Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 3 Mùa chay

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 3 Mùa chay

 

Thứ hai sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay.

Thứ ba sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay.

Thứ tư sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay.

Thứ năm sau Chúa Nhật 3 mùa Chay.

Thứ sáu sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay.

Thứ bảy sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay.

Thứ hai sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 4, 24-30

(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.

Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.

SUY NIỆM 1: Băng qua giữa họ mà đi

Suy niệm:

Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe

về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu

khi Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen.

Nơi đây Ngài gặp lại những người đồng hương.

Họ ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng.

Họ muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23).

Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ:

“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24).

Đức Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ.

Như những ngôn sứ khác trong lịch sử Israel,

Ngài cũng không được đón nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê.

Họ nghĩ mình đã quá biết Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp,

biết quá khứ từ ấu thơ đến lúc trưởng thành.

Chính cái biết ấy, đúng nhưng không đủ,

lại trở thành một chướng ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai.

“Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22).

Đúng Ngài là con ông Giuse, một người thợ mộc.

Đúng ngài là ông thợ mộc độc thân người làng Nazareth.

Giêsu Nazareth là tên được ghi trên thập tự,

Nazareth sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác.

Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình.

Ngài quen biết những khuôn mặt trong hội đường này và yêu mến họ.

Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.

Ngài cho thấy mình không bị trói buộc bởi mối dây làng xã,

cũng không bị giữ chân bởi những người đồng bào cùng tôn giáo.

Để biện minh cho thái độ rộng mở của mình,

Đức Giêsu đã nhắc đến hành động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước.

Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa.

Bà này là một người dân ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại.

Êlisa, vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman.

Ông này là người dân ngoại, chỉ huy đạo quân của Syria.

Như thế các vị ngôn sứ nổi tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái.

Họ đã mở ra với dân ngoại.

Đức Giêsu cũng chẳng bị giới hạn bởi bất cứ biên cương nào.

Ngài chẳng dành cho quê nhà Nazareth một ưu tiên nào.

Phải chăng vì thế mà Ngài làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực?

Nỗi đe dọa lại đến từ chính những người đồng hương.

Làm sao chúng ta nhận ra và chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường

đang sống trong cộng đoàn chúng ta hôm nay?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

dân làng Nazareth đã không tin Chúa

vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.

Các môn đệ đã không tin Chúa

khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.

Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa

chỉ vì Chúa sống như một con người,

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa

hiện diện dưới hình bánh mong manh,

nơi một linh mục yếu đuối,

trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình

nơi những gì thế gian chê bỏ,

để chúng con tập nhận ra Ngài

bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con

để khiêm tốn thấy Ngài

tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: ĐỨC TIN TRONG ĐỜI THƯỜNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đức tin là ánh sáng giúp ta nhìn thấy những gì mắt thường không thấy hay khó thấy.

Mắt thường chỉ nhìn những gì lớn lao. Mắt đức tin nhìn những gì bé nhỏ. Chúa Giêsu dạy ta hãy biết nhìn những gì bé nhỏ. Như cánh chim sẻ trên bầu trời. Như bông hoa huệ ngoài đồng. Bé nhỏ nhưng lại tuyệt vời nói lên sự quan phong của Chúa Cha.

Mắt thường chỉ nhìn những gì may mắn. Mắt đức tin mới biết nhìn những gì thiệt thòi. Bá góa Sa-rép-ta đã tin nên dám chấp nhận thiệt thòi. Vì tin tiên tri Ê-li-a nên bà đã dám làm bánh cho vị tiên tri ăn trước. Đây là việc làm nhỏ nhoi nhưng đức tin thật lớn. Dám đánh cuộc cả mạng sống mình.

Mắt thường chỉ nhìn những gì lạ lùng. Mắt đức tin biết nhìn những gì quen thuộc bình thường trong đời sống. Người ta dễ thần tượng những người xa lạ. Người có đức tin thật sẽ biết thấy Chúa trong những gì quen thuộc bình thường trong đời sống hằng ngày. Dân làng Na-za-reth không tin Chúa Giê-su vì biết rõ gốc gác tầm thường của Người.

Tướng Na-a-man đã có đức tin. Dám tin người giúp việc cho mình. Đức tin hành động cụ thể. Nên ông không ngại đường xa, mang theo cả lễ vật lớn lao để ra mắt vị tiên tri. Và nhất là ông đã chấp nhận những việc tầm thường. Đó là tắm dưới sông 7 lần.

Mắt thường không thấy Chúa đâu. Mắt đức tin thấy Chúa trong mọi sự. Ga-ga-rin, khi lên mặt trăng, đã tuyên bố: “Tôi không thấy Thiên Chúa đâu cả”. Trái lại Amstrong, người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã đọc kinh Lạy Cha để cảm tạ Chúa. Newton, nhà thiên văn học lừng lẫy, khi quan sát bầu trời đầy sao đã thốt lên: Tôi thấy Chúa đi qua viễn vọng kính của tôi.

Có lẽ chúng ta từng kỳ vọng được có đức tin lớn lao như dám chịu tử đạo, đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi… Nhưng hôm nay Lời Chúa mời gọi tôi hãy có đức tin trong đời thường để nhìn thấy Chúa trong mọi sự và trong mọi người, trong những sự bé nhỏ, những con người tầm thường, trong những khó khăn thử thách ta gặp phải, những thất bại cay chua, những thiệt thòi đau xót. Đó mới là đức tin thật.

SUY NIỆM 3: Đời sống đức tin thật.

Trong cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn có kể câu chuyện sau:

Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Nhưng bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại. Mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động, thì bức tường cũng che mất ánh nắng tuyệt vời, bức tường trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.

Dân Do Thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ Tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận khiến niềm tin của họ trở nên khô cằn mất sức sống. Xây lên bức tường để bảo vệ mình hoá ra lại tự hại chính mình.

Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ đó trong bài Tin mừng hôm nay. Người Do Thái trong Hội đường Nazaret đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của nhóm người này, nhưng kỳ thực nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã sao chép nguyên bản việc làm ấy. Tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin nhưng niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Đó là thứ niềm tin mà tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, trung thành”.

Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận khiến người Do Thái đã mất đi Chúa Giêsu –nền tảng của niềm tin. Cũng vậy, nếu Kitô hữu chỉ đóng khung trong một nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoà không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.

Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương, Chúa không phải là Đấng bắt con người ta phải kính mến, nói đúng hơn Thiên Chúa là Đấng mà con người phải để cho Ngài yêu thương vô hạn. Tin là chấp nhận Đức Kitô và quyết tâm sống chết cho Ngài.

Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng đón nhận để tìm được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Không một tiên tri nào

Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc. 4, 24)

Lại thêm một lần đòi dấu lạ. Con người nổi dậy chống Thiên Chúa, họ đòi Ngài phải chứng tỏ sứ vụ tiên tri của Ngài bằng cách làm hài lòng và thỏa mãn họ. Nhưng Thiên Chúa phải cúi phục trước con người sao? Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng Ngài chỉ ban cho kẻ tin kính vâng lời Ngài, cho kẻ trông chờ trong kiên nhẫn âm thầm. Ngài đòi có đức tin, vâng lời nhận lãnh biết ơn đối với tất cả tâm tình của họ.

Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su, vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.

Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.

Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ: Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân, chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.

Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương. Ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.

Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.

J.M

SUY NIỆM 5: KHÔNG CHỪNG SẼ MẤT ƠN CỨU ĐỘ VÌ KIÊU NGẠO! (Lc 4,24-30)

Quê hương đã trở nên máu thịt cho mỗi người. Nó chẳng khác gì tâm tư của nhà thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.

Với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì: “Quê hương là chùm khế ngọt, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Vì thế, trong dân gian, người ta không ngớt khen ngợi quê hương và tự hào: “Không nơi đâu đẹp bằng quê hương mình”; hay để nói về tình nghĩa quê hương, người ta cũng thường nhắc nhở nhau: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.

Những tâm tình ấy cho chúng ta thấy một điều là: nơi mà mình đã từng chôn nhau cắt rốn sẽ theo ta suốt cuộc đời, và dù có đi muôn phương ngàn lối, nhưng ai cũng chỉ có một chốn để về, đó là quê hương.

Có lẽ mang trong mình tâm tình ấy, nên Đức Giêsu cũng đã trở về quê hương của Ngài, nhưng điều oái oăm thay, dân làng đã không đón nhận Ngài, ngược lại, họ tìm cách để hãm hại Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã nói một câu bất hủ mang tính tiên tri: “Không tiên tri nào được sùng mộ nơi quê hương”.

Thật thế, người đương thời với Đức Giêsu, họ không thể chấp nhận một con người bình dân học vụ như thế mà lại là Đấng Cứu Thế! Dưới mắt họ, Ngài chỉ là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria, bản thân Ngài không hơn không kém một thanh niên như mọi thanh niên khác trong làng.

Chính sự coi thường, khinh khi, nên lòng họ ra chai cứng, không còn khiêm nhường, nhạy bén để nhận ra Đấng Uy Quyền, là Chúa Tể trời đất đang ở giữa họ, vì thế, họ đã khước từ chân tính đích thực của Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: họ sẽ không được bằng dân ngoại, và ơn cứu độ lẽ ra đến với họ trước tiên và phong phú, nhưng khi đã từ chối thì ơn đó sẽ đến với dân ngoại.

Xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Dothái “thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ” (thánh Augutstinô).

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến ơn cứu độ. Cần tránh thói hư là: “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”; hay  “bụt nhà không thiêng”. Hãy biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì ghen ghét, hiềm khích hay sợ người anh em trổi trang hơn mình mà ra tay làm hại hay nói năng những lời nguy hại đến thanh danh tiếng tốt của họ! Làm như thế, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương với Đức Giêsu, và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ mất ơn cứu độ vì không thuộc về Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết tôn trọng và yêu mến mọi người. Nhất là những người cùng sống và làm việc trên quê hương với chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Vượt thẳng định kiến, để sống yêu thương

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố đạo của chúng tôi là sai lạc”. Và một người Á đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin”. Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn.

Suy niệm

Dân làng Nadarét đã nghe về những điều Chúa Giêsu đã giảng và làm cho toàn dân, nay trực tiếp nghe những lời giảng dạy của Ngài, dân làng Nadarét ngưỡng mộ nhưng lòng mang nặng định kiến trong ghen tị như thánh Giêrônimô nhận định: “Sự đố kỵ ghen tỵ là phổ biến giữa các cư dân cùng một quê hương. Họ nhớ lại thời thơ ấu của Người mà họ xử sự ngay cả khi họ không có kinh nghiệm cho chính họ khi bằng tuổi này”.

Dân làng Nadarét, theo cắt nghĩa của thánh Phêrô Kim Khẩu: “Ngưỡng mộ trí tuệ sự khôn ngoan, những việc làm và lời gỉảng dạy của Đức Giêsu, nhưng họ biết cha mẹ của Ngài, và sự gần gũi này ngăn cản họ nhìn nhận thiên tính của Ngài. Một đám mây dày trước mặt trời, đêm đen không mang lại nhiều đêm tối trên bầu trời bằng sự đố kị ghen ghét trong tâm hồn”.

Chúa Giêsu đã trả lời thái độ của họ: “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của vĩ nhân vì “quen quá hóa lờn” như thành ngữ có câu: “ Bụt nhà không thiêng”.

Chúa Giêsu qua hai sự kiện trong Cựu ước nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđôn dân ngoại (1V 17,10-15), vì bà đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi (2V 5,1-19), còn những người đồng quê với tiên tri lại cứng lòng tin.

Dân làng Nadarét dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” mà trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô xuống vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau… mang con tim hận thù.

Giải phóng mọi định kiến trong ghen ghét để được tự do trong suy nghĩ và phán đoán, để thoát khỏi bị những hành động loại trừ nhau như một thứ nô lệ hiện hữu trong tim. Hình ảnh Chúa Giêsu băng qua giữa họ mà đi (x. Lc 4,30), là hình ảnh gợi trong tâm trí của chúng ta cố gắng vượt thẳng mọi định kiến, loại bỏ mọi sự loại trừ để đi trong yêu thương.

Ý lực sống: “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu”… (1Cr 13,4-5).

 Suy Niệm 7: Chúa bị quê hương từ chối

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu trở về quê hương, vào hội đường Nagarét ngày thứ bảy. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri, để Ngài đọc và giải thích. Lúc đầu họ cảm phục tài hùng biện và dáng vẻ thuyết phục của Ngài. Nhưng sau, họ bực tức, vì thấy Ngài ưa thích Capharnaum, nơi dân ngoại nhiều hơn quê mình. Trước thái độ đó, Đức Giêsu tỏ bày cho dân làng biết sứ vụ thiên sai của Ngài.

Đồng thời Chúa cũng cho họ biết rằng Ngài  không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng nhận ơn Ngài.

  1. “Tôi bảo thật các ông…”

Đức Giêsu dựa vào câu ngạn ngữ này để diễn tả thân phận của Ngài tại quê hương:

– Gần chùa gọi bụt bằng anh.

– Bụt nhà không thiêng

– Quen quá hoa nhàm.

Thật vậy, những người đồng hương trong làng Nagiarét tưởng rằng, họ đã biết rõ Ngài: gốc gác, lý lịch; người đã từng chung sống, đọc kinh cầu nguyện chung từ tấm bé. Nên họ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà không thấy được Thiên tính của Ngài để tin vào Ngài.

  1. “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay…”

Để dẫn chứng cho ý nghĩa cho câu ngạn ngữ trên đây, Đức Giêsu đã trưng ra hai sự kiện có tính lịch sử, để hiểu:

– Tiên tri Êlia đã không được sai đến để cứu đói cho bà góa nào trong dân Israel, ngược lại, cứu đói cho bà góa thành Sarepta miền Siđon là dân ngoại.

– Tiên tri Êlisê cũng không được sai đến chữa lành bệnh phong cho người nào trong dân Israel, nhưng lại được sai đến chữa trị cho Naaman, người Syria, cũng là dân ngoại.

Hai sự kiện trên muốn nêu lên rằng: các tiên tri tuy thuộc dân Israel, nhưng không được dân mình thiện cảm, lại được thiện cảm nơi dân ngoại, vì thế, dân ngoại được hưởng nhờ. Cũng vậy, Đức Giêsu không được thiện cảm nơi người đồng hương, vì họ đòi hỏi hơn là đón nhận Người. Còn dân ngoại ở Capharnaum tin nhận Ngài, nên được hưởng nhờ ân sủng qua các phép lạ Ngài làm.

  1. “Ơn cứu độ được dành cho mọi người”.

Qua sự kiện của tiên tri Êlia và Êlisê, chúng ta nhận ra rằng: Điều kiện để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa, là đức tin và ý hướng tốt lành. Vì vậy, dù là Israel hay dân ngoại, nếu biết tin nhận vào Đức Giêsu, và có ý hướng tốt lành thì đều được hưởng ơn cứu độ.

Qua hai sự kiện trong Cựu ước, Đức Giêsu nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận  dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđon dân ngoại, vì bà tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi, còn những người đồng quê với tiên tri lại càng cứng lóng tin.

  1. Hãy tránh thành kiến cố hữu.

Dân làng Nazareth dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” và trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô vào vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta  cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau… mang con tim hận thù.

Như chúng ta đã biết, Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì lại vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.

  1. Truyện: Sư huynh hỗn xược.

Ở  Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement  chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.

Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.

Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.

Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ. Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?

… Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh… thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh… để thực tập một phen!

Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.

Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mảnh liệt đến chừng nào (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã gặp chống đối ngay tại quê hương, nơi những người thân không chấp nhận đường lối và cách thức Chúa thể hiện sứ mạng cứu độ. Chúng ta đừng bao giờ khước từ hoặc chống lại Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ người nào có đức tin mới hiểu được đường lối của Chúa. Và chỉ kẻ nào có lòng yêu mến mới đón nhận được tình thương của Chúa. Chúa ơi, chắc chắn Chúa rất đau lòng khi đứng trước thái độ của người đồng hương. Họ không đón nhận, không nghe những lời Chúa giảng dạy, không muốn sự có mặt của Chúa. Họ đã đuổi Chúa ra khỏi hội đường, ra khỏi thành, nhẫn tâm đưa Chúa lên triền núi để xô xuống vực thẳm.

Lạy Chúa, con thấy hình ảnh đó vẫn diễn ra hằng ngày trong bối cảnh thế giới hôm nay, trong tầng lớp Kitô hữu là những người thân thuộc của Chúa. Chúa đang bị từ chối nơi biết bao người nghèo hèn, nơi những kẻ bị bỏ rơi, nơi những quốc gia đang bị kỳ thị chủng tộc, phân biệt giàu nghèo, hận thù dai dẳng.

Chính con cũng bao lần từ chối Chúa khi con từ chối giúp đỡ anh em. Con đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn khi con ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, khi con không chịu hồi tâm, không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa. Con cũng đã không đón nhận Chúa khi con không chấp nhận Ý Chúa mà chỉ muốn Chúa đáp ứng lời con cầu nguyện theo ý con.

Lạy Chúa, xin tha thứ những lỗi lầm của con và xin cho con luôn mở rộng tâm hồn để đón tiếp Chúa. Xin ban cho con một trái tim yêu thương biết đón nhận Chúa nơi anh em, để trong từng giây từng phút của ngày sống, trong từng công việc dù nhỏ bé, mọn hèn, con đều có Chúa hiện diện bên con. Amen.

Ghi nhớ: “Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống…)

  1. Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho Naaman một người ngoại đạo.
  2. Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện ngôn sứ Êlia giúp cho một bà góa – cũng ngoại đạo- ở xứ Sarépta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
  3. Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng Chúa không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.

B. Suy niệm (…nẩy mầm)

  1. Vì kiêu căng, ban đầu, tướng Naaman không chịu đến với một ngôn sứ xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông không chịu đi tắm ở sông Giođan nhỏ bé. Nhưng sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê và đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
  2. Đối với những người đồng hương ở Nadarét, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa chọn Nadarét làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: nếu họ không tin thì Ngài không làm phép lạ cho họ.
  3. Có lẽ mãi đến thời nay nhiều người vẫn còn nghĩ cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay vẫn có những người như bà góa xứ Sarépta và tướng quân Naaman được Chúa thương đến. Còn những người có đạo cũng có thể giống như dân làng Nadarét, bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi”.
  4. Kết thúc không đẹp của câu chuyện Tin Mừng hôm nay là do những người làng Nadarét có thái độ chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ chờ được ban ơn, không biết mở rộng cõi lòng để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đàng cần ơn cứu độ.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Bài đọc I kể chuyện tiên tri Êlisê chữa bệnh cùi cho ông Naaman, một người ngoại đạo.

Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện tiên tri Êlia giúp cho một bà góa – cũng ngoại đạo – ở xứ Sarepta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.

Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng, Chúa không thiên vị ai. Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù là người ngoại nhưng nếu họ tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng lại không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.

Chúng ta thấy ban đầu vì kiêu căng, tướng Naaman đã không chịu đến với một tiên tri xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông đã không chịu đi tắm ở sông Giodan mà ông cho là quá nhỏ và thua kém xa những con sông trong nước của ông. Thế nhưng, sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê, làm theo lời chỉ dạy của Êlisê mà ông đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy những nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.

Đối với những người đồng hương ở Nazareth, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa đã chọn Nazareth làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là ơn đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: vì họ không tin nên Ngài không làm phép lạ cho họ.

  1. Có lẽ ngày nay nhiều người cũng vẫn còn nghĩ một cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại đạo” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra, Thiên Chúa là Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay, chẳng thiếu gì những người như bà góa xứ Sarepta và tướng quân Naaman được Chúa thương. Còn những người có đạo tự hào mình là người có đạo, coi chừng lại bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi” (Lc 4,30) giống như ở làng Nazareth thuở xưa.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay kết thúc không có hậu, không phải vì Chúa muốn như thế, nhưng là do thái độ của những người làng Nazareth chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ muốn được ban ơn, mà không biết mở rộng cõi lòng ra để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đang cần ơn cứu độ bên cạnh mình.

Trong một cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn, có diễn lại câu chuyện sau: một thanh niên đang lim dim đôi mắt để tận hưởng những ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do những tiếng ồn ào của đám trẻ. Tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại, mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường cách âm để ngăn chặn các âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn dần, cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động lúc đó anh mới bằng lòng. Thế nhưng, anh có ngờ đâu rằng, khi ngăn chặn được hết các âm thanh thì lúc đó bức tường cũng che mất hết ánh nắng tuyệt vời. Bức tường đã trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.

Dân Do Thái cũng đã được tắm gội trong ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Họ tưởng đã xây lên được bức tường để bảo vệ niềm tin của mình nhưng hóa ra lại tự hại chính mình.

Nhiều khi chúng ta tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Đó là thứ niềm tin được chứng minh bằng tấm giấy rửa tội, chứ không phải đức tin của đời sống.

Nếu chỉ đóng khung trong một số nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ xa rời cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em như vậy.

Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng để đón nhận được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.

Lạy Chúa,

Xin cho con một quả tim quảng đại như Chúa

vượt lên mọi tình cảm tầm thường

để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con một quả tim đủ lớn

để yêu những người con không ưa.

và đôi tay rộng mở

để có thể ôm cả những kẻ thù. Amen

Thứ ba sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 18, 21-35

Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”

Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ.

Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.

Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện.

Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.

Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.

SUY NIỆM 1: Hết lòng tha thứ

Suy niệm:

“Tôi viết cho anh, người bạn vào giây phút cuối của đời tôi…

Vâng, tôi cũng xin nói với bạn tiếng Cám ơn và lời Vĩnh biệt này…

Ước gì chúng ta, những người trộm lành hạnh phúc,

được thấy nhau trên Thiên đàng, nếu Thiên Chúa muốn,

Người là Cha của hai chúng ta.”

Đây là những câu cuối trong di chúc của cha Christian de Chergé,

tu viện trưởng của một đan viện khổ tu ở Tibhirine, nước Algérie, châu Phi.

Cha viết những câu này vào cuối năm 1993 cho một người nào đó sẽ giết mình.

Ngày 21-5-1996, cha đã bị nhóm Hồi giáo vũ trang chặt đầu

cùng với sáu tu sĩ khác trong đan viện.

Cha Christian gọi kẻ sẽ giết mình là bạn, chứ không phải là kẻ thù hay sát nhân.

Cha coi mình cũng là tên trộm lành chẳng khác gì anh ta, cũng cần được tha thứ.

Cha chỉ mong gặp lại anh ta trên Thiên đàng,

vì cả hai đều là con, cùng được tha vì được yêu bởi Thiên Chúa.

Dụ ngôn hôm nay hẳn đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của cha Christian.

Có hai người mắc nợ, cả hai đều là đầy tớ của cùng một ông chủ.

Một người mắc nợ ông chủ một món nợ cực lớn, mười ngàn yến vàng.

Một người mắc nợ đồng bạn mình một món nợ nhỏ, một trăm quan tiền,

mà người đồng bạn ấy lại chính là người đang mắc nợ ông chủ.

Cả hai đều không trả nổi và năn nỉ xin hoãn.

Ông chủ chạnh lòng thương tha luôn món nợ cho người thứ nhất.

Nhưng người này lại dứt khoát không chịu hoãn lại cho người thứ hai.

Anh ta đã tống bạn mình vào ngục.

“Đến lượt ngươi, ngươi lại không phải thương xót người đầy tớ đồng bạn

như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (c. 33).

Lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa như dòng suối chảy vào đời tôi.

Thương xót tha thứ chính là để cho dòng suối ấy chảy đi,

chảy đến với người xúc phạm đến tôi nhiều lần trong ngày.

Tôi tha bằng chính sự tha thứ mà tôi đã nhận được từ Thiên Chúa.

Không tha là giữ dòng suối đó lại, và biến nó thành ao tù.

Không tha là đánh mất cả những gì mình đã nhận được.

Người mắc nợ ông chủ nhiều, đã được tha một cách quảng đại bất ngờ,

nhưng sự tha thứ đó đã bị rút lại.

Chỉ ai biết cho đi sự tha thứ mới giữ lại được nó cho mình.

Chúng ta đều là người mắc nợ và đều là đầy tớ của Thiên Chúa.

Tôi nợ Chúa nhiều hơn anh em tôi nợ tôi gấp bội.

Sống với nhau tránh sao khỏi có lúc thấy mình bị xúc phạm.

Chỉ tha thứ mới làm cho tôi đi vào được trái tim của Thiên Chúa nhân hậu.

Chỉ tha thứ mới làm tôi được nhẹ lòng, và người kia được giải thoát.

Cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi

mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên

để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang

để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường

để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai

để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề

để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.

  1. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: THA THỨ

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con người vốn yếu hèn. Lầm lỗi là con người. Biết sống là biết tha thứ.

Tha thứ là biết Chúa. Thiên Chúa nhân hậu, nhẫn nại, giầu lòng xót thương và luôn tha thứ. Ta tội lỗi ngập tràn. Nhưng Chúa luôn tha thứ. Dụ ngôn hôm nay cho thấy sự tha thứ của Chúa là không giới hạn. Nợ 10 ngàn yến vàng là nợ quá lớn không ai có thể trả nổi. Vậy mà chỉ cần một lời van xin, Thiên Chúa tha ngay. Người tha thứ dễ dàng, tức khắc, không điều kiện, và vĩnh viễn. Nhận biết Thiên Chúa rộng lượng, giầu lòng thương xót, luôn luôn tha thứ sẽ dẫn ta đến biết mình.

Tha thứ là biết mình. Khi biết mình yếu đuối, ta dễ thông cảm với người khác. Nếu người khác chấp nhất tội lỗi của ta, ta sẽ không sống nổi. Vì ta cũng đã lỗi phạm đến người khác nhiều lần. Biết mình cần được tha thứ, ta sẽ dễ tha thứ cho người khác. Nhưng trên hết khi tha thứ ta nhận được ơn tha thứ của Chúa. Chúa tha thứ cho ta nhưng với điều kiện ta cũng phải tha thứ cho anh em. Cho người khác 100 quan tiền để nhận được 10 ngàn yến vàng. Ta được lợi lớn.

Tha thứ như thế là biết sống. Đời sống thành công là đời sống an vui hạnh phúc. Ta an vui khi mọi người chung quanh cùng an vui. An vui chỉ có được với những tâm hồn quảng đại, tha thứ. Chúa là yêu thương, là tha thứ. Không yêu thương tha thứ, ta không thể phù hợp với Thiên Chúa, không thể lãnh nhận được hạnh phúc. Con người là bất toàn. Muốn sống chung cần tha thứ và được tha thứ. Đó là biết sống, tạo hạnh phúc cho chính mình.

Tóm lại, tha thứ là biết yêu. Xét cho cùng tha thứ chính là tình yêu. Đây là cốt lõi của vấn đề. Tha thứ chỉ có được khi có tình yêu. Chúa tha thứ cho ta vì yêu thương ta. Và Chúa dạy ta phải tha thứ cho tha nhân. Vì tha nhân không phải người xa lạ, mà là anh em ta. Phê-rô nhận điều này khi hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?” Người khác là anh em ta trong gia đình Thiên Chúa. Anh em phải có tình yêu thương. Đó chính là giới răn của Chúa. Tình yêu là không giới hạn nên phải tha thứ mãi mãi. Còn tha thứ là còn yêu thương. Còn yêu thương là còn thuộc về Chúa, còn là con cái trong nhà Cha, còn là công dân Nước Trời. Hết tha thứ là hết yêu thương, không còn là con Cha yêu thương, không còn là công dân trong Vương quốc tình yêu.

SUY NIỆM 3: Tha thứ

Tha thứ đến 7 lần, đó là tha thứ theo đúng công bằng của lề luật, của lý luận con người. Nhưng Chúa Giêsu còn đi xa hơn bằng cách nói: tha thứ cho đến 70 lần bẩy.

Trong dụ ngôn người đầy tớ mắc nợ, người này xin chủ chờ thêm thời gian nữa anh sẽ trả hết, nhưng chủ đã tha luôn cả số nợ. Thế mà anh đã không hành xử như vậy đối với người bạn chỉ mắc nợ anh một trăm bạc. Chúa Giêsu đã đưa ra bài học từ dụ ngôn này: “Cha Ta trên trời sẽ xử với các người như thế nếu mỗi người trong các ngươi thật lòng tha thứ cho anh em mình”.

Chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta đã sống thế nào về điều chúng ta thường cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

Về vấn đề này tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau:

“Tính phê bình chỉ trích là một trở ngại lớn cho đời sống siêu nhiên. Chỉ tiêu cực phàn nàn kẻ khác, con quấy rầy họ, và muôn đắng cay trong lòng con. Va chạm người khác là sự thường. Sống trong một xã hội không va chạm nhau chỉ có thể là Thiên đàng. Một hòn đá nhờ va chạm mà bóng láng hơn, sạch đẹp hơn. Phàn nàn là bệnh dịch hay lây, triệu chứng là bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ khí kết hiệp với Chúa. Bác ái không chỉ có yêu thương và tha thứ. Bác ái là cả một hành động để tạo bầu khí mới giữa cộng đồng xã hội, quốc gia và quốc tế, biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa. Chỉ giây phút hiện tại là quan trọng. Đừng nhớ ngày hôm qua của anh em để chỉ trích. Đừng nhớ ngày hôm nay của con để khóc lóc, nó đã vào dĩ vãng. Đừng nhìn ngày mai của con để bi quan, nó còn trong tương lai. Giao quá khứ cho lòng nhân từ của Thiên Chúa, giao tương lai cho sự quan phòng của Ngài và giao tất cả cho tình yêu Chúa”.

Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên con đường canh tân cuộc sống đức tin và đức ái. Xin Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày được nên giống Chúa hơn để xây dựng hoà bình và hoà hợp trong môi trường chúng ta sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Tha thứ vô bờ

Bấy giờ ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” (Mt. 18, 21-22)

Khi Phê-rô hỏi: “Nếu anh em cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ mấy lần? Có phải bảy lần không”. Thế là ông tốt lắm rồi. Ông đã vượt mức luật cũ: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Còn chúng ta, có ai đã tha thứ đến bảy lần chưa?

Những trường phái Rabbi đã định mức tha thứ thế nào? Tha cho vợ mấy lần, cho con cái, cho anh chị em mấy lần? Họ cãi nhau xem phải ấn định mấy lần, phải tha thứ, luật của trường phái nào mới đúng?

Nhưng Đức Giê-su không đứng đầu trường phái nào, với Người, không có mức nào hết, vì Người không tự đóng khuôn vào khu vực số lượng nhiều hay ít. Chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ vô cùng thì chúng ta phải biết tha thứ không tính toán.

Khi bạn tha thứ, bạn đừng nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào Thiên Chúa và nhìn lại cuốn sổ ghi lỗi của bạn. Chỉ có kẻ vô tội mới được phép luận tội và tha thứ thôi. Tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và được thương xót tha thứ, cho nên chúng ta đo lòng thương xót của mình đối với kẻ có nợ chúng ta là tự phụ. Chúng ta cần nhớ bài học này: Theo đức tin, trước nhất chúng ta phải luôn luôn nhìn lên Chúa trước khi xét đoán anh em mình, và lúc đó chúng ta sẽ được đầy lòng nhân hậu khoan dung êm ái và yêu thương.

Lời của Đức Giê-su ban đầu có vẻ kỳ dị, nhưng nhìn kỹ, thì thấy khôn ngoan biết bao … Trong thế giới pháp chế trói buộc nặng nề này, không còn quan tâm đến con tim, thì tốt lành biết bao khi được nghe những bài diễn văn về lòng thương yêu tha thứ.

J.G

SUY NIỆM 5: HÃY BIẾT “YÊU” NHƯ CHÚA (Mt 18, 21 -35)

Có một anh bạn hỏi một người Công Giáo rằng: “Nếu để nói một câu ngắn gọn nhất nhằm tóm gọn toàn bộ giáo lý về đạo Công Giáo thì bạn sẽ nói câu nào?”; bạn trẻ Công Giáo trả lời, đó là chữ: “Yêu”.

Thật vậy, chữ “yêu” là chữ cốt lõi của đạo Công Giáo. Vì yêu, Thiên Chúa dựng nên trời đất và con người. Vì yêu, Ngài đã cứu thoát họ khỏi Ai Cập, đưa về Đất Hứa. Vì yêu Thiên Chúa đã gửi các ngôn sứ đến để dạy dỗ dân. Vì yêu, Thiên Chúa đã ban Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Đấng ấy là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã dạy dỗ, yêu thương, tha thứ cho kẻ thù và cuối cùng, vì yêu nên Đức Giêsu đã chết cho người mình yêu.

Hôm nay, Tin Mừng một lần nữa xác định căn cốt đó khi trình thuật cuộc nói chuyện giữa Đức Giêsu và Phêrô. Khởi đi từ câu hỏi của Phêrô: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.

Tha như thế là tha mãi, tha không giới hạn, không điểm dừng, không so đo tính toán thiệt hơn. Tha như thế là đi vào mối tương quan với Thiên Chúa là tình yêu, và làm toát lên đạo mới, “đạo yêu thương”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tha thứ và tha thứ không ngừng nghỉ!

Tha thứ như thế thì mới được Thiên Chúa tha thứ cho mình.

Tha thứ là một điều rất khó, nhưng nó là tuyệt đỉnh và cao quí nhất mà Đức Giêsu đã cống hiến cho con người.

Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì nhờ tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho loài người là Thiên Chúa của tha thứ  không ngừng. Vì thế, chỉ có một mình Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người: “Ta không bảo con phải tha đền bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy”, tức là tha không ngừng.

Nếu có khó khăn trong việc tha thứ, ấy là chúng ta vẫn nhìn vào sức nặng của sự xúc phạm mà đối phương đã gây ra cho ta, trong khi đó, lẽ ra chúng ta phải nhìn vào tình thương của Thiên Chúa đối với mình khi Ngài tha thứ tội lỗi cho ta.

Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa dạy chúng con hôm nay thật tuyệt vời, vì nếu chúng con không tha thứ thì làm sao chúng con được Chúa thứ tha trong khi chúng con là kẻ có tội? Xin Chúa ban cho chúng con có lòng nhân hậu như Chúa là Đấng Nhân Hậu. Biết yêu tha thiết để sẵn sàng tha thứ không ngừng nghỉ như Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Tha đến đến bảy mươi lần bảy

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Văn hào Ernest Hemingway đã kể câu chuyện về một người cha và cậu con trai đang ở lứa tuổi thiếu niên. Mối quan hệ cha con của họ không được tốt đẹp và luôn căng thẳng. Cuối cùng, sau một trận cãi vã kịch liệt, cậu bé đùng đùng bỏ nhà ra đi.

Tuy giận dữ và đau lòng, nhưng người cha biết rằng con mình rất cần sự uốn nắn và dạy dỗ để trưởng thành. Vậy nên, ông đã bôn ba khắp nơi để tìm kiếm đứa con nổi loạn. Cuối cùng, khi tới Madrid, trong nỗ lực cuối cùng của mình, ông cho đăng một thông cáo trên báo: “Paco thương yêu, hãy đến gặp cha chiều mai trước cửa tòa soạn. Mọi tội lỗi đều được tha thứ. Cha yêu con. Cha của con”.

Chiều hôm đó, người cha đến tòa soạn thật sớm vì ông không muốn trễ giây phút nào để gặp đứa con thân yêu của mình. Và điều bất ngờ là, tới đó, ông đã gặp… 800 cậu bé tên Paco. Cả 800 cậu bé này đều đã bỏ nhà ra đi và đều đang mong đợi sẽ gặp được người cha rộng lượng của mình ở đó với vòng tay dang rộng yêu thương.

Suy niệm

Sự khoan dung tha thứ là đỉnh cao của đức ái Kitô giáo mà Kinh Thánh đã dạy: Yêu thương tha thứ trước lỗi lầm của anh em: Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Không phải một màlà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,21-22; Lc 23,34), nghĩa là luôn tha thứ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương sống động của lòng thứ tha khi trên thập giá Ngài tha thứ cho những kẻ giết hại mình (x. Lc 23,34).

Trước lỗi lầm của anh em mà họ đã chân thành nhận lỗi. Như Chúa Giêsu dạy người môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập lại sự giao hảo giữa hai người.

Hơn nữa, sống tha thứ con giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe, thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.

Trong bình diện tâm linh, tương quan ơn cứu độ, sách Huấn Ca dạy: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha” (Hc 28,2). Chúa Giêsu qua kinh Lạy Cha cũng dạy: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12; Lc 11,4). Tha nợ do đòi hỏi bó buộc của Thiên Chúa, Ngài tha nợ cho chúng ta như chúng ta biết đã tha thứ cho anh em. Đây không chỉ là một điều kiện mà còn là một thái độ chuẩn bị: Khi tha thứ cho anh em, chúng ta cũng ao ước được Chúa tha thứ rộng rãi cho mình. Người có tha thứ mới thật lòng muốn được tha thứ và mới đáng nhận được ơn tha thứ.

Lạy Chúa, con khẩn thiết xin ơn tha thứ, hãy cho con có sức mạnh, can đảm để con tha thứ cho anh em và chính con cũng được ơn thứ tha.

Ý lực sống: “Vì nhân ái nên lòng khoan dung độ lượng thứ tha là của bậc quân tử. Quân tử không tưởng, không nhớ lỗi lầm của người khác, mà chú trọng giáo hóa người lầm lỗi biết hối cải và nên người – quân tử vị tiểu nhân tức là người lầm lỗi là “quân tử chưa thành và sẽ thành” (Khổng Tử).

Suy Niệm 7: Hãy tha thứ cho nhau

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Hôm nay Đức Gêsu dạy ta về sự tha thứ. Dụ ngôn về sự tha thứ nhắm tới đời sống cộng đoàn. Quả vậy, trong đời sống chúng ta, vì tính tình xung khắc, nên đã gây ra nhiều điều phiền toái, chia rẽ, đố kỵ, thù oán… Nhưng nhờ sự tha thứ, đời sống chung lấy lại được hòa khí, bình an và hiệp nhất. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta vài khía cạnh quan trọng:

-Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta  cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều. Ta không thể đền tội cho đủ nhưng Chúa vẫn tha vì Ngài “động lòng thương”.

– Nhưng chúng ta củng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.

– Ngoài ra hãy khôn ngoan tha lỗi nhỏ cho anh em để Chúa sẽ tha thứ những lỗi lầm lớn của chúng ta đối với Chúa.

  1. Tha thứ xem ra không phải là điều tự nhiên đối với con người. Phải trải qua một thời gian lâu dài, nhân loại mới nhận ra được ý nghĩa và sự cần thiết của tha thứ. Xã hội nguyên thủy không dung tha cho tội phạm của cá nhân.

Sách Khởi nguyên nói đến sự trừng phạt mạnh hơn 70 lần 7 lỗi phạm của con người. Sang đến sách Xuất hành, người ta thấy có một tiến bộ quan trọng khi luật Maisen đã ra luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ít ra ở đây hình phạt cũng tương xứng với lỗi phạm. Sách Lêvi đi xa hơn, tuy không bắt buộc phải tha thứ, nhưng sách này nói đến tình liên đới giữa anh em với nhau và cấm không được nại đến việc tố tụng để giải quyết những tranh chấp giữa anh em với nhau. Như vậy, ít ra sự tha thứ cũng đã manh nha trong quan hệ ruột thịt (Mỗi ngày một tin vui).

  1. Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại. Cốt lõi giáo huấn của Ngài là tình yêu, mà cao điểm là sự tha thứ. Chính Ngài đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Vậy tha thứ bao nhiêu lần là tối đa, hay tha thứ bao nhiêu lần là không thể tha thứ được nữa? Xưa kia ông Phêrô cũng đã băn khoăn như thế và ông cho rằng chỉ tha thứ đến 7 lần là tối đa, vì như thế là đã vượt quá sự khuyến cáo của các luật sĩ đến bốn lần rồi: “Quá tam ba bận”. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: Tha thứ thì không có giới hạn, không phải ba lần, bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Chúa không có ý bảo là 490 lần mà có nghĩa là phải tha thứ luôn luôn, phải tha thứ mãi mãi, bao lâu người ta còn xúc phạm đến mình thì còn phải tha thứ.
  1. Chính Đức Giêsu đã làm gương sống động của lòng tha thứ khi trên Thập giá Ngài tha thứ cho nhưng kẻ giết hại mình. Vì vậy Đức Giêsu dạy môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập sự giao hòa giữ hai người.

Hơn nữa, sống tha thứ còn giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.

  1. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết: Nợ nần của chúng ta đối với Chúa hết sức lớn lao, đó là tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Chúa rất kinh khủng, và tự sức mình chúng ta không thể nào thanh toán nổi. Trong khi đó món nợ của anh em mắc với chúng ta chỉ là những lỗi lầm không đáng kể, thế mà chúng ta lại khắt khe với anh em: xin không tha, trả không nhận, rồi bực tức ngày đêm, để lòng hờn giận, tìm dịp báo thù, thật là quá tệ. Kết quả là chúng ta chẳng được Thiên Chúa tha thứ, vì chính chúng ta đã tự lên án mình, khi chúng ta không tha thứ cho người khác. Chúa cũng chẳng tha cho chúng ta.
  2. Truyện: Gương Bà Coritanbun tha thứ.

Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.

Thế nhưng vào một Chúa nhật nọ, sau khi kêu gọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ Bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.

Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra  vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây Bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng im lặng, tay không thể nào bắt tay người đến xin Bà tha thứ.

Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, Bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thư cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa. (Món quà ngày Giáng Sinh).

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Hãy tha thứ cho nhau, vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thật quảng đại vô cùng. Không những Chúa đã tác tạo nên con, ban ơn để con được sống, mà ngay cả khi con xúc phạm đến Chúa, Chúa cũng tha thứ cho con. Cuộc đời con là những chuỗi ngày tội lỗi và phản bội tình yêu của Chúa. Nhưng Chúa đã tha thứ cho con từ khi con chưa có mặt trên đời này. Từ ngày con chưa sinh ra, tình yêu của Chúa đã lấp đầy trên con. Rồi từng ngày trong cuộc sống, tình yêu Chúa hằng ấp ủ con. Tấm lòng Chúa thật bao la vô bờ bến.

Hôm nay đây, khi đứng trước tấm lòng bao la ấy, đứng trước một tình yêu ngất trời như vậy, con chợt thấy lòng mình hẹp hòi nhỏ nhoi làm sao! Con hẹp hòi nhỏ nhoi với Chúa và với anh em con. Chúa đã tha thứ cho con tất cả. Vậy mà chúng con vẫn chưa biết tha thứ cho nhau, vẫn chấp nhất nhau trong từng lời nói, và từng việc làm nhỏ bé. Bao nhiêu cuộc chiến tranh khốc liệt, bao nhiêu sự đổ vỡ không hàn gắn được, tất cả đều xuất phát từ tấm lòng nhỏ nhen ích kỷ của chúng con. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con biết tha thứ cho nhau.

Chúa dạy con làm việc bác ái, con có thể làm được. Nhưng Chúa dạy con tha thứ cho anh em thì lạy Chúa, con thấy thật khó. Bởi vì khi cho đi tiền bạc của cải, con cho những cái ở ngoài con. Còn khi cho đi sự tha thứ, con phải lấy chính lòng con để trao tặng cho người khác. Có nghĩa là con chấp nhận để người khác cào cấu vào tim con. Xin Chúa ban ơn giúp sức để con biết tha thứ cho anh em con. Con tha thứ không những để được Chúa tha thứ, mà con muốn tha thứ, vì trước hết chính Chúa đã tha thứ cho con hết rồi. Xin cho con biết sống xứng đáng với lòng quảng đại của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)
  2. Bài đọc Cựu Ước trích lời cầu xin của Adaria. Khi đó dân Do Thái đang bị lưu đày bên Babylon. Họ biết họ đang khổ sở là vì tội họ đã phạm trước kia. Adaria xin Chúa tha tội cho dân. Nhưng hiện nay trong hoàn cảnh bị lưu đày, dân chẳng có lễ vật dâng lên Chúa để đền tội như luật định, cho nên Adaria chỉ biết kêu xin đến tình thương của Chúa: “Lạy Chúa, vì lòng từ bi sung mãn của Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng tôi”.
  3. Dụ ngôn trong bài trích Phúc Âm cũng nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng lưu ý vài khía cạnh quan trọng:

– Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều (như ông quan thiếu nợ ông vua một ngàn nén bạc). Ta không thể nào đền tội cho đủ (ông quan không có gì để trả chỉ biết nài xin. Và ông vua tha chỉ vì “động lòng thương”).

– Nhưng chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.

– Dụ ngôn còn khuyên ta chớ ngu dại vì không chịu tha cho anh chị em một trăm đồng bạc để không được Chúa tha cho ta mười ngàn nén bạc và còn phải “trao cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ”.

  1. Suy gẫm (… nẩy mầm)
  2. Muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nghĩ đến lý, cũng không tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói ”Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn mà bài trích Phúc Âm hôm nay nói đến, tha thứ cũng chỉ vì ”động lòng thương”.
  3. Sau khi nói đến ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận ”Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
  4. Một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
  5. Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.

Thế nhưng vào một Chúa Nhật nọ, sau khi kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.

Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể nào bắt tay người đến xin bà tha thứ.

Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa. (Trích “Món quà giáng sinh”)

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ miễn là chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài.

Vâng, muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nên nghĩ đến lý, cũng không được tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói: “Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn Tin Mừng tha thứ cũng chỉ vì “động lòng thương”.

Sau khi nói đến việc ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận “Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.

Như vậy, một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.

Đây là chứng từ của một tù nhân Đức Quốc Xã trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.

Tác giả của câu chuyện tên là bà Anne Furish, người Tiệp Khắc. Vì bà đã lén lút săn sóc các thương binh, nên đã bị quân Đức Quốc Xã bắt giữ. Đây là chứng từ bà kể lại:

“Mỗi ngày, những người lính canh chỉ cho chúng tôi một mẩu bánh mì nhỏ có dính cả mạt cưa, cho nên nhiều người trong chúng tôi ăn vào đã mắc bệnh. Những khi nhận được bánh mì đã khô cứng không còn ăn được, thì chúng tôi vò lại để làm thành những hạt chuỗi. Ở đó, có một tên quản giáo đặc biệt hung ác. Nếu mỗi tuần hắn không giết được hai tù nhân thì hắn ta không ăn ngủ được. Tôi đã bị hắn đánh đập nhiều lần. Nhưng tôi vẫn hằng cầu xin Chúa cho tôi biết tha thứ cho hắn, bởi vì tôi biết rằng, nếu tôi không tha thứ,  thì thù oán có thể đục khoét và trở thành độc dược phá hủy tâm hồn tôi. Tôi cầu xin Chúa cho tôi có thể nói với hắn thế này: “Tôi tha thứ cho anh và tôi thương yêu anh, bởi vì Đức Kitô đã chết cho tôi và anh trên cây Thập Giá”. Lần cuối cùng, khi hắn đánh đập tôi, tôi tưởng mình chết đến nơi, thế nhưng, Chúa đã dùng trận đòn ấy để nhận lời tôi.

Sau trận đòn, tên quản giáo đưa tôi về trại giam. Và lạ lùng thay, từ đó, hắn đến thăm tôi mỗi ngày. Hắn còn mang cả sữa tới và nhờ các tù binh khác dùng muỗng đút cho tôi uống nữa. Tôi bị hôn mê nhiều ngày và khi tỉnh dậy, tôi đã ngạc nhiên hết sức khi thấy tên quản giáo đang ngồi bên cạnh tôi. Lính tráng như họ vì sợ lây bệnh cho nên ít có khi nào họ đến trại giam. Hắn nói với tôi:

– Cô hãy nói cho tôi biết ai là bạn trai của cô ?

Tôi hỏi lại hắn:

– Ông muốn nói gì ?

Hắn giải thích:

– Người bạn trai tên là Giêsu của cô đó! Tôi muốn được nghe  cô nói cho tôi biết về người đó!

Tôi hiểu rằng, Chúa đã cho tâm hồn sắt đá này trở nên dịu dàng. Tôi bắt đầu khóc vì sung sướng. Và từ lúc đó, tên quản giáo không bao giờ đánh đập tôi nữa. Mỗi ngày hắn đến thăm tôi và nghe tôi nói về Đức Giêsu, từ lúc Ngài sinh ra cho đến khi Ngài chết trên cây Thập Giá.

Một ngày nọ, tên quản giáo lại hỏi tôi:

– Cô có nghĩ rằng, Chúa của cô cũng yêu thương cả tôi nữa không ? Cô có nghĩ rằng, Chúa đã tha thứ cho những gì tôi đã làm không ?

Tôi nói với hắn ta:

– Dĩ nhiên Chúa yêu thương anh, cũng như chính Ngài đã ban ơn để anh đến hỏi tôi về điều đó.

Năm 1946, vào một đêm kia, người quản giáo ấy đến đánh thức tôi dậy. Ông ra hiệu cho tôi thinh lặng và đưa tôi lên một chiếc xe tải đậu gần đấy. Sau này tôi mới được biết là đúng lý ra, một người đàn bà khác đã được chọn để di chuyển trong chuyến xe đó, nhưng rồi bà ta lại qua đời trong chính đêm ấy, nên người quản giáo đã tráo tên tôi vào tên của người quá cố. Tôi đã được cứu sống trên chuyến đi này. Và cũng kể từ đó, tôi đã không gặp lại người quản giáo ấy nữa. Qua sự tha thứ, tôi cảm thấy mình được tự do để yêu mến người khác. Thêm vào đó, tôi còn cảm thấy mình dễ dàng thông cảm với thân phận con người hơn! Phải, nhờ sự tha thứ mà tôi đã trưởng thành hơn nhiều!

Biết đâu trong chúng ta đã có lần cưu mang trong mình những kỷ niệm oán thù. Xin Chúa tha thứ và ban cho chúng ta được tham dự vào sự sống Thần Linh, sự sống tuôn trào niềm yêu thương và sự cảm thông tha thứ của Ngài.

Thứ tư sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 5, 17-19

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành.

Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.

SUY NIỆM 1: Kiện toàn

Suy niệm:

Vào thời Tin Mừng Mátthêu được viết, các người Do thái thuộc Hội Đường

thường chỉ trích các người Do thái đã tin vào Đức Giêsu Kitô,

coi họ như những người đã bỏ Luật Môsê, bỏ cái cốt lõi của Do thái giáo.

Đức Giêsu của Mátthêu đã bác bỏ lối hiểu sai này.

“Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn” (c. 17).

Kiện toàn là đưa Luật Môsê đến chỗ thành tựu, hoàn hảo,

bởi lẽ nó có những hạn chế, bất toàn,

do Thiên Chúa phải nương theo trình độ lúc đó của Dân Ngài.

Kiện toàn là giải thích lại Luật Môsê theo đúng ý Thiên Chúa.

Chẳng ai biết Ý Thiên Chúa Cha bằng Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Hơn ai hết, Đức Giêsu có quyền nói lên ý nghĩa mới mẻ của Lề Luật.

Có một dòng chảy liên tục trong khoa sư phạm của Thiên Chúa.

Ngài huấn luyện Dân Ngài qua Môsê và các ngôn sứ trong lịch sử.

Đỉnh cao nhất là Đức Giêsu, Đấng vén mở trọn vẹn ý định của Thiên Chúa.

Đức Giêsu không phá những công trình đi trước, ngài kiện toàn.

Lời giáo huấn của Ngài vừa liên tục với,

vừa vượt qua Giao Ước thứ nhất còn khiếm khuyết.

Vượt qua về chiều rộng,

khi Ngài mời ta đi xa hơn chuyện không được giết người,

mà còn không được có hành vi, lời nói giận ghét anh em (Mt 5, 22).

Vượt qua về chiều sâu,

khi Ngài đòi ta không được giữ Luật kiểu giả hình bên ngoài,

nhưng phải khởi đi từ trái tim, từ cái tâm bên trong (cc. 27-28),

khi Ngài đưa ra những đòi hỏi tận căn trước đây chưa hề có

về việc chẳng những không được trả thù mà còn yêu kẻ thù (cc. 38-48).

Mọi lề luật đều qui về điều răn chính yếu là yêu thương.

Phải yêu như Cha trên trời mới trở thành con cái Cha (c. 45).

Đức Giêsu mời chúng ta nghiêm túc giữ Luật Môsê đã được Ngài kiện toàn.

Luật ấy là lời giáo huấn của Ngài mà các môn đệ đã nghe.

Con người thời nay thích tự do nên dị ứng với luật lệ.

Nhưng giữ luật không phải là chuyện của nô lệ hay trẻ con.

Khi tránh được thói nệ luật, cứng nhắc bám vào mặt chữ,

ta có thể giữ luật như cách biểu lộ hồn nhiên tình yêu với Chúa và tha nhân.

Trung tín với những đòi hỏi nhỏ bé của các điều răn chỉ vì yêu,

và “dạy người ta mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 20),

đó là con đường dẫn đến hạnh phúc mai sau cho người môn đệ.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

ai trong chúng con cũng thích tự do,

nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.

Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.

Xin giúp chúng con được tự do thực sự:

tự do trước những đòi hỏi của thân xác,

tự do trước đam mê của trái tim,

tự do trước những thành kiến của trí tuệ.

Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,

để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,

để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho chúng con được tự do như Chúa.

Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,

khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi

và chữa bệnh ngày Sabát.

Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,

khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.

Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,

vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.

Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,

để chúng con được tự do bay cao. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: HOÀN THIỆN LỀ LUẬT

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giêsu cư xử như một người tự do, phóng khoáng với lề luật. Người ta nghĩ rằng Chúa Giêsu đến phá hủy lề luật. Nhưng Người tuyên bố rõ ràng: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” lề luật.

Người kiện toàn bằng xác định thứ tự cho lề luật. Luật Do thái nhiều vô kể. Nhưng điều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu người. “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 28-31).

Một trật tự khác: Luật Thiên Chúa phải trọng hơn luật của loài người. (x. Matthêu 15, 1-9). Không được “dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa”.

Người kiện toàn bằng đưa lề luật vào nội tâm. Phải rửa bên trong để bên ngoài cũng được sạch (Mt 23, 25-26). Ăn chay cầu nguyện và bố thí phải làm cách kín đáo (x. Mt 6, 1-6.16-18). Ý hướng là quan trọng. Vì thế, chưa giết người, nhưng giận ghét đã là có tội; chưa ngoại tình, nhưng trong lòng ham muốn thì đã là phạm tội (x.Mt 5, 21-30).

Người kiện toàn lề luật bằng đề cao con người. Điển hình là luật nghỉ ngày Sabat. Chúa đã đưa ra định hướng cho luật này: “Ngày Sabat vì con người chứ không phải con người vì ngày sabat” (Mc 2, 27). Vì thế, ngày sabat để cứu sống con người, để giải thoát con người, để làm điều tốt cho con người. (Mc 3, 1-6)

Người kiện toàn bằng hướng lề luật đến tình yêu. Người Do thái giữ luật vì sợ bị phạt. Chúa Giêsu dạy ta hãy giữ luật vì tình yêu mến. Và tóm tắt mọi luật lệ vào luật mới là yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Tình bác ái quan trọng vì Chúa hóa thân làm người nghèo. Và trong ngày tận thế chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.

Kiện toàn lề luật, Chúa Giêsu đổi mới cách sống đạo. Sống đạo không còn là hình thức, nhưng là tâm tình bên trong. Tâm tình đó hướng về Thiên Chúa trong tình yêu mến. Vì yêu mến nên giữ lề luật. Và cũng vì yêu mến Thiên Chúa, nên yêu mến con người. Việc giữ đạo như thế trở nên nhẹ nhàng, tự do, tự nguyện, nhưng lại đưa việc giữ lề luật đến mức hoàn hảo.

SUY NIỆM 3: Chu toàn lề luật

Vào một ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”. Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi lỗi luật Chúa.

Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích lời Chúa theo sở thích riêng.

Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về việc tuân giữ luật Chúa. Những lãnh đạo tôn giáo Do thái thời Chúa Giêsu hơn ai hết là những người bảo tồn luật Chúa trong lời dạy của Môsê và các tiên tri. Nhưng những đổi thay lịch sử đặt ra những vấn nạn mới và thôi thúc họ giải thích và áp dụng luật Chúa vào hoàn cảnh mới. Tinh thần vụ hình thức đã làm cho họ lạc đường đến nỗi đã bị Chúa Giêsu trách là giả hình.

Chúa Giêsu đến không phải để huỷ bỏ nhưng để kiện toàn lề luật và các tiên tri. Ngài kêu gọi các môn đệ tuân giữ luật Chúa với một tinh thần mới, với một dấn thân để sống trọn vẹn sứ điệp của Ngài. Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã nhắn nhủ:

“Ngôi Lời đã nhập thể và Chúa Cha đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu và đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Ngài”. Ngài là sự sống, con chỉ sống bằng tinh thần của Ngài. Ngài là sự thật, con chỉ tin lời dạy của Ngài. Ngài là Đường, con chỉ theo bước chân Ngài. Có thứ Công giáo vụ lợi, có thứ Công giáo lý lịch, có thứ Công giáo xu thời, có thứ Công giáo giải nhiệt, Chúa chỉ chấp nhận hạng Công giáo 100% đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Hội thánh có nhiều khuyết điểm và gương xấu, nhưng Hội thánh có lời hứa của Chúa. Hội thánh là một phép lạ liên lỉ. Nhưng đừng vì thế mà phơi bày khuyết điểm và gương xấu cho mọi người. Hãy làm thế nào để tư tưởng lời nói hành động của con khiến người ta phản ứng: con người này đã say mê cuốn sách Phúc âm, đã bị lôi cuốn bởi lý tưởng cuộc đời Chúa Giêsu.”

Trong những ngày canh tân đời sống này, xin Chúa cho chúng ta một ý chí mạnh mẽ, một xác tín sâu xa, nhất là thật nhiều ơn Chúa để trung thành với ơn gọi của mình.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Trung tín giữ điều nhỏ nhất

“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. (Mt. 5, 17-18)

Ý Thiên Chúa và sách thánh đã viết ra đều phải được kiện toàn. Cho nên Đức Giê-su nói: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn”. Điều mới Đức Giê-su thực hiện, không hoàn toàn khác biệt, mà là kiện toàn luật đã có. Lề luật và lời các tiên tri viết về mặc khải của Thiên Chúa, không phải đã hoàn tất. Ý Thiên Chúa tỏ ra qua lề luật và lời tiên tri được bày tỏ dần dần cho đến thời Đức Giê-su ngự đến.

Lề luật và lời các tiên tri có một ý nghĩa mới nhờ mặc khải của Đức Giê-su Ki-tô. Chính Đức Giê-su đã tuyên bố chắc chắn về những mặc khải cuối cùng của Thiên Chúa, Người đã kiện toàn mặc khải cho chúng ta từ nay cho tới mãi mãi. Sự kiện toàn này của Đức Giê-su không cho phép quay lại quá khứ do loài người đặt ra như Mô-sê cho phép rẫy vợ, như cấm chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Sự kiện toàn này của Đức Giê-su không cho phép chỉ làm những điều luật đã viết trước đó.

Luật tiếp tục tồn tại, nhưng được kiện toàn những gì luật còn thiếu sót cho đến khi Đức Giê-su kiện toàn lần chót. Sự kiện toàn bắt đầu mặc khải từ khi Chúa Giê-su giảng dạy vì Người là lời Thiên Chúa. Đức Giê-su không phải chỉ kiện toàn lề luật bằng lời dạy, mà còn bằng chính bản thân Người, bằng chính đời sống Người, bằng chính sự nhập thể và cuộc đời tại thế của Người.

Chúng ta phải giữ những điều răn nhỏ mọn nhất với quyết tâm cam kết toàn diện con người chúng ta, với tình yêu mến hảo hạng. Như vậy mới giải thoát chúng ta khỏi mọi kiêu căng của lòng trí, khỏi thứ trí thức tôn giáo hay khỏi cái lối thuần túy giữ “đạo tại tâm”, bỏ lơ, trễ nải với lối sống giữ đạo khiêm tốn hiện tại thường ngày.

Chúng ta biết quan tâm giữ cặn kẽ những điều nhỏ mọn, thì chúng ta được đánh giá để xếp hạng trong nước trời, không phải chúng ta được đánh giá theo ý tưởng, hay theo khuynh hướng bản thân, theo tính tình mỗi người … mà theo toàn bộ, toàn bộ trao phó cho chúng ta tất cả những điều nhỏ nhất, tất cả đều quan trọng đối với nước trời.

J.M

SUY NIỆM 5: “TA ĐẾN KHÔNG PHẢI ĐỂ PHÁ HỦY MÀ LÀ KIỆN TOÀN” (Mt 5, 17-19)

Thánh Gioan Bosco nói với các môn sinh của ngài rằng: “Hãy trung thành giữ luật, luật sẽ gìn giữ con”.

Thật vậy, lề luật nó như cái bản lề để giúp cho cánh cửa cuộc đời được đứng vững.

Chính Đức Giêsu đã trung thành giữ luật cách yêu mến và trung thành. Chỉ khi nào luật không làm cho con người ta tốt hơn, mà ngược lại, nó đè bẹp con người, thì lúc đó Ngài lên tiếng chống đối.

Hai lối hiểu và hai cách giữ luật khác nhau, nên những nhà lãnh đạo Dothái và Đức Giêsu có sự đối kháng kích liệt. Họ cho rằng Đức Giêsu đến để bãi bỏ lề luật, còn Đức Giêsu thì khẳng định: “Các người đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ các lề luật hay các tiên tri. Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn”.

Nói cách khác, Đức Giêsu vẫn rất tôn trọng luật Cựu Ước, mà cụ thể là trong Ngũ Kinh, vì ở đó chứa đựng ý muốn và lệnh truyền của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều lúc, vì họ đã giữ luật theo kiểu mặt chữ, nên không còn tình thương, lòng mến, và luật đã trở thành phương tiện cho người ta hà hiếp, bóc lột và kết án nhau.

Khi phản đối lối gán ghép tội của các Luật Sĩ và Pharisêu gây ra cho mình, Đức Giêsu khẳng định không những không phá bỏ, mà còn kiện toàn và làm cho luật trở nên nhân nghĩa hơn.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: hãy biết giữ luật trong lòng mến. Trung thành yêu mến luật vì nơi đó Thiên Chúa tỏ bày thánh ý của Ngài. Tuy nhiên, giữa việc giữ luật và đời sống phải đi đôi với nhau. Không thể sống theo kiểu “ngôn hành bất nhất” như Luật Sĩ và Pharisêu, vì họ dùng luật của Chúa để triệt hạ nhau khi luật của Chúa đã bị bóp méo.

Lạy Chúa Giêsu, luật của Chúa là luật vì con người và hạnh phúc của nhân loại. Xin Chúa ban cho chúng con biết yêu mến và thi hành luật ấy cách trung thành trong lòng mến Chúa và yêu người. Xin cho chúng con đừng vì luật mà cứng ngắc với anh chị em mình khi chúng con rơi vào tình trạng giả hình, chỉ câu nệ vào những hình thức bên ngoài mà quên đi những cái chính yếu bên trong. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Hãy nghe Người

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Ngay từ thời xa xưa Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Nó phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ. Công trình hoàn thiện luật theo một tiến trình phát triển được Chúa mạc khải sơ khởi phông nền với các tổ phụ, đặc biệt là Môisê qua 10 điều răn, được các ngôn sứ phát triển và chính Con Thiên Chúa – Đức Giêsu hoàn thiện bằng luật Kitô giáo: Tân ước. Tân ước là một chồi non làm sinh hoa kết trái nhưng được nuôi từ gốc và bằng nhựa của cây ô liu cũ tức “Cựu ước”, để làm cho cây sinh ra nhiều quả (x. Rm 11,17-24). Chính Đức Giêsu đã được loan báo và chuẩn bị cả ngàn năm mong đợi của dân Do Thái khi chờ đón Đấng Cứu Thế, Đấng đến cứu họ được tự do và để kiện toàn luật và lời các ngôn sứ đã loan báo trước làm hoàn thành toàn bộ Kinh Thánh với hai phần rõ rệt: Tân ước và Cựu ước.

Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu Người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật. Các kinh sư và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn Lề Luật: Tất cả vì luật. Chúa Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hạng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sabát (x. Lc 6,8-11; 13,14; 14,1-6; 6,1-2…), và các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn (x. Lc 11,38). Họ cho rằng: Ngài muốn phá bỏ Lề Luật, nhưng Chúa Giêsu tuyên bố: “…đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môisê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).

Chúa Giêsu kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương, cho nên luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” luật cũ. Khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống theo luật mà còn sống theo luật với ân sủng và tình yêu cho nên luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta không dừng ở những việc làm vụ hình thức mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện: “Như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48): Luật pháp mà vượt qua luật, đi tới Tin Mừng (Phúc Âm) đem hạnh phúc tình thương cho con người. Bài giảng bát phúc trình bày tính vĩnh cửu của luật pháp mà Ngài hoàn thiện.

Xin Chúa thổi tình yêu vào cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ mọi giới răn đạo Chúa, mọi giáo huấn của Giáo hội, chúng ta giữ luật không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, mà còn thực thi với tinh thần của Tình yêu.

Ý lực sống: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).

Suy Niệm 7: Chúa đến kiện toàn Lề luật

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu chính là Đấng Kitô phải đến mà dân Israel đang mong chờ. Ngài đến để hoàn tất mọi lời Thiên Chúa hứa, và để kiện toàn Lề Luật. Ngài đến để đưa Lề Luật tới ý nghĩa trọn hảo. Kiểu nói: “Một chấm, một phết trong Luật cũng không thể qua đi” diễn tả tầm quan trong của Luật: đó là ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã muốn dùng Lề Luật để giáo dục con người thì không có Luật gì là nhỏ bé tầm thường. Vì vậy, chúng ta chỉ đạt được sự sống đời đời khi trung thành tuân giữ luật Chúa và Lời Chúa. Chúng ta giữ luật không vì sợ tội, nhưng vì tình yêu. Trong tình yêu, càng cần sự tế nhị từ những điều nhỏ mọn.
  2. Bất cứ quốc gia hay tổ chức lớn nhỏ nào trong xã hội loài người đề cần có luật, để giữ kỷ cương phép tắc, giữ trật tự an ninh và đảm bảo sự công bằng xã hội.

Ngay từ thời xa xưa, Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Nó phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ. Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, lời các tiên tri, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu người  bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật.

Các luật sĩ và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ  trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn lề luật: Tất cả vì luật.

 Đức Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hàng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh…

  1. Thầy đến không phải là để bãi bỏ…”

Những lời Đức Giêsu nói về luật Cựu ước thực sự gây sốc nhất là đối với những người thượng tôn Lề Luật Maisen… Quả thật những lời Đức Giêsu dạy xem ra khó nghe và có vẻ như trái nghịch với luật cũ khiến một số người phản đối; nhưng xét cho cùng, đó không phải là Ngài phá đổ hay phế bỏ Lề Luật mà là Ngài kiện toàn nó.

Ngài đào sâu tận nguyên lý của Lề Luật và áp dụng vào hoàn cảnh mới của Tân Ước để thực hành đúng tinh thần của Lề Luật chứ không chỉ theo hình thức bên ngoài. Ta có thể dẫn chứng trường hợp ăn chay chẳng hạn: nhịn đói ít hôm, cúng dường… rồi sau đó bóc lột, ức hiếp ngươi nghèo khổ, thì hành vi ấy còn có nghĩa gì, nó lố bịch và chuốc thêm tội vào mình thôi… Như thế, Đức Giêsu chính là Maisen mới vì Ngài đến kiện toàn Luật Maisen và lời các tiên tri (5 phút Lời Chúa).

  1. Việc kiện toàn ít nhất mang hai ý nghĩa.

Đức Giêsu đã đến kiện toàn Lề Lật và lời các tiên tri. Như vậy:

– Đối với Do thái, lề luật và tiên tri liên kết với nhau, nên việc kiện toàn của Đức Giêsu có nghĩa là Ngài thực hiện và đưa đến mức độ viên mãn những gì Thiên Chúa đã hứa trong Sách Thánh. Ngài là điểm đến và ứng nghiệm những gì chép trong Cựu Ước. Luật không bị mất hiệu lực một chấm một phẩy nào, nhưng đạt tới sự viên mãn nơi Đức Kitô và nhờ Đức Kitô.

– Từ nay trong Đức Giêsu, luật được tuân giữ với tinh thần tự do và yêu mến Chúa, chứ không phải là một sự bó buộc phải làm hay phải giữ. Từ nay luật mang lấy một diện mạo mới là luật vì sự sống con người chứ không phải kềm hãm con người theo mặt chữ.

Tóm lại, kiện toàn lề luật mà Đức Giêsu dạy chúng ta là không bãi bỏ luật nhưng mặc cho luật một tinh thần mới, nghĩa là vượt qua sự giữ luật cách tiêu cực để thi hành cách tích cực trong Đức Kitô: giữ luật không vì sự bó buộc phải làm mà là với cả sự tự do muốn làm vì lòng mến Chúa và tha nhân, biến luật từ việc kìm hãm bản thân thành sự thanh thoát thánh hóa bản thân, giữ luật không dừng lại ở sự thể hiện ở ngoài mà là cả một tâm hồn ngay thẳng và trong sạch.

  1. Lề luật giúp cho con người nên thánh và trung thành với Chúa.

Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc sống và làm trong khung khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa, ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quí giá: “Ubi amatur, non laboratur: khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn.

  1. Truyện vui: Giữ luật hình thức.

Vào ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh ta gọi những món cá mà anh ta biết chắc chắn chủ quán sẽ trả lời là không có.

Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”.

Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi bị lỗi luật Chúa.

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thánh Ý Thiên Chúa là điều quan trọng, không gì nhỏ bé tầm thường. Chúa Giêsu đến chính là để được thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa và các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu ước. Ta cũng cần coi trọng và tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đôi lúc con có cảm tưởng Chúa thường phản ứng chống lại lề luật. Chúa phê bình việc giải thích và cách giữ luật của người biệt phái. Chúa lên án lối sống hình thức của họ. Nhưng càng nhìn ngắm Chúa và suy gẫm Phúc âm, con càng thấy rõ Chúa không chống đối lề luật, không bãi bỏ lề luật, mà Chúa đến để chu toàn lề luật và làm cho lề luật được kiện toàn, vì luật của Môi-sê cũng chính là luật của Thiên Chúa. Chúa phục tùng luật Môi-sê vì Chúa muốn phục tùng Ý Chúa Cha.

Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương Chúa mà tôn trọng luật Thiên Chúa và luật Giáo Hội. Qua lề luật, xin cho con biết nhận ra ý Chúa muốn con làm gì. Đời sống của Chúa là cuộc đời thánh thiện vì Chúa luôn chu toàn ý muốn của Chúa Cha. Xin Chúa cũng giúp con nên thánh bằng cách hy sinh ý riêng để tuân theo Ý Chúa, trung thành vâng giữ luật Chúa.

Lạy Chúa, vì xu hướng tự nhiên, con vẫn thích phá bỏ lề luật để sống tự do buông thả. Nhưng trong đức tin, con cảm tạ Chúa đã ban lề luật cho con, vì nếu không có lề luật như những tấm bảng chỉ đường, chắc chắn con sẽ lạc hướng và rơi xuống vực sâu. Xin Chúa thương gìn giữ con.

Con cũng xin Chúa giúp con biết tín nhiệm vào Chúa đang dẫn dắt Hội Thánh, để con khiêm tốn vâng theo sự chỉ dạy của Hội Thánh. Có những điều con không hiểu, có những điều con thấy lỗi thời, bảo thủ, khe khắt, nhưng xin Chúa giúp con biết đón nhận trong đức tin, ngay cả trong những điều nhỏ bé nhất. Và xin Chúa giúp tất cả chúng con động viên nhắc bảo nhau trung thành với luật Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

  1. Bài đọc Cựu Ước: Trước khi dân Israel vào Đất hứa, Môsê đọc cho dân nghe các lề luật Chúa. Ông căn dặn dân phải nhớ tuân giữ những điều luật ấy “để được sống và được vào chiếm hữu phần đất (mà Thiên Chúa đã hứa ban)”.
  2. Bài trích Phúc Âm: Mặc dù Chúa Giêsu đến để thiết lập Luật mới, nhưng Ngài không huỷ bỏ luật cũ: “Ta không đến để huỷ bỏ (luật Môsê), mà để kiện toàn”.
  3. Như thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay là bảo chúng ta hãy tuân giữ lề luật, theo tinh thần mới của Phúc Âm.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
  2. Một điều nữa cần làm ngay trong mùa Chay là xét lại cách mình giữ luật: luật Chúa, luật Hội Thánh, luật của cộng đoàn v.v…
  3. Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn”. (Lc 161,10)
  4. “Vào một ngày thứ Sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”… Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng”. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta hãy tuân giữ lề luật theo tinh thần mới của Tin Mừng.

  1. Lề luật giống như đường ray giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).

Cách đây ít lâu, có một báo cáo về một trường hợp một thủy thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh, bị phạt rất nặng vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt nặng đến độ dư luận bên ngành dân chính cho rằng, quá khắt khe.

Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong hải quân đã trả lời rằng, theo quan điểm ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng. Ông cho rằng, kỷ luật là một biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng lệnh không thắc mắc và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh này.

Ông kể lại một kinh nghiệm riêng, trong một hải vụ, tàu của ông phải cẩu một chiếc tàu rất nặng đang khi biển động. Chiếc tàu hư được cột vào chiếc tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình, giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng: “Xuống!”, tức khắc toàn thể thủy thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chắc chết ngay tại chỗ. Nhưng vì thủy thủ đoàn đã tuân lệnh, nên tất cả đều được thoát hiểm và an toàn. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Sự vâng lời cứu mạng người. (WB).

Chúa Giêsu không hề chủ trương vô kỷ cương. Ngài đã từng tuyên bố. “Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật và các lời tiên tri, nhưng Ta đến để kiện toàn lề luật” (Mt 5,17). Ngài tuân giữ lề luật của Do Thái giáo. Nhưng, trong khi các luật sĩ, Pharisêu chỉ biết bám vào hình thức, thì Chúa Giêsu mặc cho lề luật một tinh thần mới. Ngài giữ chay và kêu gọi con người xé lòng chứ đừng xé áo. Ngài giữ ngày hưu lễ và kêu gọi con người thực thi bác ái. Ngài cảnh cáo những Pharisêu và luật sĩ khi họ cố tình bóp nghẹt tinh thần của lề luật. Ngài không ngần ngại lên án thái độ giả hình bên ngoài của họ bằng những lời rất nặng. Ngài ví họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng bẩy nhưng bên trong thì thối tha.

  1. Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu: “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn” (Lc 16,10).

Vào một ngày thứ sáu tuần thánh buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy..”.

Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra muôn ngàn cách để tự an ủi và miễn thứ cho mình khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

Chúng ta hãy nhìn lại một ít bài học trong Đạo để thấy rằng, có những con người rất can đảm. Họ thà chết còn hơn là lỗi luật Chúa.

* Xưa kia, Giuse con Giacob “thà chết” còn hơn là nghe theo lời rường mật, rồi sau đó là những lời đe dọa mà ngả vào vòng tay của người đàn bà xấu nết, là vợ quan Putipha.

* Bà Suzanna, cũng thà chết còn hơn là phạm luật Chúa trước những lời hăm dọa của hai lão mê dâm.

* Ông lão Aliazarô thà bỏ mạng sống còn hơn là nghe theo lệnh truyền của hoàng đế Antiocô mà ăn thịt trái luật Chúa.

* Ba thánh trẻ kia, sẵn sàng chịu thiêu trong đống củi chứ không chịu sấp mình trước tượng Nabucodonosor.

* Đaniel cũng thà chết còn hơn là bỏ việc thờ phượng Chúa dù việc đó làm cho Đaniel bị bỏ vào hang sư tử.

* Bảy anh em tử vì đạo đời Antiôcô cũng vì sợ mất lòng Chúa nên thà chết chẳng thà bỏ đạo.

* Tại Việt Nam ta ngày trước, nhiều tín hữu bị nhốt vào tù. Quan dạy đi ra hai cửa: sinh môn và tử môn. Ai qua “sinh môn” thì phải đạp ảnh. Những người bị giam đều qua “tử môn” có quân lính trực sẵn, hễ ai bước qua thì chém đầu.

* Trên đồi Dã Viên, đời cấm đạo, giáo hữu phải giam trong cũi, nhịn khát mấy ngày bên bờ sông Hương. Ai đạp ảnh mới được uống nước. Các đấng thà chết khát…

Người Công giáo thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa, bỏ nghĩa vụ.

Thứ năm sau Chúa Nhật 3 mùa Chay

Lời Chúa: Lc 11, 14-23

Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ”. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:

“Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.

“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán”.

SUY NIỆM 1: Người mạnh hơn

Suy niệm:

Đức Giêsu vừa mới trục xuất được một quỷ câm.

Khi quỷ xuất ra thì người câm nói ngay được (c. 14).

Cùng với sự ngạc nhiên thích thú của đám đông,

còn có sự vu khống xuyên tạc của một số người khác.

Họ cho rằng chẳng qua Đức Giêsu chỉ là kẻ dựa dẫm Bêendêbun.

Bêendêbun là tên của một vị thần ở vùng Canaan.

Người Do thái vẫn coi các thần dân ngoại là ma quỷ (1Cr 10, 19-20).

Ở đây, Bêendêbun chính là quỷ vương, là Xatan (c. 18).

Như thế Đức Giêsu bị tố cáo là người cùng phe với quỷ,

dùng tay tướng quỷ để trừ các quỷ nhỏ.

Đức Giêsu cho thấy sự sai lầm của lập luận này.

Ngài nhắc đến nước của Xatan, một nước hiện vẫn còn đứng vững (c. 18).

Nước ấy chưa sụp đổ vì không có sự chia rẽ giữa các quỷ với nhau,

nên không thể bảo là Ngài dùng quỷ vương để trừ quỷ nhỏ.

Vả lại, có những người Do thái khác cũng trừ quỷ như Ngài.

Có ai dám bảo là họ thông đồng với quỷ vương không? (c. 19).

Đức Giêsu vén mở cho thấy ý nghĩa của việc Ngài trừ quỷ.

“Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ,

thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (c. 20).

Nước Thiên Chúa đến qua việc Đức Giêsu giải phóng.

Ngài giải phóng con người khỏi bệnh tật thân xác.

Ngài trả lại cho con người khả năng nghe, nói, nhìn.

Ngài kéo người bất toại đứng lên, đi được, đưa tay ra.

Ngài trả người phong về với cộng đoàn, đưa người chết ra khỏi mộ.

Trên hết, Ngài giải phóng con người khỏi sự chật hẹp của lòng mình.

Ngài mở con người ra trước nỗi đau và cô đơn của anh em.

Ngài nâng con người lên tới tầm cao của trái tim Thiên Chúa.

Như thế là con người được thật sự tự do.

Chỗ nào có tự do thật sự, chỗ đó có Nước Thiên Chúa.

Chỗ nào có Nước Thiên Chúa, chỗ đó nước của Xatan phải lui đi.

Cuộc chiến giữa Nước Thiên Chúa và nước Xatan vẫn tiếp diễn,

nhưng Nước Thiên Chúa đã đến rồi, ngón tay Thiên Chúa ở đây.

Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trừ quỷ và mời chúng ta cộng tác.

Làm sao để con người hôm nay không còn bị ám bởi bất cứ thụ tạo nào,

không sụp lạy trước bao ngẫu tượng mới của thời đại?

Quỷ vẫn là kẻ mạnh, được vũ trang đầy đủ, đứng canh nhà của nó (c. 21).

Nhưng Thiên Chúa và Chúa Giêsu lại là người mạnh hơn (c. 22).

Người mạnh hơn tấn công, tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm.

Trong cuộc chiến này, chúng ta không có quyền mập mờ, hàng hai.

Mùa Chay mời chúng ta đứng hẳn về phía Giêsu,

vì ai không ở với Giêsu là chống lại Ngài,

ai không thu góp với Giêsu là phân tán (c. 23).

Hãy quyết định dứt khoát để cùng với Giêsu chiến đấu cho Nước Cha.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

ai trong chúng con cũng thích tự do,

nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.

Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.

Xin giúp chúng con được tự do thực sự:

tự do trước những đòi hỏi của thân xác,

tự do trước đam mê của trái tim,

tự do trước những thành kiến của trí tuệ.

Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,

để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,

để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho chúng con được tự do như Chúa.

Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,

khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi

và chữa bệnh ngày Sabát.

Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,

khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.

Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,

vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.

Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,

để chúng con được tự do bay cao. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: NGHE VÀ NÓI

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con người là một sinh vật xã hội. Không thể sống một mình. Xã hội tính phát triển nhờ thông giao. Thông giao biểu hiện bằng nghe và nói. Nghe để tiếp nhận. Nói để thông tri. Nghe để hiều về người khác. Nói để người khác hiểu về mình. Nghe để cảm thông chia sẻ. Nói cũng để cảm thông chia sẻ. Như thế thông giao làm phong phú con người. Vì thế câm điếc là khuyết tật. Mất khả năng thông giao khiến con người không phát triển. Thông thường câm là do điếc. Vì không nghe nên không nói được.

Người Do thái cho khuyết tật đó là do ma quỉ. Ma quỉ trói buộc con người trong ích kỷ cá nhân. Để tàn lụi. Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc khi trục xuất quỉ câm. Nhưng Chúa lại không thể chữa người mắc bệnh câm điếc thiêng liêng. Người câm điếc thiêng liêng là người tự ý không nghe không nói.

Giê-rê-mi-a cho biết những người Do thái thời ông là những người câm điếc. Vì họ không chịu nghe lời Thiên Chúa. Chỉ cần mở lòng ra nghe lời Thiên Chúa họ sẽ trở thành Dân Thiên Chúa, sẽ được hạnh phúc. Nhưng gọi không trả lời. Nói không nghe. Vì thế họ không phát triển. Chúa nói họ đi thụt lùi. Và còn tệ hơn nữa khi cố tình giả điếc thì họ không có sự thật: “sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng nó”.

Đó chính là tình trạng của những người chống đối Chúa hôm nay. Khép kín tâm hồn nên không nghe được Thiên Chúa. Dù phép lạ rành rành không thể chối cãi. Vì không nghe nên miệng họ nói lời gian dối. Bóp méo sự thật. Xuyên tạc cho rằng Chúa dùng quyền tướng quỷ mà trừ quỷ. Đó chính là tác động của ma quỉ. Thứ quỉ ám này còn nặng hơn quỉ gây nên câm điếc thể lý.

Thế giới đang hỗn loạn vì người ta không lắng nghe. Không nghe Chúa. Không nghe nhau. Không nghe lịch sử. Không nghe vũ trụ. Không nghe thiên nhiên. Và vì thế người ta nói theo ý riêng. Nói sai sự thật.

Mùa Chay Chúa mời gọi ta trở về sự thánh thiện nguyên thủy. Biết mở lòng, mở tai lòng lắng nghe. Biết mở miệng nói lời chân lý, lời xây dựng, lời yêu thương. Biết tái lập khả năng thông giao. Ta sẽ trở nên phong phú. Thế giới sẽ sống trong hòa bình.

SUY NIỆM 3: Nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa

Một nhà truyền giáo nọ kể lại sự kiện sau: một hôm tôi đang giảng dạy cho một nhóm người tại Nagasaki. Sau bài giảng một người đứng lên hỏi tôi ba điều: “Tôi có tin Đức Mẹ đồng trinh không? Tôi có vâng lời và hiệp thông với Đức thánh cha không? Tôi có giữ mình trinh khiết và sống độc thân không?”. – Tôi xác nhận cả ba điều trên và hỏi lại: “Tại sao ông lại đặt ra ba câu hỏi vừa rồi?”

Người đó trả lời: “Vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con rằng sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải lấy ba tiêu chuẩn ấy để đánh giá xem đó có phải là vị thừa sai chân chính không. Nay chúng con vui mừng vì cha đích thực là người được Hội thánh sai đến, chúng con sẽ nghe lời cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con truyền lại”.

Những giáo dân Nhật Bản đã dùng ba tiêu chuẩn để thẩm định đâu là nhà truyền giáo đích thực. Ngược dòng thời gian trở về thời Chúa Giêsu, chúng ta cũng được chứng kiến một biến cố tương tự. Các tiên tri đã báo trước cho Dân Chúa là khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ thực hiện những dấu lạ: cho kẻ câm được nói, kẻ què được đi, người bị quỉ ám được chữa lành. Chúa Giêsu đã thực hiện lời tiên tri đó trước mặt nhiều thành phần trong dân để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng muôn dân mong đợi. Tuy nhiên có những người không nhìn nhận sự hiện diện và tác động của Chúa, họ cố tình giải thích sự lệch lạc để khỏi phải tin và làm cho người khác đừng tin, như được trình thuật trong Tin mừng hôm nay.

Quả thật, đứng trước Chúa Giêsu, con người phải có thái độ hoặc tin nhận hoặc chối từ. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối với Chúa Giêsu. Ngài đến với con người qua Giáo Hội, qua những sứ giả được tuyển chọn và sai đi làm chứng cho Ngài nhưng liệu chúng ta có thành tâm và can đảm cộng tác với ơn soi sáng của Thánh Thần để tin nhận Ngài không? Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:

“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Ngài là Cha ở bên con với tất cả quyền năng và tình thương. Ngài là tất cả của con, là cùng đích trong ý hướng, là lý do các quyết định, là động lực các tình cảm, là gương mẫu các hành động của con. Hãy sống bên Chúa, con sẽ nên thánh. Thiên đàng không gì khác hơn là Thiên Chúa hiện diện”.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Đuổi quỷ

Rồi Đức Giê-su trừ một tên quỉ, và nó là quỉ câm. Khi quỉ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỉ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỉ.” (Lc. 11, 14-15)

Theo một số ý kiến chú giải thời nay thì những người quỷ ám trong Tin mừng là bệnh nhân của cảm cúm. Sự đuổi quỷ của Đức Giê-su được giải thích khéo léo hóa thành vô nghĩa. Những người bị quỷ ám, hầu hết được họ giải thích là những người mắc bệnh động kinh, bệnh thần kinh hay bị ám ảnh bởi hình ảnh quỷ ma trong họ, người bị quỷ câm trong Tin mừng hôm nay đơn giản chỉ là bệnh câm thôi, không bị quỷ ám nào hết.

Theo ý kiến số đông thời đại đó, một nửa bị quỷ thần ám hại cần phải cải cách và Tin mừng đã đến thanh tẩy những thần thoại chồng chất trong đời sống dân Ít-ra-en.

Cách giải thích đó có thật hữu ích không? Tin mừng có thanh tẩy phong tục tin tưởng vào quỷ thần không?

Thứ nhất, giải thích của một số người quá ngang ngược với cách trừ quỷ rõ ràng của Chúa, biến Chúa thành nạn nhân của hạng trí thức dổm. Thực ra, thời đại của Đức Giê-su đã có nhiều người khá thông minh để nhận định về thế giới quỷ thần.

Thứ đến, họ muốn kéo nhân loại ra khỏi những sức mạnh siêu nhiên để khỏi nỗi lo sợ bị phán xét về tội con người.

Theo ý số đông trên mặt đất này, có đầy những sự xấu xa, nếu chỉ gán tội cho loài người thôi thì thật bất công, phải tin rằng còn có ma quỷ ném đá dấu tay đã gây ra tội lỗi nữa. Sự hỗn độn của nhân loại được chia thành nhiều loại: loại người ăn nhậu nhồi nhét quá lẽ một bên, loại đói ăn túng cực một bên. Đó không phải do Thiên Chúa Cha dựng nên, cũng không phải hoàn toàn do con người tổ chức thiết kế những thứ ô nhục đó. Cần phải nhìn nhận rằng có hàng triệu người thiện chí hoạt động, tổ chức lấy lại quân bình phân chia của cải vũ trụ, tuy có vô ích.

Thật bất công tin rằng tính dã man do lòng dạ con người bình thường sinh ra, khi thấy nhiều người sống trên hành tinh này ném hàng tấn bom lân tinh xuống dân lành mà lương tâm lầm lạc của họ vẫn bình an. Nhận có tội lỗi, chính là tin có một Thiên Chúa có thể giải thoát chúng ta khỏi thế lực quỷ dữ mà con người không thể tự giải thoát được. Đức tin đòi chúng ta liên tục cầu nguyện xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tay quỷ dữ. Không có Thiên Chúa, chúng ta liều mình bị quỷ dữ ám hại đời đời.

J.G

SUY NIỆM 5: ĐỪNG “CHỤP MŨ” NHAU NHƯ THẾ! (Lc 11, 14-23)

Có một tu sĩ đảm trách công việc mục vụ bệnh nhân Sida. Tuy nhiên, do sơ xuất, ngài đã bị nhiễm căn bệnh thế kỷ này qua người bệnh trong khi chăm sóc họ. Nhưng thật trớ trêu, thay vì được mọi người nâng nỡ, khích lệ, thì họ lại bàn tán, gán ghép những chuyện không mấy tốt đẹp cho vị tu sĩ nhiệt tình vì sứ vụ này!

Đây cũng chính là căn bệnh truyền kiếp ở mọi thời, đó là, người ta không thích ai, hay ai đó uy tín hơn mình, thì họ sẵn sàng dùng đến biện pháp nói hành, hay chụp mũ để hạ gục đối phương!

Hôm nay, Đức Giêsu cũng rơi vào tình trạng trên khi bị dân chúng chụp cho Ngài thứ mũ hết sức đê hèn như:

Ngài trừ được quỷ là do liên minh với quỷ khi nhân danh tướng quỷ để trừ quỷ!

Tại sao họ lại vu khống và nói hành Đức Giêsu như vậy?

Thưa chỉ vì một chuyện rất đơn giản, ấy là: Đức Giêsu ngày càng uy tín trước mặt dân chúng vì những việc tốt đẹp và lời dạy khôn ngoan của Ngài, khiến dân chúng tôn vinh Ngài là một tiên tri vĩ đại. Vì thế, những Luật Sĩ và Phairisêu bối rối, hoang mang và sinh lòng ghen tuông, tức tối đối với Ngài.

Họ đã dùng đến trò thâm hiểm nhất để bêu rếu và mục đích nhằm hạ gục Đức Giêsu khi nói là Ngài “nhờ tướng quỷ để mà trừ quỷ”.

Khi gán cho Đức Giêsu như thế, họ muốn nói với dân rằng: Đức Giêsu là người thuộc về thế giới của ma quỷ. Khi Ngài đã thuộc về ma quỷ, thì lẽ đương nhiên không nên tin vào con người này cũng như những lời dạy dỗ của Đức Giêsu.

Đây là một phương pháp triệt hạ đối phương bằng cách đánh vào uy tín.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đặt ngược lại vấn nạn với hai câu hỏi để lật tẩy trò đê hèn của chúng, Ngài hỏi: “Nếu Xatan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”; và: “Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ?”!

Khi hỏi như thế, Đức Giêsu một mặt cho thấy lý chứng của những Luật Sĩ và Pharisêu tự mâu thuẫn, khập khiễng, không ăn khớp với nhau, bởi vì cứ theo lập luận của họ, thì phải chăng một nước mạnh lại dùng chính kẻ mạnh để tiêu diệt kẻ yếu cùng đồng minh với mình hay sao? Hay nếu Quỷ Vương cho mượn quyền lực của hắn để tiêu diệt tay chân của hắn thì nước đó đã đến thời mạt vận?

Trong đời sống của chúng ta hôm nay nhiều khi rơi vào tình trạng của những Luật Sĩ và Pharisêu khi sử dụng những chiêu thức bỉ ổi là nói hành, nói xấu để bôi nhọ thanh danh tiếng tốt của anh chị em mình.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đứng về phía sự thật để trả lại cho anh chị em mình những giá trị đích thực, khi họ vì lòng yêu mến Chúa mà thi hành những bổn phận của họ để loan báo tình thương của Thiên Chúa cho mọi người. Đồng thời chúng ta biết cộng tác với nhau để làm cho triều đại của Thiên Chúa mau đến.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con trong Mùa Chay thánh này, luôn biết yêu thương, nâng đỡ nhau để cùng nhau loan truyền và làm chứng cho Chúa bằng đời sống bác ái, yêu thương. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 6: Đức Giêsu trừ quỷ câm

 (Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Việc Đức Giêsu trừ quỷ câm là nguyên cớ sinh ra cuộc tranh luận giữa phe chống đối gồm các luật sĩ, biệt phái với Đức Giêsu. Qua phép lạ trừ quỉ, Đức Giêsu chứng tỏ Ngài là Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân khỏi ách thống trị của Satan. Từ sự kiện này, đáng lẽ người Do thái nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa, nhận ra uy quyền nơi Đức Giêsu, nhưng họ lại cắt nghĩa phép lạ theo một ý lệch lạc. Họ nói Đức Giêsu  dùng quỉ vương mà trừ quỉ con, chỉ vì ghen tương và cố chấp. Họ không nhận ra vương quyền của Đức Giêsu. Chính do thái độ cố chấp ấy, họ sẽ phải chịu trách nhiệm và chịu xét xử.
  2. Đức Giêsu đã rao giảng và đã thực hiện những dấu lạ khắp nẻo đường Palestin: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội. Hôm nay Đức Giêsu lại chữa người bị câm do quỉ ám… Tất cả chứng tỏ quyền năng thánh linh của Ngài. Nhưng một số người đã nghe Chúa giảng, đã thấy phép lạ tỏ tường không tin nhận Chúa lại còn cho rằng Ngài dùng quyền năng của tướng quỉ mà trừ quỉ con. Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài lấy quyền từ Thiên Chúa. Ngài mạc khải rõ sứ mạng của Ngài khi Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa mà trừ quỉ, bảo vệ bênh vực con người, cứu chúng ta khỏi ách thống trị của ma quỉ và tội lỗi.
  3. Thật vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài đã dùng quyền năng mà trừ quỉ câm, dân chúng thấy vậy thì hết sức khâm phục Ngài; còn những kẻ cứng lòng tin lại cho rằng Ngài lấy quyền đầu mục quỉ mà trừ quỉ, họ không hiểu rằng nếu quỉ mà trừ quỉ thì chúng đã chia rẽ nhau và như thế sẽ phải tiêu vong, bởi vì “chia rẽ là chết”. Như vậy, nếu Đức Giêsu dùng quyền năng cao cả của mình để khử trừ ma quỉ, thì tức là Ngài mạnh hơn quỉ, chiến thắng ma quỉ, do đó ai tin theo Ngài sẽ được cứu thoát khỏi mọi sự dữ; ai tin theo Ngài sẽ cùng Ngài cộng tác để tiêu diệt các mưu mô độc hại của ma quỉ, của thế gian, của xác thịt, và đem nhiều linh hồn về cho Nước Chúa. Còn ai không tin theo Ngài tức là chống đối Ngài, là tự phân tán và như thế dẫn tới cái chết.
  4. Tội ngoan cố là thế nào?

Tội ngoan cố là khi thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Người ngoan cố kể như “hết thuốc chữa”.

Bởi vậy Đức Giêsu nói đó là tội chống Chúa Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu đuối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không tha nếu ta ngoan cố.

  1. “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.

Đứng trước Đức Giêsu, con người phải có thái độ hoặc tin nhận hoặc từ chối. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối với Đức Giêsu.

Đây là một sự lựa chọn dứt khoát cho chúng ta, là Kitô hữu, chúng ta không thể cứ sống cách nửa vời. Việc sống đức tin là có hoặc không? Chọn Chúa hay theo Satan; sống theo giáo lý và lề luật đạo, hay thỏa hiệp với thế gian xác thịt..? Chứ không thể bắt cá hai tay, đạo nào cũng muốn mà đời cũng muốn.

– Không thiếu những người, đạo cũng muốn giữ mà cứ để mình sống trong tình trạng hôn nhân bất hợp pháp.

– Làm người tu cũng muốn mà tình lứa đôi cũng không dứt bỏ dứt khát, khấn nghèo khó mà lại sống trưởng giả.

– Có những người đạo cũng muốn giữ mà vẫn thề thốt để được “kết nạp” và giữ được những cái nọ cái kia…

  1. Bài Tin Mừng hôm nay thúc giục chúng ta vững tin vào uy quyền của Thiên Chúa. Thế lực của ma quỉ tuy mạnh mẽ nhưng quyền năng của Thiên Chúa còn mạnh mẽ hơn. Đức Kitô đã dùng cái chết và sự sống lại của Ngài để chiến thắng Satan, Ngài đã trở thành lá cờ đầu để chúng ta đi theo. Hãy gia nhập vào cộng đoàn những kẻ theo Ngài, và hãy vững tin rằng nếu chúng ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài.
  2. Truyện: Mưu mô ma quỉ.

Ngày xưa có một con qủi hiện về báo cho người đàn ông biết là gã sắp chết. Nhưng nó lại bảo gã rằng nó có thể cứu gã nếu gã chịu làm một trong ba điều sau: một là giết tên đầy tớ của gã, hai là gã đánh đập vợ, ba là gã hãy uống rượu.

Gã kia nghĩ: Ta không thể giết tên đầy tớ trung thành, đánh vợ thì vô lý quá, vậy ta uống rượu. Rồi gã lấy rượu uống. Đến chừng say quá, gã đánh vợ, tên đầy tớ nhào vô can bị gã cho một dao chết tươi (Trích “Phúc”).

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Để nhận ra triều đại của Thiên Chúa, phải thành tâm và có ý ngay lành. Hãy nhìn nhau bằng đôi mắt của Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã trở thành nạn nhân của lòng đố kỵ. Trước phép lạ trừ quỷ câm, Chúa được dân chúng ngưỡng mộ. Nhưng khi thấy Chúa thành công, một số người tỏ ra bực tức ghen tị. Sự ghen tị làm lòng người ra hẹp hòi, trí óc ra mù quáng và họ giải thích cách ngu xuẩn: “Ông ấy dựa vào quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ”.

Ngày hôm nay, nhân loại chúng con đang thoái hóa về tinh thần vì không biết nhìn nhau bằng tinh thần của Chúa. Tình thân ái nơi loài người đang đổ vỡ vì chúng con nhìn nhau bằng cặp mắt của Xa-tan, con mắt ích kỷ tị hiềm.

Xin Chúa dạy con biết cảm thông với anh chị em con: biết vui với người vui và nhất là biết buồn với người buồn. Xin đừng để con vui khi thấy anh chị em khổ, đừng để con mừng khi thấy anh chị em khốn khó. Đừng để con khó chịu khi thấy anh chị em thành công. Ngược lại, xin Chúa dạy con biết coi nỗi khổ của anh chị em là nỗi khổ của chính mình để con mau mắn giúp đỡ gỡ khó cho họ.

Lạy Chúa, xin dạy con biết nhìn nhau bằng ánh mắt của Chúa: luôn tôn trọng người khác, không khinh thị bất cứ ai, kể cả những người tội lỗi. Cái nhìn của Chúa đã biến đổi ông Giakêu thành người thực thi công bình bác ái. Cái nhìn của Chúa biến đổi Thánh Matthêu thành tông đồ cho Chúa. Cái nhìn của Chúa cũng biến đổi Thánh Phêrô từ kẻ chối Chúa thành người nâng đỡ đức tin cho anh em. Xin dạy con lối nhìn của Chúa để con biết nâng dậy những anh em vì hoàn cảnh đã đi xa đường lối Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.

Suy Niệm 8: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)
  2. Bài đọc Cựu Ước nói đến sự cứng đầu cứng cổ của dân Israel: Thiên Chúa dẫn đường chỉ lối cho dân để họ được hạnh phúc. Thế nhưng họ đã chẳng nghe theo. Thiên Chúa lại sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ. Nhưng họ vẫn không nghe.
  3. Thời Chúa Giêsu, thái độ ngoan cố ấy vẫn tiếp tục: khi Chúa Giêsu làm phép lạ trục xuất quỷ câm khỏi người bị nó ám, lẽ ra người ta phải hiểu đó là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến. Nhưng những người biệt phái lại không muốn hiểu như vậy, họ còn cố tình xuyên tạc rằng Ngài đã dùng thế lực của quỷ vương để trừ quỷ nhỏ. Tin Mừng Mát-thêu (Mt 12, 22-32) coi đây là tội chống Thánh Thần và là tội duy nhất không được tha. Bởi vì nếu do yếu đuối hay sai lầm mà phạm tội thì dù tội có nặng hay nhiều đến đâu đi nữa Thiên Chúa vẫn rộng lượng tha thứ. Còn kẻ ngoan cố đã thấy sự thật nhưng cố tình không nhìn nhận, lại còn xuyên tạc cho nên họ không được tha. Nói đúng ra, họ không được tha vì họ không muốn được tha.
  4. Suy niệm (…nẩy mầm)​​​​​​​
  5. Tội ngoan cố là tuy thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Người ngoan cố kể như “hết thuốc chữa”. Bởi vậy Chúa Giêsu nói đó là tội chống Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu duối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không tha nếu ta ngoan cố.
  6. Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần rất hữu ích và quan trọng. Nhưng có lẽ quan trọng hơn nữa là con người có nghe theo ơn soi sáng đó hay không. Hằng ngày, Chúa Thánh Thần ban cho ta biết bao ơn soi sáng, nhưng ta nghe theo được mấy lần ?
  7. Nguỵ biện là thấy rõ sự thật nhưng cố ý giải thích sai đi cho hợp với sở thích. Người nguỵ biện tưởng rằng nhờ ngụy biện mình sẽ được sống thoải mái, nhưng thực ra họ tự hại chính mình. Chúa Giêsu đã nói “Sự thật mới giải thoát”.
  8. Một cô gái biện hộ cho việc mình đến những nơi giải trí khả nghi: “Tôi nghĩ một người công giáo có thể đi bất cứ đâu”. Bạn cô đáp: “Tất nhiên, nhưng lời bạn làm tôi nhớ một chuyện: lần đó, tôi và một số người đến thăm một mỏ than. Một cô gái mặc bộ đồ trắng đẹp. Cô hỏi người hướng dẫn: – Tôi có thể mặc đồ trắng xuống hầm mỏ không ? – Được, không có gì ngăn cản cô mặc áo trắng xuống đó, nhưng điều đáng ngại là khi trở lại, áo cô không còn trắng nữa (Góp nhặt).

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Qua bài Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy sự cố chấp của những người luật sĩ và Pharisêu đã lên tới mức độ thật cao. Trước một sự thật ai cũng thấy: Chúa vừa chữa lành một người bị quỉ câm ám hại, mọi người đều thấy phấn khởi…vậy mà những người luật sĩ và Pharisêu lại cố tình muốn bẻ cong sự thật… Đây là tội ngoan cố. Tội ngoan cố là tội tuy thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Tội ngoan cố là tội kể như “hết thuốc chữa”. Bởi vậy, đã có lần Chúa gọi tội đây là tội chống lại Chúa Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu đuối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không thể tha nếu ta ngoan cố.

Thánh Macariô tu hành ở Ai-Cập, lần kia gặp một chiếc đầu lâu của người chết, ngài mới hỏi:

– Cái sọ này của ai  ?

Cái sọ trả lời: – Thưa cha, cái sọ này là của một ngoại giáo.

Thánh Macariô hỏi thêm: – Linh hồn mày hiện giờ ở đâu  ?

Cái sọ trả lời:

– Thưa cha, linh hồn tôi ở dưới hỏa ngục, vì khi còn sống, thấy giữ đạo phải hy sinh nhiều quá, nên tôi không chịu trở lại.

Thánh Macariô lại hỏi:

– Hỏa ngục có sâu lắm không  ?

Cái sọ trả lời: – Thưa cha, hỏa ngục sâu lắm, sâu bằng khoảng cách giữa trời và đất.

Thánh Macariô hỏi tiếp:

– Dưới hỏa ngục, có ai khổ hơn mày nữa không  ?

Cái sọ trả lời: – Có các người Do Thái, đã cố chấp không chịu tin Chúa mặc dầu đã xem thấy bao nhiêu phép lạ Chúa làm.

Thánh Macariô lại hỏi thêm:

– Dưới hỏa ngục, còn ai khổ hơn người Do Thái không  ?

Cái sọ trả lời:

– Có những người Công giáo xấu, đã giày đạp lên lòng thương xót Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc họ. Rồi cái sọ nói thêm: “Còn phần cha, cha hãy lợi dụng lòng thương xót Chúa nghĩa là hãy sử dụng ơn Chúa cũng như hãy lợi dụng thời giờ Chúa ban mà lập công phúc, để khỏi phải khổ cực dưới hỏa ngục, nhưng được vinh hiển trên Trời”

Vâng, chúng ta hãy biết lợi dụng lòng thương xót của Chúa để lập thêm công phước, phải lợi dụng lòng thương xót của Chúa để xin ơn tha thứ như vậy.

  1. Chúa nói: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11, 23).

Đi với Chúa là chọn Chúa, là đứng về phía của Chúa. Nhưng làm cách nào biết rằng, chúng ta đã thực sự chọn Chúa và đứng về phía Chúa.

Chúng ta hãy nghe lời giải thích của Mirjana, cô gái được chính Đức Mẹ hiện ra dạy bảo tại Mễ Du. Khi người ta hỏi cô:

– Bằng cách nào chúng ta chọn Chúa Giêsu  ?

Cô trả lời:

– Đức Mẹ nói rằng: muốn chọn Chúa Giêsu, ta phải nên giống Chúa. Nhiều người cho mình là tín hữu nhưng lại sống như người ngoại đạo. Kitô hữu chân chính phải là người được Kitô-hóa. Một người Kitô-hữu đích thực phải giống Chúa Giêsu.

Và khi được hỏi:

– Nên giống Chúa Giêsu như thế nào  ?

Cô nhắc lại lời Đức Mẹ dạy:

– Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật và là ánh sáng cho cuộc sống chúng ta. Đường đi thì đã được vạch rõ trong Kinh Thánh. Còn sự thật thì nằm ở cả trong Kinh Thánh và trong Giáo Hội. Ánh sáng thì từ Thiên Chúa mà đến cho những ai trung tín.

Mẹ luôn xin các con cái của Mẹ hãy đọc Sách Thánh, có như vậy ta mới biết về Thiên Chúa. Vì thế, Đức Mẹ xin những ai nói mình là tín hữu hãy sống cuộc sống của Chúa Giêsu như khi Chúa sống ở trần gian. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường về Thiên Đàng. Cuộc đời của Ngài là mẫu mực cho các tín hữu noi theo. Nếu tín hữu sống theo mẫu mực đó, họ sẽ là những môn đệ trung thành của Tin Mừng. Đời sống của họ sẽ nêu gương cho thấy có một vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chăm sóc dưỡng nuôi ta, đỡ nâng ta trong hết mọi sự. Nhưng Mẹ cũng không quên nhắc: “ngày nay, có nhiều người đã quên, nhiều người đã chọn lựa những điều phù phiếm mau qua, nhiều kẻ không hề quan tâm tới chân lý, chỉ biết say mê những lạc thú trần gian, trí khôn đâm mù tối và sống co rút lại trong ích kỷ”.

Cha Gioan Maria Vianney nói: “Chẳng có gì làm cho chúng ta nên giống Chúa bằng cách vác lấy Thánh Giá của Người. Đẹp thay bao linh hồn biết kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu qua việc yêu mến Thánh Giá của Ngài! Cha thật không tài nào hiểu được một Kitô-hữu mà không yêu mến và chạy trốn Thánh Giá! Như vậy, chẳng phải chúng ta đang chạy trốn Chúa Giêsu, Đấng đã hạ mình xuống ôm chặt lấy Thánh Giá, và chịu chết cho chúng ta sao  ?

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,

vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,

Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,

và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Ước gì khi sống như thế, con giống Chúa hơn. Amen.

niệm

Thứ sáu sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay

Lời Chúa: Mc 12, 28b-34

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”

Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Còn đây là giới răn thứ hai: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”.

Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”.

Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

SUY NIỆM 1: Điều răn đứng đầu

Suy niệm:

Giữa một rừng 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm dựa theo Luật,

các rabbi thường tranh luận với nhau xem điều răn nào đứng đầu.

Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi của vị kinh sư bằng lời mở đầu của kinh Shema,

kinh này được người Do thái đọc sáng chiều mỗi ngày:

“Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.

Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi,

tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí tuệ ngươi, tất cả sức lực ngươi” (Đnl 6, 4).

Đó là điều răn đứng đầu, điều răn thứ nhất trong mọi điều răn (c. 29).

Tuy nhiên, Đức Giêsu còn muốn thêm một điều răn thứ hai nữa.

“Ngươi phải yêu mến người thân cận với ngươi như chính mình ngươi” (Lv 19,18).

Và Ngài kết luận: “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn nhũng điều răn đó” (c.31).

Đức Giêsu tóm gọn mọi luật lệ trong hai điều răn, bằng hai câu trích trong sách thánh.

Cả hai đều bị chi phối bởi một động từ duy nhất: yêu mến.

Yêu mến Thiên Chúa, yêu mến tha nhân:

đó là câu trả lời của Đức Giê su cho ông kinh sư Do thái cách đây hai ngàn năm.

Đó cũng là câu trả lời của Ngài cho các Kitô hữu hôm nay.

Ngài mời ta hãy để lòng yêu mến thấm vào mọi lãnh vực của cuộc sống.

Điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa, yêu Ngài với tất cả con người mình (c.30).

yêu Ngài một cách tuyệt đối, và đặt Ngài lên trên mọi người, mọi sự khác,

vì chỉ mình Ngài là Tạo Hóa, tất cả mọi sự khác chỉ là thụ tạo.

Chúng ta yêu mến Thiên Chúa để đáp lại tình Ngài yêu mến chúng ta trước.

Ăn ngay ở lành không đủ.

Theo đạo không phải chỉ là chuyện ăn ngay ở lành.

Tình yêu đối với tha nhân không thay thế được tình yêu đối với Thiên Chúa.

Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa lại đòi hỏi tình yêu đối với tha nhân.

Thương người như thể thương thân.

Nhưng đối với tôi thương thân là gì? Tôi cần gì trong cuộc sống?

Cảm thông, khoan dung, trung tín, tôn trọng, khích lệ, nâng đỡ, hiền từ…

Tôi biết người khác cũng cần những điều ấy như tôi, và tôi muốn trao cho họ.

Có một cuộc đối thoại thực sự và thân tình giữa ông kinh sư với Đức Giêsu.

Ông hỏi, nhưng không có ý thử Ngài.

Câu trả lời của Đức Giêsu khiến ông hoàn toàn nhất trí.

Ông thấy lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân lớn hơn mọi lễ vật trong Đền thờ,

dù ông không coi thường việc dâng lễ vật cho Thiên Chúa.

Phụng vụ phải đi kèm với cuộc sống mến yêu.

Mùa Chay là thời gian trở lại với trái tim của mình

để xem Thiên Chúa có chỗ nào trong trái tim đó.

Chỉ khi tim tôi bị tình yêu Thiên Chúa chinh phục và chiếm trọn,

nó mới có thể mở ra đến vô cùng trước tha nhân.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,

nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa

vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường

để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,

mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,

không một biến cố nào làm xáo trộn,

không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công,

cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn

để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở

để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: YÊU THƯƠNG LÀ LẼ SỐNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người Do thái có một rừng luật. Và họ bị lạc lối trong rừng. Không biết điều luật nào là chính. Hôm nay Chúa cho họ biết những điều cơ bản nhất trong luật. Biết nguyên tắc cơ bản, nội dung thiết yếu và cách thế để tuân giữ lề luật.

Nguyên tắc cơ bản là luật để sống chứ không phải để giữ. Khi sống người ta làm chủ lể luật. Khi giữ người ta làm nô lệ cho lề luật. Biết luật để sống ta sẽ đi tìm luật như đi tìm không khí để thở, nước để uống.

Vì luật để sống, nên yêu mến Chúa hết lòng hết sức lực hết trí khôn là điều tự nhiên và cần thiết. Vì Thiên Chúa sinh thành ra ta. Người ban sự sống cho ta. Tất cả những gì ta có, ta là, đều bởi Chúa. Vì thế mến Chúa là điều luật quan trọng nhất. Ta giữ điều đó là vì chính ta chứ không phải vì Chúa.

Nhưng yêu mến Chúa chỉ được chứng tỏ bằng yêu mến tha nhân. Khi hiểu rằng Thiên Chúa và tha nhân thực sự cần thiết cho đời sống, cho hạnh phúc của ta, ta sẽ giữ hai điều răn này một cách dễ dàng. Cũng như ta tự nhiên tha thiết giữ gìn sức khỏe, giữ gìn tính mạng của mình vậy.

Nếu hiểu luật chính là để sống ta sẽ càng yêu mến Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa sự sống càng tràn đầy sung mãn nơi ta. Chính vì muốn ta đạt đến sự sống sung mãn nên Chúa Giêsu mời gọi ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức hết tâm hồn và hết trí khôn.

Hiểu biết Thiên Chúa là lẽ sống, là nguồn mạch hạnh phúc, ta sẽ chẳng còn vương vấn thế gian. Biết Thiên Chúa là nguồn sức mạnh, ta sẽ chẳng còn cậy dựa vo thế lực trần gian, như Ít-ra-en đã từng cậy dựa vào thế lực của Át-sua

Không vương vấn thế gian, nhưng ta sẽ yêu mến thế gian, yêu mến tha nhân vì Chúa. Đó không còn là tình yêu thế gian, nhưng ta yêu thế gian, yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa. Như thánh Phao-lô nói: Từ nay tôi không còn biết người nào, điều gì theo xác thịt, nhưng là trong Đức Giê-su Ki-tô Phục sinh.

SUY NIỆM 3: Giới Răn Trọng Nhất

Sau thế chiến thứ nhất 1914-1918 và thế chiến thứ hai 1939-1945, nhân loại đã rất lo sợ chiến tranh, và mong ước có một thế giới hoà bình, yêu thương. Người ta đã lập ra những hội khác nhau, như Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, để kiểm soát và ngăn ngừa thế chiến thứ ba, vì nếu thế chiến thứ ba xảy ra, thì với những vũ khí tối tân, qui mô chắc chắn nhân loại sẽ bị huỷ diệt. Người ta kêu gọi hoà bình khắp nơi trên thế giới. Tôn giáo cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc xây dựng hoà bình.

Trong Tin mừng hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa Giêsu trong các giới răn, điều nào trọng hơn cả. Chúa Giêsu đã trả lời: “Giới răn trọng nhất là ngươi hãy yêu mến Chúa hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm chúa tể vũ trụ, cho nên không được tôn thờ một Chúa nào khác. Ngài là Chúa hay ghen, nghĩa là không chấp nhận chia sẻ tình cảm cho bất cứ một ai khác. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì họ sẽ yêu chủ này mà ghét chủ kia” và ngược lại. Ngài đòi hỏi một sự trung thành trong tình yêu đối với Ngài.

Giới răn thứ hai, đó là “ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”. Chúng ta tin Chúa ngự trong tâm hồn và chúng ta tuân giữ giới răn thứ nhất là yêu mến Ngài trên hết mọi sự, thì cũng phải giữ giới răn thứ hai vì có Chúa ở trong mọi người. Kinh thánh đã xác định với ta: nếu ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em, thì đó là kẻ nói dối.

Tất cả chúng ta đều thuộc mười giới răn Thiên Chúa được gồm tóm trong hai điều này là mến Chúa và yêu người. Mười giới răn Thiên Chúa ban cho con người qua Môsê trên núi Sinai tóm trong hai ý đó, và hôm nay được Chúa Giêsu lặp lại qua câu đáp trả cho người luật sĩ.

Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, mỗi ngày trở thành anh em với nhau, con cùng một Cha trên trời hơn. Ở đây tác giả tập sách Đường Hy vọng nhắn nhủ như sau:

“Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và của thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp những phiền phức, những thách thức đòi buộc lòng bác ái của chúng ta phải mở rộng ra. Bác ái không có biên giới, nếu có biên giới thì không còn là bác ái nữa. Chúng ta cần một con tim rộng mở như Chúa để có thể yêu thương như Ngài và với Ngài”.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Một câu hỏi, hai câu đáp

“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. (Mc. 12, 28b-31)

“Một luật sĩ hỏi Đức Giêsu: Giới răn nào trọng nhất? Người đáp: Anh phải yêu mến Thiên Chúa, là Chúa anh và yêu mến người lân cận anh, không còn giới răn nào lớn hơn hai điều đó”.

Chúng ta thấy đây là toàn thể mầu nhiệm nhập thể: Con Thiên Chúa làm người để làm vinh quang Thiên Chúa bằng cứu độ nhân loại. Chính khi giải thoát con người khỏi vòng nô lệ mà chúng ta làm sáng danh Chúa. Anh em của chúng ta là mọi người, đó là con đường độc nhất nối kết chúng ta với Chúa Cha. Lý do này đủ giúp ta yêu người với hết trái tim ta. Câu đáp này của Đức Giêsu là một lời giải phóng cho người luật sĩ và cả cho chúng ta nữa. Nơi dân Do thái, tôn giáo được phát triển ngày càng theo chiều chủ nghĩa thuyết duy luật lệ, nghĩa là cứ giữ luật lệ nhiều là được cứu rỗi. Luật Tôra có 613 điều. Người ta không thể làm sao tóm tắt lại cả được, cũng không biết đâu là bến bờ, không biết đi về đâu nữa.

Nếu Đức Giêsu mạnh mẽ chống đối biệt phái, chỉ vì thái độ tôn thờ pháp luật đã trói buộc con người. Tình yêu của Thiên Chúa đã bị hóa thành vong thân làm hủy hoại con người.

Ngôi lời Thiên Chúa đã hóa thành xác thân. Tình yêu của con người không đòi buộc phải thoát xác. Mỗi khi Giáo hội tập họp mọi người để cử hành Thánh lễ trước sự hiện diện của Thiên Chúa và mọi người là để nói lên rằng chỉ có những con người đoàn kết trong tình yêu mới thực sự làm sáng danh Thiên Chúa.

Có người nói: “Phúc cho tôi có Thiên Chúa như lòng tôi mong, cho tôi biết chịu đựng thân phận làm người”. Đúng lý hơn cho ai nói rằng: “Hạnh phúc biết bao khi Thiên Chúa cho tôi có nhiều người anh em, nhờ đó, tôi có thể yêu mến Thiên Chúa biết chừng nào”.

J.G

SUY NIỆM 5: YÊU MẾN BẰNG CẢ TÂM HỒN (Mc 12,28-34)

 “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn”; và: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Đây là một mệnh lệnh của Trời.

Tin Mừng hôm nay trình thuật câu chuyện đối thoại giữa Đức Giêsu và một Kinh Sư. Khởi đi bằng một câu hỏi của ông này về việc: điều nào là quan trọng trong toàn bộ luật. Thấy vậy, Đức Giêsu đã tóm cho ông toàn bộ nội dung và mục đích của luật trong câu: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn”; và: “Phải yêu người thân cận như chính mình”.

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng là làm sao? Thưa: là thờ lạy, quy phục, là giữ và thực thi Lời Chúa, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để tin và theo Chúa, dù có phải khổ đau, hoạn nạn, thử thách và cuối cùng sẵn sàng chết cho Thiên Chúa là Đấng chúng ta tôn thờ, yêu mến.

Còn yêu người như chính mình thì như thế nào? Thưa: là yêu hết mọi người, không phân biệt bạn hay thù, thánh thiện hay tội lỗi, giàu hay nghèo, quý tộc hay thường dân, người già hay trẻ nhỏ, phụ nữ hay đàn ông, màu da hay chủng tộc…

Yêu như thế là chúng ta đi vào tình yêu của chính Thiên Chúa, bởi vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, mà tình yêu của Ngài là hướng tha, là thực tế, không trừu tượng.

Muốn yêu được như thế, chúng ta phải chấp nhận cho đi, thiệt thòi, chịu liên lụy và đôi khi đành mất chính mình.

Chúa không bao giờ chấp nhận chúng ta cho đi theo kiểu: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”; hay “bỏ con tép, bắt con tôm”; hoặc  “ông bỏ nắm xôi, bà thò nậm rượu…”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi theo Chúa trên con đường tình yêu ấy bằng cả lòng mến chân thành được hiện tại hóa nơi hành động của mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống và giữ Giới Luật của Chúa bằng cả con tim, khối óc và linh hồn, để chúng con được sự sống đời đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Mến Chúa – yêu người

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Thánh Martinô có lòng mến Chúa và luôn đi đôi với lòng yêu người. Martinô coi lòng mến Chúa như động lực thúc đẩy ngài thực hiện việc yêu người. Martinô yêu tất cả mọi người dù già hay trẻ, nam hay nữ, da trắng hay da màu, quý tộc hay bình dân, bản xứ hay kiều cư, tự do hay nô lệ… Nhưng cách đặc biệt ngài dành tình yêu nhiều hơn cho những người xấu số phải sống trong những hoàn cảnh hẩm hiu về cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là đối với những người nghèo khó. Martinô hằng đem lòng bác ái rất đặc biệt mà đối xử với anh em; lòng bác ái đó phát xuất từ một đức tin toàn vẹn và một tâm hồn khiêm nhu.

Trong bài giảng của lễ phong thánh cho chân phúc Martinô Porres, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã nhận định: “Qua gương sáng đời sống của mình, thầy Martinô cho thấy: Chúng ta có thể được cứu độ nhờ và nên thánh bằng con đường Đức Giêsu Kitô đã vạch ra, nghĩa là nếu trước hết chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn chúng ta, rồi sau đó nếu chúng ta yêu người thân cận như chính mình”.

Suy niệm

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, rồi yêu người thân cận như chính mình. Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho một kinh sư đến hỏi Đức Giêsu: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?”. Người Do Thái có 613 khoản luật. Giữa một rừng luật như vậy, Đức Giêsu đã trả lời bằng cách nối kết từ sách Đệ nhị luật 6,5 với sách Lê vi 19,18, khi khẳng định bổn phận đầu tiên và quan trọng nhất, đó là yêu mến Thiên Chúa hết sức lực có được. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…” (Mc 12,30): Đức Giêsu đã trích Đnl 6,4-5, là một trong ba bản văn được những người Do Thái mộ đạo đọc mỗi ngày hai lần (x. Đnl 6, 4-9; 11,13-21; Ds 15, 37-41). Yêu mến Chúa hết lòng, linh hồn, trí khôn, sức lực (Mc 12,30): Đnl 6,5 nói đến lòng/tim, linh hồn sức lực (LXX: kardia, psychê, dynamis). Maccô nêu ra bốn từ lòng/tim (kardia) là khả năng ý chí, linh hồn (psychê) là khả năng trí thức, trí khôn (dianoia = sức mạnh của trí tuệ; thay vì dynamis) và sức lực (ischys = tất cả sức mạnh của tâm hồn). Như thế, nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Thiên Chúa với mọi tài nguyên có thể có được. Yêu mến Thiên Chúa duy nhất với tất cả sức mạnh và khả năng ban cho con người là tổng hợp tối hậu về ý muốn của Thiên Chúa.

Dù chỉ trả lời cho điều răn thứ nhất, nhưng Đức Giêsu nói đến một điều răn thứ hai: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” rất gần với câu tục ngữ Việt Nam: “Thương người như thể thương thân”. Tình yêu chúng ta có cho chính mình được đề ra như tiêu chuẩn để đánh giá tình yêu phải có đối với người thân cận. Yêu thương chính mình là chấp nhận bản thân, theo ý muốn của Thiên Chúa. Tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân mình.

Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất: Yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương họ đến vô cùng. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận như một giải thích cô đọng trên hai bia đá mười điều răn mà Thiên Chúa đã truyền cho Môisê trên núi Sinai. Chính vì thế trong kinh Mười điều răn, phán kết ghi nhận: Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự sau lại yêu người như mình ta vậy.

Thật thế, tình yêu Chúa là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như thánh Gioan tông đồ khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu”(1 Ga 4,8). Chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài, thánh Gioan nhấn mạnh: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em” (1Ga 4,20).

Yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như thánh Gioan nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em” (1Ga 3,16). “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11).

Ý lực sống: “Lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4,20-21).

Suy Niệm 7: Giới răn trọng nhất

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Hôm nay một luật sĩ đến hỏi thử Đức Giêsu xem giới răn nào trọng nhất, Ngài khẳng định một giáo lý mới mẻ: “Mến Chúa – yêu người” là hai giới răn quan trọng nhất. Hai điều này liên kết chặt chẽ với nhau vì cùng xuất phát từ một tình yêu. Mến Chúa một cách tuyệt đối: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Tình thương đối với tha nhân cũng phải tới mức độ cao nhất: như yêu thương chính mình. Vì tự nhiên ai cũng quí trọng và yêu mến bản thân mình hơn hết.
  2. Tại sao ông luật sĩ lại đến hỏi thử Đức Giêsu về điều này? Thưa, vì bộ luật của người Do thái lúc đó có 613 khoản, gồm có 248 việc phải làm, và 365 việc không được làm. Người ta khó lòng chọn được khoản luật nào cao trọng nhất. Có người thì cho là luật nghỉ ngày sabat, người cho là luật cắt bì, người cho là luật dâng của lễ, rửa tay trước khi ăn… thật khó mà chọn luật nào quan trọng nhất. Những luật sĩ và biệt phải tưởng rằng Đức Giêsu sẽ lúng túng không trả lời được.

Nhưng Đức Giêsu điềm nhiên trả lời: “Điều luật trọng nhất là: “Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Rồi Chúa nói tiếp: “Điều luật thứ hai cũng trọng không kém là “Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Đó là hai luật rất quan trọng. Nhưng hai luật ấy đã bị biết bao nhiêu điều cấm đoán hay bó buộc khác lấn át làm cho nhiều người quên lãng hay không để ý tới sự quan trọng của chúng.

  1. Tình yêu mà Phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hoàn hảo, tinh luyện, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng vụ  chính là “Bác ái Công giáo” (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói: “Giới hạn tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Hai tình yêu này khác nhau chăng? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ có một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.

Theo Đức cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha  nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối vói tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị: “Ama et fac quod vis” (Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.

  1. Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất. Yêu người thân cận như chính mình: “Yêu người như thể thương thân”. Người thân cận là hết mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa ta mới có thể yêu thương họ đến tột cùng. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận như một giải thích cô đọng trên hai bia đá mười điều răn mà Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen trên núi Sinai. Chính vì thế trong kinh Mười điều răn chúng ta đọc trong các ngày Chúa nhật, phần kết ghi nhận: Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.
  2. Thật thế, tình yêu Chúa là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như thánh Gioan tông đồ khẳng định: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,7). Chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài, thánh Gioan còn nhấn mạnh: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em” (1Ga 4,20).

Yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như thánh Gioan nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em” (1Ga 3,16). “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”(1Ga 4,11).

  1. Truyện: Chị nữ tu phục vụ.

Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ  với vẻ mắt vui tươi, thanh thản đầy thương mến… Rồi người lạ đến gặp tôi và nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây với đầy lòng căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có được nghị lực để yêu tha nhân được”.

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tình yêu là điều quan trọng nhất. Ơn gọi của con người là sống trọn vẹn hai mối tương quan: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhiều lúc con tưởng mình chẳng có tội, tưởng mình đạo đức thánh thiện. Con vẫn siêng năng đi lễ, đọc kinh ca hát, làm việc bác ái, tham gia việc tông đồ giáo dân tích cực. Và có thể con đã được nêu làm gương mẫu cho kẻ khác.

Nhưng hôm nay. Chúa cho con thấy tất cả những điều ấy không phải là quan trọng nhất. Điều Chúa mong chờ nơi con là tình yêu mến chân thành đối với Chúa và với nhau. Có tình yêu là có tất cả. Thiếu tình yêu là thiếu tất cả. Con nhớ lại lời Chúa cảnh giác con đừng giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Vâng, con đã giật mình vì quả thực vẻ bề ngoài của con tốt đẹp, nhưng lòng con lại chất chứa ghen ghét, ganh tỵ, lỗi phạm công bằng bác ái. Con đã dửng dưng trước nỗi đau khổ của tha nhân để được an thân. Ngay cả việc thờ phượng và việc tông đồ, nhiều lúc con thực hiện chỉ vì thói quen, hay vì một động lực riêng tư ích kỷ được che đậy cách khéo léo.

Lạy Chúa, xin ban tình yêu cho con. Xin Chúa Thánh Thần tràn ngập hồn con để lòng con trở thành ngọn lửa bùng cháy mến yêu. Thế giới này giá lạnh vì thiếu tình yêu nhau, cằn cỗi sắp chết vì thiếu lòng mến Chúa. Xin Chúa giúp con trong mùa chay này trở về với tình yêu và ngụp lặn trong tình yêu.

Lạy Chúa, xin giúp con sống tình yêu cách chân thành: biết yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể đối với tha nhân, để cuộc sống của con luôn đậm tình Chúa và thắm tình người. Amen.

Ghi nhớ: “Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người”.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

  1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê kêu gọi hãy trở về với Chúa và đi theo đường lối của Ngài.
  2. Bài trích Phúc Âm: Chúa Giêsu chỉ cho một luật sĩ thấy điều luật quan trọng nhất là yêu mến Chúa; điều thứ hai yêu mến tha nhân.
  3. Như thế, trở về với Chúa là trở về với tình yêu. Sống tình yêu đối với Chúa và tha nhân là một cuộc sống tốt đẹp và làm hài lòng Chúa nhất, “hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ hy sinh”.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Tội là xa rời tình yêu.

– Tuân giữ mọi giới luật nhưng không yêu thương thì cũng là đi lạc.

– Dâng nhiều lễ vật mà không có tình yêu thì cũng là đi lạc.

– Huống chi trong lòng đang chất chứa giận ghét thù hằn.

  1. Trở về với Chúa là trở về với tình yêu. Sự trở về đúng mức phải là:

– Yêu Chúa tới mức độ “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”.

– Yêu tha nhân tới mức độ “như chính mình”.

  1. Lạy Chúa, không nhiều thì ít con đã đi lạc xa tình yêu. Hôm nay con muốn quay về với tình yêu, yêu Chúa và yêu người.
  2. “Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và của thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng”. (Đường hy vọng)

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Trong Do Thái giáo, chúng ta thấy có hai khuynh hướng liên quan đến luật pháp luôn đi song hành với nhau. Một khuynh hướng muốn mở rộngtới vô hạn định, thành hàng trăm, hàng ngàn điều luật và qui tắc khác nhau. Khuynh hướng thứ hai thì cố gắng hết sức tóm tắtluật pháp lại càng gọn càng tốt, nếu cần thì chỉ trong một câu cũng đủ.

Có lần một người mới gia nhập Do Thái giáo yêu cầu thầy Hillel hãy dạy cho ông ta toàn thể luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng trên một chân. Câu trả lời của Hillel là:

– Điều gì ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại là nhằm giải thích.

Thầy Akiba đã nói:

– Hãy thương yêu người lân cận như chính bản thân mình, đó là nguyên tắc tổng quát và quan trọng nhất.      

Thầy Simon, biệt danh là người công chính, có nói:

– Thế giới này đứng trên ba điều: luật pháp, sự thờ phụng và hành động yêu thương.

Còn Chúa Giêsu khi trả lời câu hỏi người ta đặt ra cho Ngài, Ngài đã nhập chung hai điều quan trọng lại với nhau.

Đây là điều mới lạ. Trước đó, chưa hề có một Rabbit nào làm vậy. Như vậy, đạo đối với Chúa là yêu Chúa yêu người và Chúa cũng ngụ ý dạy rằng, phương pháp duy nhất để người ta chứng minh được mình yêu mến Chúa là yêu thương người khác.

  1. Vâng! Nói thì đơn sơ như vậy, nhưng đem vào cuộc sống thì là cả một vấn đề.

Thánh Gioan Tông đồ viết: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,7-8)

Không có tình yêu, cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa nhưng sống yêu thương đó mới là điều tốt đẹp làm sao!

Đây là một câu chuyện ngụ ngôn của Nga:

Một hôm, có một người đàn bà khó tính qua đời. Bà ta nổi tiếng là keo kiệt, cằn cỗi, cả đời không làm điều gì tốt, cũng chẳng yêu thương ai. Những người hàng xóm biết rất rõ về tính hận thù và hay ghen ghét của bà. Khi thấy bà hấp hối lũ quỷ cảm thấy vô cùng sung sướng. Chẳng cần phải đợi kết quả của sự phán xét ra sao, chúng đã hung hăng kéo luôn bà xuống hồ lửa đang cháy hừng hực bởi vì chúng tin rằng, một cuộc sống chẳng có một chút tình thương nào như thế thì chẳng cần phải phán xét cũng biết được kết quả như thế nào rồi.

Ma quỉ thì như thế, nhưng vị thiên thần bản mệnh của bà thì không chịu như vậy. Thiên thần nhất định không chịu thua. Ngài lăng xăng chạy ngược chạy xuôi để tìm kiếm từ trong dĩ vãng của bà xem có thể có một chứng cứ nào có thể cứu bà khỏi hình phạt khổ hình được không. Tìm tới tìm lui, loay hoay sổ này sổ nọ mà vẫn không thấy. Không thất vọng, thiên thần còn đi vào cả dĩ vãng của cha mẹ bà để xem có phải vì hoàn cảnh nào đó mà bà trở nên một con người như vậy chăng!

Nhưng rồi cuộc tìm kiếm chỉ để lại thất vọng. Rất may, đúng phút đó, thì thiên thần nhớ lại được một cử chỉ bác ái rất nhỏ của bà: Có một lần bà đã cho người nghèo kia một cọng hành. Thế là thiên thần vội vàng đến trình diện trước tòa Chúa. Thiên thần đưa ra chứng cớ, xin Chúa cứu xét trường hợp của bà. Chúa nhân lành ưng ngay, và ra lệnh cho thiên thần hãy kiểm tra lại cái cọng hành kia. Vâng! Quả là may mắn cho bà. Cộng hành vẫn còn được lưu giữ trong kho công nghiệp.

Sau khi được phép, thiên thần dùng cọng hành biến thành dây, để kéo người đàn bà đó ra khỏi hồ lửa. Vớ được cọng hành, bà nắm thật chặt và được từ từ kéo lên.

Thiên thần kéo cọng hành một cách hết sức thận trọng. Mọi sự diễn tiến rất tốt đẹp. Người đàn bà kia hớn hở mừng rỡ, tin rằng, giờ cứu thoát đã gần đến.

Thế nhưng, trước khi được hoàn toàn giải thoát, đang lâng lâng lướt nhẹ, thì bà chợt cảm thấy như bị níu kéo lại bởi nhiều bàn tay. Bà cảm thấy mình bị đụng chạm từ nhiều chỗ: nào là gấu áo, nào là chân, nào là tay và cả lưng áo nữa. Bà vội nhìn xuống lại thì thấy nhiều linh hồn khác đang “canh-me” bám vào bà với hy vọng mình cũng được cứu. Dĩ nhiên là bà không bằng lòng chút nào. Rồi với quyết tâm không cho những con người đó bám vào mình, bà lấy hết sức mình hất tất cả những bàn tay ấy ra. Rủi thay, chính hành động đó đã làm cộng hành bị đứt ra làm hai. Thế là bà và những người khác, tất cả lại rơi thẳng xuống đáy lò lửa.

Vâng, sống yêu thương thật khó. Mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm về vấn đề này. Nhưng khó không có nghĩa là không thể. Nếu biết cậy dựa vào ơn của Chúa. Vì đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được. (Lc 1,37)

Thứ bảy sau Chúa Nhật 3 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 18, 9-14

Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác:

“Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi”.

Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.

Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.

SUY NIỆM 1: Tự hào và khinh người

Suy niệm:

Tự hào về sự đạo đức của mình và khinh người khác,

Đó chẳng phải chuyện của các ông Pharisêu ngày xưa.

Đó là chuyện của con người mọi thời, của chính các môn đệ hôm nay.

Chúng ta nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn này cho mình trong Mùa Chay thánh.

Hai nhân vật đối lập nhau, được đặt bên nhau trong dụ ngôn.

Họ ở trong cùng một đền thờ, cùng đứng cầu nguyện trước nhan Chúa.

Họ là một ông Pharisêu thánh thiện và một người thu thuế tội lỗi.

Nghe lời cầu nguyện của họ, chúng ta biết được lòng họ.

Người Pharisêu không xin gì cho mình, ông chỉ tạ ơn Thiên Chúa.

Ông kể ra những điều xấu mà ông không làm như bao kẻ khác,

hay như tên thu thuế mà ông thoáng thấy đứng cuối đền thờ (c. 11).

Ông còn kể những việc đạo đức tự nguyện về ăn chay và dâng cúng

mà ông đã làm vượt quá những gì Luật đòi buộc.

Lời cầu nguyện của ông khiến nhiều người Do Thái tử tế phải thèm.

Còn người thu thuế thì đứng xa, cúi đầu, đấm ngực, cầu xin cách đơn sơ:

“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (c. 13).

Anh thấy mình bất xứng, bất lực, chỉ biết cậy dựa vào tình thương tha thứ.

Kết luận của Đức Giêsu hẳn đã làm nhiều người chưng hửng.

Người thu thuế được Thiên Chúa làm cho nên công chính,

còn người Pharisêu thì không (c. 14).

Thiên Chúa có bất công không? Chúng ta có cần sống tử tế nữa không?

Thật ra, ông Pharisêu không được gì vì ông đã không xin gì.

Ông không xin vì ông thấy mình quá ư giàu có về mặt đạo đức.

Ông ra trước Thiên Chúa với một kho công trạng của mình.

Có bao nhiêu chữ con đầy tự hào trong lời nguyện của ông.

Chúng ta tưởng ông mở ra khi nói “con tạ ơn Thiên Chúa”

nhưng thực tế ông đã khép lại, quay vào mình, ngắm nghía vẻ đẹp của mình.

Rốt cuộc Thiên Chúa là người thừa, cùng lắm chỉ là người ông đến đòi nợ.

Ngược lại, anh thu thuế tuy có nhiều tiền, nhưng thấy mình tay trắng, lỗi tội.

Chính điều đó khiến anh hết sức cần đến Thiên Chúa.

Ngài đã nghe tiếng kêu của anh từ xa, từ cuối đền thờ.

Không cần Thiên Chúa và coi thường tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở.

Nên thánh không phải là chuyện “tôi làm”

mà là chuyện để Thiên Chúa tự do làm nơi đời tôi.

Chỉ ai nhìn nhận sự yếu đuối của mình,

lời cầu nguyện của người đó mới đánh động được trái tim Thiên Chúa.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,

nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,

dễ thấy Chúa hiện diện

và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,

xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,

khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu

để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu

để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,

vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,

hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: ĐƯỢC NÊN CÔNG CHÍNH

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nhìn bề ngoài thì ai cũng thấy người Pha-ri-sêu được đánh giá cao hơn. Ông thuộc tầng lớp đạo đức, được mọi người kính trọng. Làm nhiều việc lành hơn cả luật đòi hỏi.

Người thu thuế bị mọi người khinh miệt. Bị coi là người tội lỗi công khai. Bị coi là người phản quốc, vì tiếp tay với ngoại bang để hà hiếp dân chúng. Bị coi là gian dối, vì thu thuế đồng nghĩa với tham nhũng hối lộ.

Thái độ trong nhà thờ khi cầu nguyện tiếp nối cách sống ở ngoài đời. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng người trên cung thánh và lớn tiếng cầu nguyện. Còn người thu thuế quì sụp xuống đất ở cuối nhà thờ, chỉ nài xin Chúa tha tội. Nhưng kết quả trái ngược hẳn với những gì ta thấy bên ngồi. Tại sao?

Người Pha-ri-sêu kiêu ngạo. Thực ra ông không cầu nguyện, ông chỉ khoe khoang và tự đánh giá mình cao hơn người thu thuế. Còn người thu thuế khiêm nhường. Ông cầu nguyện thầm thĩ, đấm ngực ăn năn, và xin tha thứ.

Người thu thuế được nên công chính, người Pha-ri-sêu thì không. Có 3 lý do:

Chúa kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Chẳng ai có quyền tự hào. Tất cả là của Chúa. Tất cả phải trả về cho Chúa. Đó là điều phải làm. Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng mà thôi.

 “Ta muốn tình yêu chứ không cần hi lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu”. Thiên Chúa là tình yêu và giầu có vô cùng. Người chỉ cần tình yêu chứ không muốn gì khác. Người thu thuế đến với Chúa bằng tấm lòng yêu mến và nghèo công phúc. Nên được công chính.

Thư Rôma 3, 27: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy”. Người Biệt phái làm điều luật dạy, nên tự hào. Người thu thuế chẳng dám tự hào, chỉ tin vào lòng thương xót của Chúa. Nên ông được công chính.

Mùa Chay là lúc ta nhận biết mình tội lỗi, yếu hèn và không thể tự mình đạt được ơn cứu độ. Ta hãy noi gương người thu thuế nhận thức tội lỗi của mình. Nài xin ơn tha thứ. Cậy trông vào lòng thương xót của Chúa, để ta được công chính, được ơn cứu độ.

SUY NIỆM 3: Chìa Khoá Của Tự Do

Người Hồi giáo nói về sự cầu nguyện bằng câu chuyện sau:

Có một người thợ kim hoàn nghèo nhưng thanh liêm bị giam tù vì một tội ông không bao giờ phạm. Vài tháng sau khi người chồng bị giam giữ, người vợ đến gặp ban giám đốc và xin cho chồng một ân huệ. Bà nói chồng bà là một tín hữu trung thành với các buổi cầu nguyện, bà xin được gửi cho chồng một tấm thảm nhỏ để quì cầu nguyện năm lần một ngày theo qui định của Hồi giáo. Lời thỉnh cầu được chấp nhận dễ dàng… Ngày nọ, người thợ kim hoàn đến trình bày với các quản giáo: “Tôi là thợ kim hoàn, nếu các người cho tôi một ít kim loại, tôi có thể vừa qua được thời giờ nhàn rỗi, vừa làm được cho các người những nữ trang có thể dùng được”. Các quản giáo không thấy trở ngại nào về điều đó. Một ngày nọ, các canh tù bỗng phát giác ra cánh cửa nhà tù bị mở toang và người thợ kim hoàn đã tẩu thoát. Cùng lúc đó người ta cũng bắt giữ được thủ phạm đích thực mà họ đã qui lầm cho người thợ kim hoàn. Bấy giờ người thợ kim hoàn mới ra mặt và tiết lộ việc trốn thoát cuả ông. Sau khi ông bị bắt oan, vợ ông liên lạc với kiến trúc sư đã vẽ hoạ đồ nhà tù. Ông này cho phép bà in nguyên hoạ đồ chi tiết cuả nhà tù lên tấm thảm. Mỗi ngày năm lần dù phủ phục trên tấm thảm để cầu nguyện, người thợ đã thuộc lòng đường ra lối vào của nhà tù, thêm vào đó nhờ những mảnh kim loại các quản giáo cung cấp, người thợ đã có thể mài dũa những chìa khoá để mở các cánh cửa nhà tù, đó là bí quyết đã giúp ông trốn được khỏi nhà tù.

Cầu nguyện là chìa khoá của tự do. Một tâm hồn khao khát tự do đích thực là một tâm hồn biết cầu nguyện. Chúa Giêsu như muốn minh hoạ cho chân lý ấy qua dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Biệt phái lên giữa đền thờ đứng thẳng người để kể về những thành tích của mình, trong khi đó người thu thuế tội lỗi đứng trong góc đền thờ, không dám ngước mặt lên, nhưng cúi mình đấm ngực nói lên nỗi khốn cùng tội lỗi của mình. Chúa Giêsu tuyên bố người thu thuế ra về được tha tội, còn người Biệt phái vẫn tiếp tục ù lì trong sự tự phụ của mình. Phải chăng Chúa Giêsu không muốn nói với chúng ta rằng câu chuyện đích thực chính là nỗi khao khát được thoát khỏi những thứ nô lệ đang trói buộc tâm hồn con người.

Mùa Chay là trường dạy cầu nguyện. Giáo hội mời gọi chúng ta gia tăng cầu nguyện, điều đó có nghĩa là chẳng những dành nhiều thời giờ cho cầu nguyện, mà nhất là thanh luyện thái độ chúng ta trong khi cầu nguyện, lời cầu nguyện đích thực trong mùa chay phải là thái độ sám hối. Khởi đầu của cầu nguyện ấy là mọi nhận thức sâu xa về thân phận, tội lỗi của chúng ta và từ đó nói lên tất cả tín thác của chúng ta vào tình yêu tha thứ của Chúa. Lòng tín thác ấy sẽ xoá tan mọi tội lỗi và mang lại cho chúng ta tự do đích thực của con cái Chúa.

Như người con hoang đàng mong được trở về với cha, như người thu thuế nép mình nơi lòng tha thứ của Chúa, xin cho chúng ta luôn được sống trong tâm tình sám hối thực sự và cảm nhận được tình thương khoan dung vô bờ của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Hoán cải và cậy trông

Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư và những người pharisiêu thường bị Chúa quở trách nặng lời về tính tự cao tự đại của họ.

Trong dụ ngôn vừa đọc lại trên đây, Chúa Giêsu dùng hình ảnh một người pharisiêu khoe khoang công trạng mình trước mặt Thiên Chúa. Ông đáng trách không phải vì những việc tốt ông đã làm, như việc ăn chay mỗi tuần hai lần và đóng thuế thập phân cho đền thờ. Nhưng ông đáng trách vì đã xem những công việc đạo đức này như là một chiếc vé để mang lại sự công chính cho ông. Qua lời cầu nguyện của ông, chúng ta thấy rõ ông làm những việc này cốt để tự biến mình trở nên người công chính chứ không phải để thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ anh chị em. Ông giữ mình khỏi vướng mắc vào các thói hư tật xấu cốt để cho người khác thấy ông đạo đức tốt lành, chứ không như những người hư đốn đồi bại khác. Mỗi khi ra đường, chắc hẳn ông đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên với khuôn mặt nghiêm trang, dáng đi chững chạc uy nghi, các hộp kinh thật lớn thắt trên người, các tua áo thật dài thả tung bay, ông nhìn thấy mình thật xứng đáng để cho thiên hạ kính nể. Bước vào đền thờ, ông đứng riêng ra, chọn cho mình một chỗ xứng đáng và ông bắt đầu khoe với Chúa những công trạng của mình. Nhìn thấy người thu thuế đang cúi đầu khẩn nguyện, ông thưa với Chúa cách tự phụ: “Ðấy, Chúa thấy người thu thuế tội lỗi kia không, con đâu như hắn ta, con tốt hơn hắn nhiều, hắn tham lam tiền bạc, gian lận thuế má, chèn ép lận lường. Con cám ơn Chúa vì con đâu giống như hắn”. Nhưng ông pharisiêu đâu biết rằng Thiên Chúa chẳng cần đếm xỉa gì đến những lời khoe khoang tự cao tự đại của ông, Người cần tấm lòng chứ không cần hy lễ, Người cần con tim yêu thương chứ không cần trí óc tự phụ. Tâm hồn khiêm cung tự hối của người thu thuế mà ông coi chẳng ra gì kia lại làm đẹp lòng Chúa còn hơn là ông nghĩ đến.

Thử hỏi, chúng ta nhìn thấy mình trong hình ảnh người nào trong dụ ngôn trên đây: người pharisiêu hay là người thu thuế? Nếu đã lỡ là người pharisiêu, chúng ta đừng ngã lòng nhưng hãy thành thật hoán cải và cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa, Người có thể biến sự dữ trong chúng ta nên sự lành. Nếu chúng ta thành tâm thiện chí, Thiên Chúa sẽ đập tan tính kiêu hãnh của chúng ta và thay vào đó một tâm tình mới, Người sẽ dạy chúng ta biết sống sao cho đẹp lòng Chúa. Còn nếu chúng ta đã là người thu thuế, thì chúng ta cũng hãy cương quyết làm lại cuộc đời, Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, Người đã đón nhận tấm lòng tan nát khiêm cung của chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng làm lại từ đầu.

Với ân sủng của Thiên Chúa, không có sự gì là không thể thực hiện được, chỉ cần chúng ta vững tin và phó thác vào Người rồi Người sẽ dẫn dắt chúng ta bước đi trên đường ngay nẻo chính. Mùa Chay là mùa thuận tiện để canh tân đời sống. Chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa để đổi mới tâm hồn mình nên công chính như Chúa vẫn mong chờ.

Lạy Chúa, xin gìn giữ con, đừng để con rơi vào thái độ tự phụ kiêu ngạo. Xin cho con biết sống khiêm nhường tự hạ trước tôn nhan Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Và xin giúp con được canh tân đời sống trở về với Chúa, đừng bao giờ thất vọng vì những tội lỗi của con đã phạm, nhưng luôn trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa.

(Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày – R. Veritas)

SUY NIỆM 5: Đừng bắn người biệt phái

Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia là người thu thuế…” (Lc. 18, 9-10)

Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được … Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.

Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống đất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bằng cách lạm thu.

Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái: “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng … Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phao-lô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.

Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.

J.G

SUY NIỆM 6: KHIÊM TỐN THẬT THÌ MỚI ĐƯỢC THA THỨ (Lc 18,9-14)

Có một câu chuyện kể rằng: một ông giáo dân nọ nổi tiếng là đạo đức với những câu chuyện về lòng quảng đại, giúp đỡ của ông cho người nghèo. Ông được nhiều người ca tụng là người tốt lành, thánh thiện, nhất là khiêm tốn khi quảng đại giúp đỡ người cùng khốn mà không cần đến danh vọng…

Chính bản thân ông cũng nghĩ mình như thế! Tuy nhiên, đến lúc về già, ông đến gặp cha xứ và tâm tình với ngài rằng: “Cả cuộc đời con đã hy sinh cho Chúa, Giáo Hội và mọi người, con không hề tính toán thiệt hơn, bởi xác tín rằng: mọi sự con có là bởi Chúa”. Nhưng ngay sau đó, ông xin cha xứ một đặc ân, đó là: khi ông chết, cho ông được chôn ở gầm bàn thờ!

Câu chuyện mang tính ngụ ngôn, nhưng thực tế, trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người có tư tưởng khiêm tốn như ông lão trong câu chuyện trên. Thiết nghĩ, một lần khiêm tốn kiểu đó phải chăng bằng bốn lần kiêu ngạo! Nó thật giống với người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay.

Dụ ngôn kể về việc hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một Pharisêu và một thu thuế. Hai người này là điển hình của hai thành phần cực đoan, thái quá trong dân Dothái thời bấy giờ.

Với nhóm Pharisêu thì bảo thủ, kiêu ngạo, tự coi mình là người thành toàn, nắm toàn bộ lề luật và trở thành kiểu mẫu cho mọi người. Điều này được chứng minh qua lời cầu nguyện của ông với Thiên Chúa. Ông kể lể: “Con không gian tham, không bất công, không ngoại tình, không như người thu thuế đằng sau”; “một tuần ăn chay hai lần và dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.

Còn người thứ hai, bác thu thuế. Người thu thuế thì ai cũng biết, biết về tội ác của ông là phản bội và cấu kết với đế quốc La mã để hà hiếp, bóc lột, vơ vét của cải nhân dân. Vì thế, họ bị dân chúng khinh bỉ vì tội công khai của họ. Chính vì lý do đó, nên chúng ta dễ hiểu là tại sao ông thu thuế này lại đứng đằng xa, không dám ngẩng đầu lên, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.

Kết cục, hai người ra về và người thu thuế thì được Chúa nhận lời, còn người Pharisêu thì không những không được Chúa nhận lời mà lại còn phạm thêm tội vì coi khinh người khác ngay khi cầu nguyện.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: đừng bao giờ coi khinh người khác khi cầu nguyện. Không được phán xét anh chị em của ta, trong khi mình cũng là kẻ có tội. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên với Chúa chứ không phải quy về mình.

Hãy khiêm tốn thật lòng như người thu thuế, Chúa cần những tâm hồn trung thực và thật tâm như vậy, bởi vì tình thương của Thiên Chúa lớn lao hơn tội lỗi của con người, chỉ cần con người thống hối ăn năn thì dù tội có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết “xé lòng chứ đừng xé áo” để đáng được Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Hãy nghe Người

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô Salê nói rằng: “Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu”.

Phanxicô nghe nói ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui sướng và biết ơn.

Suy niệm

Người biệt phái: Tuân giữ luật Môisê một cách nghiêm ngặt và người thu thuế, bị dân chúng khinh miệt và xa lánh như tránh xa người phong hủi, người tội lỗi. Người biệt phái với bước đi hãnh diện tiến vào đền thờ trước những con mắt ngưỡng mộ. Người thu thuế, vào đền thờ với bước đi nhẹ nhàng như kẻ trộm trốn tránh cái nhìn của người đời…

Người biệt phái bên cung thánh cất lời vang vang “con không như kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia”(Lc 18,11). Lời cầu nguyện đầy hãnh diện. Anh khoe sự đạo đức cho mọi người thấy mình thánh thiện và đấm ngực người thu thuế quân tội lỗi. Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ: Vì cho rằng sự thánh thiện của mình làm nên sự công chính. Coi sự cố gắng của mình trên cả ân sủng. Chính sự thánh thiện của mình che lấp sự thánh tuôn trào hồng ân của Thiên Chúa. Anh tự hào, cái tự hào tự mãn làm anh cảm thấy không cần nhu cầu ơn thánh và tình thương của Thiên Chúa, không cần cậy dựa vào Ngài. Tin tưởng tự mình có thể công chính hóa cho mình. Chính lúc tự hào, đóng kín với ân sủng, người biệt phái đã mất ơn Chúa và không còn công chính nữa. Hơn nữa sai lầm lớn nhất khi anh dám so sánh mình “thánh” với “tội” của người khác, Chúa Giêsu đã nói: “Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cái đà trong mắt mình?” (Mt 7,3). Là con người bất toàn, ai cũng có lỗi, nhưng anh chỉ thấy cái thánh thiện để khỏa lấp bao che cho chính tội lỗi của mình. Qua hình ảnh của người biệt phái, hôm nay chúng ta nghiệm thấy tinh thần của Chúa Giêsu muốn giáo huấn chúng ta: Bản thân con người không thể làm cho mình nên thánh thiện, nếu chỉ nhờ thi hành những việc đạo đức, nhưng luôn cần ân sủng và nương nhờ vào tình thương vô biên của Thiên Chúa.

Người thu thuế thì không dám ngẩng đầu, không tiến về cung thánh nhưng ẩn khuất cuối đền thánh, anh cúi đầu thú tội: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Anh ý thức mình là một tội nhân, kẻ ngang hàng với bọn đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). Anh đấm ngực xin Thiên Chúa thứ tha, tẩy rửa tâm hồn. Anh làm thức dậy tâm tình sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây, nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt được mục đích”.

Thật thế, Thiên Chúa đã cúi xuống với người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh chỉ biết dựa vào lòng thương xót đầy tình yêu của Ngài. Sự trở lại và canh tân của anh trong ân sủng. Hình ảnh đó làm chúng ta cảm nghiệm lời chia sẻ của thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi giáo đoàn Rôma: “Ở đâu tội lỗi ngập tràn, thì ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).

Chúng ta mang tâm tình khiêm cung trước Thiên Chúa, đấm ngực sám hối và mở lòng xin Ngài tiếp tục làm điều kỳ diệu trong chính mình: Tâm hồn luôn đổi mới ngập tràn tình yêu.

Chúa thứ tha, Chúa ban ơn

Từ nay con sống tâm tình an vui.

Ý lực sống: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).

Suy Niệm 8: Thái độ khi cầu nguyện

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca đưa ra hình ảnh hai người lên Đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái đứng riêng một mình, tách khỏi người thu thuế mà ông khinh chê. Thật sự ông đã chu toàn các phận sự mà luật buộc và ông cho rằng đó là những điều bảo đảm cho ông được công chính. Ông không cần điều gì nơi Thiên Chúa. Nhưng thật ra, sự công chính cũng là một ân huệ Chúa ban. Chính vì tự kiêu, nên lời cầu nguyện của ông không được Thiên Chúa chấp nhận.

Còn ngươi thu thuế cũng đứng đàng xa, cũng tách khỏi cộng đoàn. Vì thấy mình bất xứng, tội lỗi, ông chẳng dám ngước mắt lên trời. Nhờ sự khiêm tốn mà ông đến được với Thiên Chúa và được ân sủng của Người.

  1. Đối với xã hội Do thái, có hai hạng người đối nghịch nhau, đó là những luật sĩ, biệt phái và người thu thuế. Người biệt phái thì tuân giữ luật Maisen cách nghiệm ngặt, họ là mẫu gương cho mọi người và được mọi người kính trọng; còn người thu thuế bị dân chúng khinh miệt và xa lánh như tránh xa những người phung hủi, tội lỗi. Người biệt phái với bước đi hãnh diện tiến vào Đền thờ trước những con mắt ngưỡng mộ. Người thu thuế, vào Đền thờ với bước đi nhẹ nhàng như kẻ trộm lành trốn tránh cái nhìn của người đời.
  2. Người biệt phái cầu nguyện: Ông bước vào cung thánh đứng thẳng người, cất tiếng ca vang: “Con không như kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia”. Lời cầu nguyện của ông đầy hãnh diện. Anh khoe sự đạo đức cho mọi người thấy mình thánh thiện và đấm ngực người thu thuế quân tội lỗi.

Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ. Vì cho rằng sự thánh thiện của mình làm nên sự công chính. Coi sự cố gắng của mình trên cả ân sủng. Chính sự thánh thiện của mình che lấp sự thánh tuôn trào hồng ân của Thiên Chúa. Ông tự hào, cái tự hào tự mãn làm cho ông cảm thấy không cần nhu cầu ân thánh và tình thương của Thiên Chúa, không cần cậy dựa vào Ngài. Tin tưởng tự mình có thể công chính hóa cho mình. Chính lúc tự hào, đóng kín với ân sủng, ông biệt phái đã mất ơn Chúa và không còn công chính nữa.

  1. Người thu thuế cầu nguyện: anh này không dám ngẩng đầu lên, không tiến về cung thánh nhưng ẩn khuất cuối Đền thờ, anh cúi đầu thú tội: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Anh ý thức mình là một tội nhân, kẻ ngang hàng với bọn đĩ  điếm. Anh đấm ngực xin Thiên Chúa thứ tha, tẩy rửa tâm hồn. Anh làm thức dậy tâm tình sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây, nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt tới mục đích”. Thật thế, Thiên Chúa đã cúi xuống với người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh chỉ biết dựa vào  lòng thương xót đầy tình yêu của Ngài.
  2. “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống…”

Sinh vào đời ai cũng có một cái tôi thật đơn sơ và dễ thương. Thế nhưng nó dễ bị biến tướng trở thành cái tôi đáng ghét như Blaise Pascal đã nói: “Le moi est haissable”: cái tôi đáng ghét.

Cha Quang Uy đã “đánh vần” cái tôi biến tướng đó thành một bài hát dí dỏm và thật ý nghĩa:

Khi kiêu căng tôi sắc sảo,

tôi thành tôi sắc tối.

Huênh hoang tôi huyền hoặc.

tôi thành tôi huyền tồi.

Tự ái tôi nặng nề,

tôi thành tôi nặng tội.

Khiêm tốn tôi thật thà,

Tôi thành tơ-ôi-tôi.

Cũng vậy, ông biệt phái đã huênh hoang, tự cao tự đại, “khoe” thành tích cái tôi của ông với Chúa. Do đó, những việc ông làm – dù rằng rất tốt – thay vì trở nên công phúc thì lại biến thành bọt bèo cái tôi tồi tệ và tội lỗi của ông. Ngược lại, với lòng khiêm hạ, người thu thuế nhìn thấy sự yếu đuối của mình và cần đến lòng thương xót của Chúa. Chính vì vậy, ông hoán cải và được Chúa kể là người công chính (5 phút Lời Chúa)

  1. Truyện: Quỉ không khiêm nhường sám hối.

Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:

– Tôi thấy Chúa xử không công minh chút nào!

Chúa liền hỏi nó rằng:

– Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng?

Bấy giờ tên quỉ mới đáp:

– Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng nữa. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhât, thế mà Chúa không khi nào tha thứ, mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao?

Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:

– Loài người có phạm tội với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội. Còn các ngươi, có sám hối và xin Ta tha tội cho chưa?

Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng:

– Ma quỉ chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả.

Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tất cả mọi nỗ lực cố gắng, tất cả mọi thành tích công trạng của con người đều không xứng đáng được Chúa ban ơn. Trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là số không. Khiêm tốn nhìn nhận đúng thân phận của mình ta sẽ được Chúa ban ơn lành.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, bắt đầu phút cầu nguyện, trước hết con dâng lên Chúa tâm tình khiêm tốn. Trước mặt Chúa Toàn Năng, con chẳng đáng là gì. Lời cầu nguyện khiêm tốn của con không phải chỉ để xin ơn, nhưng là để nhận biết những ơn lành Chúa ban, để dâng lời cảm tạ Chúa, lời cầu nguyện khiêm hạ không làm con trở nên yếu đuối, nhưng thúc đẩy con trở nên can đảm chấp nhận mọi sự thật về mình. Con nhận biết khuyết điểm hạn chế của con để sẵn sàng đón nhận ân sủng Chúa ban.

Chúa đã tuyên dương thái độ của người thu thuế, vì ông khiêm tốn thống hối ăn năn và chờ đợi ân sủng cứu độ từ lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa cho con đừng chỉ dừng lại nơi việc thống hối bên ngoài, nhưng biết đi sâu vào nội tâm và thể hiện trong cuộc sống: biết đến với Chúa trong tâm tình tin tưởng phó thác và biết đối xử với anh em trong tình huynh đệ cảm thông.

Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh tuyệt đẹp trong cuộc sống là lúc Chúa liên kết với Chúa Cha trong lời cầu nguyện. Xin Chúa dẫn đưa con đến với Cha trong tâm tình yêu mến.

Lạy Chúa, hằng ngày con vẫn cầu nguyện trong giờ kinh lễ, và ngay lúc này con đang cầu nguyện với Chúa. Xin Chúa giúp con khiêm tốn, không tự mãn, nhưng biết mở lòng hướng nhìn về Chúa và cậy trông vào lòng thương xót bao la của Chúa. Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm công việc con phải làm. Amen.

Ghi nhớ: “Người thu thuế ra về được khỏi tội”.

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

  1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê đã để lại cho hậu thế một câu nói lừng danh “Ta muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ”.
  2. Bài Phúc Âm: Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho câu nói trên của Hôsê:

‑ Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.

– Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:

  1. Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:

– Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không ?

– Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.

– Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không ?

– Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.

– Con còn điều gì khác nữa không ?

– Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.

Chúa Hài Đồng bảo:

– Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.

– Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được ?

– Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.

Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích “Món quà giáng sinh”)

  1. Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.

Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.

Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích “Món quà Giáng sinh”)

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:

Đây là lời của một bản thánh ca: con chẳng có gì dâng Chúa hôm nay.

Một đêm Giáng Sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:

– Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không ?

– Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.

– Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không ?

– Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.

– Con còn điều gì khác nữa không ?

– Nào con còn có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu! Thánh nhân khẩn khoản thưa.

Chúa Hài Đồng bảo:

– Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.

– Ôi lạy Chúa, thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được ?

– Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.

Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích “Món quà giáng sinh”)

  1. Lời Chúa hôm nay cũng muốn nhắc nhớ chúng ta về sự cầu nguyện. Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy được một số gợi ý cho chúng ta:
  2. Người kiêu ngạo không thể cầu nguyện. Cửa lên trời rất thấp nên chỉ ai biết quì gối xuống mới vào được. Có một bài cầu nguyện của một Rabbit Do Thái mà người ta ghi lại được. Bài cầu nguyện đó như sau:

“Lạy Giavê là Thiên Chúa của tôi, tôi cảm tạ Ngài vì Ngài đã đặt tôi dự phần với những viện sĩ trong Hàn lâm viện chứ không phải ngồi chung với những kẻ đầu đường xó chợ. Vì tôi dậy sớm thì chúng cũng dậy sớm, tôi dậy sớm để học luật pháp Chúa, còn chúng dậy sớm vì những sự hư không. Tôi làm việc, chúng cũng làm việc. Tôi làm việc và lãnh phần thưởng, còn chúng làm việc và không được lãnh phần thưởng. Tôi chạy và chúng cũng chạy, tôi chạy tới sự sống của đời sau, còn chúng chạy tới hố diệt vong”.

Người ta nói, Rabbit Simon ben Gacai đã có lần nói: “Nếu chỉ có hai người công chính trên thế gian thì đó là tôi và con trai tôi; nếu chỉ có một người công chính thì người đó là tôi”. Người Pharisêu này thực ra không đến Đền thờ để cầu nguyện. Ông ta đến để nói cho Thiên Chúa biết ông ta tốt như thế nào.

  1. Người nào khinh dể anh em mình cũng không có thể cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện, chúng ta không được nâng mình lên trên kẻ khác. Cần nhớ rằng, chúng tôi là một phần nhân loại đang phạm tội, đang đau khổ, đang âu sầu, tất cả đang quì gối trước ngai xót thương của Thiên Chúa.
  2. Chỉ có sự cầu nguyện thậtkhi chúng ta biết đặt đời sống mình bên cạnh sự sống của Thiên Chúa. Chúng ta không hồ nghi điều mà người Pharisêu trong Tin Mừng hôm nay đã nói. Tất cả đều đúng. Ông ta đã ăn chay và đã kỹ lưỡng dâng 1/10, ông ta đã không giống người khác, lại càng không giống người thâu thuế bên cạnh ông. Nhưng vấn đề không phải là “Tôi có tốt như kẻ khác chăng ?” nhưng là “Tôi có tốt như Chúa không ?”

Trong cuốn “Tâm Hồn Nhật Ký”, Đức Gioan XXIII đã ghi lại tất cả cuộc sống thiêng liêng của ngài, trong đó phần quan trọng nhất là phần ghi lại những lần tĩnh tâm từ lúc còn ở chủng viện (1898) cho đến những năm trên ngôi Giáo Hoàng (1963). Đối với ngài, mỗi lần tĩnh tâm là mỗi lần kiểm điểm lại cuộc đời và có quyết định mới. Đặc biệt là lúc đã ngoài 80 tuổi, gần từ giã dương thế, mặc dù ở trên ngôi Giáo Hoàng bận rộn muôn vàn công việc đại sự, ngài vẫn thường xuyên tự kiểm điểm. Ngài luôn quyết tâm sống xứng đáng là một tâm hồn cao cả, muốn sửa đổi mình liên lỉ để sống đẹp lòng Chúa cho đến giây phút cuối cùng, sống thế nào đó cho được giống như Người.

Như vậy, tất cả là tùy ở chỗ chúng ta so sánh mình với đối tượng nào. Khi chúng ta đặt đời sống mình bên cạnh đời sống kỳ diệu của Chúa Giêsu, bên cạnh sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ có thể nói “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi khốn nạn”.

Mẹ Têrêsa phụ hoạ thêm:

Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tấm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.

Cầu nguyện không đòi chúng ta bỏ dở công việc nhưng đòi chúng ta tiếp tục làm việc vì làm việc cũng là cầu nguyện.

Cầu nguyện dẫn tới đức tin, đức tin dẫn tới tình yêu, tình yêu đưa tới phục vụ vì lợi ích người nghèo.

Lạy Chúa, xin làm con nên dụng cụ phục vụ mọi người trên thế giới với tình yêu thương như Chúa. Amen.