp Đức Thánh Cha hôm ấy và khó mà quên được hình ảnh vô cùng cảm động khi Đức Giáo Hoàng từ lễ đài cao bước xuống để ôm và hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàn ghi ta của mình. Điều gì đã làm cho cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy trở nên luyến nhớ cho nhiều người ? Thưa rằng, bởi vì người thanh niên ấy đã chơi đàn ghi ta bằng những ngón chân của mình!

Tony Belade là hiện thân của niềm hy vọng. Anh đã chào đời không có hai cánh tay, nhưng anh đã biết tận dụng các ngón chân của mình để học đàn ghi ta. Không những thế, anh còn dùng chân vào nhiều công việc khác nữa như: gấp quần áo, vắt một ly nước chanh… Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành một khả năng thuần thục. Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều người đã hỏi anh:

– Bí quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận mình để sống bình thường, mà còn sử dụng ghi ta một cách tuyệt diệu như thế ?

Người thanh niên tàn tật trả lời:

– Tôi đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo Thánh ý Chúa. Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhận lời tôi”.

Không ai trong chúng ta được chọn lựa sinh ra hoặc không sinh ra. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm đàn ông hay đàn bà. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm người xinh đẹp hay xấu xí, thông minh hay ngu đần, giàu sang hay nghèo hèn… Dưới mắt người đời, mỗi người chúng ta đến trong trần gian này với tất cả một định mệnh. Người ta thường hay nói: Có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người may mắn, có người kém may mắn. Thế nhưng, trong ánh mắt tình yêu của Thiên Chúa thì số phận nào cũng là một hồng ân cao cả. Thiên Chúa luôn có một chương trình cho mỗi một con người.

Thứ tư sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 11, 29-32

Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: “Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona.

Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa”.

SUY NIỆM 1: Con người sẽ là một dấu lạ

Suy niệm:

Khi đọc chuyện ông Giôna người Galilê, ai cũng nhớ ông đã bị cá nuốt ba ngày.

Sau đó ông lại được cá khạc ra trên đất liền mà vẫn còn sống.

Nhưng điều đáng nhớ hơn là sau kinh nghiệm đó Giôna đã biết vâng phục Chúa.

Ông chấp nhận đi giảng cho dân Ninivê, một dân ngoại ở vùng là Irắc bây giờ.

Thật không ngờ, lời rao giảng của ông đã kéo cả nước vào một cuộc hoán cải,

Từ vua đến dân, thậm chí cả súc vật, đều ăn chay, sám hối việc mình làm.

Thái độ của họ đã làm Đức Chúa đổi ý, không đoán phạt nữa.

Đức Chúa không muốn trừng phạt, Ngài chỉ mong con người sám hối.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nỗi buồn của Đức Giêsu

khi dân chúng đòi dấu lạ, dù họ đã thấy nhiều phép lạ của Ngài.

Dấu lạ ở đây phải hiểu là một điềm báo hoành tráng từ trời

để chứng thực về con người và sứ mạng của Ngài.

Khi bị cám dỗ trong hoang địa, Ngài đã không nhảy xuống từ nóc Đền thờ.

Ngài không muốn mua lòng tin của con người bằng một cử chỉ ngoạn mục.

Bây giờ Ngài cũng dứt khoát từ chối:

“Họ sẽ không được ban một dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna.”

Dấu lạ ông Giôna không phải là chuyện ông bị cá nuốt mà còn sống.

Dấu lạ là chính con người của ông với việc rao giảng của ông.

Dân Ninivê đã sám hối khi nghe Giôna giảng,

nhưng thế hệ đương thời với Đức Giêsu đã từ khước ngài.

Họ là một thế hệ gian ác (c. 29) vì không chịu sám hối.

“Đây còn hơn Giôna, đây còn hơn Salômôn” (cc. 31-32).

Đức Giêsu đã không thành công bằng hai ông này.

dù lời giảng của ngài còn khôn ngoan hơn lời của vua Salômôn

và thuyết phục hơn lời giảng của ngôn sứ Giôna.

Dân Ninivê và nữ hoàng Shêba sẽ kết án thế hệ này vì sự cứng cỏi của họ.

Mùa Chay là thời gian đọc lại những chuyện lạ Chúa đã làm cho đời mình.

Có những chuyện bề ngoài tưởng là chuyện tự nhiên hay ngẫu nhiên.

Chỉ ai biết nhìn mới thấy lạ.

Có khi chúng ta vẫn thèm Chúa làm một cái gì đó thật kinh khủng

để ta mạnh mẽ đổi đời và từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ.

Làm sao để lòng sám hối đến từ việc nhận ra những chuyện nhỏ bé

mà Chúa vẫn làm cho ta mỗi ngày nhiều lần?

Cầu nguyện:

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: NHẠY BÉN VỚI DẤU CHỈ

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giêsu khen nữ hoàng Saba và dân thành Ni-ni-vê. Họ có những phẩm chất của Tin Mừng.

Nhạy bén. Họ nhạy bén lắng nghe. Từ Sa-ba xa xôi mà nữ hoàng cũng nghe được tiếng tăm Sa-lo-mon. Dù đang phạm tội, dân thành Ni-ni-vê cũng nghe được tiếng Gio-na. Họ nhạy bén đón nhận. Họ lắng nghe chăm chú. Họ đón nhận, Họ để sứ điệp đụng chạm bản thân, thấm nhập tâm hồn. Họ nhạy bén hành động: đón nhận rồi họ hành động tức khắc. Nữ hoàng rong buồm ra đi, dân Ni-ni-vê cải đổi đời sống.

Khiêm nhường. Họ nhạy bén vì họ rất khiêm nhường. Nữ hoàng biết mình kém hiểu biết nên khao khát nghe sự khôn ngoan của Sa-lo-mon; dân Ni-ni-vê biết mình tội lỗi nên đã hối cải theo lời khuyên của Gio-na.

Thành tâm. Khiêm nhường vì thành tâm, khao khát điều tốt. Khi biết điều hay lẽ phải lập tức tuân hành. Những người thời Chúa Giê-su không được như thế.

Người thời Gio-na đã nghe lời ông. Người thời Chúa Giê-su không nghe lời Chúa. Dù Chúa trổi vượt hơn Gio-na về tất cả. Gio-na được Thiên Chúa sai đến. Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đích thân đến. Gio-na miễn cưỡng đến Ni-ni-vê. Chúa Giê-su tự nguyện xuống trần. Gio-na ở trong bụng cá ba ngày nhưng không chết. Chúa Giê-su chịu vùi chôn trong lòng đất vì đã chết thật. Gio-na không tự mình sống lại. Chúa chiến thắng thần chết và sống lại hiển vinh.

Nữ hoàng Sa-ba ngưỡng mộ sự khôn ngoan của Sa-lo-mon. Người thời Chúa Giê-su không hiểu sự khôn ngoan của Chúa Giê-su. Dù Chúa Giê-su trổi vượt Sa-lo-mon muôn ngàn lần. Sa-lo-mon được Thiên Chúa ban sự khôn ngoan. Chúa Giê-su là Ngôi Lời, là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sa-lo-mon chỉ là sự khôn ngoan của trần gian. Chúa Giê-su là sự khôn ngoan của Nước Trời. Sự khôn ngoan của thập giá. Sự khôn ngoan của tình yêu. Sự khôn ngoan dẫn ta đến sự sống đời đời.

Mùa Chay là mùa rèn luyện tâm hồn nhạy bén. Để nhận được những tín hiệu Chúa gửi. Để sứ điệp của Chúa thấm sâu vào tâm hồn. Biến thành hành động tức khắc và cụ thể.

SUY NIỆM 3: Dấu lạ của Thiên Chúa

“Người Do Thái đòi dấu lạ, người Hy Lạp tìm triết lý, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh Thập giá”. Thánh Phaolô, người tự xưng là Do Thái hơn cả người Do Thái đã nêu bật não trạng của dân tộc ngài.

Người Do Thái xưa kia luôn đòi các luật sĩ làm dấu lạ để minh chứng lời mình tuyên bố, và dĩ nhiên họ đời dấu lạ nơi những ai tự xưng mình là tiên tri.

Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi sự chờ đợi này. Trong suốt giai đoạn hoạt động công khai, Ngài không chỉ bị thách đố làm dấu lạ, mà ngay khi giữ chay 40 đêm ngày để chuẩn bị sứ vụ rao giảng Tin mừng, Ngài đã bị cám dỗ thực hiện dấu lạ, như biến đá thành bánh, gieo mình xuống từ thượng đỉnh Đền thờ để minh chứng Ngài là Con Thiên Chúa. Cuộc thách đố này còn kéo dài cả khi Ngài bị đóng đinh Thập giá, lúc ấy Ngài bị thách thức: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi Thập giá”.

Trong bài Tin mừng hôm nay, những luật sĩ và biệt phái đến xin Chúa Giêsu cho họ thấy một dấu lạ không hẳn là những đối thủ của Ngài. Nhưng điều Ngài muốn họ phải tẩy sạch khỏi não trạng là những định kiến, qua đó họ vẽ sẵn một khuôn mặt, một hình ảnh Đấng Cứu Thế và họ đòi buộc Chúa Giêsu phải mang lấy và phải hành động rập theo khuôn mặt ấy. Nhưng ngược lại quan niệm của họ về một Đấng Cứu Thế oai hùng, đánh đuổi ngoại xâm và tái lập một nước Do thái hùng mạnh, Chúa Giêsu muốn minh chứng Ngài là Đấng Cứu Thế qua một dấu lạ nhỏ bé khiêm tốn, yếu đuối: như tiên tri Giôna nằm trong bụng cá, Chúa Giêsu cũng sẽ nằm trong lòng đất ba ngay ba đêm. Nhìn từ bên ngoài, đây là một dấu lạ thua thiệt, dấu hiệu của sự thất bại, nhưng Thiên Chúa đã dùng dấu hiệu đó để áp dụng định luật: nhu thắng cương, nhược thắng cường.

Tìm những dấu lạ, tìm những dấu chỉ thời đại để củng cố niềm tin vào sự hiện diện cứu rỗi của Thiên Chúa trong cuộc sống không phải là một điều sai lầm, nhưng còn là điều mà các Kitô hữu trưởng thành cần phải làm. Tuy nhiên, chúng ta sẽ lạc lối nếu dõi theo vết xe cũ của luật sĩ và biệt phái giữ khư khư những định kiến và bắt buộc Thiên Chúa phải hiện diện theo những khuôn mặt, hình ảnh chúng ta đã vẽ sẵn. Vì thế, chúng ta phải chú tâm tìm những dấu chỉ hiện diện của Thiên Chúa theo ý muốn của Ngài, chứ không phải theo quan niệm của chúng ta, nghĩa là chúng là phải tìm gặp sự hiện diện của Ngài trong thân xác một người bị chết treo trên Thập giá như một tên tử tội và được chôn táng trong mồ như một người bại trận.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Dấu lạ cả thể

Thế nào là phép lạ? Theo quan niệm thông thường, khi một sự kiện có giá trị tích cực không thể giải thích được thì đó là phép lạ. Những người có niềm tin tôn giáo thì cho rằng phép lạ là một sự can thiệp của Chúa.

Giáo Hội Công Giáo luôn tin có phép lạ, nhưng trong thực tế lại tỏ ra vô cùng thận trọng trong việc nhìn nhận các phép lạ; cụ thể là những gì đã và đang xảy ra tại Trung tâm Thánh Mẫu Lộ Ðức bên Pháp: từ hơn 100 năm nay, đã có trên 2,000 trường hợp khỏi bệnh được nhiều người xem là phép lạ, nhưng cho tới nay, Giáo Hội Công Giáo chỉ chính thức nhìn nhận 65 vụ thực sự là phép lạ theo đúng nghĩa mà thôi.

Thế nào là phép lạ? Thiên Chúa có làm phép lạ không? Ðó là những câu hỏi mà Tin Mừng hôm nay như muốn nêu lên để chúng ta cùng suy nghĩ. Chúa Giêsu đã thực sự làm nhiều phép lạ: Ngài biến nước thành rượu; Ngài nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi sống đám đông; Ngài chữa lành bệnh tật; Ngài là cho kẻ chết sống lại. Tất cả những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện đều nhằm nói lên sứ mệnh của Ngài và Ngài chính là Ðấng Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi nhân loại. Một số người Do Thái đã tin nhận và đi theo Ngài, nhưng phần đông vẫn tỏ ra dửng dưng trước những lời rao giảng của Ngài. Riêng những thành phần lãnh đạo trong dân, như nhóm Biệt Phái, thì chẳng những không tin nhận, mà còn chống đối Ngài ra mặt, họ thách thức nếu Ngài làm một dấu lạ cả thể thì họ mới tin nhận Ngài.

Trước thái độ đó, Chúa Giêsu mượn hình ảnh của tiên tri Giôna để nói về Ngài. Tiên tri Giôna đã đến Ninivê để rao giảng sự sám hối, tất cả các phép lạ của Chúa Giêsu cũng đều nhằm nói lên sứ mệnh của Ngài và kêu gọi sám hối. Tiên tri Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm. Giáo Hội tiên khởi đã xem đây như là một dấu chỉ loan báo chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Như vậy, nếu có một dấu lạ cả thể mà Chúa Giêsu thực hiện để đáp lại sự thách thức của những người Biệt Phái, thì dấu lạ đó không gì khác hơn là chính cái chết của Ngài: chết để nên lời, và lời ấy là lời của yêu thương.

Ngày nay, không thiếu những người thách thức Thiên Chúa. Cũng như những người Biệt Phái, họ đòi Thiên Chúa phải làm một dấu lạ cả thể nào đó, họ mới tin nhận Ngài. Nhưng mãi mãi, Thiên Chúa sẽ không bao giờ hành động như thế, Ngài mãi mãi vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã nhập thể làm người và sống cho đến tận cùng thân phận làm người. Cái chết trên thập giá vốn là tuyệt đỉnh của thân phận làm người, do đó trở thành dấu lạ cả thể nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện, đó là dấu lạ của tình yêu.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục bày tỏ dấu lạ cả thể ấy. Trong trái tim mỗi người, Thiên Chúa đã đặt vào đó sức mạnh vĩ đại nhất là tình yêu. Sức mạnh ấy không ngừng nung nấu con người. Sức mạnh ấy đang được thể hiện qua những nghĩa cử mà chúng ta có thể bắt gặp mỗi ngày. Ðó là phép lạ cả thể nhất Thiên Chúa đang tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người. Tình yêu vốn là sức mạnh vĩ đại nhất, nhưng thường lại được bày tỏ qua những cử chỉ nhỏ bé và âm thầm nhất. Một nụ cười thân ái, một cái xiết tay, một lời an ủi, một cử chỉ tử tế, một ánh mắt cảm thông và tha thứ, đó là những cử chỉ nhỏ, nhưng lại là biểu hiện của dấu lạ cả thể nhất là tình yêu.

Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh để nhận ra phép lạ Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện trong cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta cũng trở thành dấu lạ ấy cho những người chung quanh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Dấu lạ cá voi

Quả thật, ông Gio-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của Sa-lô-mon; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-mon nữa. Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na giảng; mà đầy thì còn hơn Gio-na nữa. (Lc. 11, 30-32)

Người Do thái đòi Đức Giê-su làm một dấu lạ. Một đòi hỏi gây cấn luôn có trong đầu óc của họ về Đấng Messia đã được hứa trong Cựu ước: Ngài phải làm những dấu lạ để chứng tỏ sứ mệnh của Ngài. Thực ra nhiều lần Đức Giê-su đã làm phép lạ rồi. Nhưng lần này Người từ chối và từ chối khá quyết liệt, lại còn tố lại họ nữa: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác: chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào ngoài dấu lạ ông Gio-na”. Dấu lạ độc nhất Đức Ki-tô bằng lòng cho họ là dấu lạ an táng Người ba ngày trong lòng đất như Gio-na ở trong bụng quái vật của biển cả ba ngày.

Thái độ thực đáng kinh ngạc của Đức Giê-su đã đánh lạc hướng những người muốn tin Ngài, nếu họ được chứng kiến dấu lạ Ngài làm. Đức Ki-tô chẳng những từ chối đòi dấu lạ của họ mà còn dồn họ vào chân tường. Ngài đưa ra lý lẽ chứng minh họ không tin Ngài. Lý lẽ mà Đức Giê-su cho thấy là: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na giảng …”. Dân Ni-ni-vê không đòi Gio-na làm dấu lạ. Ngôn sứ chỉ rao giảng đã đủ làm họ sám hối trở về. Chính ra dân Do thái phải nghe lời Đức Giê-su như vậy, hơn nữa, lời đầy uy quyền của Ngài đủ để là dấu lạ đến từ Thiên Chúa. Đức Giê-su từ chối yêu sách của họ vì dấu lạ bên ngoài chỉ thỏa mãn tò mò thôi. Chính bên trong con người lời Ngài mới làm cho họ thấy được tiếng vang dội của niềm tin cậy để nhận ra Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, chứ không phải phép lạ hào nhoáng trước mắt.

Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải đón nhận lời Chúa bằng một đức tin độc nhất vào Đức Giê-su. Chúng ta phải đón nhận cái chết ngược đời của Ngài làm chướng tai gai mắt những kẻ tham sân si. Nhờ đó chúng ta mới có thể đối mặt với những cái chết của chúng ta hàng ngày như thất bại, bệnh tật, buồn tủi đang chôn vùi chúng ta trong bụng thủy quái. Dù phải chết trong hoàn cảnh nào, chúng ta luôn sống tin cậy vào Đấng đã phục sinh và đừng đòi hỏi những phép lạ từ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô, không muốn biểu diễn quyền phép để tìm kiếm lợi lộc, nhưng chỉ lo cứu độ. Thế là đủ cho chúng ta còn đòi chi nữa!

SUY NIỆM 6: KHÔN NGOAN THẬT (Lc 11 , 29 –32)

Ở đời, người ta hay đề cao những kẻ nói hay, hót giỏi, tức là nịnh bợ tốt. Họ cũng hay khen những kẻ biết dùng mánh khóe để lừa thầy phản bạn… Người ta cũng không tiếc đưa ra những lời ca ngợi những người thành đạt, giàu có và có chỗ đứng trong xã hội, bất luận điều đó đến từ đâu!

Sống trong một xã hội như vậy, chúng ta không lạ gì khi có rất nhiều người khẳng định vị trí, vai trò của mình bằng những hành động lưu manh mà không hề áy náy!

Tuy nhiên, những điều mà người đời cho là khôn ngoan trên đây thì lại là dại dột, ngu xuẩn trước mặt Thiên Chúa. Thật vậy, người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa là người biết sám hối.

Tại sao thế? Thưa! Bởi vì, sám hối là biểu hiện của một tâm hồn khiêm nhường, công chính. Sám hối còn là dấu chỉ của người thuộc về Chúa. Sám hối là điều kiện cần để được cứu độ.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, các Luật Sĩ và Pharisêu đòi Đức Giêsu phải làm một dấu lạ thì họ mới tin. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không làm và ngược lại, Ngài đã dạy cho họ phải biết sám hối, nếu không thì không thể được cứu độ. Đức Giêsu đã cảnh báo họ, khi đưa ra hình ảnh nữ hoàng phương nam, dân Ninivê sẽ được cứu độ, vì họ đã đi tìm kiếm sự khôn ngoan, biết ăn năn sám hối, còn con cái trong nhà sẽ bị loại vì không biết sám hối.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết đi tìm lẽ khôn ngoan là biết ăn năn sám hối chân thành để được cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Dấu lạ Giôna

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cưỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cưỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: “Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả”.

Vợ ông bước ra tiếp lời: “Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông”.

Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình.

Suy niệm

Trong thư gửi giáo hữu Côrintô, thánh Phaolô nhận định: “Người Do Thái đòi hỏi dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1Cr 1,22), người Do Thái đòi hỏi dấu lạ để tin…

Chúa Giêsu chỉ nói dấu lạ Giôna. Trước khi đến Ninivê loan báo sám hối, tiên tri Giôna ở trong bụng cá ba ngày, là hình ảnh báo trước về Ðức Giêsu cũng sẽ đi vào lòng đất ba ngày qua cái chết và Phục Sinh vinh quang để đem lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài. Cho nên, dấu lạ Chúa Kitô trong lòng đất là dấu lạ vĩ đại nhất mà ai muốn được cứu độ chỉ cần phải tin vào dấu lạ đó.

Khi nói về dấu lạ Giôna và so sánh với việc Ngài được chôn trong lòng đất, Chúa Kitô cảnh tỉnh về sự cố chấp không tin của người Do Thái. Nếu như xưa kia, dân thành Ninivê đã hối cải khi nghe lời giảng dạy của Giôna. Nữ hoàng Saba từ phương Nam xa xăm nghe biết Salômôn nổi tiếng khôn ngoan vì danh Chúa, nên cất bước đến Giêrusalem lãnh hội. Nay dân Do Thái, đặc biệt là biệt phái và tiến sĩ luật kiêu căng, tự phụ vào sự hiểu biết và đạo đức của mình không chịu lãnh nhận và tin theo giáo huấn của Đấng Cứu Thế – Đấng hơn cả ngôn sứ Giôna, có lời khôn ngoan hơn vua Salômôn đang hiện diện và giảng dạy giữa họ, nên họ chết trong sự cố chấp, cứng tin. Vì thế, trong ngày phán xét dân thành Ninivê và nữ hoàng Saba sẽ tố cáo sự cố chấp, cứng tin của họ.

Ðể được ơn cứu độ, chúng ta phải tin vào Ðức Giêsu, nghe giáo huấn và sám hối như lời dạy: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Thật thế, hãy sống theo Tin Mừng trong từng giây phút của cuộc sống…

Ý lực sống: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,

là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118,105).

 Suy Niệm 8: Hãy thay đổi chính mình

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Ngày xưa tiên tri Giona đã kêu gọi dân thành Ninivê tội lỗi lo ăn năn sám hối. Mọi người trong thành, từ vua quan đến dân chúng lớn nhỏ, đã đáp lại lời kêu gọi ấy. Chúa thấy lòng thành của họ nên đã tha thứ và không phạt họ.

Còn các luật sĩ và biệt phái đã từng nghe Đức Giêsu giảng dạy và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài đã làm, nhưng họ đã không nhận ra thân thế của Ngài là Đấng Cứu Thế. Họ còn đòi Ngài phải làm phép lạ lớn trên trời để họ tin. Khi nhắc lại chuyện Giona, Đức Giêsu cảnh cáo những người Do thái thời Ngài: “Dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân này đã sám hối khi nghe ông Giona rao giảng”. Như thế, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta sám hối.

  1. “Ông Giona đã ở trong bụng cá ba ngày…”

Hồi Đức Giêsu ở Galilê, các luật sĩ đã xin Ngài cho xem điềm lạ trên trời. Nay các biệt phái ở Giudê cũng lại yêu cầu điều đó. Cũng như lần trước, Ngài không cho, vì biết họ chỉ có ý khiêu khích Ngài. Ngài hứa cho họ xem một phép lạ cả thể: đó là việc Ngài chết và sống lại. Nhưng Ngài mượn tích chuyện ông Giona để nói với họ.

Theo tích truyện, ông Giona khi bị ném xuống biển thì có một con cá lớn nuốt ông vào bụng , giữ ba ngày đêm, rồi nhả ông ra trên bãi biển. Câu chuyện này có ý nói đến việc Đức Giêsu sẽ chịu chết, nằm trong mộ ba ngày  rồi sẽ sống lại ra khỏi mồ.

  1. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dựa vào câu chuyện về điềm lạ Giona để kêu gọi sự sám hối. Đáp lại lời kêu gọi đó, thánh Luca cho chúng ta thấy có ba thái độ:

– Các biệt phái cứng lòng và gian ác, họ đòi một điềm lạ trên trời, vì họ đã không tin vào những phép lạ Đức Giêsu đã làm. Đó là tội từ chối ánh sáng, tội phạm đến Thánh Thần.

– Dân thành Ninivê mau mắn nghe lời và nhiệt tâm sám hối theo lời kêu gọi, nên họ đã được Thiên Chúa thứ tha.

– Nữ hoàng Sêba không những cảm phục những lời lẽ khôn ngoan của vua Salomôn, mà bà ta còn trở thành người rao giảng các lời ấy cho dân nước của mình.

  1. Muốn sám hối thì cần phải biết mình, biết mính có tội để sám hối, nhưng trong thực tế, biết mình là một truyện khó vì người ta thường nói: “Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê”: việc người thì sáng, việc mình thì quáng, chỉ biết người mà lại không biết mình.

Nhân đây chúng ta hãy xem ý kiến của Lm Carôlô như thế nào khi nói: Trong chuyện Giona, hình ảnh dân thành Ninivê tội lỗi lại dễ thương hơn hình ảnh Giona tiên tri. Ông không muốn tuân theo lệnh Chúa. Ông chỉ muốn dân Ninivê bị phạt. Khi dân thành này sám hối và được tha  thì ông giận Chúa. Chúa dùng tấm gương của họ để kêu gọi Giona sám hối. Thật lạ lùng: người giảng sám hối lại sám hối sau người nghe giảng. Là những người giảng cho người ta sám hối trong Mùa Chay này, Linh mục tu sĩ chúng ta nghĩ sao về chuyện này?

  1. Khi được hỏi làm sao để có thể giúp đỡ cho rất đông người nghèo khó như vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta trả lời: “Chúng tôi không phục vụ để thành công, chúng tôi phục vụ để làm chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa Tình yêu”.

Trong niềm tin của người Do thái, câu chuyện tiên tri Giona là một câu chuyện lạ lùng. Ông là một người nước ngoài, nhưng đã đến thành Ninivê để loan báo Lời Thiên Chúa. Dân ở đây tin tưởng ông và hoán cải. Đức Giêsu cũng đã đến, đã làm nhiều phép lạ và kêu gọi dân sám hối, nhưng họ không nghe vì không tin Người đến từ Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã đến trần gian 2000 năm, nhưng ngày nay, còn có rất nhiều người chưa tin Người là Thiên Chúa. Thế giới hôm nay ngập tràn bạo lực, vô cảm và thiếu vắng tình thương. Chúng ta phải làm gì  để dấu lạ tình yêu Thiên Chúa được tỏ ra trong trần gian này?

  1. Truyện: Hai chữ  S và T.

Tại một miền quê ở nước Mỹ vào thời mới lập quốc, có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn cắp cừu, dân chúng trong làng đã mở tòa án nhân dân để trừng phạt.

Sau khi nghe báo cáo về tội trạng của họ, mọi người nhất trí trừng phạt bằng cách khắc trên trán tội nhân hai cữ viết tắt S T, có nghĩa là “người ăn cắp cừu”. Người ta đã dùng sắt nung đỏ khắc trên trán họ hai chữ S T rồi thả về. Hai chữ  ST thành hai vết sẹo rõ ràng trên trán họ, khiến họ xấu hổ vô cùng. Vì thế, một trong hai người ăn trộm không chịu nổi sự xỉ nhục nên đã trốn sang một vùng khác để sống. Nhưng anh không thể xóa nhòa được hai chữ viết tắt trên trán của mình. Bất cứ người lạ nào gặp anh đều hỏi anh về ý nghĩa của hai chữ ấy. Một lần nữa, không chịu nổi sự nhục nhã, anh lại rời bỏ nơi ấy và lang thang sang miền khác, nhưng đến đâu anh cũng bị người ta hỏi về hai chữ tắt ấy. Cuối cùng mòn mỏi trong cay đắng anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.

Đó là người anh, còn người em thì sao? Anh ta nghĩ rằng: “Nếu anh mình đã bị sự nhục nhã gậm nhấm đến độ phải trốn suốt cả cuộc đời, thì anh lại tự nói với mình, tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy con cừu, tôi phải ở lại đây và tôi phải tạo lại sự tin tưởng nơi những người xung quanh và nơi chính tôi”. Với quyết tâm đó, anh đã ở lại trong xứ sở của mình, và không bao lâu anh đã xây dựng được cho mình một sự nghiệp cũng như danh thơm của một người thanh liêm chính trực.

Nhưng cho dù năm tháng có qua đi, hai chữ ST vẫn còn ghi đậm tên vầng trán của anh. Ngày kia, một người lạ mặt hỏi cụ già trong làng về ý nghĩa hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng chữ viết tắt ấy có nghĩa là “thánh thiện”.

Suy Niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa gởi đến cho ta. Cần phải biết đón nhận bằng cách thành tâm lắng nghe lời khôn ngoan của Tin Mừng, đồng thời tin vào việc làm và đời sống của Chúa Giêsu để hoán cải.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong tình yêu nhân loại, con thấy không gì đau khổ cho bằng nghi ngờ và từ chối tình yêu của nhau. Và từ đó con hiểu được phần nào Chúa rất khổ tâm vì con lòng chai dạ đá. Chúa yêu thương con và đã hiến trọn cuộc đời của Chúa để biểu lộ tình yêu của Chúa Cha đối với con. Tin Mừng của Chúa, lòng thương xót tha thứ của Chúa, tình yêu Chúa rong ruổi đi tìm những con chiên lạc và bênh vực an ủi những kẻ khổ đau bé nhỏ, cuối cùng là sự hy sinh hiến mạng sống vì người mình yêu. Tất cả đều là lời mời gọi, là dấu chỉ biểu lộ tình yêu Chúa dành cho con. Thế mà lạy Chúa, con chưa nhận ra lời mời gọi của tình yêu. Con vẫn khép lòng và nhắm mắt như những người Do Thái xưa.

Lạy Chúa, đối với những người thực tình yêu mến, tất cả đều có ý nghĩa, mọi biến cố đều là lời mời gọi, mọi sự kiện đều là tiếng nói. Đã bao lần Chúa dùng lời Tin Mừng, lời giáo huấn của Hội Thánh, lời của cha mẹ, con cái, anh chị em, để mời gọi con. Đã bao lần Chúa để xảy đến cho con những biến cố vui buồn sướng khổ để nhắc bảo con. Nhưng con chẳng muốn thấy, chẳng thèm nghe, mà chỉ đổ xô chạy tìm những phép lạ hay những tin giật gân của dư luận. Lạy Chúa, nếu con thiếu tình yêu, thì bao nhiêu dấu lạ cũng chẳng đủ cho con. Xin Chúa ban cho con một tấm lòng thành để con đón nhận Chúa và tin yêu Chúa. Xin Chúa cho con được thật tình yêu Chúa, một tình yêu bén nhậy và tế nhị, để con về với Chúa và tựa sát lòng Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona”.

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Cả hai bài đọc Cựu Ước và Tân Ước đều nhắc tới “dấu chỉ Giôna”:

– Ngày xưa ngôn sứ Giôna đã kêu gọi dân thành Ninivê tội lỗi lo ăn năn sám hối. Mọi người trong thành, từ vua quan đến dân chúng lớn nhỏ, đều đáp lại lời kêu gọi ấy. Chúa thấy lòng thành của họ nên đã tha thứ và không phạt họ.

– Khi nhắc lại chuyện Giôna, Chúa Giêsu cảnh cáo những người do thái thời Ngài: “Dân thành Ninivê sẽ chổi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng; mà đây thì còn có Đấng hơn ông Giôna nữa”.

Như thế, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta sám hối.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Sám hối gồm 4 điều: 1/ biết mình có tội; 2/ buồn; 3/ tin vào tình thương tha thứ của Chúa; 4/ quay về với tình thương ấy. Thiếu 1 trong những điều trên thì không phải là sám hối thật.
  2. Trong chuyện Giôna, hình ảnh dân thành Ninivê tội lỗi lại dễ thương hơn hình ảnh Giôna ngôn sứ. Ông không muốn tuân theo lệnh Chúa. Ông chỉ muốn dân Ninivê bị phạt. Khi dân thành này sám hối và được tha thì ông giận Chúa. Chúa dùng tấm gương của họ để kêu gọi Giôna sám hối. Thật lạ lùng: người giảng sám hối lại sám hối sau người nghe giảng. Là những người giảng cho người ta sám hối trong Mùa Chay này, Linh mục tu sĩ chúng ta nghĩ sao về chuyện này ?
  3. Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè phung phá hết tiền của. Cùng đường, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương xót. Người cha gửi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ “Về” và kí tên cũng chỉ một chữ “Cha”.

Phúc Âm của Chúa cũng là bức điện tín gửi cho thế giới tội lỗi này, với một chữ viết “Về” và một chữ kí “Cha”. (Góp nhặt)

Suy Niệm 11: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta sám hối.

Khi nhắc lại truyện Giona, Chúa Giêsu cảnh cáo những người Do Thái thời của Ngài: “Dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giona giảng, mà đây thì còn có Đấng hơn ông Giona nữa” (Lc 11,32).

a/ Sám hối gồm 4 điều:

1/ Biết mình có tội.

2/ Buồn.

3/ Tin vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa.

4/ Quay về với tình thương ấy.

Thiếu một trong bốn điều trên đây thì không phải là sám hối thật.

b/ Sám hối là điều làm vui lòng Thiên Chúa vì qua đó con người biết nhận ra tội lỗi của mình. Nhận ra tội lỗi của mình, đó là bước quan trọng nhất trên con đường trở về với Chúa.

Đức Cha Pierre de Corbeille Tổng Giám Mục giáo Phận Seine nước Pháp, một ngày nọ thấy một tội nhân đến quì sụp dưới chân ngài để xin xưng tội. Anh ta tha thiết van nài ngay từ đầu là xin ngài hãy bắt anh nhận một việc đền tội thật nặng.

Sau khi nghe xưng thú, Đức Cha bảo:

– Tất cả tội lỗi của con hết sức nghiêm trọng. Vì vậy theo như ý con mong muốn, ta ra việc đền tội cho con là phải tự đánh đòn mỗi ngày trong 7 năm.

Anh ta ngước mắt lên khóc ròng:

– Thưa Đức cha, như thế vẫn còn quá nhẹ, không đủ đền bù tội lỗi của con, con xin được làm việc ấy vĩnh viễn cho đến chết!

Đức Cha nghe vậy thì chậm rãi bảo anh:

– Vì tấm lòng thành của con, ta quyết định bớt cho con: chỉ còn ba năm phải ăn chay và uống nước lã!

Thế nhưng, anh ta lại đấm ngực thổn thức:

– Thưa không, lạy Đức Cha, việc đền tội như thế chưa cân xứng với tội lỗi con đã phạm. Nói cho cùng con chỉ xứng đáng lãnh nhận cái chết mà thôi!

Cảm động trước lòng ăn năn thống hối của anh ta, Đức Cha Pierre de Corbeille đã đỡ anh ta dậy, nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ của anh rồi bảo:

– Này con thân yêu, việc đền tội của con bây giờ chỉ còn là đọc một kinh lạy Cha, chỉ một kinh lạy Cha thôi. Ta tin chắc Thiên Chúa sẽ hài lòng về con!

Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp tình yêu.

  1. Quả thực như thế, khi con người phạm tội, họ không còn cách nào khác để sửa lại lương tâm của mình bằng sự sám hối.

Nhận ra tội lỗi của mình, đó là bước quan trọng nhưng nếu chỉ dừng ở đó thì chưa phải là sám hối đúng nghĩa. Sám hối còn phải là làm lại cuộc sống. Có như thế thì sám hối mới có hậu.

Tạp chí kinh tế Viễn Đông mới đây có ghi lại chuyện tự nộp mình rất đáng khâm phục của một tên cướp như sau: Một đêm nọ, vì quá mỏi mệt với cuộc sống chui lủi, tên cướp khét tiếng đã ra đầu thú. Trước thái độ hồ nghi của viên công an trực, tên cướp đã chỉ vào vết sẹo để khẳng định rằng, chính mình là người  đã từng bị lực lượng an ninh tầm nã trong mấy tháng qua. Nhân viên công an vẫn tiếp tục nghi ngờ, nhất định không cho anh vào khám, còn kẻ cướp thì dứt khoát không chịu bỏ đi. Phải đợi đến sáng hôm sau, các viên chức công lực mới nhận diện được người mà họ đã truy nã trong mấy tháng qua. Tên cướp cho biết, anh đã kiệt sức vì cuộc chạy trốn, hằng đêm anh không thể ngủ yên khi nghe tiếng chó sủa, ngay cả tiếng gà gáy. Bước vào phòng giam, tên cướp nhìn vào viên công an trực của đêm hôm trước với vẻ đắc thắng.

Mọi người chúng ta đều là tội nhân. Vì thế mà từng người chúng ta cần phải sám hối. Việc sám hối như thế sẽ làm vui lòng Thiên Chúa và thần thánh trên trời. Làm sao chúng ta quên được lời quả quyết của Chúa Giêsu “Cả Thiên Đàng sẽ hân hoan vì một tội nhân hối cải”(Lc 15,7). Chẳng những làm cho Thiên Đàng vui, mà lòng sám hối, sự hoán cải còn là chìa khóa hạnh phúc và an bình cho chính bản thân ta, cho gia đình, xã hội và mọi người chung quanh ta nữa.

Lạy Chúa Giêsu,

sám hối không phải là điều dễ dàng,

bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn

để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng

khi thấy Chúa là Ðấng vô tội

mà lại đứng chung với các tội nhân,

chờ Gioan ban phép Rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành

với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.

Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh

lối nghĩ và lối sống của mình,

 Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,

dám đi đến những hành động cụ thể,

và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.

Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con

niềm vui của Giakêu,

hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. Amen.

Thứ năm sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 7, 7-12

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho.

Nào ai trong các con thấy con mình xin bánh, mà lại đưa cho nó hòn đá ư? Hay là nó xin con cá mà lại trao cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha các con, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Người!

“Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế: Ðấy là điều mà Lề luật và các tiên tri dạy”.

SUY NIỆM 1: Ban những của tốt lành

Suy niệm:

“Hãy xin thì anh em sẽ được cho, hãy tìm kiếm thì anh em sẽ tìm thấy,

hãy gõ thì sẽ được mở cho anh em.

Vì hễ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm kiếm thì sẽ tìm thấy,

ai gõ thì sẽ được mở cho” (cc. 7-8).

Biết bao người đã tin vào lời này của Đức Giêsu và đã cầu xin.

Nhiều người đã được nhận lời, nghĩa là đã được như lòng mình ao ước.

Nhiều người khác tuy không được điều mình xin,

nhưng lại được ơn vui vẻ chấp nhận tình trạng của mình,

ơn nhận ra ý nghĩa của nó, ơn có sức chịu đựng điều không thể chịu đựng nổi.

Những người này cũng coi là mình đã được nhận lời.

Tuy nhiên, một số người khác vẫn đau khổ vì thấy không được nhận lời.

Họ xin những điều rất bình thường như có một người yêu, một đứa con…

Họ xin những điều rất tự nhiên, rất hợp lẽ,

như cho con bỏ ma túy, cho chồng bỏ vợ bé, cho có công ăn việc làm.

Bao người Do thái đã cầu nguyện khi 6 triệu đồng bào của họ bị tàn sát.

Bao người Việt Nam đã cầu nguyện trong cơn bách hại dưới các triều vua.

Có Chúa không? Chúa ở đâu? Sao Chúa lặng thinh và khoanh tay?

Chúa có lòng thương xót không? Chúa có toàn năng không?

Những câu hỏi đớn đau khiến một số người mất đức tin, trở nên vô thần.

Đức Giêsu khẳng định: xin sẽ được cho, tìm thì sẽ thấy, gõ sẽ được mở.

Thiên Chúa luôn luôn đáp trả mong đợi của con người,

nhưng không nhất thiết Ngài phải cho con người đúng điều nó muốn,

vào đúng lúc và theo đúng cách con người muốn.

Con người phải tập đào sâu và thanh luyện ao ước của mình,

tập uốn ý mình theo ý của Thiên Chúa.

Rồi cuối cùng, con người cũng thấy mình được cho, được thấy, được mở.

Ai kiên trì cầu xin đều thấy mình dần dần được biến đổi.

Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chỉ ban cho con cái Ngài những điều tốt.

Nhưng đâu là điều tốt thật sự?

Đối với ta, đó là giàu sang, sống lâu, danh tiếng, thành công hay mạnh khỏe.

Đối với Chúa, không hẳn luôn là như vậy.

Điều Ngài thấy là tốt, đôi khi ta coi là hòn đá hay con rắn.

Và ngược lại, điều ta coi là tốt bây giờ thật ra là điều nguy hại mai sau.

Với cái nhìn của người cha, Thiên Chúa biết ta thực sự cần gì.

Hãy phó thác chuyện đời mình cho tình yêu quyền năng của Ngài,

dù khi còn sống ở đời này, ta không hiểu hết được tại sao.

Cầu nguyện:

Lạy Cha là Chúa trời đất,

Cha là Cha toàn năng, nhưng Cha lại không phải là nhà độc tài.

Cha không quyết định một cách vô lý và độc đoán.

Cha đã cho con người được chia sẻ tự do của Cha,

và Cha luôn tôn trọng tự do ấy,

dù con người đã lạm dụng tự do để làm điều xấu.

Lạy Cha toàn năng,

khi trao cho loài người chúng con tự do,

Cha đã muốn tự giới hạn phần nào sự toàn năng của Cha.

Bởi đó sự dữ có sức mạnh tung hoành trong thế giới này.

Khi lòng độc ác của một số người đã treo Con Cha lên,

chúng con hiểu Cha có đủ quyền năng để đưa Ngài xuống.

Nhưng Cha đã muốn Con Cha chia sẻ cái chết bất công

của bao người thấp cổ bé miệng.

Và Cha muốn cái chết ô nhục trên thập giá

trở nên dấu chỉ của tình yêu cao nhất, đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Lạy Cha toàn năng và khiêm hạ,

chúng con tin Cha vẫn đang làm việc để phục vụ chúng con.

Cha vẫn trao ban bánh và cá cho nhu cầu hàng ngày.

Cha vẫn mở cửa khi nghe tiếng gõ rụt rè của chúng con.

Chúng con tin vào tình yêu Cha dành cho từng người ngay giữa sóng gió.

Và chúng con biết mình không bao giờ thất vọng. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: HÃY XIN THÌ SẼ ĐƯỢC

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giêsu nói những lời đầy hi vọng. “Cứ xin thì sẽ được. Cứ tìm thì sẽ thấy. Cứ gõ cửa sẽ mở cho”. Câu chuyện về Hoàng hậu Ét-te là một minh họa sống động. Ta phải học hỏi tấm gương cầu nguyện của bà.

Bà được nhận lời vì chỉ trông cậy một mình Chúa. Ở trong lúc bơ vơ khốn khổ chỉ có Chúa là nơi nương tựa duy nhất. Trong thân phận cô đơn yếu thế chỉ có Chúa là điểm tựa duy nhất. Trong cơn hiểm nguy cùng cực chỉ có Chúa là vị cứu tinh duy nhất. Vì chỉ trông cậy một mình Chúa nên bà chọn cầu nguyện là giải pháp duy nhất. Là giải pháp đầu tiên. Là giải pháp cuối cùng.

Bà được nhận lời vì đi vào chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Ít-ra-en làm dân riêng để từ đó phát xuất ra Đấng Cứu Thế. Để chương trình cứu độ được thực hiện Chúa ra tay bảo vệ dân riêng Chúa đã chọn. Để trung tín với lời hứa, Chúa giải cứu Ít-ra-en trong lúc gian nguy.

Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện là đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha của ta. Còn nơi nương tựa nào vững chắc hơn là người Cha. Còn vị cứu tinh nào thần thế hơn người Cha. Cha là tất cả. Cha sẽ lo cho con tất cả.

Chúa Giê-su cũng dậy ta cầu nguyện phải đi vào chương trình của Thiên Chúa. Chúa có chương trình cho mỗi người. Chương trình đó là tuyệt hảo, tối ưu. Nếu ta cầu nguyện theo ý riêng, những điều đó chưa chắc đã ích lợi cho ta. Nhưng nếu ta cầu nguyện theo ý Chúa, điều đó chắc chắn ích lợi cho ta.

Chúa Cha là người Cha nhân lành và quan phòng, không bao giờ ban cho ta những điều có hại cho ta. Nhưng Chúa sẽ ban những gì tốt đẹp nhất cho ta không chỉ bây giờ mà còn sau này và mãi mãi.

Vì thế cầu nguyện phải đi đến chỗ hòa hợp ý ta với ý Thiên Chúa. Để ta hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Để ý ta hoàn toàn phù hợp với ý Thiên Chúa. Để ý Chúa trở thành ý ta. Khi đó ta sẽ đạt được mọi điều mong muốn và còn hơn thế nữa. Khi nào thánh ý Chúa được thể hiện, con người sẽ được hạnh phúc.

Cứ đến với Cha như người con bé nhỏ yếu đuối, chắc chắn Cha sẽ thương ban ơn che chở. Cứ gõ vào cánh cửa tình thương của Cha chắc chắn Cha sẽ mở cho con. Cứ tìm thánh ý Cha chắc chắn sẽ thấy chương trình Cha dành cho con vô cùng tốt đẹp.

SUY NIỆM 3: Khuôn vàng thước ngọc

Trong Do thái giáo có hai trường phái đạo đức: phái của Shammai khắc khổ và phái của Hilel rộng rãi. Một ngày kia, có một người đến xin học tập với Shammai, anh ta thưa: “thưa thày tôi muốn làm môn đệ thầy nhưng trước hết, xin thày cho tôi còn có thể đứng trên một chân để nghe thày giảng”. Shammai đã đuổi anh ta đi với một cuốn sách dầy về luật mà ông đang cầm trên tay. Anh ta ra đi và đến gặp Hilel và cũng nói với ông lời ấy, Hilel bảo anh: “Những gì anh không thích thì đừng làm cho người khác, đó là tóm tắt về luật”. Anh ta nhận thấy đây là bài học quí giá và anh trở về.

Khổng Tử cũng trả lời cho một đệ tử: “Ký sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì con không muốn thì đừng làm cho người ta.

Aristote đã dạy: “Đừng làm lại những điều người khác làm cho ngươi nổi giận”, Hoặc một triết gia La Mã đã bảo: “Đừng áp đặt trên người khác những điều bạn không thích”.

Trái với những tư tưởng có tính cách tiêu cực trên, Chúa Giêsu đã đưa ra khuôn vàng thước ngọc có tính cách tích cực: “Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì chính các ngươi hãy làm cho họ trước”. Đó là cốt lõi của Kitô giáo, là nét đặc biệt của Kitô giáo. Đừng là điều ác mà thôi thì xã hội chưa tốt đẹp. Chỉ khi nào mọi người bắt tay làm điều thiện, làm điều mình muốn người khác làm cho ta, lúc đó xã hội mới hy vọng tốt đẹp được.

Ước gì chúng ta hiểu thấu và thực hành bài học xử thế Chúa dạy hôm nay, đồng thời biết bắc nhịp cầu thông cảm với người khác, biết yêu thương và làm điều tốt cho mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Cầu nguyện chẳng được gì.

Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho. Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người.

Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Mô-sê và lới các ngôn sứ là thế đó. (Mt. 7, 7-12)

Tin mừng khuyến khích chúng ta hướng về Chúa luôn để cầu nguyện. Đức Ki-tô đã bảo đảm rằng những lời cầu nguyện của chúng ta không vô ích vì Thiên Chúa là Cha tốt lành hơn mọi người cha trần gian, Ngài trả lời cho những điều chúng ta xin. Nếu chúng ta kiên tâm, vững chí, bền lòng cầu nguyện, chúng ta sẽ được đoái thương. Chính Đức Ki-tô đã quả quyết thế.

Tuy nhiên, chúng ta biết không phải mọi thứ luôn luôn được như vậy. Biết bao lần chúng ta xin mà chẳng thấy cho, tìm mà không thấy, gõ cửa mà chẳng mở! Chúng ta biết rõ rất nhiều người với đức tin chân thành mạnh mẽ – và có lẽ đó là trường hợp của chúng ta – trong suốt nhiều năm cầu khẩn Chúa … và chẳng được đoái thương. Họ cầu nguyện cho người thân yêu được khỏi bệnh. Họ cầu nguyện cho người yêu trở về đường ngay nẻo chính … và chẳng thấy gì. Có phải họ cầu nguyện vô ích chăng? Có phải Đức Ki-tô đã nói quá khi Người quả quyết: “Hễ ai xin thì nhận được”. Có phải thời đó Người đã hứa mà thời nay Người không thể giữ lời hứa chăng?

Chúng ta biết rõ đây không phải là trường hợp biệt lập, nếu chúng ta khảo sát cẩn thận những lời của Đức Giê-su trong toàn bộ nội dung để soi sáng cho nhau. Lúc đó, người ta có thể tóm tắt những lời dạy của Đức Giê-su vào ba điểm sau:

Trước hết, Đức Giê-su nói với chúng ta rằng mỗi khi chúng ta hướng về Cha Người, Chúa Cha lắng nghe chúng ta và đáp lời chúng ta, Ngài không làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta. Bản văn thánh Mát-thêu đã nổi bật lên hàng đầu điều chúng ta kêu cầu.

Thứ đến Đức Giê-su cũng xác nhận Thiên Chúa không luôn luôn phải đáp lời và không cần phải ban cho những gì chúng ta cầu khẩn. Ngài đáp lời bằng ban cho những điều tốt hơn những gì chúng ta khẩn cầu. Ngài luôn luôn biết điều gì tốt hơn cho chúng ta.

Sau cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh cho chúng ta rằng chỉ có một lời cầu nguyện luôn luôn được đoái thương là lời: “Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Quên lời cầu nguyện cuối cùng này thì lời cầu nguyện của chúng ta chỉ là không tưởng, và người ta cầu nguyện chẳng được gì.

J.Y.G

SUY NIỆM 5: CẦU NGUYỆN VỚI CẢ TÂM HỒN (Mt 7, 7-12)

Có nhiều người phàn nàn và trách móc Chúa rằng: đã biết bao nhiêu lần con cầu nguyện mà Chúa đã không nhận lời! Có nhiều lời cầu nguyện đã kéo dài thời gian đến độ mỏi gối chân chùn cũng chẳng thấy Thiên Chúa đáp ứng! Vậy đâu là ý nghĩa của lời hứa: “Xin sẽ được, tìm sẽ gặp, gõ sẽ mở?”

Trước tiên, chúng ta cần xác định ngay rằng: Thiên Chúa tốt lành và luôn tìm mọi cách để ban cho con cái của mình những điều tốt đẹp hơn cả điều chúng xin.

Thứ hai, chúng ta phải thành thật mà nhận thấy rằng: có nhiều điều chúng ta xin tưởng chừng như là tốt, nhưng thực ra chỉ tốt đối với thiển ý của ta, còn thực ra thì lại là điều tai hại cho người khác hay là nguy hiểm và mất phần rỗi cho linh hồn.

Thứ ba, nhiều khi Chúa để một thời gian dài nhằm dạy cho chúng ta bài học kiên trì, trung thành, tín thác vào Thiên Chúa cách tuyệt đối.

Cuối cùng, mọi lời cầu nguyện của chúng ta phải được kết thúc bằng tâm tình: “Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Và “xin được theo ý Chúa, đừng theo ý con”.

Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta phỏng chiếu lời cầu nguyện của mình theo kiểu: “Ăn sổi ở thì”, tức là cái gì cũng muốn cho nhanh, cho mau và phải theo ý mình, trong khi đó lời cầu nguyện là biểu hiện của đời sống tâm linh, là niền tin, là tâm tình tín thác.

Hơn nữa, nhiều người ngay khi cầu nguyện cũng toát lên sự cạnh tranh, đấu đá và muốn Chúa đứng về phía mình để làm hại người khác! Hay nhiều khi cầu nguyện mà trong lòng thì kiêu ngạo, hành động thì huênh hoang, hoặc cầu nguyện với một thái độ nhàm chán như con vẹt, như chiếc máy!

Thử hỏi, cầu nguyện như thế, chúng ta có nâng tâm hồn lên với Chúa được không? Hay thực ra chỉ là qua lần chiếu lệ, còn lòng trí thì vẫn trơ trọi như gỗ đá!

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con cầu nguyện và xin ban cho chúng con có được tâm tình khiêm tốn, tín thác, trung thành. Xin cho mọi lời cầu nguyện của chúng con được làm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Chúa ban của tốt lành cho kẻ xin Người

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Beppo Sala là một cậu bé 8 tuổi. Cha mẹ cậu rất nghèo mà phải nuôi tới 6 đứa con. Mẹ cậu lại sắp sinh thêm đứa thứ 7. Tuy còn nhỏ nhưng Beppo cũng biết khi đứa bé sinh ra thì nó phải thiếu thốn như thế nào. Cậu muốn làm một việc gì đó để giúp cha mẹ. Cậu nhịn ăn quà, dùng tiền mua một chiếc bong bóng bay.

Cậu viết một bức thư ngắn cột vào bong bóng rồi thả cho bay lên trời. Bức thư viết: “Chúa ơi, trong vài tuần nữa mẹ con sẽ sinh em bé. Nhưng gia đình chúng con nghèo quá. Xin Chúa giúp chúng con tìm được một chiếc chăn và vài bộ quần áo cho nó. Đồ cũ thôi cũng được. Con là Beppo Sala, nhà ở Arcorle”. Beppo về nhà hồi hộp chờ đợi. Chờ đã ba ngày mà chẳng thấy gì cả. Đến ngày thứ tư, một nhân viên bưu điện mang tới nhà Beppo một thùng giấy lớn có ghi rõ “Người nhận: Beppo Sala, Arcorle. Người gửi: Rovingo”. Trong nhà chẳng ai có quen người nào tên Rovingo cả nên cậu bảo nhân viên bưu điện trả về người gửi. Nhưng không có địa chỉ người gửi nên cậu bé đành mở thùng ra xem. Trong thùng toàn là quần áo trẻ con rất sạch và đẹp. Có cả một chiếc chăn nhỏ nữa. Thì ra một người nào đó tên Rovingo đã tình cờ nhặt được chiếc bong bóng và bức thư của cậu bé nên đã thay Chúa gửi quà cho em của cậu.

Nhiều khi Thiên Chúa đáp lời cầu nguyện của chúng ta bằng một cách thức và vào một thời điểm mà chúng ta không ngờ (Pastor Paterno).

Suy niệm

Cha mẹ luôn thương con cái và cho những điều tốt nhất cho con. Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta hơn cha mẹ trần gian bội phần. Ngài ban phát nhu cầu cần thiết cho chúng ta. Nếu chúng ta tin và sẵn sàng phó thác hoàn toàn nơi tình yêu thương của Ngài.

Thiên Chúa luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát, như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho” (Mt 7,7-8).

Ngài là Cha nhân hậu luôn đáp trả mong đợi của người con, nhưng không nhất thiết Ngài phải cho con người đúng điều con muốn, nhưng là điều tốt lành nhất cho con theo thánh ý và tình thương của Ngài như Con Thiên Chúa đã mặc khải: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11).

Thật thế, với cái nhìn của người cha, Thiên Chúa biết chúng ta thực sự cần gì. Chúng ta hãy phó thác tất cả mọi sự của mình cho tình yêu quyền năng của Ngài.

Tuy nhiên, để được Thiên Chúa thi ân, Thầy Chí Thánh truyền cho chúng ta một khuôn vàng thước ngọc sống theo Tin Mừng: “Mọi điều anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em hãy làm cho người ta” (Mt 7,12), Chúa nhấn mạnh: “Hễ anh em đong cho người ta bằng đấu nào thì anh em sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Mt 7,2).

Con luôn mang tâm tình Thánh Vịnh cất vang lời:

“Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi” (Tv 89,2).

Ý lực sống: “Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6,38).

 Suy Niệm 7: Chúa bảo ta cầu nguyện

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện. Cầu xin là một hình thức cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa, là nói lên với Người, như với người Cha tâm tình yêu mến và tin tưởng (Mt 6,7-13). Cầu xin với chủ đích như thế, nguyên nó là được nhận rồi. Điều gì khác như xin theo nhu cầu mình muốn, trở thành phụ thuộc, người con sẽ để tùy ý muốn và sự quan phòng của người Cha. Mục đich cầu nguyện như vậy, nên ở đây Đức Giêsu chỉ vẽ về tinh thần phải có khi cầu nguyện: tin tưởng, cậy trông và bác ái.
  2. Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu dùng hình ảnh người cha và người con trong gia đình để nói lên tình nghĩa đậm đà giữa Thiên Chúa và con người. Bình thường con cái đói thì xin cha bánh ăn, và bình thường người cha thỏa mãn nhu cầu của con cái, chứ chẳng có người cha nào con cái xin cá lại cho rắn, xin trứng lại cho bọ cạp.

Vậy một người cha người mẹ trần gian mà còn đối xử như vậy với con cái thì huống chi là Thiên Chúa, là Đấng tốt lành gấp ngàn vạn lần cha mẹ trần gian. Cho nên, điều mà Chúa muốn nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay là Chúa muốn nói đến mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài là mối tình phụ tử, cha con.

Trong gia đình con cái có thể đến với cha mẹ bất cứ lúc nào để trình bầy những nhu cầu của chúng, chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể đến với Chúa bất cứ lúc nào, để trình bầy nỗi lòng của chúng ta với Ngài.

  1. Theo Đức Giêsu,trong khi cầu nguyện, chúng ta cần phải có ba thái độ sau đây:
  2. a) Tin tưởng: Đức Giêsu đã dạy: “Hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho”. Còn lời nào có sức khuyến khích chúng ta cầu nguyện hơn những lời Đức Giêsu. Thiên Chúa là cha yêu thương đối với tất cả con cái Ngài. Sở dĩ chúng ta không cầu nguyện vì chúng ta không tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Tin mà chưa cầu nguyện là chưa tin thật.

Tác giả Đường Hy vọng đã nhận định: “Con ngạc nhiên vì nhiều người  mất ơn gọi, mất đức tin và phản bội Giáo hội ư? Trong bao nhiêu lý do,có một lý do chính, đó là họ đã bỏ cầu nguyện từ lâu rồi”.

  1. b) Cậy trông: Cầu nguyện thì phải trông cậy. Quả vậy, hiệu quả của lời cầu xin không do công lao của con người, nhưng do lòng nhân hậu và do lòng thương xót của Thiên Chúa.

Trong thực tế, nhiều khi tha thiết xin mãi mà không được như mình cầu mong. Tại sao? Vì chúng ta cầu xin theo cách nhìn của loài người chứ không phải theo cách nhìn của Thiên Chúa. Ngài biết chắc chắn điều chúng ta xin không thực sự lợi ích  và cần thiết cho phần rỗi của ta, Vì thế, hãy kiên trì cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh và đón nhận mọi sự theo thánh ý Chúa. Vì thế, lời cầu nguyện mẫu mực là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, xin Cha cất chén đắng này xa con; nhưng xin làm theo Thánh Ý Cha chứ không theo ý con”.

  1. c) Bác ái: Để lời cầu xin được Thiên Chúa chấp nhận, Ngài đòi chúng ta phải có đức bác ái với mọi người. Và đây là khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta theo:

– Chúa Giêsu dạy: “Mọi điều anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em hãy làm cho mọi người” (Mt 7,12).

– Đức Khổng Tử khuyên: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: điều ngươi không muốn người ta làm cho mình, thì đừng làm cho người khác.

– Người Hy lạp và Rôma cũng vậy. Nicoles, vua Hy lạp đã truyền cho quần thần: “Đừng làm cho người khác điều khiến cho ngươi tức tối, như ngươi đã kinh nghiệm lúc rơi vào tay họ”.

– Còn hoàng đế Rôma là Severus đã truyền khắc câu châm ngôn của phái Khắc kỷ vào tường cung điện để luôn nhớ mà suy nghĩ: “Điều ngươi không muốn người ta làm cho mình, đừng làm cho bất cứ ai”.

  1. Truyện: Lá thư của cậu Beppo Sala.

Beppo Sala là một cậu bé 8 tuổi. Cha mẹ cậu rất nghèo mà phải nuôi tới sáu đứa con. Mẹ cậu lại sắp sinh đứa thứ bảy. Tuy còn nhỏ nhưng Beppo cũng biết khi đứa bé sinh ra thì nó phải thiếu thốn như thế nào. Cậu muốn làm một việc gì đó để giúp cha mẹ. Cậu nhịn ăn quà, dùng tiền mua một chiếc bong bóng bay. Cậu viết một bức thư ngắn cột vào bong bóng rồi thả cho bay lên trời. Bức thư viết: “Chúa ơi, trong vài tuần nữa mẹ con sẽ sinh em bé. Nhưng gia đình chúng con nghèo quá. Xin Chúa giúp chúng con tìm được một chiếc chăn và vài bộ quần áo cho nó. Đồ cũ thôi cũng được. Con là Beppo Sala, nhà ở Arcorle”.

Beppo về nhà hồi hộp chờ đợi. Chờ đã ba ngày mà chẳng thấy gì cả. Đến ngày thứ tư, một nhân viên bưu điện mang tới nhà Beppo một thùng giấy có ghi rõ “Người nhận: Beppo Sala, Arcorle. Người gửi: Rovingo”.

Trong nhà chẳng ai có quen người nào tên Rovingo cả nên cậu bảo nhân viên bưu điện trả về người gửi. Nhưng không có địa chỉ người gửi nên cậu bé đành mở thùng ra coi. Trong thùng toàn là quần áo trẻ con rất sạch và đẹp. Có cả một chiếc chăn nhỏ nữa. Thì ra một người nào đó tên Rovingo đã tình cờ nhặt được chiếc bong bóng và bức thư của cậu bé nên đã thay Chúa gửi quà cho em của cậu.

Nhiều khi Thiên Chúa đáp lời cầu nguyện của chúng ta bằng một cách thức và vào một thời điểm mà chúng ta không ngờ (Pastor Paterno).

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa là Cha nhân lành không hờ hững trước những thiếu thốn của con người. Điều cần thiết là con người phải biết cậy trông vững vàng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con thú thật với Chúa: đã nhiều lúc con có cảm tưởng là Chúa hờ hững trước những lời cầu xin của con. Có nhiều điều con cầu xin hoài mà chẳng được, thậm chí những điều theo con là rất xứng đáng và cần thiết, mà con xin mãi chẳng thấy Chúa ban. Xin Chúa tha thứ cho con tội nghi ngờ tình thương của Chúa. Đồng thời soi sáng cho con nhận ra những ơn lành Chúa vẫn đang tuôn đổ cho con hằng ngày để con tiếp tục trông cậy vào Chúa mỗi ngày một vững vàng hơn.

Chúa chẳng để cho ai cầu xin với Chúa phải trở về tay không. Tuy thế, con biết rằng Chúa nhân lành và khôn ngoan, không ban một điều gì có hại cho con. Có nhiều điều theo thiển ý của con là tốt, nhưng theo Thượng Trí Chúa, Chúa biết chẳng tốt lành gì cho phần rỗi của con. Hơn nữa, có nhiều điều là ơn lành Chúa ban mà con lại như mù lòa chẳng nhận ra. Con xin cho được đủ ăn đủ mặc, Chúa cứ để con túng cực, nhưng lại ban cho con ơn vững tin vào Chúa hơn. Con xin cho hết bệnh hoạn tật nguyền, Chúa chẳng chiều theo ý riêng con, nhưng lại ban cho con ơn biết cảm thông với những anh chị em đau ốm tật nguyền mà trước đây con khinh miệt.

Xin Chúa giúp con luôn vững tin vào Chúa, và xin dạy con biết cầu nguyện những điều hợp ý Chúa. Chỉ có Chúa mới biết được điều gì cần thiết và ích lợi thật cho đời con. Con xin dâng cuộc đời con cho Chúa. Con xin dâng gia đình con cho Chúa. Con tin vào Lời Chúa: “Ai xin thì sẽ được”. Con tin Chúa là Cha trên trời sẽ ban sự tốt lành cho con. Amen.

Ghi nhớ: “Ai xin thì sẽ nhận được”.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Bài đọc Cựu Ước trích lời cầu xin của bà Esther. Chúng ta hãy nhớ lại hoàn cảnh lúc đó: Dân Do Thái đang sống kiếp lưu đày bên Babylon. Tướng Aman không thích dân Do Thái nên xúi dục vua Babylon ra chiếu chỉ tàn sát người Do Thái trong khắp đế quốc. Khi đó người ta nghĩ không ai ngoài bà Esther có thể cứu họ. Esther là người Do Thái nhưng được làm hoàng hậu trong cung điện. Phần bà Esther thì thấy công việc quá khó khăn và nguy hiểm, nên bà chạy đến Chúa kêu xin Ngài giúp. Kết quả là tình thế đảo ngược hoàn toàn: vua rút lại chiếu chỉ, dân Do Thái khỏi bị tàn sát, ngược lại Aman người muốn hại họ thì bị giết trên chính cột hành hình mà ông dựng lên để giết người Do Thái.

Bài Phúc Âm hôm nay có hai ý:

– Chúa Giêsu dạy phải tin tưởng khi cầu xin, bởi vì “ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho” (gương bà Esther minh họa cho ý này).

– “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế” (Tướng Aman là một hình ảnh minh họa ngược cho ý này: ông muốn hại người Do Thái, rốt cuộc chính ông bị hại).

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Theo ánh sáng của bài đọc Cựu Ước (chuyện bà Esther), sự cầu xin mà Chúa Giêsu khuyến khích ta làm chính là cầu xin được giải thoát khỏi mưu mô nguy hiểm của kẻ thù. Kẻ thù của chúng ta ngày nay là ma quỷ, mưu mô nguy hiểm nó giăng sẵn để hại ta là tội lỗi. Nếu ta xin Chúa cứu ta khỏi tội, thì chắc chắn Chúa sẽ nhậm lời.
  2. Điều thứ hai Lời Chúa dạy ta hôm nay là “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế”.
  3. Những câu tương tự với lời Chúa Giêsu dạy:

– Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân (Khổng Tử)

– Những gì anh không thích thì đừng làm cho người khác. Đó là tóm tắt tất cả lề luật (Rabbi Hillel)

– Đừng làm lại những điều người khác làm cho ngươi nổi giận (Aristote)

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Ý chính của các bản văn Phụng vụ hôm nay một lần nữa lại dạy chúng ta về sự cầu nguyện, một trong ba việc quan trọng phải làm trong Mùa Chay.

  1. Trước hết khi cầu nguyện, Chúa bảo: phải có lòng tin. “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).

Năm 1868, trong tuần đại phúc tại Aix, một vị thừa sai được mời đến để giảng. Trong một bài giảng, ngài đã kể một câu chuyện làm xúc động mọi người. Ngài đã kể lại một sự việc có thật đã xảy ra trong cuộc đời của Ngài. Ngài nói:

– Cách đây ít năm, một người mẹ thấy giờ chết của mình đã gần. Các con cái bà đều đến vây quanh giường, chỉ thiếu có một đứa. Đứa con này bị tù vì một tội ác. Điều đó đã góp phần vào việc làm cho mẹ nó mất sớm. Dẫu thế, người mẹ hấp hối muốn thử một lần cuối để đưa đứa con mình về nẻo chính đường ngay. Mặc dầu cho tới khi đó, mọi lời cầu nguyện của bà xem ra đều vô hiệu. Người ta đã làm đơn xin người quản đốc trại giam cho đứa con của bà được gặp bà lần cuối.  Sau khi xem xét hoàn cảnh của người mẹ đáng thương, viên giám đốc trại giam đã bằng lòng. Với lính tráng bảo vệ cẩn mật, phạm nhân đã được dẫn độ đến bên giường mẹ để hắn có thể nhìn mẹ một lần cuối. Và đứa con tội lỗi kia đã được dẫn đến bên giường của mẹ mình. Người mẹ đã không còn đủ sức để nói một lời với con. Dầu vậy bà đã dồn mọi tàn sức để mở mắt nhìn con một lần cuối với vẻ thật đau buồn. Sau đó bà đã ra đi. Trên khuôn mặt của bà người ta thấy toát lên một sự thanh thản, như là một người đã được thoả mãn tất cả những ước vọng của cuộc đời mình.

Sau đó tù nhân lại được đưa về trại giam. Thật không ngờ cái nhìn của bà mẹ đã như một phép lạ. Trở về phòng giam, đứa con của bà đã quì xuống và bắt đầu cầu nguyện. Ít lâu sau đó, anh đã cởi bỏ được gánh nặng tội lỗi sau khi xưng tội. Ơn thánh Chúa đã tiếp tục tác động trên anh. Sau thời gian giam giữ, anh được trả tự do rồi anh xin dâng mình cho Chúa và anh đã trở thành một linh mục”. Nói tới đây, ngài dừng lại một chút rồi với một giọng đầy cảm xúc, Ngài nhấn mạnh từng tiếng: “Và người con đó, chính là tôi đây”.

Sau đó ngài nói với mọi người: “hãy can đảm và trông cậy, hỡi anh chị em tín hữu thân mến. Kẻ tội nhân có lỗi đến đâu thì lòng nhân hậu và tình thương xót của Thiên Chúa còn to lớn hơn gấp bội”. Những lời đó đã làm xúc động mọi người tham dự. Họ được tràn đầy lòng tin tưởng. Họ đã cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa qua câu chuyện có thật họ vừa được nghe và họ đã thống hối xưng thú mọi tội lỗi cách thành thật.

  1. Thứ đến: Chúa dạy khi cầu nguyện phải có lòng thành. Lòng thành là lòng tốt đối với mọi người  “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì hãy làm cho người ta” (Tướng Aman là một hình ảnh người không có lòng tốt nên rốt cuộc chính ông lại bị hại).

 Đây là những câu tương tự với Lời Chúa Giêsu dạy:

– Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân (Khổng Tử).

– Những gì anh không thích thì đừng làm cho người khác. Đó là tóm tắt tất cả lề luật (Rabbit Hillel).

Trong kho tàng Nhà Phật có câu chuyện nổi tiếng này:

Một hôm, có một gã khùng kia nghe Đức Phật dạy rằng: đừng bao giờ lấy ác báo ác. Ngày nọ, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính thử xem Phật có sống được điều Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ, và gọi Ngài là tên đần độn.

Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ, Đức Phật vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Chờ cho đến khi hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Phật mới lên tiếng:

– Này con, nếu có một người nào đó không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho, thì món quà ấy sẽ đi về đâu ?

Gã khùng cay cú đáp:

– Thằng điên nào mà chả biết, dĩ nhiên là món quà ấy sẽ trở về lại với người đem cho.

Đức Phật liền nói:

– Hỡi con, con vừa tặng cho ta rất nhiều lời thóa mạ, nhưng ta chẳng nhận đâu nhé!

Gã khùng liền câm miệng không thốt ra được lời nào nữa. Đoạn Đức Phật nói tiếp:

– Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện, thì cũng giống như hắn ta khạc nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc ra không làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại sẽ rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế, kẻ nào thóa mạ một người nhân đức, thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt hắn mà thôi.

Chúng ta hãy nghe lại một lần nữa lời của Chúa Giêsu: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).

Thứ sáu sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 5, 20-26

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.

Các con đã nghe dạy người xưa rằng: Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án. Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục.

Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng bạc cuối cùng!”

SUY NIỆM 1: Làm hòa

 

Ngày 5-2-2009, trong một cuộc gặp gỡ thường niên có tính tôn giáo,

Tổng thống Mỹ Barack Obama đã chia sẻ với các tham dự viên:

“Dù chúng ta chọn niềm tin nào, hãy nhớ rằng

chẳng có tôn giáo nào lấy căm thù làm giáo lý chủ yếu cho mình…

Chẳng có Thiên Chúa nào lại dung túng

chuyện cướp đi mạng sống của một người vô tội.”

Trên núi Sinai, ông Môsê đã nhận được giới răn “Ngươi chớ giết người.”

Đức Giêsu cho thấy uy quyền của mình trong việc giải thích giới răn ấy.

“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”

Ngài đã đẩy giới răn này đi xa hơn nhiều, vào tận trái tim con người:

“Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa” (c. 22).

Tình cảm nóng giận có thể dẫn đến nhiều chuyện không hay.

Nó khiến người ta dùng lời nói mà lăng mạ, làm nhục người khác.

Giận mất khôn, nóng giận thậm chí có thể đưa đến chỗ giết người.

Nhưng Đức Giêsu không muốn loại trừ thứ nóng giận chính đáng,

như ta thấy có nơi Ngài (x. Mc 3,5; Mt 23,17).

Mùa Chay là thời gian dành cho việc làm hòa với người anh em.

Đây là công việc vừa quan trọng, vừa cấp bách.

Quan trọng đến nỗi đòi ta để của lễ lại trước bàn thờ

và đi làm hòa với người anh em đó, rồi mới trở lại dâng của lễ.

Tương quan với Thiên Chúa cần được diễn ra trong bầu khí hòa thuận.

Chúa chỉ nhận lễ vật khi trái tim ta bình yên.

Điều đáng lưu ý là chúng ta phải đi làm hòa

với các anh em đang có điều bất bình với ta,

phải đi bước trước làm hòa dù ta chẳng phải là người gây chuyện.

Nhưng cũng phải làm hòa với cả thù địch của mình (c. 25).

Trên đường bị đưa đến cửa công, cần mau mau dàn xếp cho ổn thỏa.

Cần trả ngay món nợ chưa thanh toán, kẻo bị kết án và tống ngục.

Làm sao thời gian Mùa Chay vừa là thời gian ta làm hòa với Chúa,

vừa là thời gian ta làm hòa với một người đang sống gần bên.

Đó là thời gian người con cả thôi đứng ngoài cổng,

nhưng vào nhà để chung vui với cha và ôm lấy người em.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau

để làm thành một vòng tròn khép kín.

Sau đó chúng con hiểu rằng

cần phải buông tay nhau

để nhận những người bạn mới,

để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng

và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng

cần phải nối vòng tay lớn

xuyên qua các đại dương và lục địa.

vòng tay người nối với người,

vòng tay con người nối với Tạo Hóa.

Chúng con thích Chúa

đứng chung một vòng tròn

với tất cả loài người chúng con,

nắm lấy tay chúng con

và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá

giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau

và nhận nhau là anh em. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: THANH TẨY TÂM HỒN

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa là tình yêu. Tội lỗi đem đến chết chóc. Thiên Chúa không ngừng mong chờ, thúc giục con người từ bỏ tội lỗi, sống công chính để được sự sống.

Thiên Chúa mong muốn con cái Người công chính hơn người Biệt phái. Nếu người Biệt phái chỉ giữ lề luật theo hình thức, Thiên Chúa mong muốn con cái của Người giữ lề luật bằng tình yêu.

Theo luật thường, ai xúc phạm đến thân xác đồng loại mới bị trừng phạt. Nhưng Chúa dậy ta ai xúc phạm đồng loại chỉ bằng lời nói, thậm chí chỉ trong tư tưởng thôi cũng đã bị trừng phạt rồi.

Như thế Chúa không hài lòng với vẻ hài hòa bên ngoài. Chúa nhìn tận đáy sâu tâm hồn. Chúa đòi hỏi tình yêu thực sự phát xuất từ đáy lòng. Vì thế, không làm ác là chưa đủ. Vì nếu ta chất chứa lòng ghen ghét trong tâm hồn thì mầm mống chiến tranh hận thù vẫn còn đó. Sẽ có lúc bùng nổ. Không làm ác mới chỉ bằng người Biệt phái mà thôi. Chúa muốn con cái Chúa phải công chính hơn người Biệt phái. Phải có tình yêu từ đáy tâm hồn. Phải nghĩ tốt và nói tốt cho người khác.

Và ngạc nhiên chưa, Chúa còn đi một bước nhảy vọt. Buộc ta phải làm hòa với người bất bình với ta. Tại sao thế? Vì Chúa muốn thế giới sạch bóng thù hận ghen ghét để tình yêu thống trị. Dù ta không gây ra chia rẽ bất hòa, ta vẫn có nhiệm vụ hàn gắn chia rẽ bất hòa. Vì ta đã là duyên cớ dù vô tình cho người oán ghét. Vì ta có nhiệm vụ tiếp tay với Chúa làm cho thế giới sống hài hòa.

Chỉ sau khi làm hòa ta mới có thể dâng của lễ. Vì Chúa là tình yêu không thể nhận của lễ khi thế giới còn chia rẽ bất hòa. Vì của lễ ta dâng đẹp lòng Chúa không phải là lễ vật đắt tiền quí giá, nhưng là sự hi sinh kiến tạo hòa bình, xây dựng tình yêu. Điều đó buộc ta không chỉ thanh tẩy mình mà còn phải thanh tẩy cả thế giới. Không chỉ tắm rửa cho bản thân, nhưng con phải lau sạch cả căn nhà. Không chỉ không giận ai mà còn phải làm cho không ai giận mình. Lúc ấy thế giới mới thật sự tươi đẹp.

Nếu thế mùa chay này tôi còn rất nhiều việc phải làm để xứng đáng dâng lễ Chúa Phục Sinh.

 

SUY NIỆM 3: Tha thứ

Vào thời thế chiến thứ nhất, khi nhận được tin con trai yêu quí của mình tử trận, nữ bá tước Litsi rất đau khổ và hầu như mất cả nghị lực. Tuy nhiên bà vẫn cố gắng lao mình vào việc chăm sóc bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập.

Một ngày nọ, một binh sĩ Đức được chở tới bệnh viện. Dù người lính này thuộc phe đối nghịch nhưng bà vẫn tận tình săn sóc. Khi soạn đồ đạc của anh, bà thấy chiếc ví và đồng hồ của con trai mình trong túi áo người lính. Vừa bàng hoàng, vừa tức giận, bà đã thốt lên: “Đây đúng là kẻ đã giết con tôi”. Nhưng ngay lúc đó một mảnh giấy trong chiếc ví của con bà rơi ra, bà vội nhặt lên đọc; nét chữ quen thuộc đập vào mắt bà: “Mẹ yêu quí, con luôn nhớ đến và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng quá đau buồn, hãy can đảm chịu đau khổ và cầu nguyện cho con”. Sau một hồi xúc động, bà cúi xuống tiếp tục săn sóc người lính một cách tận tình. Những giọt nước mắt tha thứ trào ra từ đôi mắt bà.

Trong cuộc sống thường ngày, chắc chắn chúng ta không có dịp để tha thứ cho những xúc phạm nặng, nhưng những phiền lòng nho nhỏ thì không thiếu và do đó chúng ta luôn được mời gọi để tha thứ. Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã ghi lại kinh nghiệm như sau: “Đừng tức tối vì người ta chỉ trích con, hãy cám ơn vì còn bao nhiêu tồi tệ khác nơi con mà người ta chưa nói tới. Chúa nói: nếu ai làm mất lòng con, hãy để của lễ về làm hoà với người ấy trước; còn con, con làm ngược lại: cứ dâng của lễ và phóng thanh cho mọi người biết. Con không khuyết điểm tại sao lại tức tối và tấn công khuyết điểm của người khác.”

Thật ra, tha thứ không phải là điều dễ. Nhưng đó lại là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng: “Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có điều bất bình với ngươi, hãy đặt cuả lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ”. Tha thứ không có nghĩa là một sự cắt đứt, nhưng là bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với người anh em, theo gương Chúa đã tha thứ và bắt đầu lại mãi với mỗi người chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Sự thánh thiện đích thực

Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau:

Tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.

Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:

– Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?

Người đàn bà trả lời:

– Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.

Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:

– Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?

Người đàn bà liền nói:

– Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.

Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:

– Thế bà cầu nguyện cho ai?

Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:

– Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.

Chân phước Marchello ngắt lời bà:

– Bà không cầu nguyện cho bà sao?

Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:

– Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.

Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.

Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.

Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”

Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn” đó sao?

Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Anh hãy làm như vậy

Thầy bảo thật cho anh em biết nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

“Anh em đã nghe luật người xưa rằng: Chớ giết người, ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì phải đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Mt. 5, 20-22)

Mọi người làm thế, anh hãy làm như vậy! hay câu: “Ai sao, tôi vậy”. Đó là một trong câu châm ngôn được rêu rao trong công chúng. Trong thế giới chúng ta đang sống, những phương tiện thông tin không mấy khi loan tin đúng đắn và càng ít tính chất giáo dục. Chúng ta luôn là nạn nhân bị xô đẩy bởi những quảng cáo nhằm đoàn ngũ hóa từ cách hành động đến lối suy nghĩ của chúng ta. Người ta nhấn mạnh chúng ta phải ăn những món ăn này, uống những thứ nước kia, thí dụ họ bảo phải ăn thứ dồi xúc xích này vì mọi người ăn nó, phải uống nước ngọt kia vì mọi người uống nó. Cả đến cách ăn mặc cũng phải mặc quần áo đồng phục, nam nữ như nhau. Chúng là dấu chỉ của phong trào đoàn ngũ hóa, làm mất nhân cách độc đáo của mình và hóa thành đồng loạt. Khuynh hướng này còn dẫn tới cả phương diện luân lý và lối hành xử cá nhân nữa: mọi người làm thế, anh cũng phải thế … như thể người ta đúc khuôn hạnh kiểm bắt mọi người chui vào đó cho đồng đều.

Ngôn sứ Ê-giê-ki-en nhắc nhở chúng ta phải nhớ đến trách nhiệm cá nhân. Chúng ta là những cá nhân nghĩa là chúng ta có những chọn lựa những hành vi xấu tốt theo cá tính mình và bảo đảm về những hậu quả đó. Chúng ta không thể chất những gánh nặng lên vai người khác. “Ta sẽ phán xét mỗi người theo đường lối của họ”. Người công chính sống theo đường công chính của mình, kẻ dữ sẽ chết vì đường hư đốn của nó. Họ sẽ bị xử theo sự lựa chọn cá nhân họ, chứ không theo một thời đại. Trong Tin mừng, Đức Giê-su còn đi xa hơn nữa. Luật cũ cấm giết người, Đức Ki-tô còn cấm chửi, mắng, giận anh em mình và Người còn cấm đến tận căn nguyên sinh ra những hành động xấu nữa: là tấm lòng, là con tim mỗi người.

Ai bất hòa với anh em thì mối giây liên đới với Thiên Chúa cũng bị cắt đứt. Yêu thương anh em là điều kiện cần thiết: Không có lòng mến Chúa thật, nếu lòng mến đó không bám rễ trong lòng hòa thuận với anh em, bất cứ hành vi thờ phượng nào cũng sẽ vô nghĩa và không thể đẹp lòng Thiên Chúa nếu không có hòa bình ngự trị giữa anh em với nhau.

Mùa chay là thời giờ chúng ta tới gần Chúa, nhưng Đức Giê-su nói với chúng ta rằng: “Hãy coi chừng, trước hết, hãy xem xem tâm trạng của con đối với anh em con thế nào”.

G.M

SUY NIỆM 6: TÌNH YÊU HÓA GIẢI HẬN THÙ (Mt 5, 20 –26)

Người Công Giáo chúng ta thật hạnh phúc vì được gọi Thiên Chúa là Cha và được Người nhận là con trong ân sủng. Hơn nữa, chúng ta được Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết trên Thánh Giá. Mặt khác, Ngài tiếp tục thi ân giáng phúc cho chúng ta qua Giáo Hội nơi các Bí tích.

Tuy nhiên, nếu niềm vui, hãnh diện, tự hào vì được đảm bảo bao nhiêu, thì chúng ta phải cẩn trọng bấy nhiêu, vì chính Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn Luật sĩ và Pharisiêu thì anh em không được vào Nước Trời”.

Đức Giêsu đã cắt nghĩa vấn đề này bằng một loạt bài giảng về luận lý từ chương 6 đến chương 8 trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu: đừng giận ghét, đừng gian dâm, đừng nóng giận, đừng thề thốt… Về vấn đề giận dữ, thánh Gioan còn nói rõ: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”. Hơn nữa, Ngài còn nói rõ điều kiện để được Chúa nhận lời là phải tha thứ: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.

Trong cuộc sống hôm nay, biết bao mối thù hận, giận ghét ngay trong gia đình như:  mẹ chồng nàng dâu; cha mẹ với con cái; anh chị em trong gia đình với nhau… Hay hàng xóm; nghề nghiệp, bạn bè… Biết bao nhiêu giận hờn chồng chất!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy lấy tình yêu hóa giải hận thù, vì chỉ có tình yêu mới cải tạo được con người; còn bạo lực, oán thù chỉ đem lại chết chóc mà thôi. Nếu có ai đó mà chúng ta không thể thương được thì đừng làm hại họ, nhưng hãy làm ơn cho họ.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho chúng con biết yêu thương anh chị em mình bằng tình thương của Chúa. Yêu đến nỗi đi bước trước và chết cho người mình yêu. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu đến kiện toàn luật Cựu ước

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Dưới thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của Hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị Hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathide. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dù biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.

Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính toà Quellimbourg. Đến phần Phụng vụ Lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và sấp mình dưới chân hoàng đế xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói: “Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi”. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa: “Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải bảy lần chăng”. Chúa đáp: “Ta không nói với con là bảy lần mà là bảy mươi lần bảy”.

Nghe lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những hoàng đế tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa (Theo Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A).

Suy niệm

Chúa Giêsu đến để kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương. Cho nên, luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” Luật cũ – Cựu ước, khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống… theo luật nhưng sống theo luật với ân sủng và tình yêu, luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi con người không dừng lại ở những việc làm vụ hình thức, mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).

Trong tinh thần tiến xa và hoàn thiện luật, sự hoàn thiện đó đã thiết lập luật mới, Chúa Giêsu dạy hãy biến “ách nặng nề, nô lệ” của luật cũ thành “sự tự do vui thỏa” trong Chúa Thánh Thần. Đừng câu nệ ở nơi chữ viết ràng buộc mà cảm nghiệm sâu xa từ trái tim mình là chủ đích của luật Chúa. Chúng ta thấy rõ minh họa đầu tiên qua “mối tương giao huynh đệ”: Thập giới truyền bảo “ngươi không được giết người’? Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng đích đòi hỏi của Lề Luật, khi tuyên bố rằng, việc không phạm tội sát nhân thôi chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa: “Các con đã nghe người xưa dạy rằng “Không được giết người… còn Ta, Ta bảo thật bất cứ ai phẫn nộ với anh chị em mình, thì sẽ bị phạt nơi tòa án…” (Mt 5,21-22). Thật thế, trong sự hoàn thiện của luật, không chỉ giết người mới được coi là phạm luật, phải ra toà mà ngay cả thái độ giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em cũng được coi là đã vi phạm luật. Và có ý muốn ngoại tình là đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi (x. Mt 5,27). Thậm chí chưa tích cực giải hòa với một người anh em đã gây căng thẳng, bất bình, cũng coi như là phạm luật, không còn quyền dâng của lễ cho Thiên Chúa nên Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để lễ vật lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Chúa Giêsu đến làm trọn Lề Luật trong tinh thần của luật yêu thương, có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích Lề Luật rắc rối bên ngoài làm cho con người trở nên vụ lợi và hình thức mà Chúa Giêsu đã kết án: “Khốn cho các ngươi giả hình, như mả tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha” (Mt 23,13-36).

Chúa Giêsu hoàn thiện luật khi không dừng lại, quanh quẩn ở luật pháp mà vượt qua luật, Ngài dẫn đưa nhân loại đi tới Tin Mừng (Phúc Âm) đem hạnh phúc tình thương cho con người. Chính bài giảng Bát phúc trình bày tính cách vĩnh cửu của luật pháp mà Ngài hoàn thiện.

Xin Chúa thổi tình yêu vào trong cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ mọi giới răn Đạo Chúa, mọi giáo huấn của Giáo hội Chúa Kitô, chúng ta giữ luật Chúa không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, nhưng thực thi với tinh thần của tình yêu như thánh Augustinô nhấn mạnh trọng tâm của luật Chúa là tình yêu: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm” (Thánh Augustinô).

Ý lực sống: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).

Suy Niệm 8: Hãy làm hòa với nhau

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu đến trần gian không phải để phá bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng chỉ đến để hoàn thiện thôi. Vì thế, Ngài sửa đổi tệ tục trong đời sống xã hội, gia đình và tôn giáo, điển hình như thái độ đối với kẻ thù (Mt 5,17-48).

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi môn đệ Ngài phải công chính hơn các luật sĩ và biệt phái (nghĩa là đừng bao giờ tự mãn vì đạo đức của mình). Một phương diện cụ thể của đức công chính mới là tương giao: phải coi mọi người là anh em của mình (chữ “anh em” được lặp đi lặp lại nhiều lần nhất trong đoạn này). Trên cơ sở tình huynh đệ ấy, đừng mắng chửi, cũng đừng nuôi giận hờn lâu, hãy cố gắng làm hòa với nhau.

  1. “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các luật sĩ…”

Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ cũng như chúng ta  phải công chính hơn các luật sĩ và biệt phái. Điều này có nghĩa là chúng ta phải giữ luật, bất cứ luật gì, đều phải trọn vẹn cả hình thức lẫn nội dung, bên ngoài cũng như ý hướng nội tâm: lý do là vì Chúa thấu suốt cả bên ngoài lẫn bên trong con người chúng ta.

Các luật sĩ và biệt phái chỉ chú trong đến hình thức bên ngoài của luật, nhưng chúng ta phải giữ luật từ ý hướng bên trong là căn bản, biểu lộ ra bên ngoài là hình thức.

  1. “Chớ giết người, kẻ giết người sẽ bị kết án”.

Luật cũ chỉ đòi hỏi bảo vệ thể xác con người khi áp dụng điều răn thứ năm: chớ giết người. Còn Đức Giêsu lại đi xa hơn, Ngài dạy: phải bảo vệ con người cả thể xác lẫn tinh thần. Luật mới của Chúa vượt trên luật cũ của Cựu ước và vượt trên cả công lý nữa, nghĩa là công lý hay luật pháp chỉ kết án một người phạm tội giết người cụ thể, rõ ràng. Còn Chúa nói đến nguồn gốc của tội là gì và kết án ngay từ trứng nước.

Nói rõ hơn, người xưa chỉ kết tội khi giết người, còn Chúa lên án ngay từ đáy lòng kẻ mắc tội ấy, vì kẻ giết người thì thường bắt đầu từ chỗ ghen ghét, ganh tị, giận dỗi, tức giận, và Chúa cấm ngay từ chỗ tư tưởng đó chứ không chờ cho việc xẩy ra bằng hanh động, Chúa cấm từ trong trứng nước là thế.

  1. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật..hãy đi lam hòa với anh em trước đã”.

Chúa dạy chúng ta phải làm hòa với nhau trước dâng của lễ cho Thiên Chúa. Hòa giải là một danh từ của thời đại, hòa giải là một nhu cầu cần thiết của thời đại, vì thế hòa giải là mục tiêu phải đạt tới của nhiều phe nhóm kình chống nhau, cũng như của các quốc gia trước đây, coi nhau như thù địch.

Trên bình diện tôn giáo cũng thế, các hoạt động đại kết của các Giáo hội Kitô chỉ đạt được, nếu có sự hòa giải chân thành, khiêm tốn, nhìn nhận lỗi lầm của mình, đồng thời cố gắng tỉm hiểu nhau, khám phá những gì giúp liên kết nhau, hơn là đào sâu hố chia rẽ.

Hôm nay Chúa có ý bảo chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Tha thứ là điều kiện để được thông hiệp với Thiên Chúa. Vì thế trong phụng vụ Thánh lễ, để xứng đáng cử hành và tham dự, nhất là để hiệp lễ, Hội thánh đòi hỏi chúng ta phải sám hối và tha thứ cho nhau.

  1. “Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi…”.

Việc làm hòa với tha nhân được coi như một món nợ phải đền, và đền cách trọn vẹn đầy đủ đến đồng xu cuối cùng. Chi tiết này cho thấy việc hòa giải là cần thiết và cấp bách, vì nó cần cho sự thông hiệp với Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu.

Hãy giải quyết với nhau khi còn dọc đường, đừng để khi đến tòa rồi thì đã muộn. Cùng trong một ý tưởng trên, Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta, bao lâu chúng ta còn thời giờ (trong thời đại chúng ta đang sống), hãy lo giao hòa với Chúa, với anh em và lo canh tân đời sống, đừng để khi phải ra trước tòa chung thẩm, chúng ta không còn cơ hội để sửa sai nữa, và chúng ta sẽ phải đền trả nơi luyện tội cho tới khi đủ số ngày (đồng xu cuối cùng).

  1. Truyện: Hoàng đế Othon làm hòa với em.

Dưới thời Hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của Hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị Hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng để nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.

Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, Hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính tòa Quellimbourg. Đến phần Phụng vụ Lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và sấp mình dưới chân Hoàng đế để xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói: “Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi”. Đang lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi  Chúa: “Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải 7 lần không”? Chúa đáp: “Ta không nói với con là  7 lần mà là 70 lần 7”.

Nghe lời đó, Hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những Hoàng đế tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A).

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa đòi buộc ta: không những không được giết người bằng gươm đao, súng đạn, mà còn phải diệt trừ mọi mầm mống đưa đến giết người, đó là sự giận hờn, phẫn nộ, thù ghét, xúc phạm đến nhau.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy con nội tâm hóa lề luật: không chỉ cái bên ngoài là xấu, mà cái xấu bắt đầu từ chính lòng con. Chúng con nghĩ xấu về nhau, lăng nhục, cãi vã, tranh chấp, xúc phạm đến anh em, đó là dấu chứng trái tim con còn thiếu yêu thương, chưa biết đón nhận và tha thứ cho người khác.

Con biết Chúa yêu thương loài người chúng con vì mỗi người là hình ảnh của Chúa Cha và là anh em của Chúa. Không có gì đụng chạm tới con người mà lại không đụng chạm tới chính Chúa. Chính khi nhập thể làm người, Chúa đã sống trọn vẹn kiếp người và đã tự đồng hóa với chính những kẻ bé mọn nhất. Vì thế, Chúa dạy con yêu thương anh em. Chúa dạy con chẳng những không được giết người, mà còn không được xúc phạm đến anh em khi nghĩ xấu, nói xấu, giận hờn, phẫn nộ hoặc thù ghét.

Lạy Chúa, Chúa là tình yêu và là tình yêu bao trùm chúng con. Làm sao con có thể đến với Chúa khi lòng còn chất chứa hận thù, ghen ghét ? Con chưa phải là người con của Chúa khi còn thiếu vắng yêu thương tha thứ. Xin Chúa cho con biết làm hòa với anh chị em con trước, để con xứng đáng đến trước bàn thờ Chúa dâng lễ. Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng tấm lòng, biết quảng đại, yêu thương và tha thứ.

Chúa đã rộng lượng tha thứ cho con tất cả, xin giúp con cũng biết quảng đại tha thứ cho anh chị em con. Con muốn sống yêu thương mọi người chỉ vì chính Chúa đã quảng đại yêu thương con. Amen.

Ghi nhớ: “Hãy đi làm hòa với người anh em ngươi trước đã”.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơn những người biệt phái. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.

Sau đó Chúa Giêsu đưa ra thí dụ về cách giữ một số khoản luật:

Luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.

Luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Có hai thứ thước để đo mức công chính. Thước đo của người biệt phái là xem mình có giữ luật đàng hoàng hay không; thước đo của người môn đệ Chúa là xem mình có sống trọn tình yêu thương không. Tôi thường dùng thứ thước nào ?
  2. Cách nói cường điệu của Chúa Giêsu khi giải thích các khoản luật “chớ giết người” cho tôi thấy thêm được rằng giận, mắng và chửi người anh em cũng là một cách giết chết người đó. Giết chết người anh em bởi vì tôi không coi người đó là anh em nên mới nặng lời như thế. trong lòng tôi “người anh em” kể như đã chết rồi, chỉ còn là một người dưng, một kẻ thù.
  3. Nếu Chúa đã chọn việc làm hòa trọng hơn của lễ, thì tôi có biết bao của lễ có sẵn hàng ngày chung đụng và nhiều va chạm này. Sao tôi không dâng cho Chúa ?
  4. ”Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21)

Phần lớn chúng tôi, những người trẻ, không giết người nhưng lại “giết” mình. Tội ấy có đáng xét xử không ? Chúng ta ít hỏi mình như thế bởi vì còn đắm say với men rượu, men tình trong những cuộc ăn chơi phóng túng. Kết cuộc là hủy hoại thân xác và tâm hồn, trí não và tương lai của mình cách thảm hại.

Lạy Chúa, xin cho giới trẻ chúng con biết quý trọng sự sống, và giúp nhau vun trồng sự sống, sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng con. (Hosanna)

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Lời Chúa trong sách Edêkien rất an ủi chúng ta: Chúa không chấp nhất chuyện quá khứ. Cho dù trong quá khứ ta từng lỗi phạm nhiều, nhưng nếu hôm nay ta quay về, thì Chúa vẫn coi là công chính.

Trong tác phẩm có tựa đề “Quyển Tin Mừng thứ 5”, tác giả, một người Ý, đã tưởng tượng một câu chuyện như sau:

Ngày kia các thánh trên Thiên Đàng không còn chịu nổi sự xúc phạm của con người đối với Thiên Chúa nữa, cho nên các ngài mới họp công nghị để tìm cách chận đứng tội lỗi của loài người. Sau nhiều buổi họp, cuối cùng, các vị thánh mới đồng thanh biểu quyết rằng: việc con Thiên Chúa chịu chết trên Thập Giá vẫn chưa đủ để làm cho con người sáng mắt. Vậy, cần phải dùng đến sức mạnh may ra mới trừng trị và thuyết phục được con người. Các ngài họp thành một đạo binh hùng mạnh và xâm nhập vào trái đất. Chỉ trong nháy mắt, đạo binh các thánh đã chinh phục được toàn bộ thế giới. Các ngài giao việc cai trị trái đất cho một số người công chính còn sót lại giữa loài người. Còn các kẻ tội lỗi thì các ngài tập trung tất cả về một thung lũng lớn. Tại đây, các ngài đã dựng sẵn một giàn hỏa thiêu cực lớn để tiêu diệt tất cả bọn họ. Các ngài tin chắc rằng, sau lần thanh lọc này, dòng giống con người trên mặt đất này sẽ chỉ còn lại những người công chính mà thôi. Khi mọi việc đã sẵn sàng để tiến hành sự hủy diệt, các thánh bỗng nhận thấy ở giữa đám người tội lỗi có một người đang vác Thập Giá đi về phía giàn thiêu. Hắn đang ra hiệu cho những người khác đến giúp đỡ hắn. Nhìn thấy cảnh tượng ấy, các thánh càng bực tức hơn:

– Tại sao người tội lỗi này lại muốn được xử theo hình phạt chỉ dành riêng cho Con Thiên Chúa ?

Nghĩ thế, nên các thánh cho điệu kẻ vác Thập Giá đến, trói chân tay hắn lại, rồi giải đến trước mặt thánh Phêrô để xin Ngài xét xử. Vừa nhìn thoáng qua kẻ vác Thập Giá, vị thủ lãnh các tông đồ đã nhận ra đó chính là thầy mình. Các thánh ngỡ ngàng khi nghe thánh Phêrô tiết lộ rằng:

– Con Thiên Chúa đang lẫn lộn giữa những người tội lỗi.

Lúc đó, các ngài mới nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Con người không đến để cứu thoát những người công chính, mà chính là cứu những kẻ tội lỗi” (Mt 9,13).

Trước sự ngỡ ngàng của các thánh, Chúa Giêsu nói: “Ta muốn chết một lần nữa cho các tội nhân. Bởi vì trên trần gian không có người nào có thể cứu thoát kẻ có tội khỏi cơn thịnh nộ của các thánh”.

  1. Chúa Giêsu bảo: “Ai giận anh em mình thì bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội đồng. Ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì bị lửa hỏa ngục thiêu đốt”. (Mt 5,21-22)

Những lời này Chúa Giêsu nói theo giọng cường điệu.  Sự thật không được hiểu sát nghĩa như thế. Tuy nhiên, việc Chúa phải cường điệu khi dạy ta đừng giận, đừng mắng, đừng chửi cũng đáng ta lưu ý.

Một câu chuyện nhỏ từ Internet: Câu chuyện về túi khoai tây.

Vào một buổi học, thầy giáo chúng tôi mang vào lớp rất nhiều túi nhựa và một bao khoai tây thật to. Thầy chậm rãi giải thích với mọi người rằng, mỗi khi cảm thấy oán giận hoặc không muốn tha thứ lỗi lầm cho ai, hãy viết tên của người đó lên một củ khoai tây rồi cho vào túi nhựa. Chúng tôi thích thú viết tên những người mình không ưa hay ghét hận rồi cho vào túi. Chỉ một lúc sau, chiếc túi nào của chúng tôi cũng đã căng nặng, đầy khoai tây. Thậm chí có người một túi không chứa hết khoai, phải thêm một túi nhỏ kèm theo.

Sau đó, thầy yêu cầu chúng tôi hãy mang bên mình túi khoai tây đó bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào trong thời gian một tuần lễ. Đến lớp thì mang vào chỗ ngồi, về nhà thì mang vào tận giường ngủ, thậm chí khi vui chơi cùng bạn bè cũng phải đem theo.

Chỉ sau một thời gian ngắn, chúng tôi bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và phiền toái vì lúc nào cũng có một túi khoai tây nặng nề kè kè bên cạnh. Tình trạng này còn tệ hơn nữa khi những củ khoai tây bắt đầu thối rữa, rỉ nước. Cuối cùng, chúng tôi quyết định xin thầy cho quẳng hết số khoai ấy đi và cảm thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái trong lòng.

Lúc ấy, thầy giáo của chúng tôi mới từ tốn nói: “Các em có thấy không, lòng oán giận hay thù ghét người khác đã làm chúng ta thật nặng nề và khổ sở! Càng oán ghét và không tha thứ cho người khác, ta càng giữ lấy gánh nặng khó chịu ấy mãi trong lòng. Lòng vị tha, sự cảm thông với những lỗi lầm của người khác không chỉ là món quà quý giá để ta trao tặng cho mọi người, mà đó còn là một món quà tốt đẹp mỗi chúng ta dành tặng bản thân mình”.

Mẹ Têrêsa bảo: “Nếu thực sự muốn yêu thương, ta phải học cách tha thứ”.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm ,,,)

  1. Phụng

Thứ bảy sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

Thứ Bảy: Mt 5, 43-48

Thứ Bảy 27/02/2021 – Yêu mến thù địch.

27/03 – Thứ Bảy tuần 1 Mùa Chay.

“Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời”.

Lời Chúa: Mt 5, 43-48

Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.

Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm như thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm thế ư?

Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo”.

SUY NIỆM 1: Yêu kẻ thù

Suy niệm:

“Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin

vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”

Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi

cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma.

Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.

Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.

Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.

“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43).

Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù,

nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh.

“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?…

Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng,

chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22).

Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),

Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai?

Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22).

Là những người đồng hương thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu.

Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu.

Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình.

Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa.

Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên.

Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.

Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.

“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”,

Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.

Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45),

trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.

Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời,

xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên.

Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện.

Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha

nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48).

Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi.

Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình,

những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa.

Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

đón nhận những người khác

là điều vượt quá sức con,

vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

con không thể nào kính trọng kẻ khác được,

vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con

có những ngày

mà yêu mến người khác

làm cho tim con đau nhói,

vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau

và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con

trong những ngày khó khăn đó,

xin hãy nhắc cho con nhớ rằng

tất cả chúng con đều là con cái Chúa

và đừng để con quên lời Chúa nói:

“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất

là làm cho chính Ta.” Amen. (Trích trong PRIER)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: HOÀN THIỆN NHƯ CHA TRÊN TRỜI

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa yêu thương ta biết bao. Vì yêu thương nên Chúa muốn ta là của riêng Chúa. Là dân riêng của Chúa. Là con riêng của Chúa. Cũng vì yêu thương mà Chúa đòi hỏi ta hơn người khác. Ta phải “trổi vượt mọi dân tộc, xẻt về vinh dự, danh tiếng và vinh quang…” Và vì thế ta phải trổi vượt cả về đức độ. Vì ta phải hoàn thiện như Chúa là Cha chúng ta ở trên trời là đấng hoàn thiện. Đó là phải yêu như Chúa.

Ai cũng cảm thấy hạnh phúc khi được yêu thương. Ai cũng cảm thấy đau buồn khi bị ghét bỏ. Nhưng lòng ghen ghét vẫn tồn tại. Và tình yêu vẫn thiếu thốn. Đó là vì chúng ta yêu thương theo cảm tính, theo liên hệ bình thường. Yêu những người dễ yêu. Yêu những ai yêu mình. Đó là cảm tính. Đó là vụ lợi. Đó chưa phải là tình yêu. Vì tình yêu như thế không tùy thuộc vào ta nhưng tùy thuộc vào đối tượng. Đối tượng đó quyết định tình yêu của ta. Như thế chưa phải là tình yêu. Như thế là tình yêu có điều kiện.

Chúa Giêsu dạy ta biết thế nào là tình yêu thực sự. Tình yêu thực sự không phải là cảm tính nhưng là lý trí. Tình yêu thực sự phát xuất từ trái tim mình chứ không bị điều kiện hóa bởi đối tượng. Tôi yêu vì tôi yêu chứ không phải vì đối tượng dễ yêu hay vì đáp lại tình yêu của người khác. Tình yêu như thế cứ bừng nở, dàn trải, tỏa lan, bất chấp đối tượng có đón nhận hay không, có dễ thương hay không, có đáp lại hay không.

Yêu thương đến bao phủ mọi người trong tình yêu. Yêu thương đến hoán cải mọi người nên tình yêu. Vì thế không phân biệt kẻ thân người sơ. Vì thế cầu nguyện cho những ai chưa yêu để họ được biết yêu.

Yêu thương như thế là nên giống Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu cho mặt trời mọc lên soi sáng tất cả mọi người, cho mưa xuống trên tất cả mọi người. Tình yêu như thế sẽ lan tỏa khắp nơi. Ai lấy tay che được mặt trời. Ai có thể ngăn chặn không cho mưa rơi. Hãy là mặt trời bừng sáng bất chấp quanh ta có bóng tối hận thù. Hãy là cơn mưa tràn trề để không một loài cỏ cây hoa lá nào, không một miền nào dù đất thịt hay cát sỏi, cũng đều được mưa nhuần thấm đượm.

Yêu thương như thế là tiến đến con đường hoàn thiện. Là mang trái tim Thiên Chúa bao phủ ấp ủ cả thế giới. Yêu thương như thế là biến đổi thế giới. Vì chẳng có cái ác nào có thể ngăn chặn được tình yêu ấy. Chẳng có chia rẽ hận thù nào có thể cản trở trái tim ấy mở ra.

SUY NIỆM 3: Yêu mến thù địch

Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy nhưng không tài nào ngủ lại được. Sáng hôm sau, ông nói với người bạn: “Từ nhỏ đến giờ, tôi vốn là người trí dũng, đến nay đã 80 tuổi, tôi chưa hề bị ai hạ nhục, thế mà đêm qua có người đến làm nhục tôi, tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm gặp cho được người đó, nếu không tôi phải chết mất”.

Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng với người bạn đi tìm kẻ thù. Năm năm trôi qua mà ông vẫn chưa thấy được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hậm hực vì không tìm được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.

Cicéron đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”, vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để rồi tự tiêu diệt chính mình.

Chúa Giêsu không đến để chối bỏ hận thù, nhưng để bày tỏ bộ mặt thật của nó và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan theo đúng nghĩa nhất. Chính Satan gieo thù hận trong lòng con người, đặt con người vào thế chống đối và huỷ diệt nhau. Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng cái chết yêu thương tha thứ của của Ngài.

Chỉ có yêu thương, tha thứ mới là khí giới tiêu diệt được kẻ thù. Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khí giới ấy trong bài Tin mừng hôm nay, đó là: “Hãy yêu mến thù địch và làm ơn cho kẻ ghét ngươi”.

Mỗi người là kẻ thù của chính mình. Mỗi khi chúng ta cưu mang thù hận thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt mình. Mỗi khi chúng ta khước từ tha thứ và không thi ân cho những kẻ thù ghét bách hại chúng ta, đó là lúc chúng ta tự giam hãm trong thù hận để tự huỷ hoại mình.

Kẻ thù khủng khiếp nhất, kẻ thù tiếp cận với con người nhất là cõi lòng tích chứa thù hận. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, chúng ta sẽ biến đổi kẻ thù thành bạn hữu, và lúc đó sự bình an và vui sống cũng được tái lập trong tâm hồn chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Yêu thương kẻ thù

Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: “Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ”.

Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.

“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những “anh em” được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.

Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.

Nhưng tại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chính chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, Ðấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.

Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Luân lý cởi mở

Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. (Mt. 5, 44)

Bài trích sách Đệ Nhị Luật hôm nay thiết lập bước đầu tiên đến một nền luân lý cởi mở. Thực vậy, sách này chứa đựng nhiều điều răn có tính tôn giáo, nó nhấn mạnh tới mối giây liên lạc giữa Thiên Chúa và dân Do thái: “Ngươi sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa ngươi”. Điều quan trọng ở đây là hai bên liên kết với nhau được hoàn toàn tự do chọn lựa: một bên là Thiên Chúa và một bên là dân Do thái. Và những điều răn cũng do sự chọn lựa tự do này. Giới luật theo sau sự ban ơn cứu thoát và không qua một phương tiện nào khác, vì Thiên Chúa đã cứu thoát họ trước khi họ trung thành, sự trung thành của dân với lề luật cũng không phải là cách nhận biết ơn cứu độ đã có trước. Do đó, đây là nền tảng luân lý và đường lối sống đạo ăn rễ sâu vào kỷ niệm quá khứ: “Ngươi hãy nhớ” là câu nói then chốt của sách Đệ Nhị Luật. “Ngươi nhớ rằng ngươi đã làm nô lệ trong nước Ai cập và Gia-vê Thiên Chúa đã giải thoát ngươi ra khỏi đó”. Khi nhớ đến sự tự do và giao ước, Ít-ra-en sao quên được Đấng đã yêu thương và giải phóng mình? Những lúc họ lầm lạc, bất chính, áp bức, là những lúc họ quên kỷ niệm quá khứ.

Đức Giêsu trong Tin mừng, đã rao giảng một luân lý cởi mở. Còn đối với dân Do thái chỉ biết nên trọn lành ở sự giữ luật khắt khe, nên họ chống đối một kiểu nên trọn lành mới là kiểu của Cha trên trời. Đó là ân sủng, là tình yêu hậu đãi. Đức Kitô dùng hình ảnh mặt trời, mưa tưới. Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho muôn dân không phân biệt ai, đã làm cho mưa xuống làm phì nhiêu cho mọi loài trên trái đất. Thiên Chúa không thiên vị ai. Ngài săn sóc tất cả mọi người do lòng nhân hậu của Ngài ban cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Theo gương Ngài mỗi người Kitô hữu không được phân biệt đối xử, cũng không được đặt rào cản lối với đức yêu người. Họ phải yêu cả kẻ thù mình, không được sống theo tình cảm tự nhiên, dù kẻ thù đó là người mắc nợ với mình. Luân lý cởi mở chính là tình yêu cho không điều kiện, hoàn toàn do ân huệ của Thiên Chúa. Chúng ta phải noi gương Ngài vì Ngài đã ban Con Một Ngài đến thương yêu chúng ta dù chúng ta là kẻ tội lỗi. Kitô hữu phải nhớ Đức Giêsu Kitô, nhớ hồng ân ban đầu của Thiên Chúa đã đoái thương mình để mình cố gắng nhờ ơn Chúa mà diễn tả lòng thương yêu đó trong đời sống mình.

J.G

SUY NIỆM 6: YÊU CẢ KẺ THÙ (Mt 5, 43 – 48)

Có nhiều nghịch lý trong Tin Mừng! Một trong những nghịch lý ấy là lời dạy của Đức Giêsu hôm nay. Ngài dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, có thế, anh em mới trở thành con của Cha trên trời.

Tại sao Đức Giêsu lại dạy như thế? Thưa! Vì chính Ngài đã sống như vậy. Hơn nữa, đây là đặc tính của Thiên Chúa Cha, vì “Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.

Khi Đức Giêsu mời gọi yêu kẻ thù và nên hoàn thiện như Cha trên trời, có nghĩa là Ngài muốn chúng ta phải hành động như Ngài và nên giống Thiên Chúa.

Tuy nhiên, có điều chúng ta phải cẩn trọng để không bị lầm lẫn trong chuyện yêu và thích. Yêu là làm ơn cho họ. Thích là phản ứng tự nhiên. Chính Đức Giêsu đã yêu kẻ thù, tội lỗi và làm ơn cho họ, nhưng Ngài không chấp nhận tội, vì thế, mỗi khi làm ơn, Ngài thường nói: “Hãy về và đừng phạm tội nữa”.

Mẫu gương của thánh Phanxicô cho ta thấy hai yếu tố hoàn toàn khác nhau: ngài rất gớm người cùi, nhưng lại yêu thương người cùi cách đặc biệt. Lý do: họ là hình ảnh của Thiên Chúa, được dựng nên vì tình yêu.

Mong sao, lời mời gọi của Đức Giêsu: hãy yêu kẻ thù sẽ làm cho mỗi người chúng ta đón nhận và sống trong cuộc đời chứng tá của mình, để chúng ta được trở nên giống Thiên Chúa và hoàn thiện như lời Đức Giêsu mời gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.

Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi của Chúa hôm nay khó quá! Nhưng xin Chúa ban cho chúng con noi gương Chúa để yêu bằng một tình yêu vô vị lợi và nhân từ. Xin Chúa biến đổi lòng chúng con và những kẻ thù đang tìm cách hại chúng con, để chúng con được nên một trong tình yêu. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Sống yêu thương tha thứ theo Tin Mừng

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Khi vua Louis XII được tấn phong ở Reims, ông truyền đem lại danh sách các kẻ thù nghịch của ông,. Khi đọc qua danh sách, ông đánh dấu thập đỏ bên cạnh một số tên, nhất là những người chống đối ông khi ông còn là công tước xứ Orléans. Những người vô phúc không được lòng sủng ái của vua đâm hoảng sợ khi biết rằng không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị thanh trừng. Do đó, họ tìm cách lẩn tránh khỏi triều đình. Khi được báo cáo lý do rút lui của những người này, vua Louis XII cười rộ lên và truyền lệnh gọi tất cả họ lại. Cơn sợ hãi của họ càng tăng lên bội phần.

Nhưng nhà vua nói với họ: “Ta ngạc nhiên về sự rút lui bất chợt và về lý do của sự đào thoát này của các người. Ta không hề bao giờ có ý hại các người: Vị vua nước Pháp không can dự gì vào các tranh chấp của công tước xứ Orleans. Hơn nữa, dấu thập đỏ mà ta đánh dấu bên cạnh tên của các người thay vì kích thích ta trả thù các người, thì lại khuyến khích ta khoan dung. Đúng thế, ta phải tha thứ các lỗi lầm mà các người đã làm cho ta, như Đức Giêsu Kitô trên cây thập giá đã xin Cha Người tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người”.

Suy niệm

Để đạt tới đức ái tuyệt hảo thì Đức Kitô mời gọi chúng ta yêu thương trong mọi tương quan, với cả những người mình không thích, thậm chí với cả kẻ thù: “Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Ðấng ngự trên trời”.

Có lẽ bài học khó nhất là bài học thể hiện lòng yêu thương trọn vẹn nhất trong cuộc đời: Tha thứ và yêu cả kẻ thù. Đó cũng là đỉnh cao của lòng bác ái Kitô giáo mà Chúa Giêsu đã đề nghị: Yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho người hại mình. Chính Ngài trên thập giá đã sống đỉnh cao yêu thương này và làm gương cho chúng ta khi Ngài đối xử với những kẻ giết mình bằng lời cầu nguyện với Chúa Cha và cũng là di chúc cho chúng ta: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Lời di chúc này gợi trong lòng chúng ta: Yêu thương tha thứ như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động trả thù và luôn luôn sẵn sàng đối thoại, lập lại sự giao hảo với người ghét mình, với kẻ hại mình. Sẵn sàng chia sẻ và quảng đại làm ơn: “Thi ân xóa bỏ thù hận”, cách hành xử của tôi và bạn tràn ngập yêu thương đó là luật vàng của lòng bác ái.

Như thế là sống theo lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo” (Mt 5,48).

Xin Chúa giúp chúng ta canh tân đời sống yêu thương tha thứ theo Tin Mừng.

Ý lực sống: “Có nhiều cách thức để làm việc bố thí, để giúp ta lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, nhưng không có cách nào cao cả hơn là cách chúng ta tha thứ thật lòng cho người anh em đã xúc phạm đến ta” (Thánh Augustinô).

Suy Niệm 8: Hãy yêu thương kẻ thù

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)               

  1. Để sống hoàn thiện theo gương Thiên Chúa là Cha trên trời, Đức Giêsu dạy các môn đệ không những không được báo thù (Mt 5,38-42), mà còn phải yêu thương kẻ thù nữa.

Trong bài Tin Mừng Đức Giêsu dạy các môn đệ một cách sống cao hơn: “Các ngươi đã nghe dạy hãy yêu thương thân nhân và hãy thù ghét kẻ thù. Còn Ta, Ta bảo các ngươi hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các ngươi”.

Lý do chúng ta phải yêu thương kẻ thù là: ”Các ngươi hãy nên hoàn hảo như Cha các ngươi ngự trên trời là Đấng hoàn hảo”.

  1. Tác giả sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau: “Bác ái yêu thương là tu đức liên lỉ: tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan. Tất cả con người của con cũng vậy, nhưng con phải yêu thương như Chúa Giêsu. Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết lên đó đức tính của người mà con bất bình, con sẽ thấy rằng họ không hoàn toàn xấu như con nghĩ đâu. Con đừng muốn biết quá khứ của anh em, nhưng hãy chỉ muốn biết hiện tại của anh em để khuyến khích nâng đỡ nhau. Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, là quyết định chọn hay chối Chúa, là tìm Nước Chúa, là tin vào tình yêu và vào Lời Chúa, là hành động với tất cả hăng say, là thể hiện mến Chúa yêu người ngay trong giây phút này”.
  2. Mahatma Gandhi, vị cha già của dân tộc Ấn độ, người đã tranh đấu bất bạo động, đòi người Anh phải trao trả độc lập cho dân tộc ông,  đã thực hiện đúng Lời Chúa: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ngược đãi anh em”, chính ông đã phát biểu: “Thế giới đã mệt mỏi vì sự giận ghét hận thù. Tôi cảm thấy không thể nào chất chứa trong lòng sự căm hờn thù ghét đối với bất cứ một tạo vật nào. Nhờ sự huấn luyện lâu năm trong việc tự chủ và cầu nguyện từ hơn 40 năm nay, tôi chấm dứt được sự giận ghét và oán thù đối với bất cứ người nào”.
  3. Cicéron, nhà hùng biện nổi tiếng ngày xưa đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”, vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để rồi tự tiêu diệt lấy chính mình.

Mỗi người là kẻ thù của chính mình. Mỗi khi chúng ta cưu mang thù hận thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù tự tiêu diệt mình. Mỗi khi chúng ta khước từ tha thứ và không thi ân cho kẻ thù ghét bách hại chúng ta, đó là lúc chúng ta  tự giam hãm trong thù hận để tự hủy hoại mình.

Kẻ thù khủng khiếp nhất, kẻ thù tiếp cận với con người nhất là cõi lòng tích chứa hận thù. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, ta sẽ biến đổi kẻ thù thành bạn hữu, và lúc đó sự bình an và vui sống cũng được tái lập trong tâm hồn chúng ta.

  1. Trong đòi hỏi yêu thương kẻ thù, giai đoạn đầu tiên là yêu thương  mọi người, không trừ ai. Giai đoạn thứ hai phát xuất từ giai đoạn một: một khi đã yêu thương mọi người không trừ ai, tất phải yêu thương cả kẻ thù nghịch là những người cố ý hay vô tình làm hại ta. Nếu làm được như thế là đã cố gắng trở thành toàn thiện  như Cha trên trời toàn thiện.

Mức độ tình yêu đối với tha nhân:

– Yêu người như người yêu mình , là công bằng.

– Yêu người như Chúa yêu mình, là luật bác ái.

– Yêu người như Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương nhau đó là mẫu gương tình yêu hiệp nhất.

  1. Thường tình ai cũng yêu những người gần gũi, thân thuộc với mình, còn kẻ thù thì không yêu được, như vậy là hợp lẽ phải và công bằng.  Nhưng Thiên Chúa đòi chúng ta tiến xa hơn. Đức Giêsu đòi ta mở rộng tâm hồn, kéo dài tầm nhìn vượt qua phạm vi bạn hữu, gia đình, thân cận, phe nhóm của ta.

Chúa muốn dạy chúng ta không những phải sống theo lẽ phải mà còn vượt trên lẽ phải. Bình thường chúng ta yêu bạn ghét thù, nhưng Chúa dạy chúng ta yêu bạn yêu thù, tức là Chúa dạy chúng ta đối xử với mọi người không có điều kiện nào cả, dù người đó tốt hay xấu, bạn hay thù. Chúa đưa ra ví dụ mặt trời và mưa rơi làm sáng tỏ vấn đề này.

  1. Truyện: Vua Louis XII tha thứ.

Khi Louis XII được tấn phong ở Reims, ông truyền đem lại danh sách của tất cả các kẻ thù nghịch ông, nhất là những kẻ chống đối ông khi ông còn là công tước xứ Orléans. Khi đọc qua danh sách, ông đánh dấu thập đỏ bên cạnh một số tên, nhất là tên của những kẻ mà chúng ta vừa nói ở trên.  Những người vô phúc không được lòng sủng ái của vua đâm hoảng sợ  khi biết rằng không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị thanh trừng. Do đó, họ tìm cách lẩn tránh khỏi triều đình. Khi được báo cáo lý do rút lui của những người này, vua Louis XII cười rộ lên và truyền gọi tất cả họ lại. Cơn sợ hãi của họ càng tăng lên bội phần.

Nhưng nhà vua nói với họ: “Ta ngạc nhiên về sự rút lui bất chợt của sự đào thoát này của các ngươi. Ta không hề bao giờ có ý hại các ngươi: Vị Vua nước Pháp không can dự gì vào các tranh chấp của công tước xứ Orléans. Hơn nữa, dấu thập đỏ mà ta đánh dấu bên cạnh tên của các ngươi thay vì kích thích ta trả thù các ngươi, thì lại khuyến khích ta khoan dung. Đúng thế, ta phải tha thứ các lỗi lầm mà các ngươi đã làm cho ta, như Đức Giêsu Kitô trên cây thập giá đã xin Cha Người tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người”.

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tình yêu thương đích thực không được đóng khung trong gia đình, họ hàng bạn hữu thân thuộc, nhưng cần phải được mở rộng tới hết mọi người, kể cả thù địch làm hại ta. Đó là giáo lý mới của Chúa Kitô.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đến đỉnh cao đời sống Kitô giáo trong tình bác ái yêu thương. Chúa Cha trở thành mẫu mực duy nhất cho loài người chúng con: Ngài luôn quảng đại ban ơn một cách “phung phí”. Con cảm tạ hồng ân Chúa, vì con không bao giờ xứng đáng với ơn lành Chúa ban. Dù con bất xứng yếu hèn và tràn đầy khuyết điểm…, nhưng Chúa vẫn một lòng yêu thương.

Chúa mời gọi con vươn mình tới nguồn thánh thiện của Chúa. Chúa muốn con nên hoàn thiện bằng cách thoát ra khỏi chính mình, vượt ra ngoài tình thương mến hạn hẹp trong gia đình, họ hàng thân thuộc, bạn hữu, để đi đến với tất cả mọi người, để tôn trọng, quý mến và yêu thương họ.

Nhưng Chúa ơi, yêu mến những người thân là dĩ nhiên, nhưng yêu mến những người con không ưa thật là khó! Và quý mến những kẻ làm hại con là một hy sinh quá lớn lao. Xin Chúa giúp con nhận ra rằng Chúa vẫn yêu thương họ và Chúa muốn con cũng thực hiện điều ấy. Xin cho con một trái tim quảng đại, biết hướng mở tới mọi người. Xin cho con biết mở tung cánh cửa tâm hồn để sẵn sàng đón nhận tất cả mọi người. Nhờ đó hằng ngày con vui sướng đọc lời kinh Chúa dạy với đầy đủ ý nghĩa: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

Ghi nhớ: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời”.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

  1. Bài đọc Cựu Ước khuyên tín hữu tuân giữ lề luật và huấn lệnh Chúa. Lý do là: “Người sẽ làm cho ngươi được vinh quang, thanh danh và huy hoàng hơn mọi dân tộc Người đã tạo dựng, để ngươi trở thành dân thánh của Chúa là Thiên Chúa ngươi”
  2. Bài Phúc Âm: Chúa dạy môn đệ phải biết sống một cách cao hơn: “Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con”.

Lý do cũng cao hơn: “các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Kitô hữu là con của Chúa Cha nên cũng phải cố gắng có tấm lòng yêu thương bao la như Chúa Cha. “Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương”. Biên giới của tình thương là không biên giới. Chính thiên nhiên cũng nhắc chúng ta cố gắng bắt chước tình thương không biên giới và không phân biệt của Cha trên trời.
  2. Chúa Giêsu kể ra ba mức độ đối xử với kẻ không yêu thương mình:

1/ Yêu thương.

2/ Làm ơn.

3/ Cầu nguyện.

Nếu tôi chưa thể yêu thương thì hãy cố gắng lấy ơn để báo oán. Nếu vẫn chưa thể thì ít ra là cầu nguyện cho họ.

  1. Người không tôn giáo chủ trương phân biệt rõ rệt bạn và thù và cư xử “ân oán phân minh”. Phật giáo đã nhận ra sự bế tắc của cách đối xử đó: Lấy oán báo oán, oán sẽ chất chồng. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn nữa: hãy yêu thương kẻ thù địch. Chỉ có yêu thương tha thứ mới tiêu diệt được kẻ thù.
  2. Con người là kẻ thù của chính mình. Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy. Nhưng không tài nào ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau ông nói với một người bạn: Từ thuở nhỏ đến giờ tôi chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm hôm qua có người đến làm nhục tôi. Tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm gặp cho được người đó, bằng không thì tôi phải chết mất.

Thế là sáng hôm ấy, ông cùng người bạn đi tìm kẻ thù đã khiêu khích mình. 5 ngày trôi qua nhưng vẫn chưa tìm được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hậm hực vì không tìm được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.

Cicéron diễn giả La Mã đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Đúng thế, con người tự tạo cho mình kẻ thù rồi tự tiêu diệt chính mình. (Trích món quà Giáng Sinh)

  1. Ngày nọ, Đức Giám Mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản địa cư xử thô bạo với kẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám Mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị Giám Mục không cho họ làm gì. Rồi Ngài quay lưng bỏ đi.

Nhiều năm sau. một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn vì chính ngài đã dạy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh Ngài” (Góp Nhặt)

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Kitô hữu là con của Chúa Cha, nên cũng phải cố gắng có tấm lòng yêu thương bao la như Chúa Cha. “Ngài khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương” (Mt 5,45).Biên giới của tình thương là không có biên giới. Chính thiên nhiên cũng nhắc chúng ta cố gắng bắt chước tình thương không biên giới và không phân biệt của Cha trên trời.

Chúa Giêsu kể ra ba mức độ phải đối xử với kẻ không yêu thương mình:  

a/ Yêu thương.

b/ Làm ơn.

c/ Cầu nguyện.

Nếu tôi chưa thể yêu thương thì hãy cố gắng lấy ơn để báo oán. Nếu vẫn chưa thể thì ít ra là cầu nguyện cho họ.

Người không tôn giáo chủ trương phân biệt rõ rệt bạn và thù và cư xử “ân oán phân minh”. Phật giáo đã nhận ra sự bế tắc của cách đối xử đó: Lấy oán báo oán, oán sẽ chất chồng.

Philipphê, vua nước Macedonia, khi đang đem quân vây thành Meton, có một tên cung thủ đại tài tên là Asthê đến xin vua cho hắn được sát nhập vào đội tinh binh của nhà vua. Người ấy khoe rằng, tài nghệ cung tên hay lắm, chim bay dầu lẹ đến mức nào, y cũng bắn không sai bao giờ. Vua mỉa mai bảo:

– Được, để bao giờ đánh trận với chim sẻ ta sẽ dùng đến tài ngươi.

Asthé nghe câu nói mỉa mai ấy, lấy làm căm tức vô cùng, liền chạy thẳng vào thành đang bị vây để chờ dịp trả thù.

Một hôm, Asthé đứng trên bờ thành, thấy vua Philipphê đang đi kinh lý các trại đóng binh ở ngoài thành. Asthé liền lấy một cây tên, viết vào mấy chữ: gửi cho con mắt bên phải của vua Philipphê rồi bắn xuống. Tên trúng giữa mắt phải của vua. Nhà vua tức giận vô cùng, truyền cho cận vệ ghi lên mũi tên ấy câu này: “Ta mà lấy được thành này, Asthé sẽ bị xử giảo”, rồi truyền cho quân sĩ bắn tên ấy vào thành.

Sau quả đã xảy ra đúng như vậy.

Vua Philipphê thật đã mua một giá rất đắt cái thú được nói một lời có ý mỉa mai. Nhưng mà Asthé lại mua đắt hơn cái thú trả được thù.

Lòng hiềm thù nhiều khi đưa con người đến chỗ bế tắc. Cái thói muốn châm chích người ta cũng nguy hiểm chẳng kém gì. Đành rằng, nói được những câu thâm trầm khiến cho người ta bị chạm và đau khổ nhiều khi cũng là một cái thú ở trên đời. Thế nhưng, đó không phải là điều mà lúc nào người ta cũng nên làm.

Thường thường người ta có thể tha thứ cho ta một tội ác dễ hơn là tha thứ cho ta một lời nói độc.

Chúng ta không thể quên Lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con” (Mt 5,44) và “Hãy tha thứ để được Thiên Chúa tha cho” (Lc 6,37).

  1. Hãy yêu thương kẻ thù địch. Chỉ có yêu thương tha thứ mới tiêu diệt được kẻ thù.

Hai người cùng bán hàng tại một khu phố. Vì tranh giành khách hàng nên hai người đã trở nên kình địch với nhau.

Một trong hai người này xin trở lại đạo Công Giáo. Một hôm người này đến hỏi cha xứ:

– Thưa Cha, con vẫn ghét kẻ thù địch của con, con không biết làm thế nào để có thể lướt thắng được điều này. Xin Cha giúp ý cho con.

Cha xứ hỏi:

– Kẻ thù của ông là ai ?

Sau khi đã nghe biết đầu đuôi câu chuyện, cha xứ góp ý:

– Mỗi lần có khách hàng nào đến cửa tiệm của ông mà ông không có món hàng người đó muốn mua, ông hãy giới thiệu cho người khách đó qua cửa tiệm của người đang kình địch với ông. Ông hãy cứ thử làm như thế xem sao!

Người kia đã về làm như lời cha xứ dạy và kết quả là số khách hàng đến cửa hàng của người không Công giáo mỗi ngày một đông. Nhưng đồng thời người này cũng nhận ra rằng, hàng hóa của ông bán cũng chạy hơn kể từ ngày ông thực hiện lời khuyên của cha xứ.

Thành thực mà nói, ai trong chúng ta, ít nhiều gì cũng có kẻ thù và có lẽ lúc này đây chúng ta cũng đang mang một mối hận thù hay là một sự cay đắng nào đó đối với một người đã xúc phạm đến chúng ta.

Phương thuốc hay nhất để diệt kẻ thù là biến kẻ thù trở thành bạn. Khi đó chúng ta không mất người, nhưng lại còn được thêm bạn.

Tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ có thói quen áp dụng phương pháp bất thường để kết bạn.

Một lần kia ông đã dùng lời hay ý đẹp để nói tốt về những chính trị gia đối lập với mình. Nghe biết thế, một phụ nữ thắc mắc:

– Tại sao ông lại ca ngợi những địch thù của mình như vậy, khi mà lẽ ra ông phải phê bình chỉ trích để làm hạ giá và hủy diệt họ ?

Tổng thống Abraham Lincoln đã trả lời người đã hỏi ông về vấn đề này bằng một câu nói:

– Biến thù thành bạn, đó lại không phải là cách tôi tiêu diệt kẻ thù hay sao ?

Lạy Chúa Giêsu,

Giữa một thế giới còn tràn ngập hận thù và chia rẽ.

Xin dạy con biết phục vụ và yêu thương như Chúa. Amen.