Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 19 Thường Niên
THỨ HAI TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Mt 17, 21-26
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: “Thầy các ông không nộp thuế “đền thờ’ sao?” Ông nói: “Có chớ”.
Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?” Ông thưa rằng: “Đòi người ngoài”. Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con”.
Suy niệm 1: Để khỏi làm cớ sa ngã
Suy niệm:
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không khỏi mỉm cười,
khi nghĩ đến việc anh Phêrô đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá,
một chuyện bắt cá rất bất thường, vì một mục đích cũng bất thường.
Thầy Giêsu dặn anh hãy túm lấy con cá đầu tiên câu được,
bắt lấy, mở miệng nó ra, thấy ngay một đồng tiền trị giá bốn quan,
vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Đây là thứ thuế mà hàng năm, theo sách Xuất hành (30, 14)
những người đàn ông Do Thái trên hai mươi tuổi phải nộp
để lo việc tu bổ Đền Thờ và việc tế tự trong đó.
Ta không thấy kể chuyện anh Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao,
và phép lạ đã xẩy ra như thế nào.
Chỉ biết chẳng khi nào trong Tân Ước
Thầy Giêsu lại có ý làm một phép lạ vì lợi ích cho mình như vậy.
Nhưng chuyện bắt cá để lấy tiền nộp thuế
lại không phải là chuyện quan trọng của đoạn Tin Mừng này.
Điểm chính yếu nằm ở những câu nói của Thầy Giêsu.
Ai cũng biết con cái của vua chúa trần gian thì được miễn thuế,
vì các vua chỉ đánh thuế người ngoài thôi (c. 26).
Đức Giêsu chính là Người Con tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc.
Và những Kitô hữu cũng là con cái của Đức Vua tối cao.
Họ là những người đã mở lòng đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38),
và đã gọi Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng con (Mt 6, 9).
Như thế Thầy Giêsu và các môn đệ của mình đều được miễn thuế.
Thầy trò không phải nộp thuế Đền Thờ như những người Do Thái khác.
Tuy Thầy trò có quyền không nộp thuế,
nhưng Thầy Giêsu lại không muốn làm cớ cho người khác vấp phạm.
Khi về đến nhà của anh Phêrô ở Caphácnaum,
Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Thầy chấp nhận giữ luật mà các người đàn ông Do Thái đều giữ.
Thầy biết mình có tự do,
nhưng Thầy cũng dám hy sinh tự do ấy vì lợi ích cho người khác.
Thánh Phaolô cũng sẽ nói về nguyên tắc này khi bàn về việc ăn đồ cúng.
“Đành rằng mọi thức ăn đều thanh sạch,
nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rm 14, 20).
Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu” trong cộng đoàn.
Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm.
Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu.
Thế giới hôm nay ca ngợi tự do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm.
Bao sa ngã của giới trẻ là do sự phóng túng của người lớn.
Con người hôm nay quá gần nhau bởi các phương tiện truyền thông,
nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa nhanh lại vừa rộng.
Nếu chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó
chỉ vì tôn trọng lương tâm mong manh của người khác,
thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.
Amen. (dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm 2: Đức tin chiếu sáng cuộc đời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức tin vững mạnh nhờ qui chiếu quá khứ. Mô-sê nhắc nhở cho dân Do thái điều đó. Khi vào Ai cập họ chỉ có 70 người. Ai cập là đế quốc hùng mạnh nhất thời đó. Vậy mà Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập bằng những chiến thắng lẫy lừng, những điềm kỳ phép lạ. Rõ ràng Chúa là “Thần của các thần, là Chúa của các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy”. Và hiện nay họ đã là một dân đông đúc, hùng mạnh. Vì thế hãy vững tin nơi Chúa (năm lẻ).
Đức tin vững mạnh nhờ hướng tới tương lai. Ê-dê-kiên trong thời lưu đầy khổ nhục. Nhưng bên bờ sông Kê-ba, ông đã nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện đến oai hùng như một đạo quân với “tiếng ồn ào trong doanh trại”. Dũng mãnh như “một cơn gió bão từ phương Bắc thổi đến”. Linh thiêng ngự giữa đám mây, “có lửa lóe ra và ánh sáng chiếu tỏa chung quanh”. Quyền uy ngự trên ngai cao. “Và trên ngai có kim loại lấp lánh, có đám lửa bao quanh…Có cầu vồng xuất hiện trên mây..” Nhưng Thiên Chúa lại rất gần gũi vì “tay Đức Chúa đặt trên ông” Ê-dê-kiên. Ê-dê-kiên được tràn đầy niềm an ủi, tràn đầy niềm tin, tràn đầy hi vọng sẽ đến ngày Dân Chúa được phục hồi. Và trong niềm tin tưởng hi vọng vào một tương lai huy hoàng, Ê-dê-kiên sẽ an ủi khích lệ dân chúng hãy vững tin (năm chẵn).
Đức tin biểu lộ cụ thể trong đời sống hiện tại. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ dân chúng hãy sống tốt trong hiện tại. Vững vàng tin tưởng, thờ phượng Chúa, “yêu mến phung thờ Người hết lòng hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người” (năm lẻ).
Chúa Giê-su chính là gương mẫu cho ta trong đời sống đức tin. Người tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa Cha. Người biết Chúa Cha sẽ giải thoát Người khỏi cái chết, cho Người được phục sinh, trả lại cho Người vinh quang Người đã có trước kia bên Chúa Cha. Nên trong phút giây hiện tại Người lo chu toàn thánh ý Chúa Cha, sống như một người thường, chu toàn những bổn phận của người dân thường như đóng thuế, đọc kinh, đi lễ Đền Thờ. Còn hơn nữa, Người sẵn sàng chịu mọi đau đớn khổ nhục “bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người”.
Xin cho chúng ta được noi gương Chúa Giê-su luôn sống tâm tình người con hiếu thảo. Chiếu lên ánh sáng rực rỡ của đức tin trong cuộc đời hiện tại bằng cặn kẽ tuân hành thánh ý Thiên Chúa, yêu thương anh em đồng loại, chu toàn mọi bổn phận nơi trần thế. Chắc chắn chúng ta sẽ cùng Chúa Giê-su hưởng vinh quang bên Chúa Cha.
Suy niệm 3: Nộp Thuế Cho Ðền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: “Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn”. Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: “Thế thì con cái được miễn”, Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Quy Luật Của Cuộc Sống (Mt 17,22-27)
Bác sĩ Ý Antinori đã tạo ra một chấn động mạnh trong lương tâm nhân loại khi ông tuyên bố việc tạo sinh con người theo phương pháp vô tính. Phương pháp tạo sinh vô tính đã được áp dụng thành công vào việc sản sinh ra con cừu có tên là Doli tại Anh Quốc cách đây vài năm và đã được áp dụng vào những loài vật khác nhau từ chuột đến bò, heo. Vấn đề cần đặt ra không phải là chuyện phương pháp kỹ thuật tạo sinh vô tính có hoàn hảo không. Tất nhiên, đem thí nghiệm tạo ra một con người mà không biết chắc sẽ sinh ra một con người bình thường hay một quái thai, quả là một hành động liều lĩnh, vô trách nhiệm. Nhưng ngay cả khi phương pháp tạo sinh vô tính đã được nghiên cứu tới mức hoàn hảo đi nữa thì câu hỏi vẫn là con người có quyền sản sinh vô tính con người không? Không riêng gì những con người có niềm tin tôn giáo mà ngay cả với những ai không thuộc tôn giáo nào đi nữa, đã là con người có lương tri, người ta không thể trốn tránh một câu hỏi như thế.
Tựu trung, đạo đức vẫn luôn luôn là chiều kích bao trùm toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bất cứ sinh hoạt nào, con người cũng luôn luôn phải tự hỏi: Tôi có được phép làm điều này không? Tôi phải cư xử như thế nào cho xứng với phẩm giá con người? Ðã làm người là phải chấp nhận những giới hạn. Không ai được hỏi ý kiến khi sinh ra. Không ai chọn lựa cha mẹ, quê hương để sinh ra. Con người đến trong cõi đời không do chọn lựa của mình. Ðiều ấy cho thấy tính giới hạn là tất yếu đối với con người. Cái chết lại càng là một khẳng định về những giới hạn ấy, mà đã có giới hạn, cho nên con người không thể sống mà không tuân theo những qui luật của cuộc sống. Bên cạnh những qui luật của thiên nhiên, quan trọng hơn cả là những qui luật đạo đức. Chỉ khi nào tuân hành những qui luật đạo đức ấy, con người mới có thể triển nở trong nhân cách và thành toàn.
Là người tín hữu Kitô chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về thân phận con người dưới ánh sáng mầu nhiệm nhập thể. Chỉ trong Ngôi Lời nhập thể làm người, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Chúng ta biết về mình và chúng ta biết phải sống như thế nào cho ra người khi nhìn vào con người và cuộc sống của Chúa Giêsu. Trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê, thánh Phaolô đã tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể như sau: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì sự ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự”.
Quả thật, Chúa Giêsu là mẫu gương của vâng phục. Suốt ba mươi năm ẩn dật tại Nazareth, Ngài đã vâng phục cha mẹ, tuân thủ các Lề Luật của Môsê. Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.
Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Ðã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã chọn kiếp sống con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: “Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt lên trên muôn ngàn danh hiệu”.
Vâng phục để được suy tôn, tự hạ để được nâng lên. Sống những giới hạn của kiếp người với tinh thần trách nhiệm để được là người hơn. Ðó là qui luật của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Tình yêu của con người? … của Thiên Chúa.
Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: “Con người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm. (Mt. 17, 22-23)
Lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo Người sẽ phải chịu chết, Phê-rô, nhân danh mình và các bạn tông đồ ra mặt phản đối. Tại sao? Thưa, Người đã không làm điều gì dữ. Người phải xa lánh Giê-ru-sa-lem vì thảm họa sẽ xảy ra ở đó. Chớ gì người ta chẳng cho phép bảo vệ Người. Những kẻ muốn mưu hại tính mạng thường đến đó. Thầy không muốn nghe về những chuyện đó. Phê-rô và các tông đồ nhớ rõ Thầy đã khiển trách các ông như thế rồi. Không có chuyện tái can Thầy nữa. “Các ông buồn!” Người ta nổi khùng khi đứng trước một người thân yêu lâm bệnh nguy tử, đành khoanh tay ngồi nhìn trước cảnh tượng vô phương đó, chúng ta cũng buồn. Người thân yêu của chúng ta sắp ra đi. Còn yêu gì được nữa.
Trống rỗng và nặng nề.
Con tim trống rỗng làm chúng ta cảm thấy bị đè nặng.
Các tông đồ buồn sầu. Còn nói gì được nữa? các ông biết chắc sẽ xẩy ra như thế vì Chúa đã nói rồi. Làm sao không tin được? Mọi sự Người đã nói, đã loan báo, thì đã thực hiện. Những công việc của Thiên Chúa mà Thầy hoàn tất chứng tỏ Thầy biết rõ ý định của Chúa Cha.
Phép lạ!
Nhân dịp kẻ thu thuế đòi đóng thuế, Đức Giêsu làm một phép lạ rất giản dị và dịu êm.
Thấy một con cá nuốt một vật, chẳng phải lạ, dù là một đồng tiền hay vật khác. Nhưng lạ lùng là chính Phê-rô đã bắt được con cá này để lấy đồng tiền ra nộp thuế đền thờ.
Đức Giêsu cho biết: Con không phải nộp thuế cho Cha. Cuộc thương khó và cái chết của Thầy nói cho biết Thầy là Con Chúa Cha. Để chứng tỏ Con luôn luôn vâng lời hết mọi sự.
J.M
Suy niệm 6: CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU (Mt 17, 21-26)
Trong cuộc sống, có lẽ không ai muốn mình phải nghe, hay đụng chạm đến những tin không vui. Vì thế, với não trạng của con người, chúng ta thường thích nghe tin mừng, tin thành công và tin chiến thắng.
Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng lại tường thuật việc Đức Giêsu loan báo một tin buồn và nghịch lý với lối hiểu của con người, Ngài nói: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy”.
Khi nghe thấy tin đó, các môn đệ buồn phiền và thất vọng. Với các ông và cả những người Dothái cùng thời, Đức Giêsu phải là người mang lại tự do, thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của đế quốc, Ngài phải là người đánh đông dẹp bắc và thống lãnh bằng quyền lực… Tuy nhiên, điều này hoàn toàn ngược lại với sứ vụ của Đức Giêsu, vì thế Ngài đã không làm. Con đường cứu độ và giải thoát của Ngài là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, mà ý Chúa Cha là muốn Đức Giêsu phải chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài đã vâng lời đến cùng để thánh ý của Cha được nên trọn.
Nhưng vì biết các môn đệ luôn mang trong mình tâm tưởng phàm tục, nên Đức Giêsu đã loan báo trước cuộc khổ nạn, để các ông dần dần hiểu ra sứ vụ và tiếp tục tiến bước trên con đường mà chính Ngài đã đi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng lòng lên trời để tìm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của mình. Đồng thời, sẵn sàng khước từ những điều không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Mặt khác, cần phải xác định thật rõ con đường chân phúc để được hưởng niềm vui, hạnh phúc và bình an trong Nước Trời, con đường đó là: “Phải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang”. Tinh thần này cũng được Đức Cố Hồng Y Fx. Thuận nói đến trong sách Đường Hy Vọng, Ngài nói: “Tránh gian khổ con đừng trông làm thánh”(x. ĐHV., số 702), thánh mà không vượt qua đau khổ là thánh giả, vì khi: “Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (ÐHV., số 44).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá ra ý nghĩa của sự đau khổ và luôn biết kết hợp với ơn Chúa, sẵn sàng đón nhận tất cả vì Chúa và vì Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Việc đóng thuế cho Đền thờ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
- Chúa Giêsu báo cho các môn đệ biết: Ngài sẽ bị nộp, bị giết nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Các ông nghe Chúa nói vậy thì buồn lắm, nhưng không dám nói gì, vì sợ Chúa quở như đã quở ông Phêrô. Còn việc nộp thuế cho Đền thờ, Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, Người có quyền không nộp thuế cho Đền thờ. Nhưng việc Chúa Giêsu nộp thuế chứng tỏ Người chu toàn lề luật, sống khiêm nhường như những người Do thái bình thường. Chúa đã để lại cho chúng ta một mẫu gương khiêm tốn và chu toàn lề luật.
- “Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc”. Thích nghi với đời sống xã hội là một trong những đòi hỏi cơ bản nhất của đời sống.
Khi nhập thể làm người, Thiên Chúa như phải làm một cuộc hội nhập văn hóa. Ngài không phải là con người trừu tượng, nhưng là người Do thái với tất cả quá khứ của một dân tộc. Ngài nên giống con người trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Làm người Do thái dưới thời đế quốc Rôma bảo hộ, Ngài cũng đăng ký trong một cuộc tổng kiểm tra dân số trên toàn lãnh thổ đế quốc. Là người Do thái sống dưới sự cai trị của người Rôma, Ngài đóng thuế cho đế quốc. Nhưng dĩ nhiên, Ngài cũng tuân thủ tất cả lề luật của Do thái giáo: chịu cắt bì, được dâng trong Đền thờ, đến Hội đường, giữ ngày hưu lễ, nộp thuế tôn giáo.
- Vấn đề nộp thuế cho Đền thờ.
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Đền thờ nữa. Theo đó, mọi đàn ông Do thái, kể cả những người sống ngoài lãnh thổ Palestina, đều phải nộp thuế cho Đền thờ hằng năm một món tiền thuế là hai đồng drachme, tương đương với giá hai ngày công. Số tiền này dùng để trang trải các chi phí của Đền thờ. Người ta bắt đầu thu thuế vào quãng 15 ngày trước Lễ Vượt qua. Vấn đề được nêu ra là Chúa Giêsu có phải nộp thứ thuế này không.
- Chúa Giêsu giải quyết thế nào về việc nộp thuế cho Đền thờ?
Theo bài Tin Mừng, khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: “Thưa, người ngoài”. Chúa Giêsu liền bảo: “Thế thì con cái được miễn”.
Đây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: “Thế thì con cái được miễn”, Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế, bởi vì câu: “Thế thì con cái được miễn”. Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế, nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Đền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quỹ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
- Chúa Giêsu là gương mẫu của vâng phục. Suốt 30 năm ẩn dật tại Nazareth Ngài đả vâng phục cha mẹ, tuân theo các lề luật của Maisen. Tin mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho Đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.
Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Đã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã trọn kiếp con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phalô đã khẳng định rằng: “Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt trên muôn ngàn danh hiệu”.
- Thánh Matthêu viết Tin Mừng trong giai đoạn Do thái giáo đã khai trừ các Kitô hữu. Cho nên lẽ ra họ không còn bổn phận đóng góp cho Đền thờ Giêrusalem nữa. Thế mà, “để khỏi làm cớ vấp phạm” (làm dịp cho người Do thái kết án là tại Kitô hữu bỏ bổn phận trước), họ vẫn chu toàn bổn phận nộp thuế cho Đền thờ. Có những việc tôi không bị buộc làm, nhưng “để khỏi gây cớ vấp phạm” và vì bác ái, tôi vẫn nên làm.
- Truyện: Phải tránh gương xấu.
Một cha sở kia ở miền núi, mỗi ngày trước khi lên giường ngủ, ngài thường quỳ xuống quay mặt về hướng nghĩa địa gần nhà cầu nguyện cho những người ở đó. Ngài cầu nguyện thật sốt sắng. Một đêm kia, ngài nghe thấy có tiếng chân người và tiếng đá rơi. Ngài nhìn kỹ thì thấy bóng một người đang trèo lên thành nghĩa địa và đi giữa những nấm mồ. Một kẻ trộm chăng? Một tên điên chăng? Qua đêm thứ tư, ngài núp sau một gốc cây, ngài thấy rõ có một người lạ mặt đến quì trước ngôi mộ và khóc than thảm thiết: “Cha ơi, cha có tha cho con không? Cha nói đi! Cha nói đi”.
Cha nhìn kỹ và nhận ra đó là một người bổn đạo trong họ. Người này đã ngỗ nghịch làm cho người cha phiền muộn quá đến nỗi chết đi. Ngài rón rén đến gần, đặt tay lên vai người đó và nói:
– Ô con, con còn bị cắn rứt không thể nào ngủ được sao?
Người bổn đạo khiếp sợ quá, nhưng khi nhận ra tiếng cha sở thì định thần lại nói:
– Thưa cha, con không được bằng an chút nào cả. Hình ảnh cha con đang tức giận luôn theo dõi con.
– Con biết con đã xử tệ với cha con, con cái của con cũng xử tệ với con như vậy. Ngày mai, con hãy đem con cái đến đây và xin chúng đừng bắt chước gương xấu của con đã làm nữa.
10 năm sau, người bổn đạo đó chết và được chôn cất trong nghĩa địa ấy. Trong khi cha sở đang làm phép mộ, con cái ông ta lên tiếng nhạo báng và chửi rủa.
Cha sở buồn rầu thốt lên một lời:
– Ôi các bạn trẻ, đừng bao giờ quên chuyện này (Trích “Phúc)”.
Suy Niệm 9: ,,,
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đáng lẽ không phải nộp thuế cho đền thờ, nhưng Chúa vẫn nộp để khỏi làm cớ cho người ta gai mắt. Chúa khước từ quyền lợi đáng được hưởng để sống vì người khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã để lại mẫu gương quên mình để hoàn toàn sống vì người khác. Chúa có quyền không nộp thuế cho đền thờ bởi vì Chúa là Con Thiên Chúa, Chúa mới là Đấng mà người ta phải nộp thuế để lo việc tế lễ tôn thờ. Nhưng dù vậy Chúa vẫn nộp thuế để khỏi trở nên cớ cho người ta công kích và chống lại sứ điệp của Chúa.
Suốt cả cuộc đời, Chúa đã không sống cho mình, nhưng chỉ biết sống cho chúng con. Dù là Con Thiên Chúa đáng được địa vị và vinh quang như Chúa Cha, nhưng Chúa đã khước từ và hủy mình ra không. Chúa không sống theo sở thích của mình, nhưng hy sinh tất cả vì chúng con. Đối với chân lý mà Chúa phải mạc khải, thì Chúa cương quyết không bao giờ nhượng bộ. Còn đối với quyền lợi Chúa đáng hưởng, thì Chúa lại khước từ tất cả.
Lạy Chúa, trong khi đó, con lại thích sống ích kỷ, quyền lợi thì đòi hưởng thật nhiều, còn bổn phận thì lại trốn tránh. Xin Chúa giúp con canh tân cuộc sống, biết hy sinh quyền lợi và đặc ân, biết từ khước những điều con đáng được hưởng để chỉ biết sống cho tha nhân. Những điều có thể trở nên gương xấu, thì dù có thể làm, con cũng sẽ không làm. Còn những điều có thể giúp ích cho người khác, thì dù không muốn làm, con sẽ cố làm. Con bắt chước Chúa sống như thế không phải là giả hình, vì lời khen tiếng chê, nhưng vì con muốn sống cho tha nhân, vì con yêu mến họ, vì con muốn nâng đỡ đức tin của họ. Xin Chúa dẫn dắt con. Amen.
Ghi nhớ: “Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế”.
Suy Niệm 0: ,,,
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
CHƯA CÓ
Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
- Hạt giống…
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 chuyện :
- Chúa Giêsu loan báo lần thứ hai Ngài sẽ chịu nạn : Nội dung hầu như giống y lần thứ nhất (x. 16,21), chỉ khác một chi tiết nhỏ là Ngài sắp bị nộp vào tay “người đời”) (lần thứ nhất : “chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư”).
- Vấn đề nộp thuế cho Đền thờ :
– Mọi đàn ông do thái, kể cả những người sống ngoài lãnh thổ Palestina, đều phải nộp cho Đền thờ hằng năm một món tiền thuế là hai đồng drachme, tương đương với giá hai ngày công. Số tiền này dùng để trang trải các chi phí của Đền thờ. Người ta bắt đầu thu thuế này vào quãng 15 ngày trước Lễ Vượt qua. Vấn đề được nêu ra là Chúa Giêsu có phải nộp thứ thuế này không.
Chúa Giêsu trước hết đưa ra một định hướng nền tảng cho vấn đề, sau đó mời độc giả tìm đến một giải pháp thực tế.
– Định hướng nền tảng được trình bày bằng một dụ ngôn : các bậc vua chúa thường không thu thế con cái họ mà chỉ thu thuế các thần dân khác. “Vậy, con cái thì được miễn” : được miễn bởi vì chúng không phải nộp thù lao hay phải làm tạp dịch để được bố chúng xem chúng là con. Tương quan phụ tử phát sinh từ một sự nhưng không mà tương quan chủ tớ không hề có. Chúa Giêsu đã kiên nhẫn dạy cho các môn đệ mình cư xử với Thiên Chúa như với người cha của họ là Đấng ngự trên trời và là Đấng luôn trung tín với con cái mình mà chẳng hề đòi buộc chúng phải nộp thuế (Claude Tassin).
– Một giải pháp thực tế : “Nhưng để khỏi làm gai mắt họ… anh hãy lấy đồng tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh”. Các kitô hữu gốc do thái luôn tự do trong việc nộp thuế Đền thờ. Họ luôn chu toàn bổn phận nộp thuế để tránh gây hoang mang vô ích cho đồng bào mình, bởi vì nếu không nộp thuế thì họ sẽ khiến cho đám người kia có cảm tưởng họ đã ly khai khỏi dân Israel.
B…. nẩy mầm.
- “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” : Động từ “bị nộp” ở thể thụ động hiểu ngầm người nộp là chính Thiên Chúa. Thiên Chúa nộp ai và nộp cho ai ? Thưa nộp Chúa Con cho người thế gian.
– Ta hãy suy gẫm về tình thương của Thiên Chúa : Ngài ban cho loài người Người Con độc nhất mà Ngài rất yêu quý.
– Ta cũng hãy suy gẫm về sự hy sinh tự hạ của Chúa Giêsu : Là Con Thiên Chúa, Ngài sẵn lòng bị nộp vào tay người đời để cho người đời hành hạ và giết chết.
- “… nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Các môn đệ rất đỗi buồn phiền” : các môn đệ buồn phiền vì chỉ nhớ phần thứ nhất của lời loan báo (Chúa Giêsu bị giết) chứ không để ý tới phần thứ hai (Ngài sẽ sống lại).
Xin cho con luôn nhớ rằng Thập giá là đường dẫn tới vinh quang, vì có nhớ như thế con mới có thể lạc quan vác thập giá theo Chúa.
- Câu chuyện này nhắc mọi tín hữu góp phần mình vào Đền thờ, vào việc chung của Giáo Hội. Đây là một bổn phận công bằng, vì ta đã hưởng những ơn ích của Giáo Hội thì ta cũng phải góp phần mình vào đấy, góp phần bằng vật chất và bằng tình thần.
- Thánh Mat-thêu viết Tin Mừng trong giai đoạn Do thái giáo đã khai trừ các kitô hữu. Cho nên lẽ ra họ không còn bổn phận đóng góp cho Đền thờ Giêrusalem nữa. Thế mà, “để khỏi làm cớ vấp phạm” (làm dịp cho người do thái kết án là tại kitô hữu bỏ bổn phận trước), họ vẫn chu toàn bổn phận nộp thuế cho Đền thờ.
Có nhiều việc tôi không bị buộc làm, nhưng “để khỏi gây cớ vấp phạm” và vì bác ái, tôi vẫn nên làm.
- Chúa Giêsu nói với Phêrô : “Anh ra biển thả câu ; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra : anh sẽ thấy một đồng tiền 4 quan. Hãy lấy số tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và của anh” (Mt 17,27)
Là một ngư phủ, việc câu cá với Phêrô quả là dễ dàng. Chúa Giêsu đã sai Phêrô làm một việc trong tầm tay của ông để tuân hành luật lệ xã hội. Nhưng đồng thời, trong cuộc sống, Ngài luôn lưu ý Phêrô và các môn đệ về thế đứng của họ : sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Qua đó, tôi đọc ra nơi Chúa Giêsu một khả năng hội nhập tinh tế : hoà mình vào thế giới nhưng không đánh mất bản sắc riêng của mình.
Trong thực tế, nhiều lần tôi đã lạm dụng hai chữ “hội nhập” để ngụy biện cho những ích kỷ, lười biếng, và những hành động thiếu yêu thương, công bằng trong bổn phận của một Kitô hữu.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời trong những bổn phận trần thế và những hành động yêu thương nhỏ bé của con. (Hosanna)
Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
- Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu và vấn đề thuế thân.
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu loan báo cuộc tử nạn sắp đến của Ngài với các môn đệ, nhưng với chi tiết rõ ràng hơn lần trước: Con người sẽ bị nộp vào tay người đời…. và Matthêô thêm: “Các môn đệ buồn lắm.” (Mt 14,23)
Chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu đang tập cho các môn đệ làm quen phần nào với cuộc Thương khó sắp đến của Ngài, để tránh cho các ông cú “sốc” quá lớn, có thể đưa đến thất vọng chăng. Đồng thời, việc Chúa loan báo trước như vậy là để cho các môn đệ biết, cuộc thương khó của Ngài nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Tin Mừng ghi: “Các môn đệ buồn lắm!” (Mt 14,23).
- Buồn cũng như vui, là thành phần của cuộc sống. Và thường buồn rồi mới vui. Cũng như mưa xong, trời lại nắng. Cuộc sống thường thêu dệt bằng những buồn vui, vui buồn là sợi ngang chỉ dọc dệt nên tấm thảm cuộc đời.
Chính Chúa Giêsu cũng sẽ phải trải qua nỗi buồn chưa từng có trên đời: buồn đến nỗi mồ hôi máu chảy ra tại núi Cây Dầu. Buồn vui là qui luật của cuộc đời. Điều quan trọng là người Kitô hữu biết thánh hóa những niềm vui nỗi buồn đó.
Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa,
Vì Chúa đã ban cho con,
Một con đường để con đi về phía trước,
Lòng vững tin Chân Hạnh Phúc ở cuối trời
Một cuộc đời để con nếm buồn vui,
Và sẽ hiểu: buồn vui cũng chỉ là tương đối.
Một người bạn để con chìa tay với,
Mà không mong chỉ giữ mãi cho riêng mình
Một tình yêu để tim con rạo rực,
Nhận rất nhiều, rồi thao thức đem cho
Một ước mơ để con chờ con đợi,
Khi đêm qua, rồi Ngày Mới bắt đầu…
- Vấn đề nộp thuế cho Đền thờ.
Theo Luật thì mọi người đàn ông Do Thái, kể cả những người sống ngoài lãnh thổ Palestine, đều phải nộp cho Đền thờ hàng năm một món tiền thuế là hai đồng “drachme”, tương đương với giá trị hai ngày công. Số tiền này dùng để trang trải các chi phí của Đền thờ. Người ta bắt đầu thu thuế vào quãng 15 ngày trước Lễ Vượt Qua.
Vấn đề được nêu ra là Chúa Giêsu có phải nộp thứ thuế này hay không?
Trước hết, Chúa Giêsu đưa ra một định hướng nền tảng cho vấn đề, sau đó Ngài mời độc giả tìm đến một giải pháp thực tế.
Định hướng nền tảng được trình bày bằng một dụ ngôn: Các bậc vua chúa thường không thu thuế con cái họ mà chỉ thu thế các thần dân khác: “Vậy, con cái thì được miễn” (Mt 17,26). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa trên nguyên tắc thì Ngài được miễn.
Nhưng thực tế thì có khác: “Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh hãy lấy đồng tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh”. (Mt 17,26)
Chúa làm thế để làm gì? Thưa để tránh gương xấu.
Lý do là vì gương xấu luôn để lại trong cuộc sống những điều rất đau lòng.
Trong tác phẩm có tựa đề là “Phúc” người ta đọc được câu chuyện này: Một cha sở kia ở miền núi, mỗi ngày trước khi lên giường ngủ, ngài thường quỳ xuống quay mặt về hướng nghĩa địa gần nhà và cầu nguyện cho những người ở đó. Ngài tin rằng, những lời cầu nguyện như thế sẽ làm yên lòng những nấm mộ chập chờn trong bóng tối với những cây Thánh Giá lô nhô trong nghĩa địa. Ngài cầu nguyện thật sốt sắng. Một đêm kia, ngài nghe thấy có tiếng chân người và tiếng đá rơi. Trong bóng tối, ngài thấy một hình người đang trèo lên thành nghĩa địa và đi giữa những nấm mồ. Một kẻ trộm chăng? Một tên điên chăng? Qua đêm thứ tư, ngài núp sau một gốc cây, ngài thấy rõ có một người lạ mặt đến quỳ trước ngôi mộ và khóc than thảm thiết: “Cha ơi, cha có tha cho con không? Cha nói đi! cha nói đi”.
Cha sở nhìn kỹ và nhận ra đó là một người bổn đạo trong họ. Người này đã ngỗ nghịch làm cho người cha phiền muộn quá đến chết đi. Ngài rón rén đến gần, đặt tay trên vai người đó và nói:
– Ồ con, con còn bị cắn rứt không thể nào ngủ được sao?
Người bốn đạo khiếp sợ quá, nhưng khi nhận ra tiếng cha sở thì định thần lại nói:
– Thưa cha, con không được bằng an chút nào cả. Hình ảnh cha con đang tức giận luôn theo dõi con.
– Con biết con đã xử tệ với cha con, con cái của con cũng sẽ xử tệ với con như vậy. Ngày mai, con hãy đem con cái đến đây và xin chúng đừng bắt chước gương xấu của con đã làm nữa.
10 năm sau, người bổn đạo đó chết và được chôn cất trong nghĩa địa ấy. Trong khi cha sở đang làm phép mộ, con cái ông ta lên tiếng nhạo báng và chửi rủa.
Cha sở buồn rầ thốt lên một lời:
– Ôi các bạn trẻ, đừng bao giờ quên chuyện này. (Trích “Phúc”)
THỨ BA TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Mt 18, 1-5. 10. 12-14
Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi: “Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?” Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.
“Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời.
“Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất”.
Suy niệm 1: Em nhỏ và kẻ bé mọn
Suy niệm:
Làm lớn ở trong nhóm hay trong Giáo Hội,
đó vẫn là mối bận tâm gây tranh cãi giữa các môn đệ Thầy Giêsu.
Sau khi Thầy loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ nạn (Mt 17, 22-23),
các môn đệ vẫn bị hút vào câu hỏi ai là người lớn nhất (c. 1).
Như một nhà sư phạm khéo léo, Thầy Giêsu đã gọi một em nhỏ lại,
đặt em đứng giữa các ông, và đưa ra câu trả lời.
Câu trả lời của Thầy chắc đã làm các môn đệ bị sốc.
Trong xã hội Do thái thời Đức Giêsu, trẻ em không có vai vế gì,
cũng chẳng có chút quyền hành hay sự độc lập.
Chúng không phải là biểu tượng cho sự trong trắng, ngây thơ,
cho bằng là biểu tượng cho sự tùy thuộc, lệ thuộc vào người lớn.
Khi đặt một em nhỏ bằng xương bằng thịt giữa các ông,
Thầy Giêsu đã đưa ra câu trả lời rồi.
Đối với Thầy, điều kiện để vào Nước Trời mai sau,
là phải trở nên như trẻ em (c. 3).
Muốn trở nên như trẻ em, cần phải trở lại, nghĩa là quay lại, hoán cải.
Chỉ người lớn nào dám đổi hướng sống, mới có thể trở nên trẻ thơ.
Chỉ ai dám rũ bỏ đam mê về quyền lực và tiếng tăm, về địa vị và chỗ đứng,
người ấy mới có thể vào Nước Trời.
Nước Trời là Nước của trẻ thơ,
và những ai trở nên giống trẻ thơ nhờ hoán cải.
Vậy ai là người lớn nhất trong Nước Trời?
Thầy Giêsu trả lời, đó là người tự hạ, thấp kém như một em nhỏ (c. 4).
Để vào được Nước Trời, để làm người lớn nhất trong Nước đó,
cần trở nên như trẻ thơ, tay trắng, không tự hào, tự mãn về mình,
không cậy dựa vào đạo đức của bản thân, nhưng vào tình thương của Chúa.
Như thế người lớn nhất trong Nước Trời lại là người nhỏ bé, khiêm nhu.
Thầy Giêsu không chỉ giúp môn đệ hiểu xem ai là người lớn nhất thực sự,
Ngài còn dạy họ biết quý giá trị của từng con người trong cộng đoàn.
Cộng đoàn tín hữu nào cũng có những môn đệ yếu kém mặt này, mặt khác.
Ở đây họ được gọi là những kẻ bé mọn.
Thầy Giêsu nhấn mạnh đến phẩm giá của những kẻ bé mọn này.
Không ai được phép khinh rẻ một người nào trong nhóm họ.
Họ được bảo trợ bởi các thiên thần riêng,
và các thiên thần của họ vẫn chiêm ngưỡng nhan Cha ở trên trời (c. 10).
Có những môn đệ bé mọn bị sa ngã, lạc lối.
Thái độ của người lãnh đạo là để lại chín mươi chín con chiên
để đi tìm một con chiên lạc.
Cả con chiên lạc cũng vẫn có giá trị khiến ta phải tốn công sức để tìm về.
“Thiên Chúa không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
Chính vì thế từng con chiên lạc đều đáng chúng ta trân trọng.
Khi nhìn trẻ nhỏ và kẻ bé mọn trong cộng đoàn bằng cặp mắt của Chúa,
chúng ta sẽ biết cư xử tử tế và kính trọng họ hơn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm 2: Tâm hồn thơ trẻ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Phải trở lại. Không phải sinh lại như Ni-cô-đê-mô tưởng lầm. Nhưng là có tinh thần trẻ thơ. Tinh thần trẻ thơ là gì? Khiêm nhường? Vâng lời? Ứng trực? Đều đúng cả. Khái quát trong thái độ của đứa con nhỏ đối với cha mẹ. Khi còn nhỏ, cha mẹ là tất cả. Con không là gì. Nên mọi sự đều trông mong vào cha mẹ. Nên một với cha mẹ. Phó thác. Tin cậy. Kết hợp. Yêu mến. Đó là thái độ Chúa Giê-su sống với Chúa Cha. Đó là thái độ Chúa muốn ta có với Thiên Chúa. Chúa là tất cả. Ta là hư vô. Chúa có tất cả. Ta hai bàn tay trắng. Chúa trao ban tất cả. Ta nhận lãnh tất cả. Càng bé nhỏ ở trần gian càng cao trọng trên trời. Càng bé nhỏ càng được Chúa yêu thương.
Nhân loại gặp vấn đề khi muốn chứng tỏ mình là người lớn, trưởng thành trước mặt Chúa. Tự mãn với những thành công, con người tưởng mình ngang hàng với Chúa. Tự do cá nhân quá mức, con người không còn muốn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Tự phụ giải quyết được mọi vấn đề, con người nghĩ rằng thế giới này không còn cần Thiên Chúa. Đó là những thái độ tàn phá con người và thế giới. Cần trở nên như trẻ nhỏ.
Nêu gương cho ta, Mô-sê đã sống tinh thần bé nhỏ. Mô-sê từng là một thủ lĩnh lẫy lừng, từng thi hành bao điềm kỳ phép lạ kinh thiên động địa, gieo kinh hoàng cho người Ai cập. Nhưng giờ đây Mô-sê thú nhận mình già yếu. Ông khiêm tốn thanh thản giã từ quyền lực. Còn hơn thế ông bé nhỏ nên lãnh án phạt của Chúa cách khiêm nhường. Và ông trở nên bé nhỏ đến độ vâng phục lời Chúa dậy ra đi lên núi chết một mình. Đúng là một người con hiếu thảo. Và ông có tâm tình bé thơ khi tôn trọng Gio-suê, người đệ tử theo hầu ông từ khi còn nhỏ. Ông tin tưởng và khích lệ Gio-suê. Ông khuyên nhủ dân chúng vâng phục Gio-suê dù anh còn trẻ. Vì ông biết rằng mọi sự đều bởi Chúa. Chúa sẽ dẫn đưa Ít-ra-en. Chúa sẽ ở với Gio-suê (năm lẻ).
Ê-dê-kiên cũng có tính thần trẻ thơ khi vâng lời Thiên Chúa nuốt trọn cuốn sách có đủ mọi điều đắng cay mà chẳng thắc mắc ngại ngùng. Và sau đó vâng lời Chúa truyền rao Lời Chúa cho dân, dù là những lời không mấy dễ nghe. Ê-dê-kiên quả đã sống tinh thần của người con bé nhỏ và hiếu thảo. Đón nhận tất cả từ Thiên Chúa. Làm tất cả mọi sự theo ý Thiên Chúa. Bất chấp sự gì xảy đến cho mình (năm chẵn).
Suy niệm 3: Tinh Thần Trẻ Thơ
Tin Mừng Mátthêu được cấu trúc xoay quanh năm diễn từ dài của Chúa Giêsu, và diễn từ thứ tư bắt đầu với chương 18 nói về nếp sống của người môn đệ trong cộng đoàn. Tin Mừng hôm nay nhắc đến hai đặc điểm của nếp sống người môn đệ trong cộng đoàn.
Trước hết là thái độ sống trẻ thơ.
Một tiểu thuyết gia nọ đã đưa ra nhận định: “Khi người lớn chúng ta không còn giữ liên hệ nào với các trẻ nhỏ, thì chúng ta không còn giữ được tính người nữa, mà đã trở thành như những chiếc máy chỉ biết ăn uống và kiếm tiền”.
Lòng tin tưởng của trẻ thơ gợi lên cho chúng ta về sự tin tưởng mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải có đối với Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời. Thái độ trẻ thơ khâm phục trước vũ trụ và thiên nhiên nhắc nhớ sự khâm phục mà chúng ta cần có đối với vũ trụ do Thiên Chúa Cha chúng ta dựng nên. Thái độ đáp trả của trẻ nhỏ trước tình yêu thương nhắc chúng ta phải đáp trả đối với tình yêu thương của Thiên Chúa.
Nhận định trên đây giúp chúng ta hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn các môn đệ trong cộng đoàn mà Ngài thiết lập phải trở nên như những trẻ nhỏ: đơn sơ, tin tưởng phó thác, không có thái độ kẻ cả.
Những đức tính tốt của tuổi thơ sẽ giúp cho các thành phần trong cộng đoàn chấp nhận và phục vụ nhau, không kỳ thị phân biệt. Cộng đoàn những con người cụ thể dĩ nhiên có những khuyết điểm, những bất toàn, tội lỗi. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài không muốn môn đệ Ngài có thái độ sống kỳ thị tách biệt khỏi những người khác, nhất là những người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giêsu đã mở ra một viễn tượng mới, Ngài mạc khải thái độ nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, đến nỗi đã bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và vui mừng khi tìm được nó. Chúa Giêsu mời gọi con người ăn năn sám hối trở về với sự thật, với tình thương và với người anh em.
Xin Chúa cho chúng ta sống tinh thần trẻ thơ trước mặt Chúa và trong tương quan với người khác. Xin cho chúng ta sống tin tưởng, yêu thương phục vụ mọi người vì tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Những Trẻ Nhỏ Của Tôi.
Lúc ấy các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông mà bảo: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”
Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. (Mt. 18, 1-4)
Người lớn khó có lòng trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa, khó sống trong đức tin.
Giầu có nhờ nghèo khó.
Nghèo khó trong mối phúc thật thứ nhất chính là sự giầu có của tuổi thơ ấu. Trẻ nhỏ không phải là thiên thần. Tuy nhiên thiên thần giống như đứa trẻ má phúng phính, chút vẻ ngây ngô, vô tính, như những bức họa mô tả.
Còn trẻ nhỏ có nhiều lầm lỗi, nhưng có nhiều đức tính, cá tính. Nó tin cậy tất cả, yêu tất cả. Nó biết cha nó không gắt gỏng về tính hay thay đổi của nó. Nếu cha nó sửa lỗi nó, thì luôn luôn vì yêu nó. (tôi nghĩ đến những người cha bình thường chứ không phải hạng người cha đao phủ mà báo chí đăng tin gật gân)
Cha chúng ta ở trên trời tha thứ những lời bậy bạ của chúng ta, khi chúng ta sống chắc chắn trong tình yêu của Ngài, tin cậy hoàn toàn vào Ngài.
Một đứa trẻ tưởng mình qua mặt được Thiên Chúa, cho rằng mình không cần Thiên Chúa để được hạnh phúc, thì nó đã tự coi mình trưởng thành, nó đã mất tâm hồn trẻ thơ, cạn kiệt hạnh phúc và niềm vui rồi.
Những đòi hỏi trở nên trẻ nhỏ.
Khi kêu gọi chúng ta trở nên trẻ nhỏ, Chúa nhắc nhở chúng ta rằng Nước Trời không phải là một phần thưởng dễ được, phải thực hiện một đời sống toàn diện. Phải tìm lại vẻ cao đẹp của tuổi thơ, sự chân thật, sự hết mình và tính vui tươi của chúng. Không lo ngày mai, nhưng lúc này là giây phút đời đời. Không dễ dàng trở nên trẻ nhỏ, tìm lại được nhiệt tình hăng hái trước cuộc đời biết ngạc nhiên trước tình yêu đang bộc lộ ra hằng ngày cho chúng ta. Không dễ dàng trở nên trẻ nhỏ và cuộc sống đầy tràn sức sống mỗi ngày. Nếu mọi việc chúng ta làm trong ngày mà đến cuối ngày chúng ta thấy mệt mỏi tinh thần, thì chắc chắn tất cả nhiệt tình chúng ta đổ vào công việc không còn mang được ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của thánh ý Chúa nữa, như vậy cuộc sống của chúng ta đã trở thành thảm kịch bi đát rồi.
J.M
Suy niệm 5: MUỐN LÀM LỚN, PHẢI LÀM GÌ? (Mt 18, 1-5. 10. 12-14)
Xem lại thứ Ba tuần 2 MV, lễ thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su ngày 1/10
và lễ Thiên Thần Bản Mệnh ngày 2/10.
Trong xã hội mọi thời, những chuyện như tranh dành quyền lực luôn diễn ra nhan nhản. Tuy nhiên, sự tiêu cực này không phải không có trong thời Đức Giêsu, vì thế, ta không lạ gì khi thấy các môn đệ lên tiếng hỏi Ngài: “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?”. Hồi hộp, mong mỏi chờ đợi Đức Giêsu lên tiếng! Nhưng khi Ngài lên tiếng thì các ông té ngửa và chưng hửng, bởi vì mưu ý của các ông đã bị lật đổ.
Nhân đây, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ bài học:
– Điều kiện cần để được vào Nước Trời là: “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”.
– Điều kiện đủ để là người lớn nhất trong Nước Trời là: “Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời”.
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì nên giống trẻ nhỏ thì: chân thành, không thù oán, không giận giữ, không màng công danh và luôn phó thác mọi sự nơi cha mẹ chúng.
Như vậy, Đức Giêsu muốn các môn đệ của mình phải mặc lấy những tâm tình đó để sẵn sàng hy sinh, tự hạ và chấp nhận mọi sự vì Nước Trời. Trở nên người phục vụ theo gương của chính Ngài là: “Đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cũng mặc lấy tâm tình của trẻ thơ như Đức Giêsu mong muốn. Biết chấp nhận thân phận yếu đuối để cần đến ơn Chúa và biết sống trong sự khiêm tốn, phó thác.
Được như thế, nhân loại này sẽ không còn chiến tranh, hận thù. Các gia đình sẽ ấm êm hạnh phúc vì mọi người biết sống cho nhau và vì nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Chúa tha thiết, luôn sống trong tâm tình phó thác, và sẵn sàng dấn thân phục vụ anh chị em để được hạnh phúc Nước Trời làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Như con thơ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa muốn ta mang lấy những tâm tình của trẻ thơ: luôn đơn sơ, chân thành, tin tưởng, phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Có lẽ hình ảnh tươi đẹp nhất của cuộc sống mà ai cũng đều trân trọng, đó là quãng đời tuổi thơ. Tuổi thơ là niềm vui của cha mẹ, là mầm sống tương lai cho Giáo Hội, cho quê hương. Cái đẹp của tuổi thơ là sự vô tư hồn nhiên trước cuộc sống, luôn bình thản với hiện tại, không bon chen, không hận thù tranh chấp, lại chẳng lo lắng đến tương lai, luôn chấp nhận cuộc sống với một thái độ lạc quan. Chúa là Cha, Chúa muốn con luôn sống như một trẻ thơ trong tay cha. Càng trở nên trẻ thơ, con lại càng được Chúa yêu quý.
Lạy Chúa, trong cuộc sống đức tin, con lại muốn làm người lớn, để con được tự do làm những gì mình muốn, thay vì sống theo lề luật của Chúa. Con cũng thường hiểu Lời Chúa theo ý riêng con, thay vì nghe theo đường lối Giáo Hội chỉ dạy. Và hậu quả là con đã lầm đường lạc lối.
Cũng có nhiều lúc con tự cao tự đại, coi thường những cơn cám dỗ, con cậy dựa vào sức mình mà không chịu cậy trông vào Chúa. Và cũng có nhiều lúc tâm hồn con nuôi dưỡng những tư tưởng hận thù, âm mưu đen tối, phiền sầu lo lắng.
Lạy Chúa, như trẻ thơ nép mình trong tay người mẹ, xin cho con biết trở nên như trẻ nhỏ với một tâm hồn đơn sơ, hiền lành, tin tưởng và phó thác đời sống và bản thân con trong tay Chúa, để chính Chúa nâng đỡ, hướng dẫn con trên hành trình cuộc sống trần gian này.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương đón nhận và chúc lành cho con. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này”.
Suy Niệm 7: Tâm hồn trẻ thơ
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một cậu bé gõ cửa nhà một bà già và hỏi xem bà có mua những trái trứng cá chín mọng cậu vừa hái được hay không.
Bà trả lời: “Có, bà sẽ xách xô của cháu vào bếp và đong 2 lít”.
Cậu bé đứng ngoài đùa với con chó. Bà nói: “Sao cháu không vào xem bà đong có đúng không ? Nhỡ bà lường gạt cháu thì sao ?”.
– Cháu không sợ, vì nếu bà làm thế, bà sẽ nhận được điều xấu nhất.
– Cháu muốn nói gì ?
– Vì cháu chỉ mất vài trái nhỏ, nhưng bà tự biến mình thành kẻ trộm.
Suy niệm
Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, nước Trời chỉ dành cho những ai có tâm hồn trẻ thơ vì các em có các đức tính:
Khiêm nhượng: Trẻ em thì yếu đuối, vô năng lực, chúng không thể làm gì dựa trên sức lực riêng, em luôn tùy thuộc vào cha mẹ của em trong mọi sự. Người có tâm hồn trẻ thơ biết ra điều đó và chấp nhận.
Nghèo khó: Trẻ em không có riêng gì là của mình, em chỉ được người khác ban cho mà thôi.
Trông cậy: Trẻ em chỉ biết có cha mẹ của mình. Trẻ em trông chờ cha mẹ nuôi dưỡng cung cấp cho mình những điều cần thiết vì vậy không cần lo lắng gì.
Tình thương yêu: Trẻ em có tình thương yêu, em yêu cha mẹ của em và phó thác mình vào cha mẹ.
Đơn sơ: Mọi sự trong trẻ em thì đơn sơ, từng ý nghĩ và lời nói cả việc làm nữa. Trẻ em chỉ có khả năng làm những việc nhỏ.
Ðức Giêsu đưa trẻ em ra làm lý tưởng sống: “Con đường thơ ấu thiêng liêng”, mà sau này thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu tái khám phá biểu lộ tinh thần đơn sơ của con đường nhỏ, để trở nên thánh thiện, bằng việc yêu mến và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Thật thế, chúng ta cũng cần sống gắn bó vào Ðức Giêsu như trẻ thơ.
Ý lực sống:
“Ai không đón nhận nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 18,15-17).
Suy Niệm 8: Phải trở nên như con trẻ (Mt 18,1-5.10-14)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Các môn đệ xúm lại hỏi Chúa: ai là người lớn nhất trong Nước trời? Chúa không trả lời ngay. Người gọi một trẻ nhỏ vào đứng trước mặt các ông rồi nói: Ai không trở nên như trẻ nhỏ, không sống đơn sơ, thật thà, khiêm tốn như trẻ nhỏ thì không được vào Nước trời. Và ai trở nên giống trẻ nhỏ: đơn sơ, hoàn toàn lệ thuộc phó thác, thì sẽ làm lớn hơn hết trong Nước trời…
Cái đẹp của tuổi thơ là sự vô tư hồn nhiên, không bon chen, không hận thù tranh chấp và hoàn toàn tin tưởng cậy dựa vào cha mẹ. Trong đời sống thiêng liêng, Đức Giêsu muốn chúng ta mang lấy những tâm tình của trẻ thơ: khiêm tốn, tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa là Cha yêu thương. Đồng thời, Ngài cũng khuyên chúng ta phải tôn trọng trẻ em, những kẻ bé mọn, những người yếu đuối và ngay cả những người tội lỗi… Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều được giá Máu cứu chuộc, thế nên chúng ta phải đón nhận tất cả mọi người anh em, không trừ một ai.
Theo nhận xét của nhiều người, trẻ em giống như một cây non, chúng yếu đuối phải cậy dựa vào người lớn, chúng hoàn toàn nương nhờ vào cha mẹ và cha mẹ bảo sao chúng biết vậy. Cũng thế, trẻ nhỏ giống như tờ giấy trắng, muốn viết gì vào đấy cũng được. Rồi trẻ nhỏ rất dễ tin, chúng tin vào cha mẹ và tin rằng: chỉ có cha mẹ mới thoả mãn được mọi nhu cầu của chúng. Đó là thái độ chúng ta phải có đối với Chúa, trước mặt Ngài, chúng ta phải thấy mình thực sự nhỏ bé, yếu đuối, bất lực và cần sự trợ giúp của Ngài.
Đàng khác, trẻ nhỏ thì hồn nhiên, ngây thơ, trong sạch, không biết quanh co, lừa đảo gian dối, không biết để lòng oán hờn, thù hằn, ghen ghét, không bon chen với trăm thứ lo lắng của người lớn. Hồn nhiên là một thái độ tự nhiên của trẻ nhỏ, và được diễn tả bằng tình thương… Chúng tin vào một người, chỉ khi nào chúng cảm thấy người ấy thương chúng. Thuyết phục bằng lý lẽ sẽ không có hiệu quả, nếu không kèm bằng tình thương. Đó là thái độ của chúng ta phải có đối với Chúa, và đó là cách để chúng ta được Chúa yêu thương và được đón nhận vào Nước trời (Lm. Phạm Văn Phượng).
Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một giải thích về mối phúc đầu tiên, khi Ngài gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các môn đệ và tuyên bố: “Nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con không được vào Nước trời”. Trong quan niệm người Do thái, trẻ em chưa được xem như một con người hoàn toàn, do đó trẻ em được coi là biểu tượng của thiếu sót, bất toàn, yếu đuối và bị khinh thường. Có lần các môn đệ đã tỏ ra khó chịu, khi thấy Chúa Giêsu để cho trẻ em đến gần Ngài. Nơi trẻ em, Chúa Giêsu nhìn thấy hình bóng những người, mà Ngài gọi là những kẻ bé mọn. Hãy hoá nên như trẻ nhỏ có nghĩa là hãy trở nên trống rỗng, nghèo nàn để được Thiên Chúa lấp đầy. Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Nghèo khó chỉ có giá trị, khi nó là một cởi bỏ mọi ràng buộc có thể làm con người trở thành nô lệ trong cuộc sống. Hãy hoá nên như trẻ nhỏ cũng có nghĩa là chấp nhận thân phận mỏng dòn, tội lỗi của mình. Sự ràng buộc đầu tiên mà con người phải tháo gỡ chính là con người cũ tội lỗi, để Thiên Chúa có thể trở thành sức sống của con người (Mỗi ngày một tin vui).
Tâm hồn đơn sơ của con trẻ dễ dàng gần Chúa hơn. Con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhắc nhở chúng ta điều này. Không lâu trước khi qua đời, thánh nữ đã viết lại bí quyết sống của mình như sau: “Tôi muốn tìm phương thế để lên trời qua con đường nhỏ, thật ngay thẳng, thật ngắn, một con đường nhỏ thật mới. Chúng ta đang sống trong thiên niên kỷ của nhiều phát minh. Trong những nhà giàu, một thang máy thay thế cho những nấc thang thật tiện lợi. Tôi cũng muốn tìm gặp một thang máy để đưa tôi lên với Chúa Giêsu, bởi vì tôi quá nhỏ bé để leo lên cái thang của sự trọn lành”. Và theo thánh nữ, thì chiếc thang máy để đưa ta tới trời chính là đôi cánh tay của Chúa. Điều cần là chúng ta phải sống nhỏ bé và ở lại trong tình thương của Chúa.
Truyện: Tấm lòng đơn sơ thành thật
Vào mùng hai tết Canh Thìn năm 2000, trong lúc đi chơi, bé Thiên Thanh, 9 tuổi, lớp 3A trường Phạm Như Xương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đã nhặt được chiếc ví có rất nhiều tiền.
Trên đường cầm chiếc ví đến trạm công an khu vực ở gần đó để giao, bé Thiên Thanh thấy một người khách dáng cao to, đang lúi húi tìm kiếm một vật gì đó, khuôn mặt đầy vẻ lo âu.
Đoán đây chính là người mất chiếc ví, bé đến gần và hỏi thì quả thật đúng như vậy. Em đã trao cho người khách chiếc ví còn nguyên vẹn dưới sự chứng kiến của nhiều người. Số tài sản gồm 4.100.000 đồng, 1.300 mỹ kim, 12 chỉ vàng và tất cả giấy tờ cá nhân quan trọng như hộ chiếu v.v…
Người khách may mắn đã hết lời khâm phục cám ơn bé Thiên Thanh. Để tỏ lòng biết ơn, người khách đã lấy 2 triệu đồng và 100 mỹ kim biếu em, nhưng bé một mực không nhận và hồn nhiên nói:
– Cháu xin cám ơn bác, nhưng cô giáo cháu đã dạy rằng: khi đi đường mà nhặt được của rơi, thì phải tìm cách trả lại cho người bị mất, cháu không nhận tiền thưởng của bác đâu!
Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
* Đặt trong sơ đồ chung của Mt :
Chương 18 (Từ hôm nay đến Thứ Năm) là bài giảng của Chúa Giêsu về nếp sống chung trong cộng đoàn Giáo Hội. Ngài đề cập đến nhiều vấn đề rất cụ thể và thực tế : về những người làm lớn trong cộng đoàn, cớ gây vấp ngã, thái độ đối với người anh em lầm lạc, sửa lỗi cho nhau, cầu nguyện chung, và tha thứ.
- Hạt giống…
Những bài học về nếp sống cộng đoàn : theo hình ảnh trẻ nhỏ.
- Theo văn mạch, đoạn trước, các môn đệ đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Trong nếp sống cộng đoàn, vấn đề làm lớn làm nhỏ cũng thường gây va chạm. Chúa Giêsu dạy phải trở nên trẻ nhỏ : trở nên trẻ nhỏ là khiêm tốn chấp nhận thân phận của mình trong gia đình, là sẵn sàng vâng lời người lớn…
- Trong cộng đoàn, người ta cũng thường trọng những kẻ có địa vị, có tài năng… và coi thường hoặc xua đuổi những kẻ thấp kém, ít khả năng. Chúa Giêsu cũng gọi những người sau này là “trẻ nhỏ” và dạy “Ai đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì Danh Thầy tức là đón nhận Thầy. Đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này…”
- “Trẻ nhỏ” hay “kẻ bé mọn” cũng là những người lầm lạc. Chúa Giêsu dạy các kitô hữu vẫn phải quý trọng cả những người tội lỗi lầm lạc và tìm đủ cách để cứu vớt đưa họ trở về cộng đoàn.
B…. nẩy mầm.
- Trong cộng đoàn, sự ganh ghét nhau về địa vị, danh dự đã làm cho biết bao người khổ sở. Kẻ bị ganh ghét khổ, mà chính người ganh ghét cũng khổ. Sao chúng ta không sống đơn sơ như những đứa trẻ trong gia đình : cha mẹ đặt đâu là chúng ở đó, cha mẹ bảo gì là chúng làm nấy, không hề nghĩ ngợi so đo, chỉ nhắm đến điều duy nhất là làm cho cha mẹ hài lòng.
- Theo khuynh hướng tự nhiên, tôi thường khinh dễ những người kém hơn tôi (mà Chúa Giêsu gọi là “những kẻ bé mọn”). Nay tôi đã nghe Chúa Giêsu bảo rằng khinh họ là khinh Chúa, đón tiếp họ là đón tiếp Chúa. Tôi nghĩ sao ?
- “Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” : Chúa Cha đã muốn thế, tôi còn có thể thờ ơ với những anh chị em lầm lạc của tôi nữa không ?
- Hãy nghĩ đến một đứa trẻ. Nó có nhiều đức tính rất đáng phục, như : lúc nào cũng hồn nhiên không lo lắng, vì nó tin rằng cha mẹ đã lo mọi sự cho nó ; rất ngưỡng mộ cha mẹ, coi cha mẹ như thần tượng ; luôn vui vẻ sống giây phút hiện tại ; nó cũng thường xích mích với những trẻ khác nhưng rất mau quên ; có những lúc nó giận cha mẹ, nhưng cha mẹ dỗ ngọt vào lời là nó bỏ qua ngay v.v.
Bởi thế, Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã chọn nên thánh bằng con đường trẻ thơ.
- “Chúa Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo : Thầy bảo thật anh em nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,2-3)
Nếu trẻ thơ chẳng biết giận lâu ; thì với con : sống để dạ, chết mang theo. Trẻ thơ không màng giành chức tước ; riêng con nghiêng mình trước công danh. Trẻ thơ luôn biết mình yếu đuối ; còn con khẳng định mình trên hết. Trẻ thơ yêu với cả tâm hồn ; còn con theo bề ngoài đánh giá. Trẻ thơ sống những gì mình có ; con thường nặn mình rất công phu.
Lạy Cha, có những bài học của trẻ thơ tuy đơn sơ mà cao vời vợi, để người lớn học cả đời chưa tròn nghĩa một câu. Xin dạy con nên như trẻ nhỏ, để con bước trên đời không chỉ bằng đôi chân của con, nhưng biết buông mình trong tay Cha từ ái. (Hosanna)
- “Ai tự hạ, coi mình như anh em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” (Mt 18,4)
Một lần nọ, tôi đọc được lời nguyện này của một người bạn : Lạy Chúa, xin cho con lòng khiêm nhường để biết nhìn ra mọi sự là hồng ân. Xin cho con lòng khiêm nhường để dám đối diện với sự thật. Xin cho con lòng khiêm nhường để can đảm vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Xin cho con lòng khiêm nhường để không mệt mỏi vươn lên. Xin cho con lòng khiêm nhường để không đòi cho được phải hơn kẻ khác, nhưng luôn biết chấp nhận sự trổi vượt nơi mỗi con người, và xin cho con lòng khiêm nhường để bớt đi mọi lời khoe mẽ, nhưng thay bằng những lời tạ ơn.
Và Lạy Chúa, lời nguyện của con hôm nay : xin cho con luôn sống khiêm nhường để xây dựng Thiên Đàng quanh con. (Hosanna)
THỨ TƯ TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Mt 18, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời con, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.
“Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ.
“Thầy cũng bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”.
Suy niệm 1: Sửa lỗi người anh em
Suy niệm:
Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi.
Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa các cá nhân trong cộng đoàn
thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4).
Nhưng nếu đó là những sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn,
vô tình hay cố ý sống ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu,
thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm ngơ
mà không sửa sai cho người anh em phạm lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu.
Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được gọi là người anh em (c. 15).
Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ từ, từng bước một.
Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế tiếp.
Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi.
Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết lắng nghe lời góp ý chân tình,
nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi bước một thất bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe.
Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người nữa để tăng sức thuyết phục.
Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không nghe,
thì bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi người anh em ấy vẫn ngoan cố,
không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn Giáo hội,
nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu,
thì Giáo hội đành lòng không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.
Có thể ngày nay Giáo hội có những cách sửa lỗi khác,
nhưng những nét dưới đây vẫn giữ nguyên giá trị:
coi người phạm lỗi như anh em và không muốn mất người ấy,
kiên trì đối thoại, cố gắng để người anh em ấy nghe ra và nhận lỗi,
kín đáo giữ thanh danh cho người ấy, đi từng bước trước khi quyết định.
Ngay cả khi Giáo hội đã đưa ra quyết định cuối cùng,
thì việc trở lại với cộng đoàn vẫn luôn mở ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.
Đức Giêsu phục sinh đã cho Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô
được quyền tháo cởi và ràng buộc (Mt 16, 19b; Ga 20, 23)
khi phải đưa ra các quyết định về những phần tử của mình (c. 18).
Sự hiện diện của những nhóm nhỏ trong cộng đoàn là điều có từ xưa.
Tuy nhóm chỉ có hai người, nhưng nếu họ đồng lòng xin một ơn nào đó,
thì Cha trên trời sẽ ban cho (c. 19).
Có nhóm hai hay ba người hội họp với nhau nhân danh Đức Giêsu,
thì Ngài có mặt ở trong cuộc gặp gỡ đó, và Ngài ở giữa họ (c. 20).
Đức Giêsu là Đấng Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).
Đức Giêsu phục sinh cũng hứa ở với các môn đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20).
Chính vì thế Ngài hiện diện một cách kín đáo, thầm lặng
Thiên Chúa đã đi với dân Ngài trong hoang địa.
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ.
Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm bạn có chung một niềm tin và tình yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Cuộc đời chúng con
Diễn ra quanh những chiếc bàn,
Làm bằng những chất liệu khác nhau,
Kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác nhau.
Nơi bàn học,
Ngài mở trí tuệ chúng con
Trước những chân trời mới,
Và dạy chúng con học đạo làm người.
Nơi bàn ăn,
Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con
Để chúng con có sức phục vụ tha nhân
Nơi bàn làm việc,
Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài
Trong việc xây dựng thế giới đại đồng huynh đệ.
Nơi bàn thờ,
Ngài cho chúng con được hiệp thông với Ngài,
Và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh thánh.
Lạy Chúa
Giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn này,
Để gặp gỡ, chia sẽ, để bàn bạc, thảo luận,
Để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực hành.
Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử dụng
Để tất cả trở nên con đường
Đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên quốc. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm 2: Sửa lỗi
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa thánh thiện không thể chịu được tội lỗi. Tội lỗi phải bị khai trừ. Tuy nhiên cách khai trừ có khác biệt từ Cựu Ước sang Tân Ước. Thời Cựu Ước cách khai trừ tội lỗi khắc nghiệt. Công lý nhiều hơn tình thương.
Ê-dê-kiên cho thấy cuộc thanh tẩy Giê-ru-sa-lem đầy máu. Thiên Chúa tiêu diệt thành phố tội lỗi: “Vinh quang Đức Chúa bay lên khỏi thềm Đền Thờ và dừng lại trên các thần hộ giá. Các thần hộ giá dang cánh và cất mình lên khỏi mặt đất…các bánh xe cũng chuyển theo”. Và một cuộc trừng phạt tàn sát không xót thương diễn ra: “Hãy đi theo người ấy vào thành mà chém giết. Đừng nhìn mà thương hại, đừng xót thương. Người già, thanh niên, thiếu nữ, cũng như đàn bà con trẻ, các ngươi hãy giết cho sạch”. Thật là nghiệt ngã (năm chẵn).
Ngay cả Mô-sê, một người tôi tớ trung tín suốt đời tận tuỵ phục vụ Chúa, người đã làm biết bao điềm kỳ phép lạ, người giải phóng Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai cập, người thiết lập một dân mới, người ban bố lề luật, thế mà cũng bị phạt khắc nghiệt. Thực ra tội của Mô-sê chính là tội của dân. Vì thương dân và chiều theo dân nên bỏ lời Chúa. Thế mà ông bị trừng phạt nặng nề. Không được vào đất hứa. Chết nơi xứ lạ quê người. Không chôn cất mồ mả. “Ông Mô-sê, tôi trung của Đức Chúa, qua đời tại đó, trong đất Mô-áp, theo lệnh Đức Chúa…Cho đến ngày hôm nay, không ai biết mộ ông ở đâu” (năm lẻ).
Đến thời Tân Ước, tình yêu thương được đề cao hơn công lý. Chúa truyền cho các cộng đoàn phải sửa lỗi anh em trước khi trừng phạt. Khi sửa lỗi cũng phải tế nhị. Trước hết phải kín đáo riêng tư. Khi không thể thuyết phục riêng tư mới dùng đến ảnh hưởng cộng đoàn. Phải cứu sống hơn giết chết. Phải tha thứ hơn kết án. Phải đón nhận hơn loại trừ. Phải sửa chữa hơn vất bỏ. Phải xây dựng hơn phá huỷ. “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em”. Sự hợp nhất phải xây dựng từ những đớn đau của thương tích, của tha thứ, của chữa lành. Bấy giờ tình yêu thương đoàn kết sẽ vô cùng quí giá và sâu xa. Đó chính là nền tảng để dâng lời cầu nguyện và được Chúa nhận lời: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Họp lại sau những xung khắc lỗi lầm mới thực sự sâu xa bền chặt.
Suy niệm 3: Cầu nguyện.
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là anh em mình. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa với Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thi hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.” (Mt. 18, 15-17)
Thật dễ dàng tố cáo Giáo Hội nghiêm khắc với các tín hữu, dựa vào luât khắt khe để phạt vạ tuyệt thông họ. Nhưng ta hãy nghĩ lại xem không phải Giáo Hội đoạn tuyệt, mà tại người đó từ chối vâng theo lời Thiên Chúa và Giáo Hội, họ làm tôi cho thần thế gian.
Trong Giáo Hội, ai từ chối vâng lời, kẻ ấy tự lìa bỏ Giáo Hội. Ai từ chối vâng lời Giáo hội là hội có quyền gải thích về Thiên Chúa thì kẻ ấy lìa bỏ Thiên Chúa.
Sự bất đồng.
Thật rõ ràng kẻ tội lỗi từ chối vâng theo luật Chúa. Luật Chúa không phải là cái ách, nhưhg là phương thế tình yêu giúp sống trung thành với Thiên Chúa. Vì tội lỗi, tôi từ bỏ Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa vứt bỏ tôi, đoạn tuyệt với tôi. Tình yêu của Ngài luôn luôn theo tôi. Sao tôi không gắn bó vời Thiên Chúa, sao tôi chối bỏ Ngài, khinh chê Ngài?
Giáo Hội có thể nhiều lần cảnh giác, khi dùng đe dọa phạt vạ tuyệt thông là để nhắc nhở ta đừng đi vào lầm lạc, làm xa lìa Thiên Chúa. Giáo Hội biết rõ sự nguy khốn. Giáo Hội cảnh giác, giữ gìn, đề phòng cho ta.
Nếu tôi phạm luật đi đường, không phải lỗi của nhà lập luật, phải nhắc nhở ta giữ trật tự, hơn nữa muốn ta gắn bó với hợp đồng chung. Tôi phải chịu trách nhiệm công dân.
Đồng tâm.
Hai câu sau của đoạn Tin Mừng hôm nay, nhắc nhở một sự thực mà người ta thường quên. Không chỉ cùng nhau cầu nguyện mà hơn nữa phải hợp nhất cùng nhau, phải đồng tâm cầu nguyện hướng về một đối tượng. Điều đó rất khó vì ngay trong một gia đình, giữa bạn hữu cũng khó có sự đồng tâm cầu xin về điều này điều kia, ngay cả trong Giáo Hội đôi khi phải ngạc nhiên chẳng nhận được điều chúng ta cầu xin! hãy đồng tâm nhất trí! Một lệnh truyền tốt đẹp…
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
J.M
Suy niệm 4: SỬA LỖI CHO ANH EM THEO TINH THẦN CỦA CHÚA ( Mt 18, 15-20)
Xem lại CN 23 TN A.
Nhận ra lỗi của mình và sửa lỗi cho anh chị em thật là khó. Khó là vì không ai muốn nhận lỗi về mình, và nếu có nhận ra lỗi của mình thì cũng khó chấp nhận sửa sai vì cái “tôi” quá lớn.
Nguyên nhân chính là sự bảo thủ nên dễ nhận thấy lỗi của người khác hơn là lỗi của mình, còn người khác thì dễ nhận ra lỗi của mình hơn là lỗi của họ.
Như vậy, nói về vấn đề sửa lỗi là chuyện rất khó! Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại bảo các môn đệ hãy đi sửa lỗi cho anh em!
Tâm tình mà Đức Giêsu muốn các môn đệ phải có trong khi sửa lỗi cho người khác là: yêu thương chân tình, tôn trọng, tế nhị, kiên trì và cầu nguyện. Làm được như thế thì mới thành công.
* Sửa lỗi nhau trong yêu thương chân tình: khi muốn sửa lỗi cho người khác, chúng ta phải luôn tâm niệm rằng: lỗi của người anh em đôi khi cũng là lỗi của chính mình. Và có lúc lỗi của mình còn nặng hơn của họ. Có thế, chúng ta mới dễ thông cảm, nhẹ nhàng và bao dung.
* Sửa lỗi trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo: hãy đến với anh em bằng những lời nói nhẹ nhàng, đầy tình nghĩa trong sự yêu thương: “Một mình anh với nó mà thôi”.
* Sửa lỗi trong tôn trọng: khi sửa lỗi cho nhau mà thiếu đi sự tôn trọng thì chỉ còn những lời chỉ trích, nguyền rủa. Có được sự tôn trọng, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, khiêm tốn khi sửa lỗi.
* Sửa lỗi trong sự tế nhị: thường những người phạm tội luôn mang hai trạng thái, một là tự ái, hai là mặc cảm, xấu hổ. Vì thế, nếu không tế nhị thì sẽ dễ dẫn đến thất bại và đào thêm hố ngăn cách cho anh chị em, làm cho sự việc trở nên trầm trọng hơn. Vì thế, cần phải tế nhị và kín đáo.
* Sửa lỗi trong kiên trì: thi hành việc sửa lỗi là cả một quá trình. Chuyện liên quan đến toàn thể con người, nó đụng đến tận gốc rễ của cái “tôi”, vì thế, không phải là chuyện làm một lần là xong. Hãy nhớ lại sự kiên trì của thánh nữ Mônica với thánh Âutinh con của ngài!
* Sửa lỗi trong cầu nguyện: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Mọi chuyện sẽ trở thành “công dã tràng” nếu không biết cậy dựa vào ơn Chúa. Đời sống cầu nguyện, kết hợp với hy sinh là điều quan trọng để quyết định thành công hay thất bại. Chúng ta nên nhớ rằng: sửa lỗi là việc của chúng ta, nhưng kết quả là việc của Chúa. Tự thân, chúng ta không có khả năng để thay đổi người khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết ý thức mình cũng là con người bất toàn nên cần đến ơn Chúa trợ giúp. Đồng thời, xin cũng cho chúng con ý thức rằng: Chúa luôn muốn chúng con cộng tác với Chúa trong việc thánh hóa anh chị em bằng việc sửa lỗi cho nhau trong tình thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5: SỨ VỤ HÒA GIẢI
(http://giaoducconggiaohdgm.org)
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên những sứ giả hòa giải. Người dạy cho chúng cách thức hòa giải để có thể “đến với người khác” và “đón nhận người khác”. Việc hòa giải này rất khó khăn vì đòi hỏi sự khai mở từ hai phía: chủ thể hòa giải và đối tượng được hòa giải. Trách nhiệm tình huynh đệ chân chính đòi hỏi chúng ta không được phép bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Sứ vụ này đòi hỏi thái độ sám hối và hòa giải đến cả từ hai phía. Bởi vì một sự thật mà chúng ta phải nhìn nhận rằng đã là người ai chẳng có lầm lỗi. Trong thâm tâm người Kitô hữu, ai cũng ước muốn được Thiên Chúa tha thứ, mà sự thật thì chính Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trước, ngay khi chúng ta còn là tội nhân (x.Rm 5, 10-11), vậy lẽ nào chúng ta lại không thể tha thứ cho anh em mình? Lời Chúa soi sáng cho chúng ta thấy rõ Thiên Chúa mới là chủ thể hòa giải đích thực, và chúng ta được mời gọi tham dự vào sứ mạng hòa giải này. Quyền cầm buộc và tháo gỡ được Chúa Giêsu thiết lập và trao ban không nhằm thể hiện quyền bính nhưng được thực hiện dưới ánh sáng của tình yêu. Bởi vì chính nhờ tình yêu mà chúng ta được cứu độ. Do đó, sứ mạng hòa giải phải được đặt trong tương quan hiệp thông. Chính trong sự hiệp thông này mà Chúa Giêsu trở nên chủ thể hòa giải: “Thầy ở giữa những người ấy” (x.Mt 15, 20).
Trong thế giới ngày nay, nhiều quốc gia đang nỗ lực kiến tạo nền hòa bình và hợp tác giữa các dân tộc. Chiến tranh, hận thù, chia rẽ là điều ai cũng sợ vì chúng chỉ mang lại chết chóc, bất an và mất mát. Tuy nhiên, chúng vẫn hiện diện đâu đó trong xã hội loài người, cộng đoàn tín hữu và các gia đình, nhất là tiềm ẩn trong lòng mỗi người. Là người Kitô hữu, chúng ta mang trong mình sứ vụ hòa giải. Vì vậy, trước hết người Kitô hữu được mời gọi hãy làm một cuộc xuất hành để ra khỏi chính con người mình để đến những nơi, những con người Chúa muốn. Đó là một thế giới đón nhận sự hiện diện của Thiên Chúa và nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi tha nhân. Khi làm như vậy là chúng ta đang góp phần xây dựng một thế giới mới mang màu sắc của nền văn minh tình thương, một thế giới thấm nhầm tình huynh đệ.
Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa trên thập giá là lời mời gọi chúng con sống sứ mạng hòa giải. Sứ mạng này cho chúng con thấy sự liên đới mật thiết giữa hai chiều kích hòa giải với nhau và hòa giải với Chúa. Xin cho chúng con biết nhận ra thân phận tội lỗi để biết thay đổi chính mình và ý thức sống tinh thần hòa giải trong tương quan với Chúa và anh em. Nhờ đó chúng con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, vì chính lúc cho đi là khi lãnh nhận, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.
Suy niệm 6: SỬA LỖI CHO ANH EM
(GKGĐ Giáo Phận Phú Cường)
Trong tương giao xã hội, ai trong chúng ta cũng thích sự tế nhị nơi người khác và cũng mong muốn thủ đắc sự tế nhị để thành công trong cuộc sống. Vì “điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mình đừng làm cho người” được xem là tiêu chuẩn để làm thước đo tính tế nhị. Tế nhị là sự khéo léo sử dụng những cử chỉ ngôn ngữ trong giao tiếp, ứng xử, thể hiện là con người có hiểu biết, có văn hóa; đồng thời, cũng thể thể hiện sự tôn trọng người khác.
Thánh sử Mátthêu thuật lại lời hướng dẫn của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi xưa, cũng là cho chúng ta hôm nay về sự tế nhị góp ý, giúp nhau xây dựng đời sống hoàn thiện “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (x. Mt 5, 48): “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi” (Mt 18, 15).
Có thái độ tôn trọng và tế nhị khi sửa lỗi người khác là cần thiết trong cộng đoàn, gia đình và Giáo Hội. Vì tính tế nhị đi liền với sự chân thành và lòng tôn trọng người khác. Người biết cách cư xử tế nhị sẽ mang lại sự hòa thuận vui vẻ với mọi người ở chung quanh. Trong khi theo tính khí và khuynh hướng tự đề cao mình, chúng ta thường có thói quen chỉ trích, chê bai công khai, nói xấu hay quyết liệt gièm pha, phản ứng gay gắt khi đối diện với những điều trái ý, phật lòng, khi bắt gặp những sai phạm hay khuyết điểm của người khác. Thiên Chúa mời gọi người Kitô hữu trong tình bác ái huynh đệ, những lúc như thế, chúng ta hãy gặp riêng người anh chị em, chỉ một mình ta với họ mà thôi. Việc gặp gỡ riêng tư giúp hai người đối thoại cởi mở hơn, bộc bạch với nhau và hiểu nhau hơn. Hơn nữa, gặp gỡ riêng tư trong giúp nhau hoàn thiện nên tốt hơn còn giúp chúng ta giữ gìn thanh danh và uy tín của nhau, kể cả người được góp ý và người góp ý. Bởi lẽ, người tế nhị cũng là người khiêm tốn. Không kín đáo đến mức khó hiểu, biết im lặng khi cần thiết. Không xúc phạm đến lòng tự trọng của người khác, cũng không tò mò thọc mách, không chế giễu người khác trước mặt cũng như sau lưng. Ngược lại, tế nhị cũng không phải bày tỏ lòng quan tâm quá mức cần thiết. Và con người tế nhị bao giờ cũng mang vẻ đẹp của lòng nhân hậu, tinh thần cao thượng và sự hiểu biết giàu có trong đời sống.
Mong thay, nhờ ơn Chúa giúp, mỗi chúng ta luôn nỗ lực sống tôn trọng và tế nhị với mọi người. Bởi lẽ, mọi người dù xấu hay tốt đều là con cái của Chúa.
Suy Niệm 7: Sửa bảo dựa trên bác ái
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Trong Giáo Hội, việc sửa bảo lẫn nhau phải dựa trên tinh thần bác ái. Các sinh hoạt trong Giáo Hội sẽ có giá trị tích cực khi nhân danh Chúa Giêsu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống hằng ngày, trước lỗi lầm của kẻ khác, con dễ dàng đưa ra lời kết án, buộc tội. Nên Chúa muốn con có một thái độ khác: đó là nhắc bảo giúp nhau sửa lỗi.
Việc kết án buộc tội làm con tách lìa khỏi kẻ khác, vì khi đó con xem họ là kẻ có lỗi, còn con là người không có lỗi, là người tốt. Chúa muốn con đến với những người yếu đuối, lỡ lầm, để thông cảm với họ và nhắc bảo họ về hành vi sai trái, với mục đích tách họ ra khỏi lầm lỗi, để họ có thể hội nhập vào cộng đoàn giáo xứ, giáo họ.
Lạy Chúa, con biết rằng để có thể giúp kẻ khác trở về, con cần phải yêu thương họ và đối xử với họ như anh chị em. Khi con chưa thật lòng thương yêu kẻ khác, con chưa thể giúp đỡ, nhắc bảo họ được. Xin Chúa giúp con yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu của Chúa, một tình yêu đầy lòng tha thứ và có sức mạnh cải thiện con người.
Chúa đã tha thứ cho người đàn bà ngoại tình, Chúa đã tha thứ cho thánh Phêrô… Chúa cũng đã tha thứ cho con biết bao lần. Chúa cũng muốn con thực hiện sự tha thứ ấy trong cuộc sống của con. Xin Chúa cho con cảm nghiệm được tình yêu Chúa dành cho con, để con sống tình yêu Chúa đối với kẻ khác.
Lạy Chúa, xin thương sửa dạy con. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em”.
Suy Niệm 8: Sửa lỗi và cần được sửa lỗi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Nhân gian có câu: “Nhân vô thập toàn”, nghĩa là con người không có ai hoàn hảo. Trong kiếp nhân sinh, ai cũng có những thiếu sót và lầm lỗi, mà tôi và bạn đã có những kinh nghiệm từ chính bản thân mình trong cuộc sống. Nhưng mỗi người theo thánh ý của Chúa Giêsu, được mời gọi vượt lên trên, chữa lành những khiếm khuyết, bất toàn, lầm lỗi để trở “nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Vì thế, mỗi người phải luôn sửa lỗi và cần được sửa lỗi.
Suy niệm
Chúa Giêsu trong Tin Mừng (Mt 18:15-17) dạy cho chúng ta bài học sửa trị trong tình huynh đệ xuất phát từ đức ái tuyệt hảo mà Đức Chúa Giêsu đã dạy: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,31).
Việc sửa lỗi cho nhau dựa trên tình yêu và lời của Chúa: “Anh em phải tha thứ cho nhau đến bảy mươi lần bảy”, nghĩa là cảm thông mãi mãi và tha thứ không ngừng…
Chúa Giêsu đã đưa ra tiến trình sư phạm tiệm tiến:
Một mình với người anh em có lỗi: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Tế nhị kín đáo, gìn giữ danh dự cho anh em là bổn phận của đức ái Kitô.
Nhưng nếu sự tế nhị của ta dành cho anh em bị khinh thường, chúng ta dùng biện pháp mạnh hơn bằng việc nhờ sự đóng góp, sửa chữa nơi những anh em khác có uy tín như Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân”. Nếu lòng nhân ái của chúng ta một lần nữa bị chà đạp, thì chúng ta nại đến Giáo hội can thiệp: “Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh”.
Nhưng nếu tất cả biện pháp đều thất bại thì: “Không nên lấy của thánh mà đem cho chó” hoặc “đem ngọc ném cho heo giẫm lên” (Mt 7,6), do sự cố chấp không muốn trở về chính lộ của người lỗi lầm. Đức Giêsu dứt khoát khép lại lộ trình sửa chữa: “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”, vì họ tự cắt đứt nguồn tình yêu bao dung đến từ Thiên Chúa qua anh em, tự tách mình ra khỏi cộng đoàn yêu thương, cộng đoàn tiến về sự hoàn thiện như Cha trên trời.
Tiến trình sửa sai huynh đệ mang tinh thần bao dung thương xót của tình yêu, nhưng công minh, thẳng thắn với kẻ cố chấp từ chối lòng nhân ái, bao dung của anh em. Trước bài học sửa sai huynh đệ mà Chúa dạy, chúng ta cùng rút tỉa cho cuộc sống mình:
Trong tư cách là người phạm lỗi: “Đừng nói: Tôi tự nhiên như vậy. Sửa sao được”, đó là những khuyết điểm con phải “nên người”, “nên con Chúa”. Những tính ấy bất xứng với con” (ĐHY FX. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng). Chân thành đón nhận và sửa chữa theo những chỉ bảo của anh em, của các vị trách nhiệm cộng đoàn để sự khiếm khuyết của mình được lấp đầy bằng tình yêu của Thiên Chúa qua anh em. Nếu không đón nhận sự chân thành sửa chữa từ anh em, chúng ta sẽ đối diện với cái họa: Họa vì chối bỏ tình thương của Thiên Chúa, họa do mình tự tách biệt, cách đứt nguồn suối ân sủng trong Giáo hội.
Trong bổn phận trách nhiệm giúp anh em sửa lỗi, tôi và bạn luôn mang tình yêu, mặc lấy lòng bao dung, đó là tiếng nói cảnh tỉnh giúp người anh em nhận ra lầm lỗi để sửa chữa, đó là nâng đỡ tình bác ái: “cuộc sống huynh đệ thử thách và nâng đỡ tình bác ái, cây trên rừng che đỡ nhau lúc gió bão” (Đường Hy Vọng).
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết mở lòng trước những lời chỉ dạy của anh em… Xin cho con được lòng đầy bao dung yêu thương, cất tiếng nói chân lý để bổ khuyết những thiếu sót, sửa chữa những lầm lỗi trong tha nhân.
Ý lực sống
“Anh em hãy mặc lấy áo của sự thành thật, thông cảm, nhân hậu… khiêm nhượng, hiền lành, kiên nhẫn. Chịu đựng lẫn nhau, tha thứ cho nhau… Trên hết mọi sự, anh em hãy mặc lấy tình yêu” (Cl 3,12-14).
Suy Niệm 9: Sửa lỗi cho anh em
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Tiếp tục nói về nếp sống cộng đoàn, Đức Giêsu dạy chúng ta cách thế sửa lỗi cho anh em. Người nhấn mạnh việc sửa lỗi phải dựa trên lòng bác ái, tình yêu thương, kiên nhẫn và xây dựng. Cách sửa lỗi của chúng ta nhằm giúp đương sự hồi tâm hoán cải. Khi có người trong cộng đoàn lỗi phạm, hãy sửa dạy cách kiên nhẫn qua nhiều giai đoạn: gặp riêng, nhờ một ít người nữa cùng mình đi thuyết phục, trình kẻ có thẩm quyền. Khi tất cả mọi cố gắng đều vô ích, thì mới kể người đó không là thành phần của cộng đoàn nữa.
Qua dụ ngôn về con chiên lạc, Chúa Giêsu đã cho biết: Thiên Chúa không muốn cho một tội nhân nào phải hư đi, nên qua bài Tin mừng hôm nay, Người buộc chúng ta phải làm hết sức mình để sửa lỗi cho nhau. Điều này đòi hỏi mỗi phần tử sống trong cộng đoàn phải lưu tâm vấn đề không được để một ai hư mất, nghĩa là phải tích cực đóng góp phần mình vào công việc giúp đỡ lẫn nhau sống hoàn thiện. Cần tránh những thái độ lãnh đạm, thờ ơ, khinh khi, xét đoán và kết án tha nhân, nhất là những người cần phải được giúp đỡ để nên hoàn thiện hơn.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc cho chúng ta về thái độ phải có đối với những người tội lỗi trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng đồng thời là cộng đoàn bao gồm những người yếu đuối, có thể lỗi phạm. Lời Chúa dạy về việc sửa lỗi huynh đệ cần được chúng ta lưu tâm: Kẻ phạm lỗi kia là người anh em chúng ta, chứ không phải là kẻ thù. Lời khuyên, giúp đỡ, sửa lỗi riêng tư phải là bước đầu tiên; kế đến là việc sửa lỗi chung nhờ sự hỗ trợ của cộng đoàn; cuối cùng là phán quyết của vị đại diện đã được Chúa trao cho tác vụ bảo vệ sự hiệp nhất và hiệp thông cũng như chữa trị những gì làm hại đến cộng đoàn (Mỗi ngày một tin vui).
Phải hết sức tế nhị trong việc sửa lỗi, đừng ăn nói một cách thẳng thừng. Sự việc đã xảy ra: Khi chứng kiến đội tuyển bóng đá nước nhà thắng chật vật đội Đài Loan với tỉ số 2-1, một vị quan chức nọ đã nói: “Ông Miura (huấn luyện viên của đội tuyển Việt Nam) là huấn luyện viên dở nhất trong lịch sử”.
Khi gặp điều không ưng ý, hay khi đứng trước những lỗi lầm, sai phạm, khuyết điểm của người khác, chúng ta thường có thói quen chỉ trích, chê bai họ cách công khai, quyết liệt, nhằm làm mất uy tín của họ, để rồi qua đó, ta kín đáo đề cao chính mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy có thái độ tôn trọng và tế nhị khi sửa lỗi người khác. Khi ấy, chúng ta hãy gặp riêng họ, chỉ một mình ta với họ mà thôi. Việc gặp gỡ riêng tư này giúp hai bên nói chuyện với nhau cách cởi mở hơn, cũng như hiểu biết nhau nhiều hơn. Không những vậy, việc này còn giúp chúng ta giữ gìn thanh danh và uy tín của họ.
Nói chung, tinh thần sửa lỗi cho nhau phải hoàn toàn đặt trên “nền tảng đức ái”, nhằm cứu vãn và xây dựng hơn là áp dụng kỷ luật. Vì đối với Chúa, mọi phương thức phải được sử dụng để đưa người tội lỗi trở về trước khi vấn đề được đặt ra trước cộng đoàn. Và nếu cộng đoàn phải dùng quyền, để loại trừ một phần tử bất khả kháng, thì điều này cũng chỉ vì bác ái mà thôi, bác ái đối với đương sự trước tiên, để đương sự biết hồi tâm hoán cải, sau đó bác ái với các phần tử khác trong cộng đoàn, kẻo có ai theo gương xấu mà phạm tội.
Sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật rất khó đạt được sự hoàn chỉnh. Do đó điều quan trọng trước tiên là phải tập cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Kitô ở giữa chúng ta. Nhờ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Kitô và nhờ sức mạnh của Ngài, chúng ta có thể dễ dàng giúp nhau sửa lỗi trong tinh thần xây dựng. Nếu những bệnh nhân cần đến sự săn sóc chữa trị của bác sĩ, thì những người lỗi lầm cũng cần đến tình thương và cảm thông của người khác để được nâng đỡ và khích lệ trên con đường hoán cải.
Truyện: Cách sửa lỗi đầy tình thương
Trong sách ẩn tu có câu chuyện sau: Ngày kia, vị Giám mục Amolas đến thăm mục vụ tại một làng nọ. Dân chúng bày tỏ sự bất mãn của họ đối với vị ẩn tu trên núi, vì ông hiện đang chung sống với một người phụ nữ.
Sau khi nghe những lời kết án, Giám mục Amolas quyết định cùng dân làng leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông, ông hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ trốn vào trong chiếc thùng rỗng.
Đức Giám mục là người đầu tiên đến và cũng là người đầu tiên bước vào túp lều. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ung dung, ngài đi thẳng đến ngồi trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân. Rồi bình thản vẫy tay gọi dân làng vào và bảo: “Vào đây, các người hãy vào đây và lục soát kỹ xem trong túp lều có người phụ nữ nào không”.
Họ tìm khắp nơi nhưng không thấy gì. Thấy tình thế đã dịu, Đức Giám mục mới nói: “Bây giờ các người phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa, vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ”.
Và sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám mục Amolas mới tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy”.
Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
- Hạt giống…
Chúa Giêsu dạy thêm hai điều nữa về nếp sống cộng đoàn :
- Khi có người trong cộng đoàn lỗi phạm, hãy sửa dạy cách kiên nhẫn qua nhiều giai đoạn : gặp riêng, nhờ một ít người nữa cùng mình đi thuyết phục, trình kẻ có thẩm quyền. Khi tất cả mọi cố gắng đều vô ích thì mới kể người đó không là thành phần của cộng đoàn nữa.
- Cộng đoàn cần tụ họp cầu nguyện chung với nhau, “vì đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thầy thì Thầy ở giữa những người ấy”.
B…. nẩy mầm.
- Để mất một phần tử của cộng đoàn là một nỗi đau rất lớn. Bởi đó Chúa Giêsu dạy chúng ta phải kiên nhẫn giúp những phần tử lỗi lầm hoán cải. Nhiều khi cách giải quyết của chúng ta không theo đủ những bước Chúa dạy nên mới đánh mất những người anh chị em.
- Chúa dạy những người trong cộng đoàn phải “hiệp lời cầu xin”. Hiệp lời cầu xin là cầu xin chung với nhau, cầu xin những điều chung của cộng đoàn. Chúa nói khi chúng ta hiệp lời cầu xin thì có Chúa ở giữa. Như thế những lúc cầu nguyện chung là những giây phút rất êm đềm hạnh phúc.
- Tôi rất vui khi một anh sinh viên đến kể : “Chúa nhựt vừa rồi khi giảng Cha đã bảo thỉnh thoảng nên đọc kinh lần chuỗi chung với nhau. Xưa nay mỗi tối con đọc kinh riêng một mình. Thằng em con thì rất nguội lạnh ít khi đọc. Tối Chúa nhựt ấy con rủ nó cùng con lần chuỗi. Hai anh em chỉ lần có hai chục thôi. Nhưng chúng con thấy rất sốt sắng. Hôm sau chúng con rủ thêm mấy thằng bạn nhà bên cạnh nữa.” Tôi không ngờ một lời khuyên nhỏ như thế mà lại sinh một kết quả to lớn như thế. Nhưng không phải, không phải nhờ lời khuyên của tôi, mà nhờ Thiên Chúa ở giữa những bạn trẻ ấy : “vì đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thầy thì Thầy ở giữa những người ấy”.
- Ngày kia một vị Giám mục đến thăm mục vụ một làng nọ. Dân chúng bày tỏ sự bất mãn của họ đối với một vị ẩn sĩ trên núi vì ông hiện đang chung sống với một phụ nữ. Sau khi nghe những lời kết án, vị Giám mục quyết định cùng dân làng leo lên núi. Thấy đám đông đến nơi mình ở, vị ẩn sĩ hoảng sợ bảo người phụ nữ trốn vào một chiếc thùng rỗng. Vị Giám mục là người thứ nhất bước vào trong lều. Ngài đưa mắt nhìn quanh và hiểu ngay sự kiện. Ngài bình thản đến ngồi trên chiếc thùng gỗ ấy và bảo dân làng vào lục soát. Nhưng không tìm thấy ai, dân làng đành ra về. Chờ cho mọi người đi hết, vị Giám mục nhìn sâu vào đôi mắt nhà ẩn sĩ và nói “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ linh hồn mình” (“Mỗi ngày một tin vui”)
- Đã có bao nhiêu cuộc họp mặt, bao nhiêu khối óc họp lại nhân danh công lý hòa bình, nhân danh quyền lợi tập thể, thậm chí nhân danh Đấng Tạo Hóa, để làm những điều đồi bại.
Nhân danh – đó là mỹ từ vẫn thường bị lạm dụng để che đậy, biện hộ cho các tôi ích kỷ, những ý đồ xấu xa, những mục đích đen tối.
Tôi cũng từng nhân danh Chúa để chỉ trích, lên án người này người kia. Nhân danh công tác nhà thờ để trốn tránh bổn phận và trách nhiệm bản thân.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhân danh Chúa để sống trong sự thật, trong yêu thương. Xin cho tất cả những thao tác, nỗ lực và công việc của con chỉ nhằm vinh danh Chúa. (Hosanna)
- “Thầy bảo thật anh em : Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.” (Mt 18,19)
Tôi không thể ngờ được, người bạn thân nhất của tôi lại có thể hiểu lầm tôi. Thật khó có thể trở lại làm bạn như cũ ! Và tôi cùng nó đến nhà thờ… Vị chủ tế nói : “Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho hai người luôn gắn bó bên nhau…”
Quay qua nó tôi nói :
– Bạn hãy cùng tôi cầu nguyện cho chúng ta và cho mọi người !
Bây giờ tôi và nó càng thắm thiết hơn xưa.
Lạy Cha, xin cho chúng con biết đồng tâm nhất trí với nhau trong kinh nguyện, để Cha chúc phúc và nâng đỡ chúng con hôm nay và mãi mãi. (Hosanna)
Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu dạy thêm hai điều nữa về nếp sống cộng đoàn:
- Để mất một phần tử trong cộng đoàn là một nỗi đau rất lớn. Bởi đó Chúa Giêsu dạy chúng ta phải kiên nhẫn.
Trong quyển sách nói về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện như sau:
Ngày kia, khi đức giám mục Amôlas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án.
Thấy giám mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh ngài và nói:
– Hôm nay, ngài đã đến đây thì ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, giám mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau.
Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.
Đức giám mục là người đầu tiên đến, và cũng là người đầu tiên bước chân vào túp lều. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ung dung, ngài đi thẳng đến ngồi trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân. Rồi bình thản khoác tay gọi dân làng vào mà bảo:
– Vào đây. Các ngươi hãy vào mà lục xét kỹ xem trong túp lều có người phụ nữ nào không.
Họ tìm khắp nơi nhưng không thấy bóng dáng người đàn bà đâu cả. Thấy tình thế đã dịu, đức giám mục mới nói:
– Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.
Và sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, đức giám mục Amôlas mới tiến gần vị ẩn tu nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:
– Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy.
Hai thái độ khác nhau đối với một người lẫm lỗi giữa dân làng và giám mục Amôlas có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của nhau.
Ngược lại, với phản ứng của dân làng, Đức giám mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu, tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân làm cho việc nói chuyện được dễ hơn.
Tiếp đến, ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền nhưng dùng thẩm quyền để bảo vệ, và sau đó khuyên nhủ như một người anh em.
Và sau cùng, ngài đã không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang, nhưng không quên, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.
- Chúa dạy những người trong hội đoàn phải “hiệp lời cầu xin” (Mt 18,19). Chúa nói khi chúng ta hiệp lời cầu xin thì có Chúa ở giữa. Như thế, những giây phút cầu nguyện chung là những giây phút rất êm đềm hạnh phúc.
Trong một túp lều tranh lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô của thành phố Bombay, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại.
Chồng bà là một người cha gia đình tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhoẹt và cờ bạc, không thiết chi đến gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày. Các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèm hoặc trong trận lôi đình đập đánh, chửi rủa.
Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo toàn tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con.
Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của người chồng.
Rồi vào một buổi tối kia chồng của chị trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say hơn. Vừa bước tới hiên nhà ông nghe có tiếng thì thầm từ trong túp lều vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và ông tự nhủ: “Thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta”.
Ông dừng lại trước cửa và áp sát tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe lá hở. Quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông. Ông nghe rõ tiếng bà nói với các con:
– Các con hãy đọc thêm một kinh lạy cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con.
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung hăng trong trái tim ông như tắt ngụm. Tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng. Mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài.
THỨ NĂM TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Mt 18,21 – 19,1
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
“Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
“Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. “Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Khi Chúa Giêsu nói những lời đó xong, thì Người bỏ xứ Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông Giođan.
Suy niệm 1: Bảy mươi lần bảy
Suy niệm:
Có khoảng cách rất lớn giữa mười ngàn yến vàng với một trăm quan tiền.
Mười ngàn yến vàng bằng một trăm triệu quan tiền.
Vậy mà người vừa được tha món tiền cực lớn ấy,
lại không tha được cho bạn của mình một món tiền tương đối nhỏ.
Thái độ độc ác này khiến tôi nhìn lại mình và tự hỏi tại sao.
Tại sao tôi không tha cho anh em tôi những điều nhỏ mọn hàng ngày,
trong khi Chúa vẫn tha cho tôi những món nợ rất lớn?
Dù một trăm quan tiền là hơn ba tháng lương của người lao động,
nhưng nó chẳng là gì so với món tiền lớn tôi mắc nợ Chủ tôi.
Tôi mắc nợ Ngài sự hiện hữu của tôi trên đời và tất cả những gì tôi có.
Tôi mắc nợ Ngài vì tình yêu bao la Ngài dành cho tôi.
Món nợ lớn vô cùng, vì tôi là thụ tạo, còn Ngài là Tạo Hóa.
“Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết” (cc. 26. 29).
Cả hai người đầy tớ đều sấp mình van xin như thế
khi cả hai đều không thể nào trả ngay được món nợ.
Nhưng hai câu trả lời nhận được lại khác nhau.
Chỉ vị vua mới biết chạnh lòng thương xót và tha toàn bộ số nợ (c. 27).
Còn người đầy tớ vừa được tha món nợ lớn, lại không có lòng thương xót này.
Anh ta thích dùng sức mạnh và quyền lực để giải quyết.
Túm lấy, bóp cổ, tống bạn mình vào ngục cho đến khi trả xong.
Lẽ ra anh ta phải cư xử với bạn mình như ông chủ đã cư xử với anh.
Đó chính là nội dung lời buộc tội của ông chủ giận dữ:
“Ngươi không phải thương xót đồng bạn,
như chính ta đã thương xót ngươi sao ?” (c. 33).
Lòng thương xót anh nhận được đã không trở thành dòng suối mát
chảy đến với người bạn đang cần chút xót thương.
Chính vì thế sự tha thứ mà anh nhận được từ chủ
phút chốc bị rút lại, bị xóa sạch.
Anh lại bị trở về tình trạng trước đây,
bị quân lính hành hạ, bị tù đầy cho đến khi trả hết (c. 34).
Sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta
chỉ ở lại với điều kiện là nó được chuyển đi, chứ không giữ lại.
Giữ lại đồng nghĩa với bị rút lại.
Món quà tôi nhận được từ Cha phải trở thành món quà tôi trao cho anh em.
Trong cuộc sống, chúng ta là con nợ của nhau, người này nợ người kia.
Trước những xúc phạm của người anh em trong cộng đoàn,
Phêrô nghĩ phải chăng nên tha đến bảy lần.
Đức Giêsu mời ta tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha đến vô cùng.
Ngài mời ta đi vào chỗ sâu nhất trong trái tim Thiên Chúa.
Sự tha thứ bắt nguồn từ tấm lòng, từ trái tim (c. 35).
Một trái tim tàn nhẫn chỉ biết đến một sự công bằng cứng cỏi.
Thế giới hôm nay cần một trái tim tha thứ hơn bao giờ.
Những nước nghèo mong chờ được tha những món nợ lớn.
Có những mối thù cần được tha giữa các sắc tộc, quốc gia, tôn giáo…
Người Kitô hữu chúng ta giúp gì cho sự tha thứ trong thế giới hôm nay?
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm 2: Tha thứ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tha thứ một điều cần thiết nhưng lại khó khăn biết bao. Cần thiết vì nếu không tha thứ ta không thể sống với ai được. Con người là bất toàn. Luôn sai lỗi. Nếu ta không tha thứ thì cuối cùng chỉ còn mình ta với ta. Và ta cũng bất toàn. Nếu người khác không tha thứ thì ta cũng không sống nổi. Nhưng trên hết ta phải tha thứ để được Chúa thứ tha. Vì Chúa là Đấng hay tha thứ.
Chúa là Đấng từ bì thương xót. Luôn tha thứ lỗi lầm của con người. Lịch sử của con người là lịch sử của tình thương. Thiên Chúa yêu thương con người. Tạo dựng nên con người. Cứu chuộc con người. Sau Mô-sê đến lượt Gio-suê hướng dẫn dân Chúa ra khỏi Ai cập tiến vào Đất Hứa. Ra khỏi nô lệ khổ cực tiến vào tự do yêu thương. Ra khỏi đất ăn nhờ ở tạm vào đất sở hữu vĩnh viễn. Chúa yêu thương cho dân vượt qua Biển Đỏ. Hôm nay lại cho dân vượt qua sông Gio-đan khô chân. Qua sông qua biển. Đó là tình yêu thương của Chúa (năm lẻ).
Biết bao tình yêu thương Chúa bày tỏ với dân Ít-ra-en. Nhưng họ luôn cứng đầu cứng cổ. Phản loạn. Tội lỗi. Chúa phải sai các tiên tri đến cảnh tỉnh họ. Sửa chữa họ. Trừng phạt họ. Để họ tỉnh ngộ. Ê-dê-kiên trở nên dấu chỉ báo trước hình phạt Chúa giáng xuống ông hoàng và dân cư Giê-ru-sa-lem. “Tôi là điềm báo cho các ông. … Họ sẽ phải đi tù, đi đày. Ông hoàng đang ở giữa họ sẽ vác hành lý lên vao lúc trời tối và sẽ ra đi; họ sẽ khoét một lỗ trên tường cho ông chui qua. Ông sẽ che mặt để chính mắt khỏi nhìn thấy xứ sở” (năm chẵn). Chúa cảnh báo để họ sám hổi, để được tha thứ.
Nhưng rồi Chúa lại tha thứ tất cả. Để tha thứ Chúa gửi Con Một xuống trần gian. Chịu mọi đau khổ để đền tội cho con người. Để đưa con người vượt qua biển trần gian. Để con người được vào không phải đất hứa ở trần gian, nhưng vào đất hứa trên thiên đàng. Để tha thứ cho ta Chúa phải chịu khổ nhục thiệt thòi như vậy. Chúa dạy ta phải tha thứ cho anh em. Tha như Chúa. Tha mãi mãi. Tha không giới hạn. Đó là điều kiện để ta được Chúa tha thứ. Đó là cách thế để cứu thế giới. Thế giới tràn đầy tội lỗi. Không thể tồn tại nếu thiếu lòng tha thứ. Hơn nữa ta phải tha thứ để làm chứng cho Chúa. Làm sáng lên lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Để nhân loại nhận biết Chúa. Đây là thời đại cuối cùng. Đây là lúc biểu lộ tình thương. Đây là thời kỳ của ân sủng. Ơn tha thứ. Lòng thương xót cho con người. Ta hãy cũng Chúa đem ơn tha thứ cho thế giới bằng chính sự khoan dung tha thứ của ta.
Suy Niệm 3: Tha Thứ
Một đôi vợ chồng nọ đưa nhau ra tòa xin ly dị. Vị luật sư biện hộ cho quan tòa biết: đôi vợ chồng này sống hoàn toàn yên lặng với nhau trong suốt 12 năm liên tiếp. Họ cũng không muốn gặp nhau nữa, nếu cần cho nhau biết điều gì, thì họ chỉ cần viết vào một mảnh giấy để sẵn trên bàn cho người kia đọc. Ðôi vợ chồng này trước đây đã sống hạnh phúc với nhau trong vòng 18 năm, đã nuôi nấng con cái khôn lớn, nhưng rồi không rõ vì lý do gì, hai người đã không thèm nói chuyện với nhau, và giờ đây họ không nhớ đã giận nhau vì lý do gì.
Những hờn giận, phiền muộn xẩy ra trong sinh hoạt hằng ngày, nếu không được nghiêm chỉnh giải quyết, vượt qua, thì sẽ dễ dàng chồng chất làm thành những bức tường ngăn cách giữa cha mẹ với nhau, hay giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, hoặc giữa bạn bè thân thích. Những tâm tình phiền muộn tiêu cực mỗi ngày một ít cũng đủ ảnh hưởng đến cả cuộc sống, làm chúng ta không còn vui sống và bình an nữa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hòa bình. Cuộc đời là một cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang nặng gánh ưu tư, phiền muộn thì làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó chúng ta hãy luôn sống tha thứ để tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và an vui.
Một nhà tâm lý người Mỹ đã đưa ra nhận định như sau: Trên bình diện nhân bản, nếu suy nghĩ cho cùng, thì tha thứ là giải pháp tốt nhất cho người tha thứ và kẻ được tha thứ: sự tha thứ khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành mạnh vui tươi hơn. Trên bình diện thiêng liêng, sự tha thứ có giá trị tích cực, chứng tỏ tình thương làm phát sinh nguồn an ủi trong tâm hồn; nếu chúng ta không thật lòng tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng không tha thứ cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, và như vậy chúng ta trở thành khí cụ đem niềm vui đến cho mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Bản Sắc Của Người Kitô Hữu
Cuộc xung đột đẫm máu giữa người Do Thái và Palestin tại Trung Ðông cũng như những người công giáo và tin lành tại Bắc Ailen, hay giữa những chủng tộc khác nhau tại nhiều nơi khác trên thế giới cho chúng ta thấy rằng oán thù luôn sinh ra oán thù, bạo động luôn kéo theo bạo động, thế giới sẽ chẳng bao giờ có được hòa bình đích thực khi con người chưa biết tha thứ cho nhau.
Tin Mừng hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta đi vào cốt lõi của Tin Mừng là sự tha thứ, đây là tuyệt đỉnh của giáo huấn của Chúa Giêsu. Ngài sẽ chỉ là một kẻ lừa bịp và tòa giáo huấn của Ngài sẽ sụp đổ nếu trong giây phút cuối đời, từ trên thập giá, Ngài đã không tha thứ cho những kẻ đang hành hạ mình. Lời cầu xin tha thứ của Chúa Giêsu là bảo chứng của những lời Ngài rao giảng. Suy niệm về sự tha thứ, trước hết chúng ta phải hướng về tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót, chậm giận và hay tha thứ. Toàn bộ Kinh Thánh là lịch sử của những cử chỉ tha thứ của Thiên Chúa và sự bắt đầu lại của con người. Mỗi một lần con người vấp ngã là mỗi lần Thiên Chúa thực thi lòng thương xót. Ngay từ trang đầu tiên của Kinh Thánh, chúng ta đã thấy được sự tha thứ của Thiên Chúa. Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã không bỏ mặc hay trừng phạt, mà trái lại còn hứa ban ơn cứu rỗi. Xuyên suốt Kinh Thánh Cựu Ước, Thiên Chúa trải dài tình yêu nhẫn nhục tha thứ cho dân riêng của Ngài. Qua Chúa Giêsu, lòng tha thứ của Chúa Cha đã bộc bạch một cách trọn vẹn. Những trang cảm động nhất trong Tân Ước hẳn phải là những trang về lòng tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện qua lời nói, cử chỉ của Chúa Giêsu.
Còn bức tranh nào đẹp và cảm động cho bằng phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang. Từ buổi sáng tinh mơ, trong khi đám đông do các luật sĩ và biệt phái động viên đang hậm hực sẵn sàng ném đá người đàn bà khốn khổ, Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng, và cuối cùng, khi đám đông đã rút lui, Ngài chỉ ôn tồn nói với chị: “Chị hãy về đi, Ta không kết án chị”.
Còn áng văn nào đẹp cho bằng dụ ngôn về người con hoang đàng được ghi lại trong Tin Mừng theo thánh Luca. Còn lời nào dịu ngọt hơn lời tha thứ của Chúa Giêsu dành cho người được mệnh danh là kẻ trộm lành chịu đóng đinh bên hữu Ngài, và dĩ nhiên còn cử chỉ nào hào hùng và cao thượng hơn lời cầu xin tha thứ cho những kẻ lý hình trước khi trút hơi thở cuối cùng.
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chậm giận và hay tha thứ. Ðó là tuyệt đỉnh của mạc khải Kitô giáo. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta qua lời giảng dạy và cách cư xử của Ngài là Thiên Chúa hay thương xót và tha thứ. Lòng thương xót và tha thứ thiết yếu là của Thiên Chúa, con người không thể tự mình tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã không tự mình tha thứ, Ngài cầu xin Chúa Cha tha thứ. Thiên Chúa thực thi lòng tha thứ qua con cái Ngài. Tự mình tha thứ không phải là điều tự nhiên đối với bản tính con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta phải kêu cầu ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tha thứ cho người khác: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa và sẵn sàng tha thứ cho người khác, đó là cuộc chiến đấu của cả một đời người nhưng đó cũng là cuộc chiến làm nên bản sắc của người tín hữu Kitô. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là tín hữu Kitô khi họ biết tha thứ mà thôi.
Suy Niệm 5: Sáng và tối.
Bấy giờ ông Phê-rô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt. 18, 21-22)
Ý nghĩa hai dụ ngôn này đã rõ ràng. Chúng ta không thể khước từ tha thư cho người khác vì Thiên Chúa cũng tha thứ cho mỗi người chúng ta hơn thế nhiều. Chúng ta cũng không thể không biết rằng thái độ của chúng ta đối vời anh em lân cận. Thì không có lý gì chúng ta sẽ tránh khỏi Thiên Chúa không xử với chúng ta như vậy. Chúng ta là nạn nhân của chính lối cư xử và hành động chúng ta.
Tối.
Thường những dụ ngôn của thánh Mát-thêu cũng như câu chuyện nhỏ này mang nặng bi quan. Nó phác họa những con người, những cách đối xử với nhau đáng buồn và kết thúc bằng kết án đầy tớ độc ác kèm theo sự đe dọa của hình phạt đối với kẻ không biết tha thứ. Chắc là bi quan rồi, nhưng như thế có sai lầm không? Chúng ta có cư xử cách khác đối với anh em ta không? Người ta nói: “Người là chó sói đối với người”
Ở đây nói về các môn đệ Chúa Giêsu, nói về mỗi người chúng ta, chúng ta có cư xử với nhau như thế không? có độc ác như thế không? có dã man không? dụ ngôn này Đức Giêsu không chỉ nói với các môn đệ hình như đã sống không có tình yêu huynh đệ, nó còn nói với chúng ta hiện nay nữa.
Sáng
Xuyên qua câu truyện dụ gôn này có thấy sáng lên hình bóng của nhà vua. Lòng thương xót của nhà vua biểu lộ qua những cách cư xử ban đầu làm cho dụ ngôn này một vẻ tươi sáng, nhưng rồi lại tuôn đi. Lối cư xử của đầy tớ ban đầu có vẻ lành mạnh: Nó lăn xả vào tay Chúa. Chúa không bắt buộc nó nữa. Người Cha của đầy tớ van xin này là người cha của đứa con phung phá. “Một người phủ đầy tội lỗi luôn được quan tâm ưu ái, đó là cái đích cho lòng thương xót nhắm bắn” Lê-on Bloy nói thế.
Nơi pháp trường người tội lỗi như món nợ vô phương đền trả, được trông thấy một người tiến lại cứu giúp. Gảii thoát nó hoàn toàn! Lòng tha thứ đưa đến một chân trơì mới, đến đời sống mới và gắn bó lòng thương xót tha thứ lẫn nhau.
J.M
Suy niệm 6: Tha thứ và yêu thương không giới hạn
Xem lại CN 24 TN A, Thứ Ba Tuần 3 MC.
Toàn bộ Tin Mừng được gói trọn trong hai điều răn là: “Mến Chúa và yêu người”; nói cách khác: “Mến Chúa và yêu người là hai mặt của một thực tại”, nó như hai mặt trên cùng một bàn tay. Thật vậy, nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì là người nói dối vì sự thật không ở trong người đó. Vì thế, luật Tin Mừng đòi hỏi mến Chúa và yêu người phải luôn đi đôi với nhau như hình với bóng.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho Phêrô một bài học về sự tha thứ khi ông đến hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?”. Đức Giêsu liền nói: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Điều đó cho thấy rằng: tha thứ triền miên, tha thứ không giới hạn…
Nhưng muốn tha thứ trong tự do và đem lại hạnh phúc, thì điều quan trọng là nhận ra mình không là gì cả, nhưng vẫn được Chúa yêu thương. Mình đáng phải chết mà Chúa đã cứu sống và tha thứ. Vì thế, mình phải có trách nhiệm cứu giúp và yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa đã thương mình. Dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” là điều mà con người hay mắc phải. Tức là chỉ cầu cứu Thiên Chúa tha thứ cho mình, còn người khác khi có lỗi với mình, mình tìm mọi cách triệt tiêu và đóng đinh họ cho bằng được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống trong tình yêu của Chúa. Biết yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng con. Đồng thời sẵn sàng tha thứ cho những thiếu xót, bất toàn của anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tha thứ vô điều kiện
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúng ta phải tha thứ cho nhau vô điều kiện, bởi vì Thiên Chúa nhân lành luôn thương xót và tha thứ mọi lỗi lầm cho ta trước.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con chúc tụng tình thương độ lượng hải hà mà Cha đã thực hiện nơi nhân loại và nơi bản thân yếu đuối của con. Chúa không nhìn đến lòng phản trắc đáng phải chết khi nguyên tổ chúng con sa ngã phạm tội, Cha đã tha thứ và gọi tên A-đam, E-và, để loan báo chương trình cứu thoát. Từ lời hứa ấy, Cha đã từng bước thực hiện ơn cứu độ và hoàn thành trong Đức Giêsu Tử Nạn và Phục Sinh. Cha còn tiếp tục ban lại cho con sự sống của Cha cách dồi dào hơn nữa trong Ngôi Thánh Linh. Vâng, nhân loại đáng chết đã được hưởng lòng thương xót thứ tha của Cha. Con sẽ mãi ca tụng Cha nhân từ trọn đời sống con.
Lạy Cha là Đấng luôn tha thứ và hay thương xót, xin cho con biết học bài học rộng lượng, khoan dung để con đối xử như thế với mọi người anh em. Xin cho con biết vì Cha mà tha thứ tất cả cho mọi người có điều xích mích, bất hòa với con, không giới hạn, không điều kiện. Con ý thức được rằng con tha thứ cho anh em không phải vì con cao thượng hay vì con nhân đức, cũng không phải vì người anh em nhận ra lỗi và hạ mình van xin. Nhưng lạy Cha, chỉ vì một lý do là Cha muốn con tha thứ, như Cha đã tha thứ cho con trước. Xin cho mỗi lần con cố gắng tập tha thứ, là con trở nên giống Cha và giống Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ giết hại mình.
Con cầu xin cho mọi anh chị em con cùng sống theo lời Chúa Giêsu chỉ dạy: hãy tha thứ để được thứ tha. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”.
Suy Niệm 8: Trả thù: cách của người công giáo
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có hai người thổ dân Nam Phi rất ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Tên ấy liền bắt cô bé, lấy dao chặt hai ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy về vừa khóc, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn: “Trả được thù rồi”.
Ngày qua tháng lại, thấm thoắt mười mấy năm, cô gái đã có chồng con. Một hôm, có một tên ăn mày tới xin ăn. Người đàn bà nhận ra đó là kẻ chặt ngón tay mình, vội vàng trở vào nhà bảo đầy tớ đem sữa bánh ra cho ăn. Khi kẻ kia ăn no rồi, người đàn bà đưa bàn tay cụt hai ngón ra cho hắn xem và nói: “Tôi cũng đã trả được thù rồi”. Tên ăn mày xúc động khóc ngất. Riêng bà kia vì đã trở lại đạo nên hiểu rằng: “Nếu kẻ thù mình đói, hãy cho nó ăn, khát hãy cho nó uống…” (Rm 12,20) .
Hai cách trả thù: Cách của người ngoại giáo và cách của người công giáo (Trích “Phúc”).
Suy niệm
Trong nỗ lực đưa nhân loại đến với đức ái trọn hảo, Chúa Giêsu đã dạy con người phải biết tha thứ không ngừng cho nhau qua con số tha thứ bảy mươi lần bảy tức là luôn tha thứ. Chính Ngài là tấm gương sống động khi cất lời xin Cha tha thứ cho những kẻ thi hành án tử với Ngài (x. Lc 23,34). Tấm gương tha thứ ngay lúc họ gây cho Ngài đau khổ nhất, phản chiếu khuôn mặt nhân từ như Ngài kêu gọi: “Phải có lòng nhân từ” (Lc 6:36).
Hơn nữa, tha thứ là điều kiện để chính mình được thứ tha như Ngài dạy trong kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con nhưng chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12). Sách Huấn Ca nhấn mạnh kẻ thù hận là người không có lòng yêu thương và không đáng được tha tội: “Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó ?” (Hc 28,4-5). Cho nên, sách Huấn Ca đã dạy trước: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28,2).
Chính vì lẽ đó Chúa Giêsu kêu mời mọi người: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ… Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:36-37).
Tha thứ, khuyến khích người được thứ tha trở về với con đường chính lộ và nảy sinh tình yêu khi sống trong vòng tay nhân ái, đó là động lực để họ dấn thân trong yêu thương: Ai được tha nhiều sẽ mến nhiều, ai được tha ít sẽ mến ít (x. Lc 7,47b). Sống tha thứ là giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe thăng tiến. Tha thứ làm thêm cho cuộc sống tâm linh: tiến tới đức ái trọn hảo theo gương Chúa Kitô, cũng làm cho cuộc sống thêm nhân văn: Sức khỏe được bảo vệ.
Tuy nhiên, con đường dẫn đến thứ tha cũng đầy gian nan dù chỉ nói một lời tha thứ. Mỗi chúng ta có cảm nghiệm: Để đến và hòa giải được quả thật không đơn giản, nhất là những ai gây tổn thất nặng về tinh thần và thể xác. Tha thứ luôn đòi hỏi vừa có sự nỗ lực cố gắng nơi con người, vừa cần trợ giúp ân sủng đến từ Thiên Chúa, Đấng tỏa sáng gương mặt bao dung, yêu thương, chậm giận và giàu lòng xót thương.
Con sẽ cố gắng tha thứ, xin cho con được ân sủng thứ tha của Thiên Chúa ở trong con, để con có thể can đảm tha thứ cho anh em.
Ý lực sống:
“Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
Suy Niệm 9: Hãy tha thứ cho nhau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Cuộc sống cộng đoàn cũng thường có nhiều va chạm nên Chúa Giêsu dạy thêm bài học về tha thứ: phải tha thứ luôn như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Những gì chúng ta tha thứ cho nhau, thì không là gì cả so với sự tha thứ của Thiên Chúa với chúng ta. Thật thế, “Thiên Chúa là Tình yêu”, bản chất của Thiên Chúa chính là tình yêu. Tình yêu của Người không bờ bến, nên Người cũng muốn chúng ta trao cho nhau tình yêu vô điều kiện, không giới hạn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hoà bình. Cuộc đời là một cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang nặng gánh ưu tư, phiền muộn thì làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó, chúng ta hãy luôn sống tha thứ, để tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và an vui (Mỗi ngày một tin vui).
Người Do thái cũng được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha đến lần thứ mấy mới thôi. Có ý kiến cho rằng chỉ có thể tha thứ tối đa là bốn lần, người Việt Nam chúng ta thì nói “sự bất quá tam” hay “quá tam ba bận” là cùng, bước sang lần thứ tư là coi như đã vượt chỉ tiêu. Do đó, ông Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa Giêsu. Chúa cho biết phải tha thứ luôn, phải tha thứ mãi, không giới hạn số lần. Và để làm sáng tỏ vấn đề, Chúa dùng một dụ ngôn. Dụ ngôn này có nghĩa là chúng ta mắc nợ với Chúa thì nhiều lắm: tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Chúa vừa nhiều vừa rất nặng nề, dường như không thể tha thứ được, nhưng Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Trong khi đó những lỗi phạm của anh em với ta, dù thế nào chăng nữa, cũng không đáng gì so với tội lỗi chúng ta đã phạm đến Chúa, thế mà chúng ta chấp nhất, ti tiện, không tha thứ. Nếu vậy, chúng ta đừng hòng mong Chúa tha thứ cho chúng ta. Phải thực hiện lời Chúa dạy: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (kinh Lạy Cha).
Chân phước Maurice Tornay nói: “Chúng ta phải tha thứ cho nhau vô điều kiện, bởi vì Thiên Chúa nhân lành, luôn thương xót và tha thứ mọi lỗi lầm của chúng ta trước”.
Hôm nay Chúa Giêsu dạy ông Phêrô phải tha thứ cho người khác bảy mươi lần bảy. Ở đây, Chúa Giêsu không có ý nói ông Phêrô hãy đếm số lần tha thứ: một lần, hai lần… nhưng điều Chúa Giêsu muốn nói là ông phải tha thứ mãi mãi, tha thứ không tính toán, tha thứ tất cả. Tại sao vậy? Bởi vì trong văn hóa Israel con số 7 tượng trưng cho sự hoàn hảo, thành toàn, nên kiểu nói 70 lần 7 ở đây hàm nghĩa sự viên mãn tròn đầy. Vì vậy, khi Chúa Giêsu nói tha thứ 70 lần 7 nghĩa là tha thứ mãi mãi, tha thứ tất cả.
Để diễn tả tình yêu thương của Chúa hầu khích lệ chúng ta tha thứ cho nhau đã trình bày về dụ ngôn người đầy tớ mắc nợ không biết thương xót.
– Mỗi nén vàng thời xưa là sáu ngàn quan tiền, tương đương với sáu ngàn ngày công, và mười ngàn nén bạc, trị giá khoảng một trăm ngàn lượng vàng.
– Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu có ý làm nổi bật sự khác biệt giữa hai món nợ và hai thái độ, để cho thấy lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa và sự vô lý của lòng dạ con người, khi không sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác.
– Điều cần lưu ý là trong dụ ngôn này, lý do thúc đẩy ta tha thứ cho anh em chính là tình thương hải hà của Thiên Chúa đối với chúng ta, chứ không phải vì anh em biết điều mà xin lỗi, cũng chẳng phải vì chúng ta cao thượng hay nhân đức không chấp lỗi lầm (Lm. Trần Hữu Thành).
Chúa Giêsu dạy chúng ta phải kêu cầu ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tha thứ cho người khác: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa và sẵn sàng tha thứ cho người khác, đó là cuộc chiến đấu của cả một đời người, nhưng đó cũng là cuộc chiến đấu làm nên bản sắc của người tín hữu Kitô. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là tín hữu Kitô khi họ biết tha thứ mà thôi.
Truyện: Tha thứ cho kẻ thù
Một hiệp sĩ dũng cảm tên là Hildebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hildebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng ông chọn địa điểm và thời gian thuận lợi.
Ông thức dậy nửa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết là Brunô sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một nhà nguyện nhỏ mở cửa. Ông vào đó để chờ sáng, và trong khi chờ đợi, ông tiêu khiển bằng cách nhìn các bức tranh trong nhà nguyện.
Bức thứ nhất vẽ Đấng Cứu Thế mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi bằng tiếng La tinh câu này: “Bị lăng nhục, Ngài không đáp trả lại lăng nhục”. Bức thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi bị đánh đòn, với hàng chữ: “Khi chịu những khổ đau như thế, Ngài không hề đe doạ”. Và cuối cùng bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập giá, hàng chữ là: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.
Nhìn liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hildebrand bị xúc động mạnh. Ông quì gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ gặp để tha thứ và để làm hoà với nhau (Góp nhặt).
Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
- Hạt giống…
Cuộc sống cộng đoàn cũng thường có nhiều va chạm, nên Chúa Giêsu dạy thêm bài học tha thứ :
– Phải tha luôn, tha mãi “không phải đến 7 lần nhưng đến bảy mươi lần bảy”.
– qua dụ ngôn hai con nợ, Chúa Giêsu nói : ta có tha cho anh em thì Chúa mới tha cho ta. Ta tha cho anh em ít, Chúa tha cho ta nhiều (nếu con nợ thứ nhất chịu tha cho con nợ thứ hai 100 đồng bạc, thì hắn đã được ông vua tha cho hắn mười ngán nén bạc).
B…. nẩy mầm.
- Trẻ con thường giận nhau nhưng cũng mau làm hòa với nhau. Càng lớn thì tự ái người ta càng to và người ta càng khó tha thứ cho nhau hơn. Thêm một lý do nữa khiến Chúa Giêsu nói muốn vào Nước Trời thì phải trở lại như trẻ thơ.
- Muốn thuyết phục chúng ta tha thứ cho nhau, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hai con nợ để vạch cho ta thấy rõ rằng ta tha thứ cho người khác thì sẽ có lợi rất nhiều vì ta sẽ được Chúa tha cho ta nhiều hơn. Tính ra những lỗi lầm người khác xúc phạm đến ta đâu có là bao so với những tội lỗi ta xúc phạm tới Chúa.
- “Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” : giận là một cảm xúc không ai có thể tránh được trong cuộc sống chung nhiều va chạm. Chúa không chấp nhất ta vì ta có cảm xúc đó. Nhưng Chúa sẽ kết tội ta nếu ta nuôi mãi lòng giận ghét không chịu bỏ qua.
- Hận thù là một hình thức của hoả ngục và là một hình thức của tội sát nhân. Thánh Gioan viết “Ai oán ghét anh em mình, kẻ đó là người sát nhân”. Một nhà tâm lý người mỹ nói “Khi ta trút giận lên người khác, dù chỉ bằng một lời nói, ta cũng muốn nói lên một ý nghĩ tiềm ẩn là muốn giết hại người đó” (…) Ta cũng nên nhớ rằng tha thứ không phải chỉ là một hành động ý chí mà còn là một ân ban. Do đó không thể có sự tha thứ nếu không đi kèm theo sự cầu nguyện. (“Mỗi ngày một tin vui”)
- Một nhà tâm lý người Mỹ nhận định như sau : Trên bình diện nhân bản, tha thứ là giải pháp tốt nhất cho cả người tha lẫn kẻ được tha, vì sự tha thứ khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành mạnh và vui tươi hơn. (“Mỗi ngày một tin vui”)
- Một hiệp sĩ dũng cảm tên là Hildebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hildebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng ông chọn địa điểm và thời giờ thuận lợi. Ông thức dậy nửa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết là Bruno sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một nhà nguyện nhỏ mở cửa. Ông vào đó để chờ sáng, và trong khi cờ đợi, ông tiêu khiển bằng cách nhìn các bức tranh trong nhà nguyện. Bức thứ nhất vẽ Đấng Cứu Thế mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi bằng tiếng latinh câu này : “Bị lăng nhục, Ngài không đáp trả lại lăng nhục”. Bức thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi bị đánh đòn, với hàng chữ “Khi chịu những khổ đau như thế, Ngài không hề đe dọa”. Và cuối cùng bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập giá, hàng chữ là “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Nhìn liên tiếp 3 bức tranh như thế, tâm hồn Hildebrand bị xúc động mạnh. Ông quì gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ gặp để tha thứ tận tình và để làm hòa với nhau. (Góp nhặt)
- “Phêrô đến gần Chúa Giêsu mà hỏi rằng : ‘Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ?” (Mt 18,21)
Một hôm, gà con cứ bám riết lấy gà mẹ, khóc lóc kể lể :
– Mẹ ơi, tụi thỏ chế diễu tai con không bằng một góc tai chúng…
– Tha cho chúng đi con ! Gà mẹ trả lời.
– Nhưng bọn cò lại nói con hèn hơn bàn chân của chúng.
– Tha cho chúng đi con !
– Mẹ ! Gà con khóc to lên. Lúc nào mẹ cũng nói tha cho chúng, trong khi con bị chế diễu, bị nhạo báng…
– Tại vì họ nói đúng !
– Nhưng tại sao ?
– Tại vì con là một con gà !
Như gà con nọ, tôi cảm thấy bị xúc phạm và khó tha thứ cho anh em, chỉ vì không chịu chấp nhận chính mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết chấp nhận giới hạn bản thân, để nhận ra lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa, để không chỉ tha thứ đến 7 lần, mà bảy mươi lần 7. (Hosanna)
Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Lời Chúa hôm nay nhắc đến một trong những nghĩa vụ hàng đầu của người Kitô-hữu đó là tha thứ. Đây không phải là lời khuyên có tính cách định lý dành riêng cho một số thành phần ưu tuyển, nhưng là một đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi Kitô-hữu. Trong Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu đã nói đến hình phạt hỏa ngục ba lần: một khi khẳng định những kẻ bị chúc dữ phải xa mặt Chúa là những kẻ không thực thi bác ái. Hai là khi Ngài nói: kẻ làm gương xấu cho trẻ nhỏ. Và cuối cùng, trong dụ ngôn người mắc nợ bạn mình 100 đồng.
Muốn tha thứ, trước hết nên nhớ rằng chúng ta thường thấy cái rác trong mắt anh em hơn là cái đà trong mắt mình. Chúng ta nhạy cảm đối với nhưng bất công, xúc phạm của người khác đối với chúng ta hơn là những thiệt hại mà vô tình hay hữu lý chúng ta gây cho người khác.
Thứ đến, để có thể tha thứ, chúng ta phải không ngừng sống trong bầu khí bác ái và bình an. Tha thứ là kết quả của sự tập luyện lâu dài. Nếu để mình chiều theo những sôi sục trong tâm hồn cũng như ngoại cảnh, chúng ta sẽ dễ hướng đến oán thù. Khi sống yêu thương chúng ta thắng vượt hận thù và như thế mới có thể tha thứ cho người khác được.
Cuối cùng, chúng ta cần nhớ rằng tha thứ không phải là một hành động thuần ý chí, mà là một ân ban. Do đó không thể có sự tha thứ, nếu không đí kèm theo sự cầu nguyện. Chính khi ta cầu xin với Chúa là lúc ta nhận được sức mạnh để thắng vượt hận thù trong chúng ta.
Một ngày nọ, một nữ tu gọi tôi lại bảo rằng có một người đàn ông trẻ đang hấp hối nhưng thật kỳ lạ là anh ta không thể chết. Tôi vội lại gần và hỏi anh ta:
– Có điều gì bất ổn chăng?
Anh trả lời:
– Sơ ơi! Tôi không thể nào chết được cho đến khi tôi chưa cầu xin cha tôi tha thứ.
Vị nữ tu vội vã tìm đến nhà cha anh ta và gọi ông ấy. Điều lạ lùng đã xảy ra khi người cha ôm con trai mình vào lòng và khóc:
– Con trai! Con trai yêu quý của cha.
Người con trai ấy cầu xin cha:
– Cha ơi, xin hãy tha thứ cho con.
Hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau thật lâu. Vài giờ sau, người thanh niên từ giã cõi đời.
THỨ SÁU TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Mt 19, 3-12
Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: “Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?” Người đáp: “Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly”. Họ hỏi lại: “Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?” Người đáp: “Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình”.
Các môn đệ thưa Người rằng: “Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ”. Người đáp: “Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu”.
Suy niệm 1: Một xương một thịt
Suy niệm:
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly.”
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ,
và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng.
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các Kitô hữu đã gia tăng đáng kể.
Sống với nhau đến đầu bạc răng long trở thành một giấc mơ.
Trong xã hội Do Thái giáo thời Đức Giêsu,
người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới.
Người vợ là một thứ tài sản của người chồng,
nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi chỉ vì một lý do cỏn con.
Trước câu hỏi: “Chồng có được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không?”
Đức Giêsu đã kiên quyết nói không (c. 6).
Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế.
Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần hay không ưng.
Lập trường của Ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo thời đó.
Điều này khiến chính các môn đệ bị sốc (c. 10).
Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ khi họ muốn.
Người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật (24, 1)
để biện minh cho việc được phép ly dị đúng theo Luật Môsê (c. 7).
Còn Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế (2, 24)
để nhấn mạnh cho sự hiệp nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng.
“Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác,
mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động.
Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (cc. 4. 8)
và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 8).
Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh Luật Môsê
và khai mở ý muốn trọn vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân.
Hôn nhân không phải chỉ là chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau.
Trong Lễ Cưới có sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp.
Ngài tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay.
Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng
mà hai bên được phép xé bỏ khi muốn.
Chung thủy mãi mãi là chuyện khó đối với con người thời nay.
Khi thịnh vượng, lúc gian nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu,
khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được,
khi đời sống vợ chồng thành như hỏa ngục trần gian…
khi ấy người ta cần Thiên Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau.
Xin bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương,
bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
để gìn giữ tình nghĩa vợ chồng như quà tặng mong manh của trời cao.
Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Giao ước
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa muốn dựng nên con người giống hình ảnh Người. Thiên Chúa là tình yêu nên Thiên Chúa dựng nên con người để biểu lộ tình yêu của Người. Để biểu lộ tình yêu con người không phải chỉ là nam hay nữ nhưng là nam và nữ. Vì thế ơn gọi gia đình là cơ bản. Như Ba Ngôi nhưng chỉ một Chúa, gia đình tuy hai nhưng “họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt”. Như Ba Ngôi Thiên Chúa hoàn toàn dâng hiến cho nhau, vợ chồng cũng phải hiệp thông trong hoàn toàn trao ban và nhận lãnh: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình”. Tình yêu Thiên Chúa trên trời còn cao siêu trừu tượng nên Thiên Chúa đã thực hiện cụ thể trong lịch sử đối với dân Ít-ra-en, để con người có thể chiêm ngưỡng và noi theo tình yêu trung tín của Người.
Gio-suê nhắc lại tất cả những việc Thiên Chúa làm để bày tỏ tình yêu với Ít-ra-en: đã tuyển chọn Áp-ra-ham; đã đưa ông vào đất Ca-na-an; đã đưa dân ra khỏi Ai-cập; đã chiến thắng tất cả các dân để thừa hưởng đất Ca-na-an: “Ta đã thả ong bầu bay đi trước các ngươi; chính ong bầu chứ không phải cung kiếm của các ngươi đã đuổi chúng. Ta ban cho các ngươi đất các ngươi đã không vất vả khai phá, những thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được ăn” (năm lẻ).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en được Ê-dê-kiên ví như tình yêu giữa một người con trai và một người con gái. Người con gái xấu xí bị vứt bỏ và chê cười. Chúa đã cứu về, nuôi sống, và làm cho trở nên xinh đẹp. “Giữa muôn dân nước, ngươi được nổi tiếng vì nhan sắc của ngươi; nhan sắc đó tuyệt vời nhờ ánh huy hoàng của Ta chiếu toả trên ngươi”. Nhưng khi được xinh đẹp người con gái liền phản bội. “Thế mà ngươi đã cậy có nhan sắc, ỷ vào danh tiếng của ngươi đề đàng điếm và hoang dâm với mọi người khách qua đường”. Tuy thế Chúa vẫn trung tín và yêu thương. Vì đã giao ước. “Còn Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước đã lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân. Ta sẽ thiết lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu” (năm chẵn).
Chúa muốn hôn nhân là hình ảnh của Chúa. Hình ảnh tình yêu. Hình ảnh giao ước. Hình ảnh trung tín. Chỉ có tình yêu thật mới trung tín với giao ước đến muôn đời. Chỉ có tình yêu thật mới tha thứ mãi mãi. Tình yêu thật chỉ có trong Chúa. Và như Chúa. “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 15,12).
SUY NIỆM 3: Vấn Ðề Ly Dị
Vào thời Chúa Giêsu, dựa trên luật Môsê được ghi lại trong sách Tl 14, 1-4, thì mọi trường phái giải thích luật đều phải nhìn nhận việc ly dị, nhưng có điểm khác nhau về lý do ly dị. Trường phái Hillel cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, còn trường phái Shammai gắt gao hơn, chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình mà thôi.
Những người Biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không phải về việc có được phép ly dị hay không, nhưng về lý do của việc ly dị: họ muốn Chúa Giêsu phải chọn một trong hai lập trường: hoặc cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, hoặc chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không theo lập trường của con người, không đứng về nhóm nào, nhưng Ngài kêu gọi trở về với chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa khi tạo dựng con người: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Ðời sống hôn nhân và gia đình giữa người nam và người nữ là một định chế do chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng con người, chứ không do con người thiết định. Môsê cho phép ly dị vì chiều theo lòng dạ chai đá của dân chúng, chứ ngay từ đầu không có như vậy.
Chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái, các môn đệ phản ứng: “Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì thà đừng lấy vợ còn hơn”. Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho các ông biết là cần phải có ơn Chúa, con người mới có thể hiểu rõ ơn gọi cao cả của đời sống hôn nhân cũng như của đời sống độc thân trinh khiết vì Nước Trời. Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình, không phải thuần túy tùy thuộc ý định con người, nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập gia đình. “Ai có thể hiểu được thì hiểu”, ơn ban của Thiên Chúa tùy thuộc tự do của con người. Con người thời nay đã lạm dụng tự do để quyết định những điều nghịch lại chương trình của Thiên Chúa. Con người đã trần tục hóa cả bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân và gia đình. Tất cả đều được phép, kể cả việc hai người cùng phái tính được luật pháp cho phép sống với nhau như vợ chồng, để rồi tình thương của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp nào cũng bị hạ thấp.
Người Kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục. Giải pháp cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra, nhưng là tình thương, là trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thủy của Ngài khi tạo dựng con người. Ðiều này đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh, nhưng đó là bí quyết để con người sống trọn ơn gọi của mình và đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta đừng sợ cố gắng hy sinh, bởi vì Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài và để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa canh tân tình yêu chúng ta, cho tình yêu chúng ta hòa nhập vào tình yêu thần thiêng của Chúa, để chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta theo đúng chương trình của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Thủy Chung Trong Hôn Nhân (Mt 19,3-12)
Cách đây vài năm, không những hai miền nam bắc Triều Tiên mà có lẽ cả thế giới cùng khóc trước cảnh tượng hai trăm người già của từ hai miền của đất nước bị chia cắt từ năm mươi năm nay gặp lại nhau, ôm chầm lấy nhau, chan hòa trong tiếng khóc và niềm vui đoàn tụ. Theo thống kê, có khoảng ít nhất bảy triệu gia đình Nam Hàn có liên hệ máu mủ với Bắc Hàn. Trừ một số nhỏ đã được đoàn tụ tại những nước thứ ba, phần lớn các gia đình Triều Tiên đều bị ly tán kể từ cuộc chiến tranh nam bắc hồi năm 1953. Gia đình đổ vỡ và ly tán vẫn là một trong những nỗi đau lớn nhất trong cuộc sống con người.
Không riêng gì chiến tranh, nạn ly dị mà chúng ta đang chứng kiến trong hầu hết các xã hội đương đại đã và đang là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều vết thương khó hàn gắn nhất trong lòng người. Gia đình đứng vững, xã hội mới ổn định. Nhưng gia đình chỉ có thể đứng vững khi được xây dựng trên ý muốn của Ðấng Tạo Hóa về định chế hôn nhân mà thôi. Ðây là đạo lý mà Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta cùng nhau ôn lại qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Câu hỏi mà những người biệt phái đặt ra cho Chúa Giêsu gợi lại cuộc tranh luận giữa các trường phái Do Thái về luật cho phép ly dị được Môsê qui định trong sách giới luật. Luật Môsê cho phép người đàn ông bỏ vợ, nếu tìm thấy nơi vợ một thứ tì ố kín đáo nào đó. Các trường phái có khuynh hướng phóng khoáng giải thích rằng nếu một người chồng gặp một người đàn bà khác đẹp hơn và nhận thấy vợ mình xấu xí đến độ nhờm tởm, người đàn ông ấy được phép bỏ vợ. Những người có chủ trương nhiệm nhặt thì cho rằng một tì ố đáng khinh tởm nơi người vợ chỉ có thể là hành động ngoại tình mà thôi.
Như vậy, đặt câu hỏi cho Chúa Giêsu, các biệt phái chỉ có ý gài bẫy Ngài, họ muốn Ngài phải đứng hẳn về một trong hai lập trường trên đây. Nhưng Chúa Giêsu đã tránh được cái bẫy do các biệt phái cài ra khi tuyên bố rằng Ngài hoàn toàn chống lại việc ly dị, dù bất cứ lý do nào. Trích dẫn sách Khởi Nguyên, Chúa Giêsu chứng minh rằng ngay từ đầu, Thiên Chúa muốn rằng vợ chồng phải nên một với nhau như một thể xác. Ðây là ý muốn minh thị của Chúa. Không có quyền bính nào trên trần gian này có thể đảo lộn ý muốn ấy của Ðấng Tạo Hóa. Qua khẳng định này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng hôn phối không chỉ là một giao ước giữa người nam và người nữ, mà còn là một thể hiện của chính ý muốn của Ðấng Tạo Hóa. Duy chỉ có ý muốn của hai người phối ngẫu chưa đủ để làm nên hôn phối, mà còn phải có ý muốn của chính Thiên Chúa. Nên vợ nên chồng không phải là nên một với nhau, mà còn là nên một với Thiên Chúa, hay đúng hơn, chỉ trong Thiên Chúa, hai người phối ngẫu mới thực sự nên một với nhau. Do đó, phá vỡ hôn ước, ly dị không chỉ là xé bỏ giao ước giữa hai con người, mà chính là chối bỏ chính Thiên Chúa.
Tựu trung, ly dị hay ngoại tình là phản bội chính Thiên Chúa; Khi Thiên Chúa bị loại ra khỏi tâm hồn thì dĩ nhiên con người cũng sẽ dễ dàng phản bội và loại trừ người khác. Và ngược lại, mỗi lần chúng ta phản bội hay loại trừ tha nhân, chúng ta cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Con người mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa một cách thâm sâu đến độ xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Thiên Chúa; và chối bỏ Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với chối bỏ con người. Suy gẫm về sự thủy chung trong đời sống hôn nhân, chúng ta cũng nghĩ đến tình yêu trong mọi quan hệ giữa người với người. Về điểm này, lời của thánh Gioan nên được chúng ta tâm niệm và đem ra thực hành: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Người ngoại tình.
Những người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: “Thưa Thầy, cò được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” Người đáp: “Các ông không đọc thấy điều này sao: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ,” Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mt. 19, 3-4. 6)
“Những người biệt phái này điên rồ” Ôbelix nói thế. Từ khi họ thử gài bẫy Đức Giêsu, họ biết họ thất bại vì Đức Giêsu luôn trưng Thánh Kinh để trả lời họ.
Hạng đực rựa. (Le mâle)
Đoạn này cho ta thấy xã hội đực rựa thời đó. Chỉ có đàn bà là kẻ phạm tội ngoại tình, bị dãy bỏ. Đàn ông không có tội gì! giờ đây Đức Giêsu nhắc nhở họ phải tôn trọng người nữ, bình đẳng trước pháp luật và đàn ông cũng phải có trách nhiệm “ Kẻ dẫy vợ cũng phạm tội như kẻ cưới người đàn bà bị dẫy bỏ.”
Người ta thấy các tông đồ phản ứng: “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ thì hơn.”
Ngày nay cũng không khác gì thời Đức Giêsu người ta không nói đến dẫy vợ nữa, nhưng nói đến ly dị, không bàn tán đến kết hôn nữa, nhưng nói đến tự do sống chung.
Người nam.
Giáo huấn của Đức Giêsu chính là luật tự nhiên. Sự kết hợp giữa hai người để xây dựng tốt hơn: hoàn toàn tôn trọng nhau. Đàn ông hay đàn bà không phải là máy móc để hành lạc hay con rối kỳ cục để thỏa mãn. Thời các tông đồ phản ánh ít nhiều thế. Chúa đã nhắc nhở họ nhớ đến phẩm giá là người. Thời đại chúng ta hầu như theo cái thứ luân lý buông thả. Chúa nhắc nhở chúng ta nhớ đến luật thương yêu tôn trọng lẫn nhau.
Chúa còn đi xa hơn về đời sống độc thân tự nguyện, phải kính trọng người khác và bản thân mình! Chúa không nghĩ phải khấn bậc tu trì. Nhưng, thời người đã có những người đáp lại tiếng gọi trở nên chứng nhân của đời sống vĩnh cửu, trường tồn.
J.M
Suy niệm 6: Hãy sống chung thủy trong tình yêu
Xem lại CN 27 TN B, Thứ Sáu tuần 7 TN.
“Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?”
Đây là một câu hỏi rất thâm độc của những người Pharisêu. Họ dùng phương pháp: “Nhất tiễn diệt song điêu”, tức là gài bẫy Đức Giêsu. Cái bẫy mà hôm nay họ đưa ra cho Ngài rất giống chuyện người đàn bà phạm tội ngoại tình mà họ nhờ Đức Giêsu phân xử, hòng tìm cách bắt Ngài.
Tại sao vậy? Thưa: Khi hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?”. Câu hỏi này được cất lên lại nằm trong vùng địa lý, đặc trị của Hêrôđê Antipas. Ông vua này mới ly dị vợ để lấy Hêrôđia, vợ của anh mình là Philipphê I. Ông ta đã bị Gioan Tẩy Giả phản đối và cuối cùng Gioan đã bị giết chết dưới sự độc ác của vua. Ý tưởng thâm độc của họ là: nếu Đức Giêsu đồng ý cho ly dị, thì trái ngược với Gioan và dân chúng sẽ phản đối vì họ rất tôn kính Gioan. Còn Nếu Đức Giêsu phản đối luật ly dị, thì sẽ bị chặt đầu như Gioan, và đồng thời nghịch lại với luật Môsê.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không vướng vào cái bẫy của họ. Nhưng qua đây, nhân cơ hội này, Ngài đã giải thích cho họ hiểu vì sao luật Môsê cho phép ly dị. Câu trả lời của Ngài đã dựa vào Kinh Thánh: “Thuở ban đầu, Ðấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt’. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Còn việc tại sao ông Môsê cho phép ly dị là vì: ‘các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ’”. Cũng nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã tái xác định luật hôn nhân: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tính bất khả phân ly của Bí tích Hôn Nhân trong Giáo Hội. Luật này do chính Chúa đặt ra chứ không phải do con người. Hơn nữa, hình ảnh người nam, người nữ kết hợp và thủy chung với nhau diễn tả hình ảnh Đức Kitô yêu thương Giáo Hội và không bao giờ xa lìa Giáo Hội.
Vì thế, nguyện ước sống chung, không phải do loài người đặt ra, nhưng chính Thiên Chúa se kết người nam và người nữ, để yêu thương, giúp đỡ nhau, sống trung thành với nhau đến trọn đời. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi. Vì vậy, Đức Giêsu nói rõ ràng rằng: “Trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực, rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình”.
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho đời sống hôn nhân ngày nay được ấm êm và hạnh phúc. Xin cho chúng con hiểu rằng: vì yêu thương mà Chúa đã chết vì chúng con, đến lượt chúng con cũng phải yêu thương nhau như Chúa yêu thương Giáo Hội. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Bất khả phân ly của ơn gọi hôn nhân
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu khẳng định tính cách bất khả phân ly của ơn gọi hôn nhân. Chúa cũng mời gọi sống độc thân để phục vụ Nước Trời. Ngài mời gọi ta hãy sống chứng nhân trong bậc sống mình.
Cầu nguyện: Lạy Cha, thật là hồng ân lớn lao khi trong xứ đạo có bao gia đình công giáo sống hạnh phúc ấm êm. Cha mẹ hy sinh quên mình, yêu thương lo lắng cho con cái, những người con ngoan hiền yên vui dưới mái ấm gia đình, đặc biệt vợ chồng trung thành với nhau suốt đời: đó là nét son nổi bật làm rạng rỡ cho ơn gọi hôn nhân công giáo. Họ là những đóa hoa tươi đẹp đáng khâm phục điểm tô cho Hội Thánh và nhân loại. Họ là ngọn hải đăng soi đường cho con thuyền của các gia đình khác.
Lạy Cha, các gia đình chúng con đang chịu áp lực của xã hội tiêu thụ, của khuynh hướng tự do khoái lạc, của khuynh hướng thế tục. Những đổi thay đang làm cho những giá trị truyền thống của gia đình bị chao đảo lung lay. Những rối loạn ấy đang phá vỡ kế hoạch của Cha về ơn gọi gia đình.
Xin cho các vợ chồng công giáo chúng con biết sống trung thành yêu thương nhau suốt đời. Xin Cha ban ơn giúp chúng con biết quên mình, biết nhịn nhục và tôn trọng nhau, biết chấp nhận và tha thứ cho những lỗi lầm thiếu sót của nhau.
Xin dạy con biết nhìn hoàn cảnh của những gia đình đổ vỡ với trái tim cảm thông cứu giúp, chứ không lên án loại trừ. Xin Cha giúp họ sớm hàn gắn vết thương và tìm lại được niềm vui.
Và từ gia đình, Cha mời gọi một số người hiến thân trong đời sống tu trì để chuyên lo việc phục vụ Nước Trời. Họ là những điểm sáng ánh lên tình yêu của Cha giữa trần thế. Xin cho các tu sĩ luôn trung thành với ơn gọi cao cả ấy. Amen.
Ghi nhớ: “Vì lòng chai đá của các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy”.
Suy Niệm 8: Không được phân ly
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Khi Đức Piô X đắc cử giám mục Mantua, một ngày kia ngài về thăm mẹ. Chuyện trò vui vẻ một hồi lâu và trong khi nói chuyện, ngài vui cười chỉ cho mẹ thấy chiếc nhẫn của giám mục.
Bà mỉm cười, đưa bàn tay chai cứng phô chiếc nhẫn cưới mỏng manh, mộc mạc. Bà nói: “Không có chiếc nhẫn này sẽ chẳng có chiếc nhẫn giám mục của con”.
Suy niệm
Tình yêu hôn nhân được nuôi dưỡng sẽ hợp nhất giữa hai người nam và nữ, tình yêu này bền vững trăm năm khi được Thiên Chúa chúc phúc và ràng buộc: “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly” (Mt 19:6).
Thánh Phaolô còn nhấn mạnh: “Sự kết hợp này là một mầu nhiệm cao cả; như tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,32). Tình yêu của một người nam và một người nữ, được chỉ thị bởi Chúa Kitô, tham dự vào chính tình yêu của Ngài dành cho Giáo hội và trở nên một dấu chỉ của tình yêu này giữa thế gian (x. Ep 5,21-33). Đó là sự ràng buộc thánh khiến họ gắn kết với nhau như lời tuyên thệ hôn nhân: Hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi yếu đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời tôi.
Nghĩa là dù ở tình trạng sức khỏe như thế nào, sự chung thủy vẫn tồn tại nơi tâm hồn của những người mang nghĩa vợ tình chồng. Chính vì cao đẹp như thế tình yêu gia đình là dấu chỉ của tình yêu vĩ đại nơi Thiên Chúa Ba Ngôi như Giáo hội khẳng định: ”Gia đình diễn tả cho các thành viên của mình mầu nhiệm của tình yêu Ba Ngôi ở giữa lòng thế giới. Nó có thể được gọi là một “Bí Tích” của tình yêu Thiên Chúa…, nơi mà người ta trước hết có kinh nghiệm về yêu thương và học biết cách yêu thương và cầu nguyện” (Tông huấn Ecclesia in Asia, số 46). Dù được Thiên Chúa chúc phúc và ràng buộc, nhưng tình yêu phải được gìn giữ dưỡng nuôi bên hai người bằng sự dấn thân hết mình vì tình yêu. Vì hạnh phúc của gia đình, điều cần thiết và là nền tảng: Người chồng trong cách đối xử luôn tế nhị và yêu thương, nâng đỡ chia sẻ những niềm vui và thất bại của cuộc sống với vợ mình thể hiện qua câu ca dao:
Cơm này nửa sống nửa khê
Vợ đơm chồng nếm chẳng chê cơm này.
Điều này rất hợp với lời dạy của thánh Phaolô: “Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ” (Cl 3,19). Ngược lại, người vợ là niềm vui và nỗi chia sẻ nặng nhọc lo âu của chồng qua cử chỉ chăm sóc, nụ cười tình yêu làm những nỗi nặng nhọc lo âu nơi người chồng tan biến:
Ra đường lắm chuyện bực mình
Về nhà gặp vợ cười tình cũng vui.
Những gì trên đây mà cha ông ta dạy về gia đình rất hài hòa với giáo huấn của thánh Phaolô khuyên các gia đình “anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại… chịu đựng và tha thứ… và trên hết mọi sự, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,12-14)
Nghĩa vợ chồng luôn được vun trồng nơi cả người vợ lẫn người chồng, cả hai cùng vượt qua những vui buồn trong cuộc sống. Những khó khăn gian nan không hề làm cạn nghĩa vợ tình chồng. Bí quyết để nghĩa vợ chồng luôn bền vững là trao cho nhau tình yêu như lời dạy và gương sống của Đức Kitô: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Ý lực sống:
Đã rằng là nghĩa vợ chồng
Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời. (Ca dao)
Suy Niệm 9: Chung thủy trong hôn nhân
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu khẳng định luật nguyên thuỷ của hôn nhân là một vợ một chồng: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”, thế mà con người ngày nay đang đi ngược với luật Chúa. Biết bao cảnh gia đình tan rã, vợ chồng phân ly không ngừng diễn ra trên thế giới. Điều đó cho thấy con người đang đánh mất dần ân sủng và hiệu quả của Bí tích Hôn phối. Đức Giêsu còn nhấn mạnh tự nguyện sống độc thân trọn vẹn để phục vụ Nước trời. Đó chính là ơn gọi sống đời dâng hiến, một ơn gọi cao quí Thiên Chúa ban riêng cho người Chúa chọn.
Vào thời Chúa Giêsu, dựa trên luật Maisen được ghi trong sách Thứ luật 14,1-4, thì mọi trường phái giải thích luật đều phải nhìn nhận việc ly dị, nhưng có điểm khác nhau về lý do ly dị. Trường phái Hillel cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, còn trường phải Shammai gắt gao hơn, chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình mà thôi. Những người biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu như được ghi lại trong Tin mừng hôm nay, không phải về việc có được phép ly dị hay không, nhưng về lý do của việc ly dị: họ muốn Chúa Giêsu phải chọn một trong hai lập trường: hoặc cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, hoặc chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không theo lập trường của con người, không đứng về nhóm nào, nhưng Ngài kêu gọi trở về với chương trình nguyên thuỷ của Thiên Chúa khi tạo dựng con người: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Đời sống hôn nhân và gia đình giữa người nam và người nữ là một định chế do chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng con người, chứ không phải do con người thiết định. Maisen cho phép ly dị vì chiều theo lòng dạ chai đá của dân chúng, chứ ngay từ đầu không có như vậy (Mỗi ngày một tin vui).
Đọc trong Tân ước chúng ta thấy thánh Phaolô đã không ngần ngại coi mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người như một hôn ước, và Thiên Chúa cũng được mô tả như một người chồng chung thuỷ. Như vậy, dù sống trong bậc vợ chồng hay khấn giữ độc thân, bất cứ ai cũng được mời gọi sống chung thuỷ với Thiên Chúa. Khi vợ chồng phản bội nhau, họ không những thất tín với nhau, mà còn phản bội với Thiên Chúa nữa. Khi một người khấn giữ độc thân vì Nước trời, lỗi lời thề hứa của họ là họ đã phản bội Thiên Chúa. Vậy nếu hình ảnh Thiên Chúa đã được khắc ghi trong con người, thì mỗi lần con người chối bỏ hình ảnh ấy, con người đã phản bội Thiên Chúa. Con người có thể chối bỏ hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình, cũng như phản bội lại Thiên Chúa khi bắt tay với thần dữ, để phạm tội hoặc xúc phạm đến nhân phẩm của người khác (R.Veritas).
Lời bài hát “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm đổi thay, dù tình ta nghi nan hững hờ, thì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương” nhắc nhở ta điều vẫn diễn ra trong lịch sử cứu độ đầy yêu thương của Chúa: con người dù có luôn bất tín và phản bội, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn tín trung thực hiện giao ước của Ngài đã ký kết để cứu độ dân Ngài. Sự trung tín của đôi vợ chồng trong giao ước hôn nhân được đặt nền tảng trên lòng trung tín của Thiên Chúa như mẫu mực. Đến lượt họ, qua việc sống chung thuỷ yêu thương nhau trong đời sống vợ chồng, họ lại trở thành chứng nhân loan báo sự trung thành của Thiên Chúa Tình yêu (5 phút Lời Chúa).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tính bất khả phân ly của Bí tích hôn nhân trong Giáo hội. Luật này do chính Chúa đặt ra chứ không phải do loài người. Hơn nữa, hình ảnh người nam, người nữ kết hợp và chung thuỷ với nhau diễn tả hình ảnh Đức Kitô yêu thương Giáo hội và không bao giờ lìa xa Giáo hội. Vì thế, nguyện ước sống chung, không phải do loài người đặt ra, nhưng chính Thiên Chúa sẽ kết người nam và người nữ, để yêu thương, giúp đỡ nhau, sống trung thành với nhau đến trọn đời. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi. Vì vậy, Chúa Giêsu nói rõ ràng rằng: “Trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực, rẫy vợ mà lấy vợ khác là phạm tội ngoại tình”.
Truyện: Chung thuỷ trong hôn nhân
Catarina Yaguello là vợ của bá tước Vasa, người Phần Lan. Vì bị buộc tội phản loạn, vua Phần Lan xử Vasa với bản án tù chung thân.
Khi hay tin này, nữ bá tước Vasa là Catarina Yaguello đã đến xin phép nhà vua cho bà được chia sẻ số phận tù đày với chồng bà.
Vua Phần Lan lúc đó là Hériste đã ngạc nhiên trước lời xin của Catarina. Nhà vua đã dùng mọi lý lẽ để thuyết phục Catarina bỏ ý định điên rồ kia. Nhà vua hỏi bà:
– Ngươi có biết rằng, chồng ngươi sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng mặt trời nữa không?
– Thưa hoàng thượng có.
– Và ngươi có biết rằng, nay thì chồng ngươi không còn được đối xử như một bá tước nữa, mà bị đối xử như một tên phản loạn không?
– Thưa hoàng thượng biết, cho dù có được tự do hay tù tội, có tội hay vô tội, đức lang quân này vẫn là chồng của tiện nữ.
Đức vua ngắt lời bà:
– Nhưng mà giờ đây, còn điều gì ràng buộc ngươi với hắn nữa đâu? Ngươi được tự do mà.
Nữ bá tước Vasa tháo chiếc nhẫn cưới đang đeo ở tay ra đưa cho nhà vua và nói:
– Xin hoàng thượng đọc cho.
Trên mặt chiếc nhẫn chỉ khắc vỏn vẹn có hai chữ “mors sola”, nghĩa là chỉ có cái chết mà thôi.
Thế là Catarina được nhà vua cho phép chia sẻ với số phận tù đày với chồng, sống trong ngục, chịu cảnh khổ đau nhục nhã trong suốt 17 năm trường, cho đến khi vua Hériste qua đời. Lúc đó hai vợ chồng bá tước Vasa mới được trả tự do.
Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
* Đặt trong sơ đồ chung của Mt :
Các chương 19-23 (Từ hôm nay đến Thứ Tư tuần 21) tường thuật những việc xảy ra trong giai đoạn Chúa Giêsu và các môn đệ hành trình từ Galilê tiến lên Giêrusalem. Đây là giai đoạn chuẩn bị cho cuộc chịu nạn và phục sinh nên rất quan trọng. Ý tưởng lớn là triều đại Thiên Chúa đã đến gần.
- Hạt giống…
Vấn đề ly dị :
– Những người pharisêu đến gần Chúa Giêsu để thử Ngài “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không ?” : Khi đó có 2 lập trường : lập trường của trường phái Hillel thì rộng rãi, cho phép ly dị một cách dễ dàng ; lập trường của trường phái Shammað thì khắt khe hơn, chỉ chấp nhận ly dị trong rất ít trường hợp. Biệt phái biết vấn đề này gay go nên đem ra gài bẫy Chúa Giêsu. Ngài trả lời thế nào cũng có thể bị kết án : hoặc quá rộng rãi hoặc quá hẹp.
– Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích hai đoạn trong sách Sáng thế (St 1,27 2,24). Đó chính là những lời thiết lập định chế đơn hôn và vĩnh hôn. Như thế, dứt khoát là không được li dị, bởi vì “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
– Những người pharisêu chưa chịu thua. Họ trích một câu trong Đnl 24,1, nội dung là cho phép ly dị với điều kiện phải viết chứng thư đưa cho người vợ bị ly dị.
– Chúa Giêsu nhận định về câu Đnl đó : bản chất của nó không phải là lời thiết lập luật nhưng chỉ là lời cho phép chuẩn miễn trong hoàn cảnh người dân còn lòng chai dạ đá, nghĩa là chưa nhận rõ ý Thiên Chúa. Như thế trong quá khứ nếu có cho phép ly dị thì chỉ là chuẩn miễn thôi. Sự chuẩn miễn không huỷ bỏ được định chế hôn nhân.
– Rồi Ngài lặp lại nguyên tắc hôn nhân bất khả ly : “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mình mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình”.
B…. nẩy mầm.
- Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình không phải thuần tuý thuộc ý muốn con người nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập gia đình. Người kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục. Giải pháp cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra nhưng là tình thương, là trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thuỷ của Ngài khi tạo dựng con người (“Mỗi ngày một tin vui”)
- Một trong những đền thờ cổ nói lên tinh thần của người Rôma thời xưa, đó là đền tờ dâng kính Nữ thần hòa giải. Khi hai vợ chồng bất hòa, người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hòa giải. Nghi thức rất đơn sơ : mỗi người có thể trình bày lý lẽ, phơi bày những bất công mà mình phải gánh chịu trong đời sống gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được nói cùng một lúc. Hễ ai ngắt lời người kia thì điều đó sẽ bị coi là phạm thánh. Nghi thức này có sức mang lại những kết quả phi thường : sau khi trình bày xong lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, hai vợ chồng thường làm hòa với nhau trước mặt vị thần (“Mỗi ngày một tin vui”)
- “Sự gì mà Thiên Chúa đã liên kết thì loài người không được phân ly.” (Mt 19,6)
“Rầm… ! ! !” Cái tivi, vật dụng cuối cùng bị đập vỡ, tiếp đó là tiếng cãi vã, xô xát của hai vợ chồng. Những tiếng khóc đầy sợ hãi của mấy đứa trẻ :
– Hu hu ! Ba má ơi đừng đánh nhau nữa ! ! !
– Hu hu ! Ba má ơi đừng bỏ tụi con !
Thì ra Ba má chúng sắp ly dị. Đó là tất cả những gì mà tôi đang chứng kiến ở một gia đình hàng xóm.
Hôn nhân là một phép bí tích mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người với đầy đủ tự do và trách nhiệm. Để sống yêu thương nhau trong tình vợ chồng, sinh sản và giáo dục con cái trong nhiệm vụ làm cha làm mẹ… Đây chính là cái đích thực của hôn nhân và trong cái đích thực đó con người mới nhận ra được giá trị của tình yêu, của nhân cách chân thiện mỹ.
Thế nhưng trong cuộc sống vội vã hôm nay, con người thường lao theo dòng chảy của nó. Họ yêu cuồng sống vội. Hôn nhân có khi chỉ là một sự tính toán, đổi chác, tìm danh vọng và xác thịt… Hôn nhân khác nào một cuộc chơi : thích thì lấy nhau không thích thì ly dị.
Lạy Chúa, xin cho tất cả những người đang sống đời hôn nhân biết trân trọng và gìn giữ hôn ước mà họ đã cam kết ; và giây hôn phối mà Chúa đã kết hợp, ràng buộc. (Hosanna)
Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
- Những người Pharisêu đến gần Chúa Giêsu để thử Ngài “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không ?” (Mt 19,3).
Chúa Giêsu trả lời bằng một trích đoạn sách Sáng Thế (St 1,27-2,24). Đó chính là những lời thiết lập định chế đơn hôn và vĩnh hôn. Như thế, dứt khoát là không được ly dị, bởi vì “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
Những người Pharisêu chưa chịu thua. Họ trích một câu trong Đệ nhị luật 24,1: Nội dung cho phép là ly dị với điều kiện phải viết chứng thư đưa cho người vợ bị ly dị.
Chúa Giêsu đã đưa ra một nhận định về câu Đệ Nhị Luật đó: Bản chất của nó không phải là lời thiết lập luật, nhưng chỉ là lời cho phép miễn chuẩn trong hoàn cảnh người dân còn lòng chai dạ đá, nghĩa là chưa nhận rõ ý Thiên Chúa. Như thế, trong quá khứ, nếu cho phép ly dị thì chỉ là miễn chuẩn thôi. Sự miễn chuẩn đó không hủy bỏ được định chế hôn nhân.
Rồi Ngài lại lập nguyên tắc hôn nhân bất khả phân ly: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mình mà lấy vợ khác, là phạm tội ngoại tình” (Mt 19,9).
- Để sống yêu thương nhau trong tình vợ chồng, sinh sản và giáo dục con cái trong nhiệm vụ làm cha làm mẹ, Chúa còn nâng bậc hôn nhân lên hàng bí tích. Qua bí tích hôn nhân, Chúa ban cho đôi hôn nhân muôn vàn ơn sủng để hai người có thể chu toàn được bổn phận của mình.
Thế nhưng, nhìn vào cuộc sống hôm nay, chúng ta không khỏi không lo lắng. Có nhiều cuộc hôn nhân không còn giữ được những giá trị tốt đẹp như ngày trước. Đó là những cuộc hôn nhân thiếu suy nghĩ, yêu cuồng sống vội. Có khi hôn nhân chỉ là một sự tính toán, đổi chác, tìm danh vọng và xác thịt. Hôn nhân chẳng khác gì một cuộc chơi, thích thì lấy nhau, không thích thì ly dị.
Chúng ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho tất cả các gia đình, nhất là cho các bạn trẻ sắp sửa bước vào đời sống hôn nhân, để họ ý thức được hôn nhân là một việc quan trọng, nên phải chuẩn bị và nhất là biết suy nghĩ cho thật chín chắn trước khi chọn lựa, để rồi khi đã bước vào cuộc sống hôn nhân họ luôn giữ được lòng trung thành.
Và giả như sau khi kết hôn, có những sự bất đồng, những va chạm, thì hãy tìm cách hoà giải cho êm thoả.
Ở bên Rôma có một ngôi đền thờ cổ. Đây là ngôi đền dâng kính nữ thần hòa giải. Ngay cái tên gọi ngôi đền này, đã nói lên tinh thần rất quí trọng của người Rôma thời xưa. Khi hai vợ chồng nào bất hòa với nhau thì người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hòa giải. Nghi thức rất đơn sơ: Mỗi người có thể trình bày lý lẽ, phơi bày những bất công mà mình phải gánh chịu trong gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được nói cùng một lúc. Hễ ai ngắt lời người kia thì điều đó sẽ bị coi là phạm thánh. Nghi thức này có sức mang lại những kết quả phi thường: Sau khi trình bày xong lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, hai vợ chồng thường làm hòa với nhau trước mặt vị thần (trích Mỗi ngày một tin vui).
Catarina Yaguello là vợ của bá tước Vasa, người Phần lan.
Vì bị buộc tội phản loạn, vua Phần lan đã xử Vasa với bản án tù chung thân.
Khi hay tin này, nữ bá tước Vasa là Catarina Yaguello đã đến xin phép nhà vua cho bà được chia sẻ số phận tù đày với chồng bà.
Vua Phần lan lúc đó là Hériste đã ngạc nhiên trước lời xin của Catarina. Nhà vua đã dùng mọi lý lẽ để thuyết phục Catarina bỏ ý định điên rồ kia. Nhà vua hỏi bà:
– Ngươi có biết rằng, chồng ngươi sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng mặt trời nữa không ?
– Thưa hoàng thượng có.
– Và ngươi có biết rằng, nay thì chồng ngươi không còn được đối xử như một bá tước nữa mà bị đối xử như một tên phản loạn không ?
– Thưa hoàng thượng biết, cho dù có được tự do hay tù tội, có tội hay vô tội, đức lang quan này vẫn là chồng của tiện nữ.
Đức vua ngắt lời bà:
– Nhưng mà giờ đây, còn điều gì ràng buộc ngươi với hắn nữa đâu ? Ngươi được tự do mà.
Nữ bá tước Vasa tháo chiếc nhẫn cưới đang đeo ở tay ra đưa cho nhà vua và nói:
– Xin hoàng thượng đọc cho.
Trên mặt chiếc nhẫn chỉ khắc vỏn vẹn có hai chữ “mors sola”: Nghĩa là chỉ có cái chết mà thôi. Giao ước ấy bà đã ký kết với chồng ngày hai người thành hôn.
Thế là Catarina được nhà vua cho phép chia sẻ với số phận tù đày với chồng, sống trong ngục tối tăm, chịu cảnh khổ đau nhục nhã trong suốt 17 năm trường, cho đến khi vua Hériste qua đời. Lúc đó hai vợ chồng bá tước Vasa mới được trả tự do.
Lạy Chúa, xin cho tất cả những người Chúa đã đưa vào cuộc sống đời hôn nhân, được luôn trung thành bên nhau. Amen.
THỨ BẢY TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Mt 19, 13-15
Khi ấy, người ta đem những trẻ nhỏ đến cho Chúa Giêsu để Người đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Các môn đệ liền quở trách chúng, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta, và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những người giống như chúng”. Sau khi Người đặt tay trên chúng, thì Người đi khỏi nơi đó.
Suy niệm 1: Để trẻ em đến với Thầy
Suy niệm:
Bàn tay con người thật là cao quý.
Trong Cựu Ước, Đức Chúa muốn ông Môsê đặt tay trên ông Giosuê
để chia sẻ cho ông này quyền lãnh đạo dân (Ds 27, 18. 23).
Cụ Giacóp đã chúc phúc cho hai đứa cháu là Épraim và Mơnase
bằng cách đưa hai tay đặt trên đầu chúng (St 48, 14).
Cử chỉ đặt tay trên cũng thường thấy trong Giáo Hội thuở ban đầu.
Chúa Thánh Thần được trao ban qua việc đặt tay (Cv 8, 17-19; 19, 6).
Qua đặt tay, bảy phó tế đầu tiên lãnh nhận sứ vụ (Cv 6, 6).
Bácnaba và Saolô cũng được đặt tay sai để sai đi truyền giáo (Cv 13, 3).
Bàn tay Thiên Chúa là khí cụ che chở, đỡ nâng.
“Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt trên con (Tv 138, 5).
Bàn tay của Đức Giêsu đóng vai trò lớn trong sứ vụ.
Ngài chữa anh mù bằng cách đặt tay trên mắt anh (Mc 8, 25).
Ngài cũng chữa bà còng lưng theo cách tương tự (Lc 13, 13).
Người ta xin Ngài đặt tay để chữa một anh điếc và ngọng (Mc 7, 32),
thậm chí đặt tay để hoàn sinh một em gái mới chết (Mt 9, 18).
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Cha mẹ của các em đã đưa các em đến với Đức Giêsu,
để được Ngài đặt tay trên chúng và cầu nguyện (c. 13).
Họ tin phúc lành đến với con cái họ qua cử chỉ ấy.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã đặt tay trên các em nhỏ và cầu nguyện,
trước khi tiến về Giêrusalem để chịu khổ nạn (c. 15).
Nhưng các môn đệ lại bực bội và la rầy cha mẹ của các em.
Có lẽ đối với họ, Thầy Giêsu còn nhiều việc lớn lao để làm
hơn là mất thì giờ để chúc lành cho mấy em bé.
Đức Giêsu hoàn toàn không đồng ý với thái độ coi thường này.
Ngài nói thẳng: “Hãy để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng.”
Đến với Thầy Giêsu là quyền lợi của mọi trẻ em,
người lớn không được phép xâm phạm.
Ngài đưa ra lý do khiến các môn đệ phải tôn trọng trẻ em:
“vì Nước Trời là của những ai giống như chúng” (c. 14).
Như thế trẻ em, tuy không có chỗ cao trong xã hội,
nhưng lại có chỗ vững chãi trong Nước Trời.
Trẻ em có chỗ vì chúng hồn nhiên sống lệ thuộc vào cha mẹ,
và đón nhận mọi sự từ người khác với lòng biết ơn.
Những người lớn muốn vào Nước Trời phải nên giống chúng.
Đây là một tiến trình khó khăn và lâu dài,
vì người lớn phải quay lại, phải hoán cải để trở nên đơn sơ như trẻ thơ,
phải tự hạ mình xuống, bỏ đi những tự hào, tự mãn về mình (Mt 18, 3-4).
mở lòng đón lấy Nước Trời như quà tặng nhưng không.
Như thế trẻ thơ lại là mẫu mực cho các môn đệ của Thầy Giêsu.
Nước Trời dành cho trẻ thơ và những ai trở nên giống chúng.
Trẻ em có chỗ trong Nước Trời và trong Giáo Hội tại thế.
Các em cũng là thành viên trong cộng đoàn đức tin.
Lời dạy của Đức Giêsu vẫn mãi âm vang nơi chúng ta:
“Hãy để trẻ em đến với tôi, đừng ngăn cấm chúng.”
Chúng ta đã làm gì để đưa các em đến với Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tuoi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Con đường trẻ thơ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người ta coi thường trẻ em vì trẻ em không biết làm gì. Còn hơn thế nữa trẻ em còn gây phiền hà, cản trở công việc. Đó là nhìn theo quan điểm hiệu quả. Nhưng hiệu quả đời này không phải là tinh thần Nước Trời. Nước Trời không tìm hiệu quả theo kiểu trần gian. Không phải người lớn lao giỏi giang là đáng quí, nhưng là người “giống như trẻ nhỏ”. Tại sao? Vì Thiên Chúa không nhìn ta theo giá trị hiệu quả. Thiên Chúa nhìn ta theo giá trị người con. Dưới mắt cha, chỉ người con là đáng quí nhất. Ai xuất hiện trước mắt Chúa như người con bé nhỏ thảo hiền, người đó được hưởng mọi tình thương của Cha.
Chính Chúa Giê-su đã làm gương cho ta. Chúa Giê-su luôn là người con thảo hiếu bé nhỏ đối với Chúa Cha. Thảo hiếu bé nhỏ vì Chúa Giê-su biết mọi sự Người có đều nhận lãnh từ Cha. Mọi sự Người biết cũng đều nghe từ Cha. Đối với Người Chúa Cha là tất cả. Vì thế Chúa Giê-su suốt đời chỉ tìm thi hành thánh ý Chúa Cha. Người nói: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Là người con bé nhỏ hiếu thảo, Người được Chúa Cha ưu ái tuyên dương: “Đây là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Con đường trẻ thơ. Con đường của người con bé nhỏ hiếu thảo. Đó là con đường tuyệt hảo dẫn về Nước Trời. Ta chẳng làm gì nên công trạng. Ta chẳng thể tỏ ra là người lớn, có công, xứng đáng trước mặt Chúa. Ta chỉ có thể đến với Chúa bằng tâm tình người con bé nhỏ hiếu thảo. Ta sẽ được Chúa yêu thương và ban thưởng.
Gio-suê đã dẫn đưa người Do thái theo con đường bé thơ này khi ôn lại lịch sử và bắt họ tuyên xưng lựa chọn Thiên Chúa. Người Do thái đã ý thức Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự. Nhờ Thiên Chúa họ mới có sự sống. Nhờ Thiên Chúa họ mới có đất đai. Nhờ Thiên Chúa con đầu lòng của họ mới được cứu thoát. Nên họ phó thác cuộc đời trong tay Thiên Chúa. Chọn Chúa làm Chúa Tể duy nhất (năm lẻ).
Ê-dê-kiên tha thiết kêu gọi dân trở về con đường của người con hiếu thảo. Đổi mới trái tim. Sinh lại trong thần khí mới. Để trở nên trẻ thơ. Để hoàn toàn phó thác cuộc đời và hoàn toàn vâng theo con đường Chúa chỉ dẫn. Để được sự sống đời đời: “Hãy trở lại, …Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới” (năm chẵn).
Trở thành người con bé nhỏ, hiếu thảo. Hoàn toàn vâng theo ý Chúa. Đó là con đường chắc chắn nhất. Vì Chúa sẽ bồng bế ta đến nơi bình an.
SUY NIỆM 3: Chúa Giêsu Với Trẻ Nhỏ
Các trẻ nhỏ được Chúa Giêsu yêu thương và đưa ra làm mẫu mực cho những ai muốn bước vào Nước Trời: “Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con không được vào Nước Trời. Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, đó là kẻ lớn nhất trong Nước Trời”. Tinh thần tu đức trẻ thơ là đơn sơ, phó thác, không cậy dựa vào sức riêng, nhưng đặt trọn tin tưởng vào Chúa.
Tin Mừng Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay đề cập đến trẻ nhỏ trong một hoàn cảnh khác, với những lời của Chúa Giêsu: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì những ai giống như chúng mới được vào Nước Trời”. Người ta dẫn các trẻ em đến với Chúa Giêsu để Ngài đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Ðặt tay và cầu nguyện cho một người là nghi thức tôn giáo quen thuộc trong Do thái giáo thời Chúa Giêsu. Những vị lãnh đạo tôn giáo và các Rabbi thường đặt tay và cầu nguyện cho những ai đến xin được chúc lành; họ cũng đặt tay trên trẻ nhỏ và cầu nguyện cho chúng, mặc dù theo phong tục người Do thái thời đó, những trẻ nhỏ không có địa vị, không có giá trị gì, chỉ khi nào trẻ đến tuổi 12, nó mới được nhìn nhận có chỗ đứng trong cộng đoàn. Các môn đệ Chúa Giêsu lúc đó chưa thay đổi tâm thức, họ còn ngăn cản không cho người ta đem các trẻ nhỏ đến với Chúa.
Thái độ và lời dạy của Chúa Giêsu nhắc cho các môn đệ lúc đó và cho chúng ta ngày hôm nay rằng trong cộng đoàn Giáo Hội, mọi người không tùy thuộc hạng tuổi, đều có quyền đến với Chúa để Chúa đặt tay, cầu nguyện và chúc lành cho; không ai bị loại khỏi tình yêu và ân sủng của Chúa, dù là một đức trẻ. Các nhà chú giải đã xem đoạn Tin Mừng này như là căn bản cho việc rửa tội trẻ nhỏ được cộng đoàn tiên khởi thực hiện.
“Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng”. Chúng ta có thái độ kỳ thị, ngăn cản các trẻ nhỏ đến với Chúa không? Có những người lớn, những bậc cha mẹ rơi vào tâm thức của các môn đệ ngày xưa: họ không đem con cái đến với Chúa Giêsu, họ không nêu gương sống đức tin cho con cái, cũng không muốn cho con cái lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nại lý do tôn trọng tự do của con cái, đợi chúng lớn lên và tự quyết định muốn rửa tội hay không. Ðây là thái độ sai lầm về ơn cứu rỗi của Chúa: Ơn Chúa được ban nhưng không cho mọi người, chúng ta là ai mà dám xét đoán về điều kiện tuổi tác để được Chúa chúc lành và ban ơn cứu rỗi.
Hãy để các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu, đừng ngăn cản chúng. Xin Chúa giúp chúng ta chu toàn trách nhiệm cao cả này, với ý thức rằng ân sủng và chúc lành của Chúa là kho tàng quí giá mà chúng ta có thể trao lại cho con cái chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Cầu Nguyện Cùng Mẹ Maria
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta tinh thần của những kẻ bé mọn và trẻ thơ. Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu rất quan tâm đến những cuộc gặp gỡ của Ngài với những kẻ bé mọn, hạng người bị bỏ rơi, mà đại biểu là trẻ em. Hình như các môn đệ luôn có thái độ vệ binh đối với Chúa Giêsu. Họ thường nghĩ có nghĩa vụ phải bảo vệ Ngài, bởi vì theo họ một bậc thiên sai và quân vương không thể để cho trẻ em và những kẻ hèn hạ đến gần. Nhưng Chúa Giêsu không phải là Ðấng Thiên Sai theo ý nghĩ và sự chờ đợi của các môn đệ, Ngài có cái nhìn về sứ mạng của Ngài và về con người khác với các ông.
Chúa Giêsu chỉ thực hiện sứ mạng thiên sai của mình qua con đường thập giá và Ngài chỉ thực sự gần gũi với những ai mang lấy gương mặt khổ đau như Ngài, tức là những kẻ bé mọn, những người bị bỏ rơi, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, Ðấng hoàn toàn vâng phục và phó thác cho Thiên Chúa, những kẻ bé mọn ấy không còn biết bám víu vào sức mạnh và quyền lực nào khác hơn là chính Thiên Chúa. Họ là những người nghèo của Giavê như Cựu Ước đã từng loan báo. Vũ khí của họ, sức mạnh của họ, nơi nương tựa duy nhất của họ, lẽ sống của họ là chính Chúa. Chúa Giêsu đề cao những con người ấy và Ngài mời gọi những ai muốn làm đồ đệ Ngài cũng hãy mặc lấy tâm tình phó thác và tin yêu những con người ấy.
Kỳ thực, lịch sử vẫn tiếp tục chứng minh rằng chìa khóa của nhiều vấn đề lớn của nhân loại không nằm trong khoa học kỹ thuật và sức mạnh của vũ khí. Sứ điệp và bí mật Fatima đã được ứng nghiệm. Ba trẻ em vô học và nghèo nàn tại một ngôi làng nhỏ bên Bồ Ðào Nha đã chứng minh cho thế giới thấy sức mạnh vô song của lời cầu nguyện, tức của lòng tin và lòng phó thác của con người. Lời tiên tri của Mẹ Maria vẫn tiếp tục được ứng nghiệm: Người cất khỏi tòa cao những người quyền thế và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.
Kính nhớ Mẹ trong ngày thứ bảy này, chúng ta cùng cầu nguyện với chính tâm tình của Mẹ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Như trẻ em
Bấy giờ, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. Nhưng Đức Giêsu nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng.” Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó. (Mt. 19, 13-15)
Câu nói chiếu sáng cho cả đoạn Tin Mừng này là: “Nước Trời thuộc về những ai giống như trẻ em.” Nước Trời đang hiện diện mọi lúc trong đời sống con người, trong đời sống Giáo Hội. Trong các dụ ngôn về Nước Trời, Chúa luôn nhấn mạnh đến giai đoạn hiện tại và giai đoạn cánh chung. Nhưng giai đoạn cánh chung được tiếp nối với giai đoạn hiện tại, tùy thuộc chúng ta hôm nay sống Nước Trời hay không.
Hoàng tử nhỏ.
Hoàng tử nhỏ của Nước Trời là trẻ em, không phải vì bất lực hay nghèo khó, nhưng vì đời sống phong phú dồi dào, vì lòng trông cậy mạnh mẽ và con tim trong trắng đơn sơ, ngay thẳng. Tấm lòng trong trắng này làm cho con mắt tâm hồn trong suốt như thủy tinh. “Ai có lòng trong sạch được thấy Thiên Chúa” ngay trong đời sống này, chúng thấy được Thiên Chúa trong các tạo vật được dựng lên theo hình ảnh Ngài và được Ngài quan phòng hướng dẫn.
Sao con người lại bị mất vẻ trong sáng của tuổi thơ? khi nói tới ai có một tâm hồn trẻ thơ, người ta cảm thấy người đó sống bằng con tim thuần khiết.
Ở đâu?
Khi đứa bé qua đời, nó được sống trong Nước Trời, nó rất khó phải ở nơi khác! nếu nó yếu đuối phạm tội, chắc chắn nó sẽ ăn năn vì mến Chúa như Ngài đã yêu nó không hềloại trừ nó…
Sau những thí dụ đó Thiên Chúa công nhận trẻ em như là mẫu người được mời vào dự tiệc Nước Trời.
“Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ…” đây là một ấn văn chứa đầy trong Tin Mừng …. Tại sao chúng ta không cố gắng thực hiện? tại sao chúng ta không sống theo lời mời gọi của Chúa? tại sao lời đó không trở nên qui tắc cho đời sống đạo của chúng ta?
J.M
Suy niệm 6: Nên như trẻ nhỏ mới được vào nước trời
Xem lại CN 27 TN B, Thứ Bảy tuần 7 TN.
Đơn sơ, trong trắng là những đặc tính quý giá nơi trẻ em. Vào thời Đức Giêsu, đã nhiều lần Ngài dùng hình ảnh, đời sống và tính cách các trẻ em để dạy cho các môn đệ hay dân chúng những bài học sâu xa về mầu nhiệm Nước Trời.
Hôm nay, một lần nữa, Đức Giêsu muốn nói rõ hơn về đặc tính ấy khi thấy một em bé được người ta bế đến để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Các môn đệ tỏ vẻ không đồng ý vì coi đây là chuyện vớ vẩn. Các ông nghĩ nên dành thời gian để Đức Giêsu nghỉ ngơi và làm những chuyện lớn lao hơn! Mặt khác, các ông cũng không muốn bị quấy rầy bởi những chyện tầm thường, nhỏ nhặt như vậy. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã tỏ thái độ khác hoàn toàn với lối suy nghĩ của các ông, nên Ngài đã nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng”.
Thật vậy, trẻ nhỏ thì đơn sơ, trong trắng và thủy chung. Chúng luôn cần đến sự trợ giúp của người khác và thường nải nỉ xin cha mẹ và những người lớn điều chúng muốn.
Nhân đây, Đức Giêsu không có ý nói là phải nhỏ bé lại theo nghĩa đen, mà là theo nghĩa bóng, tức là hãy mặc lấy tâm tình của trẻ thơ, đó là: hãy sống trong trắng, đơn sơ, chân thành, không nghi kỵ, vòng vo, gian dối, không tự kiêu, tự mãn, nhưng biết phó thác, tin tưởng vào Chúa quan phòng. Luôn yêu thương và gắn kết trong sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì: “Mọi gánh nặng hãy trút bỏ cho Ngài, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trở nên đơn sơ như trẻ nhỏ để được vào Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Chúa Giêsu và trẻ em
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
- Theo truyền thống xã hội của Do thái thời Chúa Giêsu, những ai chưa kết hôn thì chưa hoàn toàn là người trưởng thành, vì thế bị coi rẻ trong xã hội. Việc Chúa Giêsu đón nhận các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng biểu lộ tình thương và sự gần gũi của Người đối với các em. Chúa Giêsu yêu mến tinh thần đơn sơ, phó thác và cho đó là điều kiện để được vào Nước Trời: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng”.
- Người đời quen phân biệt ai là người mình nên trọng, ai là kẻ mình khinh thường. Ngày xưa người Do thái khinh thường và khai trừ một số người khỏi sinh hoạt chung của xã hội và tôn giáo, đó là phụ nữ, người cùi, người tội lỗi công khai và trẻ nhỏ… Đặc điểm của Kitô giáo và đặc biệt là của Công giáo là mở rộng vòng tay tiếp đón mọi người không khai trừ ai.
Lời Chúa hôm nay cho thấy Chúa Giêsu yêu thương trẻ em và tất cả những ai sống đơn sơ khiêm nhường như chúng: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng”.
Thật ra, trẻ nhỏ chưa phát triển đầy đủ như con người trưởng thành để có thể chịu trách niệm về những hành vi của mình. Con người thực sự có giá trị vẫn là con người có đủ tài đức để phục vụ người khác. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta trở nên như trẻ nhỏ, là vì nơi chúng có những đức tính tự nhiên mà mọi người cần thực hành để vào Nước Trời.
- “Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện”.
“Đặt tay” là một nghi thức thường được dùng để chữa bệnh hay tấn phong; còn trong trường hợp này, đây là cử chỉ chúc phúc xin Chúa che chở trên một kẻ nào đó. Người ta đem trẻ nhỏ đến xin Chúa đặt tay lên chúng là để xin ơn che chở cho trẻ nhỏ, là những kẻ cần được bảo vệ và chăm sóc. Giáo dân thường đến xin các Linh mục chúc lành là vì họ tin tưởng Chúa hiện diện nơi linh mục. Những ai càng gần Chúa thì càng có thế giá để cầu xin phúc lành của Thiên Chúa (Trần Hữu Thành).
- Trên nguyên tắc người ta phải tôn trong trẻ em, nhưng trong thực tế người ta đã khinh thường trẻ em nên có những hành động làm tổn thương các em. Năm vừa qua, nhiều nhà báo phản ánh chuyện các em học sinh bị giáo viên đánh đập tàn bạo, đến nỗi ban đêm nằm ngủ ở nhà, các bé cũng la hét hoảng loạn, van xin cô đừng đánh nữa.
Ai trong chúng ta cũng biết trẻ em là tương lai của gia đình, xã hội và Giáo hội. Vì thế, các em cần được yêu thương, chăm sóc. Tuy nhiên, các em cũng là đối tượng của sự bạo hành, đánh đập và bóc lột tàn tệ của một số người, vì các em yếu đuối và không có khả năng tự bảo vệ.
Thiên Chúa thì khác, Người luôn quan tâm săn sóc các em. Kinh thánh cho biết, trẻ em chính là đối tượng được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt. Hơn nữa, Đức Giêsu còn khẳng định những ai giống như trẻ em mới được vào Nước Trời. Vì sao? Vì các em đơn sơ, trong trắng, thật thà và chân thành.
- Mỗi khi phải đón tiếp những nhân vật quan trọng, người ta thiết lập những hàng rào an ninh nghiêm ngặt nhằm bảo vệ an toàn tuyệt đối cho các VIP đó. Những việc lớn lao như thế đương nhiên là việc người lớn, còn “con nít thì đi chỗ khác chơi”! Các môn đệ Chúa Giêsu cũng dễ sa vào cơn cám dỗ “kẻ cả” đó: biến Thầy mình thành VIP để vai trò của mình được quan trọng hóa lên. Và họ cho rằng việc đầu tiên phải làm ngay là cấm chỉ không cho lũ trẻ nít bén mảng đến gần Thầy mình. Kể ra các môn đệ cũng “hơi bị quê độ” khi Đức Giêsu sửa lưng các ngài ngay tức khắc: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng xua đuổi chúng”(5 phút Lời Chúa).
- Hôm nay một lần nữa, Chúa Giêsu muốn nói rõ hơn về những đức tính tốt khi thấy một em bé được người ta bế đến để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Các môn đệ tỏ vẻ không đồng ý vì coi là chuyện quấy rối mất thì giờ. Tuy nhiên, trẻ em thì đơn sơ, trong trắng, chân thật và thủy chung. Chúng cần đến sự trợ giúp của người khác và thường nài xin cha mẹ và những người lớn điều chúng muốn. Nhân đây, Chúa Giêsu không có ý nói là phải nhỏ bé lại theo nghĩa đen, mà là theo nghĩa bóng, tức là hãy mặc lấy tâm tình của trẻ thơ, đó là: hãy sống trong trắng, đơn sơ, chân thành, không nghi kỵ, vòng vo, gian dối, không tự kiêu, tự mãn, nhưng biết phó thác, tin tưởng vào Chúa quan phòng. Luôn yêu thương và gắn kết trong sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì: “Mọi gánh nặng hãy trút bỏ cho Ngài, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay”.
- Truyện: Một trẻ thơ làm chứng nhân.
Ông Taba, một nhà trí thức tại Indénosia và cũng là một tín hữu Kitô đã kể lại câu chuyện đời ông như sau:
“Tôi rất hãnh diện và tôi cho rằng tôi là người tín hữu duy nhất trong giáo xứ có được bằng tiến sĩ, mà còn là chủ tịch hội luật gia, đồng thời là chủ tịch hội trí thức trong tỉnh nữa. Với tất cả những danh hiệu và chức vụ này, tôi tưởng như chẳng ai bằng tôi cả. Thế nhưng tôi lại bê trễ việc đạo vì quá bận rộn. Tôi không còn quan tâm gì đến việc cầu nguyện nữa.
Một hôm, cháu trai mới hai tuổi của tôi đến chơi và ngủ lại chung phòng. Khi thấy như thế, cháu hỏi: “Cậu ơi, sao cậu không cầu nguyện? Cậu cãi nhau với Chúa rồi à?”
Câu hỏi ngây thơ ấy làm tôi tỉnh ngộ. Thật chính là Chúa đã dùng một đứa bé mới có hai tuổi làm nhân chứng cảnh tỉnh và nhắc nhở tôi. Tôi lập tức cầu ngay trước mặt cháu. Và từ đó tới nay tôi luôn cầu nguyện trước khi đi ngủ”.
Suy Niệm 8: ,,,
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa là Đấng chân thành và đầy yêu thương. Cùng với các trẻ em, những ai biết sống chân thành và đầy tình yêu thương, sẽ được Chúa đón nhận và chúc lành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thương và ôm các thiếu nhi vào lòng, chẳng phải vì vóc dáng dễ thương nhưng vì các em sống đơn sơ và chân thành. Một em bé đánh mất lòng đơn sơ chân thành chẳng đáng là công dân Nước Trời. Ngược lại, một người lớn mà vẫn giữ được lòng đơn sơ chân thành như trẻ thơ vẫn đáng được Chúa đón nhận.
Chính Chúa là Đấng chân thành và đầy lòng yêu thương. Chúa đòi hỏi những ai muốn ở với Chúa cũng phải đơn sơ, chân thành và sống chan hòa yêu thương.
Lạy Chúa, xin giúp con đến với Chúa trong tình yêu mến chân thành của trẻ thơ. Xin đừng để con đến với Chúa để cầu lợi, vì khi ấy con đã trở thành con buôn đến với Chúa. Đừng để con đến với Chúa mà khoe khoang như người biệt phái lên đền thờ cầu nguyện, vì con sẽ chẳng đáng Chúa thương. Đừng để con đến với Chúa mà mặc cảm như ông Giu-đa, không dám xin Chúa tha thứ, vì như thế Chúa chẳng cứu được con. Xin dạy con sống đơn sơ chân thành: biết cám ơn Chúa về điều tốt đẹp nơi con, biết xin Chúa thứ tha cho những điều thiếu sót, biết trình bày những thiếu thốn khó khăn và phó thác trong tay Chúa.
Lạy Chúa, dù con còn bé hoặc đã trưởng thành, xin cho con biết giữ mãi tinh thần trẻ thơ để con mãi mãi ở trong tay Chúa và đáng được Chúa chúc lành. Amen.
Ghi nhớ: “Ðừng ngăn cấm các trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời là của những người giống như chúng”.
Suy Niệm 9: ,,,,,,,,,
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
- Hạt giống…
Người do thái coi khinh trẻ nhỏ, vì chúng chưa đến hội đường để học cho nên chưa biết Luật Môsê. Trong chuyện này, các môn đệ cũng theo quan điểm khinh thường trẻ nhỏ như thế, cho nên khi người ta đem chúng đến với Chúa Giêsu thì các ông đuổi. Đó là thái độ khai trừ.
Chúa Giêsu không đồng ý với thái độ khai trừ đó. Ngài bảo “Cứ để trẻ em đến với Thầy và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” : Trẻ nhỏ (và những người giống như chúng) được Người đề cao không phải vì chúng khờ dại hoặc yếu ớt mà vì 2 lý do : 1/ Chúng bị xã hội “khai trừ”. Mà ai bị người đời khai trừ thì Thiên Chúa lại che chở ; 2/ Chúng ngoan ngoãn lệ thuộc và tín nhiệm người lớn (trẻ nhỏ dễ nghe, dễ vâng lời). Hai điểm này khiến chúng trở thành những “người nghèo” được Thiên Chúa ưu ái.
B…. nẩy mầm.
- Người đời quen phân biệt ai là người mình nên trọng ai là kẻ mình khinh thường. Ngày xưa người do thái khinh thường và khai trừ một số người khỏi sinh hoạt chung của xã hội và tôn giáo, đó là phụ nữ, người cùi, người tội lỗi công khai và trẻ nhỏ…. Đặc điểm của Kitô giáo và đặc biệt của Công giáo là mở rộng vòng tay tiếp đón mọi người không khai trừ ai.
Nhưng đó mới chỉ là thái độ của Chúa Giêsu thôi. Đó có phải là thái độ của mọi kitô hữu chưa ?
- Hãy để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng” : người lớn ngăn cấm trẻ nhỏ đến với Chúa bằng nhiều cách : không dẫn chúng đến nhà thờ, không tạo điều kiện cho chúng học giáo lý, làm gương xấu, gieo vào đầu óc ngây thơ của chúng những ý tưởng đen tối v.v.
- Một cậu bé gõ cửa nhà một bà già và hỏi xem bà có mua những trái trứng cá chín mọng cậu vừa hái được. Bà trả lời : “Có, bà sẽ xách xô của cháu vào bếp và đong 2 lít”.
Cậu bé đứng ngoài đùa với con chó. Bà nói : “Sao cháu không vào xem bà đong có đúng không ? Nhỡ bà lường gạt cháu thì sao ?”
– Cháu không sợ, vì làm thế bà sẽ nhận được điều xấu nhất.
– Cháu muốn nói gì ?
– Vì cháu chỉ mất vài trái nhỏ, nhưng bà tự biến mình thành kẻ trộm. (Góp nhặt)
- Chúa Giêsu nói : “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mt 19,14)
Con đường nhỏ xíu, chay ngoằn ngoèo. Nước chảy lênh láng, những dãy nhà nhô ra thụt vào mất trật tự như đám con nít xóm này. Không thể tưởng tượng ở đâu ra nhiều con nít đến thế. Chúng dơ bẩn, áo quần cũ rích, chạy lung tung ngoài đường, nói bậy luôn mồm. Một cậu bé mải chơi đâm sầm vào một bà đi đường. Té ngã, thằng bé văng tục. Bà kia quát : “Đồ du côn, đồ mất dạy…” Lời “giáo huấn” tưởng chùng không bao giờ kết thúc.
Là ai, nếu không phải người lớn đã vô tình hoặc cố ý làm vấy bẩn tâm hồn trong trắng của các em. Hơn ai hết, chúng đủ tư cách được hưởng hạnh phúc nhất, nhưng xã hội lại rất nhẫn tâm đè bẹp những cánh hoa mong manh ấy bằng những gương xấu, bằng cơ chế nghèo hèn, thất học. Thậm chí những em kém may mắn bị đẩy ra đời sớm còn tiêm nhiễm biết bao thói hư tật xấu. Thiên đàng của các em là đâu !
Xã hội phân hoá giàu nghèo, con người quay cuồng với miếng cơm manh áo. Nhưng xin Cha cho chúng con luôn biết nhớ và tôn trọng quyền được chăm sóc, giáo dục của trẻ em. (Hosanna)
Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Người đời quen phân biệt ai là người mình nên trọng, ai là kẻ mình phải khinh. Ngày xưa người Do Thái khinh thường và khai trừ một số người khỏi sinh hoạt chung của xã hội và Tôn giáo. Đó là phụ nữ, người cùi, người tội lỗi công khai và trẻ nhỏ. Đặc điểm của Kitô giáo và đặc biệt của Công giáo là mở rộng vòng tay tiếp đón mọi người không khai trừ ai.
Đó là thái độ của Chúa Giêsu. Nhưng đây có phải là thái độ của mọi Kitô hữu chưa?
“Hãy để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng” (Mt 19,14): Chúa Giêsu thương những trẻ nhỏ bởi vì tự chúng, trẻ nhỏ có rất nhiều đức tính rất tốt.
Nhà văn Pécaut, người Pháp, có kể lại một câu chuyện có thật và đầy xúc động, mà ông đã gặp một lần trong đời để rồi vẫn còn nhớ mãi, không thể nào quên được. Câu chuyện như sau:
Một hôm, tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trạc 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương, tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay: “Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trở lại trả cho ông ngay”.
Tôi nhìn thằng bé với một thoáng nghi ngờ. Nó vội nói: “Thưa ông, cháu không phải là một thằng ăn cắp đâu ạ!”
Quả vậy, gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng, và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa…
Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé bé hơn đứa bé ban sáng, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống “thằng ăn cắp” như tạc. Nét mặt nó bộc lộ một sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với tôi: “Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu… cháu sợ rằng, anh cháu chết mất thôi…” Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào: “Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi..”.
Tôi rảo bước gần như chạy sau em bé. Chúng tôi rời khỏi những khu phố giàu sang để lách vào những con hẻm lầy lội tối tăm của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại trước một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban sáng. Nó nằm dài bất động trên một đống áo quần cũ rách, mặt trắng bệch vì mất khá nhiều máu. Nó thều thào nhìn tôi: “Thưa ông, xin ông lại gần cháu hơn một chút nữa…”
Tôi tiến lại gần, quỳ một chân, cúi xuống đỡ lấy bàn tay nhỏ bé và lạnh ngắt. Em nói với tôi. Ánh mắt của nó toát lên một niềm vui ngây thơ: “Em cháu đã đưa chỗ tiền lẻ cho ông rồi phải không ạ? Ông thấy không, chúng cháu đâu có phải là những đứa lừa gạt và ăn cắp. Cháu chỉ có mình nó là em ruột, cháu bị tai nạn thế này, rồi đây… Ôi trời ơi, rồi đây em cháu sẽ ra sao đây?”
Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em, và tôi đã hứa với em rằng, tôi sẽ hết lòng chăm sóc thằng bé thay cho em. Tôi nói chuyện với em được một lúc, bàn tay gầy guộc của em cứ để mãi trong tay tôi…
Tội nghiệp thằng bé, tôi biết vết thương của nó rất trầm trọng, không còn có thể làm gì để kịp cứu chữa cho em. Thằng bé có lẽ đã cố gắng thoi thóp sống chỉ cốt để gặp được tôi, trăn trối một lời cuối cùng. Bây giờ thì em không còn rên rỉ đau đớn nữa, đôi mắt em liếc nhìn đứa em thân yêu rồi chớp chớp nhìn tôi với một vẻ bình thản gần như hạnh phúc…
Đấy, người bạn bé nhỏ của tôi đã chết như thế đấy. Thằng bé đã cho tôi biết thán phục và thương cảm trước một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng, ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực…
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
Có những ngày yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói,
Lạy Chúa trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên Lời Chúa nói:
“Ðiều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” Amen.