Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 24 Thường Niên

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 24 Thường Niên

 

THỨ HAI TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN.

 

THỨ HAI TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Lc 7, 1-10

Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum.

Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: “Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta”.

Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”.

Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: “Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”. Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.

 

Suy niệm 1: Cứ nói một lời

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Viên đại đội trưởng ở đây là người coi một trăm quân.

Ông đã nghe đồn về khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu.

Nhưng ông chẳng hề dám gặp mặt Ngài,

vì ông biết mình là dân ngoại, bị người Do Thái coi là nhơ uế.

Bởi tình thương đối với anh nô lệ mà ông yêu quý,

ông đã mạnh dạn nhờ các kỳ mục Do Thái xin Đức Giêsu đến nhà ông

để cứu sống anh nô lệ đang bệnh nặng gần chết (cc. 2-3).

Sau khi nghe kể lại những điều tốt đẹp viên sĩ quan Rôma này đã làm,

Đức Giêsu liền lên đường đến nhà ông ấy để chữa bệnh (cc. 4-6).

Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý.

Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài

mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa,

căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6).

Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông,

nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6).

Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ.

Ông tin rằng chẳng cần Ngài vào nhà ông và gặp anh nô lệ sắp chết.

Chỉ cần Ngài nói một lời cũng đủ làm cho anh ta lành mạnh (c. 7).

Viên đại đội trưởng tin vào sức mạnh của lời Đức Giêsu.

Đối với ông, lời ấy có uy lực như một mệnh lệnh.

Là một sĩ quan trong quân đội Rôma

ông hiểu thế nào là sự phục tùng của lính tráng dưới quyền.

“Tôi bảo người này: “Đi!” là nó đi; bảo người kia: “Đến!” là nó đến;

và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này!” là nó làm.” (c. 8).

Lệnh được ban ra là phải thi hành.

Viên đại đội trưởng tin rằng lời của Đức Giêsu cũng thế.

Chỉ cần một lời cũng đủ làm cơn bệnh nguy tử phải thoái lui.

Đức Giêsu ngỡ ngàng trước một lòng tin mạnh mẽ như vậy.

Khó lòng tìm thấy lòng tin đó nơi cộng đoàn dân Ítraen (c. 9).

Ngài đã không đến nhà viên sĩ quan,

chẳng gặp mặt ông, cũng chẳng nói lời nào.

Chỉ biết là sau đó anh nô lệ đã được khỏi (c. 10).

Ở đâu ta cũng gặp những người như viên sĩ quan Rôma.

Họ có thể là mẫu mực cho các Kitô hữu về sự khiêm hạ và tín thác.

Nhiều con người hôm nay, có tấm lòng thật tốt như viên sĩ quan,

nhưng vẫn ngại chưa dám mời Chúa vào nhà,

chưa dám trực tiếp gặp mặt Chúa,

chỉ dám nói chuyện với Ngài qua trung gian.

Nhưng họ có thể đã mang trong mình một niềm tin kiên vững

và đã có kinh nghiệm về sự chữa lành kỳ diệu của Ngài.

“Tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, chỉ xin Ngài nói một lời…”

Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa.

Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài.

Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Đấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thuong của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

 

Suy niệm 2: Đức tin mãnh liệt

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thật đáng ngưỡng mộ đức tin của viên đại đội trưởng ngoại đạo. Đức tin tinh tuyền và nguyên sơ nhận Chúa là Chúa tể muôn loài. Các vị thần thánh khác chỉ có thể hầu cận phụng lệnh Người. Chúa toàn năng, chỉ cần “phán một lời” mọi thần thánh phải tuân hành và mọi sự đều hoàn thành. Đức tin sống động và cụ thể. Ngoại đạo nhưng ông giúp xây hội đường cho người Do Thái. Đức tin biểu lộ trong đức bác ái hoàn hảo. Ông yêu quí người nô lệ. Thật đặc biệt. Vào thời đó người ta coi nô lệ như súc vật, chỉ có việc phục dịch, như món hàng để mua bán, miễn có tiền là có quyền trên nô lệ, như dụng cụ, hư hỏng là vứt bỏ, thậm chí có quyền hành hạ và giết chết mà không có tội trước pháp luật. Thế mà ông yêu quí người nô lệ. Yêu quí đến nỗi phải đi cầu xin Chúa chữa cho nó. Đức tin cư xử tế nhị. Không phiền Chúa bước vào nhà ông, người ngoại. Vì sẽ bị ô uế. Đức tin của ông quả thật đáng cho ta noi gương bắt chước.

Thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy noi gương đức tin của ông. Tin Chúa có quyền tuyệt đối trên vua chúa trần gian. Tin Chúa nên hãy cầu nguyện cho mọi người. Và chính Chúa sẽ cho vua chúa trần gian được biết xây dựng hòa bình và người dân được an cư lạc nghiệp. Cầu nguyện cho vua chúa được noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết thương dân. Biết lo cho dân. Biết xây dựng đoàn kết. Phần chúng ta, nếu chúng ta có đức tin, siêng năng cầu nguyện thì tâm hồn ta sẽ có đức bác ái “tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (năm lẻ).

Ngài than phiền giáo dân Cô-rin-tô vì họ thiếu đức tin. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không nhìn thấy Chúa. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không cảm nhận mình được hiệp thông với Mình Máu Chúa, chỉ nghĩ rằng đi ăn tiệc vật chất. Vì thiếu đức tin nên họ cũng thiếu đức bác ái. Đi dự tiệc Thánh Thể nhưng chỉ biết phần ai nấy dùng và vì thế nhiều anh em bị đói bụng ra về. Ước gì giáo dân Cô-rin-tô biết noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết quan tâm đến người yếu kém. Biết tế nhị đừng sỉ nhục người nghèo. Biết chia sẻ bữa tiệc thánh. Nhất là biết cử hành Thánh Thể với đức tin. Tin Chúa hiện diện trong Thánh Thể thì họ sẽ biết kính trọng người khác. Sống bí tích Thánh Thể thì họ sẽ biết chia sẻ như Chúa. Và sẽ biết yêu thương hợp nhất. Vì Chúa chết để qui tụ muôn người (năm chẵn).

Vậy mỗi khi đọc lời kinh của viên đại đội trưởng ngoại đạo: “Lạy Chúa con chẳng đáng…” ta hãy bắt chước ông có một đức tin sâu xa, tin Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chính đức tin chân chính sẽ mở tâm hồn ra trong đức bác ái, để ta biết yêu thương mọi người, từ quan quyền tới người nghèo khổ, và nhất là biết chia sẻ với mọi người.

 

Suy niệm 3: Sức Mạnh Của Lời Chúa

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta Suy niệm về lời quyền năng của Chúa. Thông thường, Chúa Giêsu chữa trị bằng cách đặt tay hoặc sờ đến bệnh nhân. Cũng có trường hợp Ngài làm một cử chỉ hay chỉ nói một lời, như được ghi lại trong trình thuật chữa bệnh cho người đầy tớ của viên bách quản.

“Xin Ngài chỉ nói một lời”. Lời thỉnh cầu của viên bách quản gợi lại câu Thánh vịnh 106: “Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị”. Qua lời thỉnh cầu này, viên bách quản mặc nhiên nhìn nhận Chúa Giêsu thực sự đến từ Thiên Chúa và lời của Ngài là lời quyền năng và hữu hiệu. Lời thỉnh cầu của viên bách quản thể hiện một niềm tin sâu sắc, đến độ đã được Giáo Hội lặp lại mỗi ngày trong Thánh lễ, để nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của lời Chúa, cũng như bổn phận rao truyền lời Chúa trong cuộc sống chúng ta.

Thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên của thông tin. Lời nói xem chừng tràn ngập khắp nơi, nhưng liệu con người có nghe được lời quyền năng có sức chữa trị và giải phóng con người không? Các phương tiện truyền thông đại chúng càng gia tăng và tinh vi, thì lời nói càng được tung ra, nhưng tác hại không kém. Có những lời đường mật dụ dỗ người trẻ sa vòng trụy lạc, nô lệ; có những lời dối trá của chính trị gia; có những lời thất vọng, chán chường của những tiên tri chỉ biết loan báo thảm trạng. Ngược lại, cũng không thiếu những hình thức tước đoạt quyền tự do tư tưởng và phát biểu của con người.

Trong một hoàn cảnh như thế, những người mà niềm tin được xây dựng trên lời quyền năng của Thiên Chúa, hẳn phải nói lên lời của Ngài hơn bao giờ hết. Ngày nay, có biết bao viên bách quản đang chờ đợi một lời nói can đảm, chân thật và hữu hiệu từ các Kitô hữu. Trong một xã hội chỉ có những lời của hận thù, đố kỵ, thì lời của các Kitô hữu phải là lời của yêu thương, hòa giải và tha thứ. Lời của Chúa là lời chân thật và hữu hiệu, lời ấy không chỉ được các Kitô hữu nói bằng môi miệng, mà còn phải được nhập thể vào cuộc sống của họ.

Nguyện xin Chúa, Ðấng nói một lời thì linh hồn chúng ta được lành mạnh, ban sức mạnh, để chúng ta can đảm sống và nói lời Ngài, nhờ đó những người xung quanh nhận ra phép lạ của Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Sức Mạnh Của Niềm Tin

Năm 2002, trước khi Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận qua đời, trong thời gian ngài bị bệnh, không riêng gì người công giáo Việt Nam mà có lẽ cả thế giới công giáo đều quan tâm theo dõi và cầu nguyện cho sức khỏe của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận, Chủ tịch hội đồng Tòa Thánh Công Lý Hòa Bình. Trước khi lên bàn mổ lần thứ hai, Ðức cố hồng y đã đi hành hương đến mồ thánh Piô năm dấu, người vừa được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 16/6/2002. Phép lạ về phương diện y khoa cho tới giờ phút này vẫn chưa xảy ra nhưng nụ cười vẫn không bao giờ tắt trên môi Ðức hồng y, đó là điều mà nhiều người xem như một phép lạ. Ðức cố hồng y xem những tháng ngày trên giường bệnh là một ơn đặc biệt Chúa ban cho ngài. Phải chăng đây không là sự hoàn tất của con đường thập giá mà Ðức Mẹ đã báo trước cho ngài? Ðức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận không những đã làm vẻ vang Giáo Hội và dân tộc Việt Nam mà ngài còn là một mẫu mực đức tin cho chúng ta. Ðức tin, đó là ơn trọng đại nhất mà chúng ta phải không ngừng cầu xin.

Trong câu chuyện phép lạ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đề cao lòng tin của viên sĩ quan người La Mã. Người sĩ quan này không đòi hỏi Chúa Giêsu phải đến tận nhà ông mà chỉ xin Chúa phán một lời thì cũng đủ sức chữa lành người đầy tớ của ông. Lời của viên sĩ quan này biểu lộ một niềm tin sâu sắc đến độ đã được Giáo Hội mượn làm lời tuyên xưng của chúng ta trước khi đến rước Chúa vào lòng.

Quả thật, chúng ta cần được Chúa chữa trị tâm hồn. Sức khỏe phần xác là điều cần thiết cho cuộc sống nhưng sức khỏe của linh hồn mới là điều quan trọng hơn. Có tất cả mọi sự, có sức khỏe thể xác nhưng linh hồn bại hoại thì được ích gì.

Nguyện xin Chúa cứu chữa tâm hồn chúng ta để giữa bệnh tật khổ đau và mất mát trong cuộc sống chúng ta vẫn một lòng tin tưởng nơi tình yêu quan phòng của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Một đức tin lạ lùng

Một viên đại đội trưởng kia có một người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giêsu, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. (Lc. 7, 2-3)

Đây không chỉ là một đức tin tuyệt vời mà Đức Kitô gặp thấy ở vị đại úy xin Người cứu chữa kẻ nô lệ của ông, đây còn là một đức tin lạ lùng làm kinh ngạc chúng ta khiến chúng ta phải thán phục chừng nào.

Vì thế Đức Giêsu đã quả quyết Người chưa gặp thấy lòng tin nào mạnh như thế, ngay cả trong dân Is-ra-el. Một đại úy của đế quốc Rô-ma có một kẻ nô lệ đau nặng, ông nghe đồn về một Đức Giêsu đầy quyền năng và lòng nhân hậu. Ông không dám đến gặp Người, hẳn ông ý thức rõ về địa vị của ông trong đế quốc đang thống trị dân Do-thái, không đáng đón nhận một ân huệ cho những kẻ thuộc quyền ông, dù Người cởi mở và hiếu khách. Nghĩ thế, nên ông đã nhờ những kỳ mục Do-thái làm trung gian dễ gần gũi Đức Kitô hơn. Các ông này có địa vị khá cao nên đến xin Đức Giêsu nhận lời xin của vị đại úy là người yêu quý dân Do-thái, chính ông đã xây hội đường Ca-pha-na-um bằng chính tiền của ông.

Chúa không từ chối lời cầu. Lập tức, Người lên đường. Người không kỳ thị dân tộc. Người làm ơn cho hết mọi dân tộc. Người sẽ đến đó để giúp đỡ và lắng nghe. Lúc đó lại xảy ra một biến cố đáng ngạc nhiên: viên đại úy nhờ các bạn hữu của ông đến thưa với Chúa: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Đó là lý do tôi nghĩ mình không xứng đáng đến gặp Ngài, nhưng xin Ngài cứ phán một lời thì đầy tớ tôi được khỏi”.

Câu nói vắn gọn lạ lùng đó, chúng ta đã lập lại mỗi khi lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, có làm cho chúng ta tin mạnh mẽ sâu thẳm như vị đại úy đó không? Ông không ở gần Đức Giêsu, nhưng ngay lập tức ông đã tin mạnh mẽ lạ lùng. Đức Giêsu đã ngây ngất thán phục trước đức tin của ông và đón nhận ông như môn đệ của Người.

Còn chúng ta, có thực, đức tin có liên kết chúng ta với Đức Kitô không? có thực, đức tin có giúp chúng ta tận hiến cho Người không?

GF

 

Suy niệm 6: Đức tin của người dân ngoại

Xem lại CN 9 TN C – thứ Hai tuần 4 MV và tuần 4 MC – thứ Bảy tuần 12 TN

Tại các trung tâm hành hương, chúng ta vẫn thấy đây đó các bảng ghi ơn của những người ngoài Công Giáo như sau: “Con là kẻ ngoại đạo, con xin tạ ơn Chúa … ”; “Tạ ơn Chúa… đã cứu giúp con, mặc dù con là người lương dân”. Điều này được thấy rất rõ ở trung tâm hành hương cha F.x. Trương Bửu Diệp tại Giáo phận Cần Thơ hay đền cha thánh Phêrô Lê Tùy thuộc Giáo phận Hà Nội.

Thật vậy, vẫn còn đó những người lương dân, đôi khi lại có niềm tin mạnh hơn cả những người Công Giáo. Đây là điều chúng ta nên hồi tâm và suy nghĩ lại về đời sống đức tin của mình với Thiên Chúa!

Hôm nay, Đức Giêsu cũng khen ngợi đức tin của một viên sĩ quan ngoại giáo ở Rôma.

Khi nghe tin quyền năng và tốt lành của Đức Giêsu, ông đã truyền lệnh cho mấy trưởng tế đến để cầu cứu Đức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ của mình đang đau nặng. Khi được tin, Đức Giêsu muốn đích thân đến để cứu giúp đầy tớ của ông. Tuy nhiên, ông không dám mời Ngài về nhà mình, vì lý do nhận thấy mình không xứng đáng để được Đức Giêsu đến nhà. Ông chỉ dám xin Ngài phán một lời thôi thì đầy tớ ông sẽ được bình phục. Thấy được đức tin của ông mạnh và sự khiêm nhường thẳm sâu của ông, nên Đức Giêsu đã ra tay cứu giúp cho người đầy tớ thân tín của ông.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có lòng thương xót như Đức Giêsu. Sẵn sàng giúp đỡ những người đang cần đến chúng ta, mặc cho họ là ai, cùng niềm tin với mình hay không…! Mặt khác, sự xuất hiện và hành động của viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc ta bài học về tình yêu không biên giới, đã thương xót thì không phân biệt chủ – tôi, giai cấp… Đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa trong sự khiêm nhường, tín thác.

Sự khiêm nhường, tin tưởng tuyệt đối của viên sĩ quan khi xưa, nay đã trở thành mẫu mực cho mọi người chúng ta, đến nỗi trong phụng vụ thánh lễ đã lấy lại lời này như một tâm tình của con cái Giáo Hội khi chuẩn bị đón nhận Mình Thánh Chúa vào trong tâm hồn của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.

Mong sao lời tuyên tín này mang lại cho chúng ta sự khiêm tốn, tin tưởng, bình an, hạnh phúc đích thực chứ không chỉ là một công thức phải đọc như một thói quen mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin, sự khiêm tốn và lòng bao dung cho chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 7: Tôi không đáng rước Ngài

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Nghe tin Chúa  Giêsu vào thành Capharnaum, một sĩ quan ngoại giáo liền cậy nhờ những người làm lớn trong dân Do thái đế xin Chúa  chữa đầy tớ yêu quí của ông đang hấp hối.  Và các ông đã đến trình cho Chúa  biết lai lịch của viên sĩ quan này. Tuy ông là người ngoại đạo, nhưng ông rất có thiện cảm với đạo giáo. Rồi các ông nài xin Chúa đến cứu chữa đầy tớ của ông. Chúa nhận lời.

Người còn đi dọc đường thì viên sĩ quan  nhờ bạn hữu đến thưa không dám rước Người về nhà, chỉ xin Người phán một lời cho người bệnh được khỏi, như ông sai bảo binh lính và đầy tớ làm gì là họ làm theo.  Chúa thấy viên sĩ quan này có đức tin mạnh mẽ và lòng khiêm nhường như thế thì khen ngợi, và đã làm phép lạ cho đầy tớ ông được khỏi bệnh.

  1. Trong Tin Mừng, ít khi chúng ta gặp thấy Chúa Giêsu khen, nhất là khi lời khen dành riêng cho một ai đó. Hôm nay, Chúa Giêsu khen ngợi niềm tin của một sĩ quan Rôma, lời khen thiết thực đến mức có sức chữa lành một người tôi tớ của vị sĩ quan này.  Điều lạ ở đây là người được Chúa Giêsu  ca ngợi về niềm tin, không phải là một chức sắc tôn giáo Do thái, cũng không phải là một đạo hữu Do thái mà là một kẻ ngoại đạo cầm quyền đô hộ dân Người.

Với những gì thánh Luca tường thuật, chúng ta dễ nhận ra rằng, Chúa Giêsu không quá phân biệt người có đạo hay kẻ ngoại, mà Chúa nhìn thấy tâm hồn của mỗi người… Điều mà Chúa khen tặng và sẵn sàng chữa lành hôm nay, chính là lòng tin, sự khiêm nhường cùng một số các đức tính khác mà chúng ta sẽ triển khai dưới đây.

  1. Niềm tin của vị sĩ quan.

Lời của viên sĩ quan: “Vì tôi chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi cùng có lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; tôi bảo nguòi khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”(Lc 7,8).

Đây là một lời tuyên xưng đức tin cao độ. Với cách so sánh, ông tuy là quan nhỏ, nhưng cũng có cấp dưới và họ phải vâng lệnh ông, từ đó ông tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, có quyền trên mọi quyền lực thần thiêng, có quyền trên mọi bệnh tật và tất cả đều phải vâng lệnh Người (quan niệm của người Do thái tin bệnh tật  là do tà thần và sự sữ).

Điều đáng nói ở đây nữa là, một sĩ quan thường ỷ thế  vào quyền lực và tiền bạc để lo lắng cho người đầy tớ, nhưng không, ông tin Chúa Giêsu mới có thể chữa lành và niềm tin của ông đã được đền đáp (Hiền Lâm).

  1. Lòng thương người của vị sĩ quan.

Ông thương bằng cách sẵn sàng chịu cực đủ thứ để mong cứu nó.  Theo luật pháp Rôma, một “nô lệ” được định nghĩa một “đồ dùng”, không có quyền pháp định nào. Chủ nhân có quyền tự do sinh sát đối với người nô lệ của mình.  Một văn sĩ Rôma chuyên về quản lý gia cư có lời khuyên những chủ trại mỗi năm nên kiểm kê các vật dụng và cũng khuyên họ ném bỏ bớt những món gì cũ kỹ, bể nát, “kể cả” những nô lệ già yếu không sử dụng được nữa. Có biết được như thế, chúng ta mới thấy thái độ của viên sĩ quan Rôma này đối với nô lệ là quá phi thường.

  1. Sự khiêm nhường của vị sĩ quan.

Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người tôi tớ hôm nay có quyền lực đại diện cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Chúa Giêsu  truyền đạo.

Thế nhưng, ông nhận ra nơi con người Chúa Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật  sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, nên ông cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nũa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh” (Lc 7,7).

  1. Truyện: Hạ mình xuống sẽ được nâng lên.

Một hôm, Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà trọ có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng thì xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà  ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, không hiểu nổi,  Dương Chu mới hỏi thằng bé trong nhà trọ. Thằng bé tiết lộ:

– Người thiếp đẹp, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai nhìn ra cái đẹp của nàng cả. Trái lại người thiếp xấu, tự biết mình là xấu, mà quên xấu, không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.

Dương Chu liền gọi học trò đến, dặn:

– Các con nhớ ghi lấy: giỏi mà bỏ được cái thói tự cao mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.

 

Suy niệm 8: Đức tin của một sĩ quan ngoại đạo

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)                            

  1. Hạt giống…

Chúa Giêsu chữa bệnh cho đầy tớ một sĩ quan ngoại đạo:

– Ông này có lòng thương người: đầy tớ của ông bệnh mà ông lo lắng như cho con ruột; ông là người rôma nhưng xây cất hội đường cho người do thái.

– Ông cũng khiêm tốn: dù là giới cai trị, ông không ngại hạ mình đến xin Chúa Giêsu là người dân bị trị giúp đỡ mình; ông lại còn nói ông không xứng đáng cho Chúa Giêsu vào nhà ông.

– Đức tin của ông rất mạnh vì ông tin Chúa Giêsu chẳng cần đến nhà ông, chỉ ở xa phán một lời là đầy tớ ông sẽ khỏi.

B…. nẩy mầm.

  1. Chúa Giêsu sẵn sàng ban ơn cho mọi người dù có đạo hay ngoại đạo, miễn là người đó có lòng tin. Thực tế ngày nay có nhiều người lương tin Chúa và Đức Mẹ, đã xin ơn và được ban cho.

Phần tôi, lắm khi tôi vừa xin vừa hồ nghi không biết sẽ được Chúa ban ơn hay không. Từ nay khi xin ơn Chúa, tôi phải xin với hết lòng tin tưởng.

  1. Người sĩ quan này cũng làm gương cho ta về lòng nhân ái: yêu thương đầy tớ, yêu thương người bị trị. Xin cho con biết yêu thương những kẻ dưới quyền, những người kém thế hơn con.
  2. Lời ông nói với Chúa Giêsu lại là một tấm gương khác về cách cầu nguyện khiêm tốn. Khi tôi cầu nguyện cùng Chúa, tôi phải bắt chước ông mà nói rằng “Con chẳng đáng”.
  3. Chuyện này cũng phải khiến ta ý thức về sức mạnh của Lời Chúa. Khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền có những gì Ngài muốn. Chúa Giêsu chỉ ở xa phán một lời thì người đầy tớ kia hết bệnh.

Xin cho Lời Chúa mà con nghe mỗi ngày trở thành thần dược chữa trị mọi bệnh tật linh hồn con.

  1. “Tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi…” (Lc 7,6)

“Lạy Chúa, con không đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.

Lời này khơi lên trong lòng tôi niềm mơ ước được rước Chúa. Dù biết mình không trong sạch, nhưng khi Ngài ngự vào linh hồn, tôi lại cảm thấy vững vàng trong đời sống. Sự hiện diện thực sự của Ngài trong Thánh Thể khiến tôi vững tin hơn để chống lại những cám dỗ thường ngày.

Không như người sĩ quan xưa, tôi biết mình có tội nhưng vẫn cầu xin Chúa thường ngự đến cùng tôi. Vì chỉ có Ngài mới là nguồn động viên an ủi nâng đỡ tôi trong từng phút giây.

Lạy Chúa, Ngài biết rõ mọi tật xấu, nhưng Ngài cũng thấu suốt mọi cố gắng từng ngày của con. Xin Ngài rộng lòng thương rửa sạch và ban bình an cho tâm hồn con. (Hosanna)

 

Suy niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Nhận biết mình hèn kém bất xứng và hết lòng tin tưởng cậy trông vào Chúa, đó là niềm tin của viên đại đội trưởng mà Chúa Giêsu đã khen ngợi và mời gọi ta bắt chước.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong quãng đời mục vụ của Chúa, con nghĩ một trong những điều làm cho Chúa vui thích đó là câu chuyện hôm nay: một viên sĩ quan lương dân đã bày tỏ niềm tin nơi Chúa, một niềm tin đơn sơ, khiêm nhường và mạnh mẽ. Chúa đã khen ngợi và đáp lời ông cầu xin.

Con tự hỏi, đối với con là người theo đạo Chúa, con thực sự có được một niềm tin như thế chưa ?

Lạy Chúa, con phải thú nhận rằng đức tin của con còn quá yếu kém, bởi vì con chưa nhận ra mình là kẻ tội lỗi rất cần đến lòng thương xót của Chúa. Con thiếu lòng cậy tin vào Chúa, bởi vì con vẫn tin vào quyền lực của tiền bạc và địa vị hơn là chính Chúa. Con cầu xin không được như ý là bởi vì con chưa khiêm nhường đủ, thiếu kiên nhẫn và đầy ích kỷ.

Lạy Chúa, trong thánh lễ hằng ngày, con bắt chước viên sĩ quan để thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.

Xin Chúa đến với con dù con bất xứng. Xin Chúa thương xót con vì con tội lỗi. Xin Chúa dùng con như khí cụ bình an của Chúa dù con chỉ là tôi tớ mọn hèn. Và trong những cơn gian nan thử thách, những khi cô đơn tuyệt vọng, những lần ê chề sa ngã, xin cho con vẫn một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, vì con tin rằng chính những lúc con yếu đuối nhất, lại là những lúc con mạnh mẽ nhất trong ơn Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”.

 

Suy niệm 10: ,,,

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trên một rặng núi đá cao đến 800 thước có những cây lá cọ vẫn sống mạnh. Ban đầu qua nhiều năm, các nhà thực vật nghiên cứu và không tìm được nguyên nhân vì sao mà các cây này sống được trong bóng tối của núi đá, vì mặt trời chỉ chiếu vào chỗ các cây này chỉ trong hai tiếng đồng hồ mỗi ngày, trong lúc cây lá cọ sống nhờ nhiều vào ánh nắng mặt trời.

Về sau các nhà thực vật đã tìm ra nguyên nhân: Các vách đá đã thu nhận ánh sáng mặt trời cũng như hơi nóng ban ngày rồi phản chiếu vào chỗ những cây cọ này, cung cấp cho cây hơi nóng cần thiết tỏa ra từ trong đá. Cho nên, hàng cây cọ cứ sống mạnh, dù hoàn cảnh thật là khó khăn cho những cây ấy tồn tại trong điều kiện khó khăn đối với họ nhà cọ như thế. Cũng như các cây lá cọ này, người tin Chúa, luôn được nuôi sống và đứng vững trong mọi hoàn cảnh…

Suy niệm

Viên đội trưởng Rôma là người ngoại giáo nhưng ông mạnh tin và xin Ðức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ đang bệnh nặng. Ông không dám đòi hỏi Chúa đến tận nơi, khi khiêm tốn nhận ra bất xứng và không dám rước Ngài vào nhà mình chỉ xin “Thầy phán một lời”. Trước niềm tin mạnh mẽ và khiêm tốn của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu tỏ ra hài lòng và thán phục niềm tin mạnh mẽ của một người ngoại giáo: Một niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt!.

Phép lạ đã xảy ra như lòng ông mong ước… Chính lời tuyên xưng của ông: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi… nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh”, đã được Giáo hội mượn để tuyên xưng trong cộng đoàn phụng vụ khi chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thể: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.

Ngày nay, Ðức Giêsu không còn hiện diện hữu hình như xưa, nhưng qua bí tích Thánh Thể, qua Thánh Thần và Lời của Ngài vẫn ở bên con người. Chúng ta cần có đức tin mạnh như viên đội trưởng, tin Chúa có thể làm việc trong chúng ta: Hướng dẫn và trợ giúp, nuôi dưỡng chúng ta hằng ngày trong cuộc sống như Ngài đã làm cho ước muốn viên đại đội trưởng chữa lành người đầy tớ của ông.

Xin cho chúng con đức tin chân thành mạnh mẽ…

Ý lực sống 

“Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị” (Tv 106).

 

Suy niệm 11: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Nhân vật chính trong câu chuyện này là một viên sĩ quan người Rôma. Ông là một người tốt.

  1. Trước hết, là sĩ quan – ông coi 100 binh sĩ: Một con người có quyền, có chức nhưng ông vẫn thương những người dưới quyền ông.

Sử gia Polybius đã viết về những sĩ quan bách quân đội trưởng như sau: “Họ là những người chỉ huy rất hoạt động, rất đáng tin cậy. Họ không tự tìm nguy hiểm, không quá say mê chiến đấu, nhưng nếu được thúc bách thì họ sẵn sàng kháng cự và chết tại chỗ”.

Trong Tân Ước, cứ mỗi lần có một viên bách quân đội trưởng nào được đề cập đến thì chúng ta thấy họ đều là những người tốt.

  1. Ông đã có một thái độ phi thường đối với đầy tớ mình.

Ông thương bằng cách sẵn lòng chịu cực đủ thứ để mong cứu nó.

Theo luật pháp Rôma, một nô lệ được định nghĩa như một đồ dùng, không có quyền pháp định nào. Chủ nhân có quyền tự do sinh sát đối với người nô lệ của mình. Một văn sĩ Rôma chuyên về sự quản lý gia cư có lời khuyên những chủ trại mỗi năm nên kiểm kê các vật dụng và cũng khuyên họ ném bỏ bớt những món gì cũ kỹ, bể nát, kể cả những nô lệ già yếu không sử dụng được nữa.

Có biết được như thế, chúng ta mới thấy thái độ của viên sĩ quan Rôma này đối với nô lệ quả là phi thường.

  1. Ông là người rất sùng đạo.

Một người đã xây cất cho dân chúng một ngôi nhà hội, hẳn không phải là một người chỉ có cảm tình hời hợt với đạo.

Thực ra thì người Rôma có khuyến khích các sinh hoạt tôn giáo nhưng không phải là họ thương những người Do Thái mà là vì mục đích chính trị. Họ làm thế là để giữ cho dân chúng khỏi nổi loạn và trật tự luôn được bảo đảm. Còn thâm tâm họ, thì họ coi tôn giáo chẳng khác gì là một loại thuốc phiện mê dân.

Chính Hoàng đế Augustus khi khuyến khích xây nhà hội cho những người Do Thái, ông cũng làm vì mục đích này. Gibbon có lần đã nói: “Các hình thức khác nhau về tôn giáo thịnh hành trong đế quốc Rôma lúc đó đều được dân chúng xem là đúng đắn cả. Các triết gia thì xem là sai lầm, nhưng quan tòa thì xem điều đó là có ích”.

Đối với viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay, thì chúng ta thấy khác hẳn: Rõ ràng ông không cư xử như một nhà chính trị, mà rõ ràng ông là người có nhiệt tâm với tôn giáo.

  1. Ông có cảm tình phi thường đối với dân tộc Do Thái.

Người Do Thái khinh dân ngoại và dân ngoại ghét người Do Thái. Đó là một điều mà người Do Thái bình thường nào cũng  biết.

Chủ nghĩa chống Do Thái không phải là điều mới lạ. Người Rôma gọi dân Do Thái là một dòng giống dơ bẩn. Họ coi Do Thái giáo là một thứ mê tín man rợ. Họ thường nói với những chủng tộc khác về lòng ghen ghét của họ đối với người Do Thái. Họ tố cáo người Do Thái thờ đầu con lừa và mỗi năm người Do Thái giết một người dân ngoại để cúng tế thần mình.

Riêng đối với viên sĩ quan hôm nay, chúng ta thấy giữa ông và những người Do Thái có một sự thân mật rất chân tình, không có gì là giả tạo.

  1. Ông là một người khiêm nhượng.

Ông biết rất rõ rằng, một người Do Thái chính thống bị luật pháp của họ cấm bước chân vào nhà một người dân ngoại.

Ông cũng biết rõ rằng, một người Do Thái chính thống sẽ không cho phép một người dân ngoại bước chân vào nhà mình hay là tiếp xúc với người đó.

Chính vì thế mà ông không dám đích thân đến với Chúa Giêsu, nên đã nhờ các bạn người Do Thái của mình đi gặp ngài.

Đúng là con người đã quen chỉ huy này có một sự khiêm nhu lạ lùng trước sự cao cả thật.

  1. Và cuối cùng, ông là người có đức tin lớn.

Đức tin của ông dựa trên luận lý vững chắc nhất.

Ông lý luận từ sự kiện trước mắt đến những điều xa xôi, từ kinh nghiệm của riêng bản thân ông tới Đức Chúa Trời. Nếu quyền bính của ông mà còn có hiệu lực như vậy, thì quyền bính của Chúa Giêsu sẽ công hiệu hơn biết bao.

Ông đã đến với lòng tin cậy hoàn toàn như thể ông nhìn lên và thưa rằng: “Lạy Chúa, tôi biết Ngài có thể làm việc này”. Giáo Hội thật có lý khi mượn chính lời ông mỗi khi cử hành “màu nhiệm đức tin”: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”

Tóm lại, ông là một con người đáng cho chúng ta noi gương bắt chuớc. Ông không có đạo những quả thực ông còn tốt hơn rất nhiều người có đạo xưa cũng như nay.

Xin Chúa cho chúng ta được sống tốt như ông, khiêm nhường như ông, nhất là có đức tin mạnh mẽ như ông để chúng ta cũng được Chúa khen như ông.

Lạy Chúa, xin cải hoá lòng chúng con để chúng con được trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Amen.

 

 

THỨ BA TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 7, 11-17

Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người.

Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: “Đừng khóc nữa”. Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.

Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người”. Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.

 

Suy niệm 1: Thiên Chúa viếng thăm dân Người

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.

Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.

Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.

Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.

Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.

Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.

Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,

và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.

Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.

Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,

dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.

Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.

Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.

Bà đã dự đám tang của người chồng.

Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.

Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.

Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.

Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.

Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?

Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.

Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).

Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.

Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),

Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).

Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:

Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).

Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.

Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.

Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.

Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,

chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.

Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).

Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.

Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).

Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?

Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.

Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,

khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.

Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).

Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),

Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.

Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,

và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.

Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.

Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,

và bầu trời vắng tiếng chim.

thì đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,

vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,

bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,

bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.

Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,

vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.

Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.

Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.

Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu ở Belem,

Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,

nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.

Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.

Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.

Đó là lỗi của chúng con.

Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,

và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.

Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,

xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa

để yêu trái đất lạnh giá này hơn,

và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

 

Suy niệm 2: Trong một thân thể

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Quyền năng Chúa biểu lộ rõ ràng qua việc làm cho anh thanh niên người Na-in đã chết được sống lại. Thiên Chúa là sự sống. Chẳng ai có thể ban sự sống. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa. Thiên Chúa là sự sống lại. Ban sự sống đã khó. Ban sự sống lại còn khó hơn. Để ban sự sống, Thiên Chúa chỉ cần ngự trên chín tầng trời phán một lời. Liền có sự sống. Nhưng để chuộc lại sự sống đã mất, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống trần gian. Đây lại biểu lộ quyền năng vô biên của Thiên Chúa.

Để phục hồi sự sống, Thiên Chúa phải xuống thế làm người. Chúa Giê-su mặc lấy thân xác loài người. Trở nên một với loài người. Tình yêu khiến Chúa kết hợp với loài người. Nên một thân thể. Vì thế Chúa vui với người vui. Chúa khóc với người khóc. Chúa chạnh lòng thương người thanh niên vắn số. Chúa chạnh lòng thương người phụ nữ goá bụa. Nay lại mất đứa con là điểm tựa duy nhất.

Đây chính là nguyên lý xây dựng thế giới. Con người cùng với tha nhân và thiên nhiên làm thành một thân thể. Giết người là giết mình. Huỷ hoại thiên nhiên là huỷ hoại chính mình. Thương người là thương mình. Vun trồng thiên nhiên là vun trồng sự sống của chính mình. Ta là một trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Thiên Chúa hợp nhất chúng ta. Thiên Chúa điều khiển chúng ta.

Thư Cô-rin-tô dạy: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy…Tất cả chúng ta… đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể”. Vì thế mỗi người phải cố gắng tối đa. Đạt đến tầm vóc hoàn hảo. Để phục vụ thân thể. Đó là “trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất” (năm chẵn).

Vì thế, thánh Phao-lô cho biết “ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao đẹp”. Vì trong một tổ chức, cần có người lo toan việc chung. Nhưng để lo toan việc chung, người ấy phải lo việc riêng hoàn hảo. Có tu thân được mới có thể tề gia. Có tề gia mới có thể trị quốc. Vậy “giám quản phải là người không ai chê trách được” và “phải được người ngoài chứng nhận là tốt”. Có như thế các chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Ki-tô mới hài hoà với nhau. Và mới phát triển lớn mạnh được (năm lẻ).

 

Suy niệm 3: Ý Nghĩa Của Cuộc Sống

Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.

Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: “Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá”. Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.

Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm “Buồn Nôn”: “Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả”.

Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.

Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Người cho kẻ chết sống lại

Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”Rồi Người lại gần sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!” (Lc. 7, 12-14)

Trong bốn Tin Mừng, chỉ một mình Thánh Lu-ca kể lại câu chuyện cho thanh niên con bà góa thành Naim sống lại.

Hôm đó, hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng Naim: một đoàn có vị dẫn đầu là Đấng ban sự sống và một đoàn tiễn đưa người chết. Người chết là một con trai duy nhất của một bà góa. Tình trạng càng đau khổ hơn nữa cho bà mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình trước pháp luật và bảo vệ danh dự mình trong xã hội trọng nam khinh nữ đó. Đó là lý do đau khổ cùng cực của bà khiến cho đoàn người đông đảo đã cảm thương đến tiễn đưa con bà, như bản văn lưu ý tới.

Đức Giêsu đã xúc động và cảm thương nỗi đau buồn lớn lao này. Người là con Thiên Chúa thấy rõ những khốn cực của loài người, người là con người nên càng vô cùng nhạy bén trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của loài người. Nhiều trang Tin Mừng đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người dừng lại trước bà mẹ tuyệt vọng và thì thầm an ủi bà, với tấm lòng chân thành cảm thương nồng nàn qua giọng nói nghẹn ngào: “Bà đừng khóc nữa!”.

Rồi Người tiến về phía quan tài, sờ vào nó, Người kêu gọi với giọng nói lạ lùng: Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy! Người chết liền chỗi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ! một sự thật vô cùng kinh ngạc! không phải chỉ xảy ra lúc này mà còn cho đến tận cùng lịch sử loài người, mãi mãi Đức Kitô còn cho người ta sống lại, mãi mãi sứ điệp sự thật về phục sinh vẫn còn tiếp tục cho loài người. Đức Kitô, nhờ sự sống lại của Người đã mặc khải một sự sống phục sinh muôn đời: Một sự sống không bao giờ phải chết nữa, một sự sống hoàn toàn mới, vượt trên mọi xác phàm trần gian.

“Đức Giêsu đã trao anh ta cho bà mẹ”, Thánh Lu-ca đã đặc biệt chú thích thêm, để nhấn mạnh đến vai trò các phụ nữ trong thế giới đã liệng bỏ phụ nữ vào bóng tối không còn đếm xỉa gì đến công lao của họ. Người ta có thể đoán rằng chính lúc đó, Đức Giêsu đã tha thiết nghĩ đến Mẹ Người biết chừng nào! quyền năng và tâm tình tế nhị cảm thương đi đôi với nhau khi các Ngài bởi Thiên Chúa đến với nhân loại.

 

Suy niệm 5: Hãy sống liên đới và thương xót

Xem lại CN 10 TN C

Đức Giêsu “chạnh lòng thương” và làm cho con trai bà góa thành Naim đã chết được sống lại. Qua phép lạ này, Đức Giêsu tiên báo về sự phục sinh mai ngày của chính Ngài, đồng thời, Ngài cũng nói lên quyền năng của mình trong vai trò là Con Thiên Chúa, và thể hiện bản chất của Thiên Chúa là Đấng hay thương xót.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Hãy vững tin vào Thiên Chúa, vì không có việc gì mà Chúa không làm được. Hãy học nơi Đức Giêsu bài học về lòng thương xót, để sẵn sàng ra tay cứu giúp người khác. Không bao giờ được phép vô cảm và vô tình trước nỗi khốn cùng của anh chị em.

Sự nhạy bén với nhu cầu của người khác phải là tinh thần sống động nơi tâm hồn chúng ta.

Bên cạnh đó, hình ảnh chỗi dạy của con trai bà góa cho chúng ta một bài học về sự sám hối là: trở về với Chúa thì được sống.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mạnh mẽ. Một tấm lòng biết “chạnh lòng thương” như Chúa khi xưa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 6: Con trai bà góa Naim sống lại

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Vì tình yêu thương mà Đức Giêsu đem lại niềm an ủi cho bà góa thành Naim. Ngài không đành lòng nhìn bà đau khổ nên đã cho con trai bà sống lại. Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp, Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương. Ngài chạnh lòng thương trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non. Phép lạ cho thấy Đức Giêsu luôn quan tâm đến nỗi khổ của chúng ta. Ngài luôn hiện diện, nâng đỡ, ủi an và cứu giúp chúng ta.
  2. Bà góa trong Tin Mừng hôm nay đau khổ biết bao: một đàng chồng đã chết rồi, đàng khác con trai duy nhất cũng chết theo. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà bảo lãnh bản thân và tài sản, bà sống như người bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn con của bà, thì Đức Giêsu cũng xuất hiện đứng bên quan tài. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy lòng thương xót những người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, khẽ an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, ta bảo anh: Hãy chỗi dậy”! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.

  1. “Bà góa” là một trong những thành phần được Đức Giêsu ưu đãi và đặc biệt  dành nhiều tình cảm nhất, vì họ thuộc nhóm những người nghèo hèn, cùng khốn của xã hội. Họ là đối tượng được Đức Giêsu quan tâm. Ở đây, trước nỗi đớn đau khốn cùng của bà góa thành Naim về cái chết của đứa con duy nhất. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương. Ngài không trì hoãn. Ngài đã đến an ủi bà  và làm tan đi nỗi đau nơi bà bằng cách cho cậu con trai của bà sống lại. Không chỉ con của bà được sống lại, tâm hồn của bà  và của mọi người chứng kiến sự sống lại này cũng được sống lại, niềm tin của họ vào Thiên Chúa được nảy sinh. “Bà đừng khóc nữa”. Phải, rất cần một thái độ cậy trông hơn là thái độ than vãn trong khi chờ lòng thương xót của Chúa (5 phút Lời Chúa).
  2. Trong Tông thư gửi những người sống đời tận hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô mời họ  ra khỏi chính mình và đi về những vùng biên của cuộc đời, về phía những người đang mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, các bạn trẻ đang gặp ngõ cụt trước tương lai và những người già bệnh tật đang bị loại trừ.

Đứng trước sự đau khổ của bà góa thành Naim, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và ra tay làm phép lạ cho anh con trai duy nhất của bà sống lại. Người đã đi bước trước để xoa dịu và cất đi sự đau khổ của bà.

Ngày hôm nay, xã hội tuy phát triển về kinh tế, thông tin… nhưng con người càng ngày càng dửng dưng, vô cảm với nhau. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống cảm thương trước nỗi đau của người khác. Khởi đi từ việc thương cảm, chúng ta thực thi những hành động bác ái cụ thể để nâng đỡ, ủi an những người đau khổ đang cần sự giúp đỡ (Học viện Đa Minh).

  1. Bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải biết thông cảm với người khác. Đừng ai sống trơ trơ như một hòn đảo giữa đại dương (theo Thomas Merton), một mình mình biết, một mình mình hay, nhưng hãy biết tìm đến với nhau, biết chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”(Rm 12,15).

Con người không thể sống trơ trơ như đá. Con vật còn biết thương nhau, chia sẻ với nhau, huống chi là con người. Người Việt nam chúng ta đã có kinh nghiệm về vấn đề này nên đã nói:

Một con ngựa đau cả tầu chê cỏ (Tục ngữ)

Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy tập cho mình biết đi ra khỏi mình, đừng bao giờ co cụm lại nơi mình. Hãy biết đi đến với người khác. Mang lấy cái tâm tình của người khác, nghĩa là hãy học biết thông cảm.

  1. Truyện: Biết cảm thông và chia sẻ.

Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một việc kiểm tra về kiến thức phổ thông.

Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối “Chị tạp vụ ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.

Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giảng viên bộ môn trả lời:

– Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị phải luôn gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.

Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc  đời mình. Tôi cũng đã biết được tên chị tạp vụ trong trường: Chị tên là Dorothy.

Vâng, chúng ta hãy tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.

 

Suy niệm 7: Con trai bà góa thành Naim

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Chúa Giêsu cứu sống con trai bà góa thành Naim:

– Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.

– Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non.

– Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.

B…. nẩy mầm.

  1. Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh khổ của người khác.

– Thấy người nghèo thường quá, tôi không còn cảm được cái khổ của người nghèo.

– Thấy người bệnh thường quá, tôi không còn cảm được nỗi đau của họ.

– Thấy người tội lỗi quen quá, tôi dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội…

Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng trái tim bằng thịt.

  1. Xin Chúa cũng dạy con biết tế nhị: thấy được nhu cầu người khác trước khi họ xin con giúp, và giúp họ cách tế nhị nhẹ nhàng như hôm đó Chúa đã trao đứa con lại cho người mẹ.
  2. “Tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài”: việc này bị luật coi là ô uế. Nhưng để an ủi gia đình người chết, và để “tiến lại gần” (ý muốn được gần gũi với người đau khổ), Chúa không ngại gì cả. Yêu thương giúp đỡ đòi phải can đảm và hy sinh.
  3. Chuyện người mẹ Naim đau khổ được Chúa cứu giúp khiến tôi nghĩ đến cảnh khổ của bản thân mình. Bà không biết người đàn ông đứng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng cứu sống. Bà không ngỏ lời xin Chúa. Nhưng Chúa chạnh lòng thương, tự động Chúa lại gần và Chúa kéo bà ra khỏi cơn đau khổ.

Chúa lúc nào cũng ở gần tôi. Khi tôi phải khổ, Chúa cũng chạnh lòng và Ngài sẵn sàng cứu giúp. Tôi không bao giờ cô đơn.

  1. “Chúa Giêsu lại gần sờ vào quan tài và nói: ‘Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy’. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói” (Lc 7,14-15)

Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ… Chúa nhựt nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên giường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải?

Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ. Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại đấu láo với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà !

Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng gọi của nhu cầu bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng hãy gọi con quay lại từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna)

 

THỨ TƯ TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 7, 31-35

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: “Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. “Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc”.

Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: “Người bị quỷ ám”.

Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: “Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”.

Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình”.

 

Suy niệm 1: Lũ trẻ ngồi ngoài chợ

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài

với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32).

Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau.

Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới,

thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.

Nhưng nhóm kia đã không tham gia.

Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.

Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc.

Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy.

Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh.

Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi.

Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới.

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người ở thời của Ngài.

Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ.

Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,

đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).

Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.

Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33).

Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến.

Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.

Người ta đã coi ông là bị quỷ ám,

nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế.

Khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,

Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.

Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.

Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,

một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng.

Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng.

Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế.

Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa.

Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn

mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa.

Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan,

bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34).

Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.

Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ.

Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh.

Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý,

con người chẳng được tự do.

Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ.

Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan,

mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)?

Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu

ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau?

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau

trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau

không chút thành kiến,

và tin tưởng vào thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau,

xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,

nhờ đó chúng con vượt qua

những tự ái nhỏ nhen,

những tham vọng ích kỷ

và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,

để tìm kiếm chân lý

ở mọi nơi và mọi người,

nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,

xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,

để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,

và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,

xin cho chúng con được triển nở không ngừng

và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

 

Suy niệm 2: Trẻ thơ và trẻ con

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su khen ngợi trẻ thơ. Mời gọi ta phải nên như trẻ thơ. Để được vào Nước Trời. Nhưng Chúa dạy ta đừng cư xử như trẻ con. Trẻ con tính khí thất thường. Đòi hỏi theo ý mình. Không vừa ý là phá bĩnh. Không đón nhận người khác. Không cần lý lẽ. Chỉ theo cảm tính. Không hoà hợp với mọi người. Không thích trò chơi đám cưới thì nhất định không nhảy múa, dù bạn bè đã trổi đàn cất hát. Không chịu chơi trò đám ma thì nhất định không than khóc, dù cuộc chơi đã khởi sự tấu bài chia ly buồn thảm.

Người lớn mà cư xử như trẻ con thường hỏng việc. Hỏng cả đời. Nhưng nguy hại nhất là hỏng đời đời. Người Do thái bao năm chờ đợi Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Chúa sai Gio-an đến dọn đường họ cũng không chấp nhận. Chính Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa đến họ cũng chối từ. Vì họ không muốn theo ý Chúa. Vì họ theo ý riêng. Không có lý lẽ gì hết. “Thật vậy, ông Gio-an Tẩy giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: “Ông ta bị quỷ ám”. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”.

Thư Cô-rin-tô mời gọi ta phải lớn lên. Đặc biệt trong đời sống thiêng liêng. Đừng mãi mãi là trẻ con: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con”. Thành người lớn là biết phân định điều gì là quan trọng, cốt thiết trong đời sống. Như thánh Phao-lô dạy: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. Đức mến sẽ giúp ta gặp được Chúa. Và sống hài hoà với anh em. Vì thế phải ưu tiên thực hành đức mến (năm chẵn).

Nhưng điều quan trọng nhất là nhận biết Chúa Giê-su Ki-tô. Đây là “mầu nhiệm cao cả của đạo thánh”. Nhưng việc nhận biết Chúa Giê-su thật khó khăn.Vì “Đức Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm”. Sinh sống, ăn uống, giao tiếp với mọi người và như mọi người. Vì thế khó được chấp nhận như một Đấng Cứu Thế. “Người được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; được các thiên thần chiêm ngưỡng”. Vì thế để nhận ra Người cần có ơn Chúa Thánh Thần. Để có ơn Chúa Thánh Thần, cần có tâm hồn trẻ thơ. Tâm hồn trẻ thơ như thiên thần. Sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Sẽ nhận ra Đức Ki-tô (năm lẻ).

Cần phải lớn lên. Thoát khỏi thói trẻ con bướng bỉnh. Để có tâm hồn trẻ thơ ngoan ngoãn. Biết mở lòng ra với ơn thánh.

 

Suy niệm 3: Thái Ðộ Thiếu Nhất Quán

Ngày nay, nhân danh dân chủ, tự do ngôn luận, nhiều người muốn có một Giáo Hội của mình, một Giáo Hội được định đoạt theo những suy nghĩ của mình, chứ không là giáo lý do Chúa mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội nữa. Muốn là Kitô hữu, nhưng lại không muốn chấp nhận giáo huấn của Chúa Kitô được ủy thác cho Giáo Hội, đó là một thái độ thiếu nhất quán. Chúng ta có thể thấy được một thái độ như thế trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài phố chợ để nói lên thái độ ấy. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Chúa Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài phố chợ này. Họ mong chờ Ðấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỉ ám; Chúa Giêsu khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại bảo rằng Ngài là tên ăn nhậu, hòa nhập với phường thu thuế và tội lỗi.

Mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng không chấp nhận những thể hiện của thời cứu thế; trông đợi Ðấng Cứu Tinh, nhưng phải là Vị Cứu Tinh do mình tạo ra, đó là thái độ của những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thái độ ấy cũng là cơn cám dỗ triền miên của các Kitô hữu thời đại chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”. Chúng ta mang danh hiệu Kitô, chúng ta muốn làm môn đệ Ngài, nhưng có lẽ chúng ta chưa từ bỏ chính mình để chấp nhận và sống theo giáo huấn của Ngài.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mặc lấy sự khôn ngoan của con cái Chúa, đó là sự khôn ngoan của trẻ thơ luôn biết sống khiêm tốn và tin tưởng. Xin Ngài củng cố chúng ta trong tâm tình ấy, để chúng ta luôn được trung thành với giáo huấn mà Ngài đã ủy thác cho Giáo Hội.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Bất tín kinh niên

“Vậy tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống ai?

Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói:

Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa;

tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than.” (Lc. 7, 31-32)

Dù là ai, dù làm thế nào cũng luôn luôn có những kẻ chối bỏ mọi thứ, chối bỏ tất cả. Đó là trường hợp một số những kẻ đồng hương của Đức Kitô, họ mang bệnh kinh niên không tin gì hết, chối bỏ mọi chứng cớ hiển nhiên tới cùng. Đức Kitô gọi họ là “Dòng giống này”, một từ ngữ mang tính chất phán xét. Họ vẫn có ảo tưởng về một dân tộc được tuyển chọn, nhưng trong bốn mươi năm vượt sa mạc dầu được hưởng bao nhiêu phép lạ họ chứng kiến rõ ràng, họ vẫn không muốn theo Chúa.

Đức Giêsu so sánh họ với lũ trẻ ranh con quậy phá cứng đầu ngoài chợ. Chúng chơi dỡn để làm cho nhiều người múa nhảy, mà không ai theo, chúng hát bài đưa ma để làm cho người ta khóc, mà không ai thèm khóc. Chắc hẳn Đức Kitô muốn nói quá về những quậy phá của hạng người tai to mặt lớn quá ngu muội trong dụ ngôn nực cười này.

Khi kém lòng tin, không gì có thể mở tai mở mắt cho họ được. Ngôn sứ Gio-an Tẩy Giả đến và sống khắc khổ đến nỗi không ăn bánh, không uống rượu, họ xử với ông như kẻ bị quỷ ám. Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế đến ăn uống như mọi người, không phải để hùa theo kẻ mê ăn uống, nhưng họ coi Người là tay ăn nhậu và họ xỉ nhục tố cáo Người là bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. “Bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” đó là điều Đức Kitô muốn và đó là lý do Người đến trần gian: để cứu chữa những người tội lỗi và tật xấu. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại điều đó, nhất là bằng việc làm. Điều đó làm cho kẻ chống đối và bất tín kinh niên giận dữ cho đến tận thế, những ai muốn theo Đức Kitô trên con đường này, đều vấp phải tâm thức trẻ con cố chấp này. Họ không bao giờ có lòng thương xót tha thứ. Giáo Hội biết rõ thế và đã quyết chí trở về với con đường của Đức Giêsu.

GF

 

Suy niệm 5: Hãy tôn trọng sự thật

Xem lại thứ Sáu tuần 2 MV

Gioan Tiền Hô là một người cao trọng hơn hết mọi người nam. Đây chính là lời khen ngợi của Đức Giêsu dành cho ông. Tuy nhiên không phải ai cũng là người nghe ông, cụ thể là các người Pharisêu và Luật sĩ đã khước từ lời của Gioan.

Trước tình trạng đó, Đức Giêsu đã nhận định về lập trường và thái độ của các người Pharisêu và Luật Sĩ như sau: họ giống như lũ trẻ ngồi ở ngoài phố chợ, gọi nhau mà bảo:

“Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa!”.

“Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc”!.

Hình ảnh của lũ trẻ và lời nói của Đức Giêsu, hẳn cho chúng ta thấy Ngài lên tiếng khiển trách nặng nề về sự mập mờ, gian dối và hay đổi trắng thay đen, nói một đàng làm một nẻo của các người Pharisêu và Luật Sĩ. Họ giống như lũ trẻ nơi phố chợ. Vì thế, những lời họ nói chẳng đáng tin tưởng vì không có giá trị.

Hình ảnh của các người Pharisêu và Luật Sĩ hẳn cũng còn đầy dẫy trong xã hội của chúng ta hiện nay. Khi thì chỗ này, lúc chỗ kia, vẫn còn đó những con người luôn tìm mọi cách bóp méo sự thật, bẻ cong ngòi bút để chụp mũ người lương thiện, công chính. Họ thuộc hạng nói dối chuyên nghề, nên đâu còn chỗ cho Lương Tâm lên tiếng!!! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn thấy xuất hiện những hạng người “nổ” rất lớn với những lời lẽ “đao to búa lớn”; “rất kêu”, nhưng thực ra những lời đó chẳng khác gì lời nói của con nít, không đáng để chúng ta tin tưởng, bởi lẽ họ “nói mà không làm”; hay “nói một đàng, làm một nẻo”.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống và làm chứng trong sự thật, có thế, chúng ta mới được người khác tôn trọng, bằng không, chúng ta chỉ như bọn trẻ nơi phố chợ mà thôi!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đừng rơi vào tình trạng của các người Pharisêu và Luật Sĩ khi xưa là: cố chấp, bảo thủ, lập lờ và gian dối. Xin cho chúng con biết sử dụng trí tuệ Chúa ban để phục vụ cho công lý và sự thật. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 6: Nhận biết chân lý

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chỉ vì ngoan cố và vì thiếu thiện cảm mà người ta đã xuyên tạc cuộc sống và việc làm của Chúa Giêsu. Nhưng dù vậy, chân lý về Ngài vẫn rực sáng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, bài Tin Mừng hôm nay cho con thấy đã có lần những lời kêu mời của Chúa không được người đời đáp trả. Con người đã tỏ ra dửng dưng với Tin Mừng, không nhận ra Tin Mừng được loan báo cho họ. Người đời đã hiểu sai cách sống của Chúa và của Thánh Gioan Tẩy giả. Cuộc sống khắc khổ nhiệm nhặt bị coi là lập dị lạ đời. Nhưng tiếp xúc, gặp gỡ kẻ khác thì lại bị xem là xu thời nông nổi.

Lạy Chúa, con là người Kitô hữu, là người tin vào Chúa. Thế nhưng đôi khi cuộc sống con đã có những lần làm cho Chúa buồn và thất vọng.

Tuy rằng con không là kẻ đối kháng lại Chúa, nhưng con vẫn không đủ dứt khoát để dấn bước theo Chúa, con chưa đủ xác tín vào Lời Chúa. Con chưa đủ sức bước theo Chúa với cây thập giá trên vai. Con không dám thực hiện các mối phúc mà Chúa đã công bố… Nói chung, cuộc sống con vẫn còn những vướng mắc, ngăn cản con đón nhận sứ điệp cứu độ.

Hôm nay, xin Chúa giúp con xác định thái độ đón nhận Lời Chúa. Con không đủ can đảm để mạnh dạn bước theo Chúa, chỉ biết trông nhờ ơn Chúa. Xin tình yêu của Chúa thấm nhập vào cuộc sống con, để Chúa trở nên sức mạnh lôi kéo con đến với Chúa. Ước gì khi con cảm nhận được những việc kỳ diệu Chúa thực hiện nơi cuộc đời con, con càng vững tin vào Chúa hơn – Lạy Chúa, con tin, xin đón nhận con. Amen.

Ghi nhớ: “Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc”.

 

Suy niệm 7: Sống ngay chính

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Gioan Tẩy giả sống rất thánh thiện đến nỗi dân chúng cho ngài là chính Đấng Mêssia tức là Đấng Cứu Thế đang đến. Ngay cả những người biệt phái, luật sĩ, tư tế cũng ngạc nhiên, sai người đến hỏi ông có phải là Đấng Cứu Thế không.

Mặc dầu người ta kính nể, Gioan Tẩy giả vẫn luôn khiêm nhượng, mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng, tự xưng mình chỉ là tiếng kêu trên rừng, là người đầy tớ hèn mọn nhất của Đấng Cứu Thế.

Mặc dù bị người biệt phái, luật sĩ, tư tế từ chối không tin, Gioan Tẩy giả vẫn nêu cao con đường ngay chính của Chúa và nói cho họ biết cơn giận của Chúa sẽ đến tiêu diệt những hạng người cố chấp và kiêu ngạo….

Suy niệm

Gioan, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế rao giảng sám hối cho dân chúng, sống rất giản đơn: “Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da” (Mc 1,6), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư cùng là những người rao giảng lời Chúa: “Đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt 23,5) hay “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng” (Mc 12,38). Gioan khó nghèo, thanh đạm: “Ăn châu chấu và mật ong rừng”, còn các kinh sư thì giàu sang nhờ “nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14). Nhưng người biệt phái cho Gioan là: “Người bị quỷ ám!”.

Đức Giêsu hoà mình với mọi người để chia sẻ, kể cả  đồng bàn với những người thu thuế, tội lỗi… thì họ lại nói: “Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Cùng đồng bàn với người thu thuế nghĩa là Đức Giêsu đã hòa mình với tội nhân để gắn bó sẻ chia kêu gọi trở về chính lộ. Người biệt phái lại cho là: “Người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi”.

Ðức Giêsu so sánh họ với bọn trẻ ngoài chợ không hiểu biết gì về sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa. Họ chỉ biết chú trọng đến bản thân, nên không mở tâm hồn đón nhận lời rao giảng của Gioan, không đón nhận lời rao giảng, giáo huấn tình thương của Ðức Giêsu, Ðấng Cứu Thế. Họ cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta bướng bỉnh, kiêu căng, không muốn đón nhận Chúa và anh em, luôn chỉ trích phê bình dựa trên suy nghĩ và cảm xúc bản thân.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn sẵn sàng mở ra Lời Chúa mạc khải và tiếp nhận, mở ra với mọi người anh em trong tinh thần sẻ chia…

Ý lực sống:

“Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18,23).

 

Suy niệm 8: Đức Giêsu phê phán về thế hệ của Người

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Đức Giêsu phê phán sự cứng lòng và kiêu ngạo của người Do thái, đặc biệt các luật sĩ và biệt phái. Họ luôn tìm cách biện minh cho mình và trốn tránh sự thật. Ông Gioan Tẩy giả sống khắc khổ, họ bảo là quỷ ám. Còn Đức Giêsu sống giản dị, gần gũi, hòa đồng với dân, họ lại cho là một tay ăn nhậu, bê tha. Thế nhưng, sự hiện diện và yêu thương của Đức Giêsu càng chứng tỏ cho thấy họ thật ngoan cố và ác tâm. Nếu chúng ta cứng lòng không tin vào Đức Giêsu chúng ta cũng sẽ không nhận ra Người.

Đức Giêsu trách dân chúng thời đó, nhất là các biệt phái và luật sĩ thờ ơ lãnh đạm với Gioan Tẩy giả và đối với Ngài. Vì thế, Đức Giêsu dùng dụ ngôn lũ trẻ chơi ngoài đường phố để nói lên điều ấy. Cũng giống như ở Việt Nam, trẻ em Do thái thường có những cuộc hát đối hơi khác Việt Nam một chút. Các trẻ em thường chia làm hai phe: một bên xướng tiểu khúc hoặc vui hoặc buồn, còn bên kia hoạ lại điệu vui hay buồn với câu điệp khúc của những bài ca dao có sẵn. Nhưng nhiều khi gặp những kẻ nghịch ngợm, không cứ theo lệ quen, bên xướng, ca hát vui vẻ thì chúng lại phá đám bằng giọng bi ai, than khóc, hoặc ngược lại. Đôi khi có những đứa ương ngạnh đứng đấy mà không chịu làm theo. Thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Đức Giêsu mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài đường phố, để nói lên thái độ trái nghịch của người Do thái. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Đức Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài đường phố này. Họ mong chờ Đấng Cứu Thế, Gioan Tẩy giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỷ ám; Đức Giêsu khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại cho rằng Ngài là tên ăn nhậu, hoà nhập với phường thu thuế tội lỗi (Mỗi ngày một tin vui).

Thói thường, con người ta dễ lấy mình làm trung tâm và muốn áp đặt tư tưởng và hành động của mình lên người khác. Vì thế mà qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng áp đặt người khác phải theo tư tưởng của mình.

Giống như bọn trẻ thổi sáo giả bộ đám cưới đòi người khác hát, ca bài đưa đám giả bộ buồn bắt người khác khóc theo… với một hoàn cảnh không thực tế. Trong ý thức hệ của người Do thái, họ vẽ ra trong tư tưởng của mình một lối sống kiểu biệt phái giả hình và đòi dân theo, họ quan niệm một thời kỳ cứu độ và một Đấng Messia giàu sang, chứ không khắc khổ kiểu Gioan Tẩy giả và làm bạn với bậc đế vương, chứ không phải hoà đồng chung bàn với người hèn kém. Từ đó họ không nhận ra được Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Với ý thức hệ như thế, họ không những bị trói buộc trong tư tưởng thiển cận của họ, không nhận ra được dấu chỉ của thời đại, mà còn bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như họ, kể cả Đức Giêsu (Hiền Lâm).

Lối sống của Gioan Tẩy giả và của Đức Giêsu thật khác nhau. Gioan nhiệm nhặt, còn Đức Giêsu thông thoáng cởi mở. Buồn cười là cả hai đều bị người Do thái chỉ trích, do chính lối sống của mỗi vị. Vạch ra cái “buồn cười” ấy ở đây, Đức Giêsu không chỉ nhằm xác nhận một kinh nghiệm về nhân tình thế thái: Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Phải chăng Ngài còn hàm ý rằng: không có một lối sống duy nhất tốt, mà có nhiều: mỗi người, theo ơn gọi của mình, sẽ đảm nhận một lối sống phù hợp với ơn gọi đó? Điều cốt yếu là cái động lực, cái hồn của lối sống mà mình đảm nhận (5 phút Lời Chúa).

Khi trò chơi Flappy Bird và tác giả của nó trở nên nổi tiếng, được giới truyền thông thế giới quan tâm, thì có hàng loạt ý kiến trái ngược như “ăn may chứ có gì hay” hoặc “game ngớ ngẩn thế mà sao lắm kẻ thích”.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy những người Do thái đã có thái độ ghen tị với Đức Giêsu. Họ không những từ chối sứ điệp Tin mừng của Đức Giêsu, mà còn có những lời chê bai, nhận xét xấu xa về Ngài. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng dễ xét đoán và đánh giá người khác theo cái nhìn chủ quan của mình. Tệ hơn nữa, lắm khi vì đố kỵ trước những thành công của người khác mà chúng ta tìm mọi cách để bôi nhọ và làm suy giảm danh tiếng của họ.

Truyện: Chủ quan, phiến diện

Lúc 11 tuổi, đứa bé thường bảo rằng: “Cha mẹ của tôi rất vĩ đại. Không có gì mà cha mẹ tôi không biết. Không có gì mà họ không làm được”. Lên 16 tuổi nó nói: “Cha mẹ tôi không vĩ đại như tôi tưởng, không phải cái gì họ cũng biết hoặc cũng có thể làm”. Ba năm sau, nghĩa là khi lên 19 tuổi, học Đại học, nó phát biểu: “Cha mẹ tôi thường cho rằng họ đúng, kỳ thực, kiến thức của họ so với kiến thức của tôi thì thua kém xa”. Sau khi lập gia đình, nó được 24 tuổi, tốt nghiệp Đại học, nó phát biểu: “Cha mẹ tôi không hiểu tuổi trẻ; thanh niên thì tiến bộ, còn họ lại bảo thủ”.

Năm 30 tuổi, có con cái, nó khám phá ra chân lý sau: “Ở nhiều sự việc, cha mẹ thường có lý”. Đến lúc nó được 50 tuổi, khi cha mẹ nó đều đã qua đời, nó không cầm được lòng và tuyên bố: “Cha mẹ tôi đúng là những nhân vật tuyệt vời! Họ có đầu óc rất minh mẫn, xử sự rất hợp lý, hợp thời. Cha mẹ ơi, cha mẹ là các vị thần!”

 

Suy niệm 9: Chúa Giêsu khiển trách thế hệ đương thời

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Chúa Giêsu trách thế hệ của Ngài:

– Không chịu nghe lời giảng của Gioan Tẩy giả và của Chúa Giêsu mà hoán cải,

– Lại còn viện cớ đổ thừa rằng bởi vì Gioan là người bị quỷ ám, và Chúa Giêsu là tay ăn nhậu, tội lỗi.

B…. nẩy mầm.

  1. Viện cớ đổ thừa là điều người ta thường làm để tự biện hộ cho những việc làm xấu xa của mình:

– Chúa nhựt không đi lễ: tại vì trời mưa.

– Đi ngủ không đọc kinh tối: tại quên, tại bệnh…

– Không giúp đỡ người khác: tại vì nó không nói…

  1. Lắm khi, để biện hộ cho mình, người ta không ngại đổ tội cho người khác: “Gioan là người bị quỷ ám”, “Giêsu là tay ăn nhậu”.
  2. Chúng ta chỉ mong ước Chúa thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta chán nản buông xuôi thất vọng vì thấy công việc của Chúa không đúng như chúng ta mong muốn. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống hòa hợp với chương trình của Chúa. (“Mỗi ngày một tin vui”)
  3. “Ông Gioan Tẩy giả đến không ăn bánh, không uống rượu thì các ông bảo ‘Ông ta bị quỷ ám’. Con Người đến, cũng ăn cũng uống giống như ai thì các ông lại bảo ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế, phường tội lỗi” (Lc 7,33-34)

Trong làng kia có một nông dân rất khô khan nguội lạnh, không sống đạo theo đức tin của mình. Một sáng Chúa nhựt nọ ông bảo đứa con trai rằng:

– Sáng nay con ra đồng làm việc với ba nhé.

Cậu điềm tĩnh trả lời:

– Thưa ba, hôm nay là ngày Chúa nhựt mà.

– Chúa nhựt thì sao? Bộ Chúa nhựt không làm việc được hả? Ý con thế nào?

– Thưa ba, con muốn nói giới răn thứ ba Chúa dạy phải thánh hóa ngày Chúa nhựt và phải cầu nguyện.

Nghe vậy người cha bực tức gắt lên:

– Giới răn là cái quái gì !

Một ý tưởng loé lên trong trì, cậu con nhanh nhẩu thưa lại:

– Thưa ba, nếu ba nói như vậy thì con không tuân giữ các giới răn của Chúa, kể cả giới răn thứ tư là giới răn Chúa dạy vâng lời cha mẹ !

Lạy Chúa, xin ban cho con có được sức mạnh của lòng tin, để con đón nhận tình yêu của Chúa. (Hosanna)

 

Suy niệm 10: Chúa khiển trách thái độ viện cớ đổ thừa

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu trách thế hệ của Ngài:

– Không chịu nghe lời của Gioan Tẩy Giả và của Ngài mà hoán cải.

– Lại còn viện cớ đổ thừa là vì Gioan là người bị quỷ ám, còn Ngài là tay ăn nhậu, tội lỗi.

Viện cớ đổ thừa là điều người ta thường làm, để tự biện hộ cho những việc làm xấu xa của mình:

Chúa nhật không đi lễ: tại vì trời mưa.

Đi ngủ không đọc kinh tối: tại quên, tại bệnh.

Không giúp đỡ người khác: tại vì nó không nói.

Một cha xứ gặp chị đàn bà chồng mới chết mấy tháng, ngài hỏi:

– Chắc con còn nhớ bạn con lắm, con nên xin lễ cầu nguyện cho bạn con.

– Thưa cha, con vẫn nhớ bạn con hằng ngày. Nếu bạn con nay đã lên Thiên Đàng rồi, con tưởng chẳng cần phải xin lễ nữa.

– Phải, nhưng nếu bạn con chưa lên Thiên Đàng?

– Nếu không lên Thiên Đàng, bạn con đã phải sa hỏa ngục. Sa hỏa ngục mà xin lễ, thì vô ích.

– Con nói đúng, song nếu bạn con đang phải giam trong luyện tội?

– Thưa cha, nhà con rượu chè, bê tha nếu phải giam trong luyện ngục thì cũng đáng lắm.

Thế là cả đời, chị ta không hề xin lễ cho chồng.

Đúng như sách gương phúc đã nói: “Ai sẽ thương con sau khi đã chết. Người ta quên con chóng hơn con tưởng nhiều. Con không thương con thì ai sẽ thương con. Nào được mấy người con mỗi năm xin cho cha mẹ được vài ba lễ. Người ta tưởng mình đã làm đầy đủ nghĩa vụ người con thảo, vợ hiền. Chúa đã ban cho người ta cái quyền cứu thoát, như xin lễ, ngắm đàng Thánh Giá, ân xá, mà người ta không dùng để cứu, thì người ta có phải là con thảo và người vợ hiền chăng”.

  1. Lắm khi, để biện hộ cho mình, người ta không ngại đổ tội cho người khác:

“Gioan là người bị quỷ ám”.

“Giêsu là tay ăn nhậu”.

Chúng ta chỉ mong ước Chúa thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta chán nản buông xuôi thất vọng vì thấy công việc Chúa làm không như chúng ta mong muốn. Ông Gioan Tẩy Giả đến không ăn bánh, không uống rượu thì các ông bảo “Ông ta bị quỷ ám” (Lc 7,33). Con người đến, cũng ăn cũng uống giống như ai thì người ta lại bảo “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế, phường tội lỗi” (Lc7,34).

Nhà hùng biện Démosthène trổ tài ngôn ngữ hoạt bát vốn có của mình để biện hộ cho một bị cáo. Ông nói năng rất hùng hồn và đưa ra nhiều lý luận rất đanh thép, nhưng những người nghe vẫn không mảy may quan tâm chú ý. Thấy thế ông bèn thuật câu chuyện dưới đây:

Có một du khách kia thuê một con lừa để đi ngoạn cảnh. Lối giữa trưa, mặt trời đứng ngay đỉnh đầu, ông ta không tìm đâu ra một bóng mát để tránh nắng. Bỗng dưng, ông ta nảy ra một ý nghĩ. Ông nhảy xuống khỏi lưng lừa và ngồi dưới bụng của con vật. Nhưng người chủ lừa đi theo để hướng dẫn ông ta trong cuộc du ngoạn, tỏ ý không bằng lòng, viện cớ bóng mát của con lừa không có tính trong giá tiền cho thuê. Hai bên cãi vã, ban đầu nhỏ, sau to dần và rốt cuộc họ đánh đấm với nhau, đến nỗi cả hai phải đưa ra trước quan án để nhờ xét xử.

Démosthène ngưng câu chuyện tại đó và tiếp tục bào chữa cho thân chủ của ông. Những thính giả tỏ ý phản đối. Họ nhất định đòi ông cho biết quan tòa tuyên án thế nào trong vụ bóng của con lừa. Ông chụp ngay cơ hội ấy quở trách họ cách nặng nề rằng, họ giống như con trẻ, chỉ thích để ý đến một câu chuyện phù phiếm về cái bóng của một con lừa mà không chịu để ý lắng tai nghe lời bênh vực của ông đối với mạng sống của một con người.

Chúng ta nói thế nào về những kẻ để thì giờ của mình hơn thua về những việc sẽ qua đi, chỉ tồn tại một thời gian ngắn, mà bỏ quên vấn đề quan trọng hơn tất cả, đó là sự sống đời đời (Croire ét Sevir).

Khi tin vào Chúa Giêsu, thì chúng ta phải biết lắng nghe với lòng chân thành. Có thế, ta mới nhận ra được tiếng của Ngài, bằng không thì Lời Chúa có sức mạnh đến đâu, linh nghiệm đến đâu cũng chẳng sinh ích gì cho chúng ta.

Xin được trích ra đây lời cầu nguyện của một linh mục:

Lạy Chúa, xin ban cho con tính Ngay Thẳng,

biết tôn trọng chân lý,

để không bao giờ con hiểu theo nghĩa xấu,

điều mà có ai đó đã làm phiền lòng con.

Xin ban cho con một tấm lòng Khiêm Tốn,

để con không trở nên cứng cỏi, bất chấp những lời chỉ dạy,

những lời phê bình, những lời kết án khắt khe từ mọi phía.

Xin ban cho con một tấm lòng Quả Cảm,

chịu đựng anh em con một cách lâu bền,

để giúp họ được bình an hạnh phúc,

dầu cho họ còn yếu đuối và đầy khuyết điểm.

Xin ban cho con ơn Sáng Suốt,

đừng dễ tin vào điều xấu mà người ta đã nói về kẻ vắng mặt;

và nhất là cương quyết không kể lại cho ai khác

những điều xấu đã lọt vào tai con. Amen.

 

THỨ NĂM TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 7, 36-50

Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn.

Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm.

Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: “Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!” Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: “Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông”. Simon thưa: “Xin Thầy cứ nói”.

“Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?” Simon đáp: “Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn”. Chúa Giêsu bảo ông: “Ông đã xét đoán đúng”. Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: “Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít”. Rồi Người bảo người đàn bà: “Tội con đã được tha rồi”. Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: “Ông này là ai mà lại tha tội được?” Và Người nói với người đàn bà: “Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an”.

 

Suy niệm 1: Chị hãy đi bình an

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.

Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).

Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).

Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.

Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.

Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,

cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).

Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,

các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,

chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.

Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.

Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.

Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,

nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.

Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.

Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.

Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.

Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).

Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.

Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.

Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,

hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha?

Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.

Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.

Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt

đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy!).

Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,

vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.

Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.

Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.

Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:

“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết

người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”

Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.

Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,

thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!

Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).

Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.

Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,

nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.

Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.    

Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:

rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.

Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.

Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.

Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.

Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.

Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,

Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)

Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.

cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.

“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn?”

Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.

Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.

Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.

Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.

Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.

Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).

Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.

Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,

nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.

Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.

Câu này trước đây thường được dịch như sau:

“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.

Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”

Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.

Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.

Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.

Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.

Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.

Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),

và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.

Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.

Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,

vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn!!!

Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?

Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?

Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.

Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).

Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.

Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,

can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.

Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.

Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:

“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.

Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.

Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.

Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.

Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.

Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:

“Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).

Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ:

lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,

Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,

và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.

Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?

 

Cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi

mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên

để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang

để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường

để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai

để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề

để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. (R. Tagore)

 

Suy niệm 2: Nội dung và hình thức

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ông Si-mon, một thủ lãnh Pha-ri-sêu, một trí thức phải tâm phục khẩu phục thái độ và lời giải thích của Chúa Giê-su. Tuy hai hướng nhìn khác nhau. Ông nhìn bề ngoài. Chúa nhìn bề trong. Ông nhìn hình thức. Chúa nhìn nội dung.

Về hình thức xã hội thì ông Si-mon hơn hẳn người phụ nữ. Ông trí thức. Người phụ nữ bình dân. Ông nghiêm chỉnh giữ Lề Luật. Người phụ nữ lỗi lề luật. Ông thuộc tầng lớp lãnh đạo, dạy dỗ người khác. Người phụ nữ thuộc tầng lớp cần được dạy dỗ. Ông được mọi người kính trọng. Còn người phụ nữ bị mọi người khinh miệt.

Nhưng thật bất ngờ khi Chúa Giê-su đánh giá người phụ nữ cao hơn ông Si-mon. Vì “chị yêu mến nhiều”. Đạo không phải là bề ngoài nhưng là bề trong. Đạo không là hình thức nhưng là nội dung. Và thật lạ lùng: đạo không là lề luật nhưng là tình yêu.

Thánh Phao-lô là người cảm nghiệm được điều đó. Ông được tha nhiều. Nên ông yêu mến nhiều: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (năm chẵn).

Vì thế thánh Phao-lô khuyên người môn đệ Ti-mô-thê-ô đừng chú ý đến hình thức. Hãy chú ý đến nội dung. Đừng chú ý đến bề ngoài. Hãy chú ý đến bề trong. Về hình thức bề ngoài thì Ti-mô-thê-ô kém cạnh. Vì ông còn quá trẻ so với chức vị giám mục. Thánh Phao-lô khuyên nhủ người con thiêng liêng hãy vượt qua bằng trau dồi nội dung bên trong. “Hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp. Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh” (năm lẻ).

Đó cũng là lời khuyên dành cho tôi. Để tôi chăm lo trau dồi nội dung tình yêu bên trong hơn là chú ý đến hình thức chức vị bên ngoài. Để tôi yêu thật nhiều. Và làm tất cả vì tình yêu. Đó là cốt lõi của đạo. Đó cũng là bí quyết giúp tôi thăng tiến về Chúa Ki-tô. Và được hạnh phúc nơi Người.

 

Suy niệm 3: Lòng Sám Hối

Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.

Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.

Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.

Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa”.

Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.

Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện của bác ái.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Tinh Thần Khoan Nhượng

Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy nghĩ về tinh thần khoan nhượng đích thực. Chúa Giêsu là hiện thân của tinh thần ấy. Trong những quan hệ xã hội của Ngài, Ngài vốn dành ưu tiên cho người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài tìm đến với họ và nhất là ngồi đồng bàn để ăn uống với họ, nhưng Chúa Giêsu không khơi dậy cuộc đấu tranh giai cấp. Ngài không bao giờ đi với người nghèo để kêu gọi chống lại những người giàu có. Ngài đến với những người nghèo và những kẻ tội lỗi nhưng không loại trừ những người giàu có và những người đạo đức thánh thiện. Ngài chia sẻ cơm bánh với những người tội lỗi nhưng cũng không ngại ngồi đồng bàn với những người công chính. Người biệt phái Simon được Tin Mừng hôm nay nhắc tên là một người giàu có và đạo đức, ông có thể là đại biểu cho những người giàu có và thánh thiện mà Chúa Giêsu không hề muốn loại trừ ra khỏi những quan hệ xã hội của Ngài. Chúa Giêsu kết thân với những người nghèo khổ và tội lỗi nhưng không xa cách những người giàu có và đạo đức.

Cuộc gặp gỡ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của thái độ khoan nhượng của Chúa Giêsu. Chính trong một bữa tiệc được một người giàu có và đạo đức khoản đãi mà Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành phố, Ngài luôn có thái độ khoan nhượng đối với mọi người.

Sự khoan nhượng là thái độ cần thiết cho mọi người bởi vì xã hội nào cũng gồm những thành phần khác biệt nhau bởi vì nhân loại gồm những con người khác biệt mà họ cần đối xử với nhau bằng thái độ khoan nhượng. Hai chìa khóa để mở cánh cửa của khoan nhượng là sự chấp nhận và cảm thông. Chấp nhận thường đi trước sự cảm thông. Chấp nhận sự khác biệt nơi người khác để dễ dàng cảm thông với họ hơn, nhưng dĩ nhiên khoan nhượng không hề đồng nghĩa với đồng lõa. Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và tha thứ với những người tội lỗi nhưng Ngài không bao giờ nhân nhượng trước tội lỗi; Ngài khoan dung tha thứ bao nhiêu với tội nhân thì lại càng cương quyết bấy nhiêu với tội lỗi. Chính vì thế mà sự tha thứ của Ngài luôn đi kèm với mệnh lệnh: “Con hãy đi về và đừng phạm tội nữa”. Với người biệt phái tên là Simon, Ngài đã kêu gọi với thái độ khoan nhượng khi để cho người đàn bà tội lỗi đến thể hiện lòng sám hối của mình bằng việc xức dầu thơm cho Ngài. Với người đàn bà tội lỗi, Ngài cho cảm nhận được ơn tha thứ. Ngài kêu gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Lời ấy bảo đảm cho chúng ta ơn tha thứ và sự bình an của Ngài, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy sống khoan nhượng và tha thứ đối với mọi người.

Ước gì chúng ta luôn cảm nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ của Chúa để cũng biết sống cảm thông và tha thứ với mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Yêu nhiều, được tha nhiều

Vì thế tôi nói cho ông hay: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.” (Lc. 7, 47-48)

Lòng quảng đại không phải là một nhân đức ai cũng có thể biết được và luyện tập được. Nó cũng chính thứ tình yêu, không thể đặt giới hạn và thời hạn vì nó quá mạnh. Đức Kitô đã thực hiện tình yêu này không ngừng và Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một gương sáng trong nhiều gương khác.

Đức Giêsu đang dự tiệc tại nhà một người biệt phái đã mời Người đồng bàn, Thánh Lu-ca nói đến ba lần những người biệt phái tiếp đón Người tại nhà họ. Chứng tỏ có những người biệt phái ít hiềm khích Người, họ cũng mong hiểu biết Người hơn.

Đang bữa ăn, một đàn bà tội lỗi trong thành bước vào. Cô mang theo một bình dầu thơm quý giá và khóc nức nở quì xuống lấy nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc mình mà lau chân Người và xức dầu thơm vào chân Người. Trước cảnh tượng chướng tai gai mắt này, người biệt phái cảm thấy tức giận và xúc phạm nặng nề, ông nói thầm trong lòng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai!”. Nếu biết rõ nó, Giêsu không được ngây ngất như thế.

Đức Kitô biết ý nghĩ của chủ nhà và đề cập đến một dụ ngôn nhỏ để biến đổi con tim của ông: “Một chủ nợ có hai con nợ, một kẻ nợ năm trăm quan tiền, một kẻ nợ năm mươi. Vì họ không có gì trả nên chủ nợ thương tình đã tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó ai mến chủ nợ hơn? Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo: Ông suy xét đúng lắm”. Giữa biệt phái trong sạch và bà này, nhơ bẩn chất chứa tội lỗi chắc là không giống nhau: tội bà này chất đống nhiều hơn, biẹt phái ít hơn, nhẹ hơn. Vậy rõ ràng bà được tha thứ nhiều hơn biệt phái. Đức Giêsu kết luận: điều đáng kể đối với tôi không nhất thiết là tội lỗi nhưng chính là tình yêu để được ơn thương xót: “Tội của chị rất nhiều, nhưng được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều!”.

Ồ vâng, yêu đi thì không còn phạm tội nữa!

GF

 

Suy niệm 6: Yêu mến nhiều vì được tha thứ nhiều

Xem lại CN 11 TN C

Đoạn Tin Mừng hôm nay trình thuật việc cô Mađalêna xức dầu thơm cho Đức Giêsu và lấy tóc mình mà lau. Sự trở lại của cô đã làm cho nhiều người kinh ngạc và hành động của cô cũng gây nên không ít sự tò mò cho mọi người xung quanh!

Tưởng cũng nên nhắc lại, Mađalêna là một cô gái điếm chuyên nghề, nhưng cô đã được Đức Giêsu giải cứu khỏi cái chết trước sự hằm hằm của các người Pharisêu khi họ dẫn giải cô đến để xin Ngài xét xử.

Cô đã được quý nhân phù trợ, Đức Giêsu đã giải thoát cô khỏi chết và phục hồi tinh thần cho cô bằng tình thương xót của Ngài.

Vì thế, cuộc đời của Mađalêna đã thay đổi từ đó.

Nếu trước kia đôi mắt của cô là đôi mắt đa tình, thì nay đôi mắt đó đã đẫm lệ ăn năn.

Nếu trước kia mái tóc là vật để trang điểm thân xác và tạo sự chú ý của các chàng trai khát tình, thì giờ đây đã dùng để lau chân Chúa.

Nếu đôi môi là nơi diễn ra những nụ hôn nồng thắm phục vụ cho những cuộc ăn chơi trác táng, thì giờ đây cô đã dùng vào việc hôn chân Chúa.

Nếu trước kia dầu thơm là mồi câu khách làng chơi, thì giờ đây, cô đã dùng vào việc xức chân Chúa.

Tất cả những hành vi đó của cô đã biểu lộ một đức tin tuyệt đối và lòng yêu mến nồng nàn với Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát cô khỏi tội lỗi và khỏi chết.

Thật vậy, cuộc đời của mỗi con người đều có một quá khứ và tương lai, các thánh là những người cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó! Điển hình là Mađalêna, cuộc đời của ngài từ tội nhân trở thành thánh nhân nhờ ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ lòng bao dung tha thứ của Đức Giêsu, Mađalêna đã được phục hồi giá trị làm người và làm con Thiên  Chúa. Bây giờ cô có quyền ra đi trong cuộc sống với một tâm hồn bình an vì đã yêu nhiều nên được tha nhiều.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chạy đến với lòng thương xót của Thiên Chúa trong tâm tình thống hối ăn năn.

Hãy tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Vì tội chúng ta có đỏ như son, có thẫm tựa vải điều, thì Thiên Chúa cũng tẩy cho trắng như bông, sạch như tuyết.

Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải quay trở về với Chúa trong sự khiêm tốn, ăn năn, tin tưởng. Tất cả được xây dựng trên lòng mến.

Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi tội lỗi, và ban ơn giúp sức để chúng con được ơn trở về với Chúa cách trọn vẹn và trung thành như thánh nữ Mađalêna khi xưa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 7: Ăn năn thống hối thực lòng

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thái độ ăn năn thống hối thực lòng của người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa thương xót. Ai tin tưởng vào tình yêu Chúa, sẽ được cứu độ và được bình an.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Đấng hiền từ và hay thương xót, tấm lòng bao dung của Chúa là nơi nương tựa cho con là kẻ tội lỗi. Nhờ lòng thương xót của Chúa, một người dù tội lỗi đến đâu, cũng vẫn có cơ may làm lại cuộc đời. Bởi lẽ, Chúa không đánh giá chúng con theo vẻ bên ngoài hoặc dựa vào công nghiệp của chúng con. Trái lại, Chúa xét xử con người theo những tâm tình, suy tưởng sâu kín trong lòng, Chúa thấu suốt tâm tình sám hối chân thành phát xuất từ lòng yêu mến.

Phủ phục dưới chân Chúa, người phụ nữ tội lỗi không nói gì mà chỉ biết khóc. Chị khóc cho tội lỗi của mình, những giọt nước mắt của lòng sám hối ăn năn.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy được sự nặng nề của tội con đã xúc phạm đến tình yêu Chúa. Xin cho con được lòng yêu Chúa để biết khóc tội lỗi mình. Xin đừng để lòng con chai đá, nhưng giúp con biết chân thành sám hối.

Lạy Chúa, Chúa đã tha, đang tha, và mãi mãi tha hết những lỗi lầm con xúc phạm đến Chúa. Chúa yêu con vô bờ. Xin cho con luôn tin tưởng vững vàng và cậy trông vào Chúa, cho con biết siêng năng đến với Chúa nơi bí tích Hòa Giải, để con được giao hoà lại với Chúa và anh em. Chỉ có Chúa mới có thể làm cho con được tái sinh và có sức mạnh đổi mới đời sống. Chỉ trong Chúa con mới tìm lại được bình an và được sống trong tình yêu. Con được tha nhiều, con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.

Ghi nhớ: “Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều”.

 

Suy niệm 8: Yêu nhiều, được thứ tha nhiều

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho Tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.

 Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”

 Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời.

Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu (Trích “Món quà giáng sinh”).

Suy niệm

Người phụ nữ đến bên Chúa Giêsu là một người tội lỗi, trong thành ai cũng biết. Theo luật Do Thái thì người tội lỗi không được phép tiếp xúc với người bình thường (thanh sạch), vì nếu tiếp xúc sẽ làm lây lan tội lỗi cho người thanh sạch.

Chị bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bất chấp cả luật cấm, có thể khiến chị bị ném đá, để thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình: Đến quỳ dưới chân Đức Giêsu, vị Thầy rao giảng tình thương, bao dung với người tội lỗi. Chị khóc nức nở, lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc mà lau và hôn chân Ngài và không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương) xức chân Ngài…

 Một hình ảnh khác cũng giống như chị, người thu thuế là một dạng tội nhân công khai khác (x. Lc 7,29), đã nhìn nhận tội lỗi và tin rằng Thiên Chúa công chính, anh ta cũng  nhận được ơn tha thứ của Người.

Trước niềm tin mạnh mẽ và tình yêu mến chân thành, chị đã được Chúa tha thứ dù tội chị rất nhiều, vì sự sám hối và tình yêu tỏ lộ. Ngài nhấn mạnh ý nghĩa hành động của người phụ nữ: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Như vậy niềm tin và lòng yêu mến là điều kiện cần thiết để được ơn tha thứ và cứu độ.

Xin Chúa cho chúng ta biết đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa là Ðấng bao dung và luôn yêu thương khi nhìn nhận ra tội lỗi của mình mà ăn năn hối cải. Dù tội của chúng ta có thẫm như vải điều, Thiên Chúa vẫn làm cho trắng tinh như tuyết.

Ý lực sống:

“Ai yêu mến nhiều thì được thứ tha nhiều!” (Lc 7,47).

 

Suy niệm 9: Người phụ nữ sám hối

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Hôm nay một người biệt phái tên là Simon mời Đức Giêsu đến dùng bữa. Tình cờ có một phụ nữ tội lỗi khét tiếng trong thành đến phục dưới chân Chúa khóc lóc tỏ dấu ăn năn qua một số việc chị làm cho Chúa. Người phụ nữ này tuy có tội nặng hơn mọi người, nhưng chị biết lỗi và tin tưởng vào Đức Giêsu. Chị bất chấp cái nhìn khinh miệt của mọi người để tìm đến với Đức Giêsu. Trước niềm tin mạnh mẽ và lòng mến chân thành, dù tội chị rất nhiều, nhưng chị đã được tha tất cả. Như vậy, niềm tin và lòng yêu mến là điều kiện cần thiết để chúng ta được ơn tha thứ và cứu độ.

Thường người biệt phái không ưa Đức Giêsu và chỉ tìm cách gài bẫy để ám hại Ngài. Tuy thế, thánh Luca cho chúng ta biết cũng có một thứ biệt phái lễ độ hơn, vẫn có cảm tình với Ngài, họ dám mời Ngài đến nhà dùng bữa. Hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta việc ông Simon, một người biệt phái, mời Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông.

Theo phong tục của Phương Đông, khi nhà có tiệc tùng thì cửa thường bỏ ngỏ, kẻ ra người vào tấp nập. Một người đàn bà, ai cũng biết thường tội lỗi lẻn vào đứng đàng sau đám thực khách. Bà mang theo một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Rồi quỳ xuống dưới chân Chúa, vì lúc ấy Chúa đang nằm trên đi văng để ăn theo thói quen các thực khách. Bà khóc nức nở, xức dầu thơm, hôn bàn chân ướt đẵm nước mắt và lấy tóc mà lau. Mọi người trố mắt nhìn cho là một việc quái gở, nhất là ông chủ nhà Simon… Nhưng Đức Giêsu coi như không để ý đến những người chung quanh mà chỉ nói với cô ta: “Tội chị rất nhiều, nhưng đã được tha rồi, vì chị đã yêu mến nhiều”.

Tin mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa, phiên tòa không có luật sư bảo hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.

Có được bình an trong tâm hồn là điều quý giá nhất Đức Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Đức Giêsu. Người phụ nữ trong Tin mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người chung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Đức Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.

Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất hiện từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).

Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải có cái nhìn đúng về người và về mình, nghĩa là chúng ta đừng xét đoán người khác dựa trên những tiêu chuẩn của luật lệ, phong tục, và lối sống của chúng ta (Gl 6,4; Rm 2,17-24). Người ta thường nói “Xanh vỏ đỏ lòng”, câu tục ngữ có ý dạy chúng ta phải lưu ý trong việc đánh giá một người hay một sự việc. Nhiều khi bề ngoài là xấu nhưng từ bản chất là tốt. Nếu chỉ đánh giá theo cái vỏ bên ngoài thì sẽ sai lầm.

Trong bài Tin mừng, người biệt phái, cùng những người khách khác ở bàn tiệc, đã không thể nhìn vào người phụ nữ như Đức Giêsu đã nhìn. Những phong tục, luật lệ, thiên kiến và lối sống đã giới hạn họ. Họ đã xếp loại người phụ nữ này là người tội lỗi. Họ đã tự nghĩ rằng bản thân mình tốt hơn người phụ nữ này nhiều.

Truyện: Chiếc đèn cũ kỹ

Một đêm nọ trong lúc bị cúp điện, một người đàn ông tìm được một cây đèn cũ đốt bằng mỡ từ trên tầng gác để đồ cũ. Tình trạng của đèn thật thảm hại, bóng đèn nứt và đen thui. Dù sao, ông cũng đốt lên và nó tỏa ra ánh sáng yếu ớt. Đã vậy, bấc đèn bốc khói toả ra một mùi khét lẹt.Thật là quá mức đối với một người thích mọi vật hoàn hảo như ông: “Cái đèn này thật vô dụng nên vứt nó đi”, ông nói với vợ ông. Nói xong ông tắt đèn dầu, lấy nến ra đốt.

Ba tuần sau, lại cúp điện. Lần này, vợ ông đem lại ánh sáng. Bà lấy ra một cái đèn dầu đẹp, đốt lên. Một ánh sáng màu hồng toả ra làm cả nhà thích thú. Ông chồng nói:

– Cái đèn này thật tuyệt. Bà mua nó ở đâu?

Bà đáp:

– Đó là cái đèn mà ông muốn vứt đi đấy!

Sau khi đến thật gần để xem xét, ông nói:

– Chắc tốn khá nhiều tiền để tân trang nó như thế này?

Bà đáp:

– Thật ra chẳng tốn gì mấy. Tôi chỉ mua một cái bấc mới và một cái bóng. Nhưng tôi phải bỏ nhiều thời gian và công sức để lau chùi và đánh bóng nó. Tôi đã nhận thấy dưới lớp bụi bẩn là một cái đèn đẹp. Và ông không thấy rằng tôi có lý sao?

Ông đáp:

– Tôi hoàn toàn đồng ý với bà.

 

Suy niệm 10: Người phụ nữ sám hối

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Chuyện người đàn bà tội lỗi lau chân Chúa Giêsu:

– Nàng là một người tội lỗi nổi tiếng, “trong thành ai cũng biết”

– Nàng bày tỏ lòng sám hối rất công khai: a/ trong một bữa tiệc, trước mặt nhiều người; b/ không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương); c/ quì gối dưới chân Chúa Giêsu, khóc nức nở, xổ tóc ra (một cử chỉ có thể bị kết án là tự làm ô nhục), lấy tóc lau chân Chúa.

Câu nói của Chúa Giêsu có thể dùng tóm lược chính xác câu chuyện đời nàng: “tội nàng nhiều nhưng được tha hết vì nàng yêu mến nhiều”

B…. nẩy mầm.

  1. Cô gái này dạy tôi nhiều điều về sự sám hối:

– sám hối không phải chỉ là một tâm tình kín đáo che dấu bên trong không cho ai biết. Đôi khi, nếu cần, cũng phải bày tỏ ra bên ngoài.

– khi bày tỏ, không nên ngại xấu hổ, sợ dư luận, sợ tốn kém… những xấu hổ, dư luận và tốn kém ấy cũng là cách tôi phải chịu đề đền tội.

  1. Có thể nói “nhờ” phạm nhiều tội lỗi, nên nàng đã yêu mến Chúa nhiều, đã sám hối chân thành và được tha thứ nhiều. Phụng vụ gọi đây là “tội hồng phúc” (felix culpa).

Xin cho ý thức bề những tội của con là động cơ khiến con càng yêu mến Chúa nhiều hơn.

  1. Nàng được tha nhiều nên sau đó nàng càng yêu mến Chúa nhiều hơn. Ước gì đây cũng là tâm tình của tôi mỗi khi tôi lãnh nhận ơn tha thứ qua bí tích hòa giải.

Yêu nhiều thì được tha nhiều: Yêu là nguyên nhân của tha thứ; được tha nhiều thì càng yêu nhiều: yêu là kết quả của tha thứ.

  1. Chuyện này cho tôi thấy được sự liên hệ kỳ diệu giữa tội lỗi / tình yêu / và tha thứ. Tôi là xấu nhưng trở thành tốt khi được đặt trong liên hệ kỳ diệu ấy.
  2. “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47)

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã để lại cho các tông đồ và cũng là cho tôi một kỷ niệm là Thập giá Tình yêu. Vâng, chính Thập giá của Đức Kitô đã xóa muôn vàn tội lỗi của tôi và của bạn, và mở ra cho một cuộc sống mới, cuộc sống Phục sinh.

Hình ảnh người phụ nữ tội lỗi được Chúa tha thứ hết nhắc nhở tôi rằng: Thiên Chúa không chỉ có Tình yêu mà Ngài là Tình yêu.

Càng sống yêu thương, tôi càng dễ nhận ra Chúa hiện diện trong tôi. Những lúc từ chối tình yêu, tâm hồn tôi trở nên trống vắng và cô đơn, tôi trở nên ích kỷ, xa rời Thiên Chúa và mọi người.

Lạy Chúa tình yêu, xin cho con không chỉ biết khóc lóc ăn năn tội lỗi của mình, mà còn biết bù đắp lại bằng chính tình yêu của con. (Hosanna)

 

Suy niệm 11: Cảm nhận tình Chúa để yêu Chúa nhiều

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Câu chuyện chúng ta vừa nghe thật hết sức sống động.

Những việc Luca ghi lại diễn ra trong sân nhà ông Simon, một đạo sĩ của người Do Thái. Chúng ta nên biết: Nhà cửa của giới giàu có thời đó thường có khu sân rộng, có khi rộng như một công viên. Trong sân thường có vườn cây và giếng nước. Vào mùa nóng nực người ta thường bày bàn ăn tại đây.

Ở xứ Palestine mỗi khi có một Rabbit đến nhà nào đó dự tiệc, thì mọi người đều được tự do đến nghe những lời khôn ngoan do Rabbit ấy dạy. Thói quen đó giải thích cho chúng ta biết sự có mặt của người đàn bà này trong nhà Simon là một việc bình thường.

  1. Khi có khách đến nhà, người ta thường làm ba việcsau đây:

– Trước hết chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là dấu hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường hợp gặp một Rabbit danh tiếng.

– Vì đường sá đầy cát bụi và giày chỉ là những đôi dép đơn giản, nên người ta đổ nước lạnh lên bàn chân khách để rửa sạch bụi và làm mát chân cho khách.

– Và cuối cùng người ta đốt lên một nhúm hương liệu hoặc đổ một giọt dầu hoa hồng lên đầu khách cho thơm.

Những việc đó luôn được coi như là những đòi hỏi của phép lịch sự. Thế nhưng ở đây chúng ta thấy chủ nhà hôm đó đã không làm những việc này.

  1. Cũng nên biết điều này: Bên Do Thái khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc, hai chân khách duỗi thẳng về phía sau và không mang dép. Họ dựa người trên những gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, còn tay mặt thì tự do lấy đồ ăn. Với tư thế nằm ăn như vậy thì người đàn bà mới có thể đứng gần chân Chúa Giêsu.

Simon là một đạo sĩ Do Thái, một trong những người thuộc nhóm biệt phái.

Chúng ta không hiểu tại sao một một người như vậy lại dám mời Chúa Giêsu tới nhà mình?

– Có người cho rằng, rất có thể ông là người có lòng mến phục Chúa Giêsu. Nhưng khi nhìn lại bầu không khí thiếu lịch sự của ông Simon, thì người ta không thể chấp nhận ý kiến này được.

– Cũng có thể Simon mời Chúa Giêsu vào nhà mình để gài bẫy ngài, mong bắt gặp một câu nói hay một hành động nào đó để có cớ buộc tội Ngài. Nhưng giả thiết như thế cũng không ổn vì câu 40 trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ông đã tôn tặng Chúa Giêsu danh hiệu Rabbit.

– Rất có thể Simon là người thích nổi tiếng. Với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời “chàng thanh niên kỳ lạ này” đến ăn tiệc tại nhà mình. Giả thiết như thế, ta mới hiểu tại sao lại có sự pha trộn giữa thái độ vừa có vẻ tôn kính lại vừa có thái độ khinh khi đối với Chúa khi ông cố tình bỏ qua phép lịch sự đáng ra phải giữ đối với Ngài. Như vậy chúng ta có thể thấy rõ ràng Simon là một người có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giêsu.

Khi Chúa Giêsu đang dùng bữa, thì có một phụ nữ bỗng nhiên vào nhà, dù bà ta không phải là khách được mời. Chắc hẳn người phụ nữ này đã có dịp được biết Chúa. Bà muốn xức dầu cho Chúa như một cử chỉ biểu lộ lòng tôn trọng của bà. Vì quá xúc động, bà đã khóc. Nước mắt đã làm ướt cả bàn chân Chúa trong tư thế đôi chân đang duỗi dài ra, lúc nằm chống tay để dùng bữa theo phong tục Do Thái. Rồi bà xõa tóc ra lau chân và hôn chân Ngài như một dấu hiệu của sự tôn trọng và lòng biết ơn sâu xa. Những hành động như thế thường người ta không làm giữa nơi công cộng.

Thấy như thế, ông Simon đã thầm trách Chúa. Ông nghĩ nếu Chúa thực là một tiên tri thì hẳn Ngài phải nhận biết đây là một phụ nữ như thế nào chứ: một người tội lỗi, cần phải lánh xa.

Chúa biết ý của Simon, nên Ngài mới kể câu chuyện về hai người mắc nợ, ngầm cắt nghĩa cho ông Simon biết lý do nào người phụ nữ này đã hành động như thế và đồng thời, cũng cho ông Simon biết dù ông là người đã mời Chúa nhưng ông đã không đón tiếp Chúa cho phải phép và đã không rộng lòng với Chúa như người đàn bà này.

Câu chuyện kết thúc bằng lời của Chúa nói với người phụ nữ:

– Hãy đi bình an.

Chúa luôn quan tâm đối với những kẻ đặt lòng tin cậy nơi Ngài. Trong câu chuyện những người mắc nợ Chúa Giêsu kể, chúng ta thấy tình yêu thương và sự tha thứ gắn liền với nhau. Nếu chưa bao giờ chúng ta cảm nhận được một cách sâu xa rằng mình cần được Chúa tha thứ thì chúng ta sẽ không thể nào yêu mến Chúa hoặc biết ơn Ngài được. Chúng ta chỉ thật sự yêu Chúa khi nhận ra tình yêu của Ngài dành cho và nhờ đó chúng ta được tha thứ. Đây chính là điều Gioan đã nói: “Chúng ta yêu Chúa vì ngài đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4,19).

Nguyện Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình Chúa yêu để có thể yêu Ngài nhiều hơn. Amen.

 

 

THỨ SÁU TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 8, 1-3

Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa.

Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.

 

Suy niệm 1: Mấy người phụ nữ cùng đi

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Nhóm Mười hai cùng đi với Thầy Giêsu qua các thành phố, làng mạc,

để rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (c. 1).

Chuyện các môn đệ nam giới đi theo Thầy

là chuyện bình thường trong xã hội Do Thái.

Chuyện lạ ở đây là chuyện cùng đi với Thầy còn có các phụ nữ.

Các bà đi theo Thầy, rong ruổi trên những nẻo đường của vùng Galilê.

Họ như thuộc cùng một nhóm với các môn đệ.

Vào thời Đức Giêsu, chuyện phụ nữ đi chung như thế quả là gây sốc.

Nếu một phụ nữ cứ tiếp xúc với nam giới ở ngoài họ hàng,

thì bản thân chị ấy và gia đình sẽ phải mang tiếng xấu.

Vả lại chẳng ông chồng nào chịu để cho vợ mình làm như vậy.

Những phụ nữ đã đi theo Thầy Giêsu từ Galilê.

Câu này nói lên căn cước của nhóm phụ nữ.

Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy chịu đóng đinh (Lc 23, 49).

Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy được mai táng (Lc 23, 55).

Họ là những người đầu tiên ra thăm mộ vào sáng sớm (Lc 24, 1-3).

Theo Tin Mừng Mátthêu (28, 9-10), Máccô (16, 9) và Gioan (Ga 20, 18),

chính họ là những người đầu tiên được thấy Đấng phục sinh

Hai môn đệ Emmau tuy không tin lời chứng của các phụ nữ về Phục sinh,

nhưng hai ông đã gọi họ là những phụ nữ trong nhóm chúng tôi (Lc 24, 22).

Những phụ nữ này còn có mặt cùng với nhóm Mười Hai,

để cầu nguyện chung, sau khi Thầy Giêsu được cất về trời (Cv 1, 13-14).

Như thế nhóm phụ nữ này đã kiên trì và can đảm đi theo Thầy Giêsu,

từ Galilê đến Núi Sọ, và từ Núi Sọ đến cộng đoàn Giáo Hội sơ khai.

Một cách nào đó, họ xứng đáng được gọi là người môn đệ.

Đức Giêsu đã không chỉ thu hút được các môn đệ nam theo Ngài.

Qua việc trừ quỷ và chữa bệnh, Ngài đã làm cho nhiều cuộc đời tươi trở lại.

Một nhóm phụ nữ khi được chữa lành, đã muốn tỏ lòng biết ơn,

trong đó có bà Gioanna, là người đã lập gia đình, giàu có và quyền quý.

Họ quyết định đi theo Đức Giêsu và các môn đệ như những trợ tá.

Họ dùng của cải mình có để phục vụ các ngài (c. 3).

Không nên coi việc phục vụ của nhóm phụ nữ là thấp kém,

vì các môn đệ cũng được mời gọi làm người phục vụ anh em (Mc 10, 43).

Và chính Thầy Giêsu cũng đã sống như một người phục vụ (Lc 22, 27).

Không thấy nói đến việc các phụ nữ này được Thầy Giêsu sai đi rao giảng.

Có lẽ vì vào thời đó ở nước Do Thái, người ta còn coi thường phụ nữ,

và không coi các phụ nữ như những chứng nhân đáng tin.

Khi nhìn Nhóm Thầy Giêsu cách đây hai mươi thế kỷ,

chúng ta thấy Thầy đã táo bạo, dám đi ngược với nền văn hóa thời đó.

Ngài mở rộng thế giới của phụ nữ, vốn chỉ giới hạn trong gia đình.

Phụ nữ hôm nay được mời gọi tham gia vào những công việc chung.

Chúng ta cần thấy sự hiện diện tích cực của các phụ nữ lo việc bác ái,

dạy giáo lý, làm việc cho giáo xứ, hay ở trong các tổ chức của giáo phận.

Làm sao có được nhiều phụ nữ thánh thiện và năng động như Mẹ Têrêsa?

 

Cầu nguyện:

Giữa một thế giới

đề cao quyền lực và lợi nhuận,

xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,

xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,

xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,

xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,

Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,

xin cho các kitô hữu chúng con

trở thành tình yêu

cho trái tim khô cằn của thế giới.

Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,

biết sống nhờ và sống cho tha nhân,

biết quảng đại cho đi

và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,

xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa

ở sâu thẳm lòng chúng con,

và trong lòng từng con người bé nhỏ.

 

Suy niệm 2: Của cải và nước trời

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Của cải trần gian chẳng có giá trị gì trong Nước Trời. Nhưng của cải lại là phương tiện minh chứng, xây dựng và đạt tới Nước Trời. Các phụ nữ theo Chúa Giê-su đã cảm nghiệm được điều đó. Các bà đã trải qua quá khứ bị ma quỉ và bệnh tật trói buộc. Đã cảm nghiệm được sự mong manh của kiếp người. Nhất là đã cảm nghiệm được Nước Trời. Đã nhận được ơn cứu độ của Chúa. Nên các bà coi thường của cải trần gian. Quảng đại góp phần vào việc loan báo Tin Mừng Nước Trời. Để Chúa Giê-su và các môn đệ có phương tiện đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Các bà đã được hạnh phúc. Và muốn chia sẻ hạnh phúc cho mọi người.

Từ bỏ tiền của. Điều này không dễ dàng. Đó là thế lực trần gian mạnh nhất. Đó là cơn cám dỗ ngọt ngào nhất. Đó là sợi giây trói buộc chặt chẽ nhất. Đó là kẻ thù sau cùng đối địch với Chúa. Thánh Phao-lô ý thức được điều đó. Nên hết sức khuyên nhủ người môn đệ Ti-mô-thê phải tránh xa tiền bạc. vì “cội rễ sinh ra mọi điều ác là long ham muốn tiền bạc”. Hãy chống lại tiền bạc bằng một đời sống công chính. Công chính là hoàn toàn tin tưởng vào Chúa chứ không cậy dựa vào tiền bạc. Đó là một trận chiến. Cần phải thi đấu hết mình mới mong thắng được. Vì ta sinh ra trần truồng. Ta chết cũng trần truồng. “Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được”. Thế nhưng tiền bạc cứ bám lấy ta. Ám ảnh ta. Trói buộc ta. Phải dứt nó ra. Nếu ta thua, tiền bạc sẽ trở thành ông chủ. Ta trở thành nô lệ. Nó sẽ ném ta vào lửa hoả ngục. Nếu ta thắng. Nó sẽ trở thành nô lệ. Sẽ giúp ta đạt tới Nước Trời (năm lẻ).

Ta thắng được tiền bạc và những cám dỗ đời này nhờ niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh. Ta sẽ sống lại với Người trong Nước Trời. Trong đời sống mới. Đời sống ấy không có tiền bạc. Không cần tiền bạc. Nếu ta thực sự có đức tin. Ta sẽ không gắn bó với tiền bạc. Với đời này. Tiền bạc là một con dao hai lưỡi. Nếu ta luỵ phục nó. Nó sẽ tiêu diệt ta. “Nếu ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”. Nếu ta sử dụng nó. Nó sẽ là một phương tiện tốt. Là ông chủ, nó ngăn cản ta đến Nước Trời. Là đầy tớ, nó giúp ta mua được Nước Trời (năm chẵn).

Vậy ta hãy noi gương các phụ nữ, quảng đại dâng hiến tiền bạc để làm việc truyền giáo. Siêu thoát của cải. Ta làm chứng cho Nước Trời. Dứt lìa khỏi những của cải đời này. Ta không còn thuộc trần gian. Nhưng thuộc về Nước Trời.

 

Suy niệm 3: Sự Bình Ðẳng Của Phụ Nữ

Vào thế kỷ 14, người ta vẫn còn xem người phụ nữ như một thứ nguy hiểm, một cám dỗ triền miên, một tạo vật thấp hèn, hay cùng lắm chỉ là phương tiện để bảo tồn nòi giống. Một quan niệm và đối xử như thế với phụ nữ vẫn còn rơi rớt trong thời đại chúng ta: trong biết bao xã hội, người phụ nữ vẫn còn bị đối xử như chưa bình đẳng với nam giới. Thời Chúa Giêsu, dĩ nhiên cách đối xử với nữ giới còn tệ hơn. Chúa Giêsu quả thực đã làm một cuộc cách mạng khi đảo lộn quan niệm về nữ giới nơi những người đồng thời với Ngài.

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy cách đối xử của Chúa đối với nữ giới. Những người phụ nữ mà thánh Luca nhắc đến có người đã từng bị quỉ ám, bởi vì họ là đối tượng của những sức mạnh huyền bí gây xáo trộn trong cuộc sống và chức năng của họ: không những họ phải mang nặng đẻ đau mà còn bị nguyền rủa khi son sẻ. Mối quan tâm của Chúa Giêsu đối với nữ giới, nhất là việc Ngài chữa lành cho họ, là dấu chỉ cho thấy họ đã được tự do, không những được giải phóng khỏi sức mạnh tăm tối, mà còn trở nên bình đẳng trước mặt mọi người.

Ðể nói sự bình đẳng ấy, Chúa Giêsu cho các phụ nữ được tham gia vào sinh hoạt của Nhóm Mười Hai. Sự hiện diện và phục vụ của họ bên cạnh Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai chứng tỏ rằng trong Giáo Hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ. Sự kiện những phụ nữ đi theo Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài bắt đầu sứ vụ công khai chứng tỏ rằng họ là những người đồng hàng với các Tông Ðồ trong việc loan báo Tin Mừng của Ngài. Có sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin Mừng, đây là thể hiện cao độ nhất của sự bình đẳng của nữ giới.

Chúa Giêsu đã đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài tái lập con người trong tước phẩm cao trọng của con cái Chúa. Chính tước phẩm ấy là nền tảng sự bình đẳng của con người: nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, tất cả đều có một phẩm giá cao trọng như nhau. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy trong thư Galata: “Không còn Do thái hay Hy lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, bởi vì tất cả là một trong Chúa Giêsu Kitô”.

Chúa Giêsu đã khẳng định sự bình đẳng của nữ giới không bằng tuyên bố suông, Ngài đã chứng minh điều đó khi để cho các phụ nữ gia nhập vào nhóm mười hai Tông đồ của Ngài. Sự bình đẳng, hay đúng hơn, phẩm giá của con người được thể hiện trước tiên qua hành vi phục vụ: càng phục vụ, con người càng chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình. Thật ra, đây cũng chính là nghịch lý chạy xuyên suốt Tin Mừng: càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất bản thân; trái lại, càng quên mình phục vụ, con người càng tìm lại bản thân và chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình.

Xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá nơi mỗi người, nhất là biết cố gắng thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại phục vụ và yêu thương.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Vai Trò Của Người Phụ Nữ

Thánh nữ tiến sĩ Hội Thánh Edith Stein trước khi trở lại công giáo đã từng là một triết gia nổi tiếng. Thánh nữ đã trở lại công giáo sau khi đọc tiểu sử của thánh nữ Têrêsa Avila. Và mười hai năm sau khi chịu phép rửa đã vào tu trong dòng Kín. Không giống như thánh nữ Têrêsa, Edith Stein vốn là người đàn bà vụng về trong công việc nội trợ trong nhà dòng. Tuy nhiên, theo chứng từ của những người còn sống sót trở về từ các trại tập trung Ðức quốc xã, thánh nữ Edith Stein đã luôn giữ vững được tinh thần và là người đứng ra chăm sóc cho các thiếu nhi cùng bị giam giữ với mẹ chúng trong các trại tập trung Ðức quốc xã.

Bí quyết để thánh nữ có thể giữ vững được tinh thần và nâng đỡ những người chung quanh chính là luôn sống giây phút hiện tại và đặt cả niềm phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cũng giống như thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, thánh nữ Edith Stein luôn sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại.

Tin Mừng hôm nay nhắc tới tên của một số người phụ nữ đã được Chúa Giêsu chọn làm cộng tác viên của Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc trong chương trình của Ðấng cứu thế. Tuy không được chọn làm tông đồ nhưng sự hiện diện và công việc âm thầm của những người phụ nữ này cũng quan trọng chẳng kém gì công tác tông đồ. Vai trò của họ lại càng quan trọng và nổi bật hơn nữa bởi vì trong những giây phút đau thương nhất của Chúa Giêsu họ là những người duy nhất đứng kề bên Ngài. Sự hiện diện của một số người phụ nữ trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và nhất là trong những giây phút cuối đời của Ngài cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của chứng tá âm thầm của cuộc sống đức tin. Chứng tá ấy nói với chúng ta rằng trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô dù có âm thầm và vô danh đến đâu mỗi người đều có một chỗ đứng quan trọng và không thể thay thế được.

Nguyện xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá con người, nhất là thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại, phục vụ và yêu thương.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Những người giúp vô vị lợi

Sau đó Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người có nhóm mười hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la người đã được giải thoát bảy quỷ. (Lc. 8, 1-2)

Người ta nói, không tiền và không giúp đỡ, chẳng làm được gì. Ngay trong việc rao giảng Tin Mừng cũng thế. Đó là lý do chung quanh Đức Kitô để giúp việc truyền giáo, ngoài các tông đồ ra, còn có các bà tận tâm đi theo giúp đỡ, một thứ giúp đỡ vô vị lợi. Nhờ đó Chúa rảnh tay hoàn toàn hiến thân cho công việc cốt yếu nhất. Những người giúp đỡ này chính là các phụ nữ.

Thánh Lu-ca hơn các Thánh viết Tin Mừng khác, nói đến vai trò các bà đóng góp vào việc chung quanh Thầy chí thánh và trong đoàn truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến công việc nặng nhọc của các bà đã lấy của cải mình giúp đỡ các Ngài. Thánh Lu-ca chắc hẳn lưu tâm đến thời cựu ước và trong nhiều nền văn minh khác, phụ nữ bị coi là thứ cấm kỵ, đối tượng của sức mạnh bí ẩn, bị khuất phục dưới thảm trạng bi đát bên lề. Người phụ nữ Samaria kêu lên ngạc nhiên khi Đức Kitô dám nói chuyện với mình. Tận nền vấn đề, Đức Kitô là Người bảo vệ đầu tiên vĩ đại, là người khởi động đầu tiên thăng tiến giải phóng phụ nữ. Các thầy khác thời Người đã loại bỏ phụ nữ khỏi ảnh hưởng các đồ đệ của họ, và tổ chức Do-thái giáo lúc đó không chấp nhận phụ nữ tham dự cộng đồng. Chỗ đứng của phụ nữ ở giữa dân ngoại và dân Is-ra-el!

Vậy mà truyền thống kể lại những lần hiện ra đầu tiên của Đức Giêsu sống lại là hiện ra với các bà. Đức Giêsu rất tín nhiệm các bà, và các bà đã chứng tỏ lòng trung thành đặc biệt đối với Người, như: cung cấp nuôi dưỡng các Ngài suốt thời gian truyền giáo, các bà theo Chúa trên đường vác thánh giá lên đồi Can-vê, đứng dưới chân thánh giá, đi ra thăm mồ từ sáng sớm.

Khi người ta nhớ đến vai trò mà Đức Giêsu đã dành cho phụ nữ, và so sánh với Giáo Hội xuyên suốt các thời đại, người ta ngạc nhiên thấy rằng vai trò của phụ nữ bị chìm vào quên lãng, khác hẳn với cách cư xử của Đức Kitô đối với phụ nữ.

GF

 

Suy niệm 6: Ân sủng của Chúa luôn ở với người môn đệ

Những người được gọi và chọn để thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, thường hay có những lý giải như: mình còn trẻ, không biết ăn nói; hay tôi là người tội lỗi, thấp cổ bé họng…; hoặc tôi là dân quê mùa, ít học, nghèo nàn, dốt nát…

Tuy nhiên, nhìn lại hành trình rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ những người đi theo Ngài đâu có mấy người thế giá trong dân? Điển hình như các Tông đồ là những người nhà quê, ít học, vụng về hoặc tội lỗi khét tiếng…! Nói chung là lý lịch thuộc hạng bất hảo! Bên cạch đó, cũng có một số phụ nữ đi theo, các bà là những người cũng không mấy tốt lành nguyên thủy. Điển hình như Maria Madalena, bà là người đã từng bị quỷ ám. Còn bà Gioanna thì lại là vợ viên quản lý của vua Hêrôđê…

Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng khi được Đức Giêsu mời gọi, cuộc đời của các Tông đồ và những phụ nữ này đã “buông theo ân sủng” để gặp nhau cùng một mẫu số chung, đó là: gặp được Đức Giêsu, cảm nghiệm được tình thương của Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, sẵn sàng sám hối, biến đổi, quảng đại để đi theo Ngài và phục vụ Ngài cách trung thành.  

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm ra đi làm chứng cho Chúa, mặc dù cuộc đời ta có bất hảo, kém cỏi về tri thức, vụng về trong cách ăn nói hay tội lỗi có ngập đầu và vẫn còn những tham sân si… Nhưng trong sự thống hối, tin tưởng và yêu mến Chúa, chúng ta có quyền tin tưởng Ngài sẽ làm được những chuyện lớn lao do tình thương và ân sủng của Ngài trong cuộc đời và sứ vụ của chúng ta.

Điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng ra đi, dấn thân, quảng đại cho sứ vụ Nước Trời hay không mà thôi!

Mặt khác, hình ảnh những phụ nữ đi theo và phục vụ Đức Giêsu trong sứ vụ Thiên Sai của Ngài cho thấy: Đức Giêsu không hề chê bỏ bất cứ ai, dù họ thuộc thành phần nào trong xã hội.

Do đó, không ai có mặc cảm vì mình vô dụng hoặc kém cỏi, nhưng chúng ta phải không ngừng cảm tạ tình yêu và lòng thương xót của Chúa đã dành cho chúng ta bằng cách mỗi ngày cố gắng sống xứng đáng hơn, yêu thương hơn để cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ.

Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa chúng con, để chúng con trở thành Tông đồ của Chúa trong môi trường và xã hội hôm nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 7: Cộng tác với Chúa rao giảng Tin Mừng

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa mời tất cả mọi người cộng tác với Chúa trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Đó là bổn phận của chính chúng ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ngày ấy Chúa rảo qua khắp các thành thị và làng mạc nước Pa-lét-tin. Chúa giảng dạy không ngơi nghỉ, Chúa làm phép lạ cứu chữa tật bệnh cho dân, Chúa loan báo Tin Mừng cứu độ cho toàn thể nhân loại. Ngày ấy, cánh đồng truyền giáo rộng mở: đoàn đoàn lớp lớp người đến nghe Chúa giảng, xin Chúa chữa lành. Cả nam, cả nữ, cả thiếu nhi vây quanh Chúa. Tất cả chăm chú lắng nghe ghi lòng tạc dạ điều Chúa truyền dạy… Ngay đến những người phụ nữ thường bị xã hội Do thái coi thường cũng đem hết nhiệt tình phục vụ Chúa. Hết thảy đều cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng Nước Chúa.

Lạy Chúa, hôm nay Hiền Thê yêu quý của Chúa là Giáo Hội, cũng đang đẩy mạnh các hoạt động truyền giáo. Toàn thể Dân Thánh Chúa đã họp lại để cùng quyết tâm thi hành lệnh truyền của Chúa: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian…”. Hôm nay, Chúa vẫn sai mọi thành phần trong Giáo Hội tích cực giới thiệu Chúa cho mọi người trong mọi hoàn cảnh: Tin Mừng không giới hạn ở một nền văn hoá nào, một màu da hay một miền đất nào. Tin Mừng của Chúa phải lan rộng trên toàn thế giới. Hôm nay, Giáo Hội tha thiết mời gọi từng người giáo dân, từng tu sĩ và hàng giáo sĩ cộng tác đắc lực vào công cuộc rao giảng Tin Mừng, sống chứng nhân ngay trong hoàn cảnh sống của mình.

Lạy Chúa, ngày ấy và hôm nay vẫn chỉ là một lời mời gọi đem Chúa đến cho mọi người, mọi nơi. Xin Chúa giúp con ý thức sứ mệnh của con và hăng say thực thi lệnh Chúa truyền. Amen.

Ghi nhớ: “Có mấy phụ nữ đi với Người và họ đã lấy của cải mình mà giúp Người”.

 

Suy niệm 8: Các phụ nữ theo Chúa

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Khi cảm thấy mình không thể yêu Đức Giêsu nh­ư mình muốn, thánh Têrêsa Avila đã khóc sư­ớt mư­ớt và cầu xin thánh Maria Mađalêna hướng dẫn mình trên con đư­ờng hoán cải để yêu Đức Giêsu được như­ ngài đã yêu khi ngài thấy Đức Giêsu chết trên thánh giá, và để sống chiêm niệm khi không có sự hiện diện cụ thể của Đức Giêsu nữa (Thánh Têrêsa Giêsu, “Oeuvres complètes “, éd. Du Seuil, Paris, 1949, pp. 88 và 1058).

Thánh Têrêsa Lisieux liên tư­ởng tới ng­ười phụ nữ tội lỗi ăn năn ấy khi tỏ lòng thán phục sự “liều lĩnh thật đáng yêu của thánh nhân, đã làm vui lòng Đức Giêsu” (Ibid., p. 441) ngài cũng thông cảm với ư­ớc muốn của Maria Mađalêna là được chạm đến Đức Giêsu. Ngài còn cảm phục sự hoán cải nội tâm nảy sinh trong tâm hồn Maria Mađalêna, khi cô nhìn thấy mình có thể gặp thấy Đức Giêsu bằng cách b­ước vào tâm hồn Thiên Chúa mà “không quanh co dối trá” (Ibid., p.1409) như­ng “nấp vào thâm cung của thánh nhan Ngài” (Ibid., p. 814) (Theo Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành). Thật thế, các phụ nữ trong Tin Mừng luôn luôn là nguồn cảm hứng cho những ai gắn bó với Đức Giêsu và muốn phục vụ Ngài.

Suy niệm

Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu có nhóm các môn đệ là những người sát cánh trực tiếp với Ngài và làm chứng cho Ngài (x. Lc 23,49). Ngài cũng có nhóm phụ nữ đi theo qua các làng mạc và trên các nẻo đư­ờng Galilê. Cả hai nhóm là nhân chứng cho những hành động, quyền năng và những giáo huấn của Chúa Giêsu và sẽ sát cánh với nhau. Các phụ nữ tuy không rao giảng nhưng lo việc ăn uống cho những người truyền giáo: “Các bà đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3).

Trong Tin Mừng không nói nhiều về các phụ nữ này, có nhắc tới một người trước đây bệnh hoạn bị bảy quỷ ám (x. Lc 11,26), Maria gọi là Mađalêna (một làng gần hồ Gênêsaret); một bà thuộc xã hội thượng lưu, Gioanna, đã từ bỏ chồng và triều đình Hêrôđê, bà Sudanna (Lc 8,3), Maria mẹ của Giacôbê (Lc 24,10), Salômê (Mc 15,40) và mẹ của anh em nhà Dêbêđê (Mt 27,56).

Tuy nhiên Tin Mừng ghi nhận các bà xuất hiện trong những thời điểm quan trọng của Thầy: Lúc Chúa Giêsu chết trên thập giá và lúc chôn cất Người (x. Lc 23,49-55), ở ngôi mộ trống ở đó đặc biệt có mặt bà Maria Mađalêna và bà Gioanna; người ta cũng sẽ gặp các bà này với nhóm Mười hai và mấy người khác trong phòng lầu trên trước lễ Ngũ tuần (Cv 1,14). Ở đây các bà sống với Mẹ Chúa Giêsu, các anh em Chúa và nhóm Mười hai.

Tin Mừng nhấn mạnh các bà là những người đầu tiên được Chúa Phục sinh hiện ra, đặc biệt là Maria Mađalêna (x. Mt 28,9-10; Mc 16,9-11; Ga 20,11-18), được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng Phục sinh (Mt 28,10).

Thế giới luôn cần đến bước chân của những người theo Chúa. Xin cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta ý thức bổn phận tiếp nối con đường Chúa: Tích cực dùng tất cả các khả năng và ân lộc Chúa ban để đóng góp công cuộc loan báo Tin Mừng Phục sinh.

Ý lực sống:

Các phụ nữ theo Chúa đã sống “kinh nghiệm” của những người đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn và Phục sinh của Ngài.

 

Suy niệm 9: Những người phụ nữ đi theo Đức Giêsu

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Đức Giêsu không ngừng thi hành sứ mệnh của mình. Người đi khắp làng mạc, thành phố để rao giảng Tin mừng và quên cả mệt nhọc. Các môn đệ và các phụ nữ đi theo Đức Giêsu cũng cộng tác với Ngài trong sứ mệnh ấy. Đặc biệt tác giả Luca cho biết những người phụ nữ theo Chúa là những người đã được Chúa trừ quỷ và chữa lành bệnh. Họ lấy của cải giúp đỡ Chúa. Tất cả những ai được Thiên Chúa kêu gọi và ban ơn đều cùng với Đức Giêsu đi loan báo Tin mừng cứu độ.

Giữa một xã hội Do thái trọng nam khinh nữ, thậm chí người phụ nữ được xếp hạng thứ sáu, đứng sau cả vật nuôi. Người phụ nữ Do thái hầu như không có tiếng nói, đến cả việc cưới xin và ly hôn cũng do quyết định của người nam. Xuyên suốt Thánh kinh Cựu ước, hầu như lãng quên bóng dáng của người phụ nữ, rải rác một ít chỗ nhắc tới một số phụ nữ, nhưng phần lớn thường là những chuyện chẳng vẻ vang gì (trừ Judith, Esther và vài tiên tri), thậm chí còn coi họ như là cạm bẫy cho đàn ông. Các luật sĩ Do thái tuyệt đối không nhận phụ nữ làm đồ đệ, họ phân biệt đối xử trong mọi sinh hoạt xã hội, kể cả việc phụng tự và các nghi lễ thanh tẩy (Hiền Lâm).

Trong bài Tin mừng hôm nay, để nói lên sự bình đẳng giữa nam và nữ, Đức Giêsu cho các phụ nữ tham gia vào sinh hoạt của Nhóm Mười Hai. Sự hiện diện và phục vụ của họ bên cạnh Đức Giêsu và nhóm Mười Hai chứng tỏ rằng: trong Giáo hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ. Sự kiện những phụ nữ đi theo Đức Giêsu ngay từ lúc Ngài bắt đầu sứ vụ công khai chứng tỏ rằng: họ là những người đồng hành với các Tông đồ trong việc loan báo Tin mừng của Ngài. Có sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin mừng, đây là thể hiện cao độ nhất của sự bình đẳng của nữ giới.

Đồng hành với Đức Giêsu, không chỉ có Nhóm Mười Hai, mà còn có các phụ nữ – là những người đã được Ngài trừ cho khỏi quỷ và chữa lành bệnh. Tác giả Luca còn cho biết thêm, họ “lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ”. Tuy nhiên, không phải chỉ có vậy, đi theo thầy Giêsu, họ còn bị đòi hỏi nhiều hơn nữa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”(Mt 10,37). Như vậy, tất cả mọi người, không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, kể cả hạng người tội lỗi, thu thuế hay chài lưới đều có cơ hội như nhau trong việc bước theo Đức Giêsu. Chỉ cần họ dám sẵn sàng từ bỏ mọi sự để “cùng đi với Ngài” (5 phút Lời Chúa).

Thầy giáo giải thích cho cả lớp nghe về chuyện Chúa dựng nên Adong và Evà. Tuần sau, thầy gọi học sinh trả bài. Một chú bé đứng lên tả việc Chúa dựng nên Adong.

Rồi một cô bé nói tiếp: Chúa dựng nên Adong xong, Người đứng ngắm và tự nhủ: “Ta sẽ làm đẹp hơn”, và thế là, Người dựng nên Evà.

Thiên Chúa dựng nên người phụ nữ với những đức tính rất tốt đẹp: kiên trì, hy sinh, quảng đại… Nhờ vậy, họ có thể chu toàn nhiều vai trò rất quan trọng: sinh sản, nuôi dạy và giáo dục con cái trong gia đình, đồng thời cộng tác với mọi người để xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn.

Trong Giáo hội, người phụ nữ cũng có sứ mệnh quan trọng: cộng tác với mọi người để loan báo Thiên Chúa cho thế giới. Câu chuyện Tin mừng hôm nay là một ví dụ cụ thể cho điều này.

Nhìn lại hành trình rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ những người đi theo Ngài đâu có mấy người thế giá trong dân? Điển hình như các Tông đồ là những người nhà quê, ít học, vụng về hoặc tội lỗi khét tiếng! Nói chung là lý lịch thuộc hạng bất hảo! Bên cạnh đó, cũng có một số phụ nữ đi theo, các bà là những người cũng không mấy tốt lành nguyên thuỷ. Điển hình như Maria Mađalena, bà là người đã từng bị quỷ ám. Còn bà Gioanna thì lại là vợ viên quản lý của Hêrôđê.

Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng khi được Đức Giêsu mời gọi, cuộc đời của các Tông đồ và những người phụ nữ này đã “buông theo ân sủng” để gặp nhau cùng một mẫu số chung, đó là: gặp được Đức Giêsu, cảm nghiệm được tình thương của Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, sẵn sàng sám hối, biến đổi, quảng đại để đi theo Ngài và phục vụ Ngài cách chân thành.

Truyện: Phong chân phước cho hai phụ nữ

Ngày 24/4/1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho “Hai bà mẹ gia đình”: bà Giana Beritta, đã chấp nhận cái chết khi sinh con để con được sống. Và bà Elizabeth Catannory, người đã bị chồng ruồng bỏ để đi theo tình nhân và tệ hơn nữa đã hại đứa con gái đầu lòng làm cho nó phải chết khi vừa mới chào đời. Tuy nhiên, bà vẫn trung thành với sứ mệnh làm vợ, làm mẹ, bà đã biết chấp nhận những hy sinh, để xin thánh hoá bản thân cũng như tha nhân theo tinh thần của dòng Chúa Ba Ngôi mà bà gia nhập như hội viên dòng ba. Niềm mong ước của bà đã được thể hiện sau khi bà qua đời: người chồng đã trở lại, lúc đầu cũng xin gia nhập dòng Chúa Ba Ngôi và sau đó đã trở thành linh mục dòng Phanxicô.

Trong bài giảng lễ phong chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Việc làm mẹ có thể trở thành nguồn vui, nhưng thường cũng là nguồn đau khổ. Trong trường hợp đó, tình yêu trở nên thật cần thiết ở mức độ anh hùng trong con tim của bà mẹ. Ngày hôm nay, chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ phi thường này mà còn biết bao bà mẹ khác, không quản ngại hy sinh để giáo dục con cái của mình”.

 

Suy niệm 10: Các phụ nữ theo Chúa Giêsu

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Bảng tóm lược những người đi theo Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng:

– Nhóm 12

– Các phụ nữ: trong số đó có người đã từng bị tà thần khống chế, có người bình dân và người quyền quý. Các bà giúp Ngài bằng công sức và bằng của cải nữa.

B…. nẩy mầm.

  1. Chúa Giêsu đang rảo khắp nơi loan báo Tin Mừng. Tin Mừng Ngài loan báo là sự giải phóng con người khỏi mọi thứ nô lệ. Nguyên việc có một số phụ nữ được đi theo chia sẻ sứ mạng của Ngài cũng là một dấu chỉ của Tin Mừng giải phóng ấy, vì thời đó người ta coi khinh phụ nữ, không cho phụ nữ tham gia những sinh hoạt công khai ngoài xã hội.

Ta hãy học cùng Chúa lòng tôn trọng mọi người không phân biệt nam nữ, lớn bé, giàu nghèo v.v.

  1. Chúa muốn chia sẻ sứ mạng loan Tin Mừng cho hết mọi người, trong đó có cả phụ nữ là hạng bị thời đó coi khinh, trong đó có cả tôi.
  2. Nam và nữ, mỗi phái đều có những sự phong phú riêng để đóng góp vào việc xây dựng xã hội và Giáo Hội. Sự phong phú đặc biệt của phái nữ là tình yêu, sự dịu dàng, kiên nhẫn, bao dung….
  3. Thầy giáo giải thích cho cả lớp nghe về việc Chúa dựng nên Ađam Evà. Tuần sau, thầy gọi học sinh trả bài. Một chú bé đứng lên tả việc Chúa dựng nên Ađam. Rồi một cô bé tiếp: “Chúa dựng nên Ađam xong, Ngài đứng ngắm và phán: ‘Ta sẽ làm đẹp hơn’, và Ngài dựng nên Evà.”
  4. “Cùng đi với Chúa Giêsu, có mấy người phụ nữ là các bà Maria Mác-đa-la người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioan-na, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,2-3)

Thế giới này không chỉ được xây dựng bởi phái nam mà có cả bàn tay của phái nữ nữa. Dù là nam hay nữ, tôi cũng được Thiên Chúa tạo nên và cho vinh dự góp phần làm nên hạnh phúc của mình. Tôi phải là cánh tay nối dài của Chúa, đem Lời Chúa thấm nhuần mọi lãnh vực. Không chỉ là người nam mới làm nên chuyện, mà người nữ hôm nay cũng đã có mặt trong hầu hết mọi lãnh vực xã hội.

Ước gì các chị em biết phát huy cá tính, biết lấy sự êm ái dịu dàng để xây dựng bình an, biết tha thứ để tạo nên an hòa, biết cảm thông và chia sẻ với mọi người, biết sống âm thầm thanh đạm để cứu vớt bao linh hồn. Hãy tô đẹp cuộc đời bằng vẻ đẹp dịu hiền và làm vẻ vang cho thiên chức làm mẹ.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết góp phần xây dựng Nước Chúa ở trần gian này. (Hosanna)

 

Suy niệm 11: Các phụ nữ theo Chúa chia sẻ việc rao giảng Tin Mừng

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng Ngài loan báo là sự giải phóng con người khỏi mọi thứ nô lệ. Nguyên việc có một số phụ nữ được đi theo để chia sẻ sứ mạng với Chúa cũng là một dấu chỉ của Tin Mừng giải phóng ấy, vì thời đó phụ nữ bị người ta coi khinh, không cho phụ nữ tham gia bất cứ sinh hoạt công khai nào của xã hội.

Như vậy, nam và nữ, mỗi phái đều có sự phong phú riêng để đóng góp vào việc xây dựng Giáo Hội và xã hội.

Chúng ta hãy nghe sứ điệp của Công Đồng Vaticanô II gửi giới phụ nữ. Sứ điệp này do Đức Hồng Y P. Zoungrana tuyên đọc ngày 8/12/1965: “Giờ đây chúng tôi xin ngỏ lời với nữ giới thuộc hết mọi thành phần: Bây giờ đã đến lúc sứ mệnh người phụ nữ được thể hiện hoàn toàn. Đây là lúc người phụ nữ có một ảnh hưởng, một sự phát huy và một quyền lực từ trước đến nay chưa từng có trong xã hội.”

“Hỡi các người vợ, người mẹ gia đình, là những nhà giáo dục đầu tiên của nhân loại trong lòng tổ ấm gia đình, xin truyền thụ cho con trai con gái quý bà những truyền thống của cha ông chúng ta, đồng thời chuẩn bị cho chúng một tương lai xa vời. Các bà hãy luôn nhớ là nhờ con cái nên người mẹ góp phần vào tương lai, một tương lai có lẽ mắt quý bà sẽ không được nhìn thấy”.

“Cả những chị em ở độc thân nữa, xin ý thức rằng, chị em có thể chu toàn trọn vẹn sứ mạng phục vụ của mình. Xã hội khắp nơi đang kêu gọi chị em, ngay các gia đình cũng không thể sinh hoạt nếu gạt bỏ sự trợ giúp của những người không lập gia đình”.

“Nhất là những người đồng trinh đã dâng mình cho Chúa trong một thế giới mà chủ nghĩa ích kỷ và sự ham tìm khoái lạc muốn trở nên qui luật sống, chị em hãy duy trì đức trong sạch, lòng vô vị lợi và tinh thần đạo đức.”

Cha Leonardo Bop, một nhà thần học nổi danh người Brasil thuật lại:

Ngày kia, một người đàn bà mà tôi quen biết vài năm nay gọi tôi ra một nơi và nói nhỏ: “Thưa cha, con muốn tiết lộ cho cha một bí mật. Xin cha đến nhà con.”

Tôi đến nhà bà ta, vào phòng ngủ của đứa con trai bà. Đó chính là một quái thai. Đầu đứa nhỏ to như đầu người lớn, nhưng thân mình của nó thì bé tí xíu. Đôi mắt nó nhìn chằm chằm lên trần nhà, lưỡi nó thò ra thụt vào như lưỡi rắn. Tôi rùng mình thốt lên: “Chúa ơi!” Nhưng bà ta nói: “Thưa Cha, từ tám năm nay con chăm sóc đứa con này của con. Nó chỉ biết có một mình con mà thôi, và con rất hài lòng về nó, hầu như không một người nào khác biết đến sự hiện diện của nó” – Rồi bà ta lớn tiếng nói: “Thiên Chúa là Đấng nhân lành. Ngài là Cha”. Bà ta nhìn lên trời nói tiếp với giọng bình thản: “Xin vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời”.

Leonardo Bop cho biết: “Tôi rời nhà bà ta không nói được một lời nào. Đầu tôi cúi xuống kinh hoàng vì đứa trẻ quái thai, đồng thời ngỡ ngàng vì thái độ bình thản của bà mẹ, Rồi bất chợt một câu Kinh Thánh xuất hiện trong đầu tôi. Lời Chúa Giêsu nói với người đàn bà mắc bệnh hoại huyết: “Hỡi bà, đức tin của bà thật lớn lắm” (Mt 15,28)

Quả thực, đức tin của người đàn bà xứ Brasil trên đây thật lớn lao dường nào! Bà không chửi trời trách đất vì có đứa con quái thai như thế, trái lại bà đã sống trọn tinh thần Lời Chúa dạy: “Hai con chim sẻ mới bán được một đồng, thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha chúng con. Tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả rồi” (Mt 10,29-30).

  1. Ngày 24.4.1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho “Hai bà mẹ gia đình”: Bà Giana Beritta, người đã chấp nhận cái chết khi sinh con để con được sống. Và bà Elisabeth Catannory, người đã bị chồng ruồng bỏ để đi theo tình nhân và tệ hơn nữa đã hại đứa con gái đầu lòng làm cho nó phải chết khi vừa mới chào đời. Tuy nhiên, bà vẫn trung thành với sứ mạng làm vợ, làm mẹ, bà đã biết chấp nhận những hy sinh để xin ơn thánh hóa bản thân cũng như tha nhân theo tinh thần của Dòng Chúa Ba Ngôi mà bà gia nhập như hội viên dòng ba. Niềm mong ước của bà đã được thể hiện sau khi bà qua đời: người chồng đã trở lại, lúc đầu cũng xin gia nhập dòng Chúa Ba Ngôi và sau đó đã trở thành Linh mục dòng Phanxicô.

Trong bài giảng thánh lễ phong chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Việc làm mẹ có thể trở thành nguồn vui nhưng thường cũng là nguồn đau khổ. Trong trường hợp đó, tình yêu trở nên thật cần thiết ở mức độ anh hùng trong con tim của bà mẹ. Ngày hôm nay, chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ phi thường này mà còn cả bao nhiêu bà mẹ khác, không quản ngại hy sinh để giáo dục con cái của mình”.

 

 

 

THỨ BẢY TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 8, 4-15

Khi ấy, có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: “Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm”.

Khi nói những lời đó, Người kêu lên rằng: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe!”. Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng: “Phần các con, thì cho các con biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”.

 

Suy niệm 1: Với tấm lòng cao thượng

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Đức Kitô hào phóng gieo vãi lời của Thiên Chúa khắp nơi.

Ngài như người gieo hạt giống, tung gieo trong gió,

có vẻ như chẳng để ý đến chuyện có hạt rơi vào đất cằn khô,

và một số hạt không bao giờ sinh huê lợi.

Các Kitô hữu sơ khai đã đọc dụ ngôn này và thấy nơi đó một lời nhắn nhủ.

Họ thấy mình chính là người đã nhận được hạt giống lời Chúa.

Nhưng không phải hạt giống nào cũng thành cây lúa trĩu hạt.

Có những hạt giống bị thui chột bởi những lý do bên ngoài và bên trong.

Làm sao để mọi hạt giống được gieo trong tim ta, đều sinh hoa trái?

Câu hỏi của Giáo hội sơ khai cũng là câu hỏi của Giáo hội bây giờ.

Thửa đất là trái tim con người xưa nay vẫn thế.

Hạt giống Lời Chúa hôm xưa và hôm nay cũng vẫn là một.

Cả bốn hạng người trong dụ ngôn đều đã nghe (cc. 12. 13. 14. 15),

nghĩa là đều đã đón nhận Lời Chúa vào trái tim, vào trung tâm đời mình.

Nhưng có Lời bị đánh cắp.

Quỷ đến và lấy Lời đã gieo ra khỏi trái tim người nghe

vì sợ họ tin mà được cứu độ (c. 12).

Quỷ giống như chim trời đến ăn mất hạt giống rơi xuống vệ đường (c. 5).

Tại quỷ hay tại trái tim con người như đất vệ đường quá cứng?

Hạt giống nằm chơ vơ, trở thành mồi ngon cho bao tấn công đe dọa.

Nhưng có Lời không mọc rễ.

Nghe Lời và vui vẻ đón nhận vẫn chưa đủ.

Hạt giống cần có nhiều đất để mọc rễ nuôi sống cây.

Đất nhiều sỏi đá chỉ cho một lòng tin nhất thời, khi mọi sự dễ dàng,

nhưng không đủ sức đứng vững khi thử thách ập tới.

Đã và đang có những Kitô hữu quỵ ngã trước những thách đố cam go,

vì Lời Chúa chưa bao giờ mọc rễ trong tim họ.

Thử thách của đời Kitô hữu làm lộ ra tình trạng “không rễ” của ta,

và đòi ta tránh gặp gỡ Lời Chúa một cách hời hợt, nông cạn.

Nhưng có Lời bị chết ngộp.

Ngộp vì những thứ trói buộc của cuộc đời phù vân này,

những lo âu trăn trở, những thèm muốn khoái lạc, giàu sang.

Cây lúa có mọc lên cũng bị chết ngộp bởi bụi gai ở ngay nơi tim tôi.

Cuối cùng có Lời được nắm giữ.

Dù thửa đất tốt là trái tim cao thượng và quảng đại,

Nhưng nắm giữ Lời Chúa cũng đòi một nỗ lực không ngừng.

Bất chấp những tấn công từ bên ngoài, hay thèm muốn bên trong,

cần có thái độ kiên trì để vượt qua những khủng hoảng không tránh khỏi.

Xin được trân trọng nghe Lời Chúa trong thánh đường và trong cuộc sống.

Xin được khiêm tốn nghe Lời Chúa qua các bậc thầy và qua trẻ thơ.

Ước gì Lời Chúa giúp ta làm cho đất của tim mình xốp hơn và mềm lại,

bớt đá sỏi, thêm đất màu, bớt bụi gai, thêm ẩm ướt.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa

và dạy con bước đi

ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.

Xin truyền cho con sức mạnh của Người.

Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con

tìm lại được sức trẻ

để gieo trồng hàng ngàn cây xanh

cho một thế giới mới

Ước gì mồ hôi con

pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.

Ước gì máu con

hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ

để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn

vì bất công và ích kỷ.

Chúc tụng Chúa là Cha,

đã dẫn con đi đến cùng,

đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung

với tràn trề bình an và niềm vui. (ĐHY Roger Etchegaray)

 

Suy niệm 2: Gieo và gặt

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thật lạ lùng quá trình gieo và gặt. Quá trình mất và được. Từ bỏ và lấy lại. Chết và sống. Quá trình nảy sinh sự sống. Sự sống mới. Phong phú dồi dào. Và cao vượt. Mầu nhiệm sự sống tự nhiên đã kỳ diệu. Mầu nhiệm sự sống siêu nhiên còn kỳ diệu gấp bội.

Chúa Giê-su là người đi gieo Tin mừng. Thiên Chúa kiên trì gieo Lời Người xuống trần gian. Trải qua bao đời. Qua bao thất bại. Đến lúc phải gieo chính Ngôi Lời. Chúa Giê-su gieo chính mình. Người trở thành hạt giống. Mục nát đi để trổ sinh một mùa gặt mênh mông. Một nhân loại mới mọc lên từ Người. Giống như Người.

Nhưng để trở thành mùa gặt con người phải trở thành đất tốt. Phải cầy bừa con đường đi đã chai cứng. Phải nhặt đá sỏi. Phải nhổ bụi gai. Phải từ bỏ con người cũ. Con người của xác thịt. Con người của hời hợt nông cạn. Con người của dục vọng đam mê. Để sống theo Thần Khí. Phải gieo chính mình như Chúa Giê-su.

Đó là điều thánh Phao-lô mời gọi ta trong thư Cô-rin-tô. Ta cũng phải gieo chính mình. Phải trở thành hạt giống mục nát như Chúa. Phải từ bỏ con người cũ. Ta sẽ sống lại thành con người mới. Ta sẽ có mùa gặt mới: “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí”. Và thánh nhân giải nghĩa con người có sinh khí là con người của A-đam, con người theo xác thịt. Con người có thần khí là con người giống A-đam mới, là Chúa Ki-tô: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến” (năm chẵn).

Đây là một quá trình khó khăn. Phải mục nát đi. Phải từ bỏ chính mình. Vì thế phải quảng đại và kiên trì như lời Chúa giải thích: “Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả”. Theo thánh Phao-lô từ bỏ và kiên trì đó là: “hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (năm lẻ).

Mùa gieo hạt như thế sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời. Ta còn phải cầy bừa những con đường. Nhặt đá sỏi nông nổi hời hợt. Nhổ bụi gai đam mê xác thịt. Để hoàn toàn chết đi cho con người mới. Rồi mới có mùa gặt trong Chúa Ki-tô.

 

Suy niệm 3: Dụ Ngôn Người Gieo Giống

Dụ ngôn, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là so sánh, là thí dụ. Trong Tin Mừng, là những câu truyện Chúa Giêsu đưa ra dựa trên những hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người nghe, để giúp họ hiểu ý nghĩa những sự thật có liên quan đến niềm tin mà Ngài muốn trình bày.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về người gieo giống.

Trước hết, cần lưu ý đến sự khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn. Khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu xem ra nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả. Thật ra, hai khía cạnh này không đối nghịch nhau, nhưng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển, nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể bỏ qua được.

Hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn. Hạt giống này tự nó có sức trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi thì gặp những hoàn cảnh đối nghịch tùy vào thái độ chấp nhận cộng tác của con người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây là chính Thiên Chúa, Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không ơn cứu rỗi cho mọi người. Thiên Chúa có sáng kiến trước, nhưng con người cũng cần cộng tác vào: hai yếu tố này không thể bỏ qua được.

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta canh tân đời sống, cộng tác với ơn Chúa ban để trở thành những mảnh đất tốt đón nhận và làm phát triển hạt giống Lời Chúa. Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Mảnh Ðất Tốt

Mỗi người đồ đệ cần phải cộng tác vào việc làm cho Nước Chúa được ngự đến, và trước hết là nơi chính bản thân mình. Chúa Giêsu giảng giải điều này cho các môn đệ qua dụ ngôn về người gieo giống được Giáo Hội nhắc lại trong ngày hôm nay.

Chúng ta có thể lưu ý đến một chút khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích về dụ ngôn. Khi kể về dụ ngôn Chúa Giêsu xem ra như nhấn mạnh tới sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống chắc chắn thu được thành quả. Có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi trong bụi gai, nhưng có những hạt rơi trên đất tốt và trổ sinh hoa trái gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ thì xem ra như Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa sinh hoa trái tốt. Thật ra hai khía cạnh này không đối nghịch nhau mà ngược lại cả hai cùng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể nào bỏ qua được.

Chính hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn, hạt giống Lời Chúa này tự nó có sức mạnh để trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi, được rao giảng cho mọi người thì liền gặp phải hoàn cảnh đối nghịch, gai góc, đá sỏi tùy thuộc vào thái độ chấp nhận cộng tác của người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây được hiểu là chính Thiên Chúa. Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không cho tất cả mọi người ơn cứu rỗi.

Thiên Chúa đã có sáng kiến ứng trước cho con người nhưng phần con người thì cũng cần cộng tác đáp lại. Hai yếu tố không thể bỏ qua được. Thiên Chúa không áp đặt nhưng kính trọng tự do của con người. Những trở ngại không cho hạt giống Lời Chúa sinh hoa trái là thái độ hời hợt, xu thời, không kiên trì, lo lắng tích trữ giàu sang vật chất, say mê đi tìm thú vui.

Mỗi người chúng ta cần canh tân đời sống cộng tác với ơn Chúa ban, cố gắng sao để trở thành mảnh đất tốt đón nhận hạt giống Lời Chúa. Một tâm hồn cao thượng, quảng đại và kiên trì giữa những gian nan thử thách của cuộc đời, đó là điều Thiên Chúa hằng mong ước gặp được nơi mọi người đồ đệ của Ngài, nơi mỗi người chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa,

Xin ban cho con được trở nên mảnh đất tốt hàng ngày đón nhận và Suy niệm Lời Chúa cũng như sống thực hành những gì Chúa truyền dạy.

Lạy Chúa, xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Sinh hoa kết quả nhờ kiên trì

“Người gieo giống ra đi gieo hạt giống của mình, trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cũng mọc lên làm nó chết nghẹt. Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm. Nói xong, Người hô lên rằng: “Ai có tai nghe thì nghe”

Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. Người đáp: “Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu njiệm Nước Thiên Chúa; còn đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Lc. 8, 5-9)

Chức vụ Đức Kitô ở Galilê đến hồi kết thúc. Người muốn cho đông đảo dân chúng tụ họp chung quanh hiểu về mầu nhiệm nước trời bằng một dụ ngôn mang ý nghĩa vừa cụ thể vừa cao siêu. Dụ ngôn không có sức gắn liền với trí tuệ, tự nó không bao giờ minh hiển. Nó dự báo chân lý và phải nhờ đường lối của Thiên Chúa mới làm cho tâm hồn nắm bắt được chân lý và trở về với chân lý.

Pascal đã viết: trong tư tưởng của Chúa “Có đủ rõ ràng để soi cho những người được tuyển chọn, và khá tối tăm để giúp họ khiêm hạ. Có đủ tối tăm để làm kẻ thách thức mù quáng, và khá rõ ràng để kết án họ và làm cho họ không thể chối cãi”. Những dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng vừa sáng vừa tối để họ không thể chiến thắng bằng sức riêng của mình, nhưng cũng để tôn trọng tự do của mỗi người. Đối với dụ ngôn người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay cũng thế.

Người gieo ra đi gieo giống, cũng gặp nhiều tai họa: có hạt rơi trên vệ đường bị người và vật dày đạp và sau cùng bị chim trời đến ăn. Có hạt chết khô đét trên đá vì thiếu ẩm ướt. Có hạt bị chết nghẹt trong bụi gai không vươn lên được. Sau cùng rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả.

Ai có tai thì hãy nghe.

Sứ điệp Tin Mừng trải qua bao nhiêu thời gian đã bị rơi vào những con tim tin ma thờ quấy, hay nông nổi nhất thời hay ham mê danh lợi thú. Chỉ có những con tim chân thành, khiêm tốn, kiên trì, cao thượng mới sinh hoa kết quả cho những mùa gặt phong phú. Lòng yêu mến của họ sẽ giúp họ nắm giữ và thực hành được lời Chúa, dầu gặp những thất bại, thử thách, đau khổ, chống đối, bắt bớ và phải chết, họ vẫn an tâm vững chí kiên trì cho đến tận cùng. Ngày qua ngày, khiêm tốn họ sống thực hiện những điều đã khám phá do Thiên Chúa ban ơn, họ dần dần đi vào cuộc sống thân mật của Thiên Chúa.

GF

 

Suy niệm 6: Mở rộng tâm hồn… như thửa đất tốt

Xem lại CN 15 TN A – và thứ Tư tuần 16 TN

Nói đến gieo giống, người ta nghĩ ngay đến ai là người gieo? Gieo gì? Và gieo vào đâu? Hạt giống mọc lên ra sao? Sinh hoa kết quả thế nào…?

Hôm nay Đức Giêsu đã kể dụ ngôn người gieo giống và mặc khải cho biết: người gieo giống là Thiên Chúa. Hạt giống là Lời của Người qua các tổ phụ, tiên tri và sau hết là chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, thân phận hạt giống thì khác nhau, vì thế, có hạt bị quên lãng, bỏ ngoài tai hay vô tâm, chỉ ¼ là được đón nhận. Lý do thân phận của hạt giống bị hư hoại nhiều là vì sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ một ¼ số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái.

Hình ảnh này cho thấy thực trạng của xã hội chúng ta hôm nay cũng đang bị đủ thứ gai góc, sỏi đá và lối mòn đe dọa đến hạt giống của Lời Chúa.

Những thứ đó là: lối sống sa đọa, nhu nhược, vô luân, không có tự trọng… tham nhũng, bóc lột, lừa gạt, dẫn đến tình trạng: “Ai làm sao, tôi làm vậy. Ai làm bậy, tôi cũng làm theo”, nên Lời Chúa không sinh ích cho người đón nhận.

Thực vậy, biết bao con người hôm nay cứ trố mắt và lao mình vào những con đường tội lỗi mà không hề có chút ưu tư. Họ sống như không có gì xảy ra vậy.

Nơi giới trẻ ngày nay, tình trạng thượng tôn tình dục, văn hóa đồi trụy đang là mốt rất “hót”, dẫu vẫn biết rằng văn hóa phẩm đồi trụy là nguyên nhân nguy hiểm, tác hại khôn lường đến đời sống đạo đức gia đình, xã hội và làm băng hoại Lương Tâm, dẫn đến tình trạng mù quáng và đi vào con đường chết!  Nhưng vì đồng tiền và bản năng “hạ đẳng” của con người, họ vẫn ngang nhiên cung cấp và thỏa sức sử dụng… như loài không có lương tri, không có linh hồn…!

Quả thật, những người đó, và đôi khi có cả chúng ta, là những người có tai mà không nghe, có mắt mà không thấy. Lời Chúa đến với họ chẳng khác gì “đàn gảy tai trâu” hay như “nước đổ đầu vịt, lá khoai”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết lắng nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa, và trung thành với giáo huấn của Chúa, ngõ hầu như hạt giống tốt gặp được thửa đất màu mỡ là tâm hồn ngay thẳng để trổ sinh nhiều bông hạt tốt tươi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con là thửa đất tốt để hạt giống của Lời Chúa luôn triển nở trong tâm hồn chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 7: Lời Chúa là hạt giống

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Lời Chúa như hạt giống, lòng người như thửa ruộng. Hãy cầy xới mảnh đất tâm hồn để hạt giống Lời Chúa phát triển và sinh ra những hoa trái thánh thiện.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đang gieo hạt Lời Chúa vào lòng con. Con có nhiệm vụ vun xới cho Lời Chúa nảy mầm, bám rễ vào lòng con. Chúa tin tưởng con, trao phó cho nhiệm vụ vun trồng cây đức tin và hằng ngày đợi chờ con dâng về Chúa những hoa trái việc lành phúc đức.

Con quyết không để lòng mình như vệ đường chai cứng. Con sẽ nghe theo tiếng lương tâm, sống theo lẽ phải. Con sẽ học hỏi Lời Chúa và giáo lý để luyện lương tâm con ngay thẳng, để Lời Chúa nảy mầm nơi tâm hồn con.

Xin cho lòng con đừng trở nên sỏi đá. Có nhiều lúc con muốn thực thi Lời Chúa nhưng lại ngại khó. Xin cho con đừng bỏ cuộc khi Tin Mừng đòi con cố gắng.

Xin cho con biết khai quang tâm hồn con khỏi những bụi gai thói hư tật xấu vốn phát triển nhanh theo tính tự nhiên. Cả những công ăn việc làm, cả những giải trí vui chơi khi đã trở nên đam mê, cũng là bụi gai bóp nghẹt Lời Chúa nơi con. Xin cho lòng con biết hướng về Chúa và vươn tới những điều cao đẹp.

Xin cho con biết siêng năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Giao Hòa và bí tích Thánh Thể, để tâm hồn con trở thành mảnh đất tốt thích hợp cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái thánh thiện trong đời sống con. Amen.

Ghi nhớ: “Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”.

 

Suy niệm 8: Để Lời Chúa sinh hoa kết quả

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Nhờ nghe Lời Chúa, dân thành Ninivê ăn năn trở lại và được cứu rỗi.

Nhờ nghe Lời Chúa, vua Đavít bắt đầu nhận thấy tội lỗi nặng nề của mình và ăn năn thống hối, trở thành một vị vua thánh thiện.

Nhờ nghe Lời Chúa, Augustinô bắt đầu xấu hổ về những tội mình đã phạm hồi còn trẻ, ăn năn hối cải, trở lại với Chúa, và trở thành một vị giám mục thông thái, thánh thiện.

Nhờ nghe Lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã từ bỏ những đeo đuổi vinh sang trần tục, ra đi làm việc tông đồ để trở thành một trong những nhà truyền giáo danh tiếng nhất của Giáo hội.

Suy niệm

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trình bày giáo huấn nước Thiên Chúa qua dụ ngôn về người gieo giống và giải thích dụ ngôn đó. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn.

Khi trình bày dụ ngôn, Chúa nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống, dù có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm. Thiên Chúa là người gieo hạt giống đã làm tất cả để hạt Lời Ngài giảng dạy nảy sinh mầm.

Khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến sự cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả. Hạt giống Lời Chúa sinh hoa trái, nhưng còn phụ thuộc vào mảnh đất có được canh tác tốt. Mảnh đất phải được dọn cỏ, phải được nhặt những viên đá để hạt giống Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống.

Dẫu biết rằng tâm hồn mình còn nhiều sỏi đá, cỏ lùng, đừng thất vọng mà để hoang tàn, nhưng xin vẫn cứ chăm chỉ: Chăm chỉ nhặt sỏi, chăm chỉ nhổ cỏ, vun trồng chuẩn bị tốt cho mảnh đất của đời mình để sẵn sàng đón nhận hạt giống được gieo trong mùa màng hồng ân. Khi mùa gặt tới, mong rằng, mảnh đất đời tôi, đời bạn nuôi dưỡng giống, ít nhất cho những hạt sinh được ba mươi…

Ý lực sống

“Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới dội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần” (Tv 64,10).

 

Suy niệm 9: Dụ ngôn người gieo giống

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Khi đi truyền giáo, Đức Giêsu đi rao giảng về Nước Thiên Chúa hay Nước trời. Đây là những ý tưởng quá trừu tượng mà thính giả phần lớn là dân quê, ít học, ngay các Tông đồ nòng cốt cũng ở trong tình trạng đó. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống đi gieo lúa để nói về hạt giống Lời Chúa. Theo đó, Lời Chúa như hạt giống được gieo vào lòng mọi người, để có thể phát triển và sinh hoa kết quả tùy theo thái độ đón nhận của từng người: có người không chấp nhận, có người chấp nhận với thái độ ơ hờ lạnh nhạt, có người đón nhận với lòng thành để Lời Chúa có thể sinh hoa kết quả dồi dào gấp 30, 60 hay 100 lần.

Để dễ hiểu dụ ngôn này, chúng ta cần biết phương pháp gieo giống của người Do thái thời Đức Giêsu. Theo kỹ thuật canh tác thông thường, người nông dân cày xới đất trước, rồi mới gieo vãi hạt giống. Nhưng vào thời Đức Giêsu, người nông dân Palestina xem ra đảo ngược phương pháp canh tác ấy khi họ gieo vãi rồi mới cày xới. Với kỹ thuật canh tác này dĩ nhiên người nông dân xem ra không nhọc công nhưng lại phí phạm rất nhiều hạt giống. Vì vậy, người nông dân không tính toán, không loại trừ. Cả mảnh đất màu mỡ lẫn mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông luôn muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp mọi nơi.

Hôm nay Đức Giêsu kể dụ ngôn người gieo giống và mạc khải cho biết: người gieo giống là Thiên Chúa. Hạt giống là Lời của Người qua các tổ phụ, tiên tri và sau hết là chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, thân phận hạt giống thì khác nhau, vì thế, có hạt bị quên lãng, bỏ ngoài tai và vô tâm, chỉ 1/4 là được đón nhận. Lý do thân phận của hạt giống bị hư hoại nhiều, là vì sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ 1/4 số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái. Hình ảnh này cho thấy thực trạng của xã hội chúng ta hôm nay cũng đang bị đủ thứ gai góc, sỏi đá và lối mòn đe dọa đến hạt giống của Lời Chúa (Ngọc Biển).

Tâm hồn mỗi người là một thửa ruộng, và không có thửa ruộng nào vô ích. Thiên Chúa sẽ gieo hạt giống Lời Chúa vào mỗi tâm hồn không loại trừ. Việc gieo Lời Chúa lúc nào cũng dồi dào phong phú, còn phía chúng ta, chúng ta sẽ đón nhận Lời Chúa với thái độ nào? Theo bài Tin mừng, Đức Giêsu đã phân chia thành 4 loại đất mà người nông phu gieo hạt giống. Bốn loại đất ấy tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Thiên Chúa:

* Đất vệ đường: những kẻ chẳng tha thiết gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.

* Đất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó là bỏ cuộc.

* Đất có nhiều gai: những người cũng đón nhận Lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải… Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa bị chết nghẹt.

* Đất tốt: những người sốt sắng đón nghe Lời Chúa, ghi sâu vào trong tâm hồn và quảng đại đem ra thi hành trong cuộc sống.

Hạt giống nào cũng ẩn chứa những hy vọng; bông hoa nào cũng mang đến những niềm vui. Dẫu biết rằng có những hạt giống bị hư hao do các loại tâm hồn vệ đường, đá sỏi, bụi gai, nhưng người gieo giống – hình tượng của Thiên Chúa – vẫn lạc quan, vì hy vọng sẽ có những hạt rơi vào tâm hồn đất tốt, để rồi sinh hoa kết hạt bội thu. Có vẻ như thất bại của các hạt giống càng lúc càng gia tăng: hạt giống chưa kịp nảy mầm bị chim trời ăn mất, hạt giống đã nảy mầm nhưng bị chết héo, hạt giống đã thành cây con nhưng bị chết ngạt. Thế nhưng, chỉ cần vài hạt giống rơi vào đất tốt, hạt gấp trăm, chẳng những bù đắp những hư hao, và còn dư dật phong phú. Dụ ngôn cho ta cái nhìn lạc quan về Nước trời, về việc nên thánh của người con cái Chúa (5 phút Lời Chúa).

Truyện: Hạt giống bông lau

Trong số những vị anh hùng xây dựng Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, phải kể đến Benjamin Franklin, tạ thế năm 1790. Ông là một văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản; lại còn là một nhà phát minh, một khoa học gia, thương gia và nhà ngoại giao. Một hôm, ông nhận được món quà từ Ấn độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt còn dính lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho các bạn bè xóm ngõ. Tất cả đều đem gieo, và chẳng bao lâu, Hoa Kỳ đã có một kỹ nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rác khắp nơi trong quốc gia. Đó cũng là nhờ Benjamin đã có sáng kiến, biết lợi dụng vài hạt giống nhỏ mọn.

Chúng ta có thể rút ra được bài học qua kinh nghiệm này: sau khi đã tìm hiểu Lời Chúa, chúng ta phải quyết tâm lắng nghe, thực hành và phổ biến Lời Chúa cho người khác. Muốn cho cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả, muốn cho bản thân thành đạt trên đường đời, hãy kiểm tra ruộng lúa tâm hồn thường xuyên và kỹ lưỡng như người nông phu luôn biết săn sóc ruộng sạ của mình. Càng vất vả cày bừa, diệt cỏ, càng can đảm diệt tính hư nết xấu, Lời Chúa gieo xuống, càng đem lợi ích cho cuộc đời chúng ta.

 

Suy niệm 10: Dụ ngôn người gieo giống

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Dụ ngôn người gieo giống:

– Hãy để ý đến sự rộng rãi đến nỗi như hoang phí của người gieo giống: gieo cả trên vệ đường và nhiều nơi mà hy vọng nẩy mầm rất ít.

– Cũng hãy để ý đến những loại đất xấu: a/ Đất vệ đường là người quá hời hợt, vừa nghe là quên ngay; b/ Đất sỏi đá là người không kiên trì trong gian nan thử thách; c/ đất đầy gai là người chất chứa trong lòng nhiều lo toan việc đời.

– Đất tốt là “những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy lời, và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”

B…. nẩy mầm.

  1. Tôi phải học tính quảng đại và lạc quan của người gieo giống trong dụ ngôn này: không nên tiếc công gieo Lời Chúa, cũng không nản lòng khi thấy Lời Chúa không sinh kết quả nơi một số người. Cứ lạc quan hăng hái chu toàn nhiệm vụ của mình, như Thánh Phaolô: “Tôi trồng, Apollo tưới, Thiên Chúa cho mọc lên”.
  2. Hãy suy gẫm kỹ những điều kiện làm cho hạt giống nẩy mầm:

– “Nghe Lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo”: lắng nghe với thiện chí muốn tìm ánh sáng hướng dẫn đời mình.

– “Giữ lấy Lời một cách kiên nhẫn”: không bỏ cuộc dù thời gian kéo dài, dù gian truân thử thách; không để mình bị phân tâm vì những lo toan và đam mê việc đời.

  1. Mỗi ngày Chúa dọn cho tôi hai bàn tiệc: bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa được dọn sẵn không phải chỉ trong Thánh lễ, mà còn lúc nguyện gẫm, lúc đọc Thánh Kinh…
  2. Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi ”Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?”. Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời ”Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”…

Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất.

Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua ”Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”…

Giác ngô đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý”. (Góp nhặt)

 

Suy niệm 11: Hạt giống Lời Chúa và mảnh đất cuộc sống tôi

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Một lần nữa chúng ta đọc dụ ngôn người gieo giống:

Người gieo giống trong dụ ngôn hôm nay là một người hết sức hào phóng, hào phóng đến mức độ có thể coi là hoang phí. Ông gieo hạt giống cả trên những vệ đường, vào những nơi mà hy vọng nảy mầm rất ít.

Và chúng ta cũng hãy để ý đến những loại đất người gieo giống gieo vãi hạt giống trên đó. Rõ ràng là có cả đất xấu lẫn đất tốt.

a/ Đất vệ đường ám chỉ loại người quá hời hợt, vừa nghe là quên ngay;

b/ Đất đá sỏi là người không kiên trì trong gian nan thử thách;

c/ Đất đầy gai là người chất chứa trong lòng nhiều lo toan việc đời.

d/ Đất tốt là “những người nghe với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy lời, và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”.

Mỗi lần đọc lại dụ ngôn người gieo giống và suy gẫm, lòng tôi cảm thấy không yên. Khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa dụ ngôn đó, tôi lại càng có cảm tưởng như một lời trách móc.

Lời Chúa là hạt giống và cuộc sống của tôi là mảnh đất.

Cho đến hôm nay, Chúa đã gieo vào tai tôi, lòng tôi bao nhiêu hạt giống: hãy tha thứ, hãy sống khoan dung, hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, đừng lên án, hãy sống quảng đại… Nhưng thử hỏi đã có được bao nhiêu hạt giống mọc lên trong tâm hồn cũng như trong cuộc sống của tôi? Khi đối chiếu cuộc sống của mình với Lời Chúa, tự nhiên tôi cảm thấy sợ. Mảnh đất của đời tôi, đứng xa mà nhìn thấy xanh tươi, nhưng lại gần, nhìn kỹ thì thấy màu xanh đó là màu xanh của cỏ dại. Thế mà tôi cứ sống an tâm với thửa đất đầy cỏ dại đó, đầy thói hư nết xấu đó, một thửa đất được ngụy trang bằng một màu xanh đạo đức bề ngoài.

Chúng ta hãy xin Chúa điều chỉnh lại cuộc sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta biết luôn sống thế nào cho đẹp lòng Chúa.

  1. Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.

Trong lời nhắn nhủ, rõ ràng Chúa đã muốn nói đến hai yếu tố quan trọng để trở thành mảnh đất tốt: nghe Lời Chúa với lòng quảng đại và quyết tâm nắm giữ với sự kiên trì.

Thường thì phần đông chúng ta nghe Lời Chúa một cách thờ ơ, ra khỏi nhà thờ là quên rồi!

Một số ít sẵn sàng chú ý nghe Lời Chúa, nhưng thiếu quyết tâm nắm giữ và thiếu kiên trì, nên cũng không đưa đến hoa trái nào cả.

Có những hạt rơi vào chỗ đất tốt, nảy mầm, mọc lên, sinh hoa kết quả: hạt được 30, hạt được 60, hạt được 100…..

Bà Scaggs, một giáo sĩ thuộc một giáo phái Tin lành ở Nigeria, châu Phi, đã kể lại một câu chuyện thật cảm động sau đây:

“Một ngày kia tôi được mời đến dự lễ Giáng Sinh tại Grace Camp, một trung tâm điều trị bệnh cùi. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến một số người cùi đông như vậy dâng lễ. Buổi lễ được tổ chức ngoài trời. Nhìn chỗ nào tôi cũng thấy người ngồi dự lễ. Gốc cây, ụ đất, bãi cỏ… chỗ nào cũng đông nghẹt người. Tôi thấy họ thật đáng thương, Mặc dù bị bệnh tật gậm nhấm và thân thể họ bị hủy hoại dần dần, nhưng khuôn mặt người nào người nấy lúc nào cũng biểu lộ niềm vui khó tả. Mắt họ sáng ngời khi hát lên những bài thánh ca Giáng Sinh.

Đến phần công bố Lời Chúa, mục sư mời một người bị bệnh cùi ăn mất hết mấy ngón tay lên đọc Sách Thánh. Ông ta phải lật các trang sách bằng một cái que buộc vào cổ tay. Sau bài giảng, mục sư mời mọi người đó chia sẻ về những ân phúc Chúa đã ban cho mình, người bệnh cùi vừa đọc sách thánh giơ bàn tay không còn ngón và đứng lên nhỏ nhẹ nói:

– Tôi muốn cảm ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã cho tôi bị cùi.

Tôi – bà Scaggs – lấy làm lạ, nói với người thông dịch cho tôi rằng, anh ta đã dịch sai. Không ai lại có thể cám ơn Chúa vì “được cùi” bao giờ. Người thông dịch như không để ý đến những gì tôi vừa nói. Anh tiếp tục dịch lại lời người bệnh đang giải thích. Người đó nói đến nguyên do khiến anh ta nói như thế:

– Nếu tôi không bị cùi, có thể tôi đã không bao giờ được biết Chúa Giêsu, không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi đang bị bệnh cùi, có thể tôi sẽ không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm nghiệm được tình yêu của Chúa luôn đổ tràn trên tôi, qua biết bao người đang săn sóc trợ giúp tôi!

Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,

Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay

những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.

Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình

để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở. Amen.

print