Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 1 Mùa Vọng

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 1 Mùa Vọng

Thứ Hai tuần 1 mùa Vọng.

Thứ Ba tuần 1 mùa Vọng.

Thứ Tư tuần I Mùa Vọng.

Thứ Năm tuần I Mùa Vọng.

Thứ Sáu tuần I Mùa Vọng.

Thứ Bảy tuần I Mùa Vọng.

Thứ Hai tuần 1 mùa Vọng

Lời Chúa: Mt 8, 5-11

Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một viên đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: “Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt và đau đớn lắm!” Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: “Tôi sẽ đến chữa nó”. Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi; tôi bảo người kia đến thì anh đến; tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!”

Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.

Suy Niệm 1: Từ phương Đông phương Tây

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Tín đồ Do thái giáo có tiếng về sống đức hy vọng.

Họ đã hy vọng và vẫn còn hy vọng Đấng Mêsia sẽ đến để đem ơn cứu độ.

Họ đã chờ và vẫn chờ từ bao ngàn năm nay.

Còn Kitô hữu chúng ta có tiếng về sống đức ái.

Tuy nhiên, tự bản chất Kitô giáo vẫn là tôn giáo của đức hy vọng.

Chúng ta tin Đấng Mêsia là Đức Giêsu đã đến rồi.

Ngài đến đem ơn cứu độ không phải cho riêng dân Israel,

nhưng cho mọi dân mọi nước trên toàn thế giới.

Nhưng Kitô hữu vẫn còn sống trong chờ đợi và hy vọng.

Chúng ta mong ngày trở lại trong vinh quang của Chúa Giêsu,

cũng là ngày thế giới này đi đến chỗ tận cùng, để sang một trang mới.

MARANA THA, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến (1 Cr 6, 22; Kh 22, 20).

đó là lời nguyện của các Kitô hữu trong Giáo Hội buổi sơ khai.

Đó cũng là lời nguyện khẩn thiết của chúng ta, đặc biệt trong Mùa Vọng.

Ngày quang lâm là ngày tận thế đáng sợ,

khi Chúa Giêsu trở lại xét xử kẻ sống và kẻ chết.

Nhưng đó cũng là ngày hội vui lớn nhất của nhân loại,

ngày mà niềm hy vọng của chúng ta được thành tựu viên mãn.

Ngày ấy “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc

cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời” (c. 11).

Đức Giêsu ngỡ ngàng khi thấy niềm tin lớn lao của viên đại đội trưởng.

Ông thuộc dân ngoại mà lại có lòng tin lớn hơn các người Israel khác (c. 10).

Ông tin Đức Giêsu có thể chữa lành cho người đầy tớ yêu quý của ông.

Không cần Ngài đến nhà, chỉ cần một lời nói của Ngài thôi cũng đủ (c. 8).

Lòng tin mạnh mẽ và khiêm tốn của ông đã chinh phục Đức Giêsu.

Lời của viên sĩ quan dân ngoại đã trở nên lời ta đọc trước khi rước lễ.

“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con,

nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh. ”

Đầy tớ của viên đại đội trưởng đã được chữa lành,

nhưng điều quan trọng hơn là chuyện ông có hy vọng được dự tiệc.

Đây là bữa tiệc cánh chung, bữa tiệc trong Nước Trời (x. Is 25, 6-8).

Một người dân ngoại được ngồi dự tiệc bên các tổ phụ Do thái.

Đây là điều hẳn làm cho nhiều người Do thái phải ngạc nhiên.

Mà không phải chỉ có viên đại đội trưởng,

có nhiều người từ tứ phương thiên hạ cũng được mời (c. 11).

Nước Trời như một bữa tiệc vui và thịnh soạn do Thiên Chúa thết đãi,

trong đó mọi dân tộc khác nhau cùng đến để chia sẻ và hiệp thông.

Mọi đau buồn, mọi cách ngăn đều bị xóa bỏ.

Màu tím là màu của phụng vụ Mùa Vọng,

nhưng đây không phải là màu buồn.

Mùa Vọng nhắc chúng ta về niềm hy vọng rất xanh tươi

mà Chúa Giêsu đã mang lại cách đây hai ngàn năm

và chúng ta có bổn phận vun đắp cho thành tựu.

Làm sao để ơn cứu độ của Ngài được mọi người trên thế giới nhận biết?

Làm sao để dân ngoại được ơn đức tin và ơn chữa lành như viên sĩ quan?

Làm sao để chẳng ai vắng mặt trong bữa đại tiệc của Nước Trời?

Mùa Vọng đưa ta về thế giới bao la của châu Á, với 3% người công giáo.

Nếu ngày mai tận thế, Chúa sẽ hỏi ta 97% kia đâu.

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

Cha muốn cho mọi người được cứu độ

và nhận biết chân lý,

chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người

chưa nhận biết Đức Giêsu,

họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con

khát vọng truyền giáo,

khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,

niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,

và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực

trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất

để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến

với những người bạn gần bên,

giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,

qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện

cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con

sinh nhiều hoa trái. Amen.

Suy Niệm 2: Từ phương Đông phương Tây

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Mùa Vọng mở ra một viễn tượng hùng tráng và tươi đẹp. Đấng Cứu Thế sẽ hiển minh. Mọi dân mọi nước sẽ tuôn đến với Người để được Người hướng dẫn. Người sẽ cầm cân nảy mực trần gian để thực thi công lý. Dưới sự lãnh đạo của Người, các dân tộc thôi chiến tranh. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cầy. Rèn giáo mác nên liềm nên hái. Đó chính là niềm mơ ước của con người từ bao thế hệ.

Giấc mơ đó được thực hiện nơi Chúa Giê-su Ki-tô. Hôm nay, viên đại đội trưởng ngoại đạo, đại diện cho các dân các nước bày tỏ niềm tin vững chắc vào Đấng Cứu Thế. Những lời tiên báo của I-sa-i-a đang trở thành hiện thực nhưng với những chiều kích tình thương trổi vượt.

Chúa Giêsu trở nên giải pháp duy nhất cho mọi vấn đề của con người. Con người như con bệnh trầm trọng vô phương cứu chữa. Chỉ mình Chúa Giêsu mới chữa lành được căn bệnh của nhân loại. Viên sĩ quan, đại diện cho đế quốc Rôma hùng mạnh, hẳn không thiếu gì phương tiện, tiền bạc, thế lực. Nhưng tất cả mọi phương tiện trần gian đành bó tay. Quyền lực của loài người đành bế tắc. Chỉ có một giải pháp duy nhất cho thế giới: Chúa Giê-su Ki-tô.

Nhưng Chúa Giêsu không xuống trần uy nghi như người ta tưởng. Viên sĩ quan xác định: Người toàn năng. Người chỉ cần phán một lời, mọi sự đều phải tuân phục Người. Nhưng Người muốn biểu lộ tình thương. Người muốn trực tiếp hành động. Người muốn gặp gỡ nhân loại. Tận mắt chứng kiến nỗi đau khổ của nhân loại. Tận tay săn sóc vỗ về.

Như thế Người không chỉ chữa lành bệnh tật thân xác nhưng còn chữa lành bệnh tật tâm hồn. Phẩm giá con người được nâng cao. Địa vị con người được trân trọng khi Đấng Cứu Thế trực tiếp đến với con người, yêu thương con người, chăm sóc con người.

Lạy Chúa, con là con bệnh trầm kha. Xin hãy đến cứu con. Con biết Chúa yêu thương con và muốn gặp gỡ riêng với con. Xin cho lòng con tỉnh thức để nghe được tiếng Chúa gõ cửa, mở cửa cho Chúa, để Chúa vào tâm hồn con, chữa lành vết thương trong tâm hồn con.

Suy Niệm 3: Xin Ngài Chỉ Phán Một Lời

Trong quân đội Roma, danh từ “bách quan” hay “đại đội trưởng” dùng để chỉ những người có một trăm tên lính trong tay. Nếu ở chốn đế đô, họ chẳng là gì thì tại các vùng thuộc địa họ là những viên chức đầy uy quyền góp phần cai trị hà khắc của đế quốc. Có thể gọi họ là chất xúc tác và là thước đo lòng căm thù đế quốc của người Do Thái. Ðối với đế quốc cai trị, họ là những người trực tiếp áp đặt chính sách lên dân chúng.

Luật Do Thái đã khắt khe trong việc giao tế với dân ngoại thì lại càng khắt khe hơn đối với những người đang giày xéo lên mảnh đất Thánh của Giavê Thiên Chúa. Người Do Thái sẽ không bước vào nhà dân ngoại vì đó là những nơi không thanh sạch. Sách Midna đã viết: “Mọi nơi cư ngụ của dân ngoại đều là chỗ không thanh sạch”, thế mà Chúa Giêsu lại không ngần ngại đi đến nhà viên bách quan để chữa bệnh cho gia nhân của ông. Chúa Giêsu có ý gì khi hành động như vậy? Nếu luật lệ Do Thái khắt khe với dân ngoại mà Chúa Giêsu và các tông đồ lại nghiêng về phía họ thì hẳn việc làm của Chúa Giêsu và các tông đồ phải mang một ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống.

Riêng về các viên bách quan, Kinh Thánh Tân Ước đã không ít lần lên tiếng khen ngợi hành vi của các viên bách quan như lúc Chúa Giêsu bị chết treo nhục nhã trên Thập Giá, một viên bách quan đã tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Một viên bách quan khác đã cứu tông đồ Phaolô thoát khỏi hình phạt đánh đòn, và một viên bách quan khác nữa đã giúp Phaolô thoát khỏi âm mưu giết hại của người Do Thái. Tuy nhiên nổi bật hơn hết là viên bách quan được nói đến trong bài đọc Tin Mừng hôm nay. Nơi ông đã hội tụ hai yếu tố căn bản mà mỗi người trong chúng ta cần phải có để khiêm nhượng trước mặt Chúa và bác ái với anh em. Một gia nhân hay đúng hơn một tên nô lệ chẳng là gì trước mặt viên bách quan, ông có thể sử dụng như một món đồ vật, không dùng thì quăng đi cần gì phải bận tâm. Thế mà ở đây ông lại quan tâm đến tên gia nhân cách đặc biệt. Ngoài ra theo đoạn Tin Mừng song song của Luca, ông còn là người giúp đỡ cho Hội Ðường Do Thái.

Lòng vị tha đã khiến viên bách quan vừa có uy quyền, vừa được mộ mến. Tuy nhiên dù là gì đi nữa, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Chúa Giêsu, ông vẫn phải giữ một thái độ hoàn toàn khiêm nhu: “Lạy Thầy, tôi không xứng đáng để được Thầy đến nhà”. Ông không chỉ khiêm nhu nhưng lại đầy tin tưởng: “Xin Thầy hãy phán một lời thì gia nhân của tôi được lành mạnh”.

Lời cầu khiêm nhu này đã trở thành lời kinh hằng ngày được tín hữu chuyên đọc, và niềm tin của viên bách quan khai mở một kỷ nguyên mới cho lịch sử ơn cứu độ: “Nhiều người từ Ðông chí Tây sẽ đến dự tiệc với Abraham, Isaac và Jacob, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài”. Chúa Giêsu, Ngài đến để cứu chữa hết mọi người, chưa cần viên bách quan tuyên xưng lòng tin, Ngài đã nói lên ý định của Ngài: “Tôi sẽ đến chữa nó”.

Luật Do Thái ngăn cấm bước vào nhà dân ngoại thì Chúa Giêsu vượt ra ngoài các cấm đoán của lề luật, vì Vương Quốc của Ngài không xây dựng trên nền tảng các luật cứng nhắc ấy nhưng trên thực hành niềm tin. Ngài cũng không đến để hủy bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Lề luật bây giờ phải được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống.

Viên bách quan không có các nghi thức để tuân giữ lề luật như: không rửa tay trước khi dùng bữa, không đến Hội Ðường vào ngày Sabat. Nhưng trước sự hiện diện của Chúa, ông tỏ một niềm kính sợ, trước tha nhân ông hết lòng yêu mến. Ông trở thành tiêu biểu cho các công dân Nước Trời. Chúa Giêsu đã khen ngợi và đã đón nhận ông vào nước của Ngài.

Chúa Giêsu nói với những kẻ theo Ngài lúc đó cũng như đối với chúng ta hôm nay: “Còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài”. Không phải được mang tước hiệu con cái là bảo đảm được dự phần vào Nước Thiên Chúa, nhưng phải là kẻ biết thực hành niềm tin. Tước hiệu Kitô hữu nếu không được nuôi dưỡng bằng sức sống của niềm tin thì chỉ là những bản án được công bố trước thời điểm mà thôi.

Bước vào Mùa Vọng, cùng với Giáo Hội với ý hướng chờ ngày Chúa đến, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ nhìn vào niềm tin của viên bách quan làm tiêu chuẩn sống cho mình. Mỗi người chúng ta hãy biết khiêm nhu trước Thiên Chúa và biết yêu mến anh em thì hy vong chúng ta sẽ được Thiên Chúa hài lòng đón nhận trong bàn tiệc Nước Ngài.

Suy Niệm 4: Mùa của đức cậy và đức tin

Khi Đức Giêsu vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm”. Người nói: “Chính tôi sẽ đến chữa nó”. Viên đại đội trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh (Mt. 8, 5-8).

Điều gì đã thúc đẩy vị sĩ quan Rô-ma ra khỏi nhà từ sáng sớm? Thưa, ông hy vọng rằng ông ra đi ông sẽ gặp được điều tốt hơn là cứ luẩn quẩn trong nhà. Dù ông là một người đầy quyền thế, biết chỉ đạo mọi việc, nhưng cứ ở nhà, ông sẽ chẳng có thể làm gì để cứu chữa đầy tớ đang đau liệt. Ông phải đến với Đức Giêsu.

Ngày hôm nay, bạn cần phải ra khỏi con người bạn để khởi hành vào mùa vọng; mùa sẽ đưa bạn đầy tràn hy vọng đến với Chúa chúng ta. Bạn đã sẵn sàng chưa?

Niềm hy vọng tăng cao nhờ khát vọng mạnh, nhờ nhu cầu khẩn thiết. Niềm hy vọng của bạn hôm nay là gì? Khát mong của viên sĩ quan là: “Đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà tôi, đau đớn lắm”. Còn bạn, bạn có thể đồng cảm với nỗi đau đớn đó không?

Bạn đồng cảm rất dễ với chồng bạn, với vợ bạn, với con bạn, với ông bà cha mẹ, họ hàng và bạn bè của bạn. Bạn cần đồng cảm xa hơn nữa. Viên sĩ quan đã đồng cảm với những tên đầy tớ: một sự đồng cảm với những kẻ hèn mọn. Còn bạn, bạn có thể đồng cảm với bao nhiêu nỗi xót xa của những kẻ đi làm thuê, làm mướn, những kẻ quét đường, đổ rác đi qua nhà bạn mỗi sáng thứ hai không? … Đó là những tôi tớ của bạn, của cộng đồng, của xã hội.

Hôm nay bắt đầu mùa vọng, bạn cầu nguyện cho ai? Bạn hy vọng vị nào đến làm gì cho họ? Thật quan trọng khi bạn biết liệt kê ra những nhu cầu đó để khêu gợi cho mình có những niềm hy vọng, niềm cậy trông giúp bạn có đức cậy.

Hôm nay, bắt đầu mùa vọng, còn một việc nữa cần phân tích, đó là đức tin của chúng ta. Đức Giêsu nói với chúng ta: “Chính tôi sẽ đến cứu chữa nó”. Vị sĩ quan thưa lại: “Lạy ngài, tôi không đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh …”. Chúng ta có thể tin được như thế không? Bao giờ chúng ta mới có được đức tin như thế?

Chúng ta có tin Đức Giêsu có thể đổi mới tâm hồn chúng ta được không? Biết bao nhiêu tôi tớ trên trái đất này đang đau khổ cực độ. Chúng ta có tin Ngài đến cứu chữa họ không?

Bắt đầu mùa vọng, chính là để giúp chúng ta cậy trông và tin tưởng. Và cử hành Thánh lễ chính là để giúp chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu đến thực hiện công trình cứu độ.

  1. G

Suy Niệm 5: Chúa ơi, xin về với con đi

Trong lớp Giáo lý Dự tòng, có một bà năm nay đã gần 80 tuổi xin theo học. Bà góa chồng đã 7 năm. Từ ngày chồng bà chết, nhiều lần bà muốn theo đạo, nhưng vì nhiều lý do khách quan, bà không thực hiện được tâm nguyện của mình.

Đến nay, thuận lợi, bà xin học đạo để được gia nhập Giáo Hội. Trước khi ban Bí tích Rửa Tội cho bà, cha xứ có hỏi: “Bà có ý định theo đạo lâu chưa?”; Bà trả lời: “Khoảng 7 năm”; Cha xứ hỏi tiếp: “Thế bà muốn theo Chúa, nhưng bà có cầu nguyện với Chúa bao giờ không?” Bà nói: “Thưa có”; “Bà cầu nguyện thế nào”; “Thưa Cha, con cầu nguyện rằng: ‘Chúa ơi, xin Chúa về với con đi!’”. Cha xứ tỏ vẻ thán phục niềm tin chân thành và đơn sơ của bà, và ngài đã sẵn lòng Rửa Tội cho bà để bà được gia nhập Giáo Hội.

Câu chuyện của bà cụ rất trùng hợp với một nhân vật cũng khá đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là viên sĩ quan, người dân ngoại. Ông là một người ngoại đạo, tức không thuộc về Dothái giáo, nhưng tâm hồn lại có đạo hơn ai hết bởi sự chân thành, đơn sơ nhưng mãnh liệt nơi ông. Vì thế, ông đã được thúc đẩy từ bên trong, nên ông nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, trong khi những người Dothái lại không nhận ra!

Khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, ông đã đặt niềm tin tuyệt đối nơi Ngài, vì thế, Đức Giêsu đã lên tiếng khen ngợi ông: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel”. Ơn thánh của Chúa đã thực sự bén rễ sâu trong tâm hồn người dân ngoại này, vì ông khiêm tốn và sẵn sàng mở lòng để cho ơn thánh của Chúa được tác sinh nơi ông.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mặc khải về ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa được dành cho hết mọi người. Vì thế, chúng ta không cất giấu hay để ơn Chúa vào nơi an toàn, mà phải vươn ra đến với hết mọi người, mọi nơi, nhất là những anh chị em chưa nhận biết Chúa.

Cần tránh lối suy nghĩ từ lâu: chỉ những người Công Giáo mới được ơn cứu độ! Những người ngoài Giáo Hội không xứng đáng để đón nhận hồng ân cứu chuộc của Thiên Chúa. Tránh sự kỳ thị, phe phái, tôn giáo, văn hóa xã hội, địa vị, nghề nghiệp. . . , để nhìn nhận cái hay, cái phải, cái tốt của tha nhân mà noi theo, học hỏi, nếu điều đó phù hợp với đạo lý Tin Mừng. Tránh thái độ hẹp hòi, cục bộ, mặc cảm, yên trí đến bất công, khiến chúng ta đi sai đường lối cứu độ của Thiên Chúa và xa cách tha nhân.

Bước vào Mùa Vọng, mỗi người chúng ta cùng nhau nhìn lại cuộc sống, cách cư xử của mình với anh chị em xung quanh: đã có lần nào vì hẹp hòi mà ta ngăn cản ơn Chúa đến với người khác không? Hay nhiều khi chúng ta không dám rời bỏ chốn an thân, an cư để đến với những người đang cần sự giúp đỡ của chúng ta?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Chúa, tin tưởng vào Chúa, sống khiêm tốn, quảng đại với tha nhân. Amen.

Ngọc Biển, SSP

Suy Niệm 6: Niềm tin đích thực

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Xong bài giảng trên núi, Đức Giêsu vào thị trấn Capharnaum thì một viên đại đội trưởng xin Ngài chữa lành người đầy tớ của ông đang đau nặng. Ông tuy là dân ngoại lại có quyền thế và địa vị cao, mà tỏ ra khiêm tốn tin tưởng vào lời quyền năng của Đức Giêsu. Ông cũng là người nhân hậu, biết yêu thương săn sóc đến người đầy tớ hèn mọn của mình.
  2. Viên đại đội trưởng là người ngoại quốc, người La mã đang đặt ách đô hộ trên người Do thái, nhưng ông lại rất thực tình với người Do thái, dân bị trị. Ông có quan hệ đặc biệt với họ và ông đã giúp tiền cho họ xây hội đường Capharnaum. Cảm phục vì tấm lòng tốt của ông, người Do thái đã giới thiệu và xin Đức Giêsu giúp đỡ ông.

Đức Giêsu ngạc nhiên, vì người ngoại kiều này chẳng hề biết Ngài, thế mà lại tin tưởng cách mạnh mẽ như vậy đã biết xin Chúa chữa bệnh từ xa cho đức đầy tớ của minh, và Người đã không tìm thấy được lòng tin nào như thế nơi những người Do thái , là những  người đã từng lắng nghe và chứng kiến những phép lạ Người làm cho họ. Vì thế Người nói: “Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel”.

  1. Chúng ta nhấn mạnh  đến niềm tin của viên đại đội trưởng này. Niềm tin của ông có hai đặc điểm như sau:

– Niềm tin được thể hiện bằng việc làm: Ông đã đến xin Đức Giêsu chữa lành cho đầy tớ của ông.  Vì xin ai điều gì thì tin người đó có, và sẵn sàng giúp đỡ mình.

– Một niềm tin mạnh mẽ: Ông đã xin Đức Giêsu chữa bệnh từ xa, không cần phải đến nhà ông. Điều đó chứng tỏ ông đã tin vào chính bản thân của Chúa hơn là việc Người làm; và đó là đức tin đích thực.

  1. Viên đại đội trường tỏ ra khiêm nhường trước mặt Chúa. Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan này có quyền lực đại diện cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Đức Giêsu truyền giáo.

Thế nhưng, ông nhận ra con người Đức Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, nên ông đã cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh”(Mt 8,8).

  1. Trong trường hợp này, chúng ta thấy đức tin của ông còn đi kèm theo đức ái vì ông không lo cho mình mà lại lo săn sóc cho đứa đầy tớ. Niềm tin được trao tặng cho mọi người, nhưng chỉ được trao tặng như hạt giống, và hạt giống ấy chỉ nảy mầm và lớn lên trong những điều kiện cần thiết. Mảnh đất lòng người càng tốt, hạt giống đức tin càng có cơ may nảy mầm và lớn lên. Tình yêu là mảnh đất phì nhiêu nhất để làm nảy sinh niềm tin trong lòng người: một tâm hồn khép kín với tình người cũng là một tâm hồn khép kín với lòng tin.

Khi không sống, không tin tưởng ở tình người, thì làm sao người ta có thể tin tưởng ở tình Chúa? Khi không thể hiện tình người, thì niềm tin tuyên xưng nơi Chúa cũng chỉ là trò lừa bịp chính mình và người khác. Thánh Gioan cảnh cáo: “Ai nói mình yêu mến Chúa mà ghét anh em mình là kẻ nói dối”(Mỗi ngày một tin vui).

  1. Việc Thiên Chúa nhận lời người ngoại đạo tin tưởng cho thấy tình thương ơn cứu độ của Chúa là phổ quát dành cho hết mọi người, không phân biệt mầu da, chủng tộc hay tôn giáo, miễn là tín thác vào Ngài. Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng trở nên mô phạm cho niềm tin của chúng ta hằng ngày  nhất là trước khi rước lễ, tuyên tín mang tư thế khiêm tốn nhưng mạnh mẽ: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
  2. 7. Truyện: Tin hay không?

Một thương gia giầu có ở một tỉnh nọ cho in nhiều bản thông cáo và dán khắp tỉnh.

Bản thông cáo ghi rằng bất cứ ai trong tỉnh bị mắc nợ, hãy đến văn phòng của ông vào ngày đó. . . vào buổi sáng từ 9 đến 12 giờ, ông sẽ trả cho khoản nợ đó.

Tất nhiên, lời hứa đó được đồn  xa khắp tỉnh. Một số người tin, song một số cho là người kia  gài cái bẫy nào đó.

Ngày đã đến. Người thương gia ngồi ở văn phòng của ông từ lúc 9 giờ sáng. Gần 10 giờ rồi mà không một ai đến. Mười một giờ, thương gia thấy một người đàn ông đi qua đi lại trước nhà và chốc chốc lại ngước nhìn vào cửa văn phòng. Cuối cùng, ông đẩy cửa, thò đầu vào và hỏi:

– Có thật là ngài sẽ trả  bất kỳ món nợ của ai không?

– Đúng vậy. Anh mắc nợ à?

– Vâng, thưa ngài.

– Vậy, anh có mang theo hóa đơn hay giấy nợ gì để minh chứng điều đó không?

Người kia đưa ra nhiều giấy tờ và thương gia ký ngay một tấm ngân phiếu trả hết mọi khoản nợ đó. Trước 12 giờ, có hai người nữa đến và cũng được nhận tấm ngân phiếu trả nợ nữa.

Nhiều người bên ngoài có thể không tin chuyện đó. . . nhưng lúc ấy không còn thời gian để họ có thể đến nhận ngân phiếu trả nợ nữa.

Lòng tốt hoán cải được nhiều người hơn giáo huấn, kiến thức và tranh luận (F. W Faber)

Suy Niệm 7:

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống. . .

Chúa Giêsu đã đánh giá viên đại đội trưởng như thế này: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế”. Mỗi khi Chúa Giêsu mở đầu câu nói bằng công thức “Tôi bảo thật” thì câu nói đó có tầm quan trọng đặc biệt. Vậy đức tin của ông này như thế nào?

– Ông là người “ngoại”

– Ông là người Rôma, kẻ cai trị, thế mà hạ mình van xin Chúa Giêsu là kẻ bị trị. Ông còn nói “Tôi chẳng đáng được Ngài vào nhà tôi”.

– Ông van xin Chúa Giêsu không phải cho ông mà cho đầy tớ của ông

– Đại ý lý luận của ông (câu 9): tuy tôi chỉ có ít quyền nhưng cũng có thể sai khiến thuộc hạ, huống chi Ngài là kẻ có nhiều quyền.

– Ông tin Chúa Giêsu không cần đến nhà ông, chỉ cần nói một lời là đầy tớ ông được khỏi bệnh.

Đáp lại lòng tin của ông, Chúa Giêsu đã làm một phép lạ đặc biệt theo kiểu “từ xa” (“remote control”).

  1. . . . nẩy mầm.
  2. Chủ đề của bài đọc Cựu Ước và đáp ca:

– Câu tóm tắt ở đầu bài đọc Cựu Ước: “Thiên Chúa quy tụ các dân tộc trong nước Người…” – Bài Phúc Âm minh hoạ cảnh muôn dân vào nước Chúa.

– Câu đáp của bài đáp ca: “Ôi, tôi vui sướng biết bao khi nghe nói: Chúng ta sẽ về nhà Chúa”.

  1. “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời sẽ bị quẳng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (cc 11-12). Chúa Giêsu xuống trần để ban ơn cứu độ cho mọi người. Nhưng để được cứu độ thì phải có Đức Tin. Chúng ta là “con cái Nước Trời”, tuy thế nếu không có đức tin thì cũng không được cứu độ. Nhưng thế nào là có đức tin?. . .
  2. “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…”. Đoạn TM này chúng ta đọc hằng ngày trước khi lên rước lễ, chúng ta có ý thức đầy đủ không?
  3. Người ngoại trong đoạn TM này đến với CG trong tâm tình: tin tưởng, khiêm tốn, tế nhị và đầy lòng bác ái thương người. Tôi thử rà lại xem “tính chất người ngoại dễ thương đầy tính nhân bản này” có nhiều ở nơi tôi không?
  4. “Một doanh nhân giàu có ở một Tiểu bang nam Hoa Kỳ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung những tấm bích chương loan báo: bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g-12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa. Đúng ngày hẹn, doanh nhân đến ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ đồng hồ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11g mới có một người đàn ông rụt rè đến. . . Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12g một vài người nữa cũng đến. . . và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã quá muộn. Khi người ta không tin ở lòng tốt của con người, thì làm sao có thể tin tưởng ở lòng tốt của Thiên Chúa?” (trích “Mỗi ngày một tin vui”)
  5. “Thấy viên đại đội trưởng có lòng tin mạnh mẽ, Chúa Giêsu thán phục và nói với những kẻ theo Người rằng “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin mạnh như thế” (Mt 8,10)

Nói về lòng tin của tôi hôm nay, có lẽ Chúa Giêsu cũng ngạc nhiên mà bảo rằng “Không có một lòng tin nào như thế!”. Vì khi đời nở hoa, tôi cảm thấy tự tin và yêu thương cuộc sống. Những lúc ấy tôi thấy Chúa nhân hậu, tốt lành… Nhưng cuộc đời lại có những bước trầm, hoàn cảnh thì mờ mịt mà sức người có hạn, tôi buông xuôi tất cả, tôi cũng chẳng tin gì nữa, kể cả Thiên Chúa. Sóng gió rồi cũng qua… Khi quân bình trở lại, tôi thấy cần tìm hiểu sâu hơn về Chân lý. Chúa dạy tôi: phải tin rồi mới thấy. Nhưng tôi cứ bướng bình, nằng nặc “Con phải hiểu, phải hiểu rồi mới tin…” Không biết Chúa có ngạc nhiên vì lòng tin bé hơn một phần tư hạt cải của tôi không?

Lạy Chúa Giêsu, Chúa thấu suốt mọi tâm can, xin giữ con khỏi tự cao tự mãn, xin tăng cường lòng tin yếu kém của con (Epphata)

Thứ Ba tuần 1 mùa Vọng

Lời Chúa: Lc 10, 21-24

Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!”

Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: “Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.

 

Suy Niệm 1: Thánh Thần tác động

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Ông tổ Jessê là cha của vua Đavít (Lc 3, 32).

Bài đọc 1 nói về một nhánh nhỏ đâm ra từ gốc tổ Jessê (Is 11, 1).

Đó là Đấng Mêsia, người thuộc dòng dõi Jessê, cha của Đavít.

Nét đặc biệt của Đấng này là có Thần Khí Đức Chúa ngự trên:

“thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh,

thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11, 2).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu được đầy tràn Thánh Thần,

khiến Ngài vui sướng dâng lên Cha lời cầu nguyện tự phát (c. 21).

Như thế có sự hiện diện của cả Ba Ngôi Thiên Chúa trong giây phút này.

Trong Thánh Thần, Con dâng lên Cha lời ngợi khen chúc tụng.

Lời cầu nguyện của Con bao giờ cũng bắt đầu bằng câu Abba, Lạy Cha.

Abba là người Cha gần gũi thân thương,

nhưng Abba cũng là Chúa tể trời đất, đầy quyền năng siêu việt.

Đức Giêsu ngợi khen Cha, vì Cha giấu kín nhóm này,

nhưng lại mặc khải cho nhóm kia về Con của Cha.

Thật ra, Cha không ghét bỏ những người khôn ngoan thông thái.

Nhưng sự giàu có tri thức đã khiến một số người tự mãn, tự hào,

đi đến chỗ khép lại và từ chối tin vào Đức Giêsu.

Những người bé mọn, đơn sơ mới là những người khôn ngoan thật sự.

Họ mềm mại mở ra như trẻ thơ, để đón nhận Tin Mừng về Nước Trời.

Bảy mươi hai môn đệ mới đi sứ vụ trở về, là những người bé mọn ấy.

Họ là những người có phúc vì được thấy, được nghe

những điều mà bao thế hệ khác ước ao, nhưng không được (cc. 23-24).

Họ là những người được đưa vào thế giới thân tình giữa Cha và Con.

Thế giới ấy thật là riêng tư, nơi Cha và Con hiểu biết nhau trọn vẹn.

“Không ai thực sự biết Con là ai, trừ Cha;

cũng không ai thực sự biết Cha là ai, trừ Con” (c. 22).

Nhưng thế giới tưởng như khép kín ấy cũng là thế giới mở ra cho con người.

Cha mặc khải cho những người bé mọn (c. 21).

Và Con cũng mặc khải cho người nào Con muốn (c. 22).

Rốt cuộc Cha mặc khải về Con, và Con mặc khải về Cha.

Chỉ Thiên Chúa mới mặc khải được cho ta về Thiên Chúa.

Mừng lễ Giáng Sinh là mừng Quà Tặng của Cha là Đức Giêsu.

Ngài là Đấng duy nhất biết Cha thâm sâu,

nên cũng là Đấng duy nhất có thể mặc khải về Cha trọn vẹn.

Ngài là Đấng Trung Gian duy nhất và là Người Con Một của Cha.

Thiên Chúa Cha đã bắc cho chúng ta một nhịp cầu.

Cha mời chúng ta qua nhịp cầu ấy mà đến với thế giới Thiên Chúa,

nơi Cha và Con khăng khít với nhau trong tình yêu.

Hãy để Cha lôi kéo ta đến với Con của Ngài (Ga 6, 44).

Hãy để Con là đường đưa ta đến với Cha (Ga 14, 6).

Hãy là người khôn ngoan thật sự, biết mở ra để nghe Cha, Con mặc khải.

Biết được Cha và Con là ai, đó là hạnh phúc của người Kitô hữu.

Đó cũng là ước mơ ngàn đời của Cha và Con cho nhân loại.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con biết con,

xin cho con biết Chúa.

Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,

quên đi chính bản thân,

yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.

Xin cho con biết tự hạ,

biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.

Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.

Ước gì con biết nhận từ Chúa

tất cả những gì xảy đến cho con

và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.

Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.

Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.

Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)

Suy Niệm 2: Vương quốc bình an

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thế giới không ngừng bị xâu xé vì thảm cảnh chiến tranh, vì xung đột quyền lợi. Ai cũng mơ ước một thế giới hòa bình nơi mọi người, mọi quốc gia dân tộc, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ có thể sống chung hài hòa bên nhau. Nhưng mơ ước đó lúc nào cũng xa vời vì trên thế giới chưa bao giờ kẻ ác thôi hoành hành làm hại người lành, chưa bao giờ người giầu thôi bóc lột người nghèo, chưa bao giờ kẻ mạnh hết ức hiếp người yếu.

Isaia tiên báo Đấng Cứu Thế đến sẽ hoàn thành mơ ước. Người đầy Thánh Thần sẽ thiết lập vương quốc bình an. Thánh Thần tràn ngập sẽ làm cho mọi người hiểu biết Thiên Chúa: “Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này”.

Tiên báo đó ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Người tràn đầy Thánh Thần đã khai mạc Vương Quốc bình an. Vương quốc đó được mặc khải cho những người bé nhỏ, khiêm tốn, nghèo hèn. Những người giầu sang, kiêu căng, hung ác bị gạt ra, không được hiểu biết Nước Thiên Chúa cho đến khi họ ăn năn sám hối. Những người này sám hối khi họ hiểu biết Thiên Chúa và hiểu ra rằng giết đồng loại là tự hủy diệt, bóc lột người nghèo là ăn cướp chính mình, áp bức người bé nhỏ là tự lên án chính mình.

Khi hiểu biết Thiên Chúa, họ sẽ tỉnh ngộ và sẽ tự biến đổi. Như con sói hết nhe nanh đe dọa để có thể ở với chiên con. Như con beo cụp hết móng vuốt để có thể nằm bên dê nhỏ. Như sư tử thôi ăn thịt, bắt đầu ăn rơm để có thể sống chung với bò tơ. Như con rắn hết thâm trầm hiểm độc để được ở với em bé. Người ta sẽ không còn sống theo xác thịt với những toan tính thấp hèn, theo thói thế gian. Nhưng sẽ sống theo Thần Khí. Siêu thoát trần tục. Trở nên như trẻ thơ. Hiền hoà. Trong trắng.

Vì thế sống tâm tình Mùa Vong ta phải trở nên bé nhỏ, khiêm nhường để được Chúa cho biết mầu nhiệm Nước Trời. Muốn thế ta phải sửa mình khỏi những gian tham, độc ác, bóc lột áp bức để trở nên hiền lành khiêm nhường, bé nhỏ đơn sơ, như thế mới có thể hiểu biết Thiên Chúa. Như thế Vương quốc Bình an mới thành hình và ta mới hi vọng được chia sẻ hạnh phúc sống trong Vương quốc của Chúa. Và “triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời”.

Suy Niệm 3: Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn

Chúng ta đang bước vào Mùa Vọng là mùa trông đợi Ðấng Cứu Thế mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Chờ đợi là thời gian dài thăm thẳm, vì theo tâm lý thì thời gian như kéo dài thêm ra. Trải qua một thời kỳ lịch sử Cựu Ước, kể từ khi con người phạm tội phản nghịch qua Adam và Evà, biết bao nhiêu tổ phụ, bao nhiêu tiên tri đã được sai đến dọn đường cho Con Thiên Chúa là Ngôi Hai mặc lấy thân xác con người, gánh lấy tội lỗi con người và làm cho con người được ơn cứu rỗi.

Ðoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta lời cầu nguyện của Chúa Giêsu để mạc khải cho chúng ta biết bản tính Thiên Chúa của Ngài: “Không ai biết Chúa Con ngoại trừ ra Cha, cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào ngoài Chúa Con và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết”.

Ðôi mắt con người chỉ nhìn xem những vật hữu hình, nếu quá nhỏ có thể dùng kính hiển vi, nếu quá xa có thể dùng kính thiên văn. Trí óc con người có thể suy nghĩ một cách hạn hẹp trong khả năng giới hạn nào đó mà thôi, ví dụ chúng ta có thể nhìn thấy ngôi nhà chúng ta đang ở, chúng ta biết nó không phải tự nhiên mà có nhưng phải do bàn tay thợ nề, thợ mộc, do con người làm nên và tạo ra. Khi nhìn đồng hồ treo tường hay treo đồng hồ đeo tay, chắc hẳn trong chúng ta không ai nghĩ rằng nó tự nhiên mà có nhưng phải có người suy tính và tạo ra.

Từ những thí dụ cụ thể trên, chúng ta có ý nghĩ: Con người chúng ta không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà được sinh ra. Ða số ai cũng chấp nhận có ông Trời tạo dựng nên và điều khiển vũ trụ. Tuy nhiên trí óc con người không dừng lại ở đó, trí óc họ không thể hiểu thêm gì về ông Trời đó, chỉ có thể tưởng tượng ra ông Trời cũng biết thương, biết giận, biết ghét, biết khen thưởng hay trừng phạt như con người. Và con người cũng thường nói: “Ông Trời có mắt” để cùng nhau làm lành làm dữ, sống hòa thuận, bớt làm điều tai ác.

Chúa Giêsu mặc lấy thân phận con người để tiết lộ cho chúng ta biết về Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của Ngài hôm nay với Thiên Chúa Cha: “Không ai biết Thiên Chúa Cha ngoại trừ ra Con”. Thiên Chúa Con, Ngài từ trời xuống nên Ngài biết rõ những việc trên trời nơi Ngài đã ở với Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu còn cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha có Ba Ngôi, và khi Ngài chịu Phép Rửa ở sông Jordan, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, đồng thời có tiếng Thiên Chúa Cha phán ra từ đám mây: “Này là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta mọi đàng”. Và trước khi về Trời, Chúa Giêsu cũng đã truyền lệnh cho các môn đệ: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải truyền lệnh cho các môn đệ: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải cho chúng ta biết, và lời Ngài trên đây cũng cho chúng ta biết thêm dẫn chứng về ngôi vị Thiên Chúa: “Không phải những kẻ thông thái khôn ngoan biết những điều này nhưng là những kẻ đơn sơ”. Những kẻ đơn sơ bé mọn đó chính là chúng ta.

Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng để chuẩn bị đón mừng một mầu nhiệm rất trọng đại, mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta là những người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, thuộc mọi quốc gia, đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi trình độ, mọi ngôn ngữ khác nhau, không phân biệt nhưng cùng chung một niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế đem bình an đến cho mọi tâm hồn.

Chúa Giêsu đã chúc lành cho chúng ta: “Hạnh phúc cho những người được xem thấy những điều chúng con xem thấy, vì đã có nhiều tiên tri, vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy mà chẳng được xem”. Biết bao nhiêu người hiện nay chưa biết, chưa được nghe đến Tin Mừng của Chúa, vì chưa được ai rao giảng cho họ.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con tin vững vàng vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ngôi Hai Nhập Thể để chúng con sống thật với mầu nhiệm yêu thương ấy. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con sống trọn vẹn tâm tình tha thiết mong đợi Ðấng Cứu Thế đến để cứu rỗi nhân loại chúng con. Amen.

Suy Niệm 4: Phúc cho mắt nào được thấy

Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: Nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc. 10, 23-24)

Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi truyền giáo. Khi trở về, các ông rất vui mừng vì dân chúng đã đón nhận Tin mừng cách tốt đẹp. Nên Đức Giêsu hướng về Chúa Cha và cảm tạ Ngài. Đồng thời Người kêu mời các ông hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã thực hiện những điều lạ lùng cho mắt các ông được thấy: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy”.

Chúng ta đã nhìn thấy những điều tốt lành đó không? Chúng ta đã chú tâm đến những việc tích cực và lạ lùng trong học thuyết Kitô giáo ngày nay không?

Trong Giáo Hội có nhiều thay đổi thật sự. Đó không phải là dấu chỉ của sức khỏe sao? Nếu bất động thì không còn sống nữa?

Cơn khủng hoảng chúng ta đang trải qua, làm chúng ta phải cựa quậy, phải chao đảo, lo lắng. Nhưng đó là dịp cho chúng ta phục hưng, đổi mới và trở nên Kitô hữu trưởng thành và có trách nhiệm.

Giáo Hội này nay cố gắng đi về phía con người, và đặc biệt về phía những người nghèo khổ. Dù phải rước họa vào thân càng ngày càng nhiều, Giáo Hội luôn luôn hợp tác với những ai tranh đấu cho công lý và hòa bình. Đó không phải là sống Tin mừng sao? Giáo Hội canh tân phụng vụ, đó là để giúp chúng ta dễ cầu nguyện. Giáo Hội thay đổi và giảm nhẹ các luật lệ, đó là để khuyến khích chúng ta biết lãnh trách nhiệm riêng của chúng ta. Nếu chúng ta biết mở to mắt hơn và đừng chỉ trích gì của thời quá khứ, có thể chúng ta sẽ khám phá thấy rằng thời đại, mà chúng ta đang sống, không xấu mà còn có thể nói như Đức Giêsu nói: “Phúc thay mắt nào thấy điều anh em thấy”.

  1. Y. G

Suy Niệm 5: Mạc khải cho kẻ bé mọn

Một chú ếch nọ suốt đời ngồi dưới đáy giếng. Một hôm, nó ngạc nhiên vô cùng khi thấy một con ếch khác xuất hiện trên bờ giếng. Nó lên tiếng hỏi: “Chú mày từ đâu đến?” Từ trên miệng giếng, khách lạ tra lời: “Tôi đến từ một vùng biển”.

Lần đầu tiên nghe nói đến biển, con ếch dưới đáy giếng thắc mắc: “Thế biển là  gì? Biển giống như cái gì?” Khách lạ lắc đầu đáp: “Biển mênh mông, biển không cùng, không thể dùng bất cứ hình ảnh nào để nói cho một kẻ suốt đời ngồi dưới đáy giếng hiểu được thế nào là biển”.

Nghe thế, con ếch ngồi dưới đáy giếng mới nghĩ thầm: “Từ trước đến nay, ta gặp không biết bao nhiêu kẻ lường gạt, nhưng tên này hẳn phải là kẻ trí trá vô liêm sỉ nhất”.

Nhiều người có lẽ đang nhìn vào niềm tin Kitô giáo với lối suy nghĩ của chú ếch ngồi đáy giếng trong câu chuyện trên. Người ta dùng cái vùng giếng hẹp hòi của ý thức hệ để đo lường trời biển bao la của niềm tin tôn giáo.

Đức tin thiết yếu là một ân ban nhưng không. Điều đó có nghĩa là người ta không đạt đến đức tin bằng sự lý luận uyên bác của mình; và điều đó cũng có nghĩa là không phải kẻ thông thái đương nhiên là người có đức tin hoặc có đức tin sâu sắc hơn người quê mùa dốt nát.

Lời tá tụng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay xác quyết tính cách nhưng không của đức tin. Chúa Giêsu cảm ta Chúa Cha vì đã dấu hạng khôn ngoan thông thái những điều đó, tức là ơn đức tin, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.

Nói đến hạng khôn ngoan thông thái hẳn Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến những Biệt phái và luật sĩ, những người học cao hiểu rộng. Chính cái mớ kiến thức về luật pháp và đạo giáo ấy đã khiến họ cho mình là người nằm giữa chân lý, là người đạo đức và có đức tin sâu sắc hơn người khác. Chúa Giêsu đã không ngừng lên án thái độ huyênh hoang tự đắc ấy.

Chọn những người đơn sơ, thất học làm môn đệ, kết thân với những kẻ bị đẩy ra bên lề xã hội, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho mọi ngươi thấy rằng trong nước Ngài không có sự phân biệt đối xử, rằng người ta không nhất thiết là người thông thái mới có thể trở thành môn đệ Ngài. Để thuộc về nước Ngài, để  trở  nên môn đệ Ngài, điều kiện thiết yêú là phải trở nên bé mọn, khiêm tốn, trút bỏ lối suy nghĩ hẹp hòi của mình.

Quả thực, người có đức tin không còn nhìn, suy nghĩ, lý luận bằng cái nhìn ích kỷ, hẹp hòi của mình, mà bằng cái nhìn của Thiên Chúa, nhờ đó họ tìm được  ánh sáng và hy vọng ngay trong cuộc sống tăm tối, cảm nhận được sức mạnh  trong những mất mát, thua thiệt, nhận ra được lẽ khôn ngoan ngay trong những gì mà thế gian cho là điên dại. Người có đức tin sẽ sống và yêu thương bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, yêu đến độ hy sinh chính mạng sống mình.

Nguyện cho cả cuộc sống chúng ta được trở thành bài ca tán dương và tri ân Chúa vì hồng ân đức tin Ngài đã ban cho chúng ta.

Nguyện cho từng tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta không phát xuất từ con người ích kỷ, hẹp hòi của chúng ta, mà là thể hiện của đức tin mà Thiên Chúa đã trao ban cách nhưng không cho chúng ta.

Suy Niệm 6: Xin chúc tụng Cha

Trong xã hội, người nắm giữ những chức vụ, vai trò liên quan đến tôn giáo, họ được học và am tường Kinh Thánh, Giáo Lý nhiều. Có khi họ am tường hơn cả chúng ta! Tuy nhiên, điều khác biệt chính là họ không có lòng mến và không hề có đức tin, nên họ đọc, học Kinh Thánh, Giáo Lý là để phục vụ cho nghề nghiệp hay vì miếng cơm manh áo chứ không đọc trong tâm tình yêu mến, lắng nghe và thực hành để được sự sống đời đời.

Hôm nay, Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu hoan hỷ dâng lời tạ ơn Chúa Cha, Ngài nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ”.

Như vậy, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa chứ không phải là kết quả của tri thức, địa vị. . . . Vì thế, đức tin không sinh hoa kết quả do lòng kiêu ngạo trong sự ích kỷ, nhưng sẽ đơm bông, kết trái khi gặp được thửa đất tâm hồn đơn sơ, chân thành do lòng yêu mến.

Điều này, chúng ta thấy rất rõ thời Đức Giêsu nơi những người Pharisêu, Luật Sĩ…. Họ tưởng mình nắm bắt được mọi sự, nhưng kỳ thực họ phỏng chiếu sự hiểu biết của họ theo nghĩa thuần tục, vì thế, những chân lý, mầu nhiệm trong chương trình của Thiên Chúa thì họ chẳng hiểu biết gì, ngay kể cả Đấng Cứu Thế họ cũng không biết, thì làm sao hiểu được đường lối của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu!

Muốn hiểu được thánh ý Thiên Chúa, hẳn mỗi người chúng ta, trước mặt Chúa, cần phải khiêm tốn nhận mình là thụ tạo thấp hèn, nếu không muốn nói là kẻ dốt nát, khờ khạo. . . !

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở nên như trẻ nhỏ, khiêm tốn, đơn sơ, chân thành trước mặt Chúa, bởi vì chúng ta thực ra chẳng có gì đáng để tự hào, huyênh hoang cả. Chúng ta có là gì đi chăng nữa thì cũng là do tình thương của Thiên Chúa ban chứ không do công trạng của mình. Bởi vậy, thay vì kiêu ngạo, chúng ta hãy có tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã làm cho chúng ta những điều cao trọng, mặc dù chúng ta không xứng đáng.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin chúc tụng, tạ ơn Chúa vì những ân ban cao cả mà Ngài đã ban cho chúng con là những kẻ bé mọn. Amen.

Ngọc Biển, SSP

Suy Niệm 7: Đón nhận đơn sơ khiêm tốn.

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải Chúa Cha. Muốn biết đích xác về Chúa Cha, ta chỉ có một cách duy nhất, là đón nhận những gì Chúa Giêsu tỏ cho biết. Nhưng để đón nhận mạc khải ấy, ta phải có lòng đơn sơ khiêm tốn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trên thế giới có rất nhiều tôn giáo và các giáo phái nhỏ. Sự kiện ấy chứng tỏ rằng con người khao khát đi tìm Thiên Chúa. Nhưng những con đường người ta vạch ra, chỉ là những ngõ cụt, bởi vì chưa một ai trong nhân loại được biết và nhìn thấy Thiên Chúa. Người ta chỉ thoáng thấy một vài nét mờ nhạt về Thiên Chúa, đôi khi lại là những hình ảnh méo mó sai lạc.

Con cũng mang trong mình niềm khát vọng được biết Thiên Chúa. Và con thật hạnh phúc, vì con được lắng nghe Lời Chúa và chiêm ngắm công trình cứu độ của Chúa. Được đón nhận mạc khải của Chúa, con không sợ lạc đường, vì Chúa từ nơi Chúa Cha mà đến. Chỉ có Chúa mới có thể tỏ lộ Thiên Chúa là Cha chúng con, và những điều Chúa tỏ lộ là chắc chắn và chính xác. Con dâng lời cảm tạ Chúa.

Xin Chúa ban cho con tâm hồn khiêm tốn đơn sơ để con thấu hiểu được những điều Chúa mạc khải cho con.

Con cầu nguyện cho những người đang bước đi trong đêm tối lầm lạc: xin Chúa lôi kéo họ về với Thiên Chúa đích thực. Con cầu nguyện cho những người cậy dựa vào sự thông thái, khôn ngoan của lý trí, để chối bỏ Thiên Chúa hoặc để vẽ Thiên Chúa theo ý của mình. Xin Chúa cho họ khiêm tốn nhận ra sự giới hạn của mình và mở lòng đón nhận sự mạc khải của Chúa.

Lạy Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, con tín nhiệm nơi Chúa và bước đi theo Chúa. Xin dìu dắt con về với Chúa Cha. Amen.

Ghi nhớ: “Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần”.

Suy Niệm 8: Đức tin là một ơn ban

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống. . . )
  2. Văn mạch: Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Đức Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ: Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời “tên các con được ghi trên trời” – Lc 10,17-20 
  3. Chúa Giêsu lại liên tưởng đến những kẻ không đón nhận Tin mừng vì lòng trí họ kiêu căng tự mãn. Những người này khác hẳn với những tâm hồn đơn sơ bé mọn đã đón nhận Tin mừng do các môn đệ rao giảng. Và Ngài cảm tạ Chúa Cha về việc đó.
  4. Suy niệm (. . . nẩy mầm)
  5. “Con xưng tụng Cha vì đã dấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều ấy…”: Tôi cũng xưng tụng cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho tôi được đức tin, được biết Chúa. Nhiều người thông thái khôn ngoan hơn tôi đã không được những ơn này. Đức tin là một ơn ban chứ không phải là thành quả của công lao con người.
  6. “… nhưng đã tỏ ra cho những kẻ đơn sơ”: xin cho con càng ngày càng đơn sơ hơn nữa: đơn sơ với Chúa, đơn sơ với lương tâm con và đơn sơ với mọi người, vì đơn sơ là điều kiện thuận lợi con được Chúa dạy bảo và ban ơn.
  7. Ba động từ chủ chốt của đoạn này là “thấy, nghe và biết”. Còn những người được “thấy”, được “nghe” và được “biết” Tin mừng là ai ? Thưa là những kẻ bé mọn. Nói cụ thể hơn, đó là các môn đệ Chúa và dân ở những nơi mà các môn đệ đến rao giảng. Họ không giống với dân ở những thành mà trong đoạn Tin mừng phía trước (10,1315) Chúa Giêsu đã nặng lời khiển trách. Những người đó tự cho mình là thông giỏi nên không đón nhận Tin mừng. Họ giống như những chiếc thùng đầy nước cho nên có đổ thêm bao nhiêu nước nữa thì cũng trán hết ra ngoài. Còn các môn đệ Chúa Giêsu và dân ở những nơi này thì khiêm tốn ý thức mình còn ngu dốt yếu kém nên vui vẻ đón nhận Tin mừng, giống như những chiếc thùng rỗng nên chứ đụng được lượng nước đổ thêm vào. Chúa Giêsu vui mừng tạ ơn Chúa Cha vì đã cho những người bé mọn ấy được thấy, được nghe và được biết Tin mừng.

Muốn đón nhận ơn Chúa, cũng như muốn hiểu biết Thiên Chúa hơn thì chúng ta phải trở nên những kẻ bé mọn, phải ý thức mình còn kém. Và bé mọn thực sự, khiêm tốn thực sự là phải biết đón nhận, đón nhận không những từ nơi Chúa, mà còn phải từ anh em của mình nữa.

  1. “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua Chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc 10,24).

Môsê, Đavít, Êlia tất cả đều sống trong sự chờ đợi. Chờ đợi lời Thiên Chúa hứa ban Con của Ngài đến được thực hiện. Họ mong được nhìn thấy Con Thiên Chúa, mong được nghe Ngài giảng dạy về Nước Trời.

Các tông đồ đã sống, đã đồng hành với Ngài trên mọi nẻo đường. được Ngài dạy dỗ, được sai đi rao giảng Nước Trời. Các ông đã được thấy phép lạ Người làm. Được nghe Ngài nói về Chúa Cha và Nước Trời, nhưng các ông vẫn sống trong hoài nghi cho đến khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết.

Ngày nay, Ngài cũng nói với tôi mỗi ngày qua Tin mừng, qua anh em tôi. Tôi vẫn thấy Ngài bị treo thánh giá, nơi những người cùng khổ, những người bị áp bức bất công, nơi những tâm hồn thống hối trở về. Tôi đã thấy Ngài sống lại vinh quang và những phép lạ Ngài làm trong cuộc sống quanh tôi. Tôi có thấy mình hạnh phúc hơn các ngôn sứ, các vua Chúa, các tông đồ không ? Hay tôi cũng là môn đệ của chủ nghĩa hoài nghi ?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết vui mừng và tin vào những gì Ngài đã làm cho con cũng như nói với con hằng ngày. (Hosanna)

  1. “Lạy Cha là Chúa tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha vì đã mặc khải cho những người bé mọn biết những điều này” (Lc 10,21)

Bên cạnh tôi là bác nông dân chất phác đang nguyện kinh. Và kia là một người trí thức đang cầu nguyện. Thái độ bề ngoài cho thấy là họ hết lòng tin tưởng. Bác nông dân tin một cách đơn sơ, tin những gì mình nghe biết đ. Người trí thức thì nghe, suy nghĩ, phân tích rồi cũng tin. Cả hai đều tin và ý thức mình là những người bé mọn, yếu đuối. Họ chấp nhận những giới hạn của mình và sẵn sàng mở ra cho mặc khải tình yêu Thiên Chúa.

Cũng thế, tôi chỉ có thể đón nhận mặc khải một khi trở nên nhỏ bé và khiêm tốn.

Lạy Cha, xin ban cho con quả tim đơn sơ như trẻ nhỏ, sẵn sàng đón nhận những gì Cha ban tặng cho con, và can đảm phó thác hoàn toàn cuộc đời con trong tay Cha (Epphata).

  1. Mầm khác:

Vào thời xa xưa khi người ta còn biết tìm ra chìa khóa mở cổng Thiên đàng. Có một ông vua rất giàu sang và quyền thế, sau khi đã chinh phục các quốc gia láng giềng và những gì vua ưa thích, vua còn muốn tìm kiếm một kho tàng quý hơn nữa là chìa khóa mở cửa Thiên đàng, nhưng không một ai có thể làm thỏa mãn lòng vua được, vua sai các quan tướng đi kiếm khắp nơi trong nước, từ trên núi cao xuống tận đáy biển, trong rừng sâu tới chốn bùn lầy nhưng cũng chỉ tốn của uổng công. Sau cùng chính vua quyết định đích thân đi tìm chìa khóa cổng Thiên đàng.

Một hôm, nhà vua cỡi ngựa đến trước một bức tường cao có tháp canh, cổng sắt rất kiên cố, trước cổng cao có thiên thần canh gác rất kỹ, nhà vua tiến lại gần thân thưa:

– Tôi sẽ không được bình an trong tâm hồn cho đến khi tìm được chìa khoá mở cửa Thiên đàng.

Thiên thần cười đáp:

– Thật ra trên trần gian này có hàng trăm hàng ngàn thứ chìa khóa mở cửa Thiên đàng được, các chìa khóa ở ngay dưới chân vua, người ta dẫm lên chúng, nhà vua có thể tìm được chìa khóa mở cửa Thiên đàng nếu nhà vua bền tâm chịu khó tìm kiếm.

Từ ngày đó, nhà vua xuống ngựa bách bộ lang thang đó đây. Năm tháng trôi qua, mặc dầu nhà vua đã mệt mỏi tìm kiếm khắp nơi trên trái đất nhưng vẫn không tìm thấy.

Một ngày kia, đang lúc đi dạo trong rừng, nhà vua vấp ngã vào một gốc cây nhỏ bé gần như sắp tàn héo bên vệ đường, vì mắt đã già, sức yếu nên nhà vua cũng cảm thấy tự nhiên thích quan tâm đến những vật nhỏ bé, nhà vua nhổ cây nhỏ sắp chết đem về hoàng cung rồi tự tay chăm bón phân đất cho cây, tưới nước hằng ngày, các quan cận thần trong hoàng cung thấy vậy liền nói với nhà vua:

– Tâu Chúa thượng, sao Chúa thượng lại phải bận tâm đến một cây bé nhỏ héo tàn như vậy ? Chắc gì nó sống lại được, và nếu nó có sống được thì với tuổi tác trên vai, làm sao hoàng thượng còn hy vọng nghỉ dưới bóng cây của nó hoặc hưởng dùng hoa trái của nó được, nhà vua thản nhiên trả lời:

– Một ngày nào đó, tuy ta không còn sống nữa, nhưng sẽ có người khác đến ngồi dưới bóng cây và họ sẽ sung sướng được thưởng thức hoa trái của nó; điều đó đủ để ta cảm thấy vui sướng ngay từ lúc này rồi. Vừa nói xong, nhà vua đưa chân bước đi thì kìa một chìa khóa từ dưới đất mọc lên như một cái nấm. Chìa khóa làm bằng một thứ kim loại rất lạ đủ màu, xanh đỏ thêm sắc vàng.

Quý vị và các bạn thân mến

Đức Tin. Cậy. Mến là chìa khóa mở cửa Thiên đàng đã được ban tặng cho các tín hữu trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. nhà vua trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây tưởng có thể tìm được chìa khóa mở cửa Thiên đàng bằng tiền bạc hay quyền thế nhưng đã hoàn toàn thất bại. Tuy nhiên nhờ nhà vua biết tự hạ mình, biết khiêm tốn thực thi lòng tin, cậy, mến. Nhờ đó nhà vua đã tìm được chìa khóa mở cửa Thiên đàng. Việc làm của nhà vua tuy bé nhỏ nhưng là biểu hiện lòng tin, cậy, mến của người tín hữu Kitô trong đời sống thực tế.

Tin nhận Thiên Chúa là đấng tạo thành trời đất, muôn vật. Lòng cậy trông,lòng mến làm cho cây nở hoa trái đúng thời giờ của mình và lòng bác ái nghĩ đến lợi ích của tha nhân không chỉ lợi ích cho cá nhân mình thôi.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã hứa với những người thành tâm thiện chí cùng Chúa rằng: “Ai xin thì sẽ được. ai tìm sẽ thấy. Ai gõ cửa sẽ mở cho”.

Xin ban cho chúng con được lòng khiêm tốn và bền tâm đi tìm chìa khóa mở cửa tâm hồn con trước, để con biết nhìn mọi người với con mắt đức tin, biết bước đi trong niềm hy vọng và biết thực thi đức bác ái trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống và nhất là trong âm thầm với những người bé mọn yếu hèn. Với chìa khóa này trên tay, con tin chắc Chúa sẽ mở cửa Thiên đàng cho con trong ngày sau hết Amen.

Suy Niệm 9: Mạc khải cho kẻ bé mọn

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Ý tưởng nòng cốt trong bài Tin mừng hôm nay: Thiên Chúa chỉ mạc khải mầu nhiệm Nước trời cho những tâm hồn đơn sơ khiêm hạ. Những kẻ cậy mình khôn ngoan không được biết những kín nhiệm của trời cao. Thiên Chúa yêu thương người hèn mọn và bênh vực người yếu đuối. Chính trong sự nhỏ bé của con người, huyền nhiệm tình yêu được bày tỏ.

Muốn được biết Chúa, muốn được hưởng nhờ ơn cứu rỗi của Chúa, chúng ta cần trở nên người bé mọn, đơn sơ, khiêm tốn. Đức Giêsu đã được Chúa Cha cho biết rõ chương trình cứu độ của Người và qua Đức Giêsu, Người cũng tỏ cho những kẻ đơn sơ khiêm tốn biết, còn những kẻ kiêu căng tự đắc thì người giấu kín. Vì thế, Đức Giêsu hoan hỉ cảm tạ Chúa Cha, chẳng những vì đã ban cho Người đầy tràn Thánh Thần và toàn quyền trên trời dưới đất, và còn mạc khải Nước trời cho những người khiêm tốn bé mọn.

Những kẻ bé mọn là ai ? Nói một cách cụ thể, đó là các môn đệ Chúa và dân ở những nơi mà các môn đệ đến rao giảng. Họ không giống với dân ở những thành mà trong đoạn Tin mừng phía trước (10,13,15) mà Đức Giêsu đã nặng lời khiển trách. Những người đó tự cho mình là thông giỏi nên không đón nhận Tin mừng. Họ giống như những chiếc thùng đầy nước, cho nên có đổ thêm bao nhiêu nước nữa thì cũng tràn ra hết bên ngoài.

Còn các môn đệ Đức Giêsu và dân ở những nơi này thì khiêm tốn, ý thức mình còn ngu dốt yếu kém nên vui vẻ đón nhận Tin mừng, giống như những chiếc thùng rỗng nên chứa đựng được lượng nước đổ vào. Đức Giêsu vui mừng tạ ơn Chúa Cha, vì đã cho những người bé mọn ấy được thấy, được nghe và được biết Tin mừng.

Tháng 6/2000, Francis Collins công bố khám phá quan trọng của ông về hệ “gen”, giải mã bí mật liên quan đến sự hình thành của con người. Điều đáng nói là ngay trong những lời phát biểu đầu tiên của mình, Collins, khoa học gia hàng đầu thế giới và là người vô thần, khẳng định mình đã bị Thiên Chúa chinh phục vì vẻ đẹp kỳ diệu của hệ gen mà ông gọi là “ngôn ngữ riêng của Thiên Chúa”.

Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu ngợi khen Chúa Cha về ngôn ngữ độc đáo của Người, vốn được giấu kín trước những “bậc khôn ngoan thông thái”, mà chỉ mạc khải cho “những người bé mọn”. Hay nói cách khác, chỉ những ai có cặp mắt trẻ thơ mới có thể đọc hiểu được ngôn ngữ ấy, ngôn ngữ của tình yêu quan phòng. Đó là cặp mắt biết ngạc nhiên trước kỳ công của Chúa, và đặt mình trong bàn tay của Chúa. Không chỉ có thế, Đức Giêsu còn khẳng định họ sẽ “được thấy” những điều cao cả lớn lao bao người hằng mong ước (5 phút Lời Chúa).

Một gương sáng về sự bé mọn để chúng ta bắt chước: Chị thánh Têrêsa Hài Đồng cảm nghiệm được Nước trời vì mang tinh thần đơn sơ bé nhỏ: làm những việc bé nhỏ, như chị đã thổ lộ và cầu nguyện: “Con là một linh hồn rất bé mọn chỉ có thể dâng những điều bé mọn cho Chúa”. Nhờ tinh thần phó thác vào Chúa, chị cảm nhận ra tình yêu Chúa ngay cả những giây phút đen tối của tâm hồn, chị vẫn cảm nghiệm được Nước trời: “Ngay cả những khi gặp thử thách ốm đau, con không sợ, vì Chúa luôn ở bên con, vì Ngài đã nâng đỡ con từ khi con còn tấm bé, và sẽ nâng đỡ con mãi mãi cho đến hơi thở cuối cùng”. Chính tinh thần nhỏ bé tín thác khiến chị sờ tới Nước trời, trong Thiên Chúa chị được sự bình an tâm hồn khi đặt mỗi gánh nặng bệnh tật vào Thiên Chúa.

Nhỏ bé, nép mình vào lòng Chúa, phó thác tất cả để được Thiên Chúa đỡ nâng.

Truyện: Nhà khoa học George Washington Carver

George Washington Carver, nhà khoa học nổi tiếng, có lần đã nói về cách ông hỏi Chúa: “Lạy Chúa, vũ trụ được làm bằng gì ?”

Chúa trả lời: “George, vũ trụ quá lớn, con không thể hiểu được. Con cứ để ta chăm sóc vũ trụ”.

Ông lại hỏi cách khiêm tốn: “Lạy Chúa, nếu vũ trụ quá lớn đối với con, còn hạt đậu thế nào ?” Chúa nói: “George, con đã hỏi điều hợp với con. Con có thể hiểu một hạt đậu, nên Ta sẽ giúp con”.

Vì thế, George đã để vũ trụ cho Chúa chăm sóc và ông khám sức mạnh to lớn của hạt đậu nhỏ bé. Và từ hạt đậu, ông đã phát triển được 200 sản phẩm hữu dụng.

Chẳng bao giờ ông phàn nàn rằng Chúa không cho ông biết những điều huyền bí sâu xa hơn.

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Những người được “thấy”, được “nghe” và được “biết” Tin Mừng là ai ? Thưa là những kẻ bé mọn. Còn những người tự cho mình là thông giỏi kiêu ngạo thì Tin Mừng của Chúa khó đến với họ. Họ giống như những chiếc thùng đầy nước cho nên có đổ thêm bao nhiêu nước vào nữa thì cũng vô ích, nước sẽ tràn ra ngoài hết.

Vào thời Minh Trị (1786-1912), có một giáo sư đại học muốn tìm hiểu về thiền với một thiền sư nổi tiếng người Nhật tên là Nam-in.

Thiền sư Nam-in chào hỏi, tiếp đón rất lịch sự nhưng sau đó khi rót nước trà mời khách thì thiền sư cố ý rót đầy tách trà của khách. Tách đã đầy nhưng thầy vẫn cứ tiếp tục rót thêm!

Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cho đến khi không kềm mình được nữa, ông lên tiếng:

– Đầy quá rồi, xin đừng rót nữa.

– Giống như cái tách này. Nam-in nói. Ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông, làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được, trừ phi ông cạn cái tách của ông trước!

Vâng, chỉ có những người ý thức mình còn thiếu thốn, yếu kém mới có thể vui vẻ đón nhận Tin Mừng. Họ chẳng khác gì những chiếc thùng rỗng nên lúc nào cũng có thể đổ thêm nước vào. Chúa Giêsu vui mừng tạ ơn Chúa Cha vì đã cho những người bé mọn ấy được thấy, được nghe và được biết Tin Mừng.

  1. Như vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, cũng như muốn hiểu được Chúa hơn thì chúng ta cũng phải trở nên những kẻ bé mọn, khiêm nhường. Có như thế thì ơn Chúa mới có thể đến với chúng ta. “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc 10, 24).

Ngày xưa, có một ông vua rất giàu sang và quyền thế. Sau khi đã chinh phục được các quốc gia láng giềng và có được tất cả những gì mình mong ước, thế nhưng vua vẫn chưa cảm thấy bằng lòng. Nhà vua còn ước ao có được thêm một kho tàng quý hơn nữa đó là chìa khóa mở cửa Thiên Đàng. Vua sai các quan tướng đi tìm kiếm khắp nơi trong nước, từ trên núi cao xuống tận đáy biển, trong rừng sâu tới chốn bùn lầy nhưng việc làm đó chỉ tốn công vô ích. Sau cùng, chính nhà vua quyết định chính mình sẽ đích thân đi tìm chìa khóa mở cổng Thiên Đàng.

Một hôm, nhà vua cưỡi ngựa đến trước một bức tường cao có tháp canh, cổng sắt rất kiên cố. Trước cổng có thiên thần canh gác rất kỹ, nhà vua tiến lại gần thân thưa:

– Tôi sẽ không được bình an trong tâm hồn cho đến khi tìm được chìa khoá mở cửa Thiên Đàng.

Thiên thần cười đáp:

– Thật ra chìa khoá mở cửa Thiên Đàng trên trần gian này không thiếu. Có hàng trăm hàng ngàn thứ chìa khóa có thể mở được cửa Thiên Đàng. Các chìa khóa đó ở ngay dưới chân vua. Người ta dẫm lên chúng. Ngài có thể tìm được nếu ngài bền tâm và chịu khó tìm kiếm.

Sau lần gặp gỡ đó, ngày ngày nhà vua bách bộ lang thang đó đây. Năm tháng trôi qua, mặc dầu nhà vua đã mệt mỏi tìm kiếm khắp nơi trên trái đất nhưng vẫn không tìm thấy.

Rồi một ngày kia, đang lúc đi dạo trong rừng, nhà vua vấp chân vào một gốc cây nhỏ bé gần như sắp tàn héo bên vệ đường. Vì mắt đã già, sức yếu nên nhà vua cảm thấy tự nhiên thích quan tâm đến những vật nhỏ bé. Nhà vua nhổ cây đó lên đem về trồng ở hoàng cung rồi hằng ngày tự tay chăm sóc tưới bón cho nó. Các quan cận thần trong hoàng cung thấy vậy liền nói với nhà vua:

– Tâu Chúa thượng, sao Chúa thượng lại phải bận tâm đến một cây bé nhỏ héo tàn như vậy ? Chắc gì nó sống lại được, và nếu nó có sống được thì với tuổi tác trên vai, làm sao hoàng thượng còn hy vọng gì nghỉ dưới bóng mát của nó hoặc hưởng dùng hoa trái của nó được ? Nhà vua thản nhiên trả lời:

– Một ngày nào đó, tuy ta không còn sống nữa, nhưng sẽ có người khác đến ngồi dưới bóng cây và họ sẽ sung sướng được thưởng thức hoa trái của nó; điều đó đủ để ta cảm thấy vui sướng ngay từ lúc này rồi.

Vừa nói xong, nhà vua đưa chân bước đi thì kìa một chìa khóa từ dưới đất mọc lên như một cái nấm. Chìa khóa làm bằng một thứ kim loại rất lạ xanh đỏ đủ màu.

Lạy Chúa, Chúa đã hứa với những người thành tâm thiện chí cùng Chúa rằng: “Ai xin thì sẽ được. Ai tìm sẽ thấy. Ai gõ cửa sẽ mở cho” (Mt 7, 7).

Xin ban cho con được lòng khiêm tốn và bền tâm đi tìm chìa khóa mở cửa tâm hồn con trước, để con biết nhìn mọi người với con mắt đức tin, biết bước đi trong niềm hy vọng và biết thực thi đức bác ái trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống và nhất là với những người bé mọn yếu hèn. Với chìa khóa này trên tay, con tin chắc Chúa sẽ mở cửa Thiên Đàng cho con trong ngày sau hết. Amen.

Thứ Tư tuần I Mùa Vọng

LỜI CHÚA: Mt 15, 29-37

Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel.

Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: “Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng”. Các môn đệ thưa Người: “Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?” Chúa Giêsu nói với họ: “Các con có bao nhiêu chiếc bánh?” Họ thưa: “Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ”.

Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy.

Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít.

Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.

 

Suy Niệm 1: Ăn no nê

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Khi mô tả về thời cánh chung, thời thiên sai, thời của Đấng Mêsia,

ngôn sứ Isaia nghĩ đến một bữa tiệc lớn cho muôn dân tộc

do Đức Chúa của Ítraen khoản đãi trên núi thánh.

Không phải chỉ đãi thịt béo, rượu ngon,

Đức Chúa còn lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người,

Khổ đau không còn nữa, chỉ còn tiếng reo vui (Is 25, 6-10).

Nơi Đức Giêsu, lời của ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lên một ngọn núi

thuộc miền Thập Tỉnh của dân ngoại (x. Mc 7, 31).

Dân chúng kéo đến cùng với những người bệnh hoạn tật nguyền.

Trên ngọn núi ấy, Ngài đã đem đến niềm vui cho bao người.

Kẻ câm nói được, người què đi được, người mù sáng mắt.

Đức Giêsu không giảng về một Nước Trời xa xôi.

Ngài cho thấy một Nước Trời gần gũi khi thân xác được lành mạnh.

Kitô giáo không duy tâm, duy linh hay duy vật.

Đức Giêsu quan tâm đến trọn cả con người với xác và hồn.

Chính vì thế Ngài vừa rao giảng, vừa chữa bệnh.

Ngài biết chạnh lòng thương đám đông,

vì họ đã ở lại với Ngài từ ba ngày qua mà không có gì ăn.

Ngài hiểu thế nào là cái đói và hậu quả của nó

nên Ngài không muốn để họ đi về mà bụng lại rỗng không.

“Sợ rằng họ bị xỉu dọc đường” (c. 32).

Đức Giêsu đã nghĩ đến việc cho họ ăn như một nhu cầu cấp thiết.

“Chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no” (c. 33).

Trước vấn đề lương thực cho một đám đông ở nơi hoang vắng,

các môn đệ thấy mình bất lực và bế tắc.

“Bảy cái bánh và ít cá nhỏ”, đó là tất cả những gì họ có.

Để nuôi đám đông, các môn đệ phải cộng tác với Đức Giêsu,

trao cho Ngài tất cả những gì mình có,

để rồi nhận lại tất cả từ Ngài, và đem chia sẻ cho đám đông.

Bữa ăn ở nơi vắng này không phải là một đại tiệc với rượu thịt,

nhưng rõ ràng là rất cần thiết, đem lại no đủ và thậm chí dư thừa.

Thế giới hôm nay có hơn một tỉ người đói, đa số ở Á châu.

Những bữa ăn đầy đủ vẫn là nỗi khát khao ám ảnh nhiều người.

Đói chẳng những làm ngất xỉu hay dẫn đến cái chết,

nhưng còn làm người ta mất nhân cách, sống không ra người.

Bận tâm của Đức Giêsu về cái đói cũng là mối bận tâm của Giáo Hội.

Phép lạ bánh hóa nhiều của Đức Giêsu phải được nhân lên khắp nơi,

để không còn ai phải đói trên thế giới.

Bữa tiệc cánh chung, nơi muôn người từ đông sang tây đến dự,

phải được chuẩn bị từ những bữa ăn cho kẻ nghèo hôm nay.

Sống Mùa Vọng là lưu tâm đến bao người thiếu ăn ở quanh ta.

Và dù chỉ có mấy cái bánh, ta vẫn tin có thể bẻ ra để nuôi được họ.

Cầu nguyện:

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công

chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm

về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Suy Niệm 2: Bữa tiệc hạnh phúc

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thời Isaia dân Israel sống trong cảnh lưu đầy. Người lưu đầy phải chịu đói khát. Một tấm màn phủ kín khiến họ như bị giam kín trong tù ngục, chẳng còn thấy bầu trời tự do. Tương lai không lối thoát. Cơm bánh hằng ngày là châu lệ khi nhục nhã vì phẩm giá bị chà đạp. Cuộc đời họ còn sống nhưng như đã chết.

Được mặc khải, Isaia tuyên sấm về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ đưa dân lên ngọn núi cao. Ở đó không còn đói khát vì Thiên Chúa thiết đãi một bữa tiệc thịnh soạn. Không còn từ ngục vì tấm màn bao phủ bị xé toang. Thoát cảnh buồn thương vì Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ. Thoát cảnh chết chóc vì họ được vui sống với Thiên Chúa.

Lời sấm hoàn toàn ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hôm nay Người đưa dân lên ngọn núi. Ở đó Chúa thiết đãi một bữa tiệc. Người chữa mọi người khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Dân không muốn về vì ở trên núi này họ được hạnh phúc. Không chỉ được no đủ, được chữa lành mọi bệnh tật, nhưng nhất là vì được sống với Chúa, được đồng bàn với Chúa. Hình ảnh người mục tử nhân lành trong Thánh vịnh 22 được thể hiện.

Thế giới hôm nay cũng tràn đầy vấn đề như thời Isaia. Người ta không vươn lên núi cao vì đuổi theo những tầm thường dưới mặt đất. Thế giới đói nghèo vì còn lắm bất công. Què quặt vì đưa ra những giải pháp nửa vời. Mù lòa vì không nhận biết chân lý. Câm điếc vì đóng kín trong ích kỷ. Đó là một thế giới thiếu Chúa.

Chúa chính là giải pháp duy nhất cho thế giới. Có Chúa người ta sẽ vươn lên những ngọn núi của lý tưởng cao thượng. Có Chúa người ta sẽ sống công bình. Có Chúa người ta mới biết đường phải đi. Có Chúa người ta mới nói được với nhau, lắng nghe và hiểu nhau. Và nhất là có Chúa, khối lương thực tưởng chừng ít ỏi lại đủ nuôi số đông người vì người ta biết mở lòng chia sẻ. Hãy nhìn tấm gương của Chân phước Mẹ Têrêxa. Bà không có nhiều của cải. Nhưng bà có thể nuôi hàng ngàn cô nhi, chữa lành hàng vạn bệnh nhân, đem niềm vui tươi hi vọng đến cho hàng triệu người. Vì bà có Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy đến cứu chúng con.

Suy Niệm 3: Hóa Bánh Ra Nhiều

Khi bàn về đoạn Tin Mừng hôm nay, một học giả Kinh Thánh đã viết: “Mỗi một giai đoạn trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu được đánh dấu bằng một bữa ăn khoản đãi dân Ngài”. Trước hết là phép lạ bánh hóa ra nhiều cho 5,000 người ăn, được coi như biến cố chấm dứt sứ vụ của Ngài tại Galilêa. Vì từ đây Ngài không còn giảng dạy tại các Hội Ðường cũng như làm những phép lạ, chữa bệnh tật tại đó nữa. Thứ đến là phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi sống 4,000 người, đánh dấu trong một giai đoạn ngắn giảng dạy tại các vùng dân ngoại biên giới Palestina, miền Tirô và Sidon và miền thập tỉnh. Sau cùng là bữa tiệc ly tại Jérusalem, nơi đây đã kết thúc cuộc đời rao giảng của Ngài ở trần gian.

Với cái nhìn phân tích, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi bữa ăn đều nằm trong một bối cảnh khác nhau, thành phần tham dự cũng khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng phát xuất từ một động lực chính, đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Hai lần hóa bánh ra nhiều đều do sự lo lắng của Chúa Giêsu: “Nếu để họ ra về e rằng có những người sẽ bị đói lả dọc đường”. Và riêng bữa tiệc cuối cùng, đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phải thực hiện một phép lạ vĩ đại để cho mọi người được đủ sức mạnh mà tiến bước trên con đường lữ hành trần gian. Nếu là một trong 5,000 người của đám dân chúng được Tin Mừng nói đến hôm nay, chắc chắn tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì tâm trạng của đám dân chúng lúc bấy giờ, là bụng đói lả sau ba ngày theo ngài nhưng lại không dám lên tiếng cứ giữ thái độ yên lặng.

Có thể họ im lặng vì chưa đủ lòng tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Thắc mắc của họ phần nào tương tự như thắc mắc của các tông đồ: “Lấy đâu ra bánh trong hoang địa này cho ngần ấy người ăn”. Mặc dù các môn đệ đã thấy Ngài chữa lành các bệnh tật như làm cho kẻ điếc được nghe, què được đi, cùi được sạch. . . Tuy nhiên, có thể họ nghĩ rằng mình không thuộc về những hạng người cần đến Chúa Giêsu, vì thân thể đang khỏe mạnh đâu cần gì đến thầy thuốc. Sự đói mệt chỉ là một nhu cầu thể lý chứ không phải là một căn bệnh làm gì phải bắt Ngài bận tâm. Thế nhưng họ đâu có thể ngờ rằng, tuy không phải là căn bệnh thì chúng có thể làm hại con người hoặc có thể vì chút tự ái cá nhân mà họ đành im lặng mặc cho cơn đói hành hạ. Tại sao không chịu lo xa chuẩn bị chút ít lương thực phòng thân để giờ này lại mở miệng lên tiếng kêu ca.

Nhìn chung thái độ im lặng này xuất phát từ hai nguyên nhân: Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa và quá quy trách vào bản thân.

Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa khiến con người không thấy Ngài đầy quyền năng và đầy lòng thương xót. Ngài thấu hiểu hết mọi người và hằng quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của con người, ngay cả những nhu cầu nhỏ nhặt nhất cũng đều được Ngài đáp ứng. Mặt khác, quá thiên về bản thân cũng khiến cho con người xa cách Thiên Chúa. Con người luôn phải cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Về phần Chúa Giêsu, dù cho đám dân chúng im lặng, Ngài không chấp lẽ thái độ của họ, Ngài luôn quan tâm đến họ, Ngài sợ họ đói lả té xỉu dọc đàng, và Ngài đã cho họ ăn một cách dư giả đến nổi ăn xong còn dư được bảy thúng đầy. Con số này tượng trưng cho cái vô biên không đo lường nổi.

Cuộc lữ hành nào mà chẳng mệt nhoc, không lương thực thì chắc chắn sẽ có kẻ rơi rụng dọc đường. Chúa Giêsu đã thấy trước điều này ngay trong cuộc lữ hành trần gian, vì thế Ngài đã ban Mình Ngài để làm lương thực nuôi dân Ngài. Tuy nhiên, căn bệnh im lặng của đám dân chúng ngày xưa còn là căn bệnh của thế giới hôm nay. Căn bệnh đó xem ra còn trầm trọng hơn, vì bàn tiệc đã bày sẵn nhưng chẳng mấy ai đến hưởng dùng.

Mùa vọng là mùa đợi trông, dân Do Thái ngày xưa trông đợi ngày Chúa đến, ngày mà Chủ các cơ binh sẽ thiết đãi một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị trổi vượt của bàn tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa đã thiết đãi dân Ngài để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng ta sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời, không lo sợ phải mệt lả dọc đường.

Suy Niệm 4: Hoá bánh ra nhiều lần 2

Nạn đói tại Somali và một vài nơi trên thế giới là một ô nhục cho nhân loại ngày nay. Nhưng không riêng gì tại các nước nghèo, ngay trong các nước giàu, người ta cũng nói đến những hình thức nghèo đói và thiếu ăn mới, đó là nghèo đói tình người: con người có thể có một bộ óc phát triển hơn, một thân thể cường tráng hơn, nhưng trái tim thì lại mỗi ngày một nhỏ lại.

Chúa Giêsu đã đến để làm cho con người được giàu có dư dật hơn, nhưng thiết yếu là giàu có dư dật tình người. Ngài đã không mang lại cho con người cây đũa thần kinh tế chính trị để chỉ làm một cử động nhỏ bé là có đủ cơm bánh. Mồ hôi, nước mắt vẫn là định luật của cuộc sống. Chúa Giêsu không muốn xoá bỏ định luật ấy. Phép lạ, hay đúng hơn giải pháp Ngài đem đến chính là tình người: có tình người, con người có thể xoá bỏ được mọi thứ nghèo đói. Đó là sứ điệp mà chúng ta có thể tìm thấy trong bài Tin mừng hôm nay.

Chúa Giêsu xót thương đám đông đi theo Ngài. Ngài xót thương họ không những vì họ đang đói khát cơm bánh thể xác, mà còn vì nỗi đói khát tinh thần của họ. Phép lạ bánh hoá nhiều không phải là một giải pháp tạm thời xoa dịu cơn đói khát, mà là một lời mời gọi, một khơi dậy về một chiều kích vượt trên những nhu cầu thể lý. Bên kia cơm bánh nuôi thể xác, Chúa Giêsu mời gọi con người hướng về một của ăn không hư nát là sự sống thần linh, sự sống làm cho con người biết yêu thương, quảng đại hơn.

Chúa Giêsu đã có thể nói một lời và phép lạ liền diễn ra. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài tra vấn các môn đệ để khơi dậy nơi các ông mối quan tâm, lo lắng đến người khác. Và chính từ những chiếc bánh và nhưng con cá có sẵn, tượng trưng cho sự đóng góp và lòng quảng đại của con người, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hoá nhiều nuôi sống đám đông dân chúng.

Giàu tình người, giàu lòng quảng đại, giàu tình liên đới, đó là sự giàu có đích thực, và với sự giàu có ấy, phép lạ của Chúa Giêsu sẽ không ngừng được tiếp diễn và lúc đó cái đói khát thể xác mới được xoá bỏ và kiếp nghèo mới được hạ giảm.

Suy Niệm 5: Giấc mơ vô tận

Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến Biển Hồ Galilê. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành. (Mt. 15, 29-30)

Một Lời

Niềm hy vọng không ngừng vọt ra từ những bản văn của ngôn sứ I-sai-a. Hôm nay, niềm hy vọng này làm sống lại ước muốn của chúng ta được vượt qua những giới hạn của sự chết, được sống toàn vẹn, thoát khỏi tang tóc đau thương. Chúng ta thấy trong niềm hy vọng đó lời Chúa ban sự sống xứng đáng dồi dào, xóa sạch mọi khổ nhục. Đó là sự sống vô hạn.

Tin mừng lập lại đề tài này, không phải bằng lời loan báo viển vông, mà bằng dấu chỉ thực hiện niềm hy vọng vô tận này rõ ràng, cụ thể qua việc: “Chúa cầm lấy bảy tấm bánh và mấy con cá, Người tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ phân phát cho dân chúng”.

Một Xã Hội

Chúng ta đang bị một cú sốc. Sau vài thập niên, ai cũng tưởng rằng trái đất là nguồn phong phú vô tận. Nhưng nếu chỉ trong vòng không đầy một tháng thôi, mỏ dầu cạn kiệt, biển khơi chồng chất cặn bã và làm cá chết, những loài vật biến mất, môi trường bị phá hủy, không khí bị ô nhiễm: trái đất sẽ cạn kiệt, thì không còn sản phẩm mới nữa, nguyên liệu hết, đời sống sẽ chẳng còn gì.

Và chúng ta sẽ ra sao?

Thiên Chúa đã hứa ban cho một đời sống phong phú vô tận, nhưng Ngài nhấn mạnh đến phẩm chất của đời sống này, chứ không nói đến đời sống vật chất. Để niềm hy vọng của chúng ta có một giá trị cao quý đích thực về đời sống, chúng ta hãy nghĩ xem và thử đặt vấn đề: “Tôi hy vọng gì? hay đúng hơn: tôi hy vọng vào ai?”. Chúng ta sẽ tìm thấy vô tận ở đâu? Nơi sản phẩm mình có, hay nơi nhân phẩm của mình, nơi cái mình có, hay nơi mình là. Cái mình là, cái phẩm giá mới làm cho đời sống trở thành vô tận. Vậy hãy ném cái thùng của mình vào cái giếng vô tận tuyệt đối, ném cái hữu thể của mình vào hữu thể của Thiên Chúa, ném đời sống mình vào nguồn sống hằng có đời đời của Thiên Chúa.

Sau cùng, để được sống vô biên, cần phải chia sẻ nó. Bánh được hóa ra nhiều để chia sẻ cho đám dân đông đảo, thế mà vẫn còn thu được nhiều thúng đầy. Của cải của chúng ta cần được san sẻ, đời sống của chúng ta cần được bẻ ra phân phát cho nhiều người, nhờ thế, nó được trở nên vô tận.

  1. G

 

Suy Niệm 6: Cần có một tấm lòng

Ngày nay, nhiều người giáo dục con cái về tình thương, nhân ái, liên đới với mọi người bằng cách: khi ra đường, thấy những người ăn xin. . . , họ thường đưa tiền cho con cái của họ và dặn các cháu lễ phép, kính trọng biếu những người đó. Hay khi bỏ tiền vào rỏ ở nhà thờ hay đền thánh. . . , họ cũng thường đưa cho các bé bỏ vào. Qua đó, họ muốn con họ sau này sống có tình thương, chia sẻ, liên đới.

Hôm nay, Đức Giêsu đã thực hiện một phép lạ cả thể là chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Ngài không muốn làm một mình, nhưng Ngài muốn các môn đệ chung chia nỗi thao thức với Ngài, vì thế, Ngài đã gọi các ông lại và nói: “Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng”. Đức Giêsu đã khéo khơi gợi lòng bác ái nơi các môn đệ, và như thế, Ngài đã dạy cho các ông bài học quý báu là phải biết lo lắng cho những người đang cần sự giúp đỡ của họ.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có lòng thương xót như Đức Giêsu. Cần có một tình thương bao la, không giới hạn giữa bạn và thù. Nếu những người ốm đau, bệnh tật thời Đức Giêsu, họ đã tìm lại được sự bình an, hạnh phúc khi gặp được Ngài, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng phải làm cho khuôn mặt, hành động và tình thương của Đức Giêsu được lan truyền và sống động nơi các hành vi, từ cử chỉ, ánh mắt đến nụ cười của mình được thấm đượm vị mặn Giêsu, để những ai gặp được chúng ta, họ như gặp được nguồn bình an, sự cảm thông, lòng thương xót và được hạnh phúc.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng thật ý nghĩa khi nó được đặt vào ngay trong Mùa Vọng, vì Mùa Vọng gợi nhớ và nhắc nhở mỗi chúng ta nhớ lại tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của mình, đồng thời biết loan truyền tình thương ấy cho người khác.

Lạy Chúa Giêsu, tình yêu và lòng thương xót của Chúa đã làm cho dân chúng an vui, hạnh phúc. Xin Chúa cũng ban cho chúng con được trở nên sứ giả của niềm vui, bình an và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.

Ngọc Biển, SSP

Suy Niệm 7: Sống chia sẻ: vật chất, tình thương

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa yêu thương con người toàn diện. Ngài đã cảm nhận được nỗi bất hạnh, sự thiếu thốn nơi những người bệnh tật, đói khát. Chúng ta hãy cảm tạ lòng Chúa xót thương, bằng cách biết chia sẻ tình mến cho anh em.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con mang thân phận con người là mang lấy sự đói khát và thiếu thốn. Là con người, chẳng ai hài lòng với cái mình đang có. Chính vì thế, tình thương của Chúa là một khát vọng lớn mà con người hằng mong mỏi.

Tình thương Chúa đã được biểu lộ cụ thể nơi cuộc đời của con và của gia đình con. Con được sinh ra được nuôi dưỡng trong niềm tin Kitô giáo, được nuôi dưỡng và lớn lên với biết bao hồng ân của Chúa. Thật là một lỗi lầm khi con chỉ biết sống đua đòi, quay cuồng chạy theo những trào lưu của xã hội để hưởng thụ vật chất, mà không biết dâng lời tạ ơn Chúa đã cho con sống an lành đến ngày hôm nay.

Và cũng thật sai trái, khi con cứ đưa mắt nhìn lên những người giàu có, hạnh phúc hơn con, để rồi con buồn phiền và thầm oán trách Chúa. Nhưng đúng hơn, con phải biết rằng: xã hội, thế giới đang có biết bao nhiêu người đang cần đến sự chia sẻ của con.

Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn đến nhiều người đang bất hạnh vì bệnh tật triền miên, biết đồng cảm với bao người đang đau khổ vì đói khát, thất nghiệp, hoạn nạn, thiên tai.

Lạy Chúa, mùa Vọng là mùa trông đợi Chúa tỏ lòng thương xót con người một cách đặc biệt, nhưng đồng thời cũng là mùa nhắc nhở con phải biết sống chia sẻ: chia sẻ vật chất, tình thương, cảm thông, an ủi và tha thứ cho anh em. Xin cho con đừng bao giờ quên Lời Chúa căn dặn: Phúc cho ai có lòng thương xót vì sẽ được Chúa xót thương. Amen.

Ghi nhớ: “Chúa Giêsu chữa nhiều người và hóa bánh ra nhiều”.

Suy Niệm 8: Phép lạ bánh hóa nhiều

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống. . . )

Đoạn Tin mừng hôm nay cho ta biết thêm hai loại hoạt động cứu thế của Chúa Giêsu: 

a/ cc 29-31: cứu những người bệnh; 

b/ cc 32-39: lo cho dân đang đói có của ăn.

Hai hoạt động trên vừa là dầu chỉ cho biết Ngài là Đấng Messia mà Isaia tiên báo Is 61,1-2), vừa là dấu chỉ tiên báo Bí tích Thánh Thể sau này.

  1. Suy niệm (. . . nẩy mầm)
  2. Chủ đề của bài đọc Cựu Ước, và sẽ được ứng nghiệm trong bài Tin mừng: “Chúa mời đến dự tiệc của người, và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.
  3. Chúa Giêsu như một khối nam châm, một chiếc phao giữa biển đời đau khổ. Ngài “ngồi đó” (câu 29), đông đảo các bệnh nhân kéo đến cùng Ngài (câu 30).
  4. Tấm lòng của Chúa Giêsu: “Thầy chạnh lòng thương đám đông. . . sợ họ bị xỉu dọc đường” (câu 32). Động từ “chạnh lòng” trong nguyên bản có nghĩa rất mạnh và cụ thể: cảm giác như ruột mình đứt ra từng khúc.
  5. Chuyện song song ở Lc 9,10-17 còn cho chúng ta biết thêm hai cách phản ứng trước cùng một hoàn cảnh: 

a/ Phản ứng của các môn đệ là “Xin Thầy cho đám đông về, để họ. . . kiếm thức ăn”: phản ứng theo lý (các môn đệ không có trách nhiệm lo cho dân chúng ăn), và mặc kệ (họ đã tự ý đi theo Chúa Giêsu thì họ cũng phải tự lo thức ăn).

Thông thường thì chúng ta cũng như thế. Đây là thái độ của Cain sau khi Chúa hỏi anh về cái chết của Abel, em của anh ta.

Thái độ khép tín lòng từ tâm chảng làm cho con người được hạnh phúc chuyện dù cuộc sống của họ chẳng thiếu thốn một thứ gì.

Khi Đức Thích Ca vào thủ đô của vua Kaniska, nhà vua đã thân hành ra đón chào Ngài. Nhà vua là bạn thân của thân phụ Đức Thích Ca. Đức Thích Ca nhìn sâu vào đôi mắt của nah vua rồi chậm rãi hỏi: “xin Ngài hãy thành thực nói với tôi: Trong tất cả những thú vui mà Ngài đang có, Ngài có thực sự được một ngày hạnh phúc không?”

Vua Kaniska cúi nhìn xuống đất và giữ thinh lặng.

b/ phản ứng của Chúa Giêsu là “Chính anh em hãy lo cho họ ăn”, sau đó Chúa Giêsu làm cho bánh ra nhiều: phản ứng phát xuất từ tình thương, từ sự quan tâm tới người khác, từ tấm lòng quảng đại gánh lấy việc chẳng phải là trách nhiệm của mình.

  1. Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể: chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”. Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
  2. “Đức Giêsu hỏi: “Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông nói: “Thưa có 7 chiếc bánh và một ít cá nhỏ” (Mt 15,34)

Hằng ngày tôi vẫn thấy nào là trẻ em bụi đời, những kẻ bán máu, nào là những kẻ bệnh hoạn, tật nguyền. Tất cả những điều ấy làm tôi nhức nhối, và càng nhức nhối hơn khi nghĩ đến khả năng nhỏ bé của mình. Tôi như thế hoàn toàn bất lực trước những nhu cầu lớn lao ấy. Với 7 chiếc bánh và một ít cá nhỏ của ai đó dâng tặng, Chúa Giêsu đã làm cho hàng ngàn người được no nê. Chúa chỉ cần một đóng góp nhỏ của tôi để làm nên những việc lớn lao. Chẳng lẽ tôi nghèo đến nỗi không có gì để chia xẻ. Chẳng lẽ tôi không có được một lời chào, một nụ cười, một lời hỏi thăm, một lời khuyên. Nếu tôi sẵn sàng trao tặng thì tất cả những khả năng bé nhỏ này, nhờ ơn Chúa, chắc chắn sẽ đem lại niềm vui, tình thương, và thậm chí cả niềm tin cho những người bất hạnh nghèo khổ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con nhận ra những tiềm năng Chúa ban, và biết sử dụng để đem lại niềm vui, tình thương và niềm tin cho mọi người (Epphata).

Suy Niệm 9: Phải biết chia sẻ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau khi chữa lành con gái người đàn bà Canaan, Đức Giêsu cùng các môn đệ lên một ngọn núi ở ven biển hồ Galilê. Ở đó, Ngài tiếp đón và qui tụ nhiều người ở khắp nơi. Họ mang đến cho Người nhiều bệnh nhân và Ngài đã chữa lành họ. Trước cảnh đoàn lũ dân chúng bơ vơ không có người chăn, Ngài chạnh lòng thương và ban lương thực nuôi sống họ.
  2. Đức Giêsu lên núi, dân cúng lũ lượt kéo lên nghe Người giảng, và mang theo nhiều bệnh nhân để xin cứu chữa. Chúa chữa họ khỏi hết: câm được nói, què đi được, mù được thấy. . . nên mọi người hết sức cảm phục và ngợi khen Chúa.

Trước cảnh đoàn lũ dân chúng bơ vơ như bầy chiên không người chăn dắt, họ lại đói khát vì theo Chúa nghe giảng dạy ba ngày rồi mà không có gì ăn. Ngài chạnh lòng thương và ban lương thực nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều từ bảy chiếc bánh và mấy con cá, nuôi bốn ngàn người không kể đàn bà và con trẻ.  Khi ăn xong các môn đệ  lại thu được bảy thúng bánh vụn.

  1. Đức Giêsu bảo các môn đệ hãy lo cho họ ăn, nhưng trong hoang địa thế này làm sao các ông có thể lo cho họ ăn được! Các ông cảm thấy hoàn toàn bất lực. Đúng thế, Chúa có ý cho thấy sự bất lực của các ông trước khi Người làm phép lạ. Để rồi từ đó, qua phép lạ tỏ tường, các ông nhìn ra con người thật của Ngài và sẽ trung thành tin theo Ngài.
  2. Trước phép lạ này, chúng ta thấy có hai phản ứng khác nhau giữa Chúa và môn đệ:
  3. a) Phản ứng của các môn đệ là “Xin Thầy cho đám đông về, để họ. . . kiếm thức ăn”: phản ứng theo lý (các môn đệ không có trách nhiệm lo cho dân chúng ăn), và mặc kệ (họ đã tự ý đi theo Chúa thì họ cũng phải tự lo thức ăn).
  4. b) Phản ứng của Đức Giêsu là “Chính anh em hãy lo cho họ ăn”, sau đó, Đức Giêsu làm cho bánh  ra nhiều: phản ứng phát xuất từ tình thương, từ sự quan tâm tới người khác, từ tấm lòng quảng đại gánh lấy việc chẳng phải  là trách nhiệm của mình.
  5. Chúa hỏi: “Anh em có mấy chiếc bánh”? Hỏi như thế là Chúa muốn các môn đệ dâng cho Người những gì mình có để Chúa biến thành sức sống chăm sóc dân chúng. Chúa muốn người tông đồ dâng cho Người  những gì mình có dù nhỏ bé hèn mọn, để Chúa biến thành  của ăn tinh thần nuôi dưỡng dân chúng.
  6. Các môn đệ thưa: “Có 7 chiếc bánh và một ít cá nhỏ” (Mt 15,34).

Hằng ngày chúng ta vẫn thấy nào là trẻ em bụi đời, những kẻ bán máu, nào là những kẻ bệnh hoạn, tật nguyền.  Tất cả những điều ấy làm chúng ta nhức nhối, và càng nhức nhối hơn khi nghĩ đến khả năng nhỏ bé của mình. Chúng ta như hoàn toàn bất lực trước những nhu cầu lớn lao ấy.

Thế mà với 7 chiếc bánh và một ít cá nhỏ của ai đó dâng tặng, Đức Giêsu đã làm cho hàng ngàn người được no nê. Chúa chỉ cần một đóng góp nhỏ của chúng ta để làm nên những việc lớn lao. Chẳng lẽ chúng ta nghèo đến nỗi không có gì để chia sẻ? Chẳng lẽ chúng ta không có được một lời chào, một nụ cười, một lời hỏi thăm, một lời khuyên. . . Nếu chúng ta sẵn sàng trao tặng thì tất cả những khả năng nhỏ bé này, nhờ ơn Chúa, chắc chắn sẽ đem lại niềm vui, tình thương, và thậm chí cả niềm tin cho những người bất hạnh nghèo khổ (Mỗi ngày một tin vui).

  1. Bài học của phép lạ hóa bánh ra nhiều là ở chỗ: Chúa dạy chúng ta  là hãy vâng lời Ngài mà thực hiện điều răn yêu thương. Yêu thương là chia sẻ, là trao ban. Khi chúng ta chia sẻ, trao ban chính là  làm cho tình yêu được nâng lên.

Tấm bánh đáng lẽ chỉ nuôi được một vài người, đã có thể nuôi cả ngàn người. Tình yêu có thể làm được chuyện mà đồng tiền, đống của không làm được. Người ta thường nghĩ  có nhiều, có dư thì mới cho. Tình yêu không đợi phải có đủ, có dư thì mới cho, nhưng còn sẵn sàng  cho cả cái chính mình đang thiếu, và thậm chí, cả khi không có gì, vẫn có thể cho, đó là chính mình: công sức, tài năng, thì giờ. . .

  1. Truyện: Chỉ cần biết chia sẻ

Một hôm có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng để xin ăn. Bà này từ chối với lời nói chân thật: “Xin lỗi, hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn được”.

Người khách lạ nói: “Không sao, chỉ nhờ bà cho tôi mượn một nồi nấu súp thật lớn. Tôi có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng có món ăn nào  ngon bằng món tôi nấu”.

Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách lạ đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào nồi rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà bà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi súp tuyệt vời ấy. Người hàng xóm này lại tiết lộ cho người hàng xóm khác. Chẳng bao lâu sau căn nhà đầy ắp người.

Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm thử: “Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt”. Một người vội vàng chạy về nhà  lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói: “Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê”. Một người khác vội chạy về lấy thịt. Cứ như thế, cứ như thế. . .

Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách lạ thì vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của mình, bỏ vào túi, rồi vui vẻ chào mọi người và ra đi.

Suy Niệm 10: Biết chia sẻ hạnh phúc

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Nếu chúng ta đặt câu chuyện này song song với Tin Mừng Lc 9, 10-17 thì chúng ta sẽ được biết thêm những chi tiết đặc biệt khác. Luca cho chúng ta biết, đứng trước cùng một hoàn cảnh nhưng phản ứng của những người trong cuộc rất khác nhau:

a/ Trước hết là phản ứng của những môn đệ. Các môn đệ phản ứng rất tiêu cực: “Xin Thầy cho đám đông về, để họ. . . kiếm thức ăn”. Đây là phản ứng theo lý (các môn đệ thấy mình chẳng có trách nhiệm gì đối với đám đông này), và họ chọn thái độ thoái thác, mặc kệ (họ đã tự ý đi theo Chúa Giêsu thì họ cũng phải tự lo thức ăn).

Thông thường thì chúng ta cũng như thế. Đây là thái độ của Cain sau khi Chúa hỏi anh về cái chết của Abel, em của anh ta.

Thái độ khép kín lòng từ tâm này rõ ràng chẳng làm cho con người được hạnh phúc mặc dù cuộc sống của họ chẳng thiếu thốn một thứ gì.

b/ Phản ứng thứ hai là phản ứng của Chúa Giêsu. Đây là phản ứng rất tích cực: “Chính anh em hãy lo cho họ ăn”, sau đó Chúa Giêsu làm cho bánh ra nhiều.

Rõ ràng đây là phản ứng phát xuất từ tình thương, từ sự quan tâm tới người khác, từ tấm lòng quảng đại gánh lấy việc chẳng phải là trách nhiệm của mình.

Tại văn phòng của một cố vấn tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ đẹp vừa giàu sang bước vào giải bày tâm sự:

– Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho tất cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng lòng của tôi lúc nào cũng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên.

Nhà cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể lại chuyện đời cô cho người phư nữ này nghe. Cô thư ký kể:

– Chồng tôi đã chết cách nay 3 tháng; con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống. Tôi không bao giờ cười. Rồi một hôm, tôi đi làm về hơi khuya. Một chú mèo con cứ lẽo đẽo đi theo tôi. Trời lạnh. Tôi thấy tội nghiệp nó quá, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên từ sau những thảm kịch bi đát của gia đình. . . tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là ngay ngày hôm sau, tôi nướng vài ổ bánh đem sang cho bà cụ hàng xóm đang nằm bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp, được vui vẻ. Và quả thực, tôi đã tìm thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không có hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình. Ngược lại, ta sẽ hạnh phúc thật, khi ta làm cho người khác hạnh phúc”.

Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì mà đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).

  1. Đức Giêsu hỏi: “Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông nói: “Thưa có 7 chiếc bánh và một ít cá nhỏ” (Mt 15, 34).

Trong bài giảng số 178, thánh Augustinô có kể lại câu chuyện xảy ra lúc ngài sống tại Milanô Bắc Italia như sau:

Ngày kia có một người nghèo nhặt được một cái ví, trong đó có hai trăm đồng vừa vàng vừa bạc. Nhớ lại Lời Chúa, người đó muốn trả lại cái ví cho người chủ. Nhưng không biết tìm đâu ra người chủ. Người nghèo liền viết một tấm bảng kêu gọi người mất ví tìm đến nhà mình, để nhận lại.

Đọc được tấm bảng, người mất ví tìm đến nhà người nghèo để xin nhận lại cái ví. Sau khi tra hỏi kỹ càng, người nghèo liền trao cái ví cho người chủ. Người này cảm ơn rối rít và tặng cho người nghèo hai mươi đồng, tức là mười phần trăm số tiền có trong ví, theo như qui định thời bấy giờ. Nhưng người nghèo nhất quyết không nhận món quà. Người chủ liền trao cho ông mười đồng, nhưng ông cũng từ chối. Cuối cùng, người chủ nài nỉ ông nhận cho năm đồng, người nghèo cũng một mực không nhận.

Khổ tâm vì không thể nói lên được lòng biết ơn của mình, người chủ đành ném cái ví xuống đất rồi nói như sau: “Bởi vì ông không chịu nhận một đồng nào, nên tôi tuyên bố là tôi cũng không hề mất một đồng nào”.

Nghe thế, người nghèo đành phải nhận món quà của người giàu. Nhưng tức khắc ông đem chia sẻ tất cả cho những người nghèo khổ hơn ông và ông cảm thấy lòng mình thảnh thơi.

Byron nói: “Phương thế tốt nhất để bảo toàn hạnh phúc là biết chia sẻ hạnh phúc”.

Vua Baudouin thì cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đau cái đau của người khác, biết khắc khoải nỗi khắc khoải của người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chia sẻ với người khác mọi hạnh phúc chúng con đang có”.

Suy Niệm 11: ,,,,

(Lm

Suy Niệm 12: ,,,,

(Lm

Suy Niệm 13: ,,,,

(Lm

Suy Niệm 14: ,,,,

(Lm

Suy Niệm 15: ,,,,

(Lm

Thứ Năm tuần I Mùa Vọng

LỜI CHÚA: Mt 7, 21. 24-27

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không phải tất cả những ai nói với Ta, ‘Lạy Chúa, lạy Chúa!’, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời.

“Vậy ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá.

Và hễ ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn”.

Suy Niệm 1: Xây trên nền đá

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Sau khi một cơn bão đi qua thành phố,

người ta ngạc nhiên khi thấy những căn nhà sụp đổ

lại là những công trình mới xây chưa được bao lâu.

Còn những công trình xưa lại hiên ngang đứng vững.

Cũng có khi sau một cơn dông,

một cây còn xanh bỗng nhiên ngã đổ.

Người ta lại gần và thấy ruột của cây đã bị mục từ lâu.

Dông bão làm lộ ra sự thật, vén mở chân tướng,

vì khi biển lặng, ai cũng có thể là hoa tiêu.

Đời con người tránh sao khỏi những dông tố.

Ai cũng mong xây căn nhà đời mình cho kiên cố vững vàng,

đứng được trước bão táp phong ba.

Nhà càng cao, nền càng phải chắc chắn.

Xây trên cát hay trên đá cho thấy ai dại, ai khôn.

Thầy Giêsu dạy các môn đệ biết thế nào là xây đời mình trên đá.

Đó là đem ra thực hành những lời Thầy dạy

mà họ đang nghe trong Bài Giảng trên núi (Mt 5-7).

Sống lời Thầy dạy là chọn đi vào con đường hẹp, ít người đi,

với những thách đố và thiệt thòi, những hiểm nguy và nhục nhã.

Chỉ ai dám sống như thế mới đứng vững khi dông bão bất ngờ ập tới.

Lúc ấy người bị coi là ngu vì sống lời Thầy, mới lộ ra là người khôn.

Vì lời của Thầy Giêsu diễn tả ý muốn của Cha trên trời,

nên thi hành lời Thầy cũng là thi hành ý muốn của Cha.

Đây là điều kiện cần thiết để được vào Nước Trời,

vì tuyên xưng trên môi Thầy Giêsu là Chúa, vẫn chưa đủ (c. 21).

Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa ngóng đợi Nước Chúa đến.

Đây là thời gian thuận tiện để suy nghĩ về cái nền của căn nhà mình,

cái nền của những công trình ta đang đầu tư xây dựng.

Có khi chúng ta thấy nó sao quá mong manh.

Chúng ta không đợi đến lúc dông bão mới gia cố nền móng.

Căn nhà của giáo xứ, giáo phận hay Giáo Hội cũng vậy.

Xây nhà cao tầng mà nền không chắc thì nhà dễ nghiêng.

Đối với ngôn sứ Isaia,

“Chính Đức Chúa là Đá Tảng bền vững ngàn năm” (Is 26, 4).

Tin vào Ngài, ta sẽ được bảo vệ chở che và thêm mạnh sức.

Ngoài Đức Chúa, chẳng có gì vĩnh hằng.

Cuộc sống hôm nay có vẻ ổn định hơn xưa.

Thật ra số phận con người hôm nay bấp bênh hơn nhiều.

Chỉ một sai sót nhỏ cũng kéo theo một cuộc khủng hoảng toàn cầu.

Chỉ một tranh chấp nhỏ cũng có thể làm bùng lên một cuộc chiến.

Hãy xây tương lai của xã hội và Giáo Hội trên Đá Tảng.

Hãy xây những dự tính của đời mình trên nền đá.

Nhờ đó những công trình của chúng ta trở thành vĩnh cửu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Suy Niệm 2: Vương quốc của Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa sẽ đến thiết lập vương quốc của Người. Chúa sẽ mở cửa đón nhận thần dân vào trong nước của Người. Nhưng để được tuyển chọn phải trải qua thử thách. Thử thách khốc liệt giống như những trận mưa sa bão táp, cuốn đi hết những gì giả trá, phù phiếm, hời hợt bên ngoài. Chỉ những gì có nền tảng vững chắc mới tồn tại.

Hôm nay Chúa cho biết nền tảng vững chắc chính là thực hành Lời Chúa. Bình thường mọi người đều kính mến Chúa như nhau. Ai cũng thưa với Chúa: Lạy Chúa, lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Nhưng trải qua khó khăn thử thách, qua bão táp mưa sa, mọi sự mới phân rõ trắng đen, mới tách bạch thực hư, mới hiện rõ đá vàng. Người nghe Lời Chúa mà không thực hành giống như người xây nhà trên cát. Chỉ có bề mặt mà không có bề sâu. Chỉ có vẻ đẹp bên ngoài mà không có vẻ đẹp bên trong. Chỉ có phần trên mà không có nền tảng. Khi gặp mưa sa bão táp, sẽ đổ nát tan tành và sóng nước cuốn đi mất tăm mất tích.

Người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành giống như người xây nhà trên đá, có nền móng vững chắc, như cây cổ thụ đâm rễ sâu trong lòng đất, dù mưa sa bão tố đến, dù những khó khăn thử thách dập vùi, vẫn đứng vững kiên cường.

Tiên tri Isaia cho biết những người xây nhà trên đá là những người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Còn những người xây nhà trên cát là những người tin vào thế lực phàm trần. Thế lực trần gian tưởng vững chắc nhưng sẽ bị Thiên Chúa lật nhào, thành trì trần gian tưởng kiên cố nhưng sẽ bị Thiên Chúa triệt hạ. Còn những ai tin vào Thiên Chúa, sống “công chính và trọn niềm trung nghĩa” với Chúa, sẽ được Chúa xây dựng cho “thành trong lũy ngoài che chở” cho họ. Họ sẽ kiên vững vì “Đức Chúa là Núi Đá bền vững” che chở họ đến muốn đời. Đó cũng là giáo huấn của Thánh vịnh đáp ca: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian”.

Mùa Vọng chính là mùa cho tôi thực hành Lời Chúa dậy. Âm thầm nhưng kiên cường. Như người thợ xây hì hục đào móng, âm thầm xây gạch. Như người nông phu thức khuya dậy sớm, âm thầm gieo hạt, âm thầm cày xới. Để tôi thực sự được gặp Chúa. Được biết đến niềm vui hoàn thành ngôi nhà đẹp đẽ vững chắc. Được như người nông phu tưng bừng rộn rã trong mùa gặt trĩu nặng kết quả.

Suy Niệm 3: Người Khôn Ngoan Thi Hành Ý Chúa

Ở bất cứ một xã hội nào, một quốc gia nào, một thời đại nào, người ta vẫn trọng chữ “Tín”, nghĩa là tin tưởng nhau, đặt trọn niềm tin ở nhau. Ai cũng muốn sống chân thật, không lừa dối, phỉnh phờ. . . Khi tìm bạn để kết nghĩa, ai cũng muốn sống với nhau bằng trái tim chân thành. Không lạ gì khi người ta có quan niệm: “Một túp lều tranh, hai quả tim vàng”. Người ta sợ nhất những người ăn nói dẻo miệng, ăn nói ngọt ngào, vì ai cũng cho là “mật ngọt chết ruồi”. Những người có khoa ăn nói dễ thành công khi ngoại giao tiếp xúc với bên ngoài nhưng không mấy ai kết thân trong tình nghĩa.

Và hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một nhận xét: “Không phải những ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời nhưng chỉ có những người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời”. Chúa Giêsu cũng thường lên án những người Do Thái bấy giờ: “Dân này thờ Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”.

Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật để thờ phượng Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta đã không hẳn hoàn toàn nhớ đến Chúa. Chúng ta vẫn để ý những câu chuyện đâu đâu, từ nhà đến phố chợ, từ công sở cho đến những việc giải trí. Chúng ta không tìm hiểu Thánh Lễ là gì đối với những phần chính yếu trong Thánh Lễ mang một ý nghĩa nào. Qua các phần đó, Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta qua Giáo Hội. Chúng ta giữ đạo chứ chúng ta chưa sống đạo: giữ đạo tức là chúng ta giữ các giới răn của Chúa như người thanh niên trong Tin Mừng thuật lại rằng: “Khi anh đến xin cùng Chúa Giêsu nhân lành: Lạy Thầy, con phải làm gì để được sống đời đời. Chúa Giêsu đã bảo anh ta: Hãy thờ phượng Thiên Chúa, hãy thảo kính cha mẹ, chớ ngoại tình, chớ gian tham, chớ làm chứng dối. . . Người thanh niên đó thưa: Lạy Thầy, những điều ấy tôi đã giữ từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu liền nói với anh: Vậy anh hãy về bán tất cả của cải rồi đến đây theo Ta. Vì nhiều của cải nên anh không thể bỏ mà đi theo Ngài được”. Như vậy anh thanh niên đó đã giữ trọn lề luật cho chính bản thân mình mà thôi, còn đối với những người khác, anh vẫn chưa thực hiện được việc yêu người.

Chúng ta cũng thế, chúng ta có thể giữ trọn Mười Ðiều Răn của Chúa, vẫn không trộm cắp, không ngoại tình, vẫn đi nhà thờ theo luật Chúa dạy. Thế nhưng người bên cạnh tôi không có gì ăn tối, tôi đang dư phần cơm nguội nhưng vẫn điềm nhiên như chẳng liên can gì đến tôi. Trên đường đi đến nhà thờ dự thánh lễ là nguồn mạch yêu thương, thế nhưng có người đang bị trúng gió ngã bên đường, liếc mắt qua, nhìn lại không thấy ai tôi cũng nhanh chân bước vội vì sợ trễ thánh lễ. Vào nhà thờ, người vào trước ngồi trên, chúng ta vẫn cứ ngồi cuối nhà thờ mặc cho ai kêu gọi lên trên. Có lẽ chúng ta sợ Chúa phạt nên ngồi xa xa chăng.

Tình yêu Thiên Chúa cơ mà. Chúng ta sống đạo, sống luật Chúa trong tình yêu thương. Thiên Chúa thực sự và gần anh chị em trong tâm tình con một Cha chung trên trời, khi chúng ta cùng nhau đọc lời kinh Lạy Cha, có như thế chúng ta mới thực sự sống đạo, có như thế chúng ta mới xây nhà trên đá được. Dù sóng gió, bão táp của cuộc đời, ngôi nhà sống đạo của chúng ta vẫn vững bền, dù sóng gió có lùa vào thì cũng không thể làm sập nổi, dù có mưa sa nước lũ, căn nhà đức tin của chúng ta cũng không hề hấn gì, vì được bao bọc bằng tình thương quan phòng của Thiên Chúa che chở. Ðó là người khôn ngoan mà Chúa Giêsu đã nói hôm nay: “Ai nghe và giữ lời Ta nói đây mà đem ra thực hành thì giống như người khôn ngoan xây nhà trên đá”. Nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, đó là một cần thiết cho mọi Kitô hữu. Và Chúa Giêsu còn quả quyết thêm: “Ai nghe và giữ lời Ta thì là Mẹ Ta, là anh em Ta”.

Bàn Tiệc Lời Chúa và Bàn Tiệc Mình Máu Thánh Chúa quan trọng như nhau. Trong Thánh Lễ nhắc nhở cho chúng ta hai phần quan trọng nhất là Bàn Tiệc Lời Chúa, Bàn Tiệc Mình Máu Chúa. Lời Chúa là của ăn bổ dưỡng tinh thần cho chúng ta, Mình Chúa là của ăn thần linh nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta ý thức được điều đó.

Lạy Chúa, xin cho chúng con chuẩn bị mừng Chúa đến trong tâm tình yêu mến và ý thức cảm nghiệm được thức ăn bổ dưỡng tâm linh cho chúng con, đó là thức ăn Lời Chúa và Mình Máu Chúa. Amen.

Suy Niệm 4: Thực thi chân lý

  1. Khrisna, nhà thần bí Ấn độ, có kể câu chuyện như sau:

Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sự đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho nhà vua nghe, và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi: “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?” Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời: “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”.

Dĩ nhiên, thái độ của vua làm cho nhà sư buồn không ít. Ngày nào ông cũng miệt mài tra cứu cốt để giúp nhà vua hiểu được lời kinh trong sách thánh của Ấn giáo. Nhưng mỗi ngày ông có cảm tưởng như mình đang làm một công việc dã tràng.

Ngày nọ, giữa lúc đang định tâm, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sự quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua: “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”.

Sự giác ngộ của nhà sư trên đây có thể gợi lên cho chúng ta lời nhắn nhủ của thánh Gioan Tông đồ. Trong thư thứ nhất, ngài lặp đi lặp lại nhiều lần: “Chúng ta phải thực thi chân lý, chúng ta phải sống chân lý. Ai thực thi chân lý sẽ đến với ánh sáng”. Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý.

Giáo huấn của thánh Gioan chính là âm vang của lời Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thực thi ý Cha Ta trên trời, những người ấy mới được vào Nước Trời”.

Chúa Giêsu không bao giờ dạy điều gì mà chính Ngài không sống và thực thi trước. Cả cuộc sống Ngài là một tiếng xin vâng với thánh ý Thiên Chúa, cả cuộc sống Ngài là một thể hiện lời Ngài giảng dạy.

Ước gì lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về sứ mệnh của người Kitô hữu, đó là làm chứng cho Đức Kitô, không những bằng những tuyên xưng hay biểu dương bên ngoài, mà bằng cả cuộc sống của chúng ta.

 

Suy Niệm 5: Giấc mơ tồn tại vững chắc

 “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”. (Mt. 7, 21)

Một Lời

Thiên Chúa khác với các thần tượng ở sự tồn tại vững chắc muôn đời của Thiên Chúa, còn các thần tượng khác thì chóng qua, chóng hết. Lời Thiên Chúa thì kiên cố vì Ngài đã thực hiện những việc kỳ diệu. Hành động của Ngài mạnh mẽ vô song đã đánh bại quân thù. Sự trung tín của Ngài được thể hiện mãi mãi. Tình yêu của Ngài tồn tại đến muôn đời.

Tin mừng hôm nay nói cho chúng ta biết sự tồn tại vững chắc của Thiên Chúa như tảng đá cho chúng ta xây nhà. Ngài quả quyết ai xây nhà trên tảng đá này sẽ được hoàn toàn bình an vững chắc. Tảng đá đó chính là Đức Kitô.

Trong Xã Hội Chúng Ta

Xã hội tân tiến của chúng ta luôn luôn phô trương quảng cáo mọi cái đều vững chắc lâu bền. Những công ty quảng cáo đều nhấn mạnh việc thành lập đã nhiều năm. Người ta tuyên bố một công ty bảo hiểm vững chắc như “Hòn đảo Gibraltar” trên Đại tây dương ngoài biển khơi Châu Phi. Trái lại, chính những công ty đó lại sụp đổ khi nền kinh tế bị khủng hoảng. Thế mà chúng ta vẫn bị quảng cáo lừa dối, dù chúng ta biết rõ những loại đó chỉ tồn tại được vài năm như máy giặt, máy sấy, ô tô.

Còn chúng ta, chúng ta tưởng mình đang an toàn khi có việc làm vững chắc bảo đảm, khi mọi liên hệ của chúng ta với bà con thường gần gũi nhau. Chúng ta còn đề phòng cho tương lai mình được vững chắc bằng số tiền dự trữ gửi vào ngân hàng hay cho vào quỹ hưu bổng.

Thế Nào Mới Là Tồn Tại Vững Chắc Thật

Hôm nay Tin Mừng dạy ta biết thế nào là tồn tại vững chắc thật. Nếu người ta chỉ nói, chỉ hô hào, chỉ đọc kinh, chỉ la ó phản đối bất công, chỉ tố cáo giả hình thì người ta đã xây nhà trên cát. Chỉ nói suông không đủ làm nền móng vững chắc cho đời sống. Phải hành động, phải sống thực với lời cầu nguyện, phải sống công bằng và thực thi bác ái. Phải thực hiện như thế mới thực sự xây nhà trên đá.

Vậy hôm nay tôi sẽ làm gì?

  1. G

 

Suy Niệm 6: Sống và thi hành

Cuộc đời môn đệ là một cuộc đời đi theo Đức Giêsu. Tuy nhiên không chỉ có cái “mác”, mà còn phải có cái “cốt”; cái “chất” của người môn đệ nữa. Người môn sinh hoàn hảo là người để cho Lời Chúa soi dọi, thấm đượm vào từng hành vi, cử chỉ. . . , đồng thời phải là người trung thành và thi hành theo giáo huấn của Đức Giêsu cách cụ thể chứ không phải trên giấy tờ, sách vở. . . .

Hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến căn tính của người môn đệ và mời gọi phải sống triệt để thì mới được chung hưởng phần phúc Nước Trời với Ngài, đó là: “Không phải tất cả những ai nói với Ta, ‘lạy Chúa, lạy Chúa!’, là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời”. Như vậy, người được tuyển chọn chính là những người dám sống những đòi hỏi của Tin Mừng cách thực tế chứ không phải chỉ trên đầu môi chót lưỡi. Không chỉ hiểu mà còn phải sống và thi hành những gì đã cảm nghiệm.

Điều đó đã được Đức Giêsu vạch ra trong bài giảng trên núi. Thi hành như thế là người khôn ngoan, biết lo cho cuộc sống mai hậu, biết xây đời mình trên đá chứ không phải trên cát.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần tránh lối sống giả hình, đạo đức hão huyền. Không thể sống mãi kiểu đạo đức hình thức bên ngoài. Những chuyện bên lề đó chỉ là khởi điểm để dẫn ta đi đến cốt lõi của đạo. Nếu không sống cốt lõi của nó, thì mãi mãi chúng ta chỉ là kẻ dựa dẫm, lăng xăng mà thôi.

Hãy tránh cho xa những thói giả hình như: phô trương, hình thức; quá lo lắng đến tiếng tăm bề ngoài; hay xét đoán người khác trong sự nông nổi, nhẹ nhạ. . . .

Cần phải thi hành cho được những đức tính tốt như: phục vụ anh chị em cách vô vị lợi; chia sẻ cơm bánh cho người nghèo cách quảng đại; khiêm tốn khi thành công; vững tin khi thất bại và phó thác trong mọi hoàn cảnh; đồng thời, làm mọi việc là vì vinh danh Chúa chứ không phải vinh thân chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa tha thứ cho chúng con vì những lần chúng con hời hợt mà bỏ qua tinh thần của Chúa là thi hành và yêu mến luật Chúa. Xin cho chúng con biết sống thật tình với Chúa và anh chị em trong cuộc đời và nhất là trong Mùa Vọng này. Amen.

Ngọc Biển, SSP

Suy Niệm 7: Phải thực hành Lời Chúa

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu đưa ra nguyên tắc để đo lường sự hoàn thiện của người môn đệ để xứng đáng vào Nước Trời, đó là “Thi hành ý muốn của Thiên Chúa”. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu đòi hỏi phải sống, phải làm, phải thực hiện trong đời sống, chứ không chỉ biết, chỉ hiểu và nói suông ngoài môi miệng: lời nói phải đi đôi với việc làm.
  2. Muốn thực thi Lời Chúa, trước hết phải yêu mến Lời Chúa, lắng nghe, học hỏi và suy niệm: nghe Lời Chúa với tấm lòng ngưỡng mộ và đơn sơ như đám dân lành đơn sơ, chất phác theo Chúa khắp nẻo đường Palestina. Học hỏi Lời Chúa như Maria ở Bêtania, ngồi bên chân Chúa, lắng nghe để múc lấy nguồn an vui và ơn soi sáng. Suy niệm Lời Chúa như Đức Mẹ đã kính cẩn ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng để biết thánh ý của Thiên Chúa.
  3. Thứ đến phải hiểu Lời Chúa, càng ăn sâu vào lòng, Lời Chúa càng phát triển và càng thêm sức mạnh cho tâm hồn. Rồi phải tin Lời Chúa, vì Lời Chúa là kho tàng sự thật, trong đó có nhiều mầu nhiệm vượt trên và ngoài lý trí cũng như  sự hiểu biết của con người. Cho nên, cần phải có lòng tin mới chấp nhận được những mầu nhiệm ấy.
  4. Sau hết, không những phải lắng nghe, phải hiểu, phải tin mà còn phải thực hành Lời Chúa. Bởi vì Lời Chúa, dù có tốt đẹp và quí giá đến đâu mà không thực hành thì cũng vô dụng. Đức Giêsu cho chúng ta thấy điều đó qua hình ảnh  của hai người xây nhà mà Chúa gọi là người khôn và người dại.
  5. Nhằm diễn tả giá trị của việc thực thi Lời Chúa để được vào Nước Trời, và để được gọi là hoàn thiện, Đức Giêsu đã ví  với việc xây nhà. Xây dựng nhà cửa là một công việc hết sức quan trọng và được tượng trưng cho việc xây dựng cuộc đời. Điều này đã được thánh Gioan diễn tả: “Và thế gian đang qua đi cùng với đam mê của nó, còn kẻ làm theo ý Thiên Chúa thì lưu tồn vạn đại” (1Ga 2,17).

Như vậy, Đức Giêsu có ý nói với thính giả vừa nghe bài giảng trên núi của Chúa để xác định rằng người môn đệ nghe Lời Chúa giảng mà đem ra thực hành, thì xứng đáng là người khôn ngoan, biết lo cho đời sống hạnh phúc và phải coi những người như vậy là người khôn khéo, biết đặt nền móng vững chắc mà xây dựng nhà, dù mưa to gió lớn  không làm đổ được tòa nhà thiêng liêng ấy, vì xây trên sự thực hành giáo huấn của Chúa. Nếu chỉ nghe mà không tuân giữ thì người đó là kẻ dại dột, như kẻ xây dựng nhà cửa trên bãi cát, khi có mưa to gió lớn, tức là khi gặp thử thách, thì tòa nhà thiêng liêng của họ bị sụp đổ (Mỗi ngày một tin vui)

  1. Trong cuộc sống phải làm sao cho tri và hành phải đi đôi với nhau như người ta thường nói: tri hành đồng nhất. Ta biết là thuốc tốt cho sức khỏe, nhưng không chịu uống thì cũng chẳng ích lợi gì, dự án có tuyệt vời mà không thực hiện trong thực tế thì cũng kể bằng không. Lúc nào cũng hứa mai tôi sẽ nên thánh, mốt tôi sẽ giữ đạo. . . Nhưng chẳng bao giờ thực hành thì cũng vô ích.
  2. Bài Tin mừng hôm nay dạy cho ta biết thế nào là tồn tại vững chắc thật. Nếu người ta chỉ nói, chỉ hô hào, chỉ đọc kinh, chỉ la ó phản đối bất công, chỉ tố cáo giả hình thì người ta đã xây nhà trên cát. Chỉ nói xuông không đủ làm nền móng vững chắc cho đời sống. Phải hành động, phải sống thực với lời cầu nguyện, phải sống công bằng và thực thi bác ái. Phải thực hiện như thế mới thực sự xây nhà trên đá.
  3. Truyện: Giác ngộ đích thực.
  4. Khrisna, nhà thần bí Ấn độ có kể câu chuyện như sau: một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagavad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi:

– Bệ hạ có hiểu những gì  thần vừa dẫn giải không?

Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời:

– Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã.

Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả  mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua:

– Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng, hạ thần đã hiểu được. . . .

Suy Niệm 8: Thi hành ý muốn của Cha Thầy

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống. . .

Câu chủ yếu của đoạn này là câu 21: “Không phải bất cứ ai thưa “Lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi”.

Các câu 24-27 là những hình ảnh minh hoạ cho câu trên: người nghe Lời Chúa rồi thi hành giống như người “khôn” xây nhà trên đá; kẻ nghe Lời Chúa nhưng không thi hành giống như người “ngu” xây nhà trước cát.

  1. . . . nẩy mầm.
  2. Chủ đề của bài đọc Cựu Ước, và sẽ được bài TM nhắc lại: “Dân công chính biết giữ sự trung tín, hãy tiến vào”
  3. Tri phải đi đôi với hành. – Ta biết là thuốc tốt những không chịu uống thì cũng chẳng ích lợi gì. – “Hoả ngục được lát toàn bằng những thiện chí”: mai tôi sẽ nên thánh, mốt tôi sẽ giữ đạo…. Những chẳng bao giờ thực hành.
  4. Chúng ta thường xây nhà trên cát, vì chúng ta xây dựng cuộc sống đạo của mình trên những luật lệ, những nghi lễ, trên những câu kinh “Lạy Chúa, lạy Chúa”. Chúng ta ít quan tâm xây dựng cuộc sống trên việc tìm và thi hành ý Chúa, trên việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
  5. Muốn biết ngôi nhà đức tin của ta được xây trên cát hay trên đá, hãy coi những lúc “mưa sa, nước cuốn, bão táp” dập vùi xem đức tin ta có còn đứng vững hay không.
  6. “Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagavad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?”. Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”. . . Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”. . . Giác ngô đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý”. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
  7. “Chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời thì mới được vào Nước Trời mà thôi” (Mt 7,21)

Có lần tôi xem được một chương trình trên tivi về những người cùng khổ trong xã hội. Họ không có lấy một chỗ dựa, một ai nâng đỡ để hòa nhập cuộc sống của mọi người. Họ đang cần sự giúp đỡ của bạn, và của chính tôi. Đã bao nhiêu lần, tôi khước từ lời kêu cứu của họ. Tôi dửng dưng trước lời họ mời gọi. Và như thế, tôi cũng khước từ ý muốn của Cha. Ý muốn của Cha là “anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu anh em”, nghĩa là sẵn sàng hiến mạng sống vì anh em. Vậy, tôi phải cứu lấy những anh em tôi, phải thi hành ý muốn của Cha.

Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương anh em như Chúa đã yêu con, để người ta nhận biết chúng con là môn đệ của Ngài (Epphata)

Thứ Sáu tuần I Mùa Vọng

LỜI CHÚA: Mt 9, 27-31

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: “Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi”.

Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: “Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?” Họ thưa: “Lạy Thầy, có”. Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: “Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy”. Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: “Coi chừng, đừng cho ai biết”. Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.

 

Suy Niệm 1: Mắt họ liền mở ra

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 500 ngàn người bị mù hai mắt,

và 900 ngàn người mù một mắt.

Tỉ lệ người mù như thế là cao so với nhiều nước khác.

Bao cố gắng được đưa ra để giảm số người bị mù,

trong đó có việc mổ cho 350 ngàn người mắc bệnh đục thủy tinh thể.

Người ta hy vọng nhờ đóng góp của các ân nhân,

sẽ có 100 ngàn người nghèo được mổ trong năm 2010.

Hạnh phúc biết bao cho ai lần đầu tiên thấy khuôn mặt người thân,

thấy được màu xanh của lá và phân biệt được sáng với chiều.

Hạnh phúc cho ai lần đầu tiên đi đứng mạnh dạn một mình

mà không cần bàn tay dắt hay cây gậy khua phía trước.

Ở nước Palestin thời xưa cũng có nhiều người mù.

Mù thường bị coi như một hình phạt của Thiên Chúa (Đnl 28, 28-29).

Người mù hẳn là người bị đứng ngoài lề xã hội.

Vào thời y khoa còn kém, người mù phải chịu cảnh tăm tối suốt đời.

Nỗi đau của người mù cũng ảnh hưởng trên cả đất nước.

Chính vì thế khi nói đến thời đại hạnh phúc của Đấng Mêsia,

Isaia nhiều lần nhắc đến chuyện người mù được sáng mắt (Is 35, 5; 42, 7).

Trong bài đọc 1 ta vừa nghe (Is 29, 18), ngôn sứ Isaia viết:

“Mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm, và sẽ được nhìn thấy. ”

Được nhìn thấy bằng đôi mắt nghĩa là được mở ra với thế giới bên ngoài.

Tiếp xúc bằng mắt vẫn có cái gì vượt trội hơn tiếp xúc bằng tay hay tai.

Khi chữa lành những người mù và những tật bệnh khác,

Đức Giêsu khai mở thời đại thiên sai (x. Mt 11, 2-6).

Ngài cho thấy Nước Thiên Chúa nay đã đến.

Khi hai anh mù gọi Đức Giêsu là Con vua Đavít (c. 27),

họ nhìn nhận Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai.

Bởi thế họ hy vọng Ngài sẽ cho họ quà tặng của thời thiên sai.

“Xin thương xót chúng tôi” là xin đưa chúng tôi ra khỏi cảnh mù lòa.

Đức Giêsu đã muốn chữa hai anh một cách kín đáo, tại nhà của Phêrô.

Ngài không chữa cho họ ngay lập tức, nhưng lại hỏi họ một câu rất lạ:

“Các anh có tin là tôi có thể làm được điều ấy không?” (c. 28).

Chỉ khi họ tuyên xưng niềm tin vào quyền năng của Ngài,

Đức Giêsu mới mở mắt cho họ bằng một lời và một chạm nhẹ (c. 29).

Niềm vui quá lớn khiến họ không giữ được lặng thinh (c. 31).

Giáng Sinh là lễ của Ánh sáng, Ánh sáng ngay giữa đêm đen.

Ơn của Mùa Vọng là ơn thoát ra khỏi cảnh tăm tối mù lòa.

Mù lòa đâu phải chỉ là chuyện của 37 triệu người mù trên thế giới.

Mù lòa về chính mình, mù lòa vì không thấy những Ladarô trước cửa,

mù lòa về chính những người trong gia đình, trong giáo xứ,

mù lòa vì không thấy Chúa vẫn đang hiện diện gần bên,

những mù lòa ấy cũng nguy hiểm không kém và cần được chữa lành.

Xin Giêsu đụng vào mắt tôi để tôi được sáng,

và để tôi giúp người khác cũng được thấy ánh sáng Giêsu.

Cầu nguyện:

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.

Suy Niệm 2: Chúa Cứu Thế là ánh sáng

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Từ hàng ngàn năm trước, Isaia đã loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ mở mắt người mù, mở tai người điếc, mở miệng người câm, đem niềm vui cho người nghèo khổ, nâng cao những người hèn mọn trong xã hội. Người tháo cởi mọi thứ xiềng xích trói buộc con người, ràng buộc miệng lưỡi, chèn ép tâm hồn, bưng bít đôi mắt, che kín đôi tai.

Lời tiên báo ấy ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hôm nay Người chữa lành một lượt hai người mù. Hai người là rất nhiều người, là tất cả những người mù. Chúa Giêsu đang đi trên đường. Chúa Giêsu là con đường, là ánh sáng soi đường. Hai người mù không biết đường, không thấy đường cuống cuồng chạy theo để xin Chúa Giêsu cho thấy đường. Chúa Giêsu hỏi họ: “Các anh có tin không”. Tin là điều kiện. Tin cũng là thắp lên ánh sáng. Đức tin chính là ánh sáng soi đường. Có đức tin sẽ nhìn thấy đường đi. Vì đường đi có nhiều bóng tối thử thách, có nhiều cạm bẫy nguy hiểm, phải có ánh sáng đức tin mới nhìn thấy đường đi. Phải có ánh sáng đức tin mới nhìn thấy cạm bẫy và vượt qua được nguy hiểm. Đường đi về Thiên đàng, đến gặp gỡ Thiên Chúa là con đường dài, cần có sự kiên trì trung tín của niềm tin vững mạnh mới có thể đi đến nơi.

Khi mở mắt hai người mù, Chúa Giêsu cho họ nhìn thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Mở cho họ con đường mới tràn đầy tin yêu và hi vọng. Con đường thoát khỏi bóng tối. Con đường đi tới Thiên Chúa. Con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Nhìn thấy công trình của Chúa, ta sẽ không còn xấu hổ thẹn thùng nhưng sẽ vui mừng phấn khởi tôn vinh danh Chúa như lời Isaia tiên báo: “Từ nay Giacop sẽ không còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Giacop nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Giacop là thánh và sẽ kính úy Thiên Chúa của Itraen”.

Lạy Chúa, mắt con mù tối và tâm hồn con bị trói buộc trong nỗi nghi nan, trong sự lầm lạc. Con không biết đường biết lối. Xin Chúa hãy đến mở mắt tâm hồn con. Cho con nhìn thấy quyền năng Chúa. Cho con nhìn thấy ánh sáng sự thật. Cho con thoát cảnh lầm lạc. Để con sẽ vững tin. Để con ca tụng quyền năng Chúa. Và để con tiến bước trên con đường ánh sáng.

Suy Niệm 3: Lòng Tin Khiến Họ Ðược Chữa Lành

Roberto Newman là một người mù từ lúc mới sinh, và mãi đến năm 50 tuổi, một cuộc giải phẫu mới cho phép ông được thấy ánh sáng đầu tiên trong cuộc đời. Với ánh sáng, toàn thể thế giới như thay đổi hẳn viễn tượng trong tâm trí ông với những điều bấy lâu ông hằng tưởng tượng.

Khi được phỏng vấn, ông đã trả lời tờ báo Chicago như  sau: “Ðược nhìn thấy mọi vật quả là một diễm phúc trên đời. Tôi không ngờ rằng một giáo thuyết đã dạy tôi sẽ nhìn thấy mọi vật quanh tôi và đêm về tôi có thể nhìn ngắm các vì sao, những vật thể li ti của dãy ngân hà trên thiên không diệu vời. Bạn sẽ chẳng bao giờ thấy chúng tuyệt vời đến thế nào đối với tôi”.

Nhận xét của Roberto thật xác đáng. Những ai đã một lần mất đi ánh sáng trong cuộc đời để rồi đánh giá trị của khả năng nhìn ngắm. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng thuật lại cho chúng ta câu chuyện hai người đang cần ánh sáng và cuộc tìm kiếm của họ.

Thật vậy, ánh nắng chói chang của vùng sa mạc cùng với những cơn lốc thổi cát bụi mịt mù và cách sống không mấy vệ sinh về đôi mắt đã khiến cho bệnh mù dễ dàng phát sinh tại vùng Palestina. Chúng ta cũng phần nào thấy được điều này qua con số bị mắc bệnh thường tìm đến với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, dù có phải đông người mắc chứng bệnh mù lòa thì không phải vì thế mà người mù lại an phận với kiếp mù lòa của họ, nhưng cuộc sống của họ luôn luôn là một thao thức tìm kiếm ánh sáng, gặp được cơ may có thể tìm thấy ánh sáng thì họ chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ hội.

Người mù Thành Giêricô đang ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng vừa nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, anh liền vội vàng lớn tiếng kêu xin: “Lạy Ngài xin cứu chữa tôi”. Những người chung quanh cản ngăn thì anh lại càng la to hơn để rồi một khi đã nghe tiếng Chúa gọi, anh ta vứt bỏ tất cả để kịp đến với Ngài.

Hai người mù trong trình thuật Tin Mừng hôm nay tuy không có những cử chỉ như người mù Thành Giêricô, nhưng thái độ bền bỉ của họ cũng nói lên được tâm trạng khát vọng sự sáng. Chúa Giêsu đã gặp họ dọc đường, họ lớn tiếng kêu xin Người nhưng Ngài không chữa họ tại nơi đó, Ngài tiếp tục hành trình. Dù chưa được Chúa đáp lời chữa ngay nhưng họ không thất vọng bỏ cuộc và vẫn tiếp tục theo Ngài. Về đến nhà, họ tiến lại gặp Ngài để một lần nữa xin Ngài chữa lành. Câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra cho hai người mù là để gián tiếp diễn tả một câu hỏi khác: “Các ngươi có tin Ta là Ðấng Cứu Thế không?” Vì theo các tiên tri khi thời Ðấng Cứu Thế đến thì mọi bệnh tật sẽ được chữa lành như: người câm nói được, người điếc được nghe, kẻ què được lành và người mù được thấy. . . Họ đáp: “Có” và lòng tin đã khiến cho họ được chữa lành. Trước và sau khi được chữa lành, người mù đều lớn tiếng. Lúc trước họ lớn tiếng vì lòng khát khao tìm thấy ánh sáng, và lần sau họ cũng lớn tiếng với nỗi vui mừng đã được thấy ánh sáng. Khi tìm được nỗi vui mừng thì dù Chúa Giêsu có ngăn cấm, họ vẫn cao rao danh Ngài.

Thế giới hôm nay cũng đang có những luồng ánh sáng và cơn lốc tối mù lý trí và lương tâm con người, bệnh mù này còn nguy hiểm hơn bệnh mù thể xác. Vì lắm lúc con người đang mù mà vẫn cứ tưởng là mình sáng, hoặc có quá nhiều người mù nên con người lại lấy số đông để khỏa lấp cơn bệnh. Phần nào như tâm trạng của Tú Xương: “Thiên hạ có khi đang ngủ cả, viêc gì mà thức một mình ta”.

Ðể chữa trị bệnh mù này cũng không dễ dàng gì, nó đòi hỏi con người phải có một thái độ bền bỉ và vững tin vào Chúa Giêsu như hai người mù ở trên. Bước theo Ngài nhưng nhiều lúc như bị Ngài bỏ quên không nhìn tới. Tha thiết tìm đến Ngài thế mà chẳng được đoái hoài. Thất vọng để rồi buông xuôi bỏ cuộc thì con người sẽ mãi mãi ở trong bóng tối, nhưng vững bước theo Ngài để rồi tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô thì con người sẽ tìm thấy ánh sáng, sẽ được nhìn ngắm những điều tuyệt vời mà trước đấy họ chưa từng thấy và cũng chẳng ai có ngoài một mình Thiên Chúa.

Ước mong rằng trong Mùa Vọng này, mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị sự sáng Chúa đã đem đến cho trần gian, cũng như biết rõ tình trạng mù lòa của mình để rồi chúng ta sẽ tìm đến với Ngài, bất chấp mọi khó khăn trở ngại và nhờ vào lòng tin, chúng ta sẽ được chữa lành.

Suy Niệm 4: Người mù được sáng

Không riêng gì thế giới siêu hình, ngay cả thế giới hữu hình của chúng ta cũng đầy dẫy những huyền nhiệm, hay đúng hơn nhưng thực tại mà con người vẫn chưa hiểu được bản chất. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến ánh sáng.

Có lẽ ánh sáng vẫn tiếp tục là một huyền nhiệm mà khoa học chưa đưa ra một giải thích thoả đáng hoàn toàn: người thì cho rằng ánh sáng được cấu tạo bằng những tinh thể cực nhỏ, kẻ lại cho rằng ánh sáng được cấu tạo bằng những âm ba…

Tính cách huyền nhiệm của ánh sáng và của biết bao thực tại khác trong thế giới là một mời gọi để con người không ngừng vươn lên chiều kích siêu việt của cuộc sống.

Con người không thể tự mình tìm ra được giải đáp cho mọi vấn đề của cuộc sống. Chỉ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể đem lại cho con người chân lý về cuộc sống, về con người, về chính Ngài. Chỉ Thiên Chúa mới có thể vén mở cho con người biết được chân lý và sự vén mở ấy được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô.

Nói như thánh Gioan: Chúa Giêsu chính là Ánh sáng thế gian, ai đi theo Ngài sẽ được ánh sáng ban sự sống. Tin mừng hôm nay khi thuật lại việc Chúa chữa hai người mù cũng muốn nêu bật chân lý ấy. Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Chỉ trong Ngài, chúng ta mới thực sự là người được sáng mắt; chỉ trong Ngài, chúng ta mới biết được chúng ta là ai? Sẽ đi về đâu? Và đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Nhưng dĩ nhiên, để có thể tiếp nhận ánh sáng của Chúa Kitô, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải ý thức được sự mù loà của mình và quyết tâm ra khỏi sự mù loà ấy.

Mù quáng vẫn là cơm cám dỗ khủng khiếp nhất của con người. Mù quáng chính là không còn nhận thức và chấp nhận sự mù loà của mình. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu đã lên án thái độ mù quáng của Biệt phái, họ cuộn mình trong nấm mồ tăm tối của những thành kiến và mớ kiến thức hạn hẹp của con người để khước từ ánh sáng của Thiên Chúa.

Với tâm tình của hai người mù hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chữa trị tật mù loà của thiển cận, tham lam, ích kỷ, tự phụ để chúng ta được bước đi trong ánh sáng của Chúa.

Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta tin rằng mọi biến cố cuộc sống đều có ý nghĩa. Trong ánh sáng của Ngài, thất bại, khổ đau sẽ là khởi đầu của nguồn ơn dồi dào hơn. Trong ánh sáng của Ngài, tha nhân dù có thấp hèn đến đâu cũng đều phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa.

Suy Niệm 5: Chiến thắng thuộc về chúng ta

Khi Đức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa Ngài, chúng tôi tin. ” Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: “ Các anh tin thế nào thì được như vậy. ” (Mt. 9, 28-29)

Nhiều khi chúng ta chán nản trước một vài thất bại, một vài khó khăn cản trở đời sống riêng tư cũng như chung của xã hội. Chúng ta phiền muộn phải chứng kiến những thế lực tăm tối vẫn hoành hành tàn phá; kẻ mạnh bóc lột kẻ yếu, bạo lực công khai hay che đậy, những kẻ ích kỷ lợi dụng, những kẻ cường quyền kiêu ngạo. Một vài lúc chúng ta có khuynh hướng tiêu cực, thụt lùi trước những sức nặng ngăn chặn bước tiến của chúng ta.

Hôm nay một lời đầy hy vọng vang tới tai chúng ta, thúc giục ta can đảm lên, đừng để nỗi chán nản đè bẹp chúng ta: “Nước Thiên Chúa là đây. Ngài ở với chúng ta, Ngài là hoàng tử ánh sáng đến đánh tan bóng tối”. Vâng, những kẻ mù tin Ngài và đang reo vui nhảy múa vì Ngài đã mở mắt cho họ được sáng. Chúng ta chắc chắn chiến thắng sau cùng vì Thánh Thần của Đấng Phục sinh đang sống giữa lòng thế giới: “Kẻ bạo chúa sẽ không còn nữa, và kẻ hỗn xược sẽ mất dạng”.

Nhưng niềm cậy trông này xây nhà trong thế giới hư ảo cho ta trú ẩn. Những xung đột vẫn còn đó, những cuộc chiến vẫn tiếp nối. Môn đệ không hơn Thầy. Thầy đã hy sinh mạng sống, trò cũng phải vác thập giá mình để tham gia xây dựng nước trời lớn lên. Nếu sống biết cậy trông, thì phải lo cố gắng, tin rằng mỗi bước đi trong tình yêu chân thật là đạt tới nước trời đời đời. Môn đệ không được miễn trừ khỏi chiến đấu, nhưng với đức tin, họ sẽ có một cái nhìn sâu sắc rằng những cuộc chiến của họ không vô ích vì chúng đưa họ tới giờ chiến thắng cuối cùng.

Nếu đôi khi chúng ta có cảm tưởng kéo lê đời mình trong tầm thường, nếu chúng ta thất vọng về những mù quáng của thế giới, thì tại sao chúng ta không nghiền ngẫm, nuôi dưỡng thái độ cậy trông của những anh mù trong Tin mừng hôm nay và kêu lên rằng: “Lạy con vua Đa-vít, xin thương xót chúng con”.

Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta không được phép thất vọng vì Người đến với chúng ta trong quyền năng mạnh mẽ của lòng thương xót và trong tình yêu chiến thắng tất cả mọi tử thần.

  1. G

 

Suy Niệm 6: Mù thì sáng – sáng lại mù

Người ta thường nói: “Tình yêu là thứ ngôn ngữ mà người mù có thể thấy, người điếc có thể nghe!”.

Điều đó đã thật đúng với hai người mù hôm nay trong bài Tin Mừng. Quả thật, hai người mù này, họ đã nhận ra Đức Giêsu và họ đã đặt niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Còn những kẻ sáng mắt như Pharisiêu và Luật Sĩ. . . , thì lại không nhận ra con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Họ có mắt mà như mù, còn kẻ mù thì lại sáng! Tại sao vậy? Thưa, vì Đức Giêsu đã phát ra tín hiệu tình yêu, và chỉ những ai khao khát cũng như muốn đón nhận tình thương đó của Ngài thì mới nhận ra mà thôi. Còn những kẻ bảo thủ, cố chấp và tự phụ thì muôn đời vẫn trơ như đá, và lẽ đương nhiên không thể nhận ra Đức Giêsu vì không nằm trong quỹ đạo cũng như không bắt được tần sóng yêu thương của Ngài.

Lời kêu xin của những người mù: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi”, nói lên niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Bởi vì Đức Giêsu thuộc dòng dõi Vua Đavít, Đấng đến để giải thoát và cứu chữa con người, đã được các ngôn sứ tiên báo trước đó, và hôm nay họ nhận ra chính Ngài chứ không phải một Giêsu nào đó cùng tên.

Vì thế, khi được hỏi: “Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?”. Họ đã nhanh chóng đáp lại: “Thưa Ngài, chúng tôi tin”. Cuối cùng, niềm tin đã làm cho họ sáng mắt do tình thương của Đức Giêsu.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mặc khải cho chúng ta biết về sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu, Ngài đến để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người đau khổ.

Ngang qua đó, Đức Giêsu muốn mời gọi mỗi chúng ta cần có tấm lòng yêu thương như Ngài. Có khi chúng ta không có cái gì về vật chất để chia sẻ cho người nghèo, nhưng chúng ta có tình yêu ngang qua cử chỉ, ánh mắt, nụ cười….

Hình ảnh của những người mù vui mừng hân hoan vì được Đức Giêsu chữa cho sáng mắt cũng là điểm gợi ý cho chúng ta rằng:

Cần năng đến với Chúa để được Ngài mở con mắt đức tin cho mình. Khi con mắt đức tin được sáng, hẳn chúng ta sẽ được hạnh phúc vì nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đời và sống với nhau như anh chị em trong đại gia đình.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con không bị mù về mặt thể xác, nhưng có khi tâm hồn chúng con lại mù vì không nhận ra tình thương của Chúa và nhận thấy sự khó khăn của anh chị em. Xin Chúa cho mỗi chúng con được sáng con mắt đức tin, để chúng con nhận ra Chúa và sống liên đới với anh chị em của mình. Amen.

Ngọc Biển, SSP

Suy Niệm 7: Người mù được thấy vì tin Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Sứ mạng của Chúa Giêsu là cho người mù được thấy. Hai người mù được thấy vì đã tin vào Chúa. Người mù tối trong tâm hồn nếu tin vào Chúa cũng sẽ được nhìn thấy bằng ánh sáng của Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì đôi mắt thân xác con còn sáng. Nhưng không phải là đôi mắt ấy có thể nhìn thấy tất cả. Con muốn khám phá thế giới và nhân loại, nhưng đôi mắt con quá nhỏ bé, chỉ nhìn thấy cái vỏ bên ngoài của sự vật, của con người, của các biến cố. Con muốn nhìn thấy Chúa đang hiện diện và hoạt động trong cuộc sống của con, của anh chị em con và khắp nơi trên thế giới, nhưng con chỉ là kẻ mù lòa chẳng nhìn thấy Chúa đâu.

Lạy Chúa là Ánh Sáng trần gian, xin Chúa mở mắt tâm hồn con để con nhận ra Chúa, xin ban cho con đôi mắt đức tin là đôi mắt của Chúa, để con nhìn mọi sự như Chúa nhìn. Xin mở mắt con, để qua cảnh rực rỡ của thiên nhiên, con thấy được vài tia sáng phản chiếu ánh sáng rực rỡ vô biên của Chúa. Xin mở mắt con, để qua những mối tình cảm thương yêu của con người, con nhận thấy được tình thương yêu nhân từ của Chúa. Xin mở mắt con để con nhận thấy anh chị em con là những người con của Cha trên Trời, họ đang được Cha yêu thương, đang lớn lên trong tình yêu của Cha. Xin mở mắt con, để con nhìn thấy Chúa đang đau khổ quằn quại trong thân xác của những người khổ đau. Xin mở mắt con, để con nhìn thấy Chúa đã sống lại và đang đồng hành với con trên mọi nẻo đường, đặc biệt đang hiện diện nơi Bàn Tiệc Thánh mỗi ngày.

Xin Chúa soi chiếu đời con bằng ánh sáng của Chúa và giúp con đi trọn hành trình còn xa thăm thẳm. Amen.

Ghi nhớ: “Tin vào Chúa Giêsu, hai người mù được chữa lành”.

Suy Niệm 8: Tin thế nào thì được như vậy

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống. . .

Chuyện này có hai vai:

  1. Chúa Giêsu:

– Ngài không muốn cho đám đông dân chúng biết phép lạ Ngài làm. Bởi đó khi hai người mù xin Ngài cứu giúp ở chỗ đông người thì Ngài không đáp lại gì cả. Khi về tới nhà, Ngài mới cứu chữa họ. Cứu chữa họ xong, Ngài “nghiêm giọng” bảo họ “đừng cho ai biết”. Lý do: Chúa Giêsu không muốn người ta tin theo Ngài chỉ vì phép lạ.

– Ngài nhấn mạnh tới lòng tin: trước khi làm phép lạ, Ngài hỏi “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?”. Sau khi làm phép lạ, Ngài nói “Các anh tin thế nào thì được như vậy. ”

  1. Hai người mù: đức tin họ rất mạnh

– Họ gọi Chúa Giêsu là “Con Vua Đavít”, tức là tước hiệu người ta gọi Đấng Messia.

– Ban đầu Chúa Giêsu không đáp ứng, nhưng họ cứ theo Ngài cho tới nhà.

– Khi Ngài hỏi, họ tuyên xưng đức tin “Thưa Ngài, chúng tôi tin”.

– Chính Chúa Giêsu nói phép lạ họ được là kết quả của lòng họ tin: “Các anh tin thế nào thì được như vậy”.

* Riêng chi tiết câu 31 (Chúa Giêsu bảo họ đừng cho ai biết, “nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Ngài trong khắp cả vùng”): xem ra họ không vâng lời Chúa Giêsu. Nhưng các nhà chú giải nghĩ rằng Matthêu viết câu này cho tín hữu trong Giáo Hội thời kỳ sau khi Chúa Giêsu sống lại. Trước khi Chúa Giêsu sống lại thì Ngài muốn giữ “bí mật Đấng Messia” kẻo người ta theo Ngài chỉ vì phép lạ. Nhưng sau khi Ngài đã sống lại rồi thì không cần giữ bí mật ấy nữa, trái lại càng phải “bật mí” để cho nhiều người biết Ngài.

  1. . . . nẩy mầm.
  2. Chủ đề bài đọc Cựu Ước, và sẽ được ứng nghiệm rõ ràng trong đoạn Phúc Âm: “Ngày đó mắt người mù sẽ được xem thấy”.
  3. “Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Chỉ trong Ngài chúng ta mới thực sự là người được sáng mắt; chỉ trong Ngài chúng ta mới biết chúng ta là ai? Sẽ đi về đâu? Và đâu là ý nghĩa cuộc sống? Nhưng dĩ nhiên, để có thể tiếp nhận ánh sáng của Đức Kitô, điều kiện kiên quyết là chúng ta phải ý thức được sự mù lòa của mình và quyết tâm ra khỏi sự mù lòa ấy” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
  4. Có nhiều loại mù: mù loà, mù chữ, mù vi tính… nhưng mù không nhận ra Chúa là ánh sáng đời mình có lẽ là tai hại hơn cả. – Người mù đã dùng đức tin mà đi tới Ánh Sáng thật. Hay nói cách khác, có một cách lần tới được ánh sáng một cách thần diệu, đó là đức tin.
  5. Trong đời sống đạo, khi nhận ra mình đang mù và mong tìm về ánh sáng đó là những bước khởi đầu rất tốt cho sự hoán cải và sẽ được biến đổi.
  6. Tự phụ đến mù quáng: Con sư tử đến hỏi con tê giác “Ai là chúa tể khu rừng này?”. Con tê giác đáp “Là sư tử chứ ai”. Sung sướng quá, sư tử đến hỏi con hà mã “Ai là chúa tể khu rừng này?”. Và hà mã cũng trả lời “Là sư tử chứ ai”. Sư tử lại đến hỏi con voi “Ai là chúa tể khu rừng này?”. Voi chẳng nói chẳng rằng, dùng vòi túm lấy sư tử, quăng nó lên trời. Khi rơi xuống đất, con sư tử choáng váng mặt này, mình mẩy ê ẩm, nhưng cũng ráng nói vớt vát: “Vì mi ngu quá chẳng trả lời nổi câu hỏi của ta nên ta không thèm ăn thua với mi” (Lon Jacobe).

Suy Niệm 9: Xin được sáng mắt sáng lòng

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Số phận người mù thật bi đát, họ nghe mà không biết sự vật chung quang thế nào. Họ phải sống trong cô đơn. Cảm nghiệm được nỗi bất hạnh của mình, hai người mù vừa lẽo đẽo  theo Đức Giêsu vừa van xin Ngài: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót chúng tôi”. Ý thức được nỗi khốn cùng của mình là bước khởi đầu nền tảng để đáng được Thiên Chúa xót thương. Càng thấy mình bất lực, chúng ta càng phải cậy dựa vào Thiên Chúa. Điều quan trọng là chúng ta có biết bám chặt vào Chúa và xin Chúa chữa lành tâm hồn chúng ta không?
  2. Hiện nay trên thế giới có nhiều người mù. Người mù ở Việt nam thường sống bằng cách đi ăn xin. Trong Kinh Thánh, người mù là hình tượng của những con người sống trong sự đói nghèo, bị xã hội và ngay cả gia đình bỏ rơi.

Có nhiều loại mù:  mù lòa, mù chữ, mù văn chương, mù vi tính. . . nhưng mù không nhận ra Chúa là ánh sáng có lẽ là tai hại hơn cả. Người mù đã dùng đức tin mà đi tới Ánh Sáng thật. Hay nói cách khác, có một cách lần tới ánh sáng một cách thần diệu, đó là đức tin.

  1. Mù là không thấy và vì không thấy nên không biết hay biết một cách phiến diện, biết không đầy đủ. Cái mù thể xác đã khốn khổ như thế, nhưng còn một loại mù  còn khốn khổ hơn nữa. Người ta gọi đó là mù tâm linh, mù không dám nhìn, không dám nhận sự thật. Đây là thứ mù thường xẩy ra nhất trong đời sống con người.

Đúng thế, không dám nhận ra sự thật cũng là một bệnh mù. Bệnh này rất nguy hiểm, nó thường bộc phát và lây lan nhanh. Nguyên nhân của căn bệnh này là tính kiêu ngạo, một loại vi trùng rất khó trị và thường gây ra những hậu quả rất tai hại cho những người mắc thứ bệnh này.

  1. Tính tự phụ và kiêu căng thường dẫn đến sự mù quáng, không nhìn ra sự thật. Do đó, Lon Jacob đã sáng tác ra câu truyện ngụ ngôn: Con sư tử đến hỏi con tê giác: “Ai là chúa tể khu rừng này”? Con tê giác đáp: “Là sư tử chứ ai”. Sung sướng quá, sư tử đến hỏi con hà mã: “Ai là chúa tể khu rừng này”? Và hà mã cũng trả lời: “Là sư tử chứ ai”. Sư tử lại đến hỏi con voi: “Ai là chúa tể khu rừng này”? Voi chẳng nói chẳng rằng, dùng vòi túm lấy sư tử, quăng nó lên trời. Khi rơi xuống đất, con sư tử choáng váng mặt mày, mình mẩy ê ẩm, nhưng cũng ráng nói vớt vát: “Vì ngu quá chẳng biết trả lời nổi câu hỏi của ta nên ta không thèm ăn thua với mi”.
  2. Hai người mù trong bài Tin mừng hôm nay, mặc dù họ mù hai con mắt thể xác, nhưng trái lại, họ được sáng hai con mắt đức tin, hai con mắt tâm hồn, cho nên họ đã nhận ra Chúa là Đấng con vua Đavít, Đấng Cứu Thế. Họ đã tin Chúa và đã được chữa lành, cho họ được nhìn thấy.

Chúng ta có thể sáng con mắt thể xác vì chúng ta nhìn thấy rõ ràng những công trình của Chúa qua vũ trụ vạn vật, nhưng chúng ta có khi lại mù con mắt đức tin vì chúng ta đã không tin vào Chúa qua các dấu chỉ của sự vật, các biến cố, những sự kiện chung quanh để nhận ra ý Chúa mà thực thi.

  1. Đức Giêsu thấy hai người mù có niềm tin, Ngài muốn họ công khai nói lên niềm tin đó: “Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không”? Họ thưa với tất cả niềm  xác tín: “Lạy Thầy, có”. Người sờ vào mắt họ và nói: “Các anh tin thế nào thì được như vậy”. Mắt họ liền mở ra. Lời nói vắn tắt của Đức Giêsu làm cho hai anh mù được sáng.

Đức tin làm sáng mắt, đức tin cũng mở mắt tâm hồn, mở ra tất cả. . .

Mang danh hiệu là Kitô hữu, là người tin vào Chúa Kitô, nhưng nhiều lúc chúng ta chưa sống trọn vẹn niềm tin của mình. Hôm nay, một lần nữa Đức Giêsu hỏi chúng ta: “Con có tin là Ta làm được điều đó không”? Xin cho chúng ta xác tín không chỉ trên môi miệng, đáp trả với cả trái tim cho Ngài và để niềm tin tỏa sáng trong cuộc sống.

  1. Truyện: Thầy bói sờ voi

Trong kho tàng truyện cổ Ấn Độ có một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Ngày xưa có mấy anh mù rủ nhau đi xem voi. Họ được dẫn đến một con voi rất to để họ dùng tay mà sờ vào nó.

Anh thứ nhất sờ được vào cái vòi của con voi. Sờ xong anh ta đắc chí hô to:

– Tôi biết con voi giống cái gì rồi, nó giống như cái vòi lớn.

Anh thứ hai sờ vào chân voi rồi nói:

– Đâu phải, tôi thấy con voi giống như cột nhà.

Anh thứ ba sờ vào sườn voi, phản đối:

– Các anh điên hả? Tôi thấy con voi giống như một bức tường chứ!

Anh thứ tư sờ vào tai voi, bật cười:

– Các anh nói gì vậy? Tôi thấy con voi  giống như một tầu là chuối.

Suy Niệm 10: Đức tin mạnh mẽ của người mù

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chuyện này có hai vai:
  2. Chúa Giêsu:

– Ngài không muốn cho đám đông dân chúng biết phép lạ Ngài làm. Bởi đó khi hai người mù xin Ngài cứu giúp ở chỗ đông người thì Ngài không đáp lại gì cả. Khi về tới nhà, Ngài mới cứu chữa họ. Cứu chữa họ xong, Ngài “nghiêm giọng” bảo họ “đừng cho ai biết”. Lý do: Chúa Giêsu không muốn người ta tin theo Ngài chỉ vì phép lạ.

– Ngài nhấn mạnh tới lòng tin: Trước khi làm phép lạ, Ngài hỏi: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?”. Sau khi làm phép lạ, Ngài nói: “Các anh tin thế nào thì được như vậy”.

  1. Hai người mù: đức tin họ rất mạnh

– Họ gọi Chúa Giêsu là “Con vua Đavid” (Mt 9, 27), tức là tước hiệu người ta gọi Đấng Messia.

Ban đầu Chúa Giêsu không đáp ứng, nhưng họ cứ theo Ngài cho tới nhà. Khi Ngài hỏi, họ tuyên xưng đức tin:

– Thưa Ngài, chúng tôi tin.

Chính Chúa Giêsu nói phép lạ họ được là kết quả của lòng tin: “Các anh tin thế nào thì được như vậy”.

  1. “Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Chỉ trong Ngài chúng ta mới thực sự là người được sáng mắt; chỉ trong Ngài chúng ta mới biết chúng ta là ai, sẽ đi về đâu và đâu là ý nghĩa cuộc sống? Nhưng dĩ nhiên, để có thể tiếp nhận được ánh sáng của Chúa Kitô, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải ý thức được sự mù lòa của mình và quyết tâm ra khỏi sự mù lòa ấy” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

    Người ta thường nói đến nhiều loại mù: mù chữ, mù nhạc, mù hội họa, mù văn chương, mù vi tính v. v. . nhưng mù không nhận ra Chúa là ánh sáng đời mình có lẽ là loại mù nguy hiểm và tai hại hơn cả.

* Trong kho tàng truyện cổ Ấn Độ người ta đọc được câu chuyện này. Ngày xưa có mấy anh mù rủ nhau đi xem voi. Họ được dẫn đến cạnh một con voi rất to để họ dùng tay mà sờ vào nó. Anh thứ nhất sờ được vào cái vòi của con voi. Sờ xong anh đắc chí hô to:.

– Tôi biết voi giống cái gì rồi, nó giống như một con rắn.

Anh thứ hai sờ vào chân voi rồi nói:

– Đâu phải, voi giống như cái cột nhà.

Anh thứ ba sờ vào sườn voi, phản đối:

– Các anh điên hả? Voi giống như một bức tường chứ!

Anh thứ tư sờ vào tai voi, bật cười:

– Các anh nói gì vậy? Voi giống như một tàu lá chuối.

Đúng là mù! Mù là không thấy và vì không thấy nên không biết hay biết một cách phiếm diện, biết không đầy đủ.

* Trong một tập truyện dụ ngôn Léon Jacobe người ta đọc được câu chuyện này: Con sư tử đến hỏi con tê giác:

– Ai là Chúa tể khu rừng này?

Con tê giác sợ quá nên đáp:

– Là sư tử chứ ai.

Sung sướng quá, sư tử đến hỏi con hà mã:

– Ai là Chúa tể khu rừng này?

Và hà mã cũng trả lời:

– Là sư tử chứ ai.

Sư tử lại đến hỏi con voi:

– Ai là Chúa tể khu rừng này?

Voi chẳng nói chẳng rằng, dùng vòi túm lấy sư tử, quăng nó lên trời. Khi rơi xuống đất, con sư tử choáng váng mặt mày, mình mẩy ê ẩm, nhưng cũng ráng nói vớt vát:

– Vì mi ngu quá chẳng trả lời nổi câu hỏi của ta nên ta không thèm ăn thua với mi.

Đây là một thứ mù nữa. Người ta gọi là mù tâm linh, mù không dám nhận sự thật. Đây là thứ mù thường xảy ra nhất trong đời sống của chúng ta.

Vâng, không dám nhận sự thật cũng là một bệnh mù. Bệnh này rất nguy hiểm, nó thường bộc phát và lây lan nhanh. Nguyên nhân của căn bệnh là tính kiêu ngạo, một loại vi trùng rất khó trị và thường gây ra những hậu quả rất tai hại cho những người mắc thứ bệnh này.

Chúng ta lấy một vài thí dụ. Philatô đứng trước mặt Chúa Giêsu nhưng chỉ thấy Chúa như một tên tử tội cần phải loại trừ chứ không thể nhận ra Chúa là cứu Chúa cho đời mình như là Giakêu người thu thuế. Hêrôđê cũng vậy mặc dù được trực diện với Chúa nhưng chỉ thấy Chúa như một người điên.

Ngược lại, hai người mù trong bài Tin Mừng hôm nay mặc dầu họ mù hai con mắt thể xác nhưng họ lại sáng hai con mắt đức tin, hai con mắt tâm hồn, cho nên họ đã nhận ra Chúa. Họ đã tin Chúa và đã được Chúa chữa lành, cho họ được nhìn thấy.

Phần chúng ta, để có thể tiếp nhận được ánh sáng của Chúa, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải ý thức được sự mù lòa của mình và quyết tâm ra khỏi sự mù lòa ấy” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng.

Chỉ trong Chúa chúng con mới thực sự là người được sáng mắt.

Chỉ trong Chúa chúng con mới biết chúng con là ai, sẽ đi về đâu

và đâu là ý nghĩa cuộc sống cho cuộc đời chúng con.

Thứ Bảy tuần I Mùa Vọng

LỜI CHÚA: Mt 9,35 – 10,1. 6-8

Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.

Và Người triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người bảo: “Các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.

 

Suy Niệm 1: Chạnh lòng thương

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Thiên Chúa của Do Thái giáo là Thiên Chúa gần gũi với con người.

Thiên Chúa của Ítraen có thể trừng phạt dân vì sự bất trung của họ,

nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa giàu lòng tha thứ.

Khi đọc bài đọc 1 của ngôn sứ Isaia, chúng ta ngạc nhiên

khi thấy một Thiên Chúa tỉ mỉ quan tâm đến hạnh phúc của con người.

Ngài nghe và đáp lại tiếng dân kêu than, khóc lóc (c. 19).

Ngài dạy dỗ và chỉ đường cho người lưỡng lự phân vân (c. 21).

Nhưng hơn nữa, Ngài còn để ý đến đời sống vật chất của dân chúng.

Ngài làm cho mưa thuận gió hòa,

cho khe suối róc rách vì có dòng nước chảy.

Nhờ đó hạt giống được gieo trở thành lương thực,

súc vật chăn nuôi được gặm cỏ thỏa thuê,

bò cầy ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối (cc. 23-24).

Con người có đủ bánh ăn và nước uống trong lúc ngặt nghèo.

Qua cuộc sống của mình, Đức Giêsu cũng muốn cho ta thấy

một Thiên Chúa nhân từ bằng xương bằng thịt,

một Thiên Chúa bị thu hút bởi con người, mê say phục vụ con người.

Không rõ trong sứ vụ công khai, trong gần ba năm rong ruổi,

Đức Giêsu đã đi bộ bao nhiêu cây số của xứ Paléttin,

đôi chân dẻo dai của Ngài đã đến với bao nhiêu làng mạc, thành phố.

đôi tay của Ngài đã chạm đến bao nhiêu thương tích của nhân gian.

Chỉ biết trái tim của Ngài là trái tim bằng thịt,

cứ nhói đau và chạnh thương trước bể khổ của phận người.

Bệnh tật thân xác là gánh nặng kéo con người xuống.

Đức Giêsu đã trở nên như vị lương y đối diện với đủ thứ bệnh tật.

Mù lòa, câm điếc, bất toại, phong hủi đều được Ngài chữa lành,

thậm chí Ngài còn hoàn sinh kẻ chết.

Ma quỷ cũng là một mãnh lực làm con người mất tự do.

Khử trừ ma quỷ và thần ô uế, là dấu cho thấy Nước Trời đã đến.

Mọi sự Đức Giêsu đã làm thì Ngài sai các môn đệ tiếp tục (cc. 6-8).

Hôm nay chúng ta cũng được sai để tiếp tục việc của Ngài ngày xưa:

loan báo Tin Mừng Nước Trời, chữa lành thế giới khỏi mọi bệnh tật,

giải phóng con người khỏi những xích xiềng mới do chính họ tạo nên,

và loại trừ thần ô uế ra khỏi mọi nơi con người sinh sống.

Công việc này thật bao la,

vì không giới hạn trong mảnh đất Paléttin nhỏ hẹp.

Công việc này không dễ,

vì ta phải đối diện với sức đề kháng mạnh mẽ của ác thần.

Nhưng với quyền năng Chúa ban, chúng ta tin mình sẽ thắng (c. 1).

Lễ Giáng Sinh là lễ mừng ơn cứu độ cho con người.

Chúng ta được mời nhìn thế giới hôm nay bằng cái nhìn của Giêsu,

yêu thế giới bơ vơ hôm nay bằng trái tim của Giêsu,

đến với thế giới xa xôi hôm nay bằng đôi chân của Giêsu.

Ước gì tay chúng ta chạm đến người nghèo, người yếu đau, sa ngã.

Và ước gì chúng ta cho không những gì đã nhận được nhưng không.

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

thế giới hôm nay cũng như hôm qua

vẫn có những người bơ vơ lạc hướng

vì không tìm được một người để tin;

vẫn có những người đã chết từ lâu

mà vẫn tưởng mình đang sống;

vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,

ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;

vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,

bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;

vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,

dù không phải là người phong. . .

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ

và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết,

xin cho chúng con

nhìn thấy chính bản thân chúng con.

Suy Niệm 2: Thiên Chúa chạnh lòng thương

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thời lưu đày dân chúng sống trong đau khổ: đói khát, nhục nhã. Chân lý thuộc về kẻ mạnh. Thấp cổ bé miệng chẳng ai lắng nghe. Nhưng Isaia loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến giải phóng dân Người. Sẽ lắng nghe tiếng kêu than. Sẽ ban đủ cơm bánh. Sẽ hướng dẫn sự thật. Thiên Chúa yêu thương đầy tế nhị. Người còn cho mưa để hạt giống mọc lên. Cho súc vật béo tốt. Băng bó vết thương. Chữa lành bệnh tật. Cho cả mặt trời mặt trăng sáng hơn gấp bảy lần. Đúng là yêu nhau yêu cả đường đi.

Tình yêu tế nhị đó được Matthêu gọi đúng tên là Chạnh Lòng Thương. Vâng đến thời Chúa Giêsu thì ta được thấy rõ Thiên Chúa có trái tim nhân loại. Trái tim đó biết thổn thức bồi hồi xúc động. Trái tim đó biết quặn lên đau đớn. Vì trái tim đó đặt mình vào hoàn cảnh của tha nhân. Đau nỗi đau của họ. Buồn nỗi buồn của họ. Khổ nỗi khổ của họ.

Vì để lòng mình gần với lòng mọi người. Nên Chúa đã ra tay cứu giúp. Một cứu giúp có kế hoạch lâu dài. Chúa tuyển chọn và sai các tông đồ ra đi tiếp tục công việc Chạnh Lòng Thương của Chúa.

Nhân loại ngày nay không khác gì thời Isaia. Con người bị lưu đầy, xa cách Thiên Chúa bởi biết bao lý thuyết độc hại. Con người bị áp bức rên xiết chẳng ai nghe. Con người bị nô lệ cho thú tính. Bị giam cầm trong nhu cầu, trong dục vọng, trong hưởng thụ. Con người đang bị thương tích. Xã hội bị thương tích vì những ngăn cách giầu nghèo. Gia đình bị thương tích vì biết bao đổ vỡ. Con người bị thương tích vì những lỗi lầm tự gây ra cho mình. Con người rất cần Lòng Thương Xót của Chúa.

Chúa sai chúng ta vào trong thế giới hôm nay để rao truyền Lòng Thương Xót của Chúa. Lòng Thương Xót sẽ đưa con người trở lại với Thiên Chúa. Lòng Thương Xót sẽ giải phóng con người. Lòng Thương Xót sẽ chữa lành những vết thương. Lòng Thương Xót sẽ phục hồi nhân phẩm. Lòng Thương Xót sẽ đem đến cho các vấn để của thế giới này một giải pháp tối ưu và rốt ráo.

Sống mùa Vọng chính là rèn luyện một trái tim biết thương xót. Lạy Chúa, xin tạo cho con một trái tim biết Thương Xót.

Suy Niệm 3: Sứ Mệnh Tông Ðồ

Chú ý đến những thái độ trên của Chúa Giêsu, chúng ta có thể khám phá ra những sự thật hữu ích cho cuộc đời theo Chúa của mỗi người, nhất là của những ai dấn bước theo Chúa, cách đặc biệt hơn là những kẻ “Tận Hiến” cuộc đời làm chứng cho Chúa. Dung mạo tinh thần xung quanh và trước mặt Chúa Giêsu thời Ngài cũng như của thời đại chúng ta hôm nay được Chúa mô tả như lầm than, vất vả, bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt, bị lạc mất lý tưởng sống, đang tự tranh đấu để sống còn.

Trong đoạn này những điểm tiêu cực nhiều hơn là tích cực, như bơ vơ, lạc lõng, đã bỏ mất hay không biết gì đến giá trị nhân bản Kitô. Ðó là đoàn người của một xã hội bị trần tục hóa trầm trọng của ngày hôm nay. Diễn phác môi trường như thế, Chúa Giêsu không có chút trách móc, khinh thị, tránh né mà nhìn đó như một lời mời gọi dấn thân yêu thương, đó là mùa lúa chín một cơ hội ngàn vàng để biểu lộ tình yêu thương đối với anh chị em.

Sự nhỏ mọn tầm thường nơi tâm hồn có thể làm cho chúng ta có một thái độ tranh chấp, khinh thị, rút lui, nhưng đó không phải là thái độ của chính Chúa Giêsu khi Ngài nhìn thấy đoàn người khủng hoảng tinh thần như đoàn chiên không người chăn dắt, vả lại Chúa Giêsu đã yêu thương họ. Ðây không phải là một sự chạnh lòng thương, không phải là một tâm tình thương hại, tôi nghiệp chóng qua nhưng là một tình thương sâu thẳm từ đáy tâm hồn của Chúa Giêsu.

Qua đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy tâm hồn Chúa Giêsu tràn đầy tình thương khi nhìn thấy nhu cầu dân chúng đang bị lạc hướng như đàn chiên không người chăn dắt. Tâm hồn Ngài xúc động tận trong thâm tâm, vì Ngài tràn đầy tình thương đối với họ, Ðó là bí quyết của đời sống Tông đồ của mọi đồ đệ theo Chúa. Ðược Chúa mời gọi làm chứng nhân của tình thương cho tình thương thì những sự dữ, những tiêu cực của môi trường chúng ta sinh sống ngày nay là những cơ hội ngàn vàng để chúng ta sống tình thương mà Chúa đã ban tặng cho các đồ đệ của Ngài.

Tư tưởng thứ hai mà bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta là những hành động của Chúa Giêsu: Chúa gọi các Tông đồ, ban cho họ quyền hành như Chúa, trừ các tà thần, giải phóng con người khỏi làm nô lệ cho sự dữ, cho ma quỉ, chữa lành các bệnh tật, thăng tiến cuộc sống con người. Chúa sai các Tông đồ đi rao giảng bằng các chỉ thị, mặc dù đây mới chỉ là sai các ngài đi thử nghiệm lúc ban đầu. Cuộc sai đi chính thức sau này sẽ được thực hiện khi Chúa đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc của Ngài sau biến cố Phục Sinh.

Những hành động của Chúa phát đi từ tình thương của Ngài đối với con người. Nhìn công việc của người khác chúng ta có thể nói trọn vẹn sứ mạng của Giáo Hội, mọi thành phần của Giáo Hội, mọi thành phần đích thực của Chúa đều phát sinh từ tình yêu Thần Linh hiện diện nơi con tim phàm trần. Người đồ đệ của Chúa cần phải được thanh luyện, cần phải được biến đổi, được thay thế quả tim xác thịt bằng một quả tim mới tràn đầy tình yêu thương thần thiêng. Toàn thể cơ cấu Giáo Hội trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng được xây dựng trên nền tảng tình yêu thương thần thiêng này. Chính nơi đây, chúng ta được hiểu thêm hay hiểu lại câu nói của thánh Phaolô Tông đồ viết về bí quyết đời sống Tông đồ của ngài: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi”.

Chúa Giêsu thấy đám đông liền chạnh lòng thương. Tâm hồn Ngài tràn ngập tình thương, Ngài xúc động tận thâm tâm trước nhu cầu của dân chúng đang bị lạc hướng như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài lên tiếng mời gọi các Tông đồ, những con người tầm thường hãy theo Ngài, hãy để Ngài biến đổi thành những chứng nhân tình yêu. Thái độ đáp trả duy nhất của mỗi người chúng ta là để cho tình yêu thần thiêng Chúa biến đổi và thôi thúc chúng ta hành động: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi”.

Trong khiêm tốn và trong thinh lặng của Ðức Tin, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, hãy bắt chước cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần gian này: “Thầy đến để mang lửa yêu thương đến trần gian và Thầy không có mong ước nào khác hơn là cho lửa ấy cháy lên, tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng cho con người”. Hãy khiêm tốn lắng nghe và hãy để cho tình yêu Chúa biến đổi và thôi thúc.

Lạy Chúa, xin đổ tràn tình yêu Chúa trên chúng con và biến đổi chúng con thành những chứng nhân cho tình yêu Chúa, chứng nhân kiên trung trong Ðức Tin sống động qua đức Bác Ái. Amen.

Suy Niệm 4: Nhà truyền giáo đích thực

Vào thời Trung cổ, một số tín hữu giàu có muốn sống theo tinh thần của thánh Benado đã từ bỏ mọi tiện nghi và ngay cả ngôi thánh đường ấm cúng của họ để đến cư ngụ trên một đỉnh núi cao. Mục đích của họ là để cảm thông với những khách bộ hành lạc lối giữa núi rừng, nhất là vào mùa đông tuyết rơi. Những tín hữu này quyết định ngày đêm túc trực ở đó để kịp thời cứu vớt những ai kêu cứu. Để làm việc đó, họ đã huấn luyện một đàn chó đi tìm người lạc lối, đưa về nhà Dòng để được tận tình săn sóc.

Sự cảm thông không chỉ là một cảm xúc trong tâm hồn, mà còn là đến gần để lắng nghe, chia sẻ, trao ban. Thiên Chúa là Đấng cảm thông đích thực: Ngài không thể hiện sự cảm thông duy chỉ bằng cái nhìn từ trời cao, nhưng Ngài đã hoá thân làm người, chia sẻ hoàn toàn kiếp sống khốn cùng của con người. Tin mừng hôm nay nói lên sự cảm thông của Thiên Chúa bằng câu: “Ngài động lòng xót thương họ”. Chúa Giêsu quả thực chính là Trái tim của Thiên Chúa, một Trái tim không những rung động trước nỗi khốn khổ của con người, mà còn đến ở bên con người.

Chúa Giêsu xuất hiện như một tôn sư. Nhưng trong khi các bậc thầy khác qui tự một số môn sinh trong một ngôi trường hoặc chỉ giảng dạy tại cổng thành, thì Chúa Giêsu đã ra đi khắp nơi, chiêu mộ môn sinh để họ cùng đi với Ngài tìm đến những người bị bỏ rơi nhất trong xã hội.

Qua cung cách thể hiện sự cảm thông ấy, Chúa Giêsu phác hoạ ra mẫu người truyền giáo đích thực: ra đi và tìm đến với người khác. Ra đi dĩ nhiên không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này đến nơi khác, mà thiết yếu là thái độ ra khỏi chính mình, ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với tha nhân.

Chúa Giêsu đã đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ. Ngài đã phục vụ bằng một tình yêu vừa bao la, vừa cụ thể, đến với từng con người trong từng nỗi đau của họ để băng bó, xoa dịu.

Ước gì sự đồng hành cảm thông của Chúa Giêsu cũng hiện thực hoá trong cuộc sống mỗi Kitô hữu, để mọi người chung quanh nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với họ.

Suy Niệm 5: Chứng nhân của niềm vui (Mt. 9,35 – 10,8)

Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa các bệnh hoạn tật nguyền (Mt. 10,1)

Không ai không biết câu châm ngôn này: “Một ông thánh buồn là điều đáng buồn”. Lời Chúa trong tất cả các trang Tin mừng mời gọi chúng ta sống vui mừng sâu thẳm và trở nên nhân chứng Tin mừng của Đức Giêsu.

Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ một sứ điệp không hề có một chút bất hạnh nào. Người làm cho họ nên những người ban phát sự sống và mời gọi họ đi loan báo Tin mừng nước trời, kèm theo những dấu chỉ: Những dấu chỉ vui mừng chiến thắng buồn sầu, sự sống chiến thắng sự chết, hạnh phúc của Thiên Chúa chiến thắng tội lỗi: “Các con hãy đi chữa lành các bệnh nhân, phục sinh những kẻ chết, thanh tẩy những kẻ phong cùi”.

Niềm vui người tông đồ của Đức Kitô còn hơn cảm tính vui mừng tâm lý con người. Niềm vui đó bắt nguồn sâu xa trong sự gặp gỡ sống động với tình yêu Thiên Chúa. Ai cảm thấy được yêu mãnh liệt bởi Đức Chúa Cha và được sống đổi mới bởi Chúa Thánh Thần thì không thể bị lôi cuốn lâu trong buồn sầu. Dù có bị chôn vùi trong những hố sâu nguy khó, họ sẽ nhận ra Đấng đầy quyền năng phá tan đen tối (Is. 30, 20 và 26). Môn đệ quyết tâm nhận lãnh sứ mệnh đưa Tin mừng tình yêu vô hạn cho những kẻ đang tìm ngụp lặn trong những thú vui tạm bợ giữa lòng thế giới chồng chất buồn sầu lai láng. Mỗi cá nhân và tập thể chúng ta phải biết gieo những mầm sống và hy vọng của Tin mừng. Cùng nhau và chính mình chúng ta phải tìm mọi cách xua đuổi những thế lực sự dữ còn đang hiện diện trong thế giới chúng ta. Tìm mọi cách trao ban hương vị tự do cho những ai đã quàng vào cổ mình ách nô lệ, tìm mọi cách rao giảng Đức Giêsu Kitô cho kẻ không nhận biết Người là Chúa sự sống của họ, là Chúa các ngày lễ. Nếu chúng ta quyết tâm hợp tác vào công cuộc cứu độ thế giới, thì chúng ta phải là những sứ giả mang Tin mừng có sức biến đổi bộ mặt trái đất này.

Chúng ta có ý thức rõ như thế không?

  1. G

 

Suy Niệm 6: Mục tử đích thực

Lời mời gọi truyền giáo là đề tài xuyên suốt của Đức Giêsu trong hành trình sứ vụ của Ngài. Từng lời nói, hành động đều làm toát lên đặc tính này.

Hôm nay, một lần nữa Đức Giêsu quan sát và thấy dân chúng lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt và Ngài đã chạnh lòng thương đám đông này.

Thực ra thì dân chúng có người lãnh đạo, nhưng điều thua thiệt cho họ là họ lại bị sống dưới sự thống lãnh của những kẻ độc tài, kiêu ngạo, hình thức, dối trá là những Luật Sĩ và Pharisiêu. Vì thế, họ bị những người này dẫn đi sai đường trật lối, bởi vì người đang dẫn dắt họ chính là những mục tử dởm.

Chính vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã sống hoàn toàn khác với những người lãnh đạo thời bấy giờ, để làm hiện lên dung mạo một vị Mục Tử nhân lành, biết từng con chiên của mình, để con nào ốm đau, Ngài chữa trị; con nào gãy chân, què tay, Ngài băng bó; con nào đi lạc, Ngài đi tìm. . . , nói chung, Ngài đã “ngửi thấy mùi của từng con chiên” để yêu thương chúng xứng với nhân phẩn của từng con.

Hôm nay, Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu một lần nữa thi hành sứ vụ Mục Tử của mình khi “chạnh lòng thương” để chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và giải thoát họ khỏi những sự kiềm chế của tội lỗi.

Kế đó, Đức Giêsu đã mời gọi các môn đệ ra đi thi hành cùng một sứ vụ như Ngài và đồng thời trao ban cho các ông những quyền năng cần thiết để hỗ trợ việc rao giảng như khả năng chữa bệnh, trừ quỷ, khuất phục thiên nhiên. . . . Tuy nhiên, vì Ngài biết rõ sự nguy hại của kẻ kiêu ngạo, nên không quên nhắc các ông: “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có thái độ như Đức Giêsu là phải có tình yêu thương, trách nhiệm và hết lòng phục vụ con người cách vô vị lợi, không tìm lợi lộc, danh vọng thấp hèn cho mình, nhưng tất cả để cho danh Cha được cả sáng và Nước Cha mau ngự trị.

Có thế, Mùa Vọng mới thực sự là Mùa của tình thương, sự tha thứ, bao dung. Được như thế, chúng ta sẽ có những món quà trân quý để dâng lên cho Chúa Hài Đồng trong dịp lễ Giáng Sinh sắp tới.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên người môn đệ đích thực nhờ học và noi theo gương Chúa đã làm. Xin cho anh chị em giới trẻ biết mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa để ra đi và làm môn đệ cho Chúa. Amen.

Ngọc Biển, SSP

Suy Niệm 7: Chạnh lòng thương xót

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Trái tim Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót trước những khổ đau bệnh tật của con người. Chúa tỏ lộ tình thương cứu độ bằng cách rao giảng Tin mừng và chữa lành mọi bệnh tật.

Cầu nguyện: Chúa ơi, trên thế giới này, có ai mà chẳng có lúc ốm đau bệnh tật. Có ai mà không bao giờ đau khổ. Bước chân ra khỏi nhà, con gặp ngay một người tàn tật ăn xin, áo quần rách nát. Trên đường đi, bên vỉa hè, ngoài phố chợ, trong bệnh viện, nơi gia đình, lạy Chúa, bao nhiêu kẻ bệnh hoạn tật nguyền: có những kẻ la lối than thân trách phận, lắm người rên rỉ chịu đựng bất đắc dĩ.

Con biết Chúa thương chúng con đau khổ. Trái Tim của Chúa giàu lòng thương xót luôn chia sẻ với bệnh tật của chúng con. Con xin Chúa cho các bệnh nhân và mọi người đau khổ được nhận ra Tin mừng lớn lao này là: chính họ đang được Chúa yêu thương, chính Chúa đang âm thầm cứu vớt nâng đỡ họ qua bàn tay ân cần của những người chung quanh họ, và chính Chúa đang ban sức mạnh để họ can đảm và vui tươi đón nhận gánh nặng bệnh tật. Và hơn nữa, xin cho họ hiểu rằng chính những đau khổ bệnh tật là cơ hội cho họ thông phần vào Thánh giá cứu độ của Chúa. Và như vậy cuộc sống họ dường như là tàn phế, là đồ bỏ đi, nhưng thực ra lại là sự cộng tác lớn lao để chống đỡ, thanh luyện và đền tội cho thế giới tội lỗi này. Hội Thánh luôn tìm thấy nơi họ một nguồn trợ lực và sức mạnh thiêng liêng cho hoạt động tông đồ của mình.

Con xin Chúa biểu lộ quyền năng và tình thương cứu độ họ. Và con cũng xin Chúa cho con biết góp phần mình để xoa dịu những nỗi đau thương của anh chị em con. Amen.

Ghi nhớ: “Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ”.

Suy Niệm 8: Sai tông đồ đi truyền giáo

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống. . .

Đoạn Tin mừng hôm Thứ Tư (Mt 15,29-37) đã cho ta biết 2 hoạt động của Chúa Giêsu vì “chạnh lòng thương” dân chúng, đó là cứu chữa những người bệnh và nuôi những người đói. Đoạn Tin mừng hôm nay cho biết thêm một hoạt động nữa của sự “chạnh lòng thương” ấy, đó là sai các tông đồ của mình đi truyền giáo cho dân chúng.

  1. . . . nẩy mầm.
  2. Chủ đề bài đọc Cựu Ước, và sẽ được ứng nghiệm rõ ràng trong đoạn Tin mừng: “Người động lòng thương ngươi, lắng nghe lời ngươi kêu xin”.
  3. Khi thấy dân chúng lầm than như bầy chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu “chạnh lòng thương” nên sai các tông đồ đi loan Tin mừng cho họ. Chỉ khi nào chúng ta “chạnh lòng thương” trước những người lương thì chúng ta mới hăng say loan Tin mừng cho họ.
  4. “Chúa Giêsu phác họa ra một mẫu người truyền giáo đích thực: ra đi và tìm đến với người khác. Ra đi dĩ nhiên không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này đến nơi khác, mà thiết yếu là thái độ ra khỏi chính mình, ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với tha nhân”. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
  5. “Thấy đoàn lũ bơ vơ”: Cái thấy, cái nhìn của Chúa Giêsu đáng chúng ta chiêm ngắm. Một cái nhìn bao la bát ngát, “mình vì mọi người”, khác hẳn cái nhìn thiển cận, bo bo ích kỷ chỉ lo thu quén cho bản thân của chúng ta.
  6. “Thấy dân chúng đông đảo, Đức Giêsu chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36)

“Trước đây tôi không phải là một kitô hữu. Tôi sống trong tuyệt vọng vì số phận đã bị kết án bởi sida. Thế rồi, nhờ một người bạn, tôi đã gặp Chúa. Bắt đầu từ một ánh mắt nhìn tôi, và tôi đã tin vào Chúa. Tôi đã tìm ra ý nghĩa của cuộc sống, và nhận thức được giá trị đời mình ngay trong quãng đời vắn vỏi còn lại” (Thư của một bạn trẻ bị bệnh sida).

Chính sự cảm thông đã bừng lên niềm hy vọng và làm sống lại một cộc đời tưởng như đã bế tắc.

  1. Mầm khác:

Hồi đó, Hoàng Đế Sabat cai trị vương quốc Ba Tư và rất được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một nhân công nghèo khổ lần mò các bậc thang để xuống tận dưới hầm tối của lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ là đống tro tàn và lương thực hàng ngày là mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ già và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng thấm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.

Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua nhiều lần cải trang để đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả cử chỉ nhân đạo của nhà vua. Sau cùng, nhà vua tự nhủ: ta sẽ tỏ lộ cho cụ già này biết ta là ai, để xem ông ta sẽ xin ta điều gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:

– Bấy lâu nay có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân ngèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua, ta rất qúi mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban.

Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng ông chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm.

– Có lẽ ông chưa hiểu rằng ta là vua, ta có thể làm cho ông lên giàu sang, danh vọng.

Cụ già cúi đầu đáp:

– Tâu Hoàng Thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng Thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao qúi nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa, con chỉ xin một điều là Hoàng Thượng đừng bao giờ lấy lại món qùa quí giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.

Cầu nguyện: 

Lạy Chúa, xin cho con một con tim rộng mở, luôn biết cảm thông và trân trọng anh em đồng loại, để thế giới tràn đầy niềm hy vọng (Epphata)

Suy Niệm 9: Sứ mệnh truyền giáo

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu đi khắp nơi từ thành thị đến thôn quê, rao giảng dạy dỗ, hướng dẫn và đem bình an cho thân xác và tâm hồn con người. Ngài đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho dân chúng để  đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin Mừng. Mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về”.
  2. Trong năm thứ nhất đời công khai, Đức Giêsu đã đi rao giảng nhiều nơi. Đi đến đâu Người cũng thấy dân chúng ở vào trường hợp đáng thương, vì họ bị những người lãnh đạo bắt giữ những luật khắt khe, và không dẫn họ đến hạnh phúc đích thực. Vì thế Đức Giêsu động lòng thương họ và gọi thêm các cộng sự viên để cùng với Người chăm sóc dân chúng trong công việc truyền giáo.
  3. Đức Giêsu  thi hành sứ vụ cứu thế bằng cách đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Người thi hành sứ vụ cứu thế như  vậy là để trung thành với thánh ý của Chúa Cha và đồng thời trở nên gương mẫu cho các Tông đồ, và cho những người làm việc tông đồ sau này trong công tác truyền giáo. Đức Giêsu đi rao giảng nhiều nơi: có ý dạy những ai làm tông đồ truyền giáo phải biết di chuyển hết nơi này đến nơi khác chứ không được cắm chốt một nơi nào như một độc quyền.
  4. Theo Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã phác họa ra một mẫu người truyền giáo đích thực: Ra đi và tìm đến với người khác. Ra đi dĩ nhiên không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này đến nơi khác, mà thiết yếu là thái độ ra khỏi chính mình, ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với tha nhân (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

Đức Giêsu nhắc cho các môn đệ, trong khi đi đến với những người khác, phải luôn có tinh thần xả kỷ quên mình  vì Chúa  đã nói: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Vì thế, Giáo hội luôn ý thức sứ vụ mục tử “chạnh lòng thương” và việc loan báo Tin Mừng (x. Ad Gentes).

  1. Ra đi loan báo Tin Mừng còn có nghĩa là ra đi khỏi con người của mình. Ra khỏi con người thiển cận, ích kỷ của mình để mặc lấy cái nhìn nhậy cảm hơn trước sự hiện diện của tha nhân đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.

Đây là bức thư của một bạn trẻ bị bệnh sida: “Trước đây tôi không phải là một Kitô hữu. Tôi sống trong tuyệt vọng vì số phận đã bị kết án bởi sida. Thế rồi, nhờ một người bạn, tôi đã gặp Chúa. Bắt đầu từ ánh mắt nhìn tôi, và tôi đã tin vào Chúa. Tôi đã tìm ra ý nghĩa của cuộc sống, và nhận thức được giá trị đời mình ngay trong quãng đời vắn vỏi còn lại”.

Hãy xin Chúa cho chúng ta một con tim rộng mở, luôn biết cảm thông và trân trọng anh em đồng loại, để thế giới tràn đầy niềm hy vọng (Epphata).

  1. Giáo hội không ngừng nhắc nhở con cài mình tập trung góp phần vào việc truyền giáo, đồng thời phải nỗ lực thích ứng để có thể đem Tin Mừng cho nhân loại trong thời đại mới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mời gọi mọi thành phần trong Hội thánh hãy “ra khơi truyền giáo” (x. Novo Millennio Ieunte).

Người Kitô hữu ra khơi truyền giáo bằng đời sống bác ái, dấn thân cho người nghèo, người cô thế cô thân, bằng gương sáng việc thiện giữa thế giới hôm nay. Đây là bằng chứng:

Một nhóm bạn trẻ từ nhiều quốc gia đang bàn thảo về cách làm cho Tin Mừng của Chúa được lan rộng. Họ nói về sự truyên truyền, về tài liệu và tất cả những cách phổ biến Tin Mừng trong thế kỷ 20 này.

Một cô gái Phi châu nói: “Khi muốn truyền đạo cho một làng chúng tôi, chúng tôi không cho họ sách. Chúng tôi gửi một gia đình Kitô giáo đến sống trong làng. Và họ sẽ làm cho mọi người thành Kitô hữu”.

  1. Truyện: Đức tin sống động.

Felix Frankfurter là một quan tòa nổi tiếng của tòa án tối cao của Hoa Kỳ. Một lần kia ông được đưa vào bệnh viện, ở đó ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói chuyện thân mật và ông biết nhiều điều về Lucy.

Trước đó, chưa bao giờ ông gặp được người nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị. Và ông đã bắt đầu tự hỏi và suy nghĩ, cố gắng khám phá suối nguồn của thái độ của chị. Điều ông khám phá như sau: Suối nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nó đơn giản, chỉ là sự áp dụng thực hành đức tin của chị.

Lucy không bao giờ biết đức tin sống động của chị có ảnh hưởng như thế nào, nhưng chị đã làm cho Đức Giêsu hiện diện cụ thể trong bệnh viện này. Chị đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến. Đức Giêsu cần những nhân chứng cho người ta như chị Lucy đến nỗi Người có thể thành Đấng an ủi như Người muốn làm.

Một quan hệ thật sự với Đức Giêsu sẽ có một ảnh hưởng cả khi người có mối quan hệ ấy không đề cập đến Đức Giêsu. Dĩ nhiên, những người tin vào Đức Giêsu và yêu mến Người, cũng sẽ, khi thuận lợi, nói về Đức Giêsu một cách rõ ràng cởi mở (Flor McCarthy).

Suy Niệm 10: Chúa động lòng trắc ẩn

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Tin Mừng hôm nay ghi lại: “Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố và làng mạc để dạy dỗ và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Khi nhìn đoàn lũ dân chúng, Ngài động lòng thương xót họ” (Mt 9, 36).

Chúa nhìn và sau cái nhìn là “Ngài động lòng thương”. Tin Mừng đã ghi lại nhiều lần như thế. Rồi từ chỗ động lòng thương Chúa sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho họ.

Tại sao Chúa lại động lòng trắc ẩn như thế?

Thưa vì Ngài thấy dân chúng là những con người đang “tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn” (Mt 9, 36).

Chúa nhìn thấy tình trạng đó, nên Chúa động lòng thương dân. Lòng thương của Chúa không dừng lại ở nơi tình cảm chóng qua, mà còn thôi thúc Chúa đi đến chỗ hành động để biểu lộ tình thương. Tin Mừng ghi: Ngài kêu gọi các môn đệ lại và nói với họ: “Các con hãy xin với chủ ruộng sai thợ gặt đi gặt lúa của Ngài” (Mt 9, 38).

Rồi cụ thể hơn nữa, Ngài tập hợp các môn đệ lại, ban cho các ông quyền năng trên các thần ô uế, và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền rồi sai các ông đi đến với những con chiên đang bơ vơ lạc lõng ấy.

  1. Chúa Giêsu đối xử với con người như thế, còn chúng ta thì sao?

Chắc chắn là không phải lúc nào chúng ta cũng có được cái nhìn giống như Chúa. Ngay cả những người được coi là thông minh và khôn ngoan nhất trên trần gian này cũng thế. Trường hợp của vua Salomon là một thí dụ.

Lịch sử kể lại rằng, vì phải xử quá nhiều vụ oan ức, nên nhà vua càng ngày càng trở nên vô cảm, vô tình. Đôi mắt của ông không còn được sáng như trước nghĩa là không còn có cái nhìn thông cảm như xưa.

Một hôm khi Salomon ngồi lên ngai và sắp sửa xử một vụ án, thì chiếc vương miện trên đầu vua bỗng tuột xuống che cả hai con mắt. Nhà vua lấy tay đẩy nó lên, nhưng chỉ một phút sau là nó lại sụp xuống. Sự việc tái diễn đến 8 lần như thế. Cuối cùng, nhà vua bực quá nói với nó:

– Tại sao mày cứ sụp xuống che mắt tao mãi như thế?

Chiếc vương miện trả lời:

– Tôi phải làm thế để nhắc cho Ngài biết rằng: khi mà quyền hành đã mất đi sự cảm thông thì người cầm quyền sẽ bị che mắt như thế.

Nói cách khác, khi cái nhìn không còn đi cùng với con tim thì cái nhìn đó sẽ trở thành khô cằn, vô cảm và chai đá.

“Thấy dân chúng đông đảo, Đức Giêsu chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9, 36).

Đó là cái nhìn được trộn lẫn bằng những dòng máu của con tim.

Hồi đó, hoàng đế Sabat cai trị vương quốc Ba Tư và được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một nhân công nghèo lần mò đến các bậc thang, xuống tận hầm tối của một lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ chẳng khác gì một ổ rác và lương thực hàng ngày là vài mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng đã được làm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.

Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua đã nhiều lần cải trang đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả bằng những thái độ rất chân thành đối với người đến thăm mình. Sự việc cứ diễn ra như thế, nhưng rồi một ngày kia nhà vua quyết định phải cho cụ già biết mình là ai, để xem cụ sẽ xin điều gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:

– Bấy lâu nay, có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân nghèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua. Ta rất quí mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban.

Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng cụ chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu ý mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm.

– Có lẽ ông chưa hiểu rằng, ta là vua, ta có thể làm cho ông lên giàu sang, danh vọng.

Cụ già cúi đầu đáp:

– Tâu Hoàng Thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng Thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao quí nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa. Con chỉ xin một điều là Hoàng Thượng đừng bao giờ lấy lại món quà quí giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.

Lạy Chúa, xin cho con một con tim rộng mở, luôn biết cảm thông và trân trọng anh em đồng loại, để thế giới tràn đầy niềm hy vọng. (Epphata)