Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 14 Thường Niên

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 14 Thường Niên

THỨ HAI TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN.

 

THỨ HAI TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt 9, 18-26

Khi ấy, Chúa Giêsu đang nói, thì có một vị kỳ mục kia đến lạy Người mà thưa rằng: “Lạy Ngài, con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại”.

Chúa Giêsu chỗi dậy, và cùng với các môn đệ, đi theo ông ấy.

Và này có người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm, tiến lại đàng sau Người và chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi. Chúa Giêsu ngoảnh lại, trông thấy bà ta, liền phán rằng: “Này con, hãy vững lòng. Đức tin của con đã cứu thoát con”. Và người đàn bà được khỏi bệnh.

Khi Chúa Giêsu đến nhà vị kỳ mục, và thấy những người thổi kèn và đám đông đang xôn xao, thì bảo rằng: “Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi”. Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy. Tin này đồn đi khắp cả miền ấy.

 

Suy Niệm 1: Cầm lấy tay

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện của những bàn tay.

Vị thủ lãnh của hội đường có cô con gái mới chết,

nhờ ai đó giới thiệu, ông lật đật chạy đến với Đức Giêsu.

Lòng tin của ông thật là mạnh, diễn tả qua câu nói:

“Xin Ngài đến đặt bàn tay lên cháu, là nó sẽ sống” (c. 18).

Ông tin Đức Giêsu có thể cho con ông được hoàn sinh.

Ông mời Ngài đến nhà mình chỉ để làm một chuyện là đặt bàn tay.

Đặt bàn tay trên một xác chết còn ấm để làm cho nó sống lại.

Như thế ông tin vào uy quyền của Đức Giêsu, thể hiện qua bàn tay.

Ngài cũng là một ngôn sứ như Êlia hay Êlisa trong Kinh Thánh.

Các vị này đều có khả năng hoàn sinh kẻ chết (1V 17, 17-24; 2V 4, 32-37).

Đức Giêsu đã mau mắn nhận lời đến nhà ông.

Ngài hiểu được nỗi đau của một người cha khi mất đứa con gái nhỏ.

Khi đến nhà thì đám tang đã bắt đầu với những người thổi kèn,

và một đám đông hiếu kỳ gây ồn ào náo động.

Đức Giêsu tiến vào nhà và bảo người ta lui ra khỏi phòng của cô bé:

“Con bé có chết đâu, nó đang ngủ đấy !” (c. 24).

Khi đám đông bị tống ra rồi, thì Ngài đi vào nơi cô bé nằm.

Ngài không đặt bàn tay trên cô như yêu cầu của người cha.

Nhưng Ngài cầm lấy bàn tay cô bé, và cô bé đã trỗi dậy (c. 25).

Ngài đã đụng đến một xác chết và Ngài đã làm cho nó phục sinh.

Đám tang trở thành đám tiệc, làm sao cảm được niềm vui của người cha?

Đức Giêsu đem sự sống trở lại, để sự sống thắng cái chết.

Trên đường đến nhà vị thủ lãnh, một phụ nữ bị băng huyết đến gặp Ngài.

Không gặp diện đối diện, nhưng bà lén đến từ phía sau lưng,

bởi lẽ căn bệnh lâu năm này đã làm cho bà ra ô uế, không được đụng đến ai.

Cũng như vị thủ lãnh, bà có một niềm tin sắt đá:

“Tôi chỉ cần sờ được vào áo choàng của Ngài thôi, là sẽ được cứu” (c. 21).

Chẳng phải bà tin vào sức mạnh của cái áo choàng như một thứ ma thuật,

nhưng bà tin vào quyền năng của người mặc chiếc áo đó.

Bà đã dám đưa tay ra và sờ vào tua áo choàng của Ngài (c. 20).

Đức Giêsu nhận ra cái đụng chạm đầy lòng tin của bà.

Chính Ngài quay lại, thấy bà và bắt đầu trò chuyện.

“Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu con” (c. 22).

Lòng tin của bà đã được nhìn nhận, và bà được cứu từ giờ ấy.

Ơn chữa lành đến từ một bàn tay dám đưa ra chạm đến Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay là về chuyện của những bàn tay.

Bàn tay quyền năng của Đức Giêsu, bàn tay lạnh giá của cô bé nằm đó,

bàn tay rụt rè, e ngại, nhưng cũng rất quả quyết của người phụ nữ ốm đau.

Bàn tay là điều kỳ diệu Thiên Chúa tặng ban cho con người.

Bao ân sủng đến với tôi qua bàn tay đón lấy Mình Thánh Chúa.

Bao điều tốt đẹp tôi trao cho tha nhân qua bàn tay bé nhỏ.

Chỉ mong tay tôi đừng bị ô nhơ và đừng khép lại trước người đang xin.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Đụng chạm đến Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Hai phép lạ đều phát xuất từ việc đụng chạm. Thiên Chúa có sức mạnh thần linh. Ai đụng chạm đến Thiên Chúa sẽ được tiếp xúc với sức mạnh vô địch này. Tuy nhiên để tiếp xúc được sức mạnh thần linh không thể dùng phương tiện nhân loại mà phải dùng phương tiện thần linh, đó là đức tin. Biết bao người chen lấn đụng chạm vào Chúa. Nhưng chỉ người phụ nữ này chạm đến mầu nhiệm vì bà có đức tin mạnh mẽ. Đức tin hiệu nghiệm lạ lùng. Chính đức tin của người cha ngoại đạo cũng làm cho cô gái bé nhỏ múc được ân sủng thần linh của Thiên Chúa.

Thực ra Thiên Chúa luôn yêu thương, muốn gặp gỡ con người. Hô-sê cảm nhận được tình yêu đến say mê của Thiên Chúa, Đấng muốn gặp gỡ con người. Muốn tình yêu của Người đụng chạm đến con người “Này Ta sẽ quyến rũ dân Ta, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình”(năm chẵn).

Trong thanh vắng giữa thiên nhiên, sẽ thuận lợi để gặp Thiên Chúa. Như Gia-cóp ngủ giữa trời sao và thấy được cửa trời. Chính Thiên Chúa yêu thương tỏ mình cho ông. Tiếp nối tình thương dành cho Áp-ra-ham và I-xa-ác (năm lẻ).

Việc gặp gỡ Thiên Chúa đem lại cho ta sự sống. Như người phụ nữ bị cái chết rình rập được Chúa cho hoàn toàn bình phục. Như cô gái đã bị tử thần cướp đi và Chúa trả lại sự sống.

Việc gặp gỡ Thiên Chúa nâng cao phẩm giá con người. Ta không còn phải là tôi tớ nhưng trở nên bạn hữu, được Thiên Chúa yêu thương nâng lên ngang hàng, ký kết hôn ước. “Người sẽ gọi Ta: “Mình ơi” chứ không còn gọi ‘Ông Chủ ơi’ nữa”.

Việc gặp gỡ Thiên Chúa cho ta được một cuộc sống sung mãn. Gia-cóp được hưởng ân phúc dư tràn cho đến suốt đời. Ông trở thành phúc lành cho mọi người. “Dòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất…Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (năm lẻ)

Việc gặp gỡ Thiên Chúa đem đến cho ta hạnh phúc vô biên trong tình yêu thương thắm thiết của Chúa, trong mối tình bằng hữu thâm sâu và nhất là trong Chúa ta đạt được tất cả mọi ước mơ, đạt đến cứu cánh và ý nghĩa cuộc đời.

Lạy Chúa xin ban thêm đức tin để con có thể đụng chạm được đến Chúa và đáp lại lòng Chúa mong chờ con.

 

Suy Niệm 3: Thiên Chúa yêu thương con người

Với tựa đề: “Nơi Chúa, họ tin tưởng”, tuần báo Kinh Tế Viễn Ðông số tháng 6/1996 dành hai trang để nói về sự hồi sinh tôn giáo tại Việt Nam. Tựa đề của bài báo lấy lại dòng chữ mà người Mỹ vốn cho in trên đồng tiền của họ: “Nơi Chúa, chúng tôi đặt tin tưởng”.

Nếu với người Mỹ, Chúa là một ngôi vị cá biệt, thì Chúa theo tạp chí Kinh Tế Viễn Ðông lại là thể hiện của một nhu cầu tôn giáo cơ bản nhất của con người, không gì có thể dập tắt nổi.

Con người khao khát Thiên Chúa, hay đúng hơn Thiên Chúa đã tạo dựng con người, với nỗi khao khát vô biên ấy. Con người không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, hay đúng hơn chính Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài. Thiên Chúa yêu thương con người, tình yêu của Ngài vượt trên mọi thước đo, mọi dự đoán, mọi tưởng tượng của con người, đó là tất cả những gì Chúa Giêsu đã đến để mạc khải cho con người.

Tin Mừng hôm nay ghi lại một vài cử chỉ của Chúa Giêsu đối với con người: một vị kỳ mục đến xin Ngài cứu đứa con vừa chết, người đàn bà mắc bệnh loạn huyết chi khấn thầm và sờ đến gấu áo của Ngài, cả hai đại diện của đủ mọi tầng lớp mà Chúa Giêsu gặp gỡ hàng ngày. Ngài không loại trừ bất cứ hạng người nào, bất cứ giai cấp nào trong xã hội, bởi vì tất cả đều là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Vị kỳ mục đã tìm đến với Chúa, người đàn bà đã len lỏi giữa đám đông để sờ vào Ngài, đó là hình ảnh của sự tìm kiếm mà con người không ngừng thực hiện để đến với Chúa. Nhưng thật ra, chính Thiên Chúa mới là Ðấng đi bước trước để đến với con người. Phép lạ đã diễn ra như một kết quả của lòng tin: “Ðức tin của con đã cứu chữa con”, nhưng cũng chính niềm tin đã giúp con người khám phá ra phép lạ Thiên Chúa không ngừng thực hiện vì yêu thương con người.

Qua một cơn hải trình cam go, những người có niềm tin đã nhìn vào sự sống sót của mình như một phép lạ của tình thương. Những giờ phút hãi hùng trong cuộc sống, những thử thách phải trải qua, những đau khổ phải gánh chịu, đó là những phách mạnh trong bản trường ca về tình yêu Thiên Chúa. Có trải qua những giờ phút ấy, chúng ta mới nhận ra được cánh tay đỡ nâng của Chúa.

Xin Chúa cho chúng ta một đức tin sáng suốt để chúng ta không ngừng nhận ra tình yêu của Chúa và dâng lời cảm tạ Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Cầu xin liền đấy… mà đâu có được ngay

Người còn đang nói với họ như thế, thì kìa, một vị thủ lãnh đến gần bái lạy Người và nói: “Con gái tôi vừa chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ sống lại.” Đức Giêsu đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ cũng đi với Người. (Mt. 9, 18-19)

Từ lòng tin… đến phép lạ

Đọc các sách Phúc âm, đôi khi người ta có cảm tưởng rằng mọi chuyện xảy ra như do phép mầu vậy. Có những người có lòng tin Chúa Giêsu rất mạnh. Họ ngỏ lời thỉnh cầu Chúa, và hầu như điều họ ước muốn đều được thực hiện liền. Điển hình như hai trường hợp được kể lại trong Phúc âm hôm nay.

Khi nghe những câu chuyện tương tự như trên, có thể là chúng ta đã muốn mơ tưởng đến một thời mà kẻ có lòng tin chân thành đều mau chóng được tưởng thưởng. Nhưng ta đừng quá mơ mộng. Không phải cứ có được lòng tin thật tinh tuyền là nhất thiết được ơn phép lạ đâu. Lòng tin không luôn luôn dẫn đến phép lạ. Phúc âm tuy có kể lại nhiều trường hợp kẻ xin được ban ơn ngay do lòng họ tin. Nhưng ai có thể kể được là bao nhiêu những con người mà Phúc âm đã không nói đến, họ là những kẻ đã trong chờ từ lâu, rất lâu, thế mà Chúa vẫn chưa đáp lời họ kêu xin? Ai có thể đếm được là bao nhiêu số người chưa bao giờ được lành bệnh, dầu rằng họ đã thiết tha van xin Chúa với lòng tin sâu xa?

Tin không cần phép lạ

Ta đừng sợ phải cầu xin nhiều, thật nhiều với Chúa. Phải dám cầu xin cả những sự không thể được nữa. Nhưng đừng nghĩ rằng ngay khi ta vừa có lòng tin thực là phép lạ sẽ xảy ra đâu. Chúa đáp lại lời ta cầu xin khi nào và như thế nào là thuộc quyền Chúa. Người nhận lời kẻ này mà không đáp lời người kia. Chỉ có những lời cầu nguyện này mà Chúa luôn luôn đáp lại; đó là những lời cầu nguyện giúp mở lòng ta ra hơn với Chúa, giúp ta biết đón nhận và thực hành ý Chúa hoàn toàn hơn; đó là những lời cầu nguyện cho Nước Chúa trị đến ở trần gian. Đức tin tinh tuyền không phải là đức tin trông mong có phép lạ, đó là lòng tin đưa đến kính mến Chúa nhiều hơn và yêu thương anh em nhiều hơn.

 

Suy Niệm 5: BÀN TAY CỦA NIỀM TIN VÀ QUYỀN NĂNG (Mt 9, 18-26)

Xem lại CN 13 TN B // và Thứ hai tuần 4 TN

Chúng ta vẫn thường nghe đến câu nói: “Con đường dài nhất là con đường từ miệng đến tay”. Thoạt nghe xem ra có vẻ khó tin, nhưng thực tế là vậy. Bởi lẽ vẫn còn đó những người chỉ thích nói mà không làm; chỉ thích nghe mà không muốn hành động. Vì thế, họ nói rất hay, khẩu lệnh rất kêu, nhưng làm thì không đáng gì!

Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thánh Mátthêu đã rất tinh tế khi tập chung đến hành động của bàn tay:

Trước tiên là lời van xin của vị kỳ mục: “Xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại”;

Tiếp theo là hành động tin tưởng của người phụ nữ bị bệnh, bà tìm mọi cách để chạm tay vào gấu áo của Đức Giêsu để mong được khỏi bệnh;

Cuối cùng là hành động nhân ái của chính Đức Giêsu khi Ngài “… vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy”.

Với ba hình ảnh khác nhau về cử chỉ bàn tay, thánh sử Mátthêu đã dệt nên một bức tranh diễn tả niềm tin của vị kỳ mục và người phụ nữ bị bệnh, đồng thời cũng làm toát lên quyền năng và ân sủng của Thiên Chúa qua bàn tay của Đức Giêsu.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một niềm tin mãnh liệt như vị kỳ mục và người đàn bà. Không được buông trôi, thất vọng khi những khó khăn, bệnh tật xảy đến trong đời. Những lúc như thế, hãy vững tin tuyệt đối vào Chúa. Mặt khác, noi gương Đức Gêsu, luôn dùng bàn tay của mình để hành động vì đức ái, luôn giúp đỡ và làm ơn cho tha nhân, nhất là những anh chị em kém may mắn hơn chúng ta.

Mong thay, Lời Chúa mà chúng ta vẫn lắng nghe hằng ngày sẽ được hiện tại hóa cách sống động nơi đời sống đức tin của chúng ta, để “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày hôm nay cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của người môn đệ Đức Kitô”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin giúp chúng con biết sống liên đới và yêu thương mọi người như Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Tin vào Đức Kitô

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tin vào Đức Kitô là điều kiện duy nhất để được cứu rỗi. Cũng chính do niềm tin này mà một thiếu phụ mắc bệnh băng huyết đã được chữa lành, và người con gái của một vị kỳ mục đã được sống lại.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm phục biết bao lòng tin của người thiếu phụ: giữa một đám đông mất hút, người thiếu phụ bệnh hoạn này vẫn nhận ra Chúa là Thiên Chúa quyền năng. Bà đã tin và được chữa lành.

Con cũng cảm phục niềm tin của người cha bất hạnh: trong nỗi đớn đau vì vừa mất đứa con thân yêu, ông đã sụp lạy dưới chân Chúa, van xin Chúa cứu giúp và Chúa đã đáp lời.

Con tự hỏi, trong đời con, có bao giờ con có được một niềm tin sâu sắc như thế chưa. Lạy Chúa, Chúa biết đấy, cuộc đời con đầy những lỗi lầm thiếu sót. Biết bao lần những gánh nặng khổ đau đã vùi dập đời con và làm tê liệt niềm tin yêu vào Chúa. Biết bao lần những đau đớn bệnh tật thân xác và tâm hồn đã xô con rơi vào vực thẳm của tuyệt vọng cô đơn. Con đã muốn buông xuôi tất cả và không còn tin cậy vào Chúa nữa. Biết bao lần tội lỗi đã bào mòn ý chí dấn thân của con, con đã không muốn chỗi dậy vì không còn tin vào tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, con tin Chúa luôn đến với con trong những lúc gian nan thử thách. Xin ban thêm đức tin cho con. Xin giúp con, để trước những khó khăn và đau khổ của ngày hôm nay và ngày mai, con nhìn chúng mà không thất đảm, con mang vác mà không kêu ca, bởi con tin rằng Chúa luôn hiện diện bên con, cùng ghé vai mang vác gánh nặng của đời con. Amen.

Ghi nhớ: “Con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến, nó sẽ sống lại”.

 

Suy Niệm 7: Niềm tin

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Các nhà nghiên cứu tại Israel đã theo dõi tình trạng sức khỏe của 3900 người sống trong các hợp tác xã 16 năm trời.

Kết quả cuộc nghiên cứu cho thấy tỉ lệ chết vì bệnh tim và ung thư của những người có niềm tin tôn giáo thấp hơn 40% so với người không có niềm tin tôn giáo.

Suy niệm

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin mà Đức Giêsu xác nhận. Với người phụ nữ đau khổ góa bụa bệnh băng huyết có lòng tin vững vàng: “Này con, hãy vững lòng. Ðức tin của con đã cứu thoát con” như mỗi lần chữa lành bệnh tật, Ngài thường khẳng định: “Niềm tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34; Lc 8,48; 17,19; 18,42). Ðược lành bệnh, được phục hồi, người được chữa lành không chỉ tìm lại được sức khỏe thể lý nhưng còn có cuộc sống mới trong niềm tin và họ đã tuyên xưng. Còn vị kỳ mục: Con ông đã chết và vì tin nên được Chúa cho sống lại.

Sống đức tin là dám sẵn sàng ra khỏi chính mình để đi theo tiếng gọi của niềm tin, sẵn sàng đi ra khỏi tư tưởng áp đặt đám đông để sống thực cho những đòi hỏi của đức tin. Sống đức tin đích thực là sẵn sàng lội ngược dòng như bà góa vượt qua Lề Luật để gặp, sờ áo Chúa và ông Giairô vượt qua thân phận cao quý mà đến với Đức Kitô.

Chúng ta luôn cần được chữa lành như người phụ nữ mang bệnh tật đến với Đức Giêsu với niềm tin vào Ngài, như người cha Giairô xin Thầy đến bên con gái đang bị bệnh gần chết với niềm tin con ông được sống.

Mỗi giây phút cuộc đời, với tất cả tình trạng của mình, chúng ta hãy chạy đến với Thầy: “Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa” (Tv 131).

Ý lực sống:

“Ai tin ở Người thì được sống…” (Ga 3,15).

 

Suy Niệm 8: Niềm tin và khiêm nhường (Mt 9,18-26)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Tin mừng cho biết: một ông trưởng hội đường có con gái mới chết. Ông tin chắc Chúa có thể làm cho nó sống lại được, nên đến xin Chúa cứu giúp. Chúa liền đi theo ông… Dọc đường, một người đàn bà mắc bệnh băng huyết thấy Chúa thì lén sờ vào gấu áo Ngài, với niềm tin sẽ được khỏi bệnh. Và bà đã khỏi bệnh thật… Khi đến nhà ông kỳ lão, Chúa thấy người ta khóc lóc ồn ào thì bảo họ lui ra, rồi Ngài cầm tay đứa bé, nó liền sống lại. Người đàn bà băng huyết được khỏi bệnh và cô gái chết được sống lại đều nhờ lòng tin Chúa. Vì thế, đức tin rất cần cho được ơn cứu vớt phần hồn phần xác.

Phép lạ bởi lòng tin

Ông trưởng hội đường có đứa con gái đã chết. Chính ông xác định như thế. Khi Chúa Giêsu nói nó không chết mà chỉ ngủ thôi thì đám đông nhạo cười Ngài. Ở đây chúng ta thấy đức tin của vị kỳ mục rất mạnh. Trước sự ra đi của đứa con. Tất cả mọi phương thế trần gian đã chào thua. Lịch sử chưa bao giờ nói về một người đã chết được sống lại. Chính Chúa Giêsu cũng chưa cho ai sống lại từ cõi chết, vậy mà ông đến với Chúa, ông nói chắc ăn như bắp: “Xin Ngài đến đặt tay trên nó thì nó sẽ sống lại” (Mt 9,18).

Còn người đàn bà mắc bệnh loạn huyết: Bệnh bà rất nặng vì đã chữa trị suốt 12 năm mà không khỏi. Khi được nghe biết Chúa xuất hiện bà tin sẽ được khỏi: “Tôi chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là sẽ được cứu” (Mt 9,20). Và đã xảy ra đúng như vậy.

Chúa Giêsu cũng xác nhận cả hai trường hợp được thụ hưởng phép lạ của Chúa là nhờ “đức tin”.

Thiên Chúa yêu thương hết mọi người

Tin mừng hôm nay ghi lại một vài cử chỉ của Chúa Giêsu đối với con người: một vị kỳ mục đến xin Ngài cứu đứa con vừa chết, người đàn bà mắc bệnh loạn huyết chỉ khấn thầm và sờ đến gấu áo Ngài, cả hai đại diện của đủ mọi tầng lớp mà Chúa Giêsu gặp gỡ hằng ngày. Ngài không loại trừ bất cứ hạng người nào, bất cứ giai cấp nào trong xã hội, bởi vì tất cả đều là đối tượng của Tình yêu Thiên Chúa. Vị kỳ mục tìm đến với Chúa, người đàn bà đã len lỏi giữa đám đông để sờ vào áo Ngài, đó là hình ảnh của sự tìm kiếm mà con người không ngừng thực hiện để đến với Chúa.

Nhưng thật ra, chính Thiên Chúa mới là Đấng đi bước trước để đến với con người. Phép lạ đã diễn ra như một kết quả của lòng tin: “Đức tin của con đã cứu chữa con”, nhưng cũng chính niềm tin đã giúp con người khám phá ra phép lạ Thiên Chúa không ngừng thực hiện vì yêu thương con người (Mỗi ngày một tin vui).

Đức tin và thử thách

Khi Chúa Giêsu đang giảng dạy thì ông trưởng hội đường đến bái lạy xin cứu chữa con gái ở nhà. Chúa Giêsu lên đường đi với ông về nhà. Quãng đường không biết bao xa, nhưng vì đám đông đi theo chen lấn, và xuất hiện một bà loạn huyết chen vào “phá đám” nên chưa đến nơi thì có người đến báo là con ông đã chết. Có lẽ lúc này đức tin của ông trưởng hội đường bị đặt trước một thử thách rất lớn, bởi lẽ ra Chúa Giêsu có thể đến sớm hơn để “bệnh nhân không chết nếu bác sĩ Giêsu đến kịp”. Thế nhưng Chúa Giêsu đã vội trấn an: “Ông đừng sợ, cứ vững tin”. Và vì vững tin mà con gái ông đã được Chúa cho hồi sinh.

Cũng vậy, hành trình đức tin của một Kitô hữu chúng ta là một chặng đường dài, đôi khi còn bị gián đoạn với bào yếu tố ngoại cảnh mà chúng ta không lường trước được, thậm chí có lúc tưởng chừng như tuyệt vọng. Nhưng nếu chúng ta vững chí như ông trưởng hội đường trong Tin mừng hôm nay thì sẽ được cứu độ (Hiền Lâm).

Đức tin và lòng khiêm nhường

Trường hợp ông trưởng hội đường cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Chúa Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa, ông đã quì mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Chúa Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.

Truyện: Lòng khiêm nhường của thánh Đaminh

Thánh Đaminh một hôm nói cùng những người đang có mặt trong phòng bệnh của ngài:

– Tôi không hiểu được tại sao Thiên Chúa không khiến lửa trên trời xuống thiêu huỷ cái làng này đi, vì nó chứa chấp một người tội lỗi nhất trong thiên hạ.

Họ nhìn nhau ngơ ngác:

– Phải chi chúng con biết được kẻ tội lỗi ấy là ai, để tìm cách cho họ được cải thiện.

– Người tội lỗi ấy chính là tôi.

– Phải, bởi vì nếu một người tội lỗi nhất trong thiên hạ được ơn Chúa dồi dào như tôi đã được, thì người đó đã nên thánh thiện hơn tôi đây gấp ngàn vạn lần rồi.

Chính vì khiêm nhường có một giá trị to lớn như thế nên các nhà tu đức mới gọi khiêm nhường là nhân đức nền tảng của đời sống đạo đức. Và có người còn gọi là nhân đức mẹ của các nhân đức. Nhờ khiêm nhường, người môn đệ có thể dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa và gặp được Ngài trong cuộc đời của mình. Kẻ kiêu ngạo không bao giờ gặp được Chúa.

 

Suy Niệm 9: Tuyệt vọng và niềm tin

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích

Đoạn Tin Mừng này gồm hai phép lạ:

  1. Cứu sống đứa con gái của một vị kì mục:

Nó đã chết: chính vị kì mục xác định như thế; khi Chúa Giêsu nói nó không chết mà chỉ ngủ thôi thì đám đông nhạo cười Ngài.

Nhưng đức tin của vị kì mục rất mạnh: Ông nói “Xin Ngài đến đặt tay trên nó thì nó sẽ sống lại”.

Chúa Giêsu cứu sống nó rất dễ dàng: “Ngài cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy”.

  1. Chữa bệnh cho một người bị loạn huyết:

Bệnh đã rất nặng vì chữa trị 12 năm không khỏi.

Đức tin của bà cũng rất mạnh: “Nếu tôi chạm đến áo Ngài thôi thì tôi sẽ được khỏi”.

Chính Chúa Giêsu cũng xác nhận: “đức tin của con đã cứu con”

Như thế, cả hai trường hợp đều tuyệt vọng. Nhưng cả hai người đều có đức tin rất mạnh, cho nên họ đã đạt được điều họ xin.

  1. Suy gẫm
  2. Chúa Giêsu là sự sống và là sự sống lại, chỉ cần chạm tới Ngài (người phụ nữ loạn huyết) hay được Ngài chạm tới (con gái vị kì mục) thì hết bệnh hay được sống lại.

Mỗi khi tôi rước lễ, tôi cũng chạm tới Mình Thánh Chúa và được Mình Thánh Chúa hoà tan trong cơ thể tôi. Khi đó, tôi cũng hãy xin Thiên Chúa ban cho tôi sự sống và sự sống dồi dào. Nhưng với điều kiện là tôi phải tin.

  1. “Con bé không có chết đâu. Nó ngủ đó thôi. Họ liền nhạo cười Ngài”

Chúa Giêsu coi chết chỉ là một giấc ngủ để thức dậy là thấy cuộc sống đời đời. Nhưng dân Do Thái không tin mà còn nhạo cười Ngài. Tôi thì tuy không nhạo cười Chúa nhưng cũng chưa thực sự tin chết là một giấc ngủ cho nên tôi rất sợ chết.

  1. Hai nhân vật trong chuyện này vẫn cứ tin trong hoàn cảnh lẽ ra người khác đã tuyệt vọng. Đức tin của họ còn mạnh tới nỗi nghĩ rằng chỉ cần chạm đến Chúa Giêsu hay được Ngài chạm tới thì hoàn cảnh sẽ hoàn toàn đổi mới tốt đẹp.
  2. Thánh Ambrôsiô kể rằng dân chúng xứ Thrace khóc và thốt lên những tiếng kêu thảm thiết khi có một người sinh ra, và trái lại họ vui mừng hát những bài hát hân hoan khi có người qua đời. Họ tin- và họ có lý- rằng tất cả những ai đi vào trong thế giới này, một thế giới tràn đầy đau khổ đều đáng thương hại; và khi họ thoát khỏi nơi lưu đày buồn khổ này, người ta phải vui lên mừng cho họ. Melior est dies mortis die nativitatis, ngày chết là ngày đáng ưa thích hơn ngày sinh ra. (góp nhặt)
  3. “Bà nghĩ bụng: tôi chỉ cần sờ được vào gấu áo của Ngài thôi là tôi sẽ được cứu” (Mát Thêu 9, 21)

Alexander đại đế của Hylạp thời xưa hoàn toàn tin cậy vị y sỹ riêng của ông. Ông tin ngay cả khi ông có lý do nghi ngờ lòng trung thành của vị y sỹ này. Một ngày kia khi Alexandre đại đế lâm bệnh, có kẻ viết thư nặc danh tố cáo vị y sỹ đã bỏ thuốc độc vào thuốc cho ông uống. Nhưng khi vị y sỹ đem thuốc đã bào chế lại, Đại đế nói “Ta hoàn toàn tin tưởng nơi y sỹ”. Nói xong ông cạn chén.

Như Alexandre đại đế đã hoàn toàn tin tưởng vào y sỹ ngay cả khi ông có lý do nghi ngờ, người đàn bà trong đọan Tin Mừng này cũng hoàn toàn tin vào Chúa Giêsu, niềm tin của bà thật mãnh liệt.

 

Suy Niệm 10: Đức tin và sự khiêm nhường

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai phép lạ. Thánh Matthêô ghi lại vắn gọn. Dưới ngòi bút của Thánh Marcô thì câu chuyện sinh động hơn nhiều. Qua hai phép lạ này, chúng ta học được hai bài học rất cụ thể cho cuộc sống chúng ta.

  1. Bài học đầu tiên là bài học về đức tin.

Cả hai người được thụ hưởng phép lạ trong bài Tin Mừng hôm nay đều là người có niềm tin mạnh.

Ông trưởng hội đường có đứa con gái. Nó đã chết. Chính ông xác định như thế. Khi Chúa Giêsu nói nó không chết mà chỉ ngủ thôi thì đám đông nhạo cười Ngài. Ở đây chúng ta thấy đức tin của vị kỳ mục rất mạnh. Trước sự ra đi của đứa con. Tất cả mọi phương thế trần gian đã chào thua. Lịch sử chưa bao giờ nói về một người đã chết được sống lại. Chính Chúa Giêsu cũng chưa cho ai sống lại từ cõi chết vậy mà ông chạy đến với Chúa, ông nói chắc ăn như bắp: “Xin Ngài đến đặt tay trên nó thì nó sẽ sống lại” (Mt 9,18).

Còn người đàn bà mắc bệnh loạn huyết:

Bệnh bà rất nặng vì đã chữa trị suốt 12 năm mà không khỏi. Khi được nghe biết Chúa xuất hiện bà tin sẽ được khỏi: “Tôi chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là sẽ được cứu!” (Mt 9,20). Và đã xảy ra đúng như vậy.

Chúa Giêsu cũng xác nhận cả hai trường hợp được thụ hưởng phép lạ của Chúa là nhờ “Đức tin”.

Đức tin là một yếu tố rất cần thiết để Chúa thực hiện những việc lạ lùng cho chúng ta. Nhưng đức tin chỉ có khi chúng ta hoàn toàn biết ký thác cuộc đời của chúng ta cho Chúa.

Có hai thanh niên da đen làm nô lệ cho một ông chủ Hồi giáo ở Bắc Phi. Ông thường hay dạy hai đứa phải tin lời tiên tri Mahomed. Ông cũng kể cho hai đầy tớ biết thi hài của Mahomed hiện đang được lưu giữ trong một chiếc hòm ở thành Mecca bên xứ Ả-rập.

Một ngày kia, hai anh em được nghe một nhà truyền giáo nói về sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Đêm hôm đó hai người bàn với nhau:

– Anh nghĩ sao, ông chủ chúng ta nói Mahomed đã chết và xác vị tiên tri này đang được giữ trong một chiếc hòm. Còn vị giáo sĩ da trắng lại dạy chúng ta rằng: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đến trần gian chịu chết cho chúng ta và đã sống lại, hiện đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trên trời, như vậy biết tin bên nào?

Anh kia trả lời:

– Tôi nghĩ, chúng mình nên tin vào người đang sống hơn là tin vào một kẻ đã chết.

  1. Bài học thứ hai: Sự khiêm nhường.

Người khiêm tốn là người biết sống với cái chân, cái thật của mình. Mình có thế nào thì mình quyết sống như vậy.

Mẹ Têrêsa đã từng nói: “Sự khiêm nhường cao quý nhất là khi ta nhận thức rằng, mình không là gì cả. Ta chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi giữa thế giới rộng lớn này, một hạt bụi được Thiên Chúa gìn giữ bằng tình yêu.

Ngày xưa Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi thi hành việc quan, có tên đánh xe theo hầu. Vợ tên đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng mình tay cầm cái dù, tay cầm giây cương, mặt vênh váo ngước mặt lên trời, dương dương tự đắc. Lúc chồng về đến nhà, nàng liền xin với chồng để bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi:

– Tại làm sao?

Nàng nói:

– Án Tử, người vừa gầy vừa thấp bé nhỏ nhoi làm đến chức tể tướng của nước Tề, danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp xem ông ấy vẫn có ý khiêm nhường như chưa bằng ai. Còn như chàng, cao lớn đẫy đà như thế mà cũng chỉ mới làm được một tên đánh xe tầm thường, hèn hạ, thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm vinh hạnh tưởng không ai bằng nữa. Nên thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi.

Từ hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ vênh váo, chữa được cái tính nông nổi. Án Tử thấy thế lấy làm lạ liền hỏi. Tên đánh xe đem việc nhà kể lại, Án Tử bèn cất cho làm đại phu.

Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn được diễn tả qua thái độ bên ngoài. Với ông trưởng hội đường là người có thế giá trong xã hội. Một người như ông mà lại đến quỳ mọp dưới chân của “Anh thợ mộc” tầm thường thì kể cũng lạ. Tin Mừng Matthêô cho biết thêm: “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người” (Mt 9,18). Còn với người đàn bà, Tin Mừng cho biết: Sau khi bị phát hiện, giữa thanh thiên bạch nhật, vậy mà Tin Mừng ghi: “Bà phủ phục dưới chân Chúa và tỏ bày tất cả mọi sự.” (Mc 5,33). Chẳng ai hiểu được chuyện này trừ bà. Việc Chúa làm phép lạ cho bà nào có ai biết đâu. Bà hiểu rất rõ điều đó vì phép lạ xảy ra hoàn toàn bí mật… chỉ có bà và Chúa Giêsu biết. Thái độ khiêm nhường ấy đã làm Chúa xúc động. Chúa cảm thấy có một sức mạnh từ trong con người của Ngài xuất ra.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết sống khiêm nhường noi gương Chúa. Amen.

 

 

THỨ BA TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 9, 32-38

Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: “Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel”. Nhưng các người biệt phái nói rằng: “Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”.

Và Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn.

Người liền bảo môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.

 

Suy Niệm 1: Sai thợ ra gặt lúa

Suy niệm:

Phép lạ Đức Giêsu chữa người câm là phép lạ cuối

của chuỗi mười phép lạ trong hai chương 8 và 9 của Tin Mừng Mátthêu.

Mátthêu đã kể lại phép lạ này với rất ít chi tiết.

Người ta coi bệnh câm của anh này là do quỷ ám.

Khi quỷ bị trục xuất thì người câm nói được.

Không thấy Đức Giêsu đã làm gì hay nói gì để trừ quỷ.

Nhưng quyền năng của Ngài được lộ ra khi người câm cất tiếng nói.

Có hai phản ứng ngược nhau trước phép lạ.

Đám đông thì kinh ngạc và nói: “Ở Israel, chưa hề thấy thế bao giờ.”

Họ đứng trước một điều hết sức mới mẻ khiến họ ngỡ ngàng (c. 33).

Người câm nói được là một dấu chỉ cho thấy Nước Trời đã gần,

thời đại thiên sai đã đến, Đấng Thiên sai đã ở kề bên.

Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia tiên báo:

“miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (35, 6).

Nhưng những người Pharisêu lại nghĩ khác.

Họ không phủ nhận quyền năng trừ quỷ của Đức Giêsu,

nhưng họ lại cho rằng Ngài đã bắt tay với quỷ vương để trừ quỷ (c. 34).

Đây là phản ứng đầu tiên có tính thù nghịch công khai của người Pharisêu.

Phần còn lại của bài Tin Mừng là một bản tóm lược

về các hoạt động của Đức Giêsu: dạy dỗ, rao giảng, và chữa bệnh (c. 35).

Tất cả cuộc sống của Ngài như dành trọn cho đám đông.

Đôi chân Ngài đi khắp các thành thị, làng mạc và hội đường.

Đôi môi Ngài không ngớt đem tin vui đến cho những người mong đợi.

Đôi tay Ngài chạm đến những bệnh tật yếu đau của con người.

Nhưng trên hết vẫn là chuyện Đức Giêsu chạnh lòng thương (c. 36).

Chạnh lòng thương là nhói đau ở chỗ sâu bên trong của ruột gan mình.

Thấy thì thương: đó luôn là cái nhìn của Đức Giêsu trước đám đông.

Ngài thấy họ như chiên không có người chăn dắt, lãnh đạo.

Chính vì thế họ bị rơi vào tình cảnh vất vưởng lầm than.

Đức Giêsu không đau xót về chuyện bệnh tật thân xác của đám đông.

Ngài quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu tâm linh của con người.

Con người đánh mất ý nghĩa cuộc sống, thấy bơ vơ, cô độc, tuyệt vọng.

Con người loại trừ Thiên Chúa, để rồi rơi vào sa đọa, chán chường.

Đức Giêsu đến như người mục tử chăm sóc mọi mặt cho đoàn dân.

Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã than về chuyện ơn gọi.

Đồng lúa thì bao la mênh mông, mà thợ gặt thì ít.

Ngài mời các môn đệ của mình cầu nguyện nài xin với Thiên Chúa.

Đồng lúa là của Thiên Chúa, thợ gặt cũng là của Thiên Chúa sai đến.

Nước Việt Nam chúng ta cũng cần bao thợ gặt.

Có bao nhiêu tỉnh thành làng mạc còn thiếu linh mục, thiếu nữ tu.

Số linh mục mới chịu chức không đủ bù cho các vị về hưu và qua đời.

Làm sao để các bạn trẻ thấy con người hôm nay và chạnh lòng thương?

Làm sao để họ muốn dấn bước lo cho đám đông như Giêsu?

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,

đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.

Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy

đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.

Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay

những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.

Xin cho họ

biết quên hạnh phúc và tương lai của mình

để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.

Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,

cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương,

thấy được những mất mát của bao người đau khổ,

và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.

Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ

để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu,

sống như Ngài đã sống

và tiếp tục làm những gì

Ngài đã làm trên trần gian.

Cũng xin Cha

gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con,

thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội,

để tất cả trở thành những môi trường tốt

giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Lúa chín đầy đồng

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thế gian đau khổ vì chống lại Thiên Chúa. Dân Ít-ra-en có nhiều kinh nghiệm về điều này. Khi vâng nghe Lời Chúa, họ được hạnh phúc. Khi phản bội Chúa, họ lâm vào cảnh nô lệ lầm than khốn khổ. “Con cái Ít-ra-en phong vương người mà Ta không chọn, tôn làm lãnh tụ kẻ Ta không biết, dùng bạc vàng làm ra ngẫu tượng, để rồi bị đập tan”. Từ bỏ Chúa thì họ sẽ phải chịu nô lệ các thế lực ma quỉ, xác thịt, thế gian: “Giờ đây, Người sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng, chúng đã phạm tội, thì chúng sẽ phải đền: chúng sẽ phải trở về Ai-cập” (năm chẵn).

Chúa Giê-su xuống trần để giải thoát con người khỏi ách nô lệ. Chúa xua trừ ma quỷ để con người được sống tự do: “Khi ấy, người ta đem đến cho Đức Giê-su một người câm bị quỷ ám. Khi quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói được”. Chúa rao giảng cho mọi người biết Nước Trời. Chúa cứu họ khỏi mọi bệnh hoạn tật nguyền: “Đức Giê-su…rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. Chúa đến để đưa mọi người vào Nước Trời. Toàn dân là những bông lúa chín cần được đưa vào kho Nước Trời: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gựt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.

Chúa muốn có người cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời. Nhưng việc xây dựng Nước Trời là của Chúa. Vì thế người cộng tác phải có lòng khiêm tốn. Phải cầu nguyện và được sai đi. Đó chính là thái độ của tổ phụ Gia-cóp. Khi từ nơi lưu lạc trở về, ông đắc thắng như một người thành công nhờ sức mình. Có hai bà vợ. Mười một đứa con trai. Còn gia súc thì hàng ngàn hàng vạn. Nhưng đêm trước khi bước vào Đất Hứa, ông phải trải qua một cuộc chiến đấu với Thiên Chúa. Ông phải cầu nguyện xin Chúa chúc phúc: “Tôi sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi…Và người đó chúc phúc cho ông tại đấy”. Để tổ phụ Gia-cóp khiêm tốn, Chúa đã cho ngài bị thọt chân: “người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp xương hông của ông Gia-cóp bị trật”. Nhờ đó ông được đổi tên và trở tổ phụ dân riêng được Chúa chọn: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng là Ít-ra-en”. Đó chính là tên của dân tộc mới được Chúa thành lập (năm lẻ).

Xin cho con biết khiêm tốn cầu nguyện để được Chúa sai đến nơi Chúa muốn và làm việc Chúa cần.

 

Suy Niệm 3: Nhu cầu truyền giáo

Nhờ tiếp xúc với người dân, Chúa Giêsu có thể nhận thấy đời sống thực tế của họ. Thánh sử Mátthêu nói rõ: “Thấy dân chúng đông đảo, Ngài chạnh lòng thương, vì họ lầm than, vất vưởng, như chiên không người chăn dắt”. Ðứng trước thảm trạng này, Chúa Giêsu gợi ý để các môn đệ của Ngài suy tư: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít”.

Quan niệm Cựu Ước về các chủ chăn của dân là quan niệm rộng rãi và ám chỉ vừa các thẩm phán, vừa các tư tế và tiên tri. Hình ảnh rất quen thuộc với nền văn hóa của các dân du mục. Chính tổ tiên của họ cũng là những người chăn chiên, như Môsê, Ðavít. Yêrêmia và Êzêkiel đã báo trước là chính Thiên Chúa sẽ trở nên người chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Lời tiên tri này đã được thực hiện đầy đủ nơi Chúa Giêsu, vị Mục Tử nhân lành chạnh thương và chăm sóc các con chiên của Ngài, đến nỗi hy sinh cả mạng sống cho chúng. Như vậy, các Kitô hữu có thể tin tưởng tiến bước, bởi vì họ biết rằng Chúa là mục tử của họ.

Hình ảnh về mùa gặt hái đã được các Tiên Tri dùng để chỉ Nước Chúa Cứu Thế sau này. Thời kỳ sau cùng là thời kỳ gặt hái thu lượm, nghĩa là lúc Thiên Chúa đến phán xét trong ngày tận thế. Chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa. Giai đoạn sau cùng của lịch sử đã bắt đầu với việc Nước Thiên Chúa đến; tất cả đều sẵn sàng, nhưng thiếu thợ gặt. Thế giới ngày nay như một cánh đồng mênh mông, nơi có rất nhiều linh hồn sẵn sàng đón nhận Nước Trời nhưng phải có người chỉ đường cho họ. Chúa muốn cứu thế gian và Ngài kêu gọi sự cộng tác của con người. Lời kêu gọi của Ngài vẫn có giá trị và khẩn cấp trong mọi thời đại.

Là người Kitô hữu, chúng ta có lo lắng để Nước Chúa được lan rộng tới các tâm hồn không? Ðức tin của chúng ta có sống động bằng việc làm cụ thể hay chỉ là đức tin chết?

Xin Chúa đổ tràn tâm hồn chúng ta lửa nhiệt tâm truyền giáo. Xin cho chúng ta thực sự trở nên chứng nhân của Chúa bằng lời nói, việc làm, nhất là bằng lời cầu nguyện và gương sáng.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Chúng ta đều là thợ gặt

Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không có người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với các môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt. 9, 36-39)

Một mùa gặt bội thu

Nếu hôm nay Chúa Giêsu đi trên những con đường hiện đại của chúng ta, chắc chắn Chúa cũng sẽ cảm nghĩ như xưa cách đây gần 2000 năm. Người sẽ nói: “Những con người nam nữ của thế kỷ 20 này, ta không thể không quan tâm tới họ. Ta thấy họ lo âu và chẳng sung sướng gì. Ta thấy họ đang đi tìm ánh sang và chân lý. Ta biết họ muốn được sống hạnh phúc, nhưng lại chẳng biết đường đi. Thiếu người dẫn dắt họ tới ấnh sáng và nguồn vui. Không đủ thợ gặt. Anh em hãy cầu xin Cha tôi để có được nhiều người biết dẫn dắt người ta đến với Ngài.

Không phải chỉ có các linh mục, các tu sĩ nam nữ là những người phải nói về Chúa, phải giới thiệu Chúa cho người ta, mà là tất cả những ai đã hưởng ánh sáng và niềm vui mà Chúa ban cho kẻ sống mật thiết với Người.

Ta không thể đã được gặp Chúa rồi mà lại sống ích kỷ. Người Kitô hữu chính cống là người biết chia sẻ cho người khác điều mình đã thấy, đã biết, đã trải qua.

Mỗi người đều có phần trách nhiệm

Phải cần đến nhiều tay thợ, để những con người thời nay nam cũng như nữ biết đối diện với Chúa và sống sự sống của Người. Mỗi tín hữu dù nam hay nữ đều phải là thợ gặt trong cánh đồng mênh mông của Chúa. Mỗi người đều có trách nhiệm góp phần lớn nhỏ của mình.

Đừng đẩy trách nhiệm của mình cho người khác. Không phải chỉ cầu nguyện cho thêm đông số các người chuyên lo việc truyền giáo, cho có nhiều linh mục tu sĩ nam nữ dấn thân hết mình cho Giáo hội mà thôi. Tốt hơn ta hãy cầu xin cho chính chúng ta để biết làm gì hơn trong phần trách nhiệm của mình, cụ thể là cầu nguyện cho ta được ơn can đảm và niềm vui để hoàn thành tốt trách nhiệm Chúa trao.

 

Suy Niệm 5: XIN MỞ MIỆNG CON (Mt 9, 32-38)

Hôm nay, Đức Giêsu đã chữa lành một người bị quỷ câm ám. Khi đã được thoát khỏi quỷ câm, người đó liền nói được.

Sau đó, Đức Giêsu còn đi khắp các làng mạc giảng dạy, chữa lành các bệnh tật.

Tiếp theo, Ngài đã mời gọi các môn đệ hãy đi để loan báo về tình thương của Thiên Chúa cho mọi người.

Khi nói đến câm, chúng ta thấy có hai dạng: một là câm ngoài ý muốn, tức là câm từ lúc mới sinh, hay bị một sự cố nào đó mà ảnh hưởng đến thanh quản, khiến bệnh nhân không nói được; hai là câm tự ý muốn, tức là đương sự không muốn nói.

Giữa hai dạng, câm ngoài ý muốn, tự bản chất, không ảnh hưởng đến ơn cứu độ. Tuy nhiên, dạng thứ hai, tức là câm tự ý muốn thì nguy hiểm, và có thể mất ơn cứu độ! Họ là những người mê tiền tài, danh vọng, dâm dục… nên mọi hành vi, cử chỉ đều hướng chiều về nó, khiếm người đó bị câm không nói được về Chúa cho anh chị em mình.

Thật vậy, nói về sự thanh thoát làm sao được khi chính mình ham tiền, hám bạc! Nói về sự từ bỏ sao được khi chính mình ham quyền, cố vị! Nói về khiết tịnh sao được khi chính mình  khoái danh, sắc, dục…! Và, nói về đạo đức, bác ái, dấn thân, phục vụ… làm sao khi chính tôi còn đang tham sân si! Hay không thể nói về tha thứ được, vì tôi còn đang nuôi hận thù!

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy nên ngôn sứ của Đức Giêsu và thuộc về Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, chứ không chỉ như cái xác vô hồn hay chiếc bóng trong cuộc sống, để rồi sống buông tha, suy đồi và không dám làm chứng cho Tin Mừng. Bên cạnh đó, sứ điệp Lời Chúa cũng nhắc cho mỗi người chúng ta cần loại bỏ những hệ quả của ma quỷ như: độc địa, ích kỷ, gian tham, hận thù, rượu chè, cờ bạc… và không được đứng về phía sự ác để thành kiến, ghen tương, đố kỵ mà trà đạp người anh chị em chúng ta để đưa mình lên như những người Pharisiêu khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp sức cho chúng con, để chúng con không bị câm về phần hồn. Xin cho chúng con can đảm nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em. Và, xin cho chúng con đừng vì miếng cơm manh áo mà chà đạp anh chị em mình xuống để vươn lên trong sự bất chính. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Trái tim mục tử nhân hậu

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Trái tim của Chúa Giêsu là trái tim của người mục tử nhân hậu. Chúa chạnh lòng thương xót và cứu vớt đàn chiên lầm than vất vưởng. Chúa còn dạy ta cầu nguyện để Chúa Cha ban những người nối tiếp sứ mạng mục tử ấy.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là mục tử nhìn thấy những nỗi lầm than vất vưởng của đàn chiên Chúa, và Chúa đã đến cứu giúp chúng con. Với trái tim giàu lòng thương xót, Chúa đã làm tất cả những gì có thể làm để chúng con được sống và sống sung mãn. Chúa quan tâm chăm sóc từng người chúng con. Con tạ ơn Chúa.

Lạy Chúa, khi xưa chính Chúa đã tiêu diệt sự thống trị của ma quỷ. Chính Chúa đã rao giảng Tin Mừng Nước Trời, đã đi tìm những con chiên lạc, đã nuôi dưỡng dân chúng trong hoang địa, và chính Chúa đã chữa lành những bệnh nhân.

Ngày nay, con tin rằng chính Chúa cũng đang yêu thương chăm sóc con qua sự hiện diện của các mục tử. Con tạ ơn Chúa vì qua các mục tử, chính Chúa đang dạy dỗ, an ủi và khích lệ con, chính Chúa tha thứ tội lỗi và vỗ về ôm ấp con như con chiên lạc trở về, chính Chúa quy tụ và nuôi dưỡng con nơi bàn tiệc Thánh Thể. Xin Chúa giúp con cảm nhận được lòng thương xót bao la của Chúa.

Lạy Chúa, xin Chúa ban cho Hội Thánh có được những mục tử như lòng Chúa mong muốn, những mục tử giàu lòng thương xót và tận tình phục vụ đàn chiên. Đặc biệt xin Chúa thương xót những đàn chiên thiếu vắng mục tử. Xin Chúa an ủi họ và ban cho họ sớm có chủ chăn. Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Xin Chúa ban cho chúng con những thợ gặt. Amen.

Ghi nhớ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.

 

Suy Niệm 7: Thợ gặt niềm tin

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một công nhân hầm mỏ được một anh bạn hỏi:

– Anh làm gì trong Hội Kinh Thánh Hải Ngoại vậy?

– Tôi làm việc dịch thuật.

– Anh mà đòi dịch thuật?

– Đúng, tôi lo dịch Lời Chúa trong Kinh Thánh vào đời sống hằng ngày của tôi.

Suy niệm

Trên bước đường rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu trừ quỷ và chữa lành những người bệnh tật… Ngài thấy dân chúng sống bơ vơ không người chăn dắt, lòng Ngài thổn thức trước cánh đồng lúa chín vàng của nước Trời nơi trần gian, cần những thợ gặt. Ngài đã gọi các môn đệ như thợ chuyên nghiệp đến mùa gặt đức tin. Không có thợ kịp gặt thì những cơn lũ cuộc đời sẽ cuốn trôi đi tất cả. Ngài mời gọi mọi người đều góp phần bằng lời cầu xin với đức tin tín thành vào Chúa Cha: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.

Lòng tha thiết của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng trong thế giới hôm nay. Qua mọi thời đại, Chúa Giêsu luôn thao thức về nhu cầu thợ gặt cho cánh đồng bát ngát của niềm tin. Nếu không có thợ gặt cho kịp, lúa niềm tin sẽ rơi rụng và cơn lũ của thế gian sẽ cuốn trôi vụ mùa.

Theo lời Ngài, chúng ta cầu nguyện với lòng tin tưởng, phó thác, cậy trông vào nơi Chúa Cha – Đấng luôn đồng hành, sai thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo rao truyền lời Chúa để người chưa tin chấp nhận Tin Mừng.

Thật thế, như lời Chúa Giêsu dạy: Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban cho chúng ta có những thợ rành nghề… có ánh lửa nhiệt huyết nơi tâm hồn của người thợ, để họ đến với các cánh đồng, làng mạc…

Có những thợ gặt rành nghề, thì mùa gặt đức tin sẽ báo hiệu một mùa gặt bội thu – con người của mọi nền văn hóa được thu hoạch.

Ý lực sống:

… Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, tự Ngài đã thực sự viên mãn. Nhưng Ngài lại ưa thích cho con được cộng tác trong công việc của Ngài…

Nhưng Ngài lại ưa thích nương nhờ nơi con để cứu độ mọi người (Trích Lời Nguyện Không Thể Thiếu).

 

Suy Niệm 8: Chữa người câm bị quỉ ám (Mt 9,32-38)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người câm bị quỉ ám. Chúa trừ quỉ ra và người câm nói được, dân chúng thấy vậy thì khâm phục quyền năng Chúa, tin tưởng Chúa là Đấng Thiên Sai; còn người biệt phái thì không chịu tin Chúa mà lại tin ma quỉ… Và Chúa đi khắp các thành các làng mạc rao giảng Tin mừng Nước Chúa và chữa lành mọi bệnh tật. Khi thấy dân chúng đông đúc không ai cứu giúp thì Ngài chạnh lòng thương họ. Ngài bảo các môn đệ xin Chúa Cha cho nhiều người đến dìu dắt họ.

Mở đầu Tin mừng là câu chuyện Chúa Giêsu trục xuất một tên quỉ ra khỏi người câm. Toàn dân thì ca tụng, nhưng người biệt phái độc miệng cho rằng: Chúa dùng quyền tướng quỉ mà trừ quỉ. Khi đã không ưa thì dưa có dòi, biệt phái tìm cách để nói xấu Chúa Giêsu, vì giáo lý của Ngài đã vạch trần thái độ kiêu ngạo, dối trá và giả hình của họ. Tuy nhiên, đối với Chúa Giêsu, sự chống đối không quan trọng khi Ngài không phản kháng, mà điều khẩn thiết hơn cả là Tin mừng phải được loan báo cho muôn dân.

Sự ghen tị của người biệt phái

Trong ý thức hệ của người Do thái, họ vẽ ra trong tư tưởng của mình một lối sống kiểu Biệt phái giả hình và đòi dân theo, họ quan niệm một thời kỳ cứu độ và một Đấng Messia giàu sang, chứ không phải hoà đồng chung bàn với người hèn kém. Từ đó họ không nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Với ý thức hệ như thế, họ không những bị trói buộc trong tư tưởng thiển cận của họ, không nhận ra được dấu chỉ của thời đại, mà còn bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như họ. Chính vì thế mà họ gièm pha những lời Chúa Giêsu nói và những việc Ngài làm. Họ tìm cách lèo lái dân thoả hiệp với họ và xuyên tạc sự thật về Chúa Giêsu, trong khi dân chúng ca tụng công việc của Chúa thì họ lại bóp méo xuyên tạc cho đó là việc của tướng quỉ.

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”

Chúa Giêsu chạnh lòng thương trước hiện trạng của con người vất vưởng lầm than, mà những bậc làm “thầy” Do thái không giải quyết được cho họ. Họ như rắn mất đầu, thiếu vắng đời sống tâm linh. Trong bản tính nhân loại, một mình Chúa cần sự cộng tác của các môn đệ cùng làm công việc của Ngài như một “mục tử” và “lương y”. Trước sự bao la của hoạt động tông đồ, điều đầu tiên mà Chúa Giêsu yêu cầu là cầu nguyện: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.

Chúa Giêsu sai môn đệ đi rao giảng Tin mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ qua những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho. Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo hội qua các thời đại trong lịch sử đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người.

“Chúa Giêsu chạnh lòng thương”

Bức tranh nhân loại ngày nay thật tăm tối khi sự nghèo khó lại sánh vai bên cạnh sự giàu có và thừa mứa. Dưới gầm bàn ăn của người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình là vô số những Lazarô đang lê lết quằn quại trong bệnh tật và đau khổ.

Sự hiện diện của những người đau khổ là một tra vấn cho lương tâm Kitô hữu chúng ta. Chính qua chúng ta mà Chúa Giêsu tiếp tục chạnh lòng thương trước nỗi khốn khổ của con người, nhưng cũng chính qua những người khốn khổ mà Chúa Giêsu đến với chúng ta. Trong ngày sau hết, chúng ta chỉ bị xét xử về một điều, chúng ta có nhận ra và yêu thương Ngài nơi những con người khốn khổ không?

Có lần Mẹ Têrêsa đã cầu nguyện với Chúa như thế này: “Xin hãy cho con rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói nhưng bằng gương sống, với sức thu hút mạnh mẽ và sự lôi cuốn của lòng cảm thông, một sự thu hút và lôi cuốn đến từ những gì con làm, bằng chứng rõ ràng cho Tình yêu hoàn toàn đối với Chúa, Đấng hiện diện tràn đầy trong tâm hồn con”.

Nhân loại ngày nay vẫn còn bơ vơ như đoàn chiên không có người chăn. Hãy tập cho mình biết chạnh lòng thương như Chúa Giêsu, để cùng với Chúa làm cho thế giới chúng ta đang sống được ấm áp tình người hơn.

Truyện: Người hành khất bất đắc dĩ

Cha Anthony de Mello thuật lại một câu chuyện có thật.

Chuyện xảy ra tại đất nước Bangladesh, một trong những nước nghèo nhất thế giới.

Có một người đàn ông nọ đi bộ về nhà sau một ngày làm việc cực nhọc tại xưởng thợ. Vì quá mệt mỏi, ông dừng lại ngồi nghỉ dưới một bóng cây ven đường và thiếp ngủ đi lúc nào không biết. Khuôn mặt tiều tuỵ của ông khiến người đi đường ngỡ ông là người hành khất kiệt sức và ngất xỉu. Và người ta chạnh lòng thương, ai đi qua cũng bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu.

Khi thức giấc, người công nhân già hết sức ngạc nhiên, vì thấy chiếc mũ cũ kỹ của mình đầy những đồng xu, số tiền đếm được còn nhiều hơn một ngày công của ông. Ông mỉm cười tự nghĩ mình đã là một người hành khất bất đắc dĩ.

Trên đường về, ông nhìn thấy nhiều người ăn xin đui mù tàn tật, ông chạnh lòng thương, rồi ông lặng lẽ chia đều cho họ số tiền vừa mới nhận được. Và hơn ai hết, người công nhân nghèo hèn ấy hiểu: được nhận lãnh và được chia sẻ cũng đều là niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích

Bài Tin Mừng này gồm hai ý:

  1. Chúa Giêsu trừ quỷ cho một người câm nói được. Căn cứ theo lời tiên tri của Isaia, phép lạ này chứng minh Ngài là Đấng Messia. Nhưng những người biệt phái cố tình không hiểu ý nghĩa của phép lạ này, họ còn xuyên tạc rằng Ngài đã cậy sức của quỷ vương mà làm việc đó.
  2. Tấm lòng của Chúa Giêsu đối với dân chúng: Ngài tận tình giảng Tin Mừng và chữa bệnh cho họ, nhưng Ngài vẫn thấy họ bơ vơ như chiên không có người chăn. Một mặt Ngài cho các môn đệ hiểu hoàn cảnh ấy “lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”, mặt khác, Ngài bảo họ cầu xin “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đi gặt lúa”.
  3. Suy gẫm
  4. Thiên Chúa đã dựng nên con người có miệng để con người nói. Người câm không nói được là một ngưới bất bình thường. Chúa Giêsu làm phép lạ để ban lại quyền ăn nói cho đương sự.

Tuy tôi không câm, nhưng trong nhiều trường hợp lẽ ra tôi phải nói thì tôi lại không nói: nói để an ủi người khác, nói để bênh vực chân lý, nói để rao giảng Tin Mừng… Xin Chúa chữa con chứng bệnh câm này.

  1. Trước phép lạ của Chúa Giêsu, những người bình dân ít học thì khen ngơi Ngài, còn những người biệt phái thông thái thì xuyên tạc. Điều này gọi là “có định kiến xấu”. Người đã có định kiến xấu thì dù thuộc giới đạo đức hay học thức (như biệt phái) cũng phạm sai lầm một cách tệ hại.
  2. Chúa Giêsu đã chạnh lòng trước cảnh bơ vơ của dân chúng. Các nhà truyền giáo nhiệt thành cũng đều chạnh lòng như thế. Nhân loại ngày nay vẫn còn bơ vơ như đoàn chiên không có người chăn. Chỉ những ai biết chạnh lòng thì mới có thể là những nhà truyền giáo.

Xin Chúa đánh động tâm hồn các Kitô hữu, nhất là các Linh mục tu sĩ.

  1. Thành kiến: Cuốn phim “Dấu ấn của quỷ” kể một câu chuyện rất thương tâm.

Một ngôi làng nhiều mê tín dị đoan, một bé gái sinh ra mang sẵn một dấu ấn trên ngực. Dân làng nói đó là dấu ấn của quỷ nên bỏ cô vào thúng rồi thả xuống biển. Một ông lão cùi đã vớt được cô đem về nuôi. Lớn lên cô gặp một chàng trai, hai người yêu nhau, lấy nhau và sống hạnh phúc bên cạnh ông lão cùi. Giữa lúc dân làng tìm thấy cô gái và bắt lại. Và trớ trêu thay cũng giữa lúc ấy người phụ nữ trẻ sinh con, và đứa con cũng có một dấu ấn y như thế trên ngực. Người mẹ lấy bó đuốc cố đốt sạch dấu ấn trên ngực con nhưng vô ích. Cuốn phin kết thúc với cảnh người mẹ đau khổ gục chết, ông lão cùi tuyệt vọng đốt rụi túp lều của mình, và đứa trẻ sơ sinh ngơ ngác không hiểu số phận mình sẽ ra sao…

Đối với Chúa Giêsu không ai mang dấu ấn của quỷ, mà chỉ có hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi người (Chờ đợi Chúa)

  1. Bấy giờ người nói với các môn đệ rằng “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúc mang về” (Mát Thêu 9, 37-38)

Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối, nhưng vẫn có những đốm sáng rực rỡ: khi con người ngồi gần lại nhau để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hoà bình; khi cả thế giới lo chung một mối lo bảo vệ trái đất , ngăn chặn si đa, diệt tận ma tuý; khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn; khi trẻ thơ và người già được chăm sóc; khi những hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ; khi không còn kì thị chủng tộc, tôn giáo, màu da, khi những tiến bộ khoa học làm con người sống hạnh phúc; khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau, sống trên cùng một hành tinh, dười mái nhà bầu trời.

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Bài Tin Mừng này gồm hai ý:

  1. Chúa Giêsu trừ quỷ cho một người câm để anh nói được. Căn cứ theo lời tiên tri Isaia, phép lạ này chứng minh Ngài là Đấng Messia. Nhưng những người Pharisêu cố tình không hiểu ý nghĩa phép lạ này, họ còn xuyên tạc rằng, Ngài đã cậy sức quỷ vương mà làm việc đó.

Trước phép lạ của Chúa Giêsu, những người bình dân ít học thì khen ngợi Ngài, còn những người Pharisêu thông thái thì lại xuyên tạc. Việc xuyên tạc này phát xuất từ những “định kiến xấu” và người đã có định kiến xấu thì dù thuộc giới đạo đức hay học thức (như Pharisêu) cũng rất dễ phạm sai lầm.

Trong cuốn phim có tựa đề là “Dấu ấn của quỷ”, người ta được chứng kiến một câu chuyện rất thương tâm như thế này.

Trong một ngôi làng kia còn nhiều mê tín dị đoan. Một bé gái vừa sinh ra đã mang sẵn một cái bớt trên ngực. Dân làng nói đó là dấu ấn của quỷ nên họ bỏ em vào thúng rồi thả xuống biển tính cho em chết đi. Nhưng rất may cho em, một ông lão cùi đã vớt được em và đem về nuôi. Lớn lên cô gặp một chàng trai. Hai người yêu nhau, lấy nhau và sống hạnh phúc bên cạnh ông lão cùi.

Tình cờ một ngày kia, dân làng khám phá ra tung tích của cô và họ bắt cô lại. Thật là trớ trêu, giữa lúc vừa bị bắt thì người phụ nữ trẻ ấy sinh con, và đứa con cũng có một cái bớt như mẹ nó trên ngực. Thấy thế người mẹ sợ quá nên đã lấy một bó đuốc cố đốt sạch cái bớt mà người ta cho là dấu ấn của quỉ trên ngực con mình nhưng vô ích.

Cuốn phim kết thúc với cảnh người mẹ đau khổ gục chết. Ông lão cùi tuyệt vọng đốt rụi túp lều của mình, và đứa trẻ sơ sinh ngơ ngác không hiểu số phận mình sẽ ra sao.

Đó là kết quả của những đầu óc thiển cận đầy định kiến xấu.

Chúa Giêsu thì không như thế. Không ai là người mang dấu ấn của quỷ, mà chỉ có hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi người mà thôi.

Xin Chúa cho chúng ta có được một tấm lòng và một cặp mắt trong sáng, để có thể nhận ra những giá trị tốt đẹp nơi anh chị em chúng ta.

  1. Tấm lòng của Chúa Giêsu đối với dân chúng:

Ngài tận tình giảng Tin Mừng và chữa bệnh cho họ, nhưng Ngài vẫn thấy họ bơ vơ như chiên không có người chăn. Một mặt, Ngài cho các môn đệ hiểu hoàn cảnh ấy “lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt” (Mt 9,37), mặt khác, Ngài bảo họ cầu xin “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đi gặt lúa” (Mt 9,38).

Và Chúa Giêsu đã chạnh lòng trước cảnh bơ vơ của dân chúng.

Có lần mẹ Têrêsa đã cầu nguyện với Chúa như thế này: “Xin hãy cho con rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói nhưng bằng gương sống, với sức thu hút mạnh mẽ và sự lôi cuốn của lòng cảm thông, một sự thu hút và lôi cuốn đến từ những gì con làm, bằng chứng rõ ràng cho Tình Yêu hoàn toàn đối với Chúa, Ðấng hiện diện tràn đầy trong tâm hồn con.”

Nhân loại ngày nay vẫn còn bơ vơ như đoàn chiên không có người chăn. Hãy tập cho mình biết chạnh lòng thương như Chúa Giêsu, để cùng với Chúa làm cho thế giới chúng ta đang sống được ấm áp tình người hơn.

Cha Anthony de Mello thuật lại một câu chuyện có thực. Chuyện xảy ra tại đất nước Bangladesh, một trong những nước nghèo nhất thế giới.

Có một người đàn ông nọ đi bộ về nhà sau một ngày làm việc cực nhọc tại xưởng thợ. Vì quá mệt mỏi, ông dừng lại ngồi nghỉ dưới một bóng cây ven đường và thiếp ngủ đi lúc nào không biết. Khuôn mặt tiều tụy của ông khiến người đi đường ngỡ ông là một người hành khất kiệt sức và ngất xỉu. Và người ta chạnh lòng thương, ai đi qua cũng bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu.

Khi thức giấc, người công nhân già hết sức ngạc nhiên vì thấy chiếc mũ cũ kỹ của mình đầy những đồng xu, số tiền đếm được còn nhiều hơn một ngày công của ông. Ông mỉm cười tự nghĩ mình đã là một người hành khất bất đắc dĩ.

Trên đường về nhà, ông nhìn thấy nhiều người ăn xin đui mù tàn tật, ông chạnh lòng thương, rồi ông lặng lẽ chia đều cho họ số tiền vừa mới nhận được. Và hơn ai hết, người công nhân nghèo ấy hiểu: được nhận lãnh và được chia sẻ cũng đều là một niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng.

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng,

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

 

 

 

THỨ TƯ TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 10, 1-7

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.

Đây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.

Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: “Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: ‘Nước Trời đã gần đến'”.

 

Suy Niệm 1: Mười hai tông đồ

Suy niệm:

Đức Giêsu đã cần mười hai bạn trẻ cộng tác với mình,

để làm mục tử cho đàn chiên, làm thợ gặt cho mùa lúa chín vàng,

làm tông đồ cho một nước Paléttin nhỏ bé.

Ngài chia sẻ cho họ uy quyền mình có và sứ vụ mình làm (c. 1).

Con số mười hai gợi nhớ mười hai chi tộc Israel ngày xưa.

Giáo Hội Ngài thiết lập sẽ là Israel mới, đặt nền trên mười hai bạn trẻ.

Chúng ta khó hình dung khuôn mặt riêng của mỗi vị tông đồ,

nhưng ta biết tên của họ qua các sách Tin Mừng, dù có chút dị biệt.

Họ có cá tính và cuộc đời riêng, nhưng đều được gọi bởi Thầy Giêsu,

và được Thầy sai đến với dân tộc mình là Israel (c. 6).

Tin Mừng Mátthêu kể tên nhóm Mười Hai theo từng cặp.

Simôn Phêrô đứng đầu danh sách, còn Giuđa Ítcariốt thì đứng cuối.

Chỉ sau này ta mới biết Simôn sẽ chối Thầy và Giuđa sẽ phản bội.

Có những cặp anh em ruột: Simon và Anrê, Gioan và Giacôbê.

Có người làm nghề thu thuế cho quân đô hộ: Mátthêu.

Có người lại muốn dùng vũ trang giải phóng đất nước: Simôn nhiệt thành.

Có ba người được coi là môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê.

Nói chung đa số là những người ít học thức, làm nghề đánh cá.

Được sai đi thật là một thách đố đối với họ.

Họ có làm nổi những việc Thầy giao không?

Vào thời Đức Giêsu, rao giảng “Nước Trời đã đến gần” là điều không dễ.

Để người ta tin chuyện đó, cần phải minh chứng bằng hành động cụ thể,

như chữa lành bệnh hoạn và khử trừ thần ô uế.

Vào thời nay, rao giảng Tin Mừng Nước Trời lại càng không dễ.

Rao giảng vẫn phải đi kèm với các việc phục vụ con người.

Lập một bệnh xá, bắc một cây cầu, đào một giếng nước,

giúp trẻ em nghèo đến trường, đưa người cai nghiện về lại với cộng đoàn,

cho các cô gái lầm lỡ có chỗ sinh con và nuôi con…

Giáo Hội đã làm nhiều việc và vẫn còn bao nhu cầu mới mẻ.

Nhưng có một việc mà xã hội hôm nay không biết là mình đang cần,

đó là được giải phóng khỏi những thần ô uế mới đang ám ảnh con người.

Mười Hai tông đồ ngày xưa đã đi khắp mảnh đất Paléttin,

và đã đặt chân đến những vùng đất mới.

Thế giới hôm nay rộng hơn và phẳng hơn xưa.

Chúng ta được Đấng Phục sinh sai đến mọi dân tộc (Mt 28, 20).

Các phương tiện truyền thông ngày nay giúp ta dễ dàng làm chuyện đó.

Nhưng chúng ta vẫn không được quên, trên quê hương Việt Nam

gần 80 triệu đồng bào chưa đón nhận Tin Mừng.

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

Cha muốn cho mọi người được cứu độ

và nhận biết chân lý,

chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người

chưa nhận biết Đức Giêsu,

họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con

khát vọng truyền giáo,

khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,

niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,

và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực

trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất

để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến

với những người bạn gần bên,

giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,

qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện

cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con

sinh nhiều hoa trái. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Tình thương diệu kỳ

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thật diệu kỳ tình thương của Thiên Chúa. Chúa đã chúc phúc cho nhà Gia-cóp. Nhưng các con ông bất hoà vì ghen ghét đã bán Giu-se sang Ai-cập. Ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Giu-se trở thành tể tướng nước Ai-cập, chuyên lo cấp phát lúa gạo cho dân trong thời đói kém. “Cứ đến với Giu-se”. Đó là chính là Chúa chăm lo cho dân. Con cái ông Gia-cóp cũng phải sang Ai-cập mua thóc lúa. Giu-se thử lòng và thấy họ đã biết sám hối tội lỗi. “Họ bảo nhau: “Than ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đã thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đã năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính vì thế mà chúng ta gặp cảnh ngặt nghèo này”. Vì thế, Chúa tha tội, và ông Giu-se đã cấp phát lúa gạo cho họ (năm lẻ).

Hô-sê vừa trách móc dân bội bạc vừa hiểu biết tình thương vô bờ của Thiên Chúa và thấy trước Thiên Chúa sẽ cứu độ dân Người. Tình thương Thiên Chúa thật lớn lao. Đã vun trồng Ít-ra-en thành cây nho “sum suê, trái trăng thật dồi dào phong phú. Nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng…” Chúa trừng phạt họ: “Thế là Sa-ma-ri tiêu tùng”. Ông khuyên nhủ dân chúng hãy ăn năn sám hối. “Hãy gieo công chính, rồi sẽ gặt được tình thương. Hãy khai khẩn đất hoang; đây là thời kiếm tìm Đức Chúa”. Và ông tiên báo Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ: “Cho đến khi Người đến làm mưa công chính trên các ngươi” (năm chẵn).

Đến thời đến buổi Thiên Chúa sai chính Con Một xuống trần cứu độ trần gian. Thật là một tình yêu lớn lao. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Thật là một sáng kiến vượt trí tưởng tượng của loài người. Dân cũ đã hư hỏng. Nên Chúa Giê-su lập ra một dân mới. Dân cũ phát sinh từ 12 chi tộc dòng dõi Gia-cóp. Dân mới cũng có 12 cột trụ là 12 tông đồ được Chúa tuyển chọn. Dân cũ bị những thần tượng ngoại lai cám dỗ. Bị ma quỉ khống chế. Dân mới được Chúa cứu khỏi ách nô lệ ma quỉ, xác thịt, thế gian. Đi đến đâu Người xua trừ ma quỉ đến đó. Các tông đồ tiếp tục công việc của Chúa. Vì Chúa “ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. Đi khắp nơi các ông rao giảng: “Nước Trời đã đến gần”.

Thật cao cả tình thương của Thiên Chúa. Thật lạ lùng sáng kiến của Thiên Chúa. Hôm nay Chúa cũng mời gọi tôi hãy giúp Chúa mở rộng Nước Thiên Chúa. Hãy xua trừ thần ô uế. Và chữa lành mọi bệnh tật. Vì thế giới hôm nay còn nhiều thần dữ thống trị. Và có rất nhiều chứng bệnh đo thần dữ và thế gian gây ra.

 

Suy Niệm 3: Chọn các Tông Ðồ

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta trở về cội nguồn của Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô, Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Kitô. Ðể thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để rao giảng Tin Mừng. Trong số các môn đệ ấy, Ngài đã chọn mười hai người làm Tông Ðồ và trở thành cột trụ của Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Nếu Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô, thì Giám mục đoàn mà đứng đầu là Ðấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là những người tiếp tục làm cột trụ của Giáo Hội.

Chúa Kitô quả thật đã thành lập một Giáo Hội hữu hình có phẩm trật, phẩm trật ấy hiện hữu không ngoài mục đích tiếp tục sứ mệnh Ngài đã ủy thác cho các Tông Ðồ. Do đó, tiếp nhận quyền bính trong Giáo Hội cũng chính là chấp nhận quyền bính mà Chúa Giêsu đã trao cho các Tông Ðồ. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Giáo Hội tông truyền, điều đó không chỉ có nghĩa là Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Ðồ, mà còn có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận quyền bính mà các Tông Ðồ đã truyền lại cho các đấng kế vị, tức Giám mục đoàn mà thủ lãnh là Ðức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô. Ðây chính là nền tảng sự hiệp thông trong Giáo Hội. Không thể nói đến hiệp thông khi một Giám mục đứng riêng rẽ bên ngoài Giám mục đoàn để truyền dạy những điều nghịch đức tin và luân lý của Giáo Hội, và cũng không còn là hiệp thông khi một tín hữu không tuân giữ quyền giáo huấn của Giám mục đoàn và của thủ lãnh Giám mục đoàn là Ðức Giáo Hoàng.

Dân chủ vốn là một phạm trù dễ bị lạm dụng. Ngay tại những nước có dân chủ thực sự, thì hai chữ “dân chủ” cũng bị lạm dụng không kém. Khi một luật pháp bất công như luật cho phép phá thai chẳng hạn được số đông bỏ phiếu tán thành, phải chăng đây không phải là một lạm dụng của trò chơi dân chủ. Giáo Hội luôn đề cao tinh thần dân chủ đích thực, nhưng Giáo Hội không hề là một chế độ dân chủ, trong đó các thành phần có thể bỏ phiếu chọn người lãnh đạo hoặc tán thành một khoản luật. Giáo Hội cũng chẳng là một tổ chức mà người ta có thể xếp vào bất cứ chế độ nào. Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Kitô, chân lý chúng ta phải tuyên xưng là do Chúa Kitô mạc khải và ủy thác cho các Tông Ðồ, và truyền lại cho các đấng kế vị các ngài. Luật phải giữ cũng chính là luật của Chúa Kitô đã ủy thác cho các Tông Ðồ và các đấng kế vị các ngài. Tiêu chuẩn cho biết một thành phần Giáo Hội có hiệp thông với Giáo Hội hay không, là tinh thần tuân phục đối với quyền bính của những đấng kế vị các Tông Ðồ.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta tinh thần khiêm tốn, để luôn luôn biết đón nhận và tuân phục giáo huấn của Ngài được ủy thác cho các Tông Ðồ và Giáo Hội. Xin Chúa gìn giữ Giáo Hội được hiệp thông quanh đấng kế vị thánh Phêrô mà Chúa đã đặt làm thủ lãnh Giáo Hội.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Một Hội Thánh bên ngoài Hội Thánh

Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Dọc đường hãy rao giảng rằng: “Nước Trời đã đến gần.” (Mt. 10, 1. 7)

Sai đi truyền giáo

Khi Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo, Chúa cho các ông một chỉ thị rất rõ ràng: “Tốt hơn là anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà It-ra-en”. Vậy là có những người mà các tông đồ phải ưu tiên đến với họ. Họ không phải là dân ngoại, cũng không phải là những người xa xăm chưa biết Chúa. Những người đầu tiên mà các môn đệ phải đi tới, đó là những đồng bào của các ông đang sống bất trung và tội lỗi. Các ông phải đến với họ. Các ông phải ra đi tiếp xúc gặp gỡ để loan báo cho họ biết rằng Nước Trời đã đến gần.

Hãy đi ra bên ngoài giáo hội

Chỉ thị trên đây của Chúa, ta hãy đem ra áp dụng đúng vào hoàn cảnh hôm nay của ta. Những người mà ta phải nói cho họ biết về Chúa, lại đang ở rất gần ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những người bà con lối xóm của ta. Họ là những người cùn nghề cùng sở làm với ta. Nhưng ta phải đến với họ nhân danh Chúa Giêsu, có nghĩa là vì hạnh phúc đời đời của họ mà ta phải đi bước trước, phải tới gõ cửa nhà họ để giới thiệu cho họ biết có một đấng luôn yêu thương họ, và quan tâm đến vận mệnh đời đời của họ. Bởi vì rất có thể là họ sẽ không đến với ta và Giáo hội.

Có một thời Giáo hội đã quá quen với nếp sống ù lì là thích tiếp nhận những kẻ đến với mình hơn là ra đi đến với họ. Thời đó nay đã qua rồi. Giáo hội không thể là một biệt khu khép kín. Các linh mục không thể chỉ luẩn quẩn làm việc trong nhà xứ. Các tín hữu không thể chỉ coi mình là những nhà truyền giáo cho những người đang sống trong lòng Giáo hội mà thôi. Đã đến lúc phải vượt ra bên ngoài Giáo hội, phải ra khỏi các phòng hội họp của giáo xứ để đi đến những nơi công cộng, để thâm nhập vào mọi nơi, mọi tầng lớp xã hội. Để chu toàn sứ mệnh của mình, Giáo hội phải tỏ mình ra và hành động ở bên ngoài các nhà thờ. Nếu chỉ có ở tại nhà thờ, ta mới biết làm chứng lòng tin của mình, thì thiết tưởng ta vẫn chưa phải là những chứng nhân theo như Chúa muốn.

 

Suy Niệm 5: “PHẢI TRUYỀN GIÁO” (Mt 10, 1-7)

Xem lại CN 11 TN A, thứ Sáu tuần 2 TN và thứ Tư tuần 25 TN

Truyền Giáo là bản chất của Giáo Hội. Nếu không truyền giáo, chúng ta đánh mất bản chất của mình. Vì thế, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II khẳng định “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, số 57). Bởi vì Giáo Hội coi: “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14).

Hôm nay, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ chung chia sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Sứ mạng ấy là: hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi hầu cho “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).

Cùng một sứ mạng, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta, những Kitô hữu, mỗi người một cách, hãy loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi bằng nhiều cách thế khác nhau để cho muôn dân được nhận biết Đức Giêsu và ơn cứu độ của Ngài mang lại.

Mong sao, lệnh truyền của Đức Giêsu “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15), và thái độ, ý thức về truyền giáo của thánh Phaolô cũng là của chính chúng ta: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9, 16).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội, để các ngài chu toàn bổn phận đã được trao phó, đồng thời, xin cho chúng con được trở nên môn đệ và được tiếp bước với Chúa trên cánh đồng mênh mông bao la hiện nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Sai đi loan báo Nước Thiên Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu sai các tông đồ và toàn thể Hội Thánh đi loan báo Nước Thiên Chúa đến gần, Chúa muốn chia sẻ chính sứ mạng của Chúa. Để ta chu toàn sứ mạng này, Chúa đã ban ơn chế ngự các thần ô uế.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, con được Chúa ban sự sống của Chúa, được làm con Thiên Chúa. Và đồng thời ngay lúc ấy, con cũng được Chúa trao ban sứ mạng cứu độ của Chúa. Chúa cho con trở nên một chứng nhân, một dấu hiệu của Nước Chúa, được trở nên ánh sáng cho thế gian, nên muối ướp cho đời, nên men thấm vào trong bột.

Đó là một ân huệ cao cả. Con dâng lời cảm tạ Chúa. Xin Chúa giúp con tích cực làm chứng cho Chúa trong môi trường sống của mình, trong gia đình, nơi giáo xứ, tại chỗ làm việc hay học tập của con. Chính trong môi trường sống hằng ngày mà Chúa đã sai con đến để loan báo Nước Trời đã đến. Xin cho con ý thức rằng mỗi lời con nói, mỗi công việc con làm, mỗi thái độ sống của con, đều có thể trở nên dấu chỉ của Chúa, đều có thể là tiếng loan báo sự hiện diện của Nước Trời.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ có quyền trên các thần ô uế. Hằng ngày con cũng được Chúa ban ơn thánh hóa để con được hiện diện giữa lòng đời như một yếu tố làm sạch cuộc sống. Để có thể góp phần thay đổi bộ mặt cuộc sống này, xin Chúa giúp con biết quý trọng và duy trì ơn thánh Chúa trong con. Xin giúp con sống trung thành với ơn gọi Kitô hữu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho các tông đồ sức mạnh chữa các bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng hôm nay, chính Chúa đã đích thân đến chữa lành tâm hồn con bằng Mình Máu Chúa. Con xin dâng lời tạ ơn và đón nhận hồng ân cao quý này. Amen.

Ghi nhớ: “Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel”.

 

Suy Niệm 7: Sứ mệnh loan báo nước Trời

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một cậu bé thăm bạn nằm trong bệnh viện. Họ nói chuyện về sinh hoạt ở bệnh viện Công giáo. Cậu bé hỏi: “Tại sao một số nữ tu mặc đồ trắng và một số khác lại mặc đồ đen?”.

Bạn cậu bé trả lời: “Ồ, những người mặc đồ trắng cho bạn thuốc uống, còn những người mặc đồ đen cầu nguyện cho bạn khi thuốc hết công hiệu”.

Suy niệm

Tin Mừng ghi nhận Chúa Giêsu gọi và chọn mười hai tông đồ với tên tuổi rõ ràng (x. Mt 10,1-6; Mc 3,13 -19; 6,7-13; Lc 6,12 -16; 9,1-6), nhóm Mười hai được giao sứ mạng đi đến với muôn dân và làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Đức Giêsu (x. Mt 28,19).

“Các anh hãy theo Tôi”, một lời mời gọi đến gặp, gắn bó với Đức Kitô là ánh sáng, là nguồn sống: “Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Ga 8,12), người môn đệ có tình yêu cứu độ, lên đường đem Tin Mừng ánh sáng cứu độ cho mọi tâm hồn…

Chính nhờ lời rao giảng gương sáng cuộc sống của người môn đệ, thế gian nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa như Đức Kitô đã nói với những người Ngài tuyển chọn: “Các con là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian” (Mc 9,50; Lc 14,34-35).

Mọi người được mời gọi đích danh trở nên môn đệ và trong ơn gọi làm môn đệ như Chúa Giêsu khẳng định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái anh em tồn tại” (Ga 15,16).

 Sứ mệnh loan báo nước Trời này không chỉ dành cho các tông đồ nhưng cho hết mọi người, mỗi người một cách, loan báo về Ðức Giêsu, nước Chúa…

Thật thế, Chúa đang thì thầm gọi tôi, gọi bạn, Ngài gọi đích danh mỗi người “hãy theo Ta”. Theo Ngài để khám phá tình yêu, trở nên môn đệ và được sai đi…

Ý lực sống:

“Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8).

 

Suy Niệm 8: Chúa sai 12 Tông đồ đi rao giảng (Mt 10,1-7)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ và sai các ông đi loan báo Nước trời đã gần đến. Sứ mệnh này không phải chỉ dành riêng cho các Tông đồ hoặc những người có trách nhiệm mà cả chúng ta nữa, những người Kitô hữu, mỗi người một cách, phải loan báo về Chúa Giêsu và kêu mời mọi người vào trong Giáo hội, vào trong tình yêu của Chúa.

Theo truyền thống, bất cứ một bậc thầy nào cũng cần có các môn sinh, môn đệ để tiếp tục lý tưởng và sự nghiệp của mình. Các bậc hiền nhân trong lịch sử và các tiên tri trong Cựu ước có các môn đệ, thánh Gioan Tiền hô cũng có nhiều môn đệ. Chúa Giêsu cũng vậy, trong ba năm giảng dạy, Chúa đã kêu gọi nhiều môn đệ, trong số đó Chúa chọn 12 người làm Tông đồ, để tiếp tục sự nghiệp cứu rỗi nhân loại mà Ngài đã khởi đầu.

Chúa gọi và chọn chứ họ không tự mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị trí cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.

Có lẽ chẳng ai trong chúng ta xa lạ với xuất xứ của các Tông đồ: đa số họ là những ngư phủ nghèo nàn, thất học. Họ được chọn từ đám đông giai cấp lao động, trong số họ cũng có hai khuôn mặt tiêu biểu cho sự tranh chấp của xã hội Do thái lúc đó: Mátthêu người thu thuế và Simon nhiệt thành. Nhóm Nhiệt thành cương quyết chống ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ lề luật, còn đám thu thuế thì lại chạy theo ngoại bang, hợp tác với những kẻ đang thống trị xứ sở để trục lợi.

Có thể nói, những người mà Chúa Giêsu chọn lựa tiêu biểu cho sự thấp kém trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài vẫn tuyển chọn, vì đường lối Thiên Chúa khác với đường lối con người. Điều Ngài cần nơi họ không phải là cái đang là, mà là cái sẽ là. Họ tầm thường khiếm khuyết, nhưng với ơn Chúa, họ sẽ làm nên được những việc phi thường (Mỗi ngày một tin vui).

Chúng ta thấy: mười hai Tông đồ yếu kém về mọi mặt, thế mà đã thay đổi được cả một đế quốc Rôma và cả thế giới sau này nữa. Quả thật, khi Chúa còn sống bên cạnh, các ông còn quê mùa, hay sợ sệt, tham vọng tầm thường, và khi Chúa chết, các ông bỏ trốn vì sợ liên luỵ. Thế mà sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông can đảm, khôn ngoan, đấu lý với hết mọi bậc người, ra tù vào khám vì danh Chúa, và các ông đã xây dựng nước Chúa ngay tại nơi đế quốc đã từng tiêu diệt Thầy mình và cả các ông nữa.

Tại sao họ yếu kém như thế mà dám đương đầu với những thế lực kình địch và biến đổi được cả thế giới như vậy? Thưa, họ đã trở thành những dụng cụ hữu hiệu trong bàn tay Thiên Chúa toàn năng, Ngài làm được mọi sự Ngài muốn. Còn các Tông đồ thì có một đức tin vững mạnh, nếu các ông không tin vào quyền năng Thiên Chúa đã lựa chọn các ông, ở với các ông, hỗ trợ các ông, chắc chắn các ông không bao giờ dám nhận một công việc to lớn và nặng nề như thế.

Chúa cũng sai chúng ta đi vào đời đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người như Chúa đã sai các Tông đồ ngày xưa, đấy là vinh dự và bổn phận của các Kitô hữu.

Nếu công đồng Vatican II khẳng định: “Bản chất của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có trách nhiệm như Hội thánh. Những lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ ngày xưa vẫn còn vang vọng nơi chúng ta, vẫn còn có tính cách thời sự của nó. Chúa muốn chúng ta đi vào cánh đồng truyền giáo rộng rãi bao la bát ngát để đem nhiều người về với Chúa. Cảm xúc của Chúa Giêsu đứng trước cánh đồng lúa chín vàng ối “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít” cũng phải là cảm xúc của chúng ta đứng trước tình hình thế giới hiện nay: chúng ta hãy xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin mừng đến cánh đồng truyền giáo, đồng thời chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc loan báo Tin mừng bằng chính “cuộc sống chứng tá” của chúng ta.

Truyện: Chúa chọn họ làm Tông đồ

Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn được một ai.

Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: Nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.

Chán nản vì mất thời gian vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hết lực vào công việc họ đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng, họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài (Chờ đợi Chúa).

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Bài Phúc Âm này có ba ý:

  1. Chúa Giêsu ban quyền cho nhóm 12: họ có quyền trên các thần ô uế và có quyền chữa lành các bệnh tật.

Đây chính là những quyền của Chúa Giêsu (x. Mt 9,35), cho nên nhóm 12 có cùng những quyền với Chúa Giêsu… Hơn nữa nếu so với Mt 4,17 (tóm sứ điệp Chúa Giêsu rao giảng) với câu cuối cùng của đọc Phúc Âm này (“các con hãy đi rao giảng rằng Nước trời đã gần đến”) thì các ông cũng rao giảng cùng sứ điệp như Chúa Giêsu. Như thế danh dự của người giảng Phúc Âm là có cùng quyền năng như Chúa Giêsu và giảng cùng một sứ điệp như Ngài.

  1. Trong danh sách 12 tông đồ chúng ta thấy. Họ xuất thân từ nhiều nơi và từ nhiều thành phần khác nhau, đa số là nghèo, ít học và không có địa vị cao trong xã hội.
  2. Những chỉ dẫn đầu tiên về cách cư xử:

– Đừng đến với dân ngoại nhưng chỉ đến với chiên lạc nhà Israel

– Nội dung rao giảng: ”Nước trời đã gần đến”.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Chúa Giêsu không chọn những người tài cao học rộng giàu sang và có địa vị xã hội cao, mà chọn những người có tấm lòng và có thiện chí. Hai điều này là đủ, mọi điều khác Chúa sẽ lo.
  2. Một tác giả tưởng tượng việc Chúa chọn các tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào, Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài cũng không chọn được ai.

Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.

Chán nản vì mất thời giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hồn vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài. (Trích “Chờ đợi Chúa”).

  1. Con số 12 tông đồ: Theo Thánh Agustinô và R. Maur thì con số 12 là nhân lên bởi 3 và 4. Con số 3 là chỉ sự hoàn hảo như 3 Ngôi, Chúa chết 3 ngày đêm. Con số 4 là chỉ bốn phương trời. Vậy nếu con số 3 là hoàn hảo, được nhân lên 4 lần càng hoàn hảo. Ngoài ra Thánh Kinh còn nói Giacob có 12 người con nắm quyền trị vì 12 cho tộc Israel. Sách Khải huyền mô tả nước trời là một Giêrusalem ngợp đầy ánh sáng huy hoàng có 12 cửa, và trên cửa có 12 thiên thần (Kh 21,12). Tóm lại con số 12 ám chỉ sự khiêm hạ và trưởng thành dần dần.

12 tông đồ khác biệt nhau về tính tình, học thức, nghề nghiệp và lòng tin. Đa số là người miền Bắc Do Thái, có mình Giuda ở miền nam. Các tông đồ làm thành một nhóm gọi là Tông đồ đoàn. Ngày nay Giáo hội cũng được tổ chức rập khuôn như thế là trên hết có Đức giáo hoàng và dưới là các Giám mục năm châu.

  1. Mười hai tông đồ còn rất non yếu nên Chúa Giêsu không sai họ đến với những đối tượng khó khăn (dân ngoại), mà chỉ đến với những người Israel trước. Chúa không giao sứ mạng quá sức con người đâu. Cho nên tôi đừng ngần ngại và sợ hãi gì cả.
  2. Chúa cũng chọn Giuđa, cũng ban quyền cho Giuđa và cũng sai Giuđa đi rao giảng Phúc Âm. Nghĩa là Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng vào Giuđa. Nhưng Giuđa không đáp lại niềm tin tưởng và hy vọng của Chúa.

Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng vào con, xin cho con đừng phụ lòng Chúa.

  1. Sứ mạng của người rao giảng Phúc Âm là đẩy lùi sự xấu (xua đuổi các thần ô uế) và cứu chữa những khổ đau (chữa lành những người bệnh).
  2. “Chúa Giêsu gọi 12 môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trước các thần ô uế, để các ông trừ khử chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. (Mt 10,1)

Vào thời Chúa Giêsu, người ta quan niệm người bị tật nguyền là người tội lỗi và làm điều ô uế. Nhưng theo Chúa Giêsu, những người đó được sinh ra là để làm sáng danh Chúa, và chính Ngài đã từng chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Ngài cũng đã cảm hoá được nhiều người tội lỗi trở về với Chúa Cha.

Ngày nay, sự ô uế hiện ở nhiều mặt: dối trá, tham lam, trộm cắp, ăn chơi sa đoạ… Cánh cửa ô uế vẫn luôn luôn mở và tồn tại song song với cánh cửa Nước trời. Chính vì thế, sau khi Phục sinh Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ một đặc ân là: trừ khử mọi ô uế và chữa lành mọi bệnh tật.

Đặc ân ấy ngày nay không chỉ dành riêng cho 12 tông đồ mà cho mọi tín hữu. Mỗi Kitô hữu phải nhận lấy nhiệm vụ trừ khử ô uế nơi chính mình và giúp anh em thoát khỏi mọi điều ô uế.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ quyền trừ khử ô uế nhằm làm Sáng Danh Chúa, thì xin Chúa cũng ban thêm cho con sức mạnh để trừ khử ô uế nơi chính bản thân con, sống tốt hơn và yêu mến Chúa hơn. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Bài Tin Mừng hôm nay có ba ý:

– Chúa Giêsu ban quyền cho nhóm 12: họ có quyền trên các thần ô uế và có quyền chữa lành các bệnh tật.

– Sau đây là những chỉ dẫn đầu tiên về cách cư xử mà các tông đồ phải theo:

* Đừng đến với dân ngoại nhưng chỉ đến với chiên lạc nhà Israel.

* Nội dung lời rao giảng là: “Nước Trời”.

– Hãy loan báo cho mọi người là “Nước Trời đã gần đến” (Mt 10,7).

Vâng, trước khi Chúa Giêsu sai các tông đồ đi thực tập rao giảng, Chúa đã ban quyền cho các ngài. Nói một cách cụ thể hơn, Chúa Giêsu chia sẻ quyền của Ngài cho nhóm 12. Như vậy, nhóm 12 cũng được dùng những quyền của Chúa Giêsu (Mt 10,1).

   Hơn nữa, nếu đem so với Mt 4,17: Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” với câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng này: “Các con hãy rao giảng rằng, Nước Trời đã gần đến” thì chúng ta thấy các ông cũng rao giảng cùng một sứ điệp như Chúa Giêsu. Như vậy là người rao giảng Tin Mừng vừa có cùng một quyền năng như Chúa Giêsu mà còn cùng phải rao giảng một sứ điệp như Chúa. Đó là một vinh dự rất lớn lao.

  1. Chúa Giêsu không chọn những người tài cao, học rộng, giàu sang và có địa vị xã hội, mà lại chọn những người có tấm lòng và có thiện chí. Vâng, chỉ cần hai điều này thôi, còn mọi điều khác Chúa sẽ lo.

Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào, Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn được ai.

Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.

Chán nản vì mất thời giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hết lực vào công việc đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài. (Chờ đợi Chúa).

Chúa cũng chọn Giuđa, cũng ban quyền cho Giuđa và cũng sai Giuđa đi rao giảng Tin Mừng. Nghĩa là Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng vào Giuđa. Nhưng Giuđa không đáp lại niềm tin tưởng và hy vọng của Chúa.

Sứ mạng của người rao giảng Tin Mừng là “xua đuổi các thần ô uế tức là đẩy lùi sự xấu và “chữa lành những người bệnh” tức là cứu chữa những người khổ đau, đau khổ nơi thân xác cũng như đau khổ trong tâm hồn. Kết quả là “Các ông đã trừ khử được thần ô uế và cũng chữa hết được các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1).

Còn chúng ta hôm nay thì sao? Sứ mạng loan báo cho mọi người biết Tin Mừng của Chúa Giêsu phải được thực hiện cho đến ngày tận thế.

Phải nói rằng, ngày hôm nay, sự ô uế vẫn còn hiện diện ở khắp nơi dưới rất nhiều khuôn mặt: dối trá, tham lam, trộm cắp, ăn chơi sa đọa. Cánh cửa ô uế vẫn luôn luôn mở rộng và tồn tại song song với cánh cửa Nước Trời. Nếu xưa kia, sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ một đặc ân là: trừ khử mọi ô uế và chữa lành mọi bệnh tật thì đặc ân ấy, hôm nay Chúa cũng ban cho mọi người tín hữu chúng ta như vậy. Mỗi người Kitô hữu phải nhận lấy trách nhiệm của mình trong việc làm giảm đi những khổ đau, những bất hạnh, những nỗi nhục của anh em mình để tất cả được sống một cuộc sống xứng đáng là con Thiên Chúa hơn.

Sáng thứ bảy, 13/9/97, tại Sân Vân Ðộng Netaji của thành phố Calcutta, với sức chứa khoảng 15 ngàn người, Ðức Hồng Y Angelo Sodano, quốc vụ khanh Tòa Thánh, và là Ðặc sứ của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cầm đầu phái đoàn Tòa Thánh, đã chủ sự thánh lễ An Táng Mẹ Têrêsa thành Calcutta, cùng với 3 vị Hồng Y, 30 vị Giám Mục và khoảng 170 linh mục đến từ 14 quốc gia. Ba vị Hồng Y cùng đồng tế với Ðức Hồng Y Sodano, là Ðức Hồng Y Lourdusamy, người Ấn Ðộ, cựu tổng trưởng bộ Giáo Hội Ðông Phương; Ðức Hồng Y Pimenta, cựu Tổng Giám Mục Bombay; và Ðức Hồng Y Jean Claude Turcotte, Tổng Giám Mục Montreal, Canada. Trong bài giảng thánh lễ, phần kết, Ðức Hồng Y Angelo Sodano đã nói: “Mẹ Têrêsa đã thắp lên ngọn lửa tình yêu thương, mà những người con tinh thần của mẹ, nam cũng như nữ, những nhà truyền giáo của tình bác ái, từ nay cần tiếp tục giữ cho ngọn lửa đó cháy sáng mãi. Thế giới ngày nay đang hết sức cần ánh sáng và sự nồng ấm của ngọn lửa này”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con trở thành dụng cụ của tình yêu thương. Amen.

 

 

THỨ NĂM TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 10, 7-15

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:

“Các con hãy đi rao giảng rằng “Nước Trời đã gần đến”. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.

“Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy”.

 

Suy Niệm 1: Chúc bình an

Suy niệm:

Trước khi sai các Tông Đồ lên đường truyền giáo,

Thầy Giêsu đã dặn dò họ nhiều điều.

Họ được sai đến với ai: với những đồng bào của họ là người Israel.

Sau này họ mới được sai đến với dân ngoại, với mọi dân tộc (Mt 28, 20).

Họ đến để làm gì: rao giảng về Nước Trời gần đến,

chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết, khử trừ ma quỷ ra khỏi lòng người (c. 8).

Họ đến để đem lời chúc bình an cho những ai mở lòng lãnh nhận (c. 12).

Họ không nên mang theo những gì: tiền vàng, bạc hay đồng để giắt lưng,

bao bị để đựng đồ, hai áo để thay đổi, giày dép để bảo vệ đôi chân,

cả chiếc gậy vừa để đi đường xa, vừa đề phòng nguy hiểm (cc. 9-10).

Cách hành xử của họ cũng được Thầy nói rõ.

Họ làm mọi việc mà không đòi bất cứ điều gì để trả công.

“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (c. 8).

Họ đã nhận được Nước Trời như một món quà,

họ cũng muốn trao đi như một quà tặng.

Điều duy nhất họ mong là được người ta lo cho thức ăn, chỗ ở.

“Vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (c. 10).

Khi nghe lời dặn dò của Thầy Giêsu,

chúng ta thấy ngay mẫu người tông đồ mà Thầy mơ ước.

Đó là con người bị cuốn hút bởi những bận tâm về Nước Trời,

nên siêu thoát khỏi mọi vướng bận trần tục.

Nước Trời phong phú và giàu có đủ làm họ mãn nguyện,

nên họ coi nhẹ chuyện ở, chuyện mặc, chuyện ăn.

Chính lối sống đơn sơ giản dị, thậm chí thiếu thốn của họ,

là một lời chứng về những gì trên cao.

Họ cũng phải chấp nhận mình có thể bị từ chối, không được đón tiếp.

Một thành, một làng hay một nhà có thể không chấp nhận Tin Mừng,

và họ phải khiêm tốn tìm đến nơi thuận lợi hơn (c. 14).

Các tông đồ thế kỷ 21 hẳn không thể sống theo nghĩa đen những lời trên đây,

nhưng cũng không được gạt bỏ tinh thần mà Đức Giêsu vẫn muốn ta giữ mãi.

Nhẹ nhàng, thanh thoát, khó nghèo, phó thác, không tính toán lợi danh,

gieo rắc niềm vui và an bình, chữa lành và giải phóng con người khỏi nô lệ.

Và trên hết là một lòng yêu mến Thiên Chúa nồng nàn,

và một lòng yêu thương cháy bỏng đối với đoàn chiên vất vưởng bơ vơ.

Đó vẫn là hành trang muôn thuở của người tông đồ qua mọi thời đại.

Thời nay người tông đồ được trang bị nhiều phương tiện hiện đại,

với những cơ sở vững vàng, với số vốn ổn định, với tri thức bằng cấp đầy đủ.

Những điều đó vẫn không khiến chúng ta bỏ rơi tinh thần của Thầy Giêsu.

Bởi lẽ mất tinh thần của Thầy, chúng ta chẳng còn là tông đồ nữa.

Thánh Phanxicô Assisi đã bị đánh động khi đọc đoạn Tin Mừng này.

Và ngài đã muốn đưa Giáo hội trở lại với lối sống nghèo khó.

Rất có thể việc truyền giáo của chúng ta ở châu Á chưa có kết quả

chỉ vì chưa có những tông đồ dám sống triệt để lời dặn dò của Thầy Giêsu.

Mà lời dặn dò của Thầy lại rất hợp với tinh thần của người châu Á.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách:

những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;

những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng còn trong tinh thần nữa,

bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“Điều mà ngươi làm

cho người bé mọn nhất trong anh em

là làm cho chính Ta” (Chân phước Têrêxa Calcutta)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Trái tim Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa có trái tim dễ rung động. Đó là điều Hô-sê khám phá. Người yêu Ít-ra-en bằng tình yêu dịu dàng, tha thiết và trìu mến. “Khi Ít-ra-en còn non trẻ, Ta đã yêu nó…Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó…Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má”. Tuy Ép-ra-im từ chối, nhưng Chúa không thể không yêu: “Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành! Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi”. Thật là một trái tim yêu thương tha thiết. Không thể từ bỏ dù bị phản bội (năm chẵn).

Giu-se là người của Chúa. Ông hiểu chương trình của Chúa. Nên ông cũng mang trái tim của Chúa. Vì thế, tuy bị anh em ghen ghét bán sang Ai-cập nhưng ông không hề oán hận. Trái lại khi gặp anh em, ông xúc động không cầm được nước mắt. Tha thứ hết mọi tội lỗi của anh em. An ủi anh em vì đây là kế hoạch của Chúa. Và chủ động làm hoà, để anh em sống trong tình huynh đệ chan hoà: “Ông Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông…Ông oà lên khóc…nói với anh em: ‘Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Theien Chúa đã gửi tôi đi trước anh em”. Thật là một trái tim quảng đại, yêu thương, tha thứ (năm lẻ).

Chúa Giê-su mong ước người môn đệ của Chúa cũng có trái tim của Chúa. Một trái tim tràn đầy yêu thương. Đi cứu vớt những con chiên lạc: “Anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Một trái tim nhân hậu thương xót. Cúi xuống những lầm than khốn khổ của con người. Để chữa lành. Để giải phóng. Để vỗ về: “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ”. Một trái tim yêu thương vô vị lợi không đòi đền đáp: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Một trái tim trong sạch, không vướng mùi tiền bạc vật chất: “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày dép hay cầm gậy”. Người môn đệ đi rao giảng Nước Trời. Không cậy dựa và càng không tìm kiếm hay bám víu vào những giá trị trần gian. Hành trang duy nhất chỉ mang theo trái tim của Chúa. Đi đến đâu đem bình an đến đấy: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy”.

Chỉ cần có trái tim của Chúa người môn đệ giới thiệu Nước Thiên Chúa đã đến. Vì khi mang trái tim của Chúa các ngài đã ở thiên đàng rồi.

 

Suy Niệm 3: Chỉ thị truyền giáo

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ một số chỉ thị cụ thể liên quan đến việc thi hành sứ mệnh đã lãnh nhận. Trước hết, về chính việc rao giảng Tin Mừng: Hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong cùi được khỏi bệnh và khử trừ ma quỷ. Vì là người được Chúa ủy thác, nên phải thi hành đúng chỉ thị của Ngài: rao giảng Nước Trời, cứu vớt những người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội.

Liên hệ đến tâm thức và cách sống của nhà truyền giáo, Chúa Giêsu nói đến tính cách nhưng không của việc hiến thân, tinh thần vị tha, giao tiếp hiền hòa với những ai đón nghe lời rao giảng cũng như với những ai từ chối. Ðã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Ðừng mang vàng bạc, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy hay cầm gậy. Vì thợ thì có quyền được nuôi ăn. Khi vào nhà nào thì hãy chào thăm và chúc lành cho nhà đó.

Chúa Giêsu không những ủy thác việc rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, Ngài còn muốn đời sống các ông phù hợp với lời giảng dạy. Nội dung cốt yếu của sứ điệp không do quyết định tự do hoặc sáng kiến của người rao giảng, mà là do chính Chúa Giêsu ấn định, đó là Nước Trời. Người được sai đi với tư cách là thừa tác viên phải thi hành đúng như Chúa đã truyền. Ngài mời gọi họ dấn thân sống đầy đủ mỗi ngày lý tưởng truyền giáo và lý tưởng của người môn đệ. Ðiều quan trọng phải nhớ là hành trang của nhà truyền giáo khi theo Chúa Giêsu là lời của Ngài và đời sống nghèo khó của Ngài. Tất cả những sự khác phải được coi là dư thừa, nhiều khi còn là ngăn trở cho việc truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy rằng những ai dấn thân sống nghèo khó và hy sinh cho người khác, sẽ được Chúa cho lại gấp trăm.

Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức sứ mệnh Chúa đã trao và quảng đại dấn thân để góp phần mở rộng Nước Chúa nơi trần gian. Xin giải thoát chúng ta khỏi những hành trang vô ích, dư thừa, cản trở việc rao giảng Tin Mừng, để chúng ta không lạc bước trong khi thi hành sứ mệnh cao cả đã lãnh nhận.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Gieo vãi khắp nơi

“Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. Đừng sắm vàng bạc, hay tiền đồng để giắt lưng.” (Mt. 10, 8-9)

Những thất vọng lớn nhỏ

Còn gì đáng thất vọng hơn là ủ một thúng cơm rượu, mà chẳng thấy nó lên men, gieo hạt lúa xuống ruộng, mà hạt vẫn nằm trơ không nảy mầm, trồng một cây bông trong vườn, mà chẳng thấy cây trổ bông bao giờ.

Còn đáng buồn hơn nữa là khi ta đã khó nhọc gieo hạt giống Nước Trời, đã cố gắng quảng bá Tin mừng, thế mà lại chẳng được nhìn thấy kết quả của những nỗ lực kia. Nhiều linh mục cũng như giáo dân đang hoạt động mục vụ cách này cách khác, thường có cảm giác như mình đang làm việc luống công. Đã chẳng được ai nghe theo, lại còn bị nhiều người tỏ ra lãnh đạm hoặc chống đối. Thế là họ đâm ra chán nản, muốn buông xuôi.

Đừng lên cơn đau tim

Trong đoạn Phúc âm chúng ta vừa đọc, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết là người ta sẽ không đón tiếp các ông. Nhiều người sẽ không muốn biết gì về các ông. Có kẻ sẽ đóng chặt cửa nhà khi vừa thoáng thấy bóng dáng của các ông.

Chúa kêu gọi các môn đệ đừng quá lo lắng bồn chồn, đừng mất bình tĩnh, đừng kích thích cơn đau tim. Những chuyện đó phải có thôi. Nếu người ta không đón tiếp, hãy phủi bụi chân và đi nơi khác. Nếu hạt gieo chỗ đất ấy không mọc lên, đừng ngần ngại đi gieo vãi trên những mảnh đất mới khác.

Chớ gì đây là nguyên tắc để ta hành động. Dừng đâm đầu vào tường, vì có ích gì; đừng như trái banh xì hơi vì sẽ không lăn được như ta muốn. Thiên Chúa yêu cầu ta cứ rộng tay gieo vãi, gieo vãi muôn nơi không biết mệt mỏi. Nếu chuyện ta trù tính không tién hành được, hãy tính đến chuyện khác. Nếu những người ta muốn đem tin mừng đến cho họ, lại bịt tai không muốn nghe, hãy nói cho người khác. Ta cứ gieo đi, gieo khắp nơi. Chưa vội nghĩ đến mùa thu hoạch.

 

Suy Niệm 5: CĂN TÍNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (Mt 10, 7-15)

Xem lễ thánh Banaba Tông Đồ ngày 11/6

Đức Giêsu đã trao truyền cho các môn đệ sứ mạng và sự nghiệp của chính Ngài.

Thật vậy, hôm nay, như một người thầy nhắn nhủ các môn sinh của mình trước lúc lên đường, Đức Giêsu trao cho các ông quyền trên mọi thần ô uế, để các ông chữa lành, và củng cố lời giảng của mình, hầu cho lời giảng có giá trị và thuyết phục, đồng thời để lời nói và hành động không bị mâu thuẫn.

Sau đó, Đức Giêsu đã căn dặn các ông về căn tính của người môn đệ:

Trước tiên là nhiệm vụ của người ra đi: người được sai đi là để loan báo Tin Mừng chứ không phải là loan báo tin buồn, đồng thời sai đi để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền chứ không phải gieo rắc đau thương.

Thứ hai là tinh thần của người ra đi: người được sai đi sẽ gặp không ít khó khăn, nên cần phải tin tưởng, trao phó mọi sự nơi Chúa. Ra đi trong tinh thần thanh thoát, không cần phải cồng kềnh và quá lo lắng cho ngày mai. Hãy là người tôi tớ phục vụ, bởi vì: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”.

Thứ ba là thái độ của người ra đi: người môn đệ muốn được thành công thì phải mặc lấy thái độ của hạt lúa, tức là tự hủy ra không, phải nhân từ để “ngửi thấy mùi chiên” và “mang mùi chiên nơi mình”. Không ngại khổ, ngại khó và cần phải hy sinh. Luôn quan tâm đến người khác hơn là nghĩ về mình.

Thứ tư là lập trường của người ra đi: sống trong một xã hội chủ chương vô thần, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi tư tưởng, nhận thức của con người. Lập trường của họ là không có Thiên Chúa, cũng chẳng có niềm tin… Vì thế, họ không ngần ngại uốn nắn và tìm đủ mọi cách dưới nhiều hình thức tinh vi để gây nên những hoang mang, thất vọng. Bên cạnh đó là những trào lưu tục hóa, những văn hóa phẩm đồi trụy… nhằm gieo rắc những chân lý nửa vời và làm cho con người lấn sâu trong tội mà không biết! Và cũng những con người đó, họ muốn loại bỏ người môn đệ của Chúa, vì thế, cái chết là kết cục cuối cùng của người môn đệ. Số phận của người môn đệ là: như chiên đi vào giữa bầy sói.

Tuy nhiên, lập trường của người môn đệ, trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ và không có cách nào được phép đồng lõa, thỏa hiệp để chỉ vì mục đích “rẻ tiền” nhằm được yên thân. Lập trường của người môn đệ còn là hiện diện và sống những giá trị Tin Mừng cách thực tế chứ không chỉ lo cái gọi là bề ngoài cho thật “hoành tráng” theo thói đời, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.

Thứ năm là chiến lược của người môn đệ: được mời gọi hiện hữu giữa thế gian nhưng không bị thế gian điều khiển và đẩy đưa để dẫn đến cái gọi là: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Phải khôn như rắn để xây dựng, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội, và phải hiền lành, đơn sơ như chim bồ cầu trong tinh thần huynh đệ.

Cuối cùng, lời chào của người ra đi là lời chúc bình an của Chúa chứ không phải là những gợi ý, mong muốn để được nâng đỡ cách này hay cách khác mang tính phàm tục.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên môn đệ đích thực của Chúa như lòng Chúa mong ước. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Rao giảng – phó thác hoàn toàn vào Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng với hai bàn tay trắng, vì Ngài muốn kẻ được sai đi luôn tin tưởng, phó thác, lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa đòi hỏi họ thật gắt gao, và lệnh truyền của Chúa thật quyết liệt. Con rùng mình khi đọc lại trang Tin Mừng này. Chúa có quyền làm như thế, vì các tông đồ là kẻ được sai đi, là người có bổn phận làm điều Chúa đòi hỏi.

Ngày nay Chúa cũng sai con đi vào thế giới với tư cách người tông đồ. Chúa biết rõ con ngại ngùng nhưng Chúa không rút lại lệnh truyền. Chúa biết con do dự nhưng Chúa vẫn đòi hỏi gắt gao. Hành trang Chúa cho mang theo chỉ là hai bàn tay trắng, cùng với lòng tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào quyền năng Chúa. Và nếu ra đi với hai bàn tay trắng, nhưng khi trở về nặng trĩu những hoa trái thành công, con cũng không dám tự mãn kể công, vì tất cả đều là ân huệ Chúa ban. Ngay cả khi ra đi với hai bàn tay trắng và trở về vẫn với bàn tay không, con cũng không mặc cảm buồn sầu, nhưng phó thác tất cả nơi Chúa. Vì thế, lạy Chúa, con không còn bận tâm đến thành công hay thất bại, nhưng chỉ quan tâm một điều duy nhất là: thực hiện điều Chúa muốn với tất cả tấm lòng nhiệt tình mến yêu.

Lạy Chúa, việc rao giảng Tin Mừng thành công không phải vì con có nhiều tiền bạc, không phải vì con có nhiều tài cán khả năng. Xin Chúa giúp con luôn biết giữ tâm hồn siêu thoát, nhẹ nhàng, trên đường phục vụ trong khiêm tốn. Xin giúp con làm tròn nhiệm vụ của mình trong gia đình, trong đoàn thể, trong giáo xứ, như một quyết tâm sống Lời Chúa dạy, như một thực hành đúng sứ mạng Chúa truyền ban. Amen.

Ghi nhớ: “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.

 

Suy Niệm 7: Rao giảng nước tình yêu, công chính và bình an

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm trang, suy tưởng về Chúa…

Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh: Thưa cha, giảng ở đâu ạ? Cha thánh trả lời: Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.

Suy niệm

Lời Thầy không luôn vang mãi mọi thời đại vì nhu cầu của cánh đồng truyền giáo thế giới luôn mang tính cấp bách: “Các con hãy ra đi…”.

“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, ra đi thoát khỏi cái tôi ích kỷ, chỉ quanh quẩn cho chính mình, nhưng cất bước lo cho sứ mạng gieo giống Tin Mừng, làm việc trên cánh đồng truyền giáo.

Ra đi và nói lớn cho thế giới: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”, đó là nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an. Cho nên phải chuẩn bị, bằng tâm tình sám hối, như Gioan Tẩy giả loan báo (x. Mt 3,3), như chính Thầy cũng loan báo (x. Mt 4,12 -17; Mc 1,14-15; Lc 4,14 -15). Lo việc nước Trời và công chính trước tiên (x. Mt 6,33).

Ra đi và “Hãy chữa những người đau yếu trong thành”, môn đệ như thầy chí thánh quan tâm chia sẻ đến người đau khổ, chữa lành bệnh tật, mang hạnh phúc cho mọi người. Thật thế, người môn đệ của Chúa luôn quan tâm đến những nhu cầu được chữa lành, chia sẻ cho anh em đồng loại như sau này Phaolô đã cảm nghiệm và chia sẻ: “Vui với người vui, khóc với người khóc…” (Rm 12,15). Và tại Cửa Đẹp đền thờ, thánh Phêrô thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất: “ “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi! “… anh trở nên cứng cáp” (Cv 3,6-7).

Ra đi “đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”, nhưng tín thác hoàn toàn vào Thầy, sống nghèo khó, thanh thoát trước các phương tiện của con người… và không lo lắng thái quá về vật chất, nhưng luôn chú tâm vào sứ mạng được sai.

Ra đi và khi “vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”. Những người mang sứ mạng Tin Mừng luôn mang và quan tâm tới sự an bình và chuyển giao bình an Tin Mừng mà mình sở hữu trong tư cách sứ giả Tin Mừng cho gia đình, cộng đồng và những con người mà mình gặp. Sự bình an sẽ chiến thắng lo âu, sợ sệt… sinh niềm vui tâm hồn… Sự bình an như ngôn sứ Isaia loan báo bằng hình ảnh: “Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ” (Is 66,12).

Lời mời gọi ra đi làm việc trên cánh đồng truyền giáo của Chúa xa xưa cũng là lời mời gọi dành cho mỗi người chúng ta trong cộng đoàn tín hữu. Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo”.

Ý lực sống:

Ra đi cứu độ – gieo bác ái,

Sứ mạng tông đồ tỏa thơm hương.

 

Suy Niệm 8: Chúa huấn dụ các Tông đồ (Mt 10,7-15)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Sau khi gọi 12 Tông đồ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền, Chúa Giêsu huấn dụ các Tông đồ nhiều điều khi sai các ông đi thực tập truyền giáo.

Trong huấn dụ truyền giáo, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ khi đi truyền giáo thì “đừng mang gì cả”. Người tông đồ của Chúa không được lệ thuộc vào vật chất, nhưng cần nhẹ nhàng thanh thoát như một người lữ hành. Hơn nữa, một người loan báo Tin mừng phải hoàn toàn tin tưởng, phó thác nơi Chúa quan phòng.

Bài Tin mừng hôm nay đặc biệt hoạ lên chân dung của một vị Tông đồ của Chúa Giêsu trong sứ vụ rao giảng

Tin mừng: mang sứ điệp Nước trời, chữa lành người đau yếu, sống khó nghèo và đem bình an đến cho mọi người. Vậy Chúa Giêsu sai mười hai Tông đồ đi thực tập truyền giáo tới nơi nào? Dặn dò các ông mang những gì? Truyền cho các ông phải nói gì? Phải có thái độ nào khi người ta tiếp đón hay không tiếp đón, thậm chí còn bị người ta xua đuổi… Đó là những điều chúng ta cần tìm hiểu trong bài này.

Trước hết, Chúa bảo các ông phải rao giảng Nước trời. Đó là nội dung sứ điệp các ông phải giảng dạy. Nước trời đã được Ngài loan báo và thiết lập, nghĩa là với sự xuất hiện của Ngài, Nước trời không còn xa xôi, cũng không còn là lời hứa, nhưng đã hình thành trong thời gian qua sự hiện diện của Ngài, đã đến cùng với Ngài, chính Ngài thiết lập Nước trời ở trần gian.

Tiếp đến là khi đi truyền giáo, Chúa bảo các ông phải hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa, nghĩa là người môn đệ ra đi truyền giáo phải có tấm lòng từ bỏ tất cả, của cải vật chất, phải thoát ly ra ngoài vòng kiềm tỏa của tiền bạc…

Sau cùng, Chúa cho các ông biết: công việc rao giảng của các ông không dễ dàng, có người chấp nhận, có người không. Vậy các ông phải có thái độ thế nào? Gặp được nhà nào tốt lành chính đáng, niềm nở đón tiếp, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ lòng kính trọng, trung thành và biết ơn lòng hiếu khách…

Tin mừng hôm nay cũng cho thấy một điểm khó hiểu đến phi lý, đó là Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi vào một nơi vô định với hai bàn tay trắng, ngay cả một chút tiền túi cũng không, tất cả đều nằm trong chờ đợi. Thật là nghịch lý và khó hiểu, nhưng đó lại là điều Chúa muốn nơi các môn đệ: Ngài muốn cho họ sống nghèo khó để rồi khám phá ra đâu là sự giàu có đích thực. Người môn đệ nghèo, không phải vì họ không có khả năng làm giàu hoặc không được phép hưởng dùng của cải. Nhưng trong sự nghèo khó, họ sẽ khám phá ra ý nghĩa đích thực của giàu có và cảm nghiệm được tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Và cũng nhờ đó họ sẽ an tâm dồn nỗ lực cho việc rao giảng Tin mừng cứu rỗi (Mỗi ngày một tin vui).

Hôm ấy là lễ thánh Têrêsa Avila, dòng kín Carmêlô tại Lisieux mở cửa cho giáo dân và du khách viếng thăm. Có một người du khách không hiểu lý do đời sống khắc khổ của các nữ tu đã thầm nghĩ: chỉ có những người không đủ ăn đủ mặc mới dấn thân vào đây. Gặp một nữ tu tại hành lang, ông nói: “Này chị, giả như chị có toà nhà sang trọng như toà nhà ở ngoài cổng đối diện với nhà Dòng, chị có thể hy sinh chôn mình trong bốn bức tường Dòng Kín này không?” Chị nữ tu mỉm cười trả lời: “Thưa ông, nhà ấy chính là nhà của tôi”. Quả thật, đó là nhà của chị thánh Têrêsa Hài Đồng mà người du khách hiếu kỳ vừa chất vấn.

Đối với chúng ta ngày nay, mỗi người chúng ta khi nhận phép Rửa tội và phép Thêm sức, chúng ta đều được Chúa mời gọi và sai đi rao giảng Nước trời, tức là rao giảng về Chúa Giêsu, về tình thương của Ngài và những hồng ân của Thiên Chúa, có người bằng việc làm, có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều rao giảng bằng chính đời sống của mình.

Truyện: Nhạc sĩ phó tế Vũ Thành An

Mới đây, với chủ đề nhạc thính phòng, trung tâm ca nhạc Thuý Nga có trụ sở tại Paris đã giới thiệu một số nhạc sĩ quen thuộc, trong đó nhạc sĩ Vũ Thành An được chú ý tới một cách đặc biệt. Người ta chú ý đến người nhạc sĩ này không phải vì những “Bài ca không tên” bất hủ của ông hồi năm 1975. mà vì cuộc hành trình đức tin mà ông đã chia sẻ trong cuốn băng.

Như một linh mục đứng trên bục giảng trong nhà thờ, nhạc sĩ Vũ Thánh An cho biết ông đã gặp gỡ Chúa Kitô. Với tất cả niềm vui và xác tín của mình, ông đã kể lại cho mọi người nghe tại sao ông đã trở lại với đức tin Công giáo? Tại sao ông đã chuyển hướng để chỉ sáng tác thánh ca và hiện đang phục vụ Giáo hội trong chức phó tế vĩnh viễn.

Với những khán thính giả ngoài Kitô giáo, những điều chia sẻ của nhạc sĩ Vũ Thành An hẳn là một trong những bài giảng hay nhất và có sức thuyết phục nhất. Dù có dửng dưng và lạnh lùng đến đâu có lẽ không ai mà không bị đánh động bởi cung cách tuyên xưng và rao giảng Tin mừng một cách vô cùng đơn sơ và cũng vô cùng can đảm của người nhạc sĩ này.

Truyền giáo là chia sẻ niềm tin mà mình đã và đang sống một cách xác tín và triệt để. Có lẽ nhạc sĩ Vũ Thành An đã thực thi đúng mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay: “Các con đã nhận lãnh nhưng không, các con cũng hãy cho nhưng không”.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Những chỉ dẫn tiếp theo về cách đối xử của người được đi loan truyền Phúc Âm:

Công việc sẽ làm: chữa bệnh và trừ quỷ.

Tinh thần phục vụ quảng đại: Hãy cho cách nhưng không vì trước đó ta đã được nhận một cách nhưng không.

Đừng quá bận tâm đến những phương tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ đó.

Cũng đừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ.

Phải đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. “Các con hãy đi rao giảng rằng ‘Nước Trời đã gần đến’”: Nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhiều người nghĩ Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Phúc Âm phải làm cho người ta tin rằng Thiên Chúa và Nước trời đang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
  2. “Chữa lành các bệnh nhân… làm cho kẻ chết sống lại… làm cho những người cùi được sạch… trừ quỷ”: Tông đồ là một con người chuyên làm sạch: xoa dịu nỗi đau khổ, đem lại lẽ sống cho kẻ bị tuyệt vọng, giúp đỡ những người bị xã hội khinh chê, giải thoát người ta khỏi tội lỗi…
  3. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”: Làm tông đồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo hội, cho nên tôi cũng phải biết cho đi.
  4. Nhận và cho: Một hôm, có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền là 25 đồng vàng để Ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy ông ta giả trang đến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương liền lấy 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng Ngài. Khi giã từ, ông ta tặng thêm 150 đồng nữa ngoài số 25 đồng ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của Thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo. (Góp nhặt)
  5. “Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: ‘Bình an cho nhà này’“: Lời nói, việc làm, cách đối xử của người tông đồ phải luôn luôn tạo được bầu khí bình an.
  6. “Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc”. (Mt 10,9-10)

Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan đã lên đường. Họ tức khắc bỏ chài lưới mà lên đường. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Phúc Âm khắp cách đồng Galilê.

Quê hương con, bao thế hệ cũng đã lên đường. Họ kiếm tìm bình đẳng, bác ái và tự do. Họ đấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hoà bình. Và nhiều người đã bỏ mình vì nước Chúa.

Còn con, con cần đội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc đẹp. Con muốn xỏ đôi giầy tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền năng, rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.

Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay là những chỉ dẫn về những điều người được sai đi rao giảng Tin Mừng phải có:

Công việc sẽ làm: chữa bệnh và trừ quỷ.

Tinh thần phải có: phải quảng đại phục vụ.

Thái độ phải giữ: Đừng quá bận tâm đến những phương tiện vật chất.

Mục đích phải đạt tới: đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.

Như vậy, người môn đệ phải có một tinh thần hoàn toàn phó thác. Sự quan phòng đặc biệt của Thiên Chúa đòi hỏi người môn đệ phải trung thành trong sứ mệnh được trao, mà không gì tách rời họ khỏi tình yêu của Thiên Chúa (Rm 8 31-39). Họ phải nhìn bông huệ trắng ngần và bầy chim trời nhởn nhơ mà đọc Kinh Lạy Cha “xin bánh hàng ngày” (Mt 6,11). Họ phải nhớ rằng, Thiên Chúa Cha biết tất cả những gì cần cho đời họ (Mt 6,25-34). Họ phải kiên trì và vâng lời tới cùng để có thể nói được “Lạy Cha, con phó linh hồn con…” (Lc 23,46).

 Người rao giảng Tin Mừng cũng phải luôn quảng đại phục vụ. Lý do “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”(Mt 10,8). Như vậy, làm tông đồ là một bổn phận công bình. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội, cho nên tôi cũng phải biết cho đi.

Một hôm có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền là 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả dạng đến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương liền lấy 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng ngài. Khi giã từ, ông ta còn tặng thêm 150 đồng nữa ngoài số 25 đồng ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gửi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo.(Góp nhặt).

Ngạn ngữ Ấn-Độ có câu: “Tất cả những gì chúng ta cống hiến cho tha nhân sẽ không bao giờ mất”.

Quên mình để cống hiến cho tha nhân mỗi ngày một nhiều hơn thì sẽ không bao giờ thua lỗ mất mát, mà sẽ được lớn lên mỗi ngày. Vì sự triển nở và trưởng thành của bản thân sẽ dần dần được tăng lên với mức độ và khả năng tự hiến.

Những ai càng quên mình, càng tự nguyện hy sinh thì lại càng đầy tràn, giàu có. Thiên Chúa cứ theo nhịp độ xả thân của họ mà trải rộng tình thương và làm cho họ lớn lên mãi để họ lại càng cống hiến nhiều hơn nữa cho nhân loại.

Những người biết quên mình vì Nước Trời, vì mọi người là những bản nhạc thơm, những khúc hoan ca làm đẹp lòng Thiên Chúa. Còn có gì đẹp hơn những quả tim luôn mở rộng đón tiếp mọi người. Đời họ là những khúc ca hùng tráng từ đất thấp vọng đến trời cao, làm cho địa cầu vốn cằn cỗi âm u vì tham lam và ích kỷ, sẽ nở mùa hoa dịu ngọt của những cuộc đời tận hiến mà Thiên Chúa sẽ biến thành một tế phẩm kỳ bí của Tình Yêu.

  1. Mục đích của sự trao ban đó là đem bình an và niềm vui đến cho những người được trao ban và cũng như chính người trao ban.

Roberto de Vicenzo, người Argentina, tên tuổi nổi tiếng nhất trong bộ môn côn cầu. Sau khi thắng trận đấu và nhận được một tấm ngân phiếu tiền thưởng, anh tươi cười bước vào phòng thay quần áo và chuẩn bị ra về. Giữa đường, một người thiếu phụ chặn anh lại chúc mừng và kể lể về đứa con đang phải nằm bệnh viện trong cơn ngặt nghèo, và bà không có tiền để trả viện phí.

Xúc động về câu chuyện đứa trẻ bất hạnh ấy, anh đã ký tên vào tấm ngân phiếu tiền thưởng và trao cho người thiếu phụ.

Một tuần sau, một người bạn cho anh biết người đàn bà đó là kẻ lường gạt, bà ta không hề có gia đình, cũng không có con cái gì, và cũng chẳng hề có đứa bé nào hấp hối trong bệnh viện cả.

Roberto de Vicenzo hỏi lại:

– Anh bảo là không có một đứa bé nào hấp hối trong bệnh viện phải không? Đó chính là tin vui lớn nhất mà tôi nhận được trong tuần này.

Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,

làm chân tay cho những người què cụt,

làm đôi mắt cho ai phải đui mù,

làm lỗ tai cho những người bị điếc,

làm miệng lưỡi cho người không nói được,

làm tiếng kêu cho người chịu bất công.

Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,

để đem cơm cho người đói đang chờ,

và đem nước cho người họng đang khô,

đem thuốc thang cho người đang đau ốm,

đem áo quần cho người đang trần trụi,

đem mền đắp cho người rét đang run.

Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả

cho mọi người được hạnh phúc yên vui;

còn phần con xin gởi hết nơi Ngài

là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống của con. Amen.

 

 

THỨ SÁU TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 10, 16-23

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.

“Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel cho đến khi Con Người đến”.

 

Suy Niệm 1: Vì Danh Thầy

Suy niệm:

Tháng 8 năm 2008, tại vùng Orissa ở đông bắc Ấn độ,

có một người theo chủ nghĩa dân tộc thuộc Ấn giáo, bị bắn chết.

Một tờ báo địa phương đã qui tội cho các Kitô hữu.

Lập tức một làn sóng bạo động nổi lên từ những người Ấn giáo cực đoan.

Kết quả là hàng chục người chết, hàng ngàn người bị thương,

50 nhà thờ bị đốt, 4000 nhà người Kitô hữu bị phá hủy,

hàng chục ngàn người không cửa không nhà, phải sống trong các trại cứu trợ.

Nhiều Kitô hữu thuộc giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn độ,

giai cấp của những người Dalit, những kẻ bị coi là tiện dân.

Người Dalit đã bỏ Ấn giáo để theo Kitô giáo,

và họ đã lấy lại được nhân phẩm, cùng những quyền lợi về kinh tế xã hội.

Họ được giáo dục tử tế, nên giai cấp thống trị không lợi dụng họ được nữa.

Chính vì thế mà họ bị phân biệt đối xử và bị bách hại.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tiên báo về các bách hại đó.

Những gì Ngài phải chịu thì các môn đệ cũng sẽ phải chịu,

vì tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn thầy.

Hãy để ý đến những động từ nói lên nỗi thống khổ của các Kitô hữu:

bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra nơi hội đường và trước mặt vua quan,

bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết, có khi bởi người nhà (c. 21).

Những điều này Đức Giêsu đều đã trải qua.

Mọi sự họ chịu đều “vì Đức Giêsu”, “vì Danh Đức Giêsu” (cc. 18. 22).

Nơi tòa án, có sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa Ba Ngôi.

“Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ nói trong anh em” (c. 20),

để giúp anh em can đảm tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Cha.

Bởi đó người Kitô hữu ra tòa mà lòng rất bình an, chẳng lo gì (c. 19).

Họ được Thiên Chúa dạy điều phải nói và Thần Khí nói qua miệng họ.

Với sự nâng đỡ đặc biệt ấy, họ có thể bền chí đến cùng và sẽ được cứu độ.

Các Kitô hữu sẽ còn bị bách hại đến tận thế.

Họ không phải là những người thích tỏ ra mình anh hùng, đòi tử đạo.

Nhưng họ là những người khiêm tốn, khôn ngoan,

biết trốn đi thành khác khi bị bắt bớ ở thành này (c. 23).

Chịu bách hại là điều nằm trong ơn gọi của người Kitô hữu,

là cái giá phải trả để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.

Ngay cả ở những quốc gia tây phương tự hào là có tự do tôn giáo,

vẫn có những kiểu bách hại ngấm ngầm và tinh vi,

khác với kiểu đòi bước qua thánh giá thời vua Minh Mạng, Tự Đức.

Sống là Kitô hữu như Đức Kitô muốn đòi ta phải lội ngược dòng.

Lội ngược dòng bao giờ cũng khó và làm người khác bực bội, sợ hãi.

Làm sao để các bạn trẻ Công Giáo dám sống theo những giá trị của Giêsu?

Làm sao để các gia đình Công Giáo không bị thói đời lôi cuốn?

 

Cầu nguyện:

Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,

xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát.

Giữa một thế giới lọc lừa dối trá,

xin được sống chân thật đơn sơ.

Giữa một thế giới trụy lạc đam mê,

xin được sống hồn nhiên thanh khiết.

Giữa một thế giới hận thù, tuyệt vọng, dửng dưng,

xin được chia sẻ yêu thương, an bình và hy vọng.

Lạy Chúa Giêsu mến thương,

xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.

Xin giúp chúng con tìm ra những cách mới để người ta tin và yêu Chúa.

Ước gì hơn hai tỉ người Kitô hữu

vẫn giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men,

để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người,

và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon.

Xin cho Thiên Chúa Cha được tôn vinh

qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Chiên và sói

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con cái Thiên Chúa phải làm chứng cho Người nơi trần gian. Đó là một nhiệm vụ khó khăn. Vì con cái Thiên Chúa hiền lành và yếu ớt như chiên con. Và thế gian hung dữ và mạnh mẽ như sói rừng. Sói sẽ tấn công. Thế gian sẽ bắt bớ. Nhưng Chúa Giê-su dạy ta đừng sợ. Cứ trông cậy nơi Chúa. Rồi Chúa sẽ làm việc. Khi bị nộp ra trước toà, bị hạch hỏi cũng đừng sợ. “Vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: “thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”. Hãy luôn trung tín với Chúa. Dù có bị chính những người thân ghét bỏ, hành hạ, Chúa vẫn luôn bên ta. “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát”.

Lời Chúa hôm nay hoàn toàn ứng nghiệm vào cuộc đời tổ phụ Giu-se. Ông là chiên con sống giữa sói rừng. Ông đã bị anh em thù ghét, bán cho người Ai-cập. Người Ai-cập đã hành hạ ông. Giam tù ông. Nhưng Thánh Thần soi sáng cho ông nói lời chân lý. Nên cuối cùng ông được giải oan. Trở thành tể tướng lẫy lừng. Ông đã bền chí đến cùng. Luôn trung thành với Chúa. Trông cậy vào Chúa cả trong những phút đen tối ngặt nghèo nhất. Nên ông đã thành đạt. Không những cứu được bản thân ông còn cứu được cả gia đình. Và cứu được cả dân nước Ai-cập khỏi nạn đói. Khi gặp ông, Gia-cóp vui mừng nói: “Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con, và thấy con còn sống” (năm lẻ).

Hô-sê khuyên nhủ dân Chúa, dù hiểm nguy cũng cứ tin cậy Chúa. Đừng cậy dựa vào những thế lực phàm trần, hay những tượng gỗ vô tri. Đừng “cầu cứu với Át-sua, sẽ không cậy nhờ vào chiến mã, cũng chẳng gọi là thần những sản phẩm tay chúng con làm ra”. Hãy cậy trông vào Chúa. Vì Chúa là là tình thương yêu. “Vì chỉ ở nơi Ngài kẻ mồ côi mới tìm được lòng thương cảm. Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình”. Vì Chúa sẽ cho dân Chúa được phục hồi và phát triển. “Họ sẽ đầm chồi nẩy lộc, sum suê tựa ô-liu tươi tốt, toả hương thơm ngát như rừng Li-băng. Chúng sẽ trở về cư ngụ dưới bóng Ta, sẽ làm cho lúa miến hồi sinh nơi đồng ruộng, tựa vườn nho, chúng sẽ sinh sôi nẩy nở, danh tiếng lẫy lừng như rượ Li-băng”. Và nhất là cuối cùng Chúa sẽ thực thi công lý: “người công chính sẽ hiên ngang tiế bước, còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào” (năm chẵn).

Dù yếu ớt, dù hiền lành, ta hãy mạnh dạn làm chứng cho Chúa. Rồi Chúa sẽ can thiệp. Và công lý được tỏ hiện. Đó chính là niềm hi vọng của ta.

 

Suy Niệm 3: Số phận của người Kitô hữu

Trong chuyến hành hương Lộ Ðức tháng 8/1981, Ðức Gioan Phaolô II nhắc đến những hình thức bách hại đạo tại một vài nơi trên thế giới, Ngài nói:

“Có những tín hữu bị bắt buộc phải hội họp một cách lén lút, bởi vì cộng đoàn tôn giáo của họ không được phép hoạt động. Có những Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, bị cấm thi hành chức vụ trong nhà thờ hay tại những nơi công cộng. Có những nữ tu bị phân tán không thể tiếp tục cuộc sống hiến thân của họ. Có những người trẻ quảng đại nhưng không thể thực hiện ơn gọi của họ. Có những tín hữu bị tước đoạt cả quyền có thể tận hiến cho một cuộc sống chung để cầu nguyện và thực thi bác ái. Có những bậc cha mẹ bị người ta khước từ quyền được bảo đảm cho con em một nền giáo dục dựa trên niềm tin của mình…”

Tin Mừng hôm nay một lần nữa cho chúng ta hiểu được thế nào là ơn gọi và số phận của người Kitô hữu. Chúa Giêsu đã được cụ già Simêon gọi là dấu chỉ gợi lên chống đối. Cái chết của Ngài trên Thập giá là cao điểm của những chống đối mà con người dành cho Ngài. Tiếp tục sứ mệnh của Ngài, Giáo Hội ở mọi nơi và mọi thời, không thể thoát khỏi số phận bị chống đối ấy. Hình thức và mức độ của những cuộc bách hại có khác nhau, nhưng tựu trung ở đâu và lúc nào Giáo Hội cũng bị bách hại.

Ý thức về sự bách hại không phải là một mặc cảm; lên tiếng về những bách hại cũng không hề là một ý đồ chính trị. Giáo Hội tự bản chất luôn bị đặt vào thế bị chống đối. Chấp nhận đi theo Chúa Kitô, sẵn sàng chiến đấu chống lại tội lỗi, lên tiếng chống lại bất công và can đảm lội ngược dòng, sống như thế tức là đã bị bách hại rồi. Một Giáo Hội phục vụ có thể được thương mến, nhưng một Giáo Hội bị bách hại lại càng là Giáo Hội trung thành với Chúa Kitô hơn.

Trong một chuyến viếng thăm tại Braxin, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Tôi thà thấy muôn ngàn lần một Giáo Hội bị bách hại, hơn là một Giáo Hội thỏa hiệp”.

Nguyện xin Chúa gìn giữ mọi thành phần Dân Chúa được luôn trung thành theo Chúa Kitô và thoát khỏi tinh thần thỏa hiệp vì một chút dễ dãi, lợi lộc.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Thích sống yên thân

“Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt. 10, 17-18)

Đời sống một chứng nhân

Chúa Giêsu chẳng dấu diếm gì, khi sai các môn đệ đi truyền giáo. Người nói rõ cho các ông hay những gì sẽ chờ đợi các ông. Trớ trêu thay! Các ông sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền, bị người ta đánh đòn. Người ta sẽ thù ghét, truy nã các ông. Các bạn hữu thân tình sẽ chống lại các ông. Tất cả những chuyện đó đang chờ đợi các ông. Quả là tệ hại! Cuộc đời các môn đệ chẳng có giây phút nghỉ ngơi. Đi theo Chúa, rao giảng về Người là nhất thiết liều mình gánh lấy những tai họa, là chấp nhận phải chiến đấu cam go, đau khổ nhiều, khóc lóc nhiều.

Đức Giêsu đã báo trước điều đó. Mười hai tông đồ đã gặp những thử thách nặng nề. Người ta không để cho các ông sống dễ dàng. Họ đã bắt các ông phải chết. Tôi tớ không trọng hơn chủ, nó chịu đồng số phận với chủ mình. Đức Giêsu đã nói thế.

Nếu không gây ra cho ta gì

Điều Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ xưa thì vẫn luôn có giá trị cho tất cả những ai còn đang làm chứng cho Phúc âm. Một chứng nhân đích thực không thể sống kiểu “ngồi nhà mát ăn bát vàng”. Người chứng nhân ấy không thể rao giảng Tin mừng cách chân chính mà lại không bị người đời chống đối, bị người ta một ngày nào đó đem mình ra bêu diếu cách nào đó.

Đã có lần nào ta bị người ta chống đối kịch liệt, bị bôi nhọ vì những niềm tin Kitô giáo của ta không? Đã có lần nào ta phải đau khổ vì đã mạnh dạn và công khai làm chứng về Đức Kitô không? Nếu chưa bao giờ ta phải chịu điều gì thiệt thòi, chưa có ai chống đối ta bao giờ, thì có lẽ vì ta đã chưa bao giờ là những chứng nhân đích thực, vì ta đã chỉ muốn sống yên thân thôi. Những chứng nhân tồi là vậy đó.

JYG

 

Suy Niệm 5: SỐ PHẬN NGƯỜI MÔN ĐỆ (Mt 10, 16-23)

Xem lễ thánh Tử Đạo Việt Nam 24/11, Lễ thánh Stêphanô 26/12

Từ vài năm qua, phong trào bách hại các tín hữu Kitô ngày càng gia tăng tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có các nước như Irak, Ấn Độ, Pakistan, Indonesia, Nigeria …

Thoạt nghe, chúng ta có thể thấy rất thương tâm và xót xa cho số phận của các Kitô hữu bị bách hại tại những nơi này!

Tuy nhiên, nếu quy chiếu cuộc đời người môn đệ với Đức Giêsu thì không có gì là lạ cả, bởi lẽ người môn đệ là người bước theo Đức Giêsu trên chính con đường mà Ngài đã đi. Bước theo Thầy thì Thầy đi đâu, trò đi đấy; Thầy sống sao, trò sống vậy; và số phận của Thầy cũng là số phận của trò.

Tư tưởng này đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc đến ngày 05-05-2013, ngài nói: “Có quá nhiều những cộng đoàn Kitô hữu trong thế giới này đang bị bách hại. Con đường của các tín hữu Kitô là con đường của Đức Giêsu. Nếu muốn là các môn đệ của Ngài, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã chỉ ra với những hệ lụy là bị thế gian căm ghét”.

Chân lý đó được bắt nguồn từ những lời tiên báo của Đức Giêsu cho các môn đệ hôm nay. Ngài muốn báo trước cho các ông, để những sự việc đó đến, các ông can đảm và vững bước thi hành sứ vụ, dầu có phải chết.

Thật vậy, nếu Thầy Chí Thánh đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho sự thật, cho tình yêu, thì đến lượt các môn đệ và mỗi chúng ta, chắc chắn không có con đường nào sáng giá hơn là con đường đón nhận hy sinh, đau khổ và ngay cả cái chết để làm chứng cho Chúa và Tin Mừng của Ngài.

Ngày nay, tại đất nước của chúng ta chỉ còn chút ít những chuyện bách hại về mặt thể lý để ngăn chặn bước chân loan báo Tin Mừng. Có chăng chỉ là những vùng sâu vùng xa, do những con người thiếu hiểu biết gây nên mà thôi!

Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra và suy tư một chút, hẳn chúng ta thấy hơn bao giờ hết, ngày nay, con người lại đang bị bách hại khủng khiếp nhất. Cuộc bách hại trên diện rộng và sâu xa, nó có sức tàn phá mãnh liệt hơn cả thương tích, chết chóc về mặt thể lý. Cơn cám dỗ đó đến từ những trào lưu tục hóa, những phim ảnh, sách báo đồi trụy, những chủ thuyết triết học hiện sinh muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người và xã hội, để thay vào đó là những quan niệm “tự nhiên có”; hay “có là do tôi làm ra”.

Dần dà, nó làm cho con người có những lựa chọn sai lạc vì những “chân lý nửa vời” chỉ đạo.

Thiết nghĩ, những cơn cám dỗ đó đến với người môn đệ, đòi hỏi chúng ta phải có một chọn lựa. Tiếp tục theo Chúa hay buông xuôi. Nếu theo Chúa thì phải cẩn trọng và cương quyết từ bỏ những quyến luyến, cám dỗ của bản năng.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết can đảm, trung thành theo Chúa đến cùng. Xin cho chúng con biết khước từ những điều bất chính để được thuộc trọn về Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Can đảm làm chứng cho Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Bị bách hại là số phận thường tình của người tông đồ. Tuy nhiên, với niềm tín thác vào Chúa Thánh Thần, người tông đồ vẫn một lòng trung thành làm chứng cho Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai con đi làm chứng cho Chúa. Nhưng trong thế gian luôn xảy ra một cuộc chiến giữa sự thiện và sự ác. Cuộc chiến ấy ở ngay trong bản thân con, ngay trong gia đình con, ngay trong môi trường con đang sống và trên toàn thế giới, sự ác chống lại sự thiện, bóng tối không chấp nhận ánh sáng, và lời Tin Mừng cũng trở thành cái gai cho thế gian. Vì thế mà người rao giảng Tin Mừng và người sống Tin Mừng luôn bị bắt bớ, đánh đòn, tù đày, chống đối, thù ghét.

Lạy Chúa, cha ông chúng con đã từng chịu khổ đau để làm chứng cho Chúa. Và cái chết anh dũng của các ngài đã là bằng chứng hùng hồn cho niềm tin vào Thiên Chúa. Phần con đây, con cũng được diễm phúc ở vào hàng ngũ những người nhận biết Chúa, theo Chúa, yêu Chúa và dấn bước phục vụ Chúa. Nhưng vì là con người, con cũng rất sợ phải tù đày, roi vọt, chống đối và thù ghét. Xin cho con biết nhận ra rằng, đàng sau thất bại và bị ngược đãi, đó là dịp để con được hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa. Và nhờ đó đau khổ của đời người tông đồ sẽ trở nên hy lễ đem lại nhiều hoa trái.

Con luôn vững tin vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong con. Xin cho con một tinh thần đơn sơ và khôn ngoan, một niềm tin sắt đá, một đức cậy vững vàng và một lòng mến sắt son để con được can đảm sống Tin Mừng và trung thành làm chứng cho Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con”.

 

Suy Niệm 7: Mầu nhiệm Thập giá của sứ vụ

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trong chuyến hành hương Lộ Ðức tháng 8/1981, Ðức Gioan Phaolô II nhắc đến những hình thức bách hại đạo tại một vài nơi trên thế giới, ngài nói:

“Có những tín hữu bị bắt buộc phải hội họp một cách lén lút, bởi vì cộng đoàn tôn giáo của họ không được phép hoạt động. Có những giám mục, linh mục, tu sĩ, bị cấm thi hành chức vụ trong nhà thờ hay tại những nơi công cộng. Có những nữ tu bị phân tán không thể tiếp tục cuộc sống hiến thân của họ. Có những người trẻ quảng đại nhưng không thể thực hiện ơn gọi của họ. Có những tín hữu bị tước đoạt cả quyền có thể tận hiến cho một cuộc sống chung để cầu nguyện và thực thi bác ái. Có những bậc cha mẹ bị người ta khước từ quyền được bảo đảm cho con em một nền giáo dục dựa trên niềm tin của mình”…

Suy niệm

Trong khi thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng, các tông đồ bị ghen ghét và gặp thử thách, đó là mầu nhiệm Thập giá của sứ vụ như Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” vì phải đương đầu với các hoàn cảnh khó khăn chung quanh để bảo vệ thành quả đức tin. Đức Giêsu không che giấu sự khó khăn trong sứ mạng thợ gặt đem Tin Mừng vào thế giới – cánh đồng truyền giáo bao la. Thế giới vẫn chìm trong bóng đêm, hơn nữa Tin Mừng sẽ gặp phải sức chống đối thù nghịch. Thế giới còn bao phủ dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù.

Giáo hội cũng đã xuyên qua những cuộc bách hại, xung đột và chia rẽ với những thế lực chống Tin Mừng trong suốt chiều dài lịch sử, từ những cuộc bách hại đầu tiên ở đế quốc Rôma ở thế kỷ I.

Ngày hôm nay Giáo hội vẫn còn bị bách hại tại nhiều nơi trên thế giới đặc biệt nơi các nước Hồi giáo. Gần nhất, chúng ta thấy rõ trong lịch sử Giáo hội Việt Nam, những cuộc bắt hại đạo đẫm máu giữa những người cùng một màu da dân tộc và ngay trong gia đình. Người đã chọn Chúa Kitô đã phải chấp nhận vượt lên trên những tình cảm gia đình để làm chứng Tin Mừng, như thánh Anrê Kim Thông bị chính người cháu ruột của mình phản bội, truy tố lên quan phủ chỉ vì ngài thường sửa dạy, nhắc bảo đứa cháu hoang đàng này trở về đức tin Công giáo…

Đứng trước những hiểm nguy mà chúng ta phải đối diện. Hãy mang lấy tâm tình mà tác giả thư Do Thái khuyên nhủ: “Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu – Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn” (Dt 12,2).

Chính Ðức Giêsu đã trấn an họ đừng lo, vì Thiên Chúa luôn ở bên cạnh để giúp họ qua hình ảnh Chúa Kitô vác Thập giá, Ngài đang cùng ta tranh đấu, gánh trên vai xung đột đối diện hiểm nguy, để chúng ta cùng với Ngài lãnh nhận sự bình an chiến thắng của Phục sinh.

Cần những tấm lòng mang ánh sáng tình yêu của khoan dung, của Tin Mừng tha thứ soi chiếu. Những tấm lòng như Moody chia sẻ: “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng”.

Ý lực sống:

“Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu Chúa Kitô” (Rm 8,39).

 

Suy Niệm 8: Báo trước những cuộc bách hại (Mt 10,16-23)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Sau khi huấn dụ các Tông đồ về mục đích, tinh thần và cách thế của người tông đồ đi truyền giáo, Chúa Giêsu tiên báo những cuộc bách hại mà các Tông đồ gặp phải trên bước đường truyền giáo.

Trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng, các Tông đồ sẽ gặp muôn vàn khó khăn: bị ghen ghét, bắt bớ… Chúa Giêsu đã trấn an họ đừng lo, vì Thiên Chúa ở bên cạnh để giúp đỡ họ. Để bền chí đến cùng, người môn đệ phải luôn có đời sống tin tưởng phó tác và cầu nguyện.

“Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói”

Hình ảnh bầy sói ám chỉ những bách hại và thử thách mà các Tông đồ phải đương đầu, đồng thời cũng có thể hiểu Chúa muốn nói đến các tiên tri giả, để cảnh giác các Tông đồ trước những chống đối hiểm độc của những kẻ nhân danh chân lý, nhân danh lời Chúa để phá hoại Tin mừng.

Trước âm mưu xảo quyệt và ngụy biện như thế, người môn đệ phải khôn như con rắn. Rắn có tài tránh nguy hiểm và luôn luôn giữ cái đầu cho khỏi bị đánh. Người tông đồ đừng để mình bị lọt vào tròng của những ông tiến sĩ giả, nếu cần thì phải tránh đụng độ với họ. Tuy nhiên vẫn phải giữ tâm hồn và thái độ đơn sơ hiền lành như con chim bồ câu, loài chim hơi nghe tiếng động là bay đi và vẫn được coi là hiền lành (Trần Hữu Thành).

“Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét”

Sự bách hại là số phận không thể tránh được của các môn đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người môn đệ sẽ phơi bày tật xấu của thế gian. Chúa Giêsu cho biết lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người môn đệ Chúa: “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như các con thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích những gì thuộc về nó. Nhưng vì các con không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách các con khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con”.

Trong chuyến hành hương Lộ Đức vào tháng 8 năm 1981, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có nhắc đến những hình thức bách hại đạo tại một vài nơi trên thế giới.

Ngài nói: “Có những tín hữu bị bắt buộc phải hội họp một cách lén lút, bởi vì cộng đoàn tôn giáo của họ không được phép hoạt động. Có những Giám mục, Linh mục, Tu sĩ bị cấm thi hành chức vụ trong nhà thờ hay tại những nơi công cộng. Có những nữ tu bị phân tán không thể tiếp tục cuộc sống hiến thân của họ. Có những người trẻ quảng đại nhưng không thể thực hiện ơn gọi của họ. Có những tín hữu bị tước đoạt cả quyền có thể tận hiến cho một cuộc sống chung để cầu nguyện và thực thi bác ái. Có những bậc cha mẹ bị người ta khước từ quyền được bảo đảm cho con em một nền giáo dục dựa trên niềm tin của mình”.

Thông thường, trong những lời hứa hẹn ít khi thấy bóng dáng khó khăn thử thách. Chúa Giêsu đã hành động vượt ngoài qui luật này: môn đệ Ngài sẽ là người không còn đất sống, bị người đời ghét bỏ. Hội đường kết án, ngay cả người thân cũng phản bội họ.

Đối diện với viễn ảnh, xem ra đen tối này, người môn đệ phải trang bị bằng những hiểu biết cụ thể, và xác tín rằng họ không đơn độc trong cuộc chiến. Nếu trong xã hội loài người, họ không có chỗ đứng, thì trong Nước trời họ đã có chỗ Chúa dành sẵn cho họ; và cho dù thế gian có đổ dồn bách hại lên họ, họ vẫn không bị nghiền tán, vì đã có sự trợ lực của Chúa Thánh Thần.

Điều quan trọng là họ phải trung thành: trung thành với Thánh Thần bằng cách giữ tâm hồn đơn sơ chân thật; trung thành với con đường đã chọn, vì Thiên Chúa không để họ quá mức chịu đựng: “Các con sẽ không đi hết các thành của Israel trước lúc Con Người đến” (Mỗi ngày một tin vui).

Người môn đệ được đồng hoá với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài. Người môn đệ chẳng những là kẻ sống tinh thần khó nghèo, mà còn là kẻ luôn cảm thấy mình yếu đuối, không thể tự mình chống lại những bách hại. Nhưng sự yếu đuối của các môn đệ lại là sức mạnh của Thiên Chúa, bởi vì ý thức mình yếu đuối, nên người môn đệ hết lòng tin tưởng và gắn bó với Chúa.

Truyện: Cái bạt tai tôi xin vui lòng lãnh nhận

Năm 1227, bá tước Schavenbourg nguyên là thiếu tướng trong quân đội hoàng gia Phổ, đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa. Ông xin vào tu Dòng Anh Em Hèn Mọn của thánh Phanxicô. Bề trên trao cho thầy một bộ quần áo nghèo hèn, một chiếc bị và một cái bát để khất thực ngay giữa nơi thành thị đông đúc cho người nghèo và cũng là để tự nuôi sống.

Một hôm, đang trên đường đi xin ăn, ông gặp một vị hoàng thân quí tộc đang dạo phố. Ông đến ngửa tay xin bố thí, nhưng vị hoàng thân chẳng màng lưu tâm. Nhà tu hành tiếp tục theo sau nhỏ nhẹ nài van một cách kiên trì nhẫn nhục. Bực quá, vị hoàng thân quay phắt lại, tát cho thầy tu vốn là cựu bá tước một cái tát nảy lửa.

Thầy thấy bị xúc phạm ghê gớm, lòng tức giận chỉ chực trào lên như trong những ngày oai phong xưa kia. Thế nhưng, thầy đã kịp bình tĩnh lại và khiêm hạ nói, tay vẫn ngửa ra: “Vâng, thưa ngài, phần cái bạt tai thì tôi xin vui lòng lãnh nhận, nhưng còn phần dành cho những người nghèo khổ đáng thương hơn tôi, thì xin ngài đừng quên bố thí”.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Phúc Âm: có thể họ sẽ gặp nguy hiểm (như chiên vào giữa bầy sói) và bị bách hại. Do đó:

Một mặt phải vừa đơn sơ phải vừa khôn ngoan.

Mặt khác phải đừng sợ: vì Chúa sẽ giúp đỡ họ.

  1. Suy gẫm (…nẩy mầm)
  2. “Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa bầy sói”: Thế gian thì hung ác và mạnh mẽ như bầy sói còn tông đồ của Chúa thì hiền lành và yếu ớt như chiên. Thế nhưng nước Thiên Chúa lại được mở mang bằng chính sự yếu ớt của Chúa Giêsu và các tông đồ của Ngài. Thánh Phaolô nói: “Sức mạnh Thiên Chúa được hoàn thành trong sự yếu ớt”. (2Cr 12,2)
  3. “Khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu”: Con rắn không vô cớ trườn mình ra chỗ nguy hiểm, trái lại, nó khéo ẩn mình, và khi gặp nguy hiểm nó cũng khéo luồn lách; bồ câu thì không mưu mô, không màu mè giả dối…
  4. “Chính Thánh thần nói trong các con”: Người tông đồ không cậy dựa vào lời nói và trí thông minh của mình nhưng vào ơn soi sáng của Chúa. Muốn thế họ phải luôn kết hợp với Chúa Thánh Thần.
  5. Một học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất trong ngôi trưòng có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu Thánh Giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy gọi em lên đứng giữa lớp và hỏi xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng, em chỉ cám ơn Chúa đã ban cho lương thực hàng ngày. Nghe vậy, thầy giáo ngục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cám ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì”. (Góp nhặt)
  6. “Vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền trí đến cùng kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22).

Ai cũng khen tôi đi giầy cao gót đẹp, và tôi cũng cảm thấy thế. Nhưng điều ấy không làm cái đau buốt đang cấu xé đôi chân giảm đi chút nào.

Hình như cái gì cũng có cái giá của nó.

Chúa Giêsu cũng ra giá cho những người muốn theo Ngài. Xem ra Ngài ra giá chẳng phải là nhà quảng cáo khéo léo khi đưa ra những cái khó khăn và mặt trái của vấn đề. Nhưng tôi lại thích lối trình bày ấy. Tôi thán phục tính chân thực và sự thẳng thắn trong lời của Ngài.

Lạy Chúa, Chúa đã nói rất chân tình với con về lối mà Ngài mời con dẫn bước. Xin cho con biết trung thành với con đường đã chọn, bất chấp mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng

Tin mừng: có thể họ sẽ gặp nguy hiểm (như chiên vào giữa bầy sói) và bị bách hại. Do đó:

Một mặt phải vừa đơn sơ phải vừa khôn ngoan.

Mặt khác phải đừng sợ: vì Chúa sẽ giúp đỡ họ.

Chúa bảo phải “Khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10,16). Đơn sơ và hiền lành là điều Chúa rất ưa thích. Sự đơn sơ giúp người tông đồ dễ gần gũi với mọi người.

Quận công Philipphe d’Anjeau, sau khi lên ngôi hoàng đế của cường quốc Tây-Ban-Nha, đi kinh lý đến đâu cũng đều được thần dân tung hô vạn tuế vang trời dậy đất đến đó. Nhà vua vốn là người bình dân, ngoan đạo và khiêm tốn. Đã nhiều lần Ngài tỏ ra bực bội khi phải nghe những bài diễn văn chúc mừng quá dài dòng và quá văn hoa chải chuốt đến mức giả tạo, của những kẻ nịnh thần chỉ mong thủ lợi.

Một lần nọ, nhà vua đến thăm một họ đạo nhỏ nọ, cha sở đã tổ chức nghi thức nghênh đón ngài một cách đơn sơ nhưng không kém phần trang trọng. Khi đức vua đến, cha tiến ra và đọc lời chào mừng thật giản dị và ngắn gọn:

“Tâu hoàng đế, thay cho những bài diễn văn chúc tụng như ở mọi nơi, tôi chỉ xin phép thay mặt toàn thể họ đạo để hát mừng ngài 2 câu thơ, nói đúng hơn, là một lời cầu nguyện với Thiên Chúa như sau:

“Nguyện xin Thiên Chúa độ trì,

Đức vua trường thọ trị vì muôn dân”

Nghe những lời như thế, nhà vua cảm thấy vui sướng vô cùng. Với một khuôn mặt rạng rỡ, ngài hô lên như truyền một mệnh lệnh: “Nào, hãy thêm một lần nữa!” Cha sở lập lại bài thơ một lần nữa, giọng ngân nga trầm bổng.

Sau đó, nhà vua liền gọi cận thần tùy tùng đến và ra lệnh trao cho họ đạo một món tiền thưởng lớn, để cho cha sở có thể dùng vào việc từ thiện bác ái giúp những người nghèo trong họ đạo.

Lần này thì đến lượt cha sở. Cha cũng kêu lên thật to: “Thêm một lần nữa chứ ạ!”

Thật hết sức thâm ý. Nhà vua tủm tỉm cười, và quyết định trao tặng thêm gấp đôi số tiền định ban cho toàn họ đạo. Một kết quả hết sức bất ngờ nhưng không phải là không có lý do.

  1. Chúa còn căn dặn thêm “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì” (Mt 10,19).

Người tông đồ phải biết tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa “kẻ nào bền chí đến cùng kẻ ấy sẽ được cứu thoát (Mt 10,22). Niềm tin là điều không thể thiếu trong cuộc sống. “Không có niềm tin con người sẽ chẳng khác gì một chiếc máy bay không động cơ và không tài nào hướng lên Thiên Chúa được.”

Thánh Hiêrônimô nói: “Người nào không biết nhìn nhận Đấng tạo thành nó, kẻ đó chỉ là một con vật.”

Ngày nọ, ở Clervaux hết muối, vị tu trưởng – thánh Bernađô – gọi một thầy Guibert và bảo:

– Con hãy lấy con lừa (vì đây là con vật duy nhất mà tu viện còn sở hữu) và đi ra phố mua muối.

 – Xin cha cho con tiền để trả – Guibert nói.

– Con ơi – thánh Bernađô trả lời, – đã khá lâu cha không còn tiền, không còn vàng. Nhưng trên cao kia có Đấng giữ túi tiền và kho tàng của cha!

Nghe nói thế thầy Guibert suýt nữa phì cười, nhưng thầy không thể không lưu ý cha thánh điều này:

– Thưa cha nếu con đi với hai bàn tay trắng thì chắc chắn con cũng trở về với hai tay không.

– Đừng sợ con ạ, hãy tin tưởng. Đấng giữ kho báu của cha sẽ ở với con và người sẽ tìm cách giúp con có những gì cần thiết để làm xong công tác.

Thầy Guibert cúi đầu nhận phúc lành từ tay vị tu viện trưởng và dẫn con lừa ra đi. Các mối nghi ngờ của thầy vẫn còn đó làm thầy lo lắng. Nhưng khi thầy sắp băng qua cửa thành thì có một vị linh mục đến gần và hỏi:

– Thầy từ đâu đến vậy và đi đâu vậy?

Thầy Guibert không do dự thú nhận sự túng thiếu tột cùng của tu viện cũng như chính sự bối rối hiện nay của thầy. Nghe xong vị linh mục rất cảm động, ngài dẫn thầy về nhà, cho thầy nửa thùng muối cộng thêm một số tiền là 30 xu (tương đương với 300 quan Pháp.)

Chúng ta hãy tưởng tượng xem niềm vui của thầy Guibert như thế nào. Thầy trở về lại tu viện và chỉ còn việc là phải kể lại câu chuyện đó cho cha bề trên biết ngay.

– Cha đã nói rõ với con, thánh Bernađô đáp, và cha lập lại với con điều đó: Đối với người Kitô hữu không có cái gì khác ngoài đức tin!

Mẹ Têrêsa nói: “Ðức Tin là Quà Tặng của Thiên Chúa”.

“Không có đức tin chúng ta không thể tin những gì bí ẩn và ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta. Và nếu tôi ao ước thấy Chúa, gặp gỡ Chúa bằng đức tin, thì tôi sẽ toại nguyện”. Amen.

 

 

THỨ BẢY TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 10, 24-33

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.

“Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.

“Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời”.

 

Suy Niệm 1: Anh em đừng sợ

Suy niệm:

Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).

Hôm nay ba lần Ngài nhắc chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (cc. 26. 28.31).

Cuộc sống con người bị trói buộc bởi những nỗi sợ,

có lý và vô lý, đến từ bên ngoài hay từ bên trong trái tim.

Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới.

Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui…

“Đừng sợ” là điệp khúc trấn an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.

Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi anh đi theo (Lc 5, 10).

Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt nước mà đến (Mt 14, 27).

Đừng sợ sau khi thấy Thầy được biến hình (Mt 17, 7).

Đừng sợ, Giairô, dù con gái ông đã chết (Mc 5, 36).

Đừng sợ, hỡi các phụ nữ, khi gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).

Nỗi sợ có vẻ gắn liền với phận người mong manh.

Nhưng Đức Giêsu muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.

Có người môn đệ sợ bị mất mạng, đến nỗi không dám rao giảng,

không dám tuyên nhận Thầy trước mặt người đời.

Đức Giêsu mời các môn đệ nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,

điều mình nghe Thầy thì thầm trong đêm khuya (c. 27).

Họ không được giữ riêng cho mình điều đã lãnh nhận.

Đừng sợ cái giá phải trả cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,

vì có điều gì còn quý hơn cả sự sống thân xác nữa (c. 28).

Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.

Nhưng Ngài đã không để cho nỗi sợ thắng mình,

khi dám nói tiếng xin vâng, buông đời mình trong tay Cha.

Cha lo cho cả những sinh vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.

Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền nhất vào thời Đức Giêsu.

Tiền lương một ngày mua được ba chục con chim sẻ.

“Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).

Cả đến sợi tóc của trên đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).

Dù một sợi cũng được Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).

Chính vì thế người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.

Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa.

Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì.

Nhưng là biết sợ ai.

“Mày cùng chịu một án phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”

Anh trộm lành đã nói với người kia như vậy (Lc 23, 40).

Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,

để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con dám hành động

theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,

vì xác tín rằng

Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,

Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,

và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,

xin cho con dám liều theo Chúa

mà không tính toán thiệt hơn,

anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,

can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,

và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.

Ước gì khi dâng lên Chúa

những hy sinh làm cho tim con rướm máu,

con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt

của người một lòng theo Chúa.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Sợ và không sợ

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trong vũ trụ con người rất bé nhỏ. Chỉ như một hạt bụi. Và luôn có những thế lực khiến con người sợ hãi.Vì có thể nghiền nát con người. Nhưng Chúa Giê-su dạy ta khôn ngoan phân định. Nên biết sợ và không biết sợ.

Đừng sợ những thế lực đời này. Vì họ chỉ có thể huỷ hoại được thân xác. Nhưng không huỷ hoại được linh hồn. Họ chỉ chiếm đoạt đời này của ta. Nhưng không thể chiếm đoạt đời sau. Quyền lực của họ mau qua. Chính họ cũng tàn lụi theo quy luật tự nhiên. Thế lực trần gian chính là một phép thử con người. Thử óc phân định. Thử thái độ chọn lựa. Thử sự trung tín. Thử mức độ siêu thoát. Để xem ta chọn lựa trần gian hay Thiên Chúa.

Chúa dạy ta hãy biết sợ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa làm chủ cả đời này lẫn đời sau. Vì Thiên Chúa có thể huỷ hoại cả thân xác lẫn linh hồn. Vì Thiên Chúa là vị thẩm phán tối cao. Sẽ xét xử cả vũ trụ lẫn con người.

I-sa-i-a đã được chứng kiến vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang bao trùm cả vũ trụ. Cả trời đất tràn ngập vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa thống trị cả trời đất muôn loài. Nếu có phải sợ ta phải sợ Thiên Chúa (năm chẵn).

Tổ phụ Giu-se đã hiểu được điều đó. Trong khi anh em ngài chưa hiểu. Nên cư xử theo thói đời. Khi có quyền thế thì ức hiếp người khác. Khi đối diện với quyền lực thì sợ hãi khiếp nhược. Nhưng tổ phụ Giu-se đã cư xử khác hẳn. Có lẽ trước kia ngài cũng từng sợ người đời. Nhưng từ khi cảm nghiệm được quyền năng Thiên Chúa trong đời mình ngài thay đổi thái độ. Ngài kính sợ Thiên Chúa. Vì biết Thiên Chúa làm chủ vận mệnh. Ngài cảm nghiệm được quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Không những cứu ngài khỏi bàn tay người phàm. Mà còn hạ nhục những kẻ có sức mạnh. Nâng cao ngài là một người yếu ớt bé nhỏ. Chính vì thế mà ngài khoan dung với anh em. Không xét xử anh em. Để Thiên Chúa xét xử. Không dám dùng quyền của mình trên anh em. Vì biết trên mình còn có quyền năng tuyệt đối là Thiên Chúa. Và chính quyền năng của mình cũng là do Thiên Chúa ban tặng (năm lẻ).

Xin cho con hiểu được chân lý này như I-sa-i-a. Như tổ phụ Giu-se. Để con không sợ những thế lực đời này. Không sợ mất mát đời này. Nhưng luôn kính sợ Thiên Chúa. Và biết kính trọng anh em.

 

Suy Niệm 3: Ðừng sợ người đời

Mahatma Gandhi, nhà tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ, đã có lần nhắn nhủ các môn sinh như sau: “Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao giờ dùng bạo lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của những người dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng và trạng thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng bạo lực có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được tinh thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình thương, bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù lòa”.

Ðã từng vào tù ra khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời trên đây chưa một lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của một người quá khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất bạo động mà ông đã đề ra.

Sẵn sàng chết để làm chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của linh hồn con người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước các cường lực sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng không làm gì được linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa, không để mình rơi vào tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, mà không giết được linh hồn”.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những khó khăn trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin Mừng và chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi phải sống những thực tại ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều của cải vật chất hay là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?

“Môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ”. Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Những sợ hãi không đâu

“Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không thể giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt được cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.”

Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (Mt. 10, 28. 32-33)

Chúng ta sợ hãi cái gì?

Bạn hãi hỏi xem người ta sợ hãi cái gì? Hầu như ai nấy cùng có một câu trả lời. Người ta sợ bị ốm đau, tật nguyền sợ mất của cải hay công ăn việc làm, sợ phải sống cô đơn, sợ mất danh thơm, tiếng tốt, sợ bị kẻ bất lương tấn công ngoài đường phố, sợ phải xa cách người thân yêu, sợ chết…

Điều ta lo sợ trong cuộc sống ấy, bởi chính nó gây tổn thương, mất mát, thiệt thòi hay tàn tật cho ta. Ta không khinh chê coi thường những xao xuyến, sợ hãi kia. Nhưng chỉ có nguyên những lo âu xao xuyến này thôi sao, và đó phải chăng là những điều quan trọng nhất? còn biết bao điều lẽ ra khiến ta phải bàng hoàng lo sợ, thế mà ta lại bình chân như vại.

Những điều đáng sợ mà người ta lại không nghĩ đến.

Bạn hỏi xem người ta có lo sợ vì không kính mến Thiên Chúa và yêu thương người ta đủ không? Hãy hỏi xem người ta có sợ vì chỉ biết sống bo bo mà không biết chia sớt với anh em mình không. Người ta có run sợ vì đã không coi trọng Phúc Âm, không sống đời cầu nguyện và nói về Chúa Giêsu đủ không? Những người mà bạn đặt những câu hỏi trên đây cho họ, có lẽ đều bỡ ngỡ. Vì phần lớn thời giờ, có bao giờ tâm trí họ màng đến những điều như trên đây.

Chúng ta thường sợ hãi vì những chuyện chẳng đáng gì, còn những điều lẽ ra lòng ta phải xao xuyến âu lo, thì ta lại chẳng màng chi đến. Ta hãy biết sợ. Kiểu nói đó, nghe không suôi. Bởi vì Chúa đâu có muốn cho ta phải sống trong nơm nớp sợ hãi; nhưng Người muốn ta luôn được sống trong yêu thương an bình. Điều Chúa mang đợi ở ta là luôn hướng về Người và các anh em ta. Người mong muốn cho ta chẳng phải sợ gì, chẳng sợ ai cả, nhưng vững tin rằng Chúa Thánh Thần hằng ngự trong ta che chở và dẫn dắt ta đến cùng Cha.

Lạy Chúa, xin cho con biết xao xuyến và sợ hãi những khi con thấy mình xa Chúa. Xin giúp con biết đem lại niềm hy vọng mới cho những ai đang hao mòn vì những xao xuyến sợ hãi đủ thứ trong cuộc đời.

J.Y.G

 

Suy Niệm 5: “ĐỪNG SỢ” (Mt 10, 24-33)

Xem lại CN 12 TN A, và CN 4 PS C

Khi khởi đầu sứ vụ Phêrô, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cánh cửa đón nhận Đức Kitô”. Tại sao Đức Giáo Hoàng lại nói như thế? Phải chăng ngài nhận ra một thế giới đang xa dần Thiên Chúa, hay lòng người đã buông xuôi và không chấp nhận hoặc không dám đứng về phía sự thiện?

Thật vậy, ngày nay, khi con người được Thiên Chúa quan phòng cho có khả năng để phát minh ra nhiều điều mới lạ, hữu ích để phục vụ nhân loại cho tốt hơn, thì cũng là lúc con người muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Bởi vì họ sợ Chúa và những giá trị Tin Mừng của Ngài làm cho họ phải thay đổi một nếp sống mà họ đang theo, nếp sống đó là sự bất chính, trái với Tin Mừng của Chúa dạy.

Như vậy, dù trong mọi hoàn cảnh, mọi thời… người môn đệ Chúa Kitô vẫn được sai đến với những nơi đang xa dần Thiên Chúa như thế. Dẫu biết rằng đây là điều khó, đôi khi phải chết vì sứ vụ.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đừng sợ cái giá phải trả cho việc làm chứng về Đức Giêsu. Hãy can trường tín thác nơi Chúa. Hãy tin tưởng vào Đức Giêsu vì Ngài đã thắng thế gian.

Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta đều xác tín rằng: sự thật sẽ giải thoát chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn tỏa sáng niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn được ơn can đảm để dấn thân vào mọi môi trường, hầu loan báo về Chúa cho muôn dân. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Sợ ai? Sợ gì?

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng ta phải kính sợ. Xác tín điều đó, ta sẽ can đảm làm chứng cho Chúa, và ta sẽ sống đạo vì Chúa mà thôi.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, chính Chúa đã tạo dựng hồn xác con và làm chủ mạng sống con. Chỉ có Chúa là Đấng con yêu mến và kính sợ trên hết mọi người, mọi sự. Thế nhưng đối với con điều ấy không dễ. Áp lực xã hội và dư luận là rào cản hữu hình, con dễ nhận thấy nên con thường sợ những điều ấy hơn sợ Chúa. Con thường sợ người đời cười chê hơn kính sợ Chúa. Con nể xã hội, bạn bè, cha mẹ, hơn kính nể Chúa. Rất nhiều lúc vì nể nang mà con đã làm điều sai trái. Con mà không đi lễ thì sợ người ta đánh giá con khô khan, con mà gian tham thì sợ người ta khinh ghét con, con không đóng góp việc chung thì sợ người ta coi con là kẻ keo kiệt, ích kỷ. Chúa đang mong con phải tiến xa hơn mức độ đó. Con sống tốt không phải vì sợ ai cho bằng là vì con muốn sống đẹp lòng Chúa. Làm phiền lòng Chúa, đó là điều con đáng sợ nhất mà con phải sợ.

Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho con để con nhận ra Chúa đang hiện diện bên con và nhìn thấy con, để nhờ đó, trước khi suy nghĩ điều gì, nói câu gì hoặc làm việc gì, con sẽ biết chọn lựa, đắn đo suy nghĩ, nói năng, hành động sao cho đẹp lòng Chúa. Được mọi người đánh giá tốt về con, đó là điều đáng mừng. Nhưng điều đáng mừng nhất và cần thiết nhất là con sống sao để chính Chúa cũng đánh giá tốt về con.

Xin Chúa cho con biết kính sợ Chúa hết lòng để con can đảm sống theo lời Chúa. Và với lòng kính sợ nhưng tràn ngập tin yêu phó thác, con sẽ can đảm làm chứng về Chúa mà không sợ hãi. Amen.

Ghi nhớ: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác”.

 

Suy Niệm 7: Đừng sợ

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Ngày 16 tháng 10 năm 1978, khi những làn khói trắng tại thành Vatican Rôma bay lên, cả Rôma đổ xô về đền thờ thánh Phêrô và tất cả thế giới hướng về thủ đô của Giáo hội Công giáo. Vị Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo sau Mật Nghị Hồng y đã được bầu lên ngôi. Chuông của các Giáo đường ở Rôma vang rền chào đón một triều Giáo hoàng mới bắt đầu. Ít phút sau, tên của vị Giáo hoàng – Đức Karol Wojtyla với tước vị Gioan Phaolô II được xướng lên, vị Giáo hoàng đến từ sau bức màn sắt, đất nước Balan. Ngài đã bước ra ban công để chúc lành cho thế giới với trách nhiệm kế vị thánh Phêrô, một trong những lời mà Ngài đã ngỏ lời với thế giới: “Đừng sợ và tin vào Chúa Kitô”.

Lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II xác định rõ tinh thần của Đức Kitô: “Anh em đừng sợ” (Mt 10,26) mà trước đó Đức Kitô nói đến viễn cảnh những người tin sẽ phải đối diện với sự bách hại và thử thách niềm tin (x. Mt 10,17-25). Hãy sống với niềm tin vào Thầy, vào Cha Thầy. Niềm tin biểu lộ bằng sự vượt qua sợ hãi, sợ hãi do những cơn bách hại, sợ hãi do từng cụ thể hoàn cảnh gây cho con người bối rối lo âu…

Suy niệm

Thân phận của con người luôn đối diện với những sự việc hay hoảng hốt sợ hãi, Tin Mừng đã ghi lại một số sự việc như là tiêu biểu của sự sợ hãi của kiếp nhân sinh:

Thấy Chúa đến với mình khi đi trên mặt biển, các tông đồ hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên (Mt 14,26). Thánh Phêrô dù được Chúa cho đi trên mặt biển với Chúa, nhưng trước phong ba bão tố, ông vẫn cứ sợ và chìm dần xuống, Chúa đã có mặt và dẫn dắt ông đi trong bình an (x. Mt 14,29-33)

Các tông đồ có Chúa bên cạnh trong hành trình vượt sóng, phong ba bão tố nổi lên, các ông sợ tàu của mình sẽ bị nhấn chìm, Đức Kitô chỉ ra lệnh một tiếng: Hãy im ngay và trời đất tỏa sáng cảnh thái bình (x. Mc 4,35-41)

Các tông đồ sợ, khi Thầy bị bắt nên đã bỏ trốn đi hết (x. Mt 26,56). Ông Phêrô trước áp lực truy lùng của người Do Thái cũng đã chối Thầy… (x. Mt 26,69-75). Các tông đồ sợ hãi vì thầy đã mất, người Do Thái đang tìm các ông để thanh toán “món nợ” cũ, lại trước tin đồn “các ông lấy xác Thầy rồi loan tin sống lại” làm các ông hoảng loạn, đóng kín cổng cao tường không dám tiếp xúc với ai bên ngoài (x. Ga 20,19). Vì thế, các ông hoang mang, sợ hãi và một số đã bỏ về quê như hai môn đệ trên đường Emmaus (x. Lc 24,13-23).

Tất cả tâm tư sợ hãi nơi các môn đệ là tiêu biểu cho sự sợ hãi của kiếp con người có lẽ mang tâm tư của Isaia đã trải nghiệm: “Lòng tôi dao động, nỗi kinh hãi khiến tôi bàng hoàng. Cảnh chiều tà xưa tôi ưa thích nay trở thành mối lo sợ cho tôi” (Is 21,4).

Giữa muôn nỗi bàng hoàng, lo sợ thì Đức Kitô đã đến mang sứ điệp hy vọng “anh em đừng sợ” vì “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, thánh Ambrôsiô đã khẳng định: “Nếu Thiên Chúa luôn quan tâm cho cá, chim sẽ đơn giản… thì không nghi ngờ rằng: Ngài luôn nhìn với sự chăm sóc chú ý đến với người tín hữu trung tín”.

Trong cuộc sống vất vả, lo âu khó khăn đã làm chúng ta sợ, đó là niềm sợ hãi của kiếp nhân sinh mà ai ai cũng phải đối diện, làm bào mòn niềm tin của người tín hữu như Gióp đã trải nghiệm, chua xót, thở than đầy thất vọng: “Ðến bao giờ Ngài mới ngoảnh mặt đi để con yên thân nuốt trôi nước miếng? Con phạm tội có hề chi đến Ngài, lạy Ðấng dò xét phàm nhân? Sao Ngài cứ đặt con làm bia để bắn? Phải chăng con đã nên gánh nặng cho Ngài? (G 7,19-20). Hiện tại đã thế, thì tương lai lại càng mịt mù hơn, nỗi niềm sợ hãi luôn chồng chất trên sợ hãi… Nếu còn chút niềm tin, lời khấn cầu càng trở nên thống thiết: “Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng nơi Ngài, xin Ngài đừng để con tủi nhục, đừng để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 25,2).

Bỗng Lời của Chúa thì thầm trong tâm hồn như Ngài đã hứa với ngôn sứ Isaia: “Đừng sợ hãi: Có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của Ta”. Cho nên: “Trong ngày con sợ hãi, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 56,4) và vì thế, tôi sống và tiến bước mang tâm tình mà Thánh Vịnh đã xác tín: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27,13)

Mong cho tôi và bạn vững bước tiến đi giữa bao thăng trầm của cuộc sống như Lời Chúa dạy “Đừng có sợ, hãy tin vào Thầy” (Mc 4,40). Tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xác tín.

Ý lực sống:

“Hãy ký thác đường đời cho Chúa,

 tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).

 

Suy Niệm 8: Chúa trấn an và khích lệ các Tông đồ (Mt 10,24-33)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu cho các môn đệ biết: Tôi tớ không thể hơn chủ. Người ta đã đối xử tệ bạc với Thầy thì người ta cũng đối xử với các con tệ bạc hơn. Nhưng các con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn các con. Các con cứ mạnh dạn tuyên bố điều Thầy nói riêng với các con. Mọi sự sẽ có Cha trên trời lo cho các con, vì các con trọng hơn chim sẻ nhiều. Ai nhận Thầy trước mặt người đời thì Thầy cũng nhận người đó trước mặt Cha Thầy. Còn ai chối Thầy thì Thầy cũng chối kẻ ấy.

‘‘Môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ”

Cha ông chúng ta thường nói rằng: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, nghĩa là con cái và cháu chắt thừa kế nhiều nét giống nhau từ cha mẹ và ông bà mình. Trong bài Tin mừng Chúa Giêsu cũng có ý nói: Chúa Giêsu thế nào thì những ai theo Chúa cũng như vậy. Kitô hữu là những người phải nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu.

Cách so sánh trên đây cho thấy lý do gây ra bách hại, là sự đồng nhất sâu xa giữa Chúa Giêsu và các Tông đồ. Chính khi chịu bách hại, người Tông đồ nên giống Chúa Giêsu hơn. Điều này an ủi, khích lệ và tăng thêm sức mạnh cho các Tông đồ khi phải đương đầu với những khó khăn.

Chúa Giêsu đã đi trên con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta thấy một lý tưởng, một con đường để đi theo. Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thể xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.

‘‘Các con đừng sợ người ta”

Phản ứng tự nhiên của con người trước khó khăn, bách hại, là lo sợ. Chúa Giêsu đã khuyên các Tông đồ can đảm làm chứng cho Ngài, và Ngài cũng khuyên họ đừng sợ. Đừng sợ những kẻ vu oan, vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ. Trung thành với sự thật đôi khi cũng khiến chúng ta phải trả giá có khi bằng chính mạng sống của mình.

Chúa Giêsu cũng nhắc chúng ta đừng sợ những kẻ chỉ có thể làm hại thân xác, mà không thể giết được linh hồn. Thân xác có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn sẽ không hề hấn gì, nếu chúng ta vững tin vào Chúa.

Lần thứ ba Ngài nhắc chúng ta đừng sợ là vì chúng ta quí trọng hơn nhiều, nếu Thiên Chúa đã chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng, thì huống hồ là con người, ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, chúng ta sẽ dấn thân nhiều hơn để làm chứng cho Chúa.

Hãy nghe tiếng nói của lương tâm

Chúa Giêsu bảo các môn đệ của Ngài đừng sợ người đời. Những gì Ngài nói với họ trong bí mật, họ phải tỏ lộ cho mọi người biết. Những gì Ngài nói với họ ban đêm, họ phải nói ra giữa ban ngày. Những gì họ nghe rỉ tai, họ phải leo lên mái nhà mà rao giảng. Trong bí mật, giữa ban đêm, rỉ tai, những kiểu nói này có thể gợi lên cho chúng ta “tiếng nói của lương tâm”.

Lương tâm chính là tiếng nói của Thiên Chúa trong sâu thẳm tâm hồn con người. Tiếng nói của lương tâm quả thật không chấp nhận thỏa hiệp và nhân nhượng. Đòi hỏi của tiếng nói ấy triệt để đến độ con người phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống của mình để trung thành sống theo tiếng nói ấy. Không thỏa hiệp với các sức mạnh của gian dối, không vì một chút đặc ân dễ dãi và nhất là quyền lực, của cải, danh vọng, mà bán đứng lương tâm hay thinh lặng đồng loã. Đó là thách đố lớn nhất và cũng là thách đố duy nhất của Giáo hội cho những người có quyền bính trong Giáo hội, cho mọi tín hữu Kitô trong giai đoạn hiện nay (Mỗi ngày một tin vui).

Người ta thường nói: “Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử: không vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Muốn đem Tin mừng đến cho người khác thì người tông đồ phải biết dấn thân, và dấn thân cũng có nghĩa như liều mạng. Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta cái tư tưởng “Đừng sợ”. Chúng ta có thể tìm thấy từ ngữ “đừng sợ” 365 lần trong Kinh thánh. Người tông đồ chỉ có thể tìm được sự can đảm nếu biết tin cậy phó thác cho Chúa.

Truyện: Tại sao lại sợ?

Một sĩ quan người Anh có đức tin mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, nhưng vợ viên sĩ quan sợ hơn cả, còn ông thì bình thản như chẳng có sự gì xảy ra. Vợ ông trách ông là ông không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Ông không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt nhưng liền sau đó bỗng cười lên không tỏ gì là sợ hãi nữa.

– Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em?

– Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương em.

– Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Cha anh là người hằng yêu mến anh (Góp nhặt).

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Phúc Âm. Ngài báo trước là người tông đồ sẽ bị bách hại, nhưng khuyến khích họ đừng sợ vì những lý do sau:

a/ Lý do thứ nhất: khi chịu bách hại là họ được vinh dự chia sẻ thân phận của Thầy mình.

b/ Lý do thứ hai: những kẻ bách hại chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn họ.

c/ Lý do thứ ba: Người tông đồ còn được Chúa bảo vệ, bất cứ điều gì xảy đến cho họ cũng nằm sẵn trong kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa.

d/ Lý do thứ tư: nếu họ giữ được lòng trung thành và can đảm thì họ sẽ được phần thưởng là Chúa sẽ tuyên bố và nhận họ là người của Ngài.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Khi thực sự yêu thương ai, người ta sẽ lấy làm sung sướng được chịu khổ vì người mình yêu. Các tông đồ đã sung sướng như thế (x. Cv 5,4-41). Xin cho con thêm yêu thương Chúa, đến độ cảm thấy vui mừng chịu đau khổ vì Chúa.
  2. “Ai tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ tuyên bố người đó trước mặt Cha Thầy Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy Đấng ngự trên trời”: Ta tuyên bố nhận Chúa bằng cuộc sống đạo mạnh dạn không sợ dư luận, bằng cách tận dụng tốt những cơ hội để nói về Chúa cho người khác hiểu, và bằng cách chọn lựa coi trọng những giá trị siêu nhiên hơn những giá trị tự nhiên.
  3. “Trò không hơn Thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như Thầy, tớ được như chủ là đã khá lắm rồi”. (Mt 10,24-25)

Một lần kia tôi đang loay hoay tìm cách đưa một em trai độ lớp 8 đang bị bệnh về nhà, thì một chú xích lô đến can ngăn và kể rằng chú cũng có một người bạn chạy xích lô, lần nọ gặp một thanh niên bị xe đụng và đưa về nhà dùm. Vừa về đến nhà, anh thanh niên ấy nằm ngay đơ ra. Thế là cả nhà xúm lại đổ tội cho chú. Và chú bị tóm đưa vào đồn. Làm ơn mắc oán. Thật xót xa!

Chúa Giêsu cũng đã bị xử tệ như thế, và còn hơn thế nữa. Vậy tại sao tôi lại phải sợ, vì “Trò không hơn Thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như Thầy tớ được như chủ là đã khá lắm rồi”.

Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời này có lắm cái xấu và những người xấu, nhưng bên cạnh đó còn có biết bao nhiêu người đang cố gắng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Xin cho con đừng bao giờ vì sợ người xấu mà chỉ cộng tác với người lành. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. “Anh em đừng sợ người ta” (Mt 10,26).

Sự sợ hãi thường làm cùn nhụt chí khí của con người. Vì sợ bị đói khát, nghèo khổ, thiếu thốn mà rất nhiều người đã trở nên nhỏ nhen, ích kỷ, tham lam.

Vì sợ bị coi thường, bị khinh dể, bị chà đạp mà nhiều người đã trở nên kinh kiệu, kiêu căng, độc ác.

Vì sợ mất uy tín, mất uy quyền, mất quyền lợi thế gian mà Giáo Hội đôi khi cũng đã có những quyết định không hoàn toàn phù hợp với Tin Mừng.

Vì sợ bị bắt bớ, bị thiệt thòi phiền hà, mà nhiều người đã có thái độ đóng chặt cửa giống như các tông đồ ngày đầu tuần trước biến cố Phục Sinh. Họ cố “chôn thật kỹ nén bạc của mình”, với một thái độ lúc nào cũng cảnh giác đối với những người chung quanh, làm cho bầu khí yêu thương bị chết nghẹt.

Josepth Staline, vị chủ tịch thét ra lửa của nước Nga rất sợ khi đi ngủ mỗi đêm. Ông ta đã làm cho mình bảy phòng ngủ khác nhau, mỗi phòng được khóa cẩn thận như một cái tủ sắt vậy. Để cho kẻ thù không biết ông ngủ ở phòng nào, đêm nào Staline cũng thay đổi phòng ngủ. Ông có năm chiếc xe với năm tài xế khác nhau. Khi đi đâu, màn cửa các xe đều rũ kín để không ai biết ông ngồi trên chiếc xe nào. Ông sợ người ta đầu độc đến nỗi ông phải tuyển một người hầu để chỉ làm một việc duy nhất là nếm trước những món ông ăn thật kỹ mỗi ngày.

Vâng, sự sợ hãi đã làm cho con người nói chung và những người con của Chúa nói riêng, không còn giữ được lòng trung thực với chính mình nữa.

Bởi vậy, người môn đệ của Chúa cần phải biết “không sợ”. “Đừng sợ” (Bất úy) thì chúng ta mới có thể có được thái độ trẻ thơ mà tha thứ và yêu thương.

Trong kho truyện Thiền có câu chuyện sau:

Trong một ngôi làng kia có một nhà sư rất mực đạo đức được mọi người mến chuộng. Nhưng rồi một ngày kia có một cô gái trong làng lỡ mang thai với tình nhân. Vì sợ hãi, cô đã đổ thừa cho nhà sư kia là tác giả của bào thai đó. Nghe vậy, cả làng phỉ nhổ ông và khi đứa bé chào đời thì người ta đem đến trao cho ông, bắt ông phải nuôi. Người ta đã không tiếc lời mắng nhiếc ông một cách thậm tệ. Nhưng ông vẫn bình tĩnh trả lời họ:

– Thế à!

Rồi ông vui vẻ nhận đứa bé, rồi hằng ngày đi xin sữa mà nuôi nó.

Sau một thời gian vì hối hận, cô gái kia thú nhận sự thật. Cả làng hốt hoảng đến xin lỗi và xin nhận đứa bé trở lại. Nhà sư cũng chỉ nói:

– Thế à! Rồi giao lại đứa bé cho mẹ của nó.

Trước mỗi biến cố cuộc đời, người Kitô hữu thường hay băn khoăn: “Tôi phải làm gì? Phải cầu nguyện hay hành động, phải im lặng hay lên tiếng? Phải đấu tranh hay chia sẻ, phải lên án hay cảm thông?” Chúa muốn chúng ta phải luôn trung thực. Muốn thế thì phải không biết sợ. Bằng không, chúng ta khó có thể có được tự do để đứng về phía chân lý và tình yêu.

Mục sư Wumbrant bị cầm tù nhiều năm. Ông bảo rằng, trong Thánh Kinh có 365 lần Lời Chúa dạy ta đừng sợ, như thế mỗi ngày ông sống một câu. Và trong suốt năm lúc nào ông cũng giữ được tinh thần bình an thanh thản và yêu thương những người bắt giam ông.

  1. Khi thực sự yêu thương ai, người ta sẽ lấy làm sung sướng được chịu khổ vì người mình yêu. Các tông đồ đã sung sướng như thế (Cv 5,4-41).

Các ngài đã yêu thương Chúa, đến độ cảm thấy vui mừng được chịu đau khổ vì Chúa.

Một sỹ quan người Anh có đức tin mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, người vợ viên sỹ quan thì lại sợ hơn cả. Phần ông thì ông cứ bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ ông trách ông là đã không quan tâm gì đến an nguy của vợ con.

Trước thái độ hoảng hốt của người vợ như thế, ông không nói một lời. Ông vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt đi nhưng ngay sau đó thì bà phá lên cười thật lớn tiếng như không biết sợ hãi là gì. Thái độ đó làm cho vị sĩ quan thắc mắc:

– Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em?

– Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm trong tay một người rất thương em!

– Vậy thì tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng, nó ở trong tay Cha anh là người hằng yêu mến anh? (Góp nhặt).

Mẹ Têrêsa nói: “Đừng sợ. Cuộc sống phải có nỗi thống khổ, phải có sự đau đớn – đó là dấu hiệu rõ ràng Chúa Giêsu đã kéo bạn đến gần trái tim của Ngài đến mức Ngài có thể chia sẻ nỗi đau đớn của Ngài cùng bạn.”

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống phó thác. Amen.