Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 4 Mùa chay

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 4 Mùa chay

 

Thứ hai sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay.

Thứ ba sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay.

Thứ tư sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay.

Thứ năm sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay.

Thứ sáu sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay.

Thứ bảy sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay.

Thứ hai sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay

Lời Chúa: Ga 4, 43-54

Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: “Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình”. Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.

Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: “Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin”. Viên quan chức trình lại Người: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết”. Chúa Giêsu bảo ông: “Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi”. Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.

Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: “Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt”.

Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: “Con ông mạnh rồi”, nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin.

Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.

SUY NIỆM 1: Con ông sống

Suy niệm:

Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thường gặp nỗi sợ hãi, lo lắng

của những bậc cha mẹ trước căn bệnh hiểm nghèo của con mình.

Ông trưởng hội đường Giairô khẩn khoản nài xin Đức Giêsu

“Con bé nhà tôi gần chết. Xin Thầy đến và đặt tay trên nó” (Mc 5, 23).

Bà dân ngoại gốc Canaan kêu lên: “Xin thương xót tôi,

vì con gái của tôi bị quỷ ám trầm trọng lắm” (Mt 15, 22).

Người cha có đứa con bị động kinh cũng nài van Đức Giêsu:

“Xin Thầy chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9, 22).

Trong bài Tin Mừng hôm nay viên sĩ quan, có lẽ của vua Hêrôđê, cũng năn nỉ:

“Xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!” (c. 49).

Bệnh tật và cái chết đang đe dọa đứa con khiến cha mẹ khổ đau và bối rối.

Họ không muốn mất đứa con đã trở nên một phần của đời họ.

Họ vội vã đến với Đức Giêsu như đến với một nơi có thể cấp cứu kịp thời.

Họ tin vào sự hiện diện của Ngài, vào sự chữa lành mà Ngài đem lại.

Lòng tin của viên sĩ quan đã lớn lên từ từ.

Ông tin nhờ nghe người ta nói về những gì Đức Giê su đã làm ở vùng Giuđê.

Ông gặp Ngài vì tin Ngài có thể chữa đứa con trai đang nguy tử của ông

bằng cách đi với ông về nhà ở Caphácnaum (c. 49).

Nhưng sau đó ông tin vào uy quyền của lời Đức Giêsu:

“Ông cứ về đi, con ông sống!”

nên ông vâng lời đi về nhà một mình (c.50).

Chẳng cần sự hiện diện, chỉ cần lời của Ngài nói từ xa cũng đủ con ông khỏi bệnh.

Lòng tin của ông được vững vàng hơn khi ông kiểm chứng và biết rõ

chính vào giờ Ngài nói thì con mình được chữa lành (c. 53).

Bây giờ hẳn ông đã tin trọn vẹn vào chính con người Đức Giêsu.

Lòng tin ấy lôi cuốn cả gia đình ông tin theo.

Sau khi dấu lạ xảy ra, không thấy nói gì về thái độ ngạc nhiên của gia quyến.

Kết quả tuyệt vời của dấu lạ là chính lòng tin của mọi người trong nhà.

Họ sẽ được ông kể cho nghe từng chi tiết câu chuyện gặp gỡ.

Trong tiệc cưới ở Cana, lòng tin của Đức Maria đã dẫn đến dấu lạ đầu tiên.

Dấu lạ này đã khiến các môn đệ Đức Giêsu tin vào Ngài (Ga 2, 11).

Trong dấu lạ thứ hai này ở Cana, lòng tin của viên sĩ quan, của một người cha,

đã dẫn đến lòng tin của những người thân thuộc.

Lòng tin thật sự bao giờ cũng có khả năng thu hút, lôi kéo, lan rộng.

Ngay trước đoạn Tin Mừng này,

chuyện người phụ nữ Samari cũng cho ta thấy điều đó.

Từ lời chứng của chị, dân thành Xykha đã tin vào Đức Giêsu (Ga 4,39).

Đời chúng ta cũng có những lúc tưởng như tuyệt vọng,

khi ta thấy tuột khỏi tay mình những gì rất quý mà mình muốn ôm giữ.

Hãy nhìn lên thánh giá để khỏi mất lòng tin.

Hãy chấp nhận đi vào những nẻo đường lạ lẫm mà Chúa đang mời gọi.

Như viên sĩ quan, ta sẽ gặp tin vui ngay trên đường về nhà.

Cầu nguyện:

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,

mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: ĐỨC TIN LÀ LẼ SỐNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con người ta thật mâu thuẫn. Cứ bám víu vào những gì không vững chắc để rồi lo âu buồn phiền. Thân phận con người vốn mong manh. Sinh, lão, bệnh, tử là số phận. Cứ bám víu vào nó chỉ gây phiền não. Năng lực của loài người là giới hạn. Cậy trông vào những năng lực đó sẽ đi đến thất vọng chán chường. Đó chính là sự yếu đuối của con người. Tin tưởng vào những gì thấy được. Cậy trông vào người đời. Tìm giải pháp bằng những phương tiện của con người.

Lời Chúa hôm nay cho ta thấy, chỉ Thiên Chúa mới giải quyết được những vấn đề của ta. I-sai-a cho biết chính Thiên Chúa mới đem lại niềm vui tươi phấn khởi cho cuộc sống. Có Chúa ta sẽ không còn khóc lóc u sầu. Có Chúa ta sẽ không còn cảnh chết chóc tang tóc. Có Chúa những việc ta làm mới có kết quả và không mai một với thời gian. “Người ta sẽ xây nhà và được ở, sẽ trồng nho và được ăn trái”.

Thánh Gio-an cho biết để được như vậy, ta cần có một đức tin vững vàng. Chúa Giêsu sẵn sàng chữa bệnh cho đứa con viên sĩ quan, miễn là ông tin. Chúa đòi hỏi một đức tin tuyệt đối. Tin chỉ vì tin chứ không phải vì thấy những dấu lạ điềm thiêng. Viên sĩ quan này có đức tin. Nên ông tin ngay lời Chúa. Khi Chúa nói: “Ông cứ về đi, con ông sống. Ông tin vào lời Chúa nói với mình và ra về”. Chưa nhìn thấy, chưa kiểm chứng, ông tin tưởng và ra về. Vì thế ông đã nhận được điều ông xin.

Đức tin đó là điều Chúa mong đợi. Đức tin làm nên vương quốc mới Chúa thiết lập. Tin vào Chúa. Vượt qua khỏi gắn bó và tin tưởng vào thế lực thế gian, vào những giá trị đời này. Để chỉ tin tưởng phó thác cho Chúa tất cả. Tin tuyệt đối. Tin không điều kiện, không kiểm chứng, không đòi bảo đảm nào.

Tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những bám víu vào vật chất, thế lực đời này, để chỉ tin tưởng vào một mình Thiên Chúa. Đó là điều không dễ. Khi sống đức tin như thế, ta chiếu sáng đức tin giữa đời. Ta làm chứng về Chúa. Làm chứng về vương quốc Nước Trời. Nơi không còn khổ đau khóc lóc, không còn chết chóc, tang tóc. Chỉ có niềm hoan hỉ phấn khởi. Nơi mọi việc ta làm đều tồn tại và ta được hưởng thành quả do sức lao động làm ra.

Khi sông đức tin như thế, ta làm cho vương quốc Nước Trời lớn mạnh. Và kế hoạch của Chúa mau hoàn thành.

SUY NIỆM 3: Chữa con một quan chức

Một thiếu nữ có giọng hát thiên phú, cô luyện giọng với một giáo sư âm nhạc tài ba, cô đã hát được những giai điệu tuyệt hảo. Thế nhưng khi trình diễn, cô vẫn thấy giọng hát của cô chưa được truyền cảm. Vị giáo sư âm nhạc giải thích cho cô: “Tôi đã dạy cô tất cả những gì tôi biết, nhưng cô còn thiếu một điều mà tôi không thể cung cấp cho cô được, điều đó đến từ cuộc sống: chỉ có kinh nghiệm của cuộc sống, chỉ có những điều làm tan vỡ cõi lòng mới làm cô hát với tất cả cảm xúc”.

Bước vào tuần 4 mùa chay, Giáo Hội mỗi lúc một tha thiết mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để được xứng đáng chung phần vinh quang Phục Sinh của Ngài. Cuộc sống với những khổ đau mà chúng ta đang trải qua quả là một cuộc tử nạn dai dẳng. Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống ấy. Sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không có nghĩa là tự đày đọa mình vào cuộc sống khổ lụy. Đau khổ tự nó không phải là một giá trị để tìm kiếm. Sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là mặc lấy tinh thần tin yêu phó thác của Ngài. Thất vọng, buông xuôi, nổi loạn, trách móc là cơn cám dỗ chung của mọi người. Chúa Giêsu có lẽ cũng không thoát khỏi những giờ phút thử thách ấy. Thế nhưng ý hướng duy nhất của Ngài lúc đó là niềm tín thác và tha thứ. Chỉ có thái độ như thế mới đem lại giá trị cho đau khổ và biến cuộc tử nạn của Ngài thành của lễ đẹp lòng Thiên Chúa.

Đó cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy khi cho chúng ta nghe và suy niệm về lòng tin của viên bách quản Caphanaum. Dù chỉ là một người ngoại giáo, dù chưa một lần chứng kiến phép lạ nào của Chúa Giêsu, nhưng ông đã tìm đến để xin Ngài chữa lành cho đứa con của ông, hay đúng hơn là để xoa dịu nỗi đau khổ của người cha phải chứng kiến con mình quằn quại trong đau khổ.

Đau khổ là lửa thử niềm tin con người, đau khổ có thể đưa con người đến thất vọng, chối bỏ, và lộng ngôn, nhưng đau khổ cũng có thể là khởi điểm của tin yêu phó thác. Nguyện xin Đấng là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng ta giữa những đau khổ đè nặng trên thân xác và tâm hồn chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Ðức tin đưa tới phép lạ

Chúa Giêsu chữa lành con trai người quan chức tại Caphacnaum khi Ngài ở Giuđa về Galilê và thánh sử Gioan ghi rõ đây là phép lạ thứ hai Ngài thực hiện tại Cana. Phép lạ thứ nhất là hóa nước thành rượu vào giai đoạn đầu đời rao giảng công khai. Hóa nước thành rượu theo lời đề nghị của Ðức Maria, mẹ Ngài, để cứu vãn danh dự cho gia chủ tiệc cưới. Chữa lành người con một quan chức nhà vua, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đến vì mọi người và ở mọi tầng lớp xã hội. Ngài đã ra tay để mang lại hạnh phúc cho mọi người không cần biết họ là ai và điều kiện đón nhận phép lạ là đức tin. Ðức tin của con người cộng với ơn của Thiên Chúa tạo nên phép lạ.

Mỗi ngày sống hôm nay của chúng ta là sự lạ lùng Thiên Chúa thực hiện. Không nhận ra được sự lạ lùng ấy là vì chúng ta không có đức tin. Không có thì không phải Thiên Chúa không ban ơn đức tin cho chúng ta đâu mà là do chúng ta không muốn lãnh nhận ơn ấy vì sợ sệt, sợ phải sống theo Tin Mừng, sợ nên thánh, sợ phải sống tốt hơn. Chẳng hạn như sự kiện cha sở đề nghị chia sẻ Lời Chúa thì rút lui, tránh né. Nhưng quả thật là họ dự lễ chứ chưa dâng lễ. Ðã từ lâu họ quen cảnh linh mục chủ tế, công bố Tin Mừng và giảng trong khi họ mơ mơ màng màng với giấc ngủ chưa dứt, những suy nghĩ viễn vông. Nay phải tiếp cận Lời Chúa và để cho Lời Chúa soi dọi trong mọi ngõ ngách trong lòng họ, nhắc họ ra khỏi tình trạng ươn lười và khoán việc cho người khác thì họ thấy sợ. Không lạ lùng gì họ không thể và không bao giờ có thể chứng kiến được những kỳ diệu Thiên Chúa làm trong đời sống họ mỗi ngày.

Lời loan báo Tin Mừng cũng trở nên vô nghĩa ngay trong nhà thờ đông nghẹt người đến dự lễ chứ không dâng lễ. “Ông hãy về đi, con ông sống rồi”, viên quan chức tin không đòi hỏi gì hơn. Vào trường hợp chúng ta, có lẽ chúng ta chần chờ để xin thêm một vài dấu chỉ nào đó chứng minh lời Chúa thật sự có kết quả. Ông về nghe tin con đã khỏe, ông hỏi giờ và nhận ra giờ đó Chúa đã chữa lành cho con ông. Có lẽ gia nhân không biết gì. Chuá vẫn thế, Ngài có những thực hiện kỳ diệu một cách rất bình thường, một câu nói đơn giản, quyền lực vượt không gian và thời gian để mang lại kết quả mong muốn miễn là chúng ta tin.

Lạy Chúa, chúng con có đạo nhưng hổ thẹn: Có người chỉ một lần nghe, gặp Chúa và tin ngay. Họ thấy được tình yêu thương họ, nhận ra được những hành động vì tình yêu thương Chúa. Còn chúng con tuần nào cũng gặp gỡ Chúa, mà chúng con đến với Chúa như cái xác không hồn của chúng con. Nguyện xin Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng con.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Giờ của Đức Giêsu

Đức Giêsu bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống.” Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình, và ra về. Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: “Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt.” (Ga. 4, 50-52)

Một quan chức nhà vua có đứa con đau nặng, ông nghe tin Đức Giêsu đang ở trong miền gần đó. Ông tự nhủ: “Đây là lúc Người có thể chữa con mình”. Ông chỉ nghe theo niềm cậy trông của ông và ông tìm đến Người. Ông gặp Người, và khẩn khoản nài xin Người. Đức Giêsu kêu trách ông như mọi người chỉ muốn xin điềm lạ và những điều phi thường. Nhưng sự hất hủi đó không làm ông tủi hờn chút nào. Ông càng khẩn xin như không nghe thấy gì: “Lạy Ngài, xin xuống trước khi con tôi chết”. Đức Kitô cảm động và nói với ông: “Được rồi, ông cứ về đi, con ông sống đấy”.

Mừng như điên, lập tức ông tin lời Đức Giêsu, ông về như bay, và giữa đường ông gặp đầy tớ báo tin con ông đã khỏi. Ông hỏi: “Nó khỏi giờ nào?”. Họ đáp: “Lúc bảy giờ hôm qua”. Ông tự nhủ: “Đúng vào giờ Đức Giêsu nói với mình”. Đó là cú đánh ân huệ. Giờ ban ơn cứu chữa ông và cả gia đình ông. Giờ của Đức Giêsu. Giờ ban ơn trở lại. Giờ cứu độ.

Đối với người được đức tin, chính là giờ của Đức Giêsu. Người đến để cải tạo và làm cho họ trở thành dụng cụ bác ái đối với người lân cận. Biết đón nhận thánh ý Thiên Chúa và những đường lối quan phòng của Ngài trong mọi thứ thử thách như trong bệnh tật, đau khổ về gia đình như xé nát tâm can, trong xao xuyến lo âu về tương lai yêu quý, trong bấp bênh về đời sống kinh tế, đó là sống cái giờ của Đức Giêsu, và như Đức Giêsu đã chấp nhận với bao nỗi sầu khổ của thân phận làm người và chỉ mình Người mới có thể làm cho chúng ta cảm nghiệm sâu xa được mầu nhiệm khổ nạn khi vâng theo thánh ý Thiên Chúa như Người đã cảm nghiệm được suốt cuộc đời Người và nhất là lúc bị đóng đinh trên thập giá.

Giờ của Đức Giêsu, cũng chính là những cơ hội cho chúng ta được dịp an ủi, nâng đỡ, khuyến khích, soi sáng và đem bình an cho người khác. Vì mỗi lần chúng ta cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ đói rách ăn mặc, thăm hỏi kẻ tù đầy, an ủi kẻ tuyệt vọng, thì đó là chúng ta đã làm cho chính Chúa, Người đã nói trong Tin mừng như vậy.

G.F

SUY NIỆM 6: TIN ĐẾN CÙNG (Ga 4,43 – 54)

Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy những người có địa vị cao trong xã hội và tôn giáo đa số đều mắc phải thói tự kiêu, vì tự cho mình là người biết hết mọi chuyện, nên thường coi khinh anh em đồng loại! Nếu không bị chứng bệnh tự phụ trên thì cũng rơi vào tình trạng nghi ngờ về những chuyện phi thường…

Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật một viên sĩ quan cao cấp của triều đình đã lặn lội cả mấy chục kilômét để đến gặp Đức Giêsu và xin Ngài chữa cho con ông được lành bệnh. Ông là một phó vương nơi cung triều, còn Đức Giêsu thì chỉ là người bình dân. Một hình ảnh trái ngược với giới lãnh đạo và thượng lưu thời bấy giờ!

Qua hành động của viên sĩ quan, chúng ta thấy được hai điều:

Trước hết, thái độ của ông quan này là khiêm tốn. Ông đã không để ý đến địa vị chức quyền, không nghĩ đến giai tầng trong xã hội, nhưng chỉ một lòng tin tưởng và phó thác nơi Đức Giêsu và sống trong niềm hy vọng được nhận lời.

Thứ hai, vị quan này rất kiên trì. Ông không thối trí nhụt lòng khi nghe thấy câu trách móc nặng nề của Đức Giêsu: “Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!”. Nếu vị quan này mà kiêu ngạo, cố chấp hay tự trọng thái quá, có lẽ đã bỏ mà đi, đằng này, ông lại càng khẩn thiết hơn: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!”. Câu nói này thể hiện sự thành khẩn và niềm tin chân thành của viên sĩ quan.

Thế nên, từ xa, Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa cho con ông khi tuyên bố: “Con ông sống”. Thấy mọi sự diễn ra đúng thời gian mà Đức Giêsu tuyên bố con ông không chết, viên sĩ quan và cả gia đình ông đã tin vào Đức Giêsu.

Như vậy, câu chuyện Tin Mừng hôm nay nhắm vào niềm tin của viên sĩ quan.

Lúc đầu là một niềm tin và hy vọng về nhu cầu của mình. Dần dần biến thành tình yêu và kính phục khi nhu cầu được giải quyết cách nhiệm mầu. Cuối cùng, tình yêu đã hoàn toàn làm chủ và quy phục trong đức tin.

Đây cũng mẫu gương và là tiến trình trong đời sống của mỗi Kitô hữu.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy vượt qua những tự hào thái quá để khiêm tốn như viên sĩ quan. Cần có một thái độ tin tưởng tuyệt đối nhưng chân thành và niềm hy vọng đầy tin yêu nơi Thiên Chúa như viên sĩ quan.

Lạy Chúa Giêsu, chỉ có đức tin trong lòng mến mới có thể giúp cho chúng con đến gần Chúa và tin tưởng vào Ngài mà thôi. Vì thế, xin Chúa ban cho chúng con có được đức tin chân thành để được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Lòng tin vào Chúa Giêsu

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?

– Phải đó bà.

Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?

– Phải đó bà.

 Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hỏa xa, bà hỏi:

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?

– Phải, thưa bà.

Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế!.

Suy niệm

Một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ông đã từ Capharnaum lên tận Galilêa để gặp Ðức Giêsu và xin Ngài thương chữa lành con ông. Ðức Giêsu chữa cho con một viên quan chức khỏi chết, vì ông đã tin vào Ngài. Sứ mạng của Ngài được sai đến để giải thoát con người khỏi khổ đau bệnh tật, chết chóc và tội lỗi. Nhưng với một điều kiện duy nhất đòi hỏi nơi chúng ta là lòng tin.

Ngoài việc chữa con viên quan do lòng tin của Tin Mừng đã thuật lại việc vĩ đại thành sự nơi đức tin: Khi người đàn bà bị băng huyết đến sờ vào gấu áo Chúa với niềm tin Chúa chữa lành, Chúa nói: “Này bà, cứ an tâm, đức tin của bà đã cứu chữa bà” (Mt 9,22). Ông trưởng hội đường có đứa con gái ốm nặng sắp chết, ông tin vào Chúa nhưng sau đó hơi chút hồ nghi vì gia nhân bảo con ông đã chết, Chúa nói: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), ông vững tin, và Người đã làm cho em bé gái sống lại. Khi những người mang đứa con trai bị bệnh kinh phong tới Chúa Giêsu và nói: “Thầy có thể làm được gì thì xin thương cứu giúp chúng tôi”, Ngài đáp: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Đối với một người tin, điều gì cũng có thể”… (Mc 9,23), và Chúa Giêsu cầm tay đứa bé, chữa lành. Tin rằng thầy Giêsu có thể chữa lành cho người anh em bất toại, nhưng không thể mang bệnh nhân vào trong nhà qua cửa được vì quá đông người, người ta phải dỡ mái nhà rồi thả bệnh nhân xuống trước mặt Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ và hành động của họ, Tin Mừng Luca nói: Thấy họ có lòng tin như thế, Chúa Giêsu bảo “Này anh, anh đã được tha tội rồi” (Lc 5,20) và chữa lành cho anh. Người đàn bà thành Canaan xin Chúa chữa con bà khỏi bị quỷ ám (Mt 15,21-28), chính đức tin sống động, mãnh liệt này đã làm cho Chúa phải thốt lên: “Này bà, đức tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được vậy” (Mt 15,28). Viên sĩ quan xin Chúa chữa người đầy tớ của ông khi tuyên xưng niềm tin mạnh mẽ vào Ngài (Mt 8,5-13). Và Đức Kitô đã khen: “Ta chưa hề thấy ai trong Israel có được đức tin mạnh như thế” (Mt 8,10), ông được toại nguyện. Đức tin của Matta mà Chúa đã thấy rõ nơi cô, Ngài đã thực hiện một phép lạ lớn lao: cho Ladarô sống lại (Ga 11,26-27).

Xin củng cố niềm tin của chúng con, để khi đã được chữa lành, được Chúa tái sinh, cuộc đời chúng con trở nên dấu chỉ sống động cho tình thương và sự hiện diện của Chúa.

Ý lực sống: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1)

Suy Niệm 7: Chữa người con của một sĩ quan

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)       

  1. Sau khi tự mạc khải là Đấng Cứu Thế cho người phụ nữ Samaria ở giếng Giacóp, Đức Giêsu đi đến Galilê. Ở đây Ngài bắt đầu thực hiện điều mà Isaia tiên báo. Ngay cả một người ngoại như viên sĩ quan triều đình cũng được hưởng hạnh phúc ấy: con trai ông sắp chết nhưng được Chúa cho sống lại. Lý do là vì ông đã tin, một đức tin mạnh đến nỗi ông tin lời Chúa ra về trước khi thấy Ngài chữa bệnh cho con ông. Ông tin chỉ vỉ nghe mặc dù chưa thấy.
  2. Tin Mừng theo thánh Gioan trình bầy hai cấp độ tin: tin vì thấy và tin chỉ vì nghe. Đức Giêsu muốn người ta tin ở mức độ thứ hai. Chính các Tông đồ mãi tới lúc Đức Giêsu sống lại mới đạt tới đức tin như thế khi Tôma tuyên xưng đức tin mà không còn đòi  xỏ ngón tay vào các vết thương của Chúa nữa. Khi đó Chúa nói: “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”. Trong bài Tin Mừng này, lúc đầu Chúa cũng nói “Nếu các ông không trông thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin. Phần chúng ta, đức tin của chúng ta đang ở cấp độ nào? Chúng ta có tin nhiều điều Chúa nói nhưng chúng ta chưa thấy hoặc chưa có dịp kiểm chứng không, chẳng hạn: Chúa rất thương ta, Chúa đang sống bên cạnh ta, Chúa sẽ nâng đỡ ta trong những lúc gian truân, hãy hoàn toàn phó thác vào Ngài vì Ngài sẽ che chở ta…?
  3. Viên sĩ quan này làm việc tại triều đình vua Hêrôđê và gia đình ngụ tại Capharnaum. Chắc chắn những công việc Đức Giêsu làm đã đồn thổi đến tai ông nên ông đích thân đến xin Chúa chữa cho con ông đang thập tử nhất sinh.

Rất có thể ông đi mời Chúa như đi mời một thầy lang, một bác sĩ, nhưng dù sao thì cũng chứng tỏ ông đã tin vào quyền phép của Chúa, vì nếu không tin thì ông đến gặp Chúa để làm gì. Như vậy, chúng ta có thể chắc chắn viên sĩ quan này đã tin Chúa có thể chữa bệnh nhưng chưa tin Chúa có thể làm phép lạ từ xa, nên ông năn nỉ cho bằng được Chúa đến nhà ông.

Nhưng khi nghe Chúa bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống”. Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình. Ông ra về. Nhưng trên đường về người nhà báo cho ông biết con ông đã khỏe rồi. Do đó ông và cả nhà đều tin vào Chúa.

  1. Một niềm tin đích thực không cần nhìn thấy tỏ tường, vì như thế không còn là tin nữa, mà là bất đắc dĩ chấp nhận một chuyện đã xẩy ra rồi. Đức Giêsu đã khẳng định điều đó sau lời cầu xin của vị sĩ quan đến xin Ngài chữa lành cho con trai mình.

Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan này có quyền lực về mặt chính trị, ông có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Đức Giêsu truyền đạo, ông sẽ tin tưởng vào quyền lợi vật chất và khoa học hơn là niềm tin. Thế nhưng, ông nhận ra con người Đức Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, ông đã hạ mình  đến cầu xin Ngài. Lại nữa, vì tấm lòng của một người cha thương con bệnh tật, ông không ngại vượt qua rào cản của ý thức hệ và chính trị, để chạy đến với Đức Giêsu.

Nhưng hơn hết, ông tin vì nghe lời Chúa bảo: “Ông về đi, con ông sống”, chứ ông không đòi dấu lạ rõ ràng, nên niềm tin đó đã chữa lành cho con ông (theo Hiền Lâm).

  1. Bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: ông sĩ quan đến xin Đức Giêsu chữa bệnh cho con ông như đến xin một lòng tin. Việc đứa con ông được Chúa chữa khỏi bệnh từ xa đã tăng thêm lòng tin cho ông và lòng tin đã lan ra cả gia đình ông.

Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải làm sao cho đức tin của chúng ta được thêm vững mạnh hơn  sau một biến cố nào đó, không nhất thiết là phải được ơn, được phép lạ như ông sĩ quan hôm nay, nhưng ngay cả những lúc gặp gian nan thử thách, chúng ta càng tin tưởng vào Chúa hơn và làm cho những người chung quanh, nhất là những người trong gia đình, tăng thêm lòng tin vào Chúa.

  1. Truyện: Cần tin người đáng tin.

Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tầu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tầu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra  hỏi một người đứng kề bên:

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tầu này không?

– Phải đó bà.

Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:

– Tôi định di Bay City, có phải đi tầu này không?

– Phải đó bà.

Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hỏa xa, bà hỏi:

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tầu này không?

– Phải, thưa bà.

Thế là bà an tâm bước lên tầu. Bà đã tin người đáng tin.

Đức tin là thế!

Suy Niệm 8: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Những người đồng hương của Chúa chối bỏ và khinh bỉ Chúa, nhưng viên sĩ quan người lương dân đã tin Chúa. Chúa chờ ta đón nhận Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã không chọn cảnh giàu sang nơi cung vàng điện ngọc, Chúa đã không khư khư dành cho mình quyền uy của Đấng Tối Cao. Nhưng Chúa đã chọn sinh ra trong cung lòng của Đức Maria, cô thôn nữ quê mùa của làng Nazarét, và người cha nuôi của Chúa chỉ là bác thợ mộc bình thuờng. Chính vì thế, những người đồng hương của Chúa đã từ khước và xua đuổi Chúa, chối bỏ những lời hứa của Chúa Cha, đến nỗi Chúa đã từ bỏ quê hương để tìm đến miền Galilê của người lương dân để rao giảng Tin Mừng và trao ban hồng ân cứu độ. Và ở đó Chúa đã gặp được những người có lòng tin mạnh mẽ và chân thành.

Lạy Chúa, ngày nay con có cả kho khôn ngoan của Lời Chúa, có cả một kho tàng ân sủng các Bí tích để giúp con tiếp xúc và kết hiệp mật thiết với Chúa, có cả một lịch sử Giáo hội tông truyền, có cả một hàng giáo phẩm luôn hiện diện bên con để dạy dỗ bảo ban giúp con trung thành với Chúa. Nhưng con cũng không hơn gì người Nazarét, con vẫn chối bỏ Chúa bằng những dễ dãi trong cuộc sống, những đam mê vui thú lệch lạc, những lừa lọc trong giao tiếp thường ngày, những ghen tương ích kỷ. Như thế là con đã chối bỏ Chúa.

Lạy Chúa, xin thức tỉnh tâm hồn con, xin làm cho con biết đón nhận Chúa và hồng ân cứu độ của Chúa. Xin dạy con biết tìm gặp gỡ Chúa nơi Lời Hằng Sống, nơi các Bí Tích, nơi Giáo Hội. Xin giúp con nhìn thấy Chúa trong mọi người, qua mọi biến cố trong cuộc sống, để con dấn thân và cộng tác vào công trình cứu chuộc của Chúa. Xin Chúa ở lại với con mọi ngày cho đến khi Chúa lại đến. Amen.

Ghi nhớ: “Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi”.

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

  1. Bài đọc: Tiên Tri Isaia phác họa một bức tranh hạnh phúc thời Messia: “Này Ta tái tạo trời mới đất mới…Từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc và than vãn nữa …sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa…”. Dĩ nhiên ta không nên hiểu những hình ảnh này theo nghĩa đen. Chúng chỉ đến hạnh phúc được tham gia sự sống thần linh của Thiên Chúa.
  2. Phúc Âm: Chúa Giêsu bắt đầu thực hiện điều mà Tiên Tri Isaia tiên báo. Ngay cả người ngoại đạo như viên sĩ quan triều đình cũng được hưởng hạnh phúc ấy: con trai ông sắp chết nhưng được Chúa cho sống lại. Lý do là vì ông đã tin, một đức tin mạnh đến nổi ông vâng lời Chúa ra về trước khi thấy Ngài chữa bệnh cho con ông. Ông chỉ tin vì nghe mặc dù chưa thấy.

B- Suy gẫm (…Nẩy mầm)

  1. Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan hôm nay trình bày hai cấp độ tin: tin vì thấy và tin vì nghe. Chúa Giêsu muốn người ta tin ở mức độ thứ hai. Chính các tông đồ mãi tới khi Chúa Giêsu sống lại mới đạt tới đức tin như thế khi Tôma tuyên xưng đức tin mà không còn đòi xỏ ngón tay vào các vết thương của Chúa nữa. Khi đó Chúa nói: ”Phúc cho kẻ không thấy mà tin”. Trong bài Phúc Âm này, lúc đầu Chúa Giêsu cũng nói ”Nếu các ông không thấy các phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin”. Phần tôi, đức tin của tôi đang ở cấp độ nào ? Tôi có tin nhiều điều Chúa nói nhưng tôi chưa thấy hay chưa có dịp kiểm chứng, chẳng hạn: Chúa rất thương tôi, Chúa đang sống bên cạnh tôi, Chúa sẽ nâng đỡ tôi trong những lúc gian truân, hãy hoàn toàn phó thác vào Ngài vì Ngài sẽ che chở tôi … ?
  2. Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhung may thay ông bám được một cánh cây nằn chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: ”Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: ”Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi lặng thinh, bỗng người vô thần nghe thấy một tiếng vang dây cả vực thẳm và núi cao: ”Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. ”Không, Lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con bắt đầu tin từ khi nghe thấy tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: ”Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng hô lên: ”Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao ?” (Trích ”Món quà Giáng Sinh”).
  3. Một câu thường được lặp đi lặp lại trong Phúc Âm Gioan, đó là “tin để sống”. Chúa Giêsu thường kêu gọi người ta tin, bởi vì Ngài muốn cho người ta sống. Ngài đến để cho người ta sống và sống dồi dào. Tin vào lời Ngài chính là lời ban sự sống ấy.
  4. Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằn chắn ngang gốc nho.

Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ uá tàn.

  1. Sự sống thần linh quan trọng hơn sự sống thân xác. tôi có quan tâm sự sống thần linh ấy trong tôi không ? Ta múc lấy sự sống thần linh ấy khi đến với Chúa, khi cầu nguyện, khi rước lễ…
  2. Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Bèn đến than thở với Cha linh hướng. Ngài nói: ”Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh nhưng vẫn không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng, nhường chỗ cho những lá non nảy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng ? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây. Với chúng ta cũng vậy. Khi sự sống mới của Đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên con đường đạo đức”. (Góp nhặt).

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Theo Thánh Gioan, trong Tin Mừng của Ngài thì tincó hai cấp độ: tin vì thấyvà tin vì nghe. Chúa Giêsu muốn người ta tin ở mức độ thứ hai.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, lúc đầu Chúa cũng nói “Nếu các ông không thấy các phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin” (Ga 4,48).

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao mình không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là ông ta lấy hết sức lực la thật lớn: – Lạy Chúa.

Tuy nhiên, bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn:

– Lạy Chúa, nếu quả thật có Chúa, xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa nữa.

Sau một hồi lặng thinh, bỗng người vô thần nghe thấy một tiếng vang, vang dậy cả vực thẳm và núi cao:

– Gặp hoạn nạn thì ai mà chẳng cầu xin như thế.

– Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con bắt đầu tin từ khi nghe thấy tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất.

Tiếng ấy trả lời:

– Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra đi.

Người vô thần thất vọng hô lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao ?” (Trích “Món Quà Giáng Sinh”).

  1. Một câuthường được lập đi lập lại trong Tin Mừng Gioan, đó là “tin để sống”. Chúa Giêsu thường kêu gọi người ta tin, bởi vì Ngài muốn cho người ta sống. Ngài đến để cho người ta sống và sống dồi dào.

Một vị Linh mục được mời đến bên giường của một cụ già đang hấp hối.

Khi vị linh mục sắp sửa ngồi xuống trên chiếc ghế bành đặt cạnh giường của cụ, thì cụ già ngăn cản lại: – Xin cha vui lòng đừng ngồi vào đó!

Vị linh mục bèn lấy một cái ghế đẩu, ngồi xuống cho kẻ liệt xưng tội và nhận của ăn đàng.

Sau đó cụ già cố gắng lấy lại một chút hơi hụt sức tàn và nói:

– Hãy để con kể lại lịch sử chiếc ghế bành này cho cha nghe. Cách đây 50 năm, khi con còn là một thanh niên, vị linh mục quản xứ của con có lần hỏi con có thuộc các kinh để cầu nguyện không. Con đáp: “Không, nếu con hét to đến nỗi có thể bể cả buồng phổi thì một kẻ đứng ở tầng lầu 3 cũng không nghe con được, vậy thì làm sao Thiên Chúa có thể nghe con từ Trời được ?”

Cha trả lời cách nhẹ nhàng:

– Con đừng thử cố gắng cầu nguyện. Mỗi sáng con hãy ngồi tự nhiên trên một cái ghế bành và hãy tưởng tượng như Đức Giêsu Kitô đang ngồi đối diện với con trên một cái ghế bành khác như Ngài đã từng ngồi trong bao căn nhà ở Palestine… lúc đó con sẽ nói gì với Ngài ?

Con trả lời:

– Con sẽ nói thẳng rằng, con không tin Ngài.

– Được, vị linh mục già trả lời, ắt là điều đó đã nói lên một cái gì đang có thật trong trí của con rồi. Con có thể đi xa hơn nữa và thách thức nhiều hơn nữa! Nếu Ngài hiện hữu thì tại sao lại không minh chứng điều đó cho con ? Hoặc là nếu con không thích cách Thiên Chúa quản trị thế giới, tại sao con không nói với Ngài điều này ? Con không phải là người đầu tiên than trách Ngài đâu. Vua Đavid và ông Gióp đã có lần nói với Chúa là Ngài bất công rồi. Có thể con ao ước cái gì ? Con cứ nói lên điều đó. Nếu Ngài ban cho con, con cám ơn Ngài. Tất cả những trao đổi này là đối tượng của lời cầu nguyện. Con đừng đọc thuộc lòng một cách máy móc những câu kinh như nhiều người vẫn làm! Hãy nói những gì thực sự của lòng con.

 Cụ già hấp hối nói tiếp:

– Lúc đó, quả thực con không tin vào Đức Kitô, nhưng con tin vào vị linh mục già kia. Để làm hài lòng ngài, con đã ngồi trên một cái ghế bành này và làm như thấy Đức Kitô đang ngồi đối diện với con. Trong vài ngày đầu, điều đó có vẻ như trò chơi. Nhưng dần dần con cảm thấy Ngài ở đó. Con nói với Ngài về những chuyện hiện thực. Con xin Ngài một lời khuyên và con nhận được. Cầu nguyện đã trở thành đối thoại. 50 năm trôi qua và mỗi ngày con nói chuyện với Đức Kitô ngồi trong chiếc ghế bành này!

 Vị linh mục còn ở đó cho đến khi cụ già này thở hơi cuối cùng, và cử chỉ sau hết của cụ là đưa bàn tay hướng người bạn vô hình đang ngồi trên chiếc ghế bành trước mặt.

Vâng, tin là như thế! Phúc cho những ai không thấy mà tin. Không thấy nhưng vẫn tin. Đó mới là đức tin Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng ta.

Thứ ba sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay

Thứ Ba: Ga 5, 1-3a. 5-16

Lời Chúa: Ga 5, 1-3a. 5-16

Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa “Chiên”, có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm.

Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: “Anh muốn được lành bệnh không?” Người đó thưa: “Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi”. Chúa Giêsu nói: “Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về”. Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: “Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng”. Anh ta trả lời: “Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: “Vác chõng mà đi”. Họ hỏi: “Ai là người đã bảo anh “Vác chõng mà đi?” Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.

Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: “Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước”. Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.

Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.

SUY NIỆM 1: Muốn trở nên lành mạnh

Suy niệm:

Các Tin Mừng Nhất lãm chẳng khi nào nói đến chuyện

Đức Giêsu chữa bệnh cho ai ở vùng Giêrusalem.

Riêng Tin Mừng Gioan nói đến chuyện Ngài chữa bệnh cho một anh bất toại

tại một cái hồ, gần Cửa Chiên dẫn vào khuôn viên Đền thờ Giêrusalem.

Hồ Bếtdatha này khá lớn, có hình chữ nhật, được ngăn làm hai phần.

Chính vì thế có đến năm hành lang, nơi đây người bệnh nằm la liệt.

Họ mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền khác nhau,

nhưng ai đến đây cũng nuôi hy vọng khỏi bệnh.

Giữa bao người ốm đau tàn tật đó, dường như Đức Giêsu chỉ thấy một mình anh.

Ngài biết anh mắc bệnh đã lâu, nằm trên chõng một thời gian dài.

Ba mươi tám năm, thời gian bằng một nửa đời người.

Chính Đức Giêsu là người đến với anh và mở lời bằng một câu hỏi:

“Anh có muốn trở nên lành mạnh không?” (c. 6).

Câu hỏi có vẻ thừa này thật ra lại chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của anh.

Nó đụng đến chờ đợi mòn mỏi của anh từ nhiều năm qua.

Anh bất toại không trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, người với anh vẫn còn xa lạ.

Nhưng anh lại muốn trải lòng cho người lạ này thấy cái ngõ cụt của mình,

những lý do khiến mình phải nằm ở đây lâu đến vậy.

“Tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”: đó là lý do thứ nhất.

Tôi không có được sự trợ giúp từ phía bạn bè thân thuộc.

Tôi cô đơn, trơ trọi một mình.

Giá mà tôi có ai đó giúp tôi lúc cơ may đến…

“Lúc tôi tới đó, thì người khác đã xuống trước tôi rồi”: đó là lý do thứ hai.

Khi phải lê đi bằng chính sức của mình, thì tôi bao giờ cũng là người đến sau.

Tôi đã cố gắng nhiều lần, nhưng luôn phải cam chịu thất bại.

Bây giờ tôi còn dám tin vào mình nữa không?

Anh bất toại mong có một người bạn đem anh xuống nước đầu tiên.

Anh mơ thấy ngày trồi lên từ hồ nước, ướt sũng, nhưng đi lại bình thường.

Anh chẳng tin rằng ngày ấy là hôm nay.

Người bạn anh mong đang ở gần, kéo anh ra khỏi nỗi cô đơn.

Anh sẽ được khỏi bệnh mà người vẫn khô ráo.

“Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!”: đây là lời mời hay mệnh lệnh?

Bất ngờ, nhanh chóng và dễ dàng, anh đã đứng lên và đi được.

Cái chõng đã vác anh, bây giờ anh vác nó.

Hãy nhìn những bước đi đầu tiên của người ba mươi tám năm bất toại.

Anh đã trở nên lành mạnh, dù anh không xin hay bày tỏ lòng tin nào (cc. 6, 9,14).

Giêsu đến với anh như một người bạn làm anh trở nên lành mạnh (cc. 11,15).

Vì chữa bệnh cho anh này vào ngày sabát, Ngài đã bắt đầu bị chống đối (c.16).

Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi tôi: Con có muốn trở nên lành mạnh không?

Con có muốn ra khỏi sự bất toại kinh niên của mình không?

Ngài mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ tội lỗi.

Sau khi được chữa lành, ngài dặn tôi đừng phạm tội nữa (c. 14).

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

thế giới hôm nay cũng như hôm qua

vẫn có những người bơ vơ lạc hướng

vì không tìm được một người để tin;

vẫn có những người đã chết từ lâu

mà vẫn tưởng mình đang sống;

vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,

ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;

vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,

bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;

vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,

dù không phải là người phong…

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ

và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết,

xin cho chúng con

nhìn thấy chính bản thân chúng con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: HÃY CHỖI DẬY

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Dòng nước Ê-dê-ki-en thấy chảy ra từ bên phải đền thờ chính là dòng nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giê-su. Đó là nước ơn thánh, nước rửa tội, tha thứ tội khiên và chữa lành tật nguyền. Tuy nhiên để lãnh nhận ơn tha tội và chữa lành, tự sức con người không thể được. Phải có ơn Chúa trợ giúp.

Anh bệnh nhân đã nằm bên bờ hồ Beth-da-tha 38 năm, muốn xuống nước để được chữa lành, nhưng tự sức anh không đến được. Anh không vượt qua được giới hạn của mình. Anh không vượt qua được chính mình. Nhưng anh thật may mắn, vì hôm nay Chúa đến cứu giúp anh. Chúa uy quyền toàn năng có thể tháo gỡ hết những khó khăn, trắc trở của con người. Cho con người đứng thẳng hiên ngang, có thể chu toàn được hết những nhiệm vụ của mình. Chúa truyền 4 mệnh lệnh.

Mệnh lệnh thứ nhất: “Hãy chỗi dậy”. Chỗi dậy là ý chí muốn thoát khỏi vũng lầy tội lỗi. Chỗi dậy là ý chí muốn vươn lên, vượt thoát, tự do, không còn bị trói buộc, đè nén nữa. Như đứa con hoang đàng, thấy mình bị hạ xuống ngang hàng súc vật, muốn trở lại làm người, nên đã tự nhủ: “Vâng, tôi quyết chỗi dậy”.

Mệnh lệnh thứ hai: “Hãy vác chõng”. Vác lấy những mệt mỏi, những yếu đuối. Hãy vác thánh giá Chúa gửi đến. Thánh giá bản thân yếu hèn. Thánh giá trách nhiệm nặng nề. Thánh giá số phận trớ trêu. Thánh giá cám dỗ thử thách.

Mệnh lệnh thứ ba: “Hãy bước đi”. Hãy tiến tới. Hãy dứt lìa quá khứ. Hãy lên đường. Đừng ngủ mê. Đừng tê liệt nữa. Đừng ngần ngại. Thiên Chúa luôn chờ ta ở phía trước. Hãy đi theo ơn của Thánh Thần thúc đẩy.

Mệnh lệnh thứ tư: “Đừng phạm tội nữa”. Đừng quay lại sau lưng. Đừng trở lại con đường xưa cũ. Hãy sống thành con người mới. Hãy vượt qua.

Đó chính là một cuộc vượt qua. Vượt qua của người được rửa tội. Người từ bỏ cuộc sống an nhàn hưởng thụ theo thói thế gian. Để đi theo tiếng gọi và ơn thúc đẩy của Chúa Thánh Linh. Đi về phía trước. Chấp nhận những khó khăn thử thách. Không quay về chiếc chõng hưởng thụ an nghỉ. Nhưng đứng thẳng người lên. Gánh vác lấy trách nhiệm phục vụ. Tiến tới dù phía trước đầy gian nan thử thách.

SUY NIỆM 3: Chữa Người Bất Toại

Cuốn phim Mỹ với tựa đề: “Cái chết của một thiên thần” mang một ý nghĩa sâu sắc. Tại một vùng quê hẻo lánh bên Nam Mỹ, nơi mà lòng đạo đức bình dân thường pha trộn những mê tín dị đoan, một thanh niên nọ đã ngụy tạo ra một phép lạ thu hút được rất nhiều người. Anh lén rạch da lấy máu mình và cho vào tượng Thánh giá mà chỉ anh mới biết cách tháo ráp. Mỗi lần anh ôm Thánh giá vào lòng thì máu từ mão gai của tượng chảy ra. Dân chúng từ khắp nơi, nhất là những kẻ tàn tật, mù lòa đổ vào để chứng kiến phép lạ. Đoàn người làm thành một đám rước Thánh giá lên trên một ngọn đồi, tại đó người thanh niên quỳ cầu nguyện bên cạnh Thánh giá và máu lại chảy ra từ mão gai trên đầu Chúa.

Trong khi phép lạ ngụy tạo này diễn ra mỗi ngày, thì một đám người bất lương muốn lợi dụng cơ hội để làm tiền. Họ biết chắc đây chỉ là một sự lừa bịp, nhưng họ chưa khám phá được bí quyết của người thanh niên. Sau một thời gian theo dõi, họ đã bắt giữ người thanh niên và tra khảo anh khai ra bí mật ấy. Không chịu nổi cuộc tra tấn, người thanh niên đành thú nhận sự thật và đó cũng là lúc khởi đầu của những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc đời anh. Trước đám đông đang chuẩn bị cuộc rước, người thanh niên tháo gỡ tượng Chúa Giêsu khỏi Thánh giá và cho mọi người thấy sự lường gạt của anh từ bao năm qua. Với tất cả thành tâm thống hối, anh vác Thánh giá tiến lên đồi. Đám người bất lương bắn xối xả vào người anh, anh ngã gục, nhưng đoàn người lại tiếp tục vác Thánh giá lên đồi, nhiều người tàn tật, mù lòa bỗng cảm thấy được chữa lành.

Câu chuyện trên đây có thể giúp chúng ta nhận ra phần nào sứ điệp mà Mẹ Giáo Hội muốn gửi đến chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay. Đám đông trong câu chuyện trên chờ đợi những dấu lạ từ pho tượng của Chúa Giêsu, nhưng dấu lạ lại chỉ xảy đến chính lúc họ biết khước từ những hiện tượng bên ngoài ấy để nhận ra khuôn mặt đích thực của Chúa Giêsu trên Thánh giá và thông hiệp vào chính cuộc khổ nạn của Ngài.

Phép lạ xảy ra cho người bất toại trong Tin Mừng hôm nay có thể là hình ảnh của lòng tin cần được thanh luyện. Từ 38 năm qua, con người tàn tật này chờ một phép lạ, nhưng một phép lạ gắn liền với một hiện tượng bên ngoài là nước hồ lay động đã không bao giờ xảy đến. Chỉ khi người tàn tật này gặp gỡ Chúa Giêsu, xưng thú nỗi bất lực của mình, và tin tưởng ở lời Ngài, thì lúc đó phép lạ mới thực sự được thực hiện.

Ngày nay, để cảm nhận được phép lạ của Thiên Chúa, chúng ta cũng cần vượt qua não trạng chỉ chờ đợi những hiện tượng khác lạ trong thiên nhiên. Người ta thích đổ xô tới nơi có hiện tượng lạ thường. Dĩ nhiên, trong một số trường hợp. Thiên Chúa đã thực hiện điều đó. Thế nhưng điều quan trọng cho đức tin chúng ta không phải là những hiện tượng khác thường ấy, mà là chính sự gặp gỡ thân tình với Chúa Giêsu. Gặp gỡ Ngài, tin ở lời Ngài, kết hiệp với Ngài nhất là trong mầu nhiệm khổ nạn, con người mới cảm nhận được tác động của Ngài.

Mùa chay là mùa của thanh luyện. Giáo Hội mời gọi tín hữu kết hiệp với Đức Kitô Tử nạn bằng cách sống tâm tình tin tưởng phó thác của Ngài, nhờ đó niềm tin của họ được thanh luyện và họ sẽ cảm nhận được tình yêu của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Ðừng phạm tội nữa

Việc Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát là một trong những nguyên nhân khiến cho người Do Thái tức tối. Họ chống đối Chúa ra mặt. Thậm chí còn muốn trừ khử Ngài cho rảnh mắt.

Trong bài Tin Mừng trên đây, chúng ta thấy có ba tuyến nhân vật: một là Chúa Giêsu, hai là người mắc bệnh nan y, và ba là những người Do Thái.

Hôm nay chúng ta đặc biệt lưu ý đến thái độ của người Do Thái và thái độ của Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ của người Do Thái, chúng ta hãy xét mình xem chúng ta có quá cứng nhắc trong các nguyên tắc, các luật lệ, đến độ vô cảm trước những nhu cầu bức thiết của anh chị em chung quanh hay không, chúng ta có lên án những người vì phục vụ lợi ích của anh chị em đồng loại mà làm những việc có vẻ như bất chấp luật lệ hay không. Phản ứng nông cạn của những người Do Thái trong bài đọc trên đây là một lời nhắc nhở để chúng ta nhớ lại cung cách sống của mình trong các tương quan với kẻ khác. Chúng ta đừng để mình rơi vào trường hợp đáng buồn như những người Do Thái.

Nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta cũng có thể xét mình theo thái độ của mình đối với anh chị em. Chung quanh chúng ta không bao giờ thiếu những người bất hạnh. Họ đau khổ trước nỗi bất hạnh của mình và chờ mong một ai đó chia sẻ nỗi khổ với họ. Con tim chúng ta có đủ can đảm để nhận ra tình cảnh khốn khổ của anh chị em mình hay không? Lời và việc làm của chúng ta có mang theo đủ tình thương để xoa dịu nỗi đau khổ của họ hay không? Chúng ta có đủ can đảm và quảng đại vượt qua những trở ngại bên ngoài để giúp đỡ người ấy ra khỏi tình cảnh khốn khó của họ hay không? Hình ảnh Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta can đảm dấn thân chia sẻ nỗi đau khổ với anh chị em chung quanh.

Lạy Chúa, xin cho con học được những bài học thiết thực khi suy niệm bài Tin Mừng của ngày hôm nay. Xin cho con biết kiên trì hy vọng lúc gặp đau khổ, biết lưu tâm chia sẻ những nỗi đau khổ của những người khác và biết uyển chuyển linh động khi đáp ứng những nhu cầu bức thiết của anh chị em chung quanh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Người hay chữa bệnh ngày sa-bát

Đức Giêsu bảo: “Anh hãy chỗi dậy, vác chõng và bước đi!” Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và bước đi.

Hôm đó lại là ngày sa-bát. Người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: “Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng!” (Ga. 5, 8-10)

Một lần nữa chứng tỏ một điều chắc chắn này: Xưa kia luật lệ con người rất khó thay đổi, và hầu như không cải tiến được, vì nó ăn sâu vào bản tính nhân loại. Ngay cả ngày nay cũng vậy, người ta gắn bó với nhiều luật lệ từng chi tiết và trở thành một thứ hình thức cực đoan, đến nỗi bị tiêu diệt vì luật lệ. Chúng ta có dám phản đối lối giữ luật nô lệ đó không? Chừng nào chúng ta mới được soi sáng, chừng nào chúng ta mới sống theo tinh thần của luật và không theo lối từ chương lệ cổ, ước chi lòng thành tâm làm cho chúng ta phải sống thế nào cho cân xứng. Sự gắn bó với những điều phụ thuộc làm cho chúng ta mù quáng về những điều cốt yếu. Những người Do thái giữ ngày Sa-bát thời Đức Kitô cũng vậy.

Đây trong một ngày Sa-bát, họ thấy người vác chõng. Mọi người đều biết anh là kẻ bị tê liệt lâu năm nằm ở hành lang hồ Bết-đa-tha. Người ta không biết ngạc nhiên, trong chốc lát, anh đã đi được. Sự lạ lùng nào đã xảy ra cho anh, sao anh đã được khỏi? Nhưng người ta chỉ chú ý đến việc anh vác chõng xúc phạm đến luật nghỉ lễ ngày Sa-bát: một gương mù quá tệ, bất trung chừng nào, ai dám xúc phạm lề luật? Chính ông Giêsu đó, loại người Na-gia-rét chẳng có gì tốt cả, nhưng dám làm nổ tung luật lệ, dám cho mình là Con Thiên Chúa, cho mình bằng Thiên Chúa, còn gọi Thiên Chúa là Cha riêng của mình.

Người Do thái không quan tâm tìm hiểu chân lý đó, mặc kệ chân lý! Họ chỉ biết có luật và mù quáng trung thành giữ luật thôi.

Kêu gọi chúng ta đừng bỏ ngày Chúa nhật để đi tìm thú vui bỉ ổi, chúng ta phải thấy rõ sự cần thiết làm vinh danh Chúa. Còn một cách giữ ngày Sa-bát nữa là yêu thương người lân cận, tuy luật không nói tới, nhưng tình yêu tha nhân là bằng chứng lòng yêu mến Thiên Chúa, đức thờ phượng và lời cầu nguyện của chúng ta.

Đoạn Tin mừng này kêu gọi chúng ta về trách nhiệm đối với anh em mình, họ đang cần chúng ta. Thường người ta tự hỏi sao ngày Chúa nhật không được sống thoải mái! Nhưng ta lại không tự hỏi: Tại sao không dùng ngày Chúa nhật để thực hiện tình bác ái, giúp đỡ bệnh nhân và kẻ nghèo khó, đi dâng lễ. Đó là những cách nhỏ bé chúng ta có thể để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày của Ngài.

J.M

SUY NIỆM 6: “ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA” (Ga 5, 114)

Nếu nói đạo là con đường, thì đạo Công Giáo là con đường dẫn đến sự thật. Sự thật đó là tình yêu. Vắng tình yêu, đạo Công Giáo không còn là con đường và đương nhiên không phải là đạo đúng nghĩa!

Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã đề cao tinh thần sống đạo hơn là việc giữ đạo. Việc bề ngoài chỉ có ý nghĩa khi nó được tình yêu từ bên trong tâm hồn thúc bách. Bằng không, nó chỉ là một sự phù phiếm, mê tín mà thôi.

Hôm nay, Đức Giêsu đã vì tình yêu, mà Ngài vượt lên trên lề luật để cứu chữa một người ốm đã ba mươi tám năm.

Tuy nhiên, chính trong hành động yêu thương này mà Đức Giêsu bị những người Dothái không ưa chống đối. Họ cho rằng Đức Giêsu đã không tuân giữ lề luật và thường xuyên vi phạm ngày Sabát.

Đối với Đức Giêsu, luật vì con người chứ không phải con người vì luật. Hơn nữa, khi Đức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh thì đồng thời Ngài cũng chữa anh khỏi những hệ lụy của nó mà người ta thường gán cho là tội. Không dừng lại ở đó, Ngài còn nhắc cho anh biết là hãy vác chõng mà về và đừng phạm tội nữa.

Vác chõng là việc anh phải làm để chu toàn bổn phận của chính mình. Đừng phạm tội là lời nhắc cho anh về việc từ nay anh đã được giải thoát khỏi tội và anh đã được thuộc về Chúa. Ngài đã tẩy rửa tâm hồn và thân xác anh sạch thì anh phải lo giữ nó, kẻo trở thành khốn khổ khi bệnh tình tái phát. Tội ở đây có ý muốn nói đến ảnh hưởng của sự dữ, thuộc về Ma Quỷ.

Mùa Chay là cơ hội để chúng ta quay trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ, đồng thời cũng là dịp thuận tiện để ta hối cải, từ bỏ con đường cũ để làm lại cuộc đời.

Chúa không chấp nhận chúng ta ù lỳ trong tội, nhưng Ngài mời gọi chúng ta: “Hãy đứng dậy vác chõng mà ra đi”, đó là dứt khoát với con đường tội lỗi của mình, nếu không, chúng ta có thể sẽ khốn khổ hơn khi phạm tội.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm để sống điều mình quyết tâm trong Mùa Chay thánh này. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Được lành bệnh, đừng phạm tội nữa

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Thầy Andrew – một nhà truyền giáo Hà Lan, được mệnh danh là “tên buôn lậu của Thiên Chúa”, vì thầy buôn lậu Kinh Thánh vào những nước cấm phổ biến Thánh Kinh.

Ngày kia, thầy mua được một con khỉ. Không bao lâu, thầy nhận thấy chú khỉ rất khó chịu khi chú bị chạm vào phần thắt lưng. Sau khi xem xét thật kỹ, thầy khám phá ra một vết sưng vòng quanh hông chú khỉ. Hóa ra là khi còn bé, chú khỉ đã bị người ta dùng một sợi dây kẽm buộc quanh hông, và cho tới nay sợi dây này vẫn còn nằm trong thân xác chú. Càng lớn lên thì sợi thép đó lặn sâu vào da thịt chú.

Chiều hôm ấy, thầy Andrew cẩn thận tháo sợi dây kẽm đó ra bằng cách: thầy cào sạch vùng lông chung quanh sợi dây, rồi cẩn thận cắt sợi dây và kéo ra khỏi da thịt con vật. Suốt thời gian này, chú khỉ kiên nhẫn nằm yên chịu đau, mắt chú nhắm nghiền lại. Ngay khi sợi dây kẽm được lấy ra, chú khỉ mừng rỡ nhảy lui nhảy tới rồi ôm chặt vai thầy Andrew. Thế là chú khỉ được tự do thoải mái, không còn bực bội khó chịu như trước nữa. Không thể diễn tả nổi chú khỉ hạnh phúc biết bao.

Người bại liệt trong Tin Mừng cũng vui mừng khi được Đức Giêsu tha tội và chữa khỏi bệnh bại liệt. Anh không còn bị tội lỗi và bệnh hoạn trói buộc nữa (Lm. Đinh Lập Liễm).

Suy niệm

Tại đền thờ Giêrusalem, gần cửa “Chiên” có người bại liệt đã ba mươi tám năm. Anh mòn mỏi trông mong được chữa lành. Chúa Giêsu thực sự thấy nỗi đau khổ của anh và đặt vấn đề “lành mạnh” với anh, tức thì thân xác bại liệt của anh và cả tinh thần cũng lành mạnh khi Chúa nói với anh: “Hãy đứng dậy vác chõng mà về”. Cử chỉ “đứng dậy vác chõng mà về” nói lên sự lành mạnh thể lý và sức khỏe đủ để chu toàn bổn phận của một con người.

Chúa Giêsu cho anh bại liệt lành bệnh và bước đi trong an vui trong ngày Sabát – ngày của niềm vui. Trong lúc người biệt phái ngăn cản anh vác chõng lại hạch hỏi anh thật độc ác chỉ vì ngày Sabát, ngày nghỉ với họ cũng có nghĩa là không được vác chõng, họ không thông cảm với anh khi anh bị khổ suốt ba mươi tám năm dài họ vẫn cứ muốn trói buộc anh trong căn bệnh bại liệt chỉ vì câu nệ Lề Luật. Họ mang hình ảnh của nhân loại không biết cảm thông nỗi khổ của nhau, đối xử với nhau từ ích kỷ đến tàn ác chỉ biết bắt bẻ và kết án.

Hơn nữa, mỗi người chúng ta trong kinh nghiệm cá nhân, đã từng mang ít nhiều những bệnh tật thể xác, và mang những bất toại của tâm hồn trong thân phận của sự yếu đuối, tội lỗi, đó là sự bại liệt tâm linh của con người. Như anh bại liệt, chúng ta hãy bày tỏ sự mong muốn được chữa lành qua bí tích hòa giải, chính trong bí tích tình yêu này Chúa nói với chúng ta như đã nói với anh bại liệt: “Anh đã được lành bệnh”.

Ý lực sống: “Anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước” (Ga 5,14).

Suy Niệm 8: Chúa chữa người bất toại

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu chữa người bất toại ở bờ hồ Betsaiđa. Nếu chúng ta đặt mình vào vai bệnh nhân 38 năm, chúng ta mới thấy những người hạch hỏi anh thật độc ác. Tại sao họ không cảm thông với anh khi anh bị khổ suốt 38 năm trong tình trạng khốn nạn. Đáng lý ra họ cùng phải với anh tôn vinh, tạ ơn Vị đã cứu giúp anh mới phải. Tại sao họ lại bắt bẻ Ngài? Ngài và họ, ai là người thương yêu đích thực? Ngài và họ, ai là người đi trong đường lối của Thiên Chúa?
  2. Tin Mừng cho biết khi Đức Giêsu đến bờ hồ Betsaiđa, thì đã có rất nhiều bệnh nhân nằm la liệt cùng với thân nhân của họ chờ chực sẵn bên hồ. Giữa đám đông bệnh nhân ấy, Chúa nhận ra một người đau khổ cô độc nhất, anh bị tàn tật, bất toại hay tê liệt như lời anh thưa với Chúa: “Không có ai khiêng tôi xuống nước cả”. Anh đã nằm ở đây 38 năm rồi, thời gian quá dài. Bao nhiêu người đã đi qua, kể cả những vị lãnh đạo dân Do thái, không ai màng tới.

Nhưng Đức Gêsu đã nhìn thấy, động lòng thương và đã chữa lành anh. Không những Chúa chữa bệnh nơi thân xác mà Ngài còn muốn tiến xa hơn khi kêu gọi người được chữa lành hãy nghĩ đến phần hồn của anh với lời nhắn nhủ: “Anh đừng phạm tội nữa”.

  1. Đức Giêsu cho anh bại liệt lành bệnh và bước đi trong an vui trong ngày sabat – ngày của niềm vui. Trong lúc người biệt phái ngăn cản anh vác chõng lại hạch hỏi anh thật độc ác chỉ vì ngày sabat, ngày nghỉ với họ cũng có nghĩa là không được vác chõng. Họ không thông cảm với anh khi anh bị khổ suốt 38 năm dài, họ vẫn cứ muốn trói buộc anh trong căn bệnh bại liệt chỉ vì câu nệ lề luật. Họ mang hình ảnh nhân loại không biết cảm thông nỗi khổ của nhau, đối xử với nhau từ ích kỷ đến tàn ác chỉ biết bắt bẻ và kết án.
  2. Đức Giêsu đã thực hiện một dấu lạ để mời gọi con người mở mắt nhìn Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế nhưng, không ai đã nhận ra sự hiện diện của Ngài. Riêng những người Do thái, những vị lãnh đạo tôn giáo Do thái đang có mặt ở đó lại dựa vào đó để bắt bẻ Chúa đã lỗi ngày hưu lễ. Đối với Chúa, Ngài đến làm ơn cho người ta, mạng sống con người quí trọng hơn hết.

Tu hội Nữ tử Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta chuyên phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật, đặc biệt là những người đang hấp hối nằm trên các hè phố. Trước đây có một vị sư Phật giáo nói với Mẹ Têrêsa: “Tôi biết và yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi ghét Giáo hội của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên  nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Giáo hội của Đức Kitô”. Nhưng sau một năm làm việc cùng với Mẹ Têrêsa, vị sư đó đã chứng thực việc làm của Mẹ và sẵn sàng dành cho Mẹ  một ngôi nhà trong khuôn viên chùa để làm bệnh xá miễn phí.

  1. Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã lưu ý những người con tinh thần của mình như sau: “Những người chung quanh con, cả nhân loại đang đau thương, khập khiễng trên đường mịt mù. Đời con sẽ phải hiến dâng để bắc nhịp cầu đưa họ đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất cả. Bên Chúa, không ai còn xa lạ, nhưng tất cả đều là anh em. Món quà tuyệt hảo mà con có thể tặng người giúp việc con không phải là chiếc áo đẹp, đôi giầy tốt, mà là tình người, tình anh em mà con âm thầm tặng họ qua những cử chỉ nhỏ nhặt suốt ngày”.
  2. Mỗi người chúng ta trong kinh nghiệm cá nhân, đã từng mang ít nhiều những bệnh tật thể xác, và mang những bất toại của tâm hồn trong thân phận của sự yếu đuối, tội lỗi, đó là sự bại liệt tâm linh của con người. Như anh bại liệt, chúng ta hãy bày tỏ sự mong muốn được chữa lành qua Bí tích Hòa giải, chính trong bí tích tình yêu này  Chúa nói với chúng ta như đã nói với anh bại liệt: “Anh đã được lành bệnh”.
  3. Truyện:  Nỗi mừng vui khi khỏi bệnh.

Thầy Andrew – một nhà truyền giáo Hà Lan, được mệnh danh là “tên buôn lậu của Thiên Chúa”, vì thầy buôn lậu Kinh Thánh vào những nước cấm phổ biến Thánh Kinh.

Ngày kia, thầy mua được một con khỉ. Không bao lâu, thầy nhận thấy con khỉ rất khó chịu khi chú bị chạm vào phần thắt lưng. Sau khi xem xét thật kỹ, thầy khám phá ra một vết sưng vòng quanh hông chú khỉ. Hóa ra là khi còn bé, chú khỉ đã bị người ta dùng một sợi dây kẽm buộc quanh hông, và cho tới nay sợi dây này vẫn còn  nằm trong thân xác chú. Càng lớn lên thì sợi thép đó lặn sâu vào da thịt chú.

Chiều hôm ấy, thầy Andrew cẩn thận tháo sợi dây kẽm đó ra bằng cách: thầy cào sạch vùng lông chung quanh sợi dây, rồi cẩn thận cắt sợi dây và kéo ra khỏi da thịt con vật. Suốt thời gian này, chú khỉ kiên nhẫn nằm yên chịu đau, mắt chú nhắm nghiền lại. Ngay khi sợi kẽm được lấy ra, chú khỉ mừng rỡ nhảy lui nhảy tới rồi ôm chặt vai thầy Andrew. Thế là chú khỉ được tự do thoải mái,  không còn bực bội khó chịu như trước nữa. Không thể diễn tả nổi chú khỉ hạnh phúc biết bao.

Người bại liệt trong Tin Mừng cũng vui mừng khi được Đức Giêsu tha tội và chữa khỏi bệnh bại liệt. Anh không còn bị tội lỗi và bệnh hoạn trói buộc nữa.

Suy Niệm 8: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng chữa lành mọi bệnh tật, là Đấng ban phát và phục hồi sự sống thân xác cũng như linh hồn. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa để được chữa trị tận căn mọi tội lỗi và mọi đau khổ, bệnh tật.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm động khi nhìn thấy hình ảnh Chúa ở bên hồ Bết-đa-tha. Ở đó có bao nhiêu người bệnh tật đau khổ đang chờ đợi một sự giúp đỡ, chờ đợi một cơ may. Thật hạnh phúc cho người lâm bệnh đã ba mươi tám năm, vì Chúa cảm thông với nỗi đau khổ của anh. Hạnh phúc cho anh vì được Chúa đến hỏi thăm và cứu giúp.

Vâng, Chúa thực sự chia sẻ nỗi đau khổ của con. Chúa được Chúa Cha sai đến để chữa trị bệnh tật cho chúng con, phần xác cũng như phần hồn. Con mang trong thân xác bao nỗi đớn đau bệnh tật. Cho dù thân xác con không bại liệt, nhưng linh hồn con đã bao năm tê cứng trong tội lỗi. Bao nhiêu năm sống ở trần gian, là bấy nhiêu năm linh hồn con thoi thóp. Những ngày con sống đẹp lòng Chúa thật là ít, còn những ngày vô độ thì rất nhiều.

Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa hỏi con có muốn khỏi bệnh không, thì con cũng trả lời như người bại liệt: không có ai giúp con. Vâng, không có ai giúp đỡ con ra khỏi tội lỗi, và cũng không ai có thể giúp con được. Chỉ có mình Chúa mà thôi. Chỉ có Chúa mới có thể chữa trị tận căn mọi tội lỗi đời con. Chỉ có Chúa mới ban phát và phục hồi lại sự sống nơi linh hồn con. Xin cho con biết chạy đến với Chúa để được chữa lành chứng tê liệt của linh hồn. Xin dạy con biết chạy đến với Lời Chúa, nơi bàn thờ Chúa, nơi Thánh Thể để được bồi dưỡng sinh lực. Xin nâng con chỗi dậy và đứng thẳng lên để làm lại cuộc đời. Qua Bí tích Rửa tội và Giải tội, Chúa đã cho con được đứng lên, thế nhưng con vẫn qụy ngã mãi. Xin Chúa đừng bỏ con. Xin Chúa ở lại trong đời con cũng như Chúa đã ở bên cạnh người bại liệt ngày xưa. Amen.

Ghi nhớ: “Tức khắc người ấy được lành bệnh”.

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)
  2. Bài đọc 1: Sách bài đọc Phụng vụ đã tóm thị kiến của ngôn sứ Eđêkien lại thành một câu “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi”.
  3. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu chính là nguồn nước cứu rỗi ấy. Người bất toại nằm chờ bên bờ hồ Bécsaiđa đã 38 năm nhưng chưa có cơ hội xuống hồ để được khỏi bệnh. Chúa Giêsu chỉ cần nói một câu “Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về” thì tức khắc anh khỏi bệnh.
  4. Suy niệm (…nẩy mầm)
  5. Chúa Giêsu thường “la cà” ở những nơi có những người khốn khổ, để chia sẻ với họ, an ủi họ, giúp đỡ họ và nếu họ tin thì cứu chữa họ.
  6. “Phép lạ xảy ra cho người bất toại trong Tin Mừng hôm nay có thể là hình ảnh của lòng tin cần được thanh luyện. Từ 38 năm qua, con người tàn tật này chờ đợi một phép lạ, nhưng một phép lạ gắn liền với một hiện tượng bên ngoài là nước hồ lay động đã không bao giờ xảy đến. Chỉ khi người tàn tật này gặp gỡ Chúa Giêsu, xưng thú nỗi bất lực của mình và tin ở lời Ngài thì lúc đó phép lạ mới thực sự được thực hiện” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

LẠY CHÚA, CON ĐÃ TIN RỒI! Tạp chí Âm Vang Lộ-Đức (Écho de Lourdes) thuật lại một câu chuyện có thật như sau: Có một người vô thần có đứa con gái yêu quý bị bệnh bại liệt mà các bác sĩ đều đã chịu bó tay, không tài nào cứu chữa được nữa. Ông nghe những người quen biết đồn rằng Đức Mẹ ở Lộ-Đức nước Pháp, có thể chữa lành cho cô bé. Cuối cùng thì ông cũng đã chấp nhận đưa con gái đến Lộ-Đức, nhưng không quên tuyên bố với những người bạn cả Công Giáo lẫn vô thần rằng: “Nếu tôi thấy con gái tôi được chữa khỏi, nếu tôi thấy tỏ tường nó chỗi dậy và đi lại được, tôi sẽ tin rằng Thiên Chúa hiện hữu!” Khi đến Lộ-Đức, ông đưa con gái lại gần, chen giữa đám đông những bệnh nhân đang vây quanh chiếc giếng mà Đức Mẹ thường làm phép lạ. Khi gặp được cha Bailly, một Linh Mục thường trực phụ trách tại địa điểm hành hương này, ông đã nói tất cả về nỗi niềm còn bán tín bán nghi của mình vào phép lạ. Và đúng lúc em bé được đưa xuống chiếc giếng cạn để nhúng ướt hoàn toàn trong nước, cha Bailly đã lớn tiếng nói với mọi người đang có mặt: “Có ai trong các vị hiện diện ở đây bằng lòng tận hiến chính mình làm hy tế cho Thiên Chúa Nhân Lành để cầu nguyện cho một người vô thần không? Có ai không? Chỉ một người thôi, bằng lòng cam chịu cơn bệnh nan y cho tới chết để cho cô bé này được lành, và để cho người cha vô thần này được trở lại đạo không?” Mọi người yên lặng… Mấy phút trôi qua… Chợt có một nữ bệnh nhân trung niên chống nạng hai bên nách khó nhọc bước ra khỏi đám đông và nói nhỏ nhẹ thật khiêm tốn: “Vâng, có tôi, tôi xin tự nguyện!” Ngay lúc ấy, bé gái liền được khỏi bệnh và tự mình bước ra khỏi miệng giếng. Người cha vô thần vội quỳ xụp xuống, thổn thức: “Lạy Chúa, xin Chúa tha tội cho con, con tin rồi!”

Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng, một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn (H.Spurgeon)

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu thường “la cà”ở những nơi có những người khốn khổ, để chia sẻ, an ủi, giúp đỡ và nếu họ tin thì cứu chữa họ. Bởi vì Ngài chính là sự cứu rỗi.

Người bất toại nằm chờ bên bờ hồ Bethsaiđa đã 38 năm nhưng chẳng tìm được cơ hội nào xuống hồ để được khỏi bệnh. Vậy mà Chúa Giêsu chỉ cần nói một câu “Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về” (Ga 5,8). Anh tin Lời Chúa đứng dậy….. tức khắc anh khỏi bệnh.

Như vậy, chúng ta thấy, khi con người có niềm tin và có thiện chí thì Chúa sẽ giúp đỡ.

Las Dasir là một thanh niên rất tốt. Thế nhưng, anh thấy mình quá yếu đuối trước những cơn cám dỗ. Mặc dầu đã hết sức cố gắng nhưng anh vẫn sa ngã. Anh đã dốc lòng chừa cũng cả trăm lần rồi thế mà anh vẫn cảm thấy như bất lực. Nhiều lúc anh cảm thấy như hoàn toàn tuyệt vọng. Để chứng tỏ cho mọi người biết anh là một người có thiện chí, anh đã tự quyết định ra hình phạt cho mình: cứ mỗi lần phạm tội, anh sẽ nhổ đi mười sợi tóc trên đầu. Và chừng nào trên đầu không còn tóc nữa, thì hình phạt cuối cùng sẽ là tự kết thúc cuộc đời. Chỉ một tháng sau, đầu của Dasir đã gần như bị trọc, và anh tự hứa với mình sẽ nhất quyết thi hành hình phạt, rồi sau một tháng nữa thì đầu của anh hoàn toàn bị trọc không còn một sợi tóc nào nữa.

Nhìn vào gương, thấy không còn sợi tóc nào trên đầu, Dasir tuyệt vọng nói thầm: “Ngày kết thúc cuộc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào hơn để giữ mình cho khỏi sa ngã phạm tội. Tốt hơn là phải tự kết liễu cuộc đời của tôi”. Nói là làm. Anh đưa tay vào ngăn kéo rút khẩu súng lục đã để sẵn trong đó ra để chuẩn bị kết thúc cuộc đời của mình. Thế nhưng, khi vừa đưa súng lên, kê nòng vào đúng thái dương và định bóp cò thì thình lình anh thấy một thiên thần hiện ra. Sự xuất hiện của thiên thần làm cho anh phải bỏ súng xuống. Thiên thần trao cho anh một gói quà và nói:

– Las Dasir này, đừng kết liễu đời mình như vậy. Thiên Chúa sai tôi đến đem cho anh món quà này. Anh hãy mở ra xem đi.

Anh cầm lấy, mở ra và vô cùng ngạc nhiên khi nhìn vào những gì đặt ở trong chiếc hộp: đó là một bộ tóc giả. Nhìn bộ tóc giả đó anh đã hiểu ngay được ý của Thiên Chúa muốn cho anh phải làm gì.

  1. Vâng! Có những lúc con người tưởng chừng như cuộc đời của mình là con đường cụt không tìm được lối ra. Điều quan trọng là con người còn có lòng tin hay không. Nếu còn có đức tin thì mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp. Còn không có đức tin thì lúc đó mới đúng là ngõ cụt.

Tạp chí Tiếng Vang Lộ-Đức (Écho de Lourdes) thuật lại một câu chuyện có thật như sau:

Một người vô thần nọ có đứa con gái yêu quý bị bệnh bại liệt mà các bác sĩ đều đã bó tay, không tài nào cứu chữa được nữa. Ông nghe những người quen biết đồn rằng, Đức Mẹ ở Lộ-Đức nước Pháp, có thể chữa lành cho cô bé.

Cuối cùng, thì ông cũng đã chấp nhận đưa con gái đến Lộ-Đức, nhưng không quên tuyên bố với những người bạn cả Công giáo lẫn vô thần rằng: “Nếu tôi thấy con gái tôi được chữa khỏi, nếu tôi thấy tỏ tường nó chỗi dậy và đi lại được, tôi sẽ tin rằng, Thiên Chúa hiện hữu”.

Khi đến Lộ-Đức, ông chen vào giữa đám đông những bệnh nhân đang vây quanh chiếc giếng mà Đức Mẹ thường làm phép lạ và đưa con gái lại gần đó. Khi gặp được cha Bailly, một Linh Mục thường trực phụ trách tại địa điểm hành hương ở đây, ông đã nói với cha về tất cả những nỗi niềm còn bán tín bán nghi của ông và những gì mà người ta đồn đại về phép lạ.

Rồi đúng lúc em bé được đưa xuống chiếc giếng cạn để nhúng ướt toàn thân trong nước, cha Bailly đã lớn tiếng nói với mọi người đang có mặt:

– Có ai trong các vị hiện diện ở đây bằng lòng tận hiến chính mình làm hy tế cho Thiên Chúa nhân lành để cầu nguyện cho một người vô thần không ? Có ai không ? Chỉ cần một người thôi, bằng lòng cam chịu cơn bệnh nan y cho tới chết để cho cô bé này được lành và để cho người cha vô thần này được trở lại đạo. Có ai không ?

Mọi người yên lặng… Mấy phút trôi qua… Chợt có một nữ bệnh nhân trung niên chống nạng hai bên nách, khó nhọc lắm mới bước ra khỏi được đám đông rồi nói nhỏ nhẹ thật khiêm tốn:

– Vâng, có con, con xin tự nguyện!

Ngay lúc ấy, cô bé bệnh tật liền được khỏi và tự mình bước ra khỏi miệng giếng. Người cha vô thần vội quỳ xụp xuống và bằng một giọng thổn thức đầy cảm xúc ông đã thốt lên:

– Lạy Chúa, xin Chúa tha tội cho con, con tin rồi!

Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào Thiên Đàng, một đức tin lớn sẽ đưa Thiên Đàng vào linh hồn bạn (H.Spurgeon).

Thứ tư sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay

Lời Chúa: Ga 5, 17-30

Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy”. Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:

“Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục.

Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài.

Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống.

Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử.

Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy.

Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta”.

SUY NIỆM 1: Không thể làm gì tự mình

Suy niệm:

Văn Cao chẳng những là một nhạc sĩ tài hoa,

mà còn là một họa sĩ, một văn sĩ, một thi sĩ.

Có một bài thơ rất ngắn ông làm năm 1967, mang tựa đề là Không Đề.

Con thuyền đi qua

để lại sóng

đoàn tàu đi qua

để lại tiếng

đoàn người đi qua

để lại bóng

tôi không đi qua tôi

để lại gì?

Theo Văn Cao, chỉ ai đi qua mình, dám vượt qua cái tôi của mình,

người ấy mới có gì để lại cho hậu thế.

Đức Giêsu đã sống mầu nhiệm vượt qua suốt đời.

Ngài không sống cho mình, nhưng cho Thiên Chúa Cha.

Giới lãnh đạo Do Thái giáo coi Đức Giêsu là kẻ phạm thượng

vì Ngài đã dám nói: “Cha tôi vẫn làm việc, và tôi cũng làm việc” (c. 17).

Thật ra Đức Giêsu chẳng bao giờ phạm thượng đến Cha.

Ngài không hề tự coi mình là Thiên Chúa (c. 18).

Đơn giản Ngài là Con, vâng phục Cha.

Đơn giản Ngài là người được Cha sai, chẳng hề làm theo ý riêng.

Sống tùy thuộc trọn vẹn vào Thiên Chúa Cha,

đó là nét nổi bật nơi con người của Đức Giêsu.

Con không thể làm hay nói bất cứ điều gì tự mình.

Con chỉ làm điều mình thấy Cha làm (c. 19).

Con chỉ nói điều mình nghe Cha nói (Ga 8, 26).

Người ta tưởng Con bị vong thân,

nhưng chính khi lệ thuộc vào Cha mà Con được tự do trọn vẹn.

Con thật là mình khi sống đúng bản chất của Con là quy hướng về Cha.

Mà bản chất của Cha là trao cho Con tất cả những gì Cha có.

Cha chẳng giữ cho riêng mình những gì có thể trao được.

Đơn giản vì Cha yêu Con (c. 20).

Cha cho Con được quyền tùy ý ban sự sống như Cha (c. 21).

Cha cho Con được như Cha, nghĩa là có sự sống nơi chính mình (c. 26).

Cha cho Con có toàn quyền xét xử (cc. 22. 27),

và có quyền gọi kẻ chết ra khỏi mồ để chịu phán xét (c. 28).

Cha muốn mọi người phải tôn kính Con như tôn kính Cha (c. 23).

Con được quyền năng như Cha là vì Con đã nhận tất cả từ Cha.

Tuy được chia sẻ mọi giàu sang của Cha,

nhưng Con chẳng quên Cha là nguồn cội, là cùng đích.

Mùa Chay, ta hãy đến với Giêsu, người Con yêu dấu, người được Cha sai.

Hãy sống lệ thuộc vào Thiên Chúa để được tự do hoàn toàn như Giêsu.

Tôi không đi qua tôi, để lại gì?

Ta sẽ để lại được nhiều điều cho đời, nhờ biết vượt qua mình như Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

ai trong chúng con cũng thích tự do,

nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.

Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.

Xin giúp chúng con được tự do thực sự:

tự do trước những đòi hỏi của thân xác,

tự do trước đam mê của trái tim,

tự do trước những thành kiến của trí tuệ.

Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,

để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,

để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho chúng con được tự do như Chúa.

Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,

khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi

và chữa bệnh ngày Sabát.

Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,

khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.

Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,

vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.

Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,

để chúng con được tự do bay cao. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: NHƯ NGƯỜI MẸ

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Từ thời lưu đầy, I-sai-a đã loan báo ngày Thiên Chúa phục hồi dân Người. Giải thoát khỏi ách nô lệ. Con người được chăm sóc bồi bổ. “Như bầy chiên, chúng sẽ được nuôi ăn trên các nẻo đường, sẽ gặp được đồng cỏ trên mọi đồi hoang”. Đất nước được tái thiết. Đến sa mạc cũng trở nên thành thị. “Mọi núi non của Ta, Ta sẽ biến thành đường sá, những con lộ của Ta, Ta sẽ đắp cao”. Vì Thiên Chúa cũng có một trái tim để cảm thương dân Người. Sẽ đến phục hồi dân. “Vì Đức Chúa ủi an dân Người đã chọn và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Người”. Và còn hơn nữa, đó là trái tim của người mẹ. Hiền dịu bao dung. “Xi-on từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!’ Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”.

Tất cả đã ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Chúa Giê-su làm người. Đầy quyền năng. Nhưng lại mang trái tim nhân loại. Trái tim người mẹ.

Trong Chúa Giê-su Thiên Chúa yêu thương. Yêu thương trước hết bằng hành động. Làm việc không ngừng. “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Làm những việc tốt lành. Chữa lành bệnh tật. An ủi con người. Xua trừ ma quỉ. Chính vì chữa bệnh trong ngày sa-bát mà Chúa bị chống đối.

Trong Chúa Giê-su Thiên Chúa phục hồi con người. Đặc biệt là ban sự sống. “Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý”. Sự sống phần xác chỉ là hình bóng của sự sống linh hồn. sự sống linh hồn bị tổn thương vì tội lỗi. Chúa đến xét xử tội lỗi. Nhưng không lên án. Mà để phục hồi.

Điều kiện để có sự sống là phải tin vào Chúa Giê-su: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống”. Tin là sống như Chúa. Không làm theo ý riêng. Nhưng luôn theo ý Chúa: “Tôi không làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi”.

Mùa Chay là mùa thanh luyện đức tin. Ăn chay là làm theo ý Chúa. Chúa sẽ phục hồi chúng ta.

SUY NIỆM 3: Công Việc Của Cha.

Một họa sĩ chuyên vẽ chân dung nọ di chuyển đến một thành phố nhỏ với hy vọng tìm được nhiều khách hàng. Vừa đến trước cửa thành, ông gặp ngay một người say rượu. Hai bên trao đổi với nhau và người say rượu đồng ý cho người họa sĩ vẽ chân dung của mình. Dù say túy lúy, gương mặt hốc hác, quần áo xốc xếch, người say rượu vẫn còn có thể ngồi yên để nhà họa sĩ làm việc. So với những khách hàng khác, thì đây là bức chân dung mà nhà họa sĩ phải tốn nhiều thời giờ nhất để vẽ. Đứng ngắm tác phẩm vừa được hoàn thành, người say rượu không thể cầm được sự ngạc nhiên: thay cho gương mặt chán đời của mình, anh thấy trong vức chân dung một nụ cười tươi tỉnh lạc quan; thay cho cách ăn mặc cẩu thả của mình, anh thấy mình được khoác lên một bộ quần áo lộng lẫy. Nhìn vào bức chân dung một lúc, anh lắc đầu và nói: “Người trong hình không phải là tôi”. Nhà nghệ sĩ trả lời một cách khéo léo vì đã biết nhìn xuyên qua bề ngoài để thấy vẻ đẹp nội tâm: “Thưa ông, đây là con người mà ông phải đạt đến”.

Mùa chay là mùa của thanh luyện, của hoán cải. Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về: trở về với Chúa, với anh em, với bản thân. Tựu trung tội lỗi là một chối bỏ Thiên Chúa, khước từ anh em, đánh mất bản thân. Qua những việc làm của Mùa chay, như cầu nguyện, sám hối, hãm mình, thực thi bác ái. Giáo Hội muốn chúng ta tìm lại được chính bản thân như Thiên Chúa mong muốn. Bản thân ấy chúng ta chỉ có thể nhận ra khi nhìn ngắm Chúa Giêsu.

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của Chúa Giêsu, Đấng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa: “Ta đến không phải để làm theo ý Ta, nhưng là làm theo ý Đấng đã sai Ta”. Nên một với Thiên Chúa, thể hiện sự nên một ấy đến cùng, đó là con đường mà Chúa Giêsu đã chọn lựa và đi cho đến cùng. Thực thế, cái chết của Chúa Giêsu gắn liền với mầu nhiệm Ba Ngôi. Người Do Thái kết án Ngài không những vì Ngài không tuân giữ ngày hưu lễ, mà còn vì Ngài tự cho mình ngang hàng với Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu là một mạc khải về Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu nói lên tiếng xin vâng trọn vẹn với Chúa Cha. Qua cái chết ấy, quyền năng và tình yêu của Chúa Cha được tỏ bày.

Mùa chay thường gợi lại một thực hành có tính truyền thống trong Giáo Hội, đó là hãm dẹp thân xác, tức là tham dự vào cái chết của Chúa Giêsu từng ngày qua những hy sinh, quên mình, để cũng được chia phần vinh quang Phục Sinh của Ngài, nghĩa là mỗi ngày một biến đổi để trở thành con người mới cho đến khi đạt được tầm mức viên mãn của Ngài. Đó là bức chân dung mà mỗi Kitô hữu đều mang trong mình và mỗi ngày họ cố gắng họa lại bằng cả cuộc sống của họ. Cùng với Chúa Kitô, Đấng đã nên một với Chúa Cha trong tất cả mọi sự cho đến chết, xin cho từng giây phút cuộc sống chúng ta luôn là một thể hiện thánh ý của Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Không ngừng yêu thương

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời cho những người biệt phái cách Ngài chữa lành cho người đang làm việc gần bên giếng nước rằng: “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy”. Thiên Chúa Cha nhân từ luôn luôn trao ban điều tốt cho con người mà Ngài đã tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Giờ đây đến phiên mình xuống trần để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng muốn liên lỉ làm việc, làm điều tốt cho con người, bất luận đó là ngày Sabát hay không. Ngày Sabát là cho con người chứ không phải con người cho ngày Sabát.

Cũng trong dịp này Chúa Giêsu mạc khải cho những kẻ chống đối Ngài mối tương quan giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động nhân từ mà Chúa Con thực hiện cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã mạc khải chân tính tình yêu đời đời đó và mời gọi con người hãy đáp trả, hãy cộng tác với chương trình yêu thương này để được sống đời đời: “Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta thì được sống đời đời, khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống”.

Hãy nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa, ta sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác: “Cha Ta làm việc liên lỉ và Ta cũng làm việc như vậy”. Chúa Giêsu đã không bao giờ ngừng yêu thương con người, cả khi con người chống đối Ngài.

Lạy Chúa, xin cho con luôn hướng mắt nhìn lên Chúa, đặt đời con vào trong viễn tượng cuộc sống đời đời để con được luôn can đảm, kiên trì chu toàn thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Lời Hằng Sống

Thật, tôi bảo thật các ông:

Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi,

Thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử,

Nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống

Thật, tôi bảo thật các ông:

Giờ đã đến- và chính là lúc này đây-

Giờ các kẻ chết nghe tiến Con Thiên Chúa

Ai nghe thì sẽ được sống. (Ga. 5, 24-25)

Người Do thái không tha thứ cho Đức Giêsu về sự vi phạm ngày Sa-bát khi Người chữa kẻ tê liệt. Người còn nói cho họ nghe Người làm như Cha Người hằng làm việc. Nên Người cũng không nghỉ làm việc dù là ngày Sa-bát.

Lời quả quyết đó càng làm họ tức giận hơn. Làm sao Đức Giêsu dám tự cho mình là Thiên Chúa nếu như Thiên Chúa không phải là Cha mình. Họ càng không ngớt nổi giận vì Đức Kitô nói thêm rằng: “Cha Tôi và Tôi cũng nhất tâm làm tất cả, và ai không tôn vinh Con thì không tôn vinh Cha”. Người còn chủ trương rằng lời Người có sức mạnh ban sự sống đời đời cho những ai nghe theo, như thế là tột bậc rồi.

Thật là một chủ trương đầy phấn khởi và hào hùng! Tuy nhiên, lời Đức Giêsu không chỉ là lời Thiên Chúa, mà còn là lời nhập thể hoàn toàn. Lời Người nói với chúng ta như anh em, như bạn tri kỷ, như sư phụ hoàn toàn biết rõ thân phận con người xác thịt của chúng ta. Người còn phối hiệp toàn diện với xác thân này ngay từ khi xuống thế. Do đó lời Người nắm bắt được mọi tâm tư nguyện vọng của chúng ta và thấy được tiếng lòng rung động kỳ diệu của con tim, khối óc của những ai nghe lời Người. Người cũng biết rõ những hoàn cảnh của mọi người nam nữ chúng ta trở lại với cái gì.

Lời hằng sống đã được công bố trong bài giảng trên núi chứa đựng toàn bộ kế hoạch của Phúc âm về sự gắn bó của chúng ta vào Đức Kitô và được làm thành bản hiến chương nước Thiên Chúa. Lời hằng sống đầy thương xót tha thứ làm sáng lên niềm hy vọng và tình yêu cho mọi người và được thốt ra từ miệng lưỡi của Đức Giêsu trước người đàn bà ngoại tình làm cho Ma-đa-lê-na thống hối, phụ nữ Sa-ma-ri bị chinh phục, ông Gia-kêu thấp bé hoán cải và người trộm lành ăn năn trở về. Cũng như Phê-rô khóc lóc vì chối Thầy. Lời hằng sống chứa đựng trong những dụ ngôn đầy hình ảnh tiêu biểu giáo huấn soi sáng, dẫn dắt chúng ta đến với Thiên Chúa.

Lời hằng sống loan báo những đau khổ để chuẩn bị các môn đệ và mọi người biết can đảm mạnh mẽ theo Đức Kitô qua mọi thời đại, sẵn sàng chịu vác thập giá khổ nạn như là nguồn hy vọng được sống lại vinh quang. Lời hằng sống nhất là đã trở thành lời hứa hấp dẫn của tế lễ Thánh Thể đưa lại sự hiện diện và tình yêu của Đức Kitô tồn tại mãi mãi.

G.F

SUY NIỆM 6: “TIN VÀ GIỮ LỜI TA THÌ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI” (Ga5,17-30)

Tin Mừng hôm qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu chữa người bệnh bại liệt ba mươi tám năm. Sau khi chữa anh được khỏi, Đức Giêsu truyền cho anh vác chõng mà về. Điều đáng chú ý là khi trên đường về, những người không ưa Đức Giêsu đã chặn anh lại và hỏi nguyên cớ làm sao mà anh được khỏi bệnh, ai là người đã chữa anh?

Hỏi như thế, không phải để chia vui với anh, cũng không phải cùng anh tạ ơn Chúa! Nhưng hỏi như vậy là để tìm cho rõ xem ai dám cả gan chữa bệnh ngày Sabát?

Tin Mừng hôm nay cho thấy giữa Đức Giêsu và người Dothái trở nên gây cấn hơn khi Ngài tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Nói như thế, Ngài minh định rằng: Thiên Chúa không nghỉ ngày Sabát thì Ngài không có lý do gì nghỉ và không làm việc thiện trong ngày này cả! Nhưng điều quan trọng hơn là Ngài mặc khải cho biết: Ngài đến để thực thi thánh ý của Cha Ngài. Cuối cùng, điều làm cho người Dothái chói tai, khiếm họ không chịu nổi, khi nghe Đức Giêsu nói: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết hướng tới sự sống đời đời. Khi hướng về sự sống đời đời, mọi việc chúng ta làm hay nói đều được tình yêu chi phối chứ không chỉ vì luật mà làm cho chúng ta xa rời tình yêu!

Xin Chúa ban cho chúng ta biết khiêm tốn để tin tưởng vào Đức Giêsu, yêu mến và trung thành với Ngài. Hãy biết ăn năn sám hối để được tha thứ và đáng hưởng sự sống đời đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Diễn từ về công việc của Chúa Con

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo đoạn hôm qua: vì Đức Giêsu chữa bệnh cho người bất toại vào ngày sabat nên một số người Do thái trách Ngài đã làm việc trong một ngày lẽ ra phải nghỉ việc. Trả lời cho họ, Đức Giêsu nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ. Ta cũng làm như vậy… Điều gì Chúa Cha làm thì Chúa Con cũng làm y như vậy”. Như vậy Đức Giêsu cho là mình ngang hàng với Thiên Chúa vì Ngài là Con. Vì thế ngưới ta tìm cách giết Ngài.
  2. Bài đọc 1 trích sách tiên tri Isaia có thể giúp ta hiểu công việc mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn liên lỉ làm là gì: đó là việc xót thương, cứu giúp loài người, nhất là những người cùng khổ. Giống như một người mẹ không bao giờ ngưng thương con cái mình: “Nào người mẹ có thể quên con mình được chăng? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng ta không quên ngươi đâu”.
  3. Hôm qua Đức Giêsu chữa cho người bất toại ở bờ hồ Betsaiđa đã 38 năm. Người biệt phái đã trách Ngài tại sao dám chữa bệnh vào ngày sabat? Đức Giêsu đã trả lời: “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy”. Ngài làm việc theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: Tình yêu, nên Đức Giêsu luôn làm điều tốt cho con người, dù đó là ngày sabat vì Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn làm điều tốt lành cho con cái mà Ngài đã tạo dựng giống hình ảnh Ngài.
  4. Bây giờ Đức Giêsu chứng minh cho người Do thái biết Ngài là Con Thiên Chúa nên Ngài làm những việc mà Cha Ngài đã làm: Ngài xuống trần gian để chu toàn ý Thiên Chúa là Cha – Đấng “yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,16), Ngài là Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta (x. Ga 1). Đức Giêsu mạc khải sự liên hệ mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha luôn khăng khít “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 14,10), gắn bó đến nỗi như Đức Giêsu tỏ lộ: “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10,30), và “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Cha có gì thì ban tât cả cho Con, nên Đức Giêsu đã khẳng định: “Tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 16,15).

Ngài nhấn mạnh: “Ta không thể làm điều gì tự mình Ta… Ta không tìm ý của Ta mà là ý của Đấng đã sai Ta”. Ngài đã hạ mình, vâng lời Chúa Cha thực hiện chương trình cứu độ: “Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá” (Pl 2,8) để nhân loại được thứ tha tội lỗi và được ơn cứu độ.

  1. Đức Giêsu mạc khải chương trình yêu thương đời đời của Thiên Chúa được thể hiện bằng những hành động nhân từ mà Ngài thực hiện cho con người, và mời gọi con người cộng tác vào chương trình yêu thương đó để được sống đời đời.

Một lần kia, thánh Gioan Boscô hỏi các học sinh của ngài đang chơi đùa: “Nếu ngay bây giờ các con biết mình sắp chết, các con sẽ làm gì”? Một số trả lời sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số khác cho biết sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành.

Riêng thánh Đaminh Saviô điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con sẽ chết, con vẫn tiếp tục cuộc chơi”. Sở dĩ như vậy là vì Đaminh Saviô  luôn nhận ra thánh ý Chúa trong từng giây phút và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời.

Đó cũng là thái độ để nêu gương cho các môn đệ: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.

  1. Tác giả sách Đường Hy Vọng đã khuyến khích những người con tinh thần của mình như sau: “Hãy nhìn mọi sự với con mắt của Thiên Chúa, con sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác. Sự điên dại trước mặt loài người là sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Khó nghèo, vâng phục, hãm mình, nhịn nhục, bác ái, tha thứ, khiêm tốn, là khờ dại trước mặt người đời nhưng lại cao trọng trước mặt Thiên Chúa. Thế gian cho là xui, Chúa cho là phúc thật. Thành công con cám ơn Chúa, thất bại con cũng cám ơn Chúa. Hãy vui tươi  vì chính khi thất bại là lúc Chúa muốn thử xem con làm vì Chúa hay vì ý riêng. Vui vẻ can đảm lúc thất bại khó khăn hơn là lúc may mắn, hạng anh hùng này con đếm được trên đầu ngón tay”.
  2. Truyện: Tin tưởng phó thác.

Có một gia đình nọ sống giũa đồng không mông quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội vã chạy ra ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi tổ ấm gia đình họ.

Bỗng mọi người chợt nhận ra  còn thiếu đứa bé nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy ra với mọi người, nhưng chưa tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá nên lại chảy trở lên lầu. Trong lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa bao vây tứ phía, bỗng cửa sổ trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói:

– Con nhảy xuống đây!

Cậu bé nhìn xuống dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, nhưng nghe tiếng cha kêu, liền trả lời:

– Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết!

Người cha trả lời giọng cương quyết:

– Cứ nhảy đi, có ba trông thấy con là đủ rồi.

Và cậu bé leo lên cửa sổ, liều nhảy xuống, rơi vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách an toàn.

Suy Niệm 8: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Cha sai Chúa Giêsu đến để xét xử và ban cho ta sự sống sung mãn đời đời. Chính Chúa Giêsu cứu ta khỏi chết về mặt thiêng liêng ngay từ đời này và khỏi chết về mặt thể xác trong ngày tận thế.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm qua con chiêm ngắm Chúa chữa bệnh cho người bại liệt. Anh ấy đi rồi, con tưởng thế là xong. Nhưng không, người Do thái lại chất vấn Chúa về việc Chúa chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Họ không hiểu được sứ mệnh của Chúa là được Chúa Cha sai đến để đem lại sự sống và ban ơn cứu độ cho họ và cho muôn người. Họ cứ cậy dựa vào lề luật hình thức và những tập tục cổ truyền để ngăn cản bước chân của Chúa, để chống đối Chúa.

Chính con cũng không hiểu gì về sứ mạng của Chúa. Con vẫn thường tạo ra những chướng ngại vật để ngăn cản hoạt động của Chúa trong đời con. Tuy rằng nơi thâm tâm, con vẫn ước ao đi tìm hạnh phúc, đi tìm sự sống, nhưng đôi chân con lại cứ bước vào nơi đau khổ, bước vào cõi diệt vong. Con vẫn đi trong tội lỗi và không còn lối thoát. Con vẫn cản lối không cho Chúa đi vào đời con.

Lạy Chúa, hôm nay Chúa nói với con: ai nghe Lời Chúa và tin vào Chúa Cha thì được sống. Xin cho con biết lắng nghe Lời Chúa mỗi ngày. Xin cho biết đặt trọn tin tưởng vào Chúa. Chỉ có Chúa mới cứu sống và giải thoát đời con. Xin Chúa đưa tay giải thoát con khỏi chết và đưa vào sự sống đời đời. Xin cho con được thông chia sự sống của Chúa, của Chúa Cha, và của Chúa Thánh Thần, để sự sống của Chúa trở thành sự sống nơi con. Con sẽ loại bỏ mọi trở ngại, nhất là tội lỗi và sự cứng lòng, để sự sống của Chúa được dồi dào và viên mãn nơi con, trong linh hồn và trong thân xác, trong cuộc đời này và trong cuộc sống đời sau. Amen.

Ghi nhớ: “Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tùy ý Người”.

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…
  2. Đoạn Tin Mừng hôn nay tiếp theo đoạn Tin Mừng hôm qua: vì Chúa Giêsu chữa bệnh cho người bất toại vào ngày sabát nên một số người Do Thái trách Ngài đã làm việc vào ngày đáng nhẽ ra phải nghỉ việc. Trả lời cho họ, Chúa Giêsu nói “Cha Ta làm việc liên lỉ. Ta cũng làm việc như vậy…Điều gì Chúa Cha làm thì Chúa Con cũng làm y như vậy”.
  3. Bài đọc 1: (trích sách Isaia) có thể giúp ta hiểu công việc mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn làm liên lỉ là gì: đó là việc xót thương, cứu giúp loài người, nhất là những người cùng khổ. Giống như một người mẹ không bao giờ ngưng thương con cái mình: “Nào người mẹ có thể quên con mình được chăng ? Cho dù người mẹ có quên, nhưng ta không quên được đâu”.
  4. Nẩy mầm…
  5. Trái tim không bao giờ ngừng đập, tình thương không bao giờ nghỉ ngơi. Thiên Chúa và Chúa Giêsu vẫn luôn liên lỉ làm những việc tình thương. Nhưng phần con người thì lại có câu “Tình thương mệt mỏi!”.
  6. Trong ngày sabát hay trong ngày Chúa nhật bây giờ, chúng ta nghỉ bớt những việc khác, để có thể làm nhiều việc bác aí hơn. Nói cách khác, trong ngày đó, ta nghỉ làm những việc cho mình, để làm những việc cho người khác.

3a. Chúa Giêsu tỏ ra là một người rất tự do vì Ngài không bị ràng buộc vào những tập tục ngày sabát. Nhưng sự tự do này xuất phát tự một sự lệ thuộc: “Ta không thể tự mình làm điều gì…vì ta không tìm ý riêng Ta mà tìm ý Đấng đã sai Ta”. Như thế bài Tin Mừng hôm nay là một sự nghịch lý: Tự do nhờ lệ thuộc ý Thiên Chúa. Khi con người lệ thuộc hoàn toàn vào ý Thiên Chúa thì con người sẽ tự do, ngược lại khi con người không theo ý Thiên Chúa thì con người sẽ thành nô lệ cho rất nhiều thứ khác. Ta hãy suy nghĩ thêm về cái nghịch lý này.

3b. Một thiếu niên đi xem đấu bóng với Cha sở, nói với Cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: “Thưa Cha, con rất ghét ai bảo thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này”.

Cha sở không nói một lới. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường hướng đi đến sân chơi. Cha sở làm như không thấy, cậu bé la lên:

“Chúng ta đi sai đường! Thưa Cha, Cha không thấy dấu đàng kia Ngài!”.

Cha sở bình tĩnh trả lời: “Cha thấy chứ, nhưng Cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và Cha ghét bị ai chỉ bảo đi đường này, đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kĩ. Nó không cho Cha tự do hành động”.

Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi (Góp nhặt).

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Chúng ta vừa nghe những lời rất thẳng thắn, rõ ràng, không úp mở của Chúa Giêsu: “Cho đến nay, cha Tôi vẫn làm việc, thì Tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).

1.Vâng! Thiên Chúa luôn làm việc vì yêu thương.

Vâng! Nếu trái tim không bao giờ ngừng đập, thì tình thương cũng không bao giờ nghỉ ngơi. Thiên Chúa luôn làm việc.

Ngoài công việc sáng tạo, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc qua sự quan phòng an bài kỳ diệu của Người nơi vạn vật.

Philô nói: “Thiên Chúa chẳng bao giờ ngưng làm việc, vì như đặc tính của lửa là cháy, đặc tính của tuyết là lạnh, thì đặc tính của Thiên Chúa là làm việc”.

Sách Giáo Lý chung nói: “Con Thiên Chúa đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ bằng trí óc con người, hành động theo một ý chí con người, yêu mến bằng quả tim con người”. (GS 22,2).

Sách Gương phúc nói: “Bạn sinh ra để làm việc, sao bạn lại tìm an nghỉ ? Người ta hỏi họa sĩ Zeuxis tại sao ông ta vẽ những nét rất tỉ mỉ trên những bức họa của ông, ông trả lời: “Vì tôi làm việc để lại cho trường cửu”. Vậy hỡi bạn, bạn cũng phải làm việc cho trường cửu. Một công việc như thế chẳng lẽ không được trả bằng một giá rất đắt sao ?”

  1. Thiên Chúa làm việc để sáng tạo và cứu rỗi.

Theo truyện tích về công việc sáng tạo trời đất thì quả thật Thiên Chúa có nghỉ ngày thứ bảy, nhưng nghỉ làm công việc sáng tạo không có nghĩa là nghỉ những công việc khác nhất là những công việc vì yêu thương.

Chúng ta cũng phải làm việc thì mới giống Chúa. Vì làm việc là góp phần vào việc kiện toàn những công việc còn đang dang dở trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Một hoàng đế nọ cỡi ngựa vào rừng săn bắn. Khi đi ngang qua ngọn đồi gần bìa rừng, ông trông thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đang cặm cụi đào lỗ trồng cây, Hoàng đế liền thắng ngựa và lớn tiếng bảo cụ già:

– Chắc hẳn là ngươi không mong đợi được ăn trái của cây ngươi đang trồng hôm nay chứ!

Cụ già thản nhiên đáp:

– Hạ thần không bao giờ thất vọng về điều đó; bao lâu hạ thần còn được Thượng Đế ban cho sinh lực, bấy lâu vẫn tiếp tục hy vọng và chu toàn bổn phận của hạ thần.

Hoàng đế tò mò hỏi thêm:

-Thế ngươi năm nay bao nhiêu tuổi ?

Cụ già đáp:

-Tâu Hoàng Thượng, năm nay hạ thần vừa tròn một trăm tuổi, biết đâu Thượng Đế còn cho hạ thần sống thêm một ít năm nữa để hưởng dùng trái cây này. Dù sao, mỗi khi trồng cây, hạ thần không làm gì hơn là tiếp tục công trình sáng tạo của Thượng Đế, Đấng đã truyền cho trái đất trổ sinh hoa trái phong phú.

Thán phục lòng tin của cụ già chất phác đơn thành, hoàng đế nói tiếp:

– Nếu ngươi còn thọ tới ngày cây vả này trổ hoa kết trái, ngươi hãy cho ta biết.

Ít năm sau, quả thực cây vả đã bắt đầu nở hoa, rồi kết trái đầy cành. Đợi tới ngày trái vả chín ngọt, cụ già hái đầy một giỏ, rồi lên đường tới đền vua. Tới cổng, lính canh từ chối không cho cụ già nghèo hèn vào chầu, nhưng cụ già nài nỉ phân trần đầu đuôi câu chuyện, và rồi vì kính nể tuổi già tóc bạc, sau cùng mấy anh lính tháp tùng cụ già vào triều yết vua. Cụ già khiêm tốn cúi mình trước ngai vua và nói:

– Tâu Hoàng Thượng, hạ thần là ông già khom lưng trồng cây bên bìa rừng mà Hoàng Thượng đã gặp mấy năm trước đây. Hôm nay, hạ thần xin kính dâng Hoàng Thượng những trái chín ngọt đầu mùa của cây vả mà hạ thần đã trồng hồi năm ấy.

Nhà vua vui mừng nhận ra cụ già và rất hài lòng với món quà cụ kính dâng, nhất là với lòng trung tín và sự cần cù của cụ. Ngài vui vẻ đổi lại cho cụ già cái giỏ đầy những đồng tiền vàng và nói:

– Hỡi người trung tín và đáng kính phục, hãy trở về nhà bình an và tiếp tục cộng tác với Thượng Đế toàn năng trong cuộc sáng tạo của Người.

Lạy Chúa Giêsu,

con thường thấy mình không có thì giờ,

nhưng đồng thời cũng thấy mình lãng phí bao thời gian quý báu.

Nhiều khi con tự hỏi mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.

Xin cho con biết quý trọng từng giây phút

đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.

Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian, để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.

Xin cho con luôn làm việc như Chúa: hăng say, tận tụy và vui tươi,

vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.

Vì quá khứ thì đã qua, và tương lai thì chưa đến,

nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.

Xin cho con thấy Chúa lúc này đang ở đây bên con,

và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài

bằng những hành động cụ thể.

Con xin hiến dâng Chúa giây phút này như một hy lễ,

với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.

Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại

để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. Amen

Thứ năm sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay

Lời Chúa: Ga 5, 31-47

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: “Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật.

Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian.

Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống.

Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?”

SUY NIỆM 1: Chúa Cha làm chứng cho tôi

Suy niệm:

Để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần đọc từ đầu chương năm.

Đức Giêsu chữa anh bất toại bên hồ nước gần Đền thờ Giêrusalem (cc. 1-9).

Anh được khỏi và vác chõng đi vào ngày sabát theo lệnh Đức Giêsu.

Chuyện đó dẫn đến việc người Do thái chống đối Ngài (c. 16).

Khi nghe Ngài nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”

họ tìm cách giết Ngài, vì cho rằng Ngài mắc tội phạm thượng,

dám gọi Thiên Chúa là Cha và coi mình ngang hàng với Thiên Chúa (c. 18).

Không chút sợ hãi, Đức Giêsu khẳng định quyền mình đã nhận được từ Cha:

quyền làm cho kẻ chết sống lại và quyền phán xét trong ngày sau hết (cc. 19-30).

Dù có quyền, lúc nào Ngài cũng là Con làm theo ý Cha, Đấng sai Ngài.

Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu như người bị đứng trước tòa, bị kết án tử.

Vì không được tự làm chứng cho chính mình,

nên Ngài phải tìm những lời chứng để biện hộ cho lời nói, việc làm của Ngài.

Trước hết là lời chứng của Gioan Tẩy giả (cc. 33-35).

Ông là ngọn đèn làm chứng về ánh sáng, về Đức Giêsu (Ga 1, 8-9).

Nhưng người ta đã không đón nhận lời chứng ấy.

Kế đến là những công việc Cha giao mà Ngài đã hoàn thành (c. 36).

Lẽ ra chúng phải là lời chứng thuyết phục cho thấy Ngài được Cha sai.

Cuối cùng là lời chứng của Chúa Cha (cc. 37-40).

Cha làm chứng bằng những lời của Cha trong Kinh Thánh (c. 39).

Nhưng họ không giữ lời Cha ở lại trong lòng,

nên chẳng tin, cũng chẳng muốn đến với Đấng được Cha sai (c. 38. 40).

Những lời chứng trên đây trở nên vô ích

đối với những ai không có lòng yêu mến Thiên Chúa (c. 42),

không tìm vinh quang Thiên Chúa mà chỉ tôn vinh lẫn nhau (c.44).

Đức Giêsu đã phải chấp nhận sự từ khước này

mà Ngài biết cuối cùng sẽ dẫn đến cái chết.

Làm sao ta có thể ra khỏi những thành kiến để đón lấy sự thật,

ra khỏi những tư lợi ích kỷ để dám tin vào tình yêu,

ra khỏi cái tôi chật hẹp để dám sống cho người khác.

Hãy tin vào Giêsu, Đấng được Cha sai (c. 38).

Hãy đến với Giêsu để được sống (40).

Cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi

mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên

để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang

để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường

để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai

để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề

để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.

  1. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: CỨNG ĐẦU, CỨNG CỔ, CỨNG LÒNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Dân Do Thái thời Mô-sê bị Chúa trách mắng vì cứng đầu, cứng cổ. Người thời Chúa Giê-su thì cứng lòng. Họ đã thấy những dấu lạ lẫy lừng. Mười tai ương cho người Ai-cập. Vượt qua Biển Đỏ khô chân. Thấy vinh quang Thiên Chúa hiển hiện trên đỉnh núi. Sấm chớp ầm ầm. Khói lửa nghi ngút. Tiếng Chúa phán ầm ầm như tiếng sấm động. Chúa Giê-su cũng làm biết bao phép lạ. Nói những lời khôn ngoan. Nhưng họ vẫn không tin.

Ngoài ra Chúa Giê-su có biết bao chứng nhân. Khi gần qua đời, Mô-sê đã tiên báo: “Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy…Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính ta sẽ hạch tội nó”( Đnl 18,15.19). Thánh Gio-an là chứng nhân trổi vượt. Đã công khai giới thiệu Chúa Giê-su: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Chúa Giê-su cho biết chính Thánh Kinh làm chứng về Người: “Hôm nay lời các ngươi vừa nghe đã ứng nghiệm”. Vậy tại sao người Do Thái từ xưa đến nay vẫn không tin?

Vì tuy họ thấy những điềm thiêng dấu lạ. Nghe những lời khôn ngoan. Nhưng họ chưa tiến vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Chưa có đời sống tôn giáo đích thực. Họ còn bề ngoài. Cư xử theo thói đời. Dừng lại ở ngưỡng cửa phàm tục. Chưa tiến vào thâm cung nhiệm mầu của tôn giáo thực sự để gặp gỡ và sống với Thiên Chúa.

Chúa Giê-su xuống thế làm người để dậy cho ta biết sống đạo đích thực. Là đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Là tin và yêu. Tin là phó thác trọn cuộc đời cho Thiên Chúa. Mô-sê đã nêu gương. Suốt đời chỉ sống cho Thiên Chúa. Yêu thương dân chúng đến dám chết vì dân. Chúa Giê-su là Mô-sê mới. Trổi vượt hơn. HIến toàn thân cho Chúa Cha. Chỉ làm công việc của Chúa Cha. Không màng đến vinh danh và sự chấp nhận của người đời. Chỉ cần làm đẹp lòng Thiên Chúa. Người đã tiến đến mối tương giao thật thân thiết với Chúa Cha. Nên một với Chúa Cha. Sẵn sàng chết vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Đó là sống đạo đích thực.

Mùa Chay là mùa cao điểm để ta noi gương Chúa Giê-su. Sống đức tin và tình yêu với Thiên Chúa. Không tìm thành công nơi trần gian. Không trông cậy vào những thế lực trần gian. Hoàn toàn hiến mình cho Chúa. Hoàn toàn quên mình. Chỉ tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa. Chỉ tìm vinh danh nơi Thiên Chúa. Đó là ăn chay đích thực.

SUY NIỆM 3: Chứng Của Chúa Cha.

Sau khi bị những người Do Thái chỉ trích Ngài vi phạm luật ngày Hưu lễ vì đã chữa bệnh cho một người bị liệt đã 38 năm, Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài có quyền hành động như thế, bởi vì Ngài là cộng tác viên của Thiên Chúa. Và giờ đây Ngài nại đến một chứng từ mà người Do Thái không thể phủ nhận, đó là chứng từ của Thiên Chúa Cha được bày tỏ qua các phép lạ Ngài làm cũng như qua Lề Luật Môsê. Quả vậy, các phép lạ Chúa Giêsu làm chứng thực rằng chính Thiên Chúa đã sai Ngài đến, chính Thiên Chúa đã hành động với Ngài và trong Ngài. Do đó, đây là chứng từ không những do Chúa Cha mang đến, mà còn do ngay của Chúa Giêsu nữa, vì “cứ xem quả thì biết cây”.

Tiếp đến, chính qua Kinh Thánh, Chúa Cha cũng làm chứng cho Chúa Con một cách đặc biệt. Đây là một chứng từ có tính cách trực tiếp và có giá trị đối với người Do Thái, vì mọi người Do Thái đều công nhận Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa.

Trong khi toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do Thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Chúa Giêsu và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến. Và không phải Chúa Giêsu là người sẽ tố cáo họ về tội bất trung này, nhưng là chính Môsê. Bởi vì qua Lề Luật, Môsê đã nói về Đấng Mêsia tức là về Chúa Giêsu, vậy mà về điểm căn bản này, họ cũng đã từ chối không chịu tin theo lời dạy bảo của ông.

Như vậy, điều cốt yếu để được cứu độ là tin vào Chúa Giêsu, nhận ra hình ảnh và lời nói của Chúa Cha nơi Ngài. Có tin vào Chúa Giêsu, lời Thiên Chúa mới ở trong chúng ta. Trong Mùa chay này, chúng ta hãy để cho Lời Chúa lưu lại trong chúng ta bằng cách năng suy gẫm Lời Chúa, để giữa cuộc sống của chúng ta và Lời Chúa biểu lộ được khuôn mặt, tinh thần và tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu nồng nàn để có thể nhận ra và lắng nghe được tiếng nói của Chúa và luôn sống trong đường lối của Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Tôi biết rõ các ông

Chúa Cha, Đấng đã sai tôi,

Chính Người cũng đã làm chứng cho tôi.

Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người,

Cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người.

Các ông không giữ lời Người ở lại trong lòng,

Bởi vì chính các ông không tin

Vào Đấng Người đã sai đến

Các ông nghiên cứu kinh thánh,

Vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được

Sự sống đời đời

Mà chính kinh thánh lại làm chứng về tôi!. (Ga. 5, 37-39)

Một lần nữa, Chúa còn làm cho chúng ta ý thức về sự thật tỏ tường mà chúng ta đã từ chối. Nếu chúng ta liệng bỏ đời sống do Thiên Chúa ban, thì chính chúng ta lên án chính mình. Đức Kitô sẵn lòng hiện diện và luôn hoạt động, dù Người không cần gì phải bảo vệ.

Tất cả sứ điệp của Đức Kitô tóm lại trong hai thái độ nền tảng và bất khả phân ly này là: đức tin và tình yêu. Hoặc là chúng ta đón nhận cả hai hoặc là không. Đó là điều căn bản. Đừng lấy làm lạ khi người ta thấy khó theo Đức Kitô. Thật đáng buồn khi bị Ngài từ chối do những thái độ sống nửa vời, sống khô khan, hòa hoãn bủn xỉn, hẹp hòi.

Đức tin đặt nền tảng trên sự thật vào Đấng chúng ta tin, vào Đức Kitô của Chúa Cha: “Lời Ngài làm chứng về Tôi là lời chứng thật”.

Đức tin đặt nền tảng trên công việc mà Đức Kitô đã hoàn tất nhân danh Chúa Cha: “Chính những việc Tôi làm đó làm chứng cho Tôi rằng Chúa Cha đã sai Tôi”.

Đức tin đặt nền tảng trên Kinh thánh, chúng ta biết rằng Thánh kinh đã được linh ứng bởi Thiên Chúa: “Chính Kinh thánh lại làm chứng về Tôi”.

Chúng ta có đức tin không? Làm sao chúng ta có thể nói: “Tôi tin”, nếu chúng ta không sống theo Đức Kitô, mà giáo huấn của Người từ Chúa Cha đến với chúng ta? Chúng ta không tin Thiên Chúa nếu không tin Đức Giêsu Kitô. Tóm lại, Đức Giêsu đã nói với chúng ta rằng: “Các ông không tin Chúa Cha vì các ông không tin Đấng Chúa Cha sai đến”.

Chúng ta nghe lời cảnh cáo của Đức Kitô, lời bày tỏ một lòng thương xót lớn lao đối với những người là anh em bạn hữu của Người. Và những lời này chắc chắn cũng nói với các bạn và tôi nữa. Chúng ta hãy nghe lời Đức Kitô sắp kêu lên một lời than thở dường như thất vọng: “Quả thật, Tôi biết rõ các anh, tình yêu Thiên Chúa không ở trong các anh”.

Và Người nói tiếp: “Không, các anh không tin Tôi, nhưng lại tin kẻ lường gạt đến đầu tiên”. Có phải Người đã chết vì điều đó chăng? Đức Kitô đã nói với chúng ta rằng: “Phải, Tôi chết vì những trò dại dột của các bạn, vì những mê tín dị đoan của các bạn, để các bạn có ánh sáng. Thật khó khăn tin vào Tôi, Tôi rõ ràng hiển nhiên như thế đó. Tôi chết đi để cho các bạn có thể được gặp Cha chúng ta, ước mong các bạn là tín hữu trung thành”.

J.M

SUY NIỆM 5: CHỨNG BỞI GIOAN TIỀN HÔ (Ga 5, 31-47)

Mạng sống của Đức Giêsu ngày càng bị đe dọa cách quyết liệt! Lòng căm tức và chủ tâm loại trừ Đức Giêsu ra khỏi xã hội ngày càng leo thang! Đức Giêsu biết rõ điều đó, nhưng không vì thế mà Ngài im hơi lặng tiếng để yên thân! Không! ngược lại, Đức Giêsu luôn tìm dịp thuận tiện để đưa họ vào một thực tại vô cùng quan trọng.

Thực tại đó là: biết Ngài là Thiên Chúa; Thiên Chúa Cha với Ngài là một và Ngài có quyền như Thiên Chúa.

Khi mặc khải như thế, nỗi tức giận của những người Dothái nổi lên. Nhưng Đức Giêsu đã gợi lại cho họ về hình ảnh, vai trò và sứ vụ của Môisê, để họ thêm cơ sở nhằm xác tín về Ngài, nhưng lòng trai dạ đá đã làm cho họ lu mờ và cố chấp, nên Đức Giêsu đã khẳng định số phận của họ và kết án họ ngay tại chỗ đứng của họ. Ngài nói: “Kẻ tố cáo các ông chính là ông Môsê, người mà các ông tin cậy. Vì nếu các ông tin ông Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. Nhưng nếu điều ông ấy viết mà các ông không tin, thì làm sao tin được lời tôi nói?”.

Những người Dothái trong bài Tin Mừng hôm nay họ đã buộc Thiên Chúa vào chính những ý niệm của họ về Người, chứ không phải lòng mến của họ nơi Thiên Chúa. Họ thường xuyên dùng chính Kinh Thánh để bảo vệ lập trường của họ chứ không nhìn Kinh Thánh như là lời hướng dẫn họ phải làm!

Như vậy, dân Dothái được ân huệ lớn lao nhất là từ nơi ấy, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa xuất hiện, hơn nữa, họ được hưởng sự hiểu biết từ bao đời về Đức Giêsu, lẽ ra họ phải tin và trung thành với Giáo huấn của Ngài, đằng này họ lại bị lĩnh án gay gắt vì sự cứng lòng.

Ôi sự cứng lòng đã làm cho tâm hồn người ta ra mê muội, ù lỳ và cố chấp! Con người là thế! Không ai muốn người khác hơn mình!

Trong thực tế hôm nay vẫn thường xuyên xảy ra như vậy! Chính định kiến cá nhân, phe phái mà không ngừng xảy ra chiến tranh, bạo lực, đàn áp, bóc lột… Những người đó đã giết chết anh chị em mình, bóp chết sự thật để cho sự ích kỷ, bạo tàn hoành hành khắp nơi.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mình, đó là được trở nên con cái Thiên Chúa, được Đức Giêsu đổ máu để cứu chuộc, thì chúng ta phải sống sao cho xứng đáng đặc ân cao quý này.

Đừng bao giờ đọc Kinh Thánh với thái độ khép kín hay biến Kinh Thánh để làm luận cứ để hậu thuẫn cho những lập trường bảo thủ của mình thay vì lòng yêu mến và mong được biến đổi nhờ Lời Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa là chân lý, là lời hằng sống. Xin cho chúng con biết tin tưởng, yêu mến và thực hành Lời Chúa dạy để được sống đời đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Tin vào Con của Người

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Vị thẩm phán đến thi hành nhiệm vụ tại một thị trấn nọ, ông thường bị một luật sư kiêu căng ở đó chế nhạo, khích bác. Tại một bữa ăn tối, có người hỏi vị thẩm phán sao không có biện pháp mạnh đối với viên luật sư kia. Vị thẩm phán bèn dừng bữa, một tay chống cằm, một tay để trên bàn, kể chuyện: “Chỗ tôi ở có một bà góa nuôi một con chó. Con chó thật xinh, nhưng có tật là hễ thấy ánh trăng là nó tru lên. Có khi suốt cả đêm”. Kể tới đó, ông ngừng lại và ăn tiếp. Tò mò, một người hỏi: “Này ông thẩm phán, rồi con chó và mặt trăng ra sao?”. “Con chó cứ tru và mặt trăng cứ tiếp tục tỏa sáng”.

Suy niệm

Chúa Giêsu chữa lành cho một người bại liệt vào ngày Sabát, đối với người Do Thái, Ngài đã phá bỏ truyền thống, vi phạm Lề Luật nên họ nghi ngờ sứ mạng Thiên Sai và con người của Ngài. Cho nên, người Do Thái không tin vào Ðức Giêsu, cũng chối từ Thiên Chúa và chỉ cầu vinh nơi người đời. Ðức Giêsu quở trách thái độ cố chấp của họ. Vì Ngài được chính Chúa Cha làm chứng, Ngài nói tới ba cách Thiên Chúa làm chứng về Người:

Lời chứng thứ nhất: Từ Ngài qua những phép lạ và những việc phi thường mà Người đã thực hiện.

Lời chứng của Chúa Cha mà ông Gioan Tẩy giả đã lãnh nhận khi Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34). Gioan làm chứng ánh sáng như Tin mừng thứ tư xác nhận: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1,8) và ánh sáng chính là Ngài như tuyên bố: “Ta là sự sáng trần gian” (Ga 8,12).

Lời chứng qua chính Kinh Thánh Cựu ước, như Chúa Giêsu đã nói, ông Môisê đã viết về Người khi ông nói về vị ngôn sứ đang tới (Đnl 18,15). Tuy nhiên, không phải chỉ có mình Môisê viết về Chúa Giêsu, mà còn nhiều lời tiên tri trong Cựu ước loan báo về Đấng Mêssia là chính Ngài được Thiên Chúa sai đến.

Không chỉ quở trách người Do Thái cố chấp không tin, hôm nay Chúa cũng đang chất vấn và quở trách chúng ta về cách sống “thực dụng” của mình mang những dấu ấn không tin một cách thực tiễn khi chúng ta khước từ Thiên Chúa để chạy theo vật chất, những danh vọng những đam mê trần thế làm chúng ta càng xa dần Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc đích thực.

Xin tha thứ cho chúng con và giúp chúng con thoát khỏi những ràng buộc của đam mê, tội lỗi của bóng tối thế gian. Ðể chúng con luôn đặt trọn niềm tin yêu vào Chúa.

Ý lực sống: “Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Suy Niệm 7: Những chứng từ về Chúa Con

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Khi chữa bệnh cho người bất toại ở bờ hồ Betsaiđa vào ngày sabat, người ta hạch hỏi Đức Giêsu đã lấy quyền nào mà làm như vậy. Đức Giêsu trả lời cho họ biết: Ngài noi gương Thiên Chúa là Cha của Ngài mà làm như vậy. Họ không tin. Đức Giêsu lại nói: chính Thánh Kinh và Maisen (phải hiểu là Cựu Ước) làm chứng rằng Ngài chính là Messia, Con Thiên Chúa. Nếu họ tin Maisen thì họ phải tin lời chứng của Maisen.
  2. “Trong toàn bộ Thánh Kinh Cựu Ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa, và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến” (Mỗi ngày một tin vui).

Tại sao có thảm kịch này? Vì người Do thái nuôi sẵn một hình ảnh về Đấng Messia, hợp với sở thích của họ. Cái hình ảnh ấy che mất hình ảnh đích thực của Đấng Messia. Ta thấy đó, người ta có thể đọc Sách Thánh mà không tìm thấy Thiên Chúa nhưng chỉ thấy chính mình.

  1. Người ta thường nói: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nắm được thiên cơ – thiên thời – là yếu tố quan trọng hạng đầu của sự thành công. Thực tế cho thấy, nhiều người, vì không biết tận dụng thời cơ, nên đã rơi vào thất bại đáng tiếc, dù họ có rất nhiều điều kiện thuận lợi.

Mọi người đều khao khát gặp Đấng Cứu Độ để được sự sống đời đời. Qua Kinh Thánh, người Do thái được Thiên Chúa ưu ái cho biết Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện trong dân tộc của họ. Vì thế, họ đã kiên nhẫn chờ đợi Người suốt cả hàng ngàn năm. Tuy nhiên, chỉ vì thành kiến sai lầm và cố chấp không chịu tin, nên khi Đức Giêsu, Đấng Cúu Độ đích thực đến, họ không nhận ra, nên đã bỏ lỡ cơ hội để gặp gỡ và yêu mến Người.

  1. Mặc dù Đức Giêsu đã làm đủ cách để minh chứng Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Chúa Cha sai đến, nhưng người Do thái vẫn không chịu tin để được sống, để khỏi bị xét xử và bị luận phẹt. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu phải nại đến ba nhân chứng có uy tín để làm chứng cho Ngài, đó là Chúa Cha, Gioan Tẩy Giả và Thánh Kinh, bởi vì theo luật thời đó, phải có hai ba nhân chứng thì mới được chấp nhận.
  2. Trước hết, chính Thiên Chúa Cha làm chứng cho Đức Giêsu. Chúng ta thấy có hai lần Chúa Cha tuyên bố: “Đây là Con Ta rất yếu dấu”, một lần khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan, và một lần khi Đức Giêsu biến hình trên núi Taborê. Đó là bằng chứng hùng hồn cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Chúa Cha muốn mọi người tin Đức Giêsu thật  là Con Ngài.
  3. Thứ đến,  Gioan Tiền Hô làm chứng cho Chúa. Tin Mừng nói: “Có một người, tên là Gioan, ông đến để làm chứng, để chứng thật về ánh sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin”. Chính Gioan đã làm chứng cho Đức Giêsu bằng sự tự khiêm tự hạ: “Tôi không đáng cởi dây giầy cho Đấng đến sau, nhưng đã có trước tôi”. Rồi khi Đức Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói cho các môn đệ: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Sau hết, Gioan đã làm chứng cho Chúa bằng sự nhỏ đi, bằng cái chết của mình.
  4. Sau cùng, Kinh Thánh chép về Đức Giêsu và chính Đức Giêsu đã thực hiện như lời Kinh Thánh chép về mình. Đáng lẽ Kinh Thánh là chứng từ có giá trị nhất để người Do thái tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, vì họ vẫn công nhận Kinh Thánh là lời hứa của Thiên Chúa; nhưng rất tiếc họ đã đọc Kinh Thánh hằng ngày, đã nghiền ngẫm Kinh Thánh mà không nhận ra rằng Đức Kitô đã được Chúa Cha sai đến để cứu họ.
  5. Tóm lại, mặc dầu Đức Giêsu đã đưa ra những bằng chứng xác thực để minh chứng Ngài là Đấng Cứu Thế, nhưng người Do thái vẫn không nhìn nhận Ngài. Tại sao vậy? Thưa vì họ thiếu ý hướng ngay lành khi đi tìm Lời Chúa, rồi họ lại tự cao tự mãn, làm cho họ thành những người cố chấp không tin.

Không chỉ quở trách người Do thái cố chấp không tin, hôm nay Chúa cũng đang chất vấn và quở trách chúng ta về cách sống “thực dụng” của mình mang những dấu ấn không tin một cách thực tiễn, khi chúng ta khước từ Thiên Chúa để chạy theo vật chất, những danh vọng, những đam mê trên thế gian làm chúng ta xa dần Thiên Chúa – hạnh phúc đích thực.

  1. Truyện: Chó cứ sủa, trăng vẫn sáng.

Vị thẩm phán đến thi hành nhiệm vụ tại một thị trấn nọ, ông thường bị một luật sư kiêu căng ở đó chế nhạo, khích bác.

Tại một bữa ăn tối, có người hỏi vị thẩm phán sao không có biện pháp mạnh đối với viên luật sư kia. Vị thẩm phán bèn dừng bữa, một tay chống cằm, một tay để trên bàn, kể chuyện:

– Chỗ tôi ở có một bà góa nuôi một con chó. Con chó thật xinh, nhưng có tật là  hễ thấy ánh trăng là nó tru lên. Có khi suốt cả đêm.

Kể tới đó, ông ngừng lại và ăn tiếp. Tò mò, một người hỏi:

– Này ông thẩm phán, rồi con chó và mặt trăng ra sao?

– Con chó cứ tru và mặt trăng cứ tiếp tục tỏa sáng.

Suy Niệm 8: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Để chứng minh mình là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã luôn thi hành Thánh Ý Cha. Đối với người Kitô hữu cũng vậy, thực thi Thánh Ý Chúa là cách thế biểu lộ chúng ta là con cái Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa được mọi người khen Chúa nói hay. Lúc Chúa làm phép lạ, mọi người trầm trồ thán phục Chúa. Nhưng dù nói gì, Chúa không bao giờ nói theo ý riêng mình, mà chỉ nói lời Tin Mừng phục vụ Ý Cha. Làm gì, Chúa cũng làm để tôn vinh Danh Cha. Ý Chúa Cha là kim chỉ nam cho cuộc đời của Chúa trên trần gian này. Xin Chúa cho con luôn biết nói sao cho phù hợp với Ý Chúa, làm gì cũng làm sao cho vừa lòng Chúa.

Chính nhờ sự tận hiến ý riêng để thi hành Ý Cha mà cuộc đời Chúa trở nên một hiến tế đẹp lòng Cha, có sức cứu độ toàn thế giới, trong đó có mỗi người chúng con. Chính nhờ cuộc đời tận hiến đó, tận hiến đến chết trên Thánh giá, mà Chúa được Cha siêu thăng phục sinh và cho vinh hiển bên Cha. Nhờ thấy vậy, các Tông đồ nhận ra Chúa thật là Chúa và họ đã dám sống chết theo Chúa.

Lạy Chúa, con biết mỗi Kitô hữu chúng con dù có nói hay, dù có làm giỏi, mà không nói và làm vì Danh Chúa và theo Ý Chúa, thì cũng tựa thùng rỗng kêu to, phèng la inh ỏi. Khi đó, đời con chẳng có giá trị gì trước mặt Chúa cũng như chẳng đủ sức thuyết phục đươc ai tin theo Chúa.

Xin Chúa cho con luôn biết nhìn lên Thanh giá Chúa, nơi Chúa biểu lộ tột đỉnh lòng vâng phục Ý Cha, để nhờ đó con thêm can đảm vâng theo Ý Chúa trong cuộc sống thường ngày. Xin cho con luôn nhớ tới sự phục sinh của Chúa để thêm dứt khoát và tin tưởng chọn lựa Ý Chúa hơn chọn ý riêng mình. Amen.

Ghi nhớ: “Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng”.

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…
  2. Bài đọc 1: mô tả ông Môisê là một người rất có uy tín đối với Chúa. Khi dân Israel đúc tượng con bê vàng, Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ muốn tiêu diệt họ. Nhưng nhờ Môisê cầu xin, Thiên Chúa đã nguôi giận và không phạt họ nữa.
  3. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu tiếp tục tranh luận với những người biệt phái sau khi việc Ngài chữa một người bất toại vào ngày sabát. Ngài đã nói với họ rằng sở dĩ Ngài làm việc trong ngày sabát vì Ngài noi gương Thiên Chúa là Cha của Ngài (Bài Tin Mừng hôm thứ tư). Họ không tin, Chúa Giêsu lại nói: chính Thánh kinh và Môisê (phải hiểu trong Cựu ước) làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Messia, Con Thiên Chúa. Nếu họ tin Môisê thì họ phải tin lời chứng của Môisê.
  4. Nẩy mầm…

1a. “Trong khi toàn bộ Thánh kinh Cựu ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do Thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Chúa Giêsu, và do đó không nhận đón Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến” (“Mỗi ngày một tin vui”). Tại sao có thảm kịch này ? Vì người Do Thái luôn sẵn một hình ảnh về Đấng Messia, hợp với sở thích của họ. Cái hình ảnh ấy che mất hình ảnh đích thực của Đấng Messia. Ta thấy đó, người ta có thể đọc Sách Thánh mà không tìm thấy Thiên Chúa nhưng chỉ tìm thấy chính mình.

1b. Một thợ săn lạc trong rừng nhiều lần. Một người bạn mua cho anh ta một la bàn. Dù vậy anh thợ săn trẻ vẫn bị lạc. Khi tìm thấy, người bạn hỏi xem anh ta có mang theo la bàn không. Anh bảo có.

-Tại sao anh không dùng nó ?

-Tôi không dám. Tôi muốn đi về hướng Nam và cố giữ cho kim chỉ hướng Nam. Nhưng không được. Nó luôn lắc qua và chỉ hướng Bắc.

Nhiều người mong Thánh kinh chỉ hướng họ muốn đi, hơn là hướng Thánh kinh muốn họ đi. (Góp nhặt).

1c. Có lần nhà văn Mart Twain nói: “Nhiều người lấy làm buồn phiền vì không hiểu một đoạn Thánh kinh nào đó. Phần tôi, tôi thấy rằng những đoạn Thánh kinh làm tôi bối rối nhất là những đoạn mà tôi cho là mình đã hiểu”.

  1. Muốn đọc Sách thánh mà thấy được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để cho Lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Bài Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy, giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái đang có những hiểu lầmvề nhau. Những người Do Thái trước đó đã có thật nhiều cảm tình với Chúa, nhưng bây giờ họ đã bắt đầu lạnh nhạt. Tuy đã đồng tình với Chúa về nhiều vấn đề, nhưng khi Chúa đề cập đến vấn đề nguồn gốcthần linh của Ngài thì lập tức, họ đã phản đối chống lại một cách quyết liệt.

Tại sao lại có thảm kịch này ? Thưa, vì người Do Thái chỉ muốn có một Đấng Cứu Thế hợp với sự hiểu biết của họ. Như vậy, vấn đề ở đây là, dù có Kinh Thánh nhưng nếu đọc Kinh Thánh theo ý của ta thì chẳng bao giờ ta có thể thấy và hiểu được Thiên Chúa. Ngược lại, nếu ta đọc Kinh Thánh dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần thì mới có thể được Chúa giúp để nhận ra Người.

Tại một làng thuộc vùng Lorraine, miền Đông Bắc nước Pháp, có một nông dân không có niềm tin, một hôm gặp ông thầy giáo làng đang đi dạo mát, ông ta tiến lại trước mặt ông thầy này và gây sự bằng một giọng đầy khiêu khích:

– Hôm qua, thầy đã dạy cho bọn trẻ trong làng những điều hay quá: “Nếu ai đánh ngươi má bên mặt, thì hãy chìa luôn cả má trái cho nó”(Mt 5,39).

– Lời đó đâu phải là do tôi – Thầy giáo đáp – đó là điều Chúa nói trong Tin Mừng chứ!

Thầy giáo vừa dứt lời thì người nông dân kia bất ngờ tát cho thầy hai cái, vì từ lâu anh đã có nhiều điều tức khí với thầy giáo làng.

Cách đó không xa, ông chủ tịch xã đang đi với nhân viên, nhìn thấy cảnh đó, liền nói với một anh nhân viên:

– Joseph, anh lại đó xem, hai người đang tranh chấp với nhau chuyện gì vậy ?

Lúc Joseph vừa đến gần 02 người, thì cũng chính là lúc thầy giáo làng giơ tay giáng trả hai cái tát nẩy lửa vào mặt người nông dân, kèm theo lời trích dẫn của Kinh Thánh:

“Cũng có lời chép: Ngươi lấy đấu nào mà đong cho anh em, thì cũng sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Một đấu được lắc, được dằn sẽ đổ xuống trên lưng ngươi”. (Lc 6,38).

Joseph vội vàng trở lại báo cho ông chủ tịch:

– Thưa ông, chẳng có chuyện gì đáng kể. Họ đang tranh nhau chú giải Kinh Thánh!

Vâng, nếu chúng ta đọc Kinh Thánh với một tà ý thì Kinh Thánh sẽ chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta đọc với một sự thành tâm thì Lời Chúa sẽ trở thành luơng thực, thành ánh sáng cho cuộc đời của ta.

  1. Như vậy, muốn đọc Sách Thánh để hiểu được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để cho Lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.

Ngày nọ, có một nhóm người nghĩ là “Thiên Chúa” đã chết nên họ muốn cử hành lễ nghi an táng cho Người.

Họ nhờ bác phu già trông coi nghĩa trang đào sẵn cho họ một cái huyệt. Hiện diện trong buổi lễ, ngoài bác phu già, còn tất cả đều là những vị thuộc giai cấp tri thức trong xã hội: triết gia, giáo sư, văn sĩ, kỹ sư v.v…

Khi người chủ trì cất tiếng khai mạc lễ nghi an táng thì bác phu già kêu lên:

– Không thể được, vì quan tài chưa đến.

– Thiên Chúa vô hình thì cần gì đến quan tài để tẩm liệm.

Một vài người chạy lại kéo ông ra xa, nhưng vừa vùng vẫy ông vừa la lớn:

– Không, Thiên Chúa không chết! Thỉnh thoảng khi không ngủ được tôi vẫn hay ra đây ngồi và nghe tiếng tim Ngài đập. Nếu không tin, tối nay quí vị hãy tụ họp lại đây, quí vị sẽ thấy.

Động tính hiếu kỳ, họ bỏ dở buổi lễ và hẹn nhau ban tối sẽ quay trở lại. Tối hôm ấy, tiếng ồn ào bên ngoài vọng lại khiến cho họ không thể phân biệt đâu là tiếng đập của quả tim Thiên Chúa đâu là tiếng của những thứ khác. Sau đó họ dời điểm tụ họp đến một vùng quê. Thế nhưng, vắng tiếng động của thành phố thì lại có tiếng của côn trùng. Sau cùng, họ quyết định gặp lại nhau một đêm khác trong sa mạc. Giữa bầu khí tĩnh mịch của sa mạc về đêm, mọi người đều cảm thấy mình được cất khỏi những gánh nặng lo toan, cũng không bị chi phối bởi một tiếng động nào.

Trở về với cõi lòng, họ chăm chú lắng nghe. Tâm hồn họ như hòa nhập với không trung bát ngát. Ngồi thinh lặng nhưng họ cảm thấy gần nhau. Bỗng một người la to:

-Tôi đã nghe thấy!

Và, nhiều người khác phụ họa:

– Có, tôi cũng đã nghe.

Một người khác nữa phân tích:

– Âm thanh của nó giống như âm thanh của mỗi lần tôi cố gắng trở nên hoàn thiện.

Họ đã tin lời nói của bác phu già, và nhất là đã tìm lại được niềm tin nơi Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con trở nên thật đơn sơ bé nhỏ,

để có thể nghe được tiếng Chúa nói,

và thấy được hiện diện của Chúa trong suốt đời con. Amen.

Thứ sáu sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay

Lời Chúa: Ga 7, 1-2. 10. 25-30

Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.

Có một số người ở Giêrusalem nói: “Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu”.

Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: “Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta”. Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.

SUY NIỆM 1: Giờ của Người chưa đến

Suy niệm:

Lễ Lều là một đại lễ hàng năm qui tụ đông đảo dân chúng lên Đền thờ.

Đây là một lễ rất vui, kéo dài cả tuần (Lv 23, 34-36).

Mục đích chính là để tạ ơn Chúa vì hoa trái mùa màng Ngài ban,

và còn để nhớ lại tình thương Chúa trong thời gian 40 năm đi trong hoang địa.

Lễ Lều là một lễ hội tưng bừng và long trọng bậc nhất.

Những người tham dự cắm trại trong các lều làm bằng cành lá,

được dựng trên mái nhà, gần nhà hay ngoài đồng.

Mỗi buổi sáng có lễ rước nước từ hồ Silôam để rưới lên bàn thờ.

Mỗi tối, tiền đình phụ nữ nơi Đền thờ rực rỡ ánh nến và vang tiếng múa hát.

Đức Giêsu đã không muốn bỏ qua lễ hội này,

dù lên Đền thờ Giêrusalem bây giờ thật là nguy hiểm đến tính mạng,

vì người Do thái, nghĩa là giới lãnh đạo Do thái giáo, đang tìm cách giết Ngài.

Đức Giêsu đã chọn giải pháp lên Đền thờ một cách kín đáo (c.10).

Nhưng vào giữa kỳ lễ, Ngài đã giảng dạy công khai, không chút sợ hãi (c. 14).

Đức Giêsu dám đối mặt với thế lực đang đe dọa Ngài.

Ngài bình tĩnh giảng ngay nơi Đền thờ,

trước những thượng tế, những người Pharisêu, và dân cư ngụ ở Giêrusalem.

Họ chẳng dám làm gì Ngài, vì giờ của ngài chưa đến (c. 30).

Xảy ra cuộc tranh luận giữa Ngài với dân cư ngụ ở Giêrusalem.

Chẳng có chút thiện cảm nào với Ngài, họ chỉ muốn làm hại Ngài.

Họ tin vào điều này một cách vững chắc:

“Khi Đấng Kitô đến, chẳng ai biết Người đến từ đâu” (c. 27).

Nguồn gốc của Đấng Kitô, đối với họ, phải là một điều bí ẩn.

Họ không tin Đức Giêsu là Kitô, bởi lẽ họ “biết ông này đến từ đâu.”

Chắc họ đã nghĩ Đức Giêsu là dân vùng Nazareth,

làm nghề thợ mộc, sống với cha mẹ là Giuse và Maria.

Tự hào về cái biết đúng nhưng không đủ ấy của họ,

đã khiến họ ngừng lại nơi nguồn gốc trần thế của Đức Giêsu.

Đức Giêsu thật là Đấng Kitô.

Và đúng như dân Giêrusalem đã tin, nguồn gốc của Ngài thật không dễ biết.

Đức Giêsu biết nguồn gốc của mình.

Ngoài gốc nhân loại, Ngài còn gốc thần linh, gốc từ trời.

Ngài không tự mình mà đến, nhưng từ Thiên Chúa chân thật mà đến.

Ngài xuất thân từ Thiên Chúa và được Thiên Chúa sai đi (cc. 28-29).

Dân Giêrusalem không thấy được trọn vẹn con người Đức Giêsu.

Họ đã giết Đấng Kitô đang ở gần bên họ, vì họ mơ một Đấng Kitô bí ẩn khác.

Làm sao tôi có thể nhận ra Đức Kitô cao cả

đang ở bên những người tầm thường tôi gặp mỗi ngày?

Cầu nguyện:

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ cõi chết đến sự sống,

từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ thất vọng đến hy vọng,

từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ ghen ghét đến yêu thương,

từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an

trong trái tim chúng con,

trong thế giới chúng con,

trong vũ trụ chúng con. Amen. (Thánh Têrêxa Calcutta)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: ÂM MƯU GIẾT CHÚA

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ma quỉ luôn muốn thống trị thế giới. Nó khuất phục kẻ ác để tăng thêm quân số. Và tiêu diệt người lành để giảm bớt chướng ngại.

Thiên Chúa là nguồn mạch sự lành. Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế được Chúa Cha sai đến để giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của thần dữ. Nên một cuộc đối đầu là không thể tránh khỏi. Cuộc chiến càng quyết liệt. Vì thần dữ cảm thấy bị lâm nguy nên càng gia tăng sự độc ác. Âm mưu giết Chúa. Sách Khôn ngoan cho thấy những lý do khiến kẻ ác muốn giết kẻ lành.

Lý do đầu tiên là kẻ lành cản trở kẻ dữ làm điều ác: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo”.

Lý do thứ hai là vì đời sống của kẻ lành phê phán lối sống của kẻ dữ: “Nó như kẻ luôn chê trách tâm tưởng của ta,…lối cư xử của nó hoàn toàn lập dị. Nó coi ta như bọn lọc lừa, tránh đường ta đi như tránh đồ dơ bẩn”.

Lý do thứ ba là vì người lành thuộc về Thiên Chúa. Còn kẻ ác thuộc về ma quỉ. “Nó huênh hoang vì có Thiên Chúa là Cha. Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào”.

Lý do thứ tư là vì muốn thử thách xem người lành có thật hiền lành không. “Ta hãy hạ nhục và tra tấn no, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào”.

Nhiều phe nhóm toa rập với nhau để giết chết Chúa Giê-su. Tuy nhiên đó lại là ý định của Thiên Chúa. Chúa Giê-su tự nộp mình chịu chết để chuộc tội nhân loại. Vào âm phủ để chiến thắng tử thần. Chết đi để tiêu diệt cái chết. Vì là do ý định của Thiên Chúa. Nên dù kẻ ác mạnh thế. Và muốn giết Chúa. Nhưng bao lâu Chúa chưa cho phép. Chưa đến giờ thì họ chưa làm gì được. “Bấy giờ, họ tìm cách bắt Người; nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến”.

Màu Chay là mùa chiến đấu chống lại cái ác. Tôi phải chống lại thế lực sự dữ ngay trong lòng tôi. Không có phương thế nào hiệu nghiệm hơn đi vào con đường của Chúa Giê-su. Chịu khổ để làm theo ý Chúa. Từ bỏ chính mình để thoát ảnh hưởng của thần dữ. Chịu chết cho bản thân. Để tiêu diệt sự chết.

SUY NIỆM 3: Do lai của Chúa.

Không ai trong chúng ta đã chọn lựa được sinh ra; không ai trong chúng ta đã chọn lựa chủng tộc, cha mẹ, dân tộc để sinh ra. Nếu được chọn lựa để sinh ra một lần nữa, có lẽ đa số chúng ta sẽ chọn lựa cho mình một cuộc sống khác.

Thế nhưng, với Chúa Giêsu thì không như thế. Ngài là người duy nhất trên trần gian đã chọn lựa cho mình tất cả để sinh làm người. Ngài đã chọn một người mẹ, một nơi sinh và những hoàn cảnh trong đó Ngài sẽ trưởng thành. Nếu phải chọn lại một lần nữa, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ không thay đổi cuộc sống ấy, một cuộc nghèo khổ, tăm tối. Dĩ nhiên, chúng ta không thể hiểu được hoàn toàn tại sao Chúa Giêsu đã chọn lựa một cuộc sống như thế.

Cuộc sống nào cũng là một mầu nhiệm. Cuộc sống của Con Thiên Chúa làm người lại càng là một mầu nhiệm đối với chúng ta hơn. Vào thời Chúa Giêsu, đa số những người Do Thái đều có một suy nghĩ giống nhau về thân thế của Chúa Giêsu. Họ biết rõ Ngài là con bác thợ mộc Yuse, và Mẹ Ngài là bà Maria. Họ cũng biết rõ từ Nazaret không bao giờ có thể xuất phát một nhân vật tài ba nào cho dân tộc. Họ biết quá rõ về Ngài, nhưng chỉ biết theo sự hiểu biết và phán đoán của con người mà thôi.

Qua các thời đại, nhiều người đã tốn hao bút mực để viết về cuộc đời Chúa Giêsu. Đối với nhiều người, Ngài có thể là một vĩ nhân, một con người ý thức mình có sứ mệnh đặc biệt. Nhưng Ngài cũng chỉ là một người như mọi người, nghĩa là cũng sinh ra, sống một thời gian rồi cũng qua đi như mọi người. Trong khi đó, đối với kitô hữu, Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa. Họ tin ở lời Chúa như được ghi trong Tin Mừng hôm nay: “Ta không tự mình mà đến, nhưng có Đấng sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài và Ta bởi Ngài và chính Ngài đã sai Ta”. Tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người chính là biết nhìn xuyên qua cuộc sống lam lũ tăm tối của Ngài để nhận ra quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa cũng chính là nhận ra giá trị của cuộc sống âm thầm ấy như một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.

Chọn lựa cuộc sống nghèo hèn ấy và sau này tiếp tục sống thiết thân với những người cùng khổ bất hạnh, Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta thấy phẩm giá cao cả của con người. Dù nghèo hèn đến đâu, mỗi người sinh ra trên đời cũng đều có giá trị cao cả bất khả nhượng. Chọn lựa cuộc sống nghèo hèn và chấp nhận cái chết thê thảm nhất, Chúa Giêsu cũng muốn nêu bật giá trị và ý nghĩa của cuộc sống con người. Cái nghèo hèn trở nên sự giầu sang, cái mất mát trở thành lợi lộc, cái yếu đuối trở thành sức mạnh mang lại sự sống.

Mùa chay, mùa của hoán cải, chúng ta được mời gọi thay đổi trước tiên cái nhìn của chúng ta. Tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận Ngài, là đi vào cái nhìn của Ngài. Mùa chay là mùa quay trở lại với anh em. Ước gì cái nhìn của chúng ta đối với anh em không dừng lại theo những tiêu chuẩn thông thường của người đời, nhưng được mặc lấy ánh mắt tôn trọng, cảm thông, bao dung, tha thứ của Chúa. Ước gì cái nhìn của chúng ta về cuộc sống không đóng khung trong những phán đoán thông thường của người đời, nhưng được hướng dẫn bởi những tâm tình tin tưởng, phó thác, lạc quan của chính Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Tin nhận Chúa Giêsu

Sự cứng lòng của những người Do Thái không tin đã nhốt kín họ trong những định kiến mê muội đối với những hành động khẳng khái của Chúa Giêsu. Thay vì khách quan đặt lại vấn đề để tìm ra nguyên do nào đã thúc đẩy Chúa hành động bất chấp nguy hiểm như thế, họ chỉ một mực bưng tai bịt mắt khư khư giữ lấy lập trường riêng của mình. Họ đem lòng dạ quanh co xấu xa của họ ra xét đoán tha nhân và những sự việc xảy ra chung quanh. Họ không nhận ra được sự thật mà Chúa Giêsu đã mang đến; cũng không nhìn thấy hình ảnh của Ðấng Thiên Sai nơi Chúa Giêsu. Thật ra, đó chỉ là những hình ảnh thô thiển do cái nhìn chủ quan của họ tạo ra. Còn Ðấng Cứu Thế đích thực đang đứng trước mặt họ thì họ lại khước từ.

Lạy Chúa Giêsu, xin giải thoát con khỏi sự mù quáng tinh thần, nhất là đừng để con vì những lợi lộc ích kỷ mà xa Chúa, hay tệ hại hơn chống đối và từ bỏ Chúa. Xin thương mở rộng tâm hồn và đôi mắt con cho con được nhìn ra Chúa. Xin Chúa thay đổi cái nhìn của con để con biết tôn trọng và lắng nghe tiếng Chúa nơi tất cả mọi người con gặp hàng ngày.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Các ông biết Tôi ư?

Lúc giảng dạy trong đền thờ, Đức Giêsu nói lớn tiếng rằng:

“Các ông biết tôi ư?

các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư?

Tôi đâu có tự mình mà đến.

Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật.

Các ông, các ông không biết Người.

Phần tôi, tôi biết Người,

Bởi vì tôi từ nơi Người mà đến

Và chính Người đã sai tôi,”(Ga. 7, 28-29)

Đây là một trong những điều chúng ta khó tin Đức Kitô: Chúng ta biết Người. Chúng ta biết lý lịch của Người theo khía cạnh nhân loại. Chúng ta biết chỗ sinh ra, cha mẹ và những nơi Người đã sống. Đấy là cái khó mà những người đồng thời của Chúa gặp phải: “Ông này chúng ta biết xuất thân từ đâu rồi. Còn Đấng Kitô khi Ngài đến thì chẳng ai biết Ngài xuất thân từ đâu cả”. Trước sự phản đối này, Đức Kitô đáp: “Tôi không tự mình mà đến: Đấng đã sai Tôi là Đấng chân thật. Các ông không biết Ngài!”.

Và Đức Kitô đòi chúng ta phải tin vào Người. Người có quyền đòi chúng ta tin vì Người thuộc phạm vi Thiên Chúa mà chúng ta không biết, nếu không có đức tin, không có lời Người.

Tính cách lưỡng diện này của Đức Kitô: vừa là loài người, vừa là Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta biết thế, nhưng cái gì ngăn cản chúng ta tin vào Người, cậy trông Người?

Nếu dừng lại một lát, chúng ta sẽ nhận ra rằng: Chúng ta biết rất ít về Đức Kitô, dù sau khi đã được Phúc âm mặc khải cho chúng ta. Điều chúng ta biết về Người là giáo huấn Người để lại cho chúng ta. Và giáo huấn đó thì quá giản dị, quá trong sáng, quá là là mặt đất đến nỗi làm chúng ta hơi thất vọng, nếu chúng ta đòi Người làm những điều phi thường! Những điều mà như chúng ta nghĩ sẽ có thể thành công dễ dàng nếu có một chút can thiệp siêu việt, siêu phàm của Thiên Chúa. Đây chính là phạm vi Đức Kitô đòi hỏi chúng ta phải sống để khám phá và phát triển trong tâm hồn chúng ta, nhưng chúng ta lại từ chối.

Đức Kitô nhắc nhở chúng ta không phải chỉ biết Người theo phạm vi loài người mà chính là theo phạm vi Thiên Chúa, như chúng ta, không phải chỉ sống theo khía cạnh là người này phải làm lụng vất vả để kiếm bánh ăn mỗi ngày: bánh cho xác, bánh cho con tim, cho trí óc mà còn cần thứ khác siêu việt hơn. Thứ khác đó thuộc phạm vi đức tin mà chúng ta phải khám phá. Thứ khác đó chính là Đức Kitô, Người đang sống trong chúng ta. Chính là ơn thánh, chân lý mầu nhiệm mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, Người an ủi chúng ta, không vượt xa mà hoàn toàn ở trong chính chúng ta.

J.M

SUY NIỆM 6: CÓ ĐỨC, CÓ TÀI VÀ CÓ HẠNH (Ga 7, 1-2; 25-30)

Hôm nay, Đức Giêsu trở lại Galilê vào một dịp Lễ Lều của người Do Thái.

Lễ Lều là một trong những lễ mà người Do Thái coi trọng, vì thế nó đã trở thành luật buộc đối với họ. Mục đích của Lễ Lều là tạ ơn Chúa sau vụ mùa, nhất là sau mùa hái nho. Tạ ơn Chúa vì Chúa cho vụ mùa bội thu. Hai là dịp nhắc cho con cháu nhớ lại những năm tháng ngược xuôi dòng rã trong sa mạc trước khi vào đất hứa. Họ thường mang những hoa màu ruộng đất do công khó của mình làm nên để tạ ơn và cầu xin cho vụ mùa tiếp theo được mưa thuận gió hòa.

Nhân dịp này, Đức Giêsu xuất hiện, và chẳng mấy chốc, Ngài đã lên tiếng giảng dạy trong đền thờ. Sự kiện Ngài xuất hiện đã làm cho dân chúng không khỏi ngạc nhiên và bàn tán xôn sao vì đã trở thành cái gai trong mắt những nhà lãnh đạo.

Tại sao biết bao nhiêu lời chứng mà Đức Giêsu đã trưng dẫn cho họ về Ngài mà họ cũng không tin? Nào là Gioan tiền hô; Thiên Chúa Cha; Kinh Thánh… Rồi đến ngay cả những việc Ngài làm minh định điều đó mà họ vẫn không tin.

Thưa! Đơn giản vì cái tôi của họ quá lớn. Họ tự tôn là thành phần đặc quyền đặc lợi, ưu tuyển, nên không thể chấp nhận được giáo huấn cũng như bản tính thần linh của Đức Giêsu. Ngược lại, họ đã kết tội Đức Giêsu, cái tội mà chắc chắn sẽ chết, đó là nói lộng ngôn, phạm thượng. Là kẻ phản loạn, không giữ luật ngày Sabát… Chính vì tâm trí họ ra mù quáng mà sự hiện diện và lời dạy của Đức Giêsu không hề thức tỉnh lương tâm của họ.

Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng thấy không ít người có tâm tưởng như những người Do Thái, Họ học hỏi Kinh Thánh, giáo lý không phải vì lòng yêu mến và mong muốn được biến đổi cho bằng học để biết rồi sinh ra chê bai, trách móc và tự kiêu… hoặc đôi khi học để rồi tìm cách bách hại lại những người tin Chúa!

Những não trạng mù quáng ấy đôi khi lại là lựa chọn của mỗi chúng ta khi chúng ta tách rời hiểu biết ra khỏi cuộc sống.

Như thế, chúng ta hãy cẩn trọng vì: “Có học mà không hạnh là kẻ ác”; “Có hạnh có đức mà không có học là đần”.

Mong sao, chúng ta “có tài, có đức, có hạnh” trong việc giữ đạo và sống đạo trong thế giới hôm nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Ta bởi Ngài, chính Ngài sai Ta

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Năm 1958, sau khi Đức Giáo hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, và cho Giáo hội.

Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phác. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Công đồng Vaticanô II mà ngài đã triệu tập, Giáo hoàng Gioan XXIII đã trở thành một “siêu sao” của thời đại, vượt trội hơn các vị tiền nhiệm của mình.

Suy niệm

Người Do Thái chỉ biết lý lịch trần thế của Ðức Giêsu: Con bác thợ mộc Giuse và bà Maria, xuất thân từ làng Nadarét miền Galilêa. Nhưng căn tính của Ngài không chỉ thuộc về Nadarét, Ngài là Đức Kitô đến từ Thiên Chúa Cha. Người Do Thái không biết Chúa Cha như Chúa Giêsu nhận định: “Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài”. Cho nên, họ không tin nhận Đức Giêsu Kitô. Ngài đến từ Thiên Chúa Cha nên biết Cha, và Ngài là Ðấng Thiên Sai của Cha: “Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta”.

Biết Thiên Chúa Cha và biết Con Cha cùng Ngài sống trong Thiên Chúa, là đích điểm cuộc đời mỗi người Kitô hữu sống trên trần gian là cuộc lữ hành trở về với Ngài. Ðể biết Thiên Chúa, chúng ta phải chuyên cần tìm hiểu, gặp gỡ lắng nghe Ðức Giêsu trong Thánh Kinh, Ngài là Đấng trung gian với Cha, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần: “Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa” (Thánh Augustinô).

Ý lực sống: “Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa…” (Thánh Augustinô).

Suy Niệm 8: Nguồn gốc của Đấng Messia

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại: Đức Giêsu trở lại Galilê vào dịp Lễ Lều của người Do thái, đây là một trong những lễ lớn nhất và vui nhất của họ. Người ta mừng lễ này cả một tuần lễ, từ ngày 15 đến ngày 21 tháng Bảy.

Nhân dịp này người Do thái tranh luận về nguồn gốc của Đức Giêsu. Họ cho rằng Đấng Messia phải có nguồn gốc lai lịch rõ ràng, còn Đức Giêsu thì họ không biết  xuất thân từ đâu. Nhân đó Đức Giêsu nói cho họ biết lai lịch và nguồn gốc của Ngài là Chúa Cha: “Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta”. Nhưng nói như thế càng khiến họ muốn giết Ngài hơn. Tuy nhiên hiện giờ “họ chưa làm gì Ngài được vì chưa tới giờ Ngài”.

  1. Sự kiện xẩy ra tại Giêrusalem vào dịp Lễ Lều và lễ tạ ơn sau ngày mùa, Đức Giêsu vào Đền thờ và giảng một cánh công khai, làm cho những người biệt phái tức giận vì họ không thể nào chấp nhận được những điều Ngài nói về bản tính thần linh của Ngài. Họ biết nguồn gốc lai lịch của Ngài: con bà Maria, con ông thợ mộc Giuse, quê ở làng Nazarẹth bé nhỏ, nghèo hèn, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh thợ mộc, thế mà Ngài lại tự nhận mình là Con Thiên Chúa, từ Thiên Chúa Cha mà đến và ngang hàng với Chúa Cha. Họ cho là Ngài lộng ngôn phạm thượng, họ nhất định không tin Ngài, dù bao nhiêu chứng cớ Ngài đưa ra cũng không đánh động được lòng dạ chai đá của họ, họ nhất quyết từ chối, đó là quyền tự do của họ.
  2. Họ thắc mắc với câu hỏi: Ông Giêsu là ai?  Họ thắc mắc và bàn tán theo quan niệm sai lầm của họ: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con bác thợ mộc Giuse đó sao”?

Nhưng Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật”. Đó là tiếng kêu của một người không được người khác nhận biết đúng thực về mình, bởi vì Đức Giêsu không chỉ là người phàm như họ lầm tưởng, mà là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến cứu độ con người. Ngài chấp nhận sống nghèo hèn để đem lại giầu sang cho con người, Ngài chấp nhận đau khổ để đem lại hạnh phúc cho con người, một con người hiến thân để đem lại sự sống cho muôn người, thế mà không ai chịu tin theo Ngài.

  1. Cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người biệt phái kéo dài rất dai dẳng, nhưng Ngài cũng chẳng làm cho họ tin Ngài được, trái lại càng ngày họ càng muốn giết Ngài. Cái gì đã khiến họ khó tin vào Đức Giêsu như thế? Thưa chính là vì họ tưởng họ biết quá rõ về Thiên Chúa và về Đấng Messia của Thiên Chúa: họ tưởng họ biết Thiên Chúa là ai, Đấng Messia từ đâu đến, biết rành Thánh Kinh, biết rõ luật Maisen… Tất cả những gì ở ngoài cái khung hiểu biết ấy của họ thì họ đều coi là sai lạc, là từ Satan…

Tôi có nghĩ rằng tôi đã biết tất cả về Chúa và về ơn cứu độ không? Tôi có sẵn sàng và ngoan ngoãn để Chúa dạy tôi những điều bất ngờ không?

  1. Lý do sau cùng khiến họ không tin Ngài và tìm cách hại Ngài, không phải vì Ngài lỗi luật sabat, đó chỉ là cái cớ bên ngoài mà thôi, mà đúng ra Ngài là cái gai trước mắt họ, làm họ khó chịu: vì Ngài nguy hại cho họ, họ mất hết uy thế, mất miếng ăn. Họ ra tay bắt Ngài, nhưng họ không làm gì được Ngài vì giờ của Ngài chưa đến.
  2. Truyện: Aristide người công chính.

Aristide là một tướng lãnh và chính trị gia nổi tiếng thanh liêm tại Hy Lạp vào thế kỷ V trước công nguyên.

Ông thanh liêm đến nỗi cả nước đã tặng cho ông một danh hiệu cao quí là “Aristide người công chính”. Nhưng ông càng được nhiều người ca tụng thì lại càng bị nhiều người ganh tị chống đối. Ông bị tướng Ténistoles âm mưu muốn triệt hạ ông. Người ta muốn cho Aristide bị kết án và bị lưu đầy trong vòng 10 năm. Bản án đã được thi hành bằng một trò chơi dân chủ quái ác.

Theo thể thức biểu quyết thông thường của người Hy Lạp thời cổ, mỗi một người công dân được phát cho một vỏ sò trên đó họ sẽ viết lên ý kiến của mình. Trong trường hợp của tướng Aristide, ai đồng ý cho ông bị lưu đầy, thì viết tên ông lên vỏ sò, và người ta sẽ đem nộp vỏ sò ấy tại một nơi công cộng giữa phố chợ.

Có một thị dân nọ không biết viết, thấy Aristide đang đứng ở một góc phố và chưa một lần biết mặt ông là ai. Thấy ông, người thị dân này  đến nhờ ông viết tên của người bị kết án lên vỏ sò. Aristide viết tên của mình lên vỏ sò theo yêu cầu của người lạ mặt. Ông trao vỏ sò lại cho thị dân và hỏi ông ta:

– Tại sao ông lại bỏ phiếu ủng hộ việc lưu đầy Aristide?

Người đàn ông mới trả lời như sau:

– Tại sao tôi bỏ phiếu ủng hộ việc lưu đầy ông ta ư? Bởi vì tôi không chịu nổi sự kiện ai cũng gọi ông ta là Người Công Chính, thế thôi!

 

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (hạt giống…)
  2. Bài đọc 1 trích sách khôn ngoan nói lên một sự thật phũ phàng là kẻ gian ác không thích người công chính và bách hại người công chính. Bởi vì sự hiện diện và việc làm của người công chính càng lộ rõ sự gian ác của chúng, cũng như ánh sáng soi rõ những chỗ xấu xa trong các xó kẹt tối tăm.
  3. Phúc Âm: Chúa Giêsu chính là người công chính bị quân gian ác bách hại. Để khỏi mang tội giết Đấng Messia, họ lý luận rằng Đấng Messia phải có nguồn ngốc lai lịch rõ ràng, còn Chúa Giêsu thì không biết xuất phát từ đâu. Nhân đó Chúa Giêsu nói cho họ biết nguồn gốc lai lịch của Ngài là Chúa Cha “Ta bởi Ngài và chính Ngài đã sai Ta”. Nhưng nói như thế càng khiến họ muốn giết Ngài hơn. Tuy nhiên hiện giờ “họ chưa làm gì được Ngài vì chưa tới giờ Ngài”.
  4. Suy gẫm (…nẩy mầm)
  5. Người công chính thường bị kẻ gian ác bách hại. Tôi có thể áp dụng cho mình câu này cả về hai vế:

– Hãy tự hỏi tôi có phải là kẻ gian ác đang bách hại những anh chị em tôi vì họ công chính hơn tôi không ?

– Tôi có sẵn sàng chấp nhận những sự bách hại của kẻ khác để kiên trì sống theo lý tưởng công chính không ?

  1. Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái kéo dài rất dai dẳng nhưng Ngài chẳng làm cho họ tin được, trái lại càng ngày họ càng muốn giết Ngài. Cái gì đã khiến họ khó tin vào Chúa Giêsu như thế ? Thưa chính là vì họ tưởng họ biết quá rõ về Thiên Chúa và Đấng Messia của Thiên Chúa: họ tưởng họ biết Thiên Chúa là ai, Đấng Messia từ đâu đến, biết rành Thánh Kinh, biết rõ luật Môisê… Tất cả những gì ở ngoài cái khung hiểu biết đó thì họ đều coi là sai lạc, là từ Xatan… Tôi có nghĩ rằng tôi đã biết tất cả về Chúa và về ơn cứu rỗi không ? Tôi có sẵn sàng ngoan ngoãn để Chúa dạy tôi những điều bất ngờ không ?
  2. Một lý do nữa khiên các thượng tế, luật sĩ và biệt phái tìm giết Chúa Giêsu là vì Ngài là một cái gai làm họ khó chịu. Phải chăng tôi không bị cám dỗ bởi ý muốn dẹp bỏ những người làm tôi khó chịu, vì họ không giống tôi, vì họ dám nói ra những chỗ yếu kém của tôi, hay chỉ vì họ khá hơn tôi khiến sự hiện diện của họ làm tôi bị lu mờ đi… ?

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người Pharisêu đã kéo dài rất dai dẳng nhưng vẫn chưa có hồi kết thúc và xem chừng sự đối kháng càng ngày càng quyết liệt hơn. Lý do nào đã khiến họ khó tin vào Chúa Giêsu như thế ? Thưa, chính là vì họ tưởng họ biết quá rõ về Thiên Chúa và Đấng Messia của Người. Họ tưởng họ biết rành Thánh Kinh, biết luật Môisen là đã biết tất cả. Những gì ở ngoài cái khung hiểu biết đó thì họ đều coi là sai lạc, là từ Satan.

Một lý do khác nữa khiến các Thượng tế, luật sĩ và Pharisêu muốn tìm cách “hạ” Chúa Giêsu là vì Ngài là một cái gai, là chứng nhân cho sự thật làm cho họ khó chịu. Nhiều lần Chúa đã công khai vạch trần những sai trái và những việc làm giả đạo đức của họ trước mặt dân chúng. Vì sợ uy tín của mình vì thế mà bị giảm sút nên họ quyết tâm “thanh toán” Chúa.

  1. Những người Do Thái ngày xưa là như vậy. Ngày nay, nhiều người cũng chẳng khác gì. Họ cũng muốn dẹp bỏ những người làm họ khó chịu. Lý do là vì những người này không giống họ, dám nói ra những chỗ yếu kém của họ, có một đời sống tốt hơn họ: Sự hiện diện của những người này làm họ bị lu mờ! Cái thói ghen ghét ở đời thì thời nào cũng có. Và cũng vì thói ích kỷ đó mà cuộc sống của con người trên trái đất này gặp không biết bao nhiêu là khổ đau.

Sáng ngày 19 tháng 3 năm 1994, tại phòng thánh nhà thờ xứ Casandi Pinsepê, gần thành Napoli miền trung nước Italia, cha Giuse Daiana đã bị sát hại bởi hai phát súng do bọn bất lương Camara bắn thẳng vào mặt đang lúc ngài sửa soạn cử hành thánh lễ kính thánh Giuse bổn mạng.

Cha Daiana là một linh mục trẻ mới ba mươi sáu tuổi. Tuy bị các băng đảng bất lương đe dọa, cha vẫn hăng say với sứ mệnh tông đồ của cha. Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1991, cùng với các cha xứ khác trong vùng Casatano cha đã ký tên gia nhập vào hội quyết tâm chống lại mọi hình thức tội phạm bất lương, nhất là bọn Camara, những kẻ dã man đang gây tang tóc khắp miền đó.

Trước cái chết của cha Daiana, trong bài giảng lễ an táng, Đức Cha Lorenso Chiaradinali – Giám mục giáo phận Avesa đã tóm tắt sứ mệnh tông đồ của Cha như sau: “Đau khổ và tin tưởng. Một cái nhìn xuống đất nơi thân xác đẫm máu của cha an nghỉ và một cái nhìn hướng thẳng lên cao nơi có Đấng đã chết trên Thập Giá, nhưng đã chiến thắng hận thù và sự chết. Môi trường tông đồ của cha đầy khó khăn vì những hình thức vô luân đồi bại, những tổ chức bất lương và những sức mạnh dã man nấp sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của cha là sứ mệnh bẻ gẫy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bằng và tình thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công tác giáo dục đức tin, nỗ lực sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi của người tha hương, nâng đỡ tinh thần, an ủi các bệnh nhân, và nhất là huấn luyện tuổi trẻ qua các sinh hoạt hướng đạo”.

Tinh thần hăng say và lòng quả cảm của cha Daiana đã cống hiến cho giới trẻ một lý tưởng cao thượng. Ngài đã biết gieo niềm vui và hy vọng nơi tâm hồn các bệnh nhân, biết chinh phục thiện cảm của giới trẻ bằng nụ cười dễ mến. Ngài cũng có tài hướng dẫn tinh thần, làm thay đổi các tâm hồn tận thâm sâu.

Với cái chết thảm thương của cha Daiana, bạo lực đã chạm tới bàn thánh. Bàn thờ của người tín hữu được dựng lên để tưởng nhớ cái chết của Chúa Kitô, Đấng đã chấp nhận chết vì tình yêu nhân loại. Cái chết của một linh mục cũng tương tự như thế. Đức Thánh Cha Gioan – Phaolô II đã nói về cái chết của cha Daiana như sau: “Như người công chính bị ngã gục, như tiếng kêu hùng hồn của lời tố cáo tội ác đã bị im bặt, như ngọn đèn sáng đã tắt lịm đi”.

Cha Daiana đã chết nhưng cái chết của cha đã không vô ích hay uổng phí. Ngài đã ngã xuống và được chôn vùi trong lòng dất. Thân xác của ngài chẳng khác gì hạt giống được mục nát đi để đem lại một mùa gặt phong phú hơn, mùa gặt của công lý, của an bình và của tình thương. Thật vậy, mấy hôm trước khi bị ám sát, khi trả lời cho một hướng đạo sinh đến để bày tỏ cho ngài biết về nguyện vọng muốn được theo đuổi ơn gọi linh mục, cha Daiana đã nói với anh: “Nếu thực sự con muốn trở thành linh mục, con phải luôn nhớ rằng, con sẽ phải trả giá rất đắt, nếu không thì con nên gột bỏ ước nguyện đó đi”

Và sau đó, khi đứng trước thi hài cha Daiana, cậu hướng đạo sinh ấy đã thành thật nói: “Nếu trước kia tôi còn do dự nghi ngờ thì giờ đây trước sự việc vừa xảy ra hôm nay và trước cái chết của cha Daiana tôi đã có một xác tín mới: Tôi phải trở thành linh mục”.

Lạy Chúa, xin cho con trở nên chứng nhân cho Chúa. Amen.

Thứ bảy sau Chúa Nhật 4 Mùa Chay

Lời Chúa: Ga 7, 40-53

Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: “Ông này thật là tiên tri”. Kẻ khác nói: “Ông này thật là Ðấng Kitô”. Người khác nữa lại nói: “Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?”

Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người.

Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: “Tại sao các ngươi không điệu nó tới?” Các người thừa hành thưa rằng: “Chẳng hề có ai nói như người ấy”. Các người biệt phái trả lời rằng: “Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật”.

Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng: “Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?” Nhưng họ trả lời rằng: “Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa”. Sau đó ai về nhà nấy.

SUY NIỆM 1: Ông này là Đấng Kitô

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm qua cho thấy người Do Thái không tin Đức Giêsu là Kitô

vì đối với họ, Đấng Kitô phải là người mà họ không biết xuất thân từ đâu.

Còn Đức Giêsu thì họ tự hào đã quá biết gốc gác của Ngài (Ga 7, 27).

Bài Tin Mừng hôm nay lại tiếp tục cuộc tranh luận về căn tính của Đức Giêsu.

Đức Giêsu gây ra một sự chia rẽ trong dân chúng

đang nghe Ngài giảng tại Đền thờ Giêrusalem (cc. 40-45).

Có những người tin Ngài là Vị Ngôn sứ được ông Môsê tiên báo (Đnl 18, 15).

Có người lại cho Ngài là Đấng Kitô (c.41).

Có người không đồng ý như thế, vì Đức Giêsu xuất thân từ Galilê,

còn Đấng Kitô thì phải xuất thân từ Bêlem, quê của vua Đavít (c.42).

Thật ra chuyện gốc Đức Giêsu ở đâu, chẳng quan trọng mấy.

Chuyện quan trọng là Đức Giêsu Nazareth ấy xuất thân từ Thiên Chúa.

Đức Giêsu còn gây ra sự chia rẽ trong giới lãnh đạo.

Các thượng tế và người Pharisêu đã sai các vệ binh đi bắt Đức Giêsu (c.32).

Nhưng họ đã không tuân lệnh các nhà lãnh đạo ấy,

chỉ vì họ bị ngây ngất trước lời giảng dạy đầy quyền uy của Đức Giêsu.

“Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy” (c. 46).

Nhận xét của họ còn đúng mãi đến tận thế.

Trước chuyện bất phục tùng của các vệ binh, người Pharisêu cảm thấy bực bội.

Họ không thể hiểu được tại sao các vệ binh lại có thể bị lừa dối dễ đến thế.

Vì khinh bỉ những người tin vào Đức Giêsu,

Họ gọi những người này là bọn dân đen, dốt nát không biết Lề Luật.

Ai không biết Lề Luật thì cũng chẳng thể giữ Lề Luật,

nên đây đúng là những người bị Thiên Chúa nguyền rủa (c. 49).

Thật ra không phải là không có thủ lãnh nào trong dân tin vào Đức Giêsu.

Ông Nicôđêmô là một thủ lãnh (Ga 3,1) đã đến gặp Đức Giêsu ban đêm.

Ngay bây giờ ta sẽ thấy ông dám lên tiếng để bênh vực cho Ngài (c. 50).

Ông đòi Đức Giêsu phải có tiếng nói trước khi bị kết tội (x. Đnl 1, 16-17).

Khi kết án Ngài cách vội vã, Thượng Hội Đồng Do Thái đã phạm luật.

Nhưng tiếng nói của ông Nicôđêmô đã không được nghe nghiêm túc.

Bất chấp vai vế của ông, ông cũng bị chế nhạo:

“Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao?” (c.52).

Người Galilê là hạng người bị coi khinh vì ít giữ Luật so với người Giuđê.

Nhưng đừng quên từ Galilê cũng có ngôn sứ Giôna, con ông Amíttai (2V 14, 25).

Thái độ của những thượng tế và người Pharisêu thật đáng ta suy nghĩ.

Họ khép lại trong thành kiến với Đức Giêsu.

Họ vùi dập bất cứ ai có cái nhìn ngược với họ, dù là vệ binh hay Nicôđêmô.

Họ không ngại châm biếm hay khinh miệt những người khác quan điểm.

Xin Chúa cho ta hồn nhiên như các vệ binh,

và can đảm nói sự thật như ông Nicôđêmô.

Cầu nguyện:

Chỉ mong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế Người là tất cả của tôi.

Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,

đến với Người trong mọi sự,

và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.

Chỉ mong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,

nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người

và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen. (R. Tagore)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: TÔI CHỌN GIÊ-SU

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Chúa hôm nay trình bày một thế giới chia rẽ vì Chúa Giê-su. Kẻ tin người không. Kẻ theo người chống. Với những đặc tính sau.

Những kẻ chống Chúa có nhiều quyền lợi trên trần gian. Đó là những nhà lãnh đạo xã hội và tôn giáo. Họ điều khiển người khác. Sai vệ binh đi bắt Chúa. Còn những kẻ tin Chúa lại là những người dân nghèo. Bị lớp người trên nguyền rủa là “dân đen”, là “đáng nguyền rủa”.

Những kẻ chống Chúa có nhiều kiến thức. Họ thông hiểu Lề Luật và Thánh Kinh. Họ tự bảo: “Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao”? Trái lại những người tin Chúa lại là những người bình dân ít học. Những người bị khinh miệt là “thứ người không biết Lề Luật”.

Những kẻ chống Chúa dựa trên lý thuyết. Căn cứ vào sách vở. Còn những người tin Chúa là do trực tiếp tiếp xúc với Chúa. Xem Chúa làm. Nghe Chúa nói. “Trong dân chúng, có những người nghe các lời của Đức Giê-su thì nói: “Ông này thật là vị ngôn sứ”. Kẻ khác rằng: “Ông này là Đấng Ki-tô”… “Các vệ binh trả lời: “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy”.

Những kẻ chống Chúa thì dữ tợn. Đòi bắt và giết Chúa. Như Giê-rê-mi-a đã loan báo từ xưa: “Chúng bảo nhau: “Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống”. Còn những người tin Chúa thì hiền lành. “Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt”.

Mùa Chay đòi tôi phải tiến đến một chọn lựa quyết liệt. Chọn Chúa hay trần gian. Chắc chắn tôi muốn chọn Chúa. Chọn Chúa tôi chấp nhận bị thế gian khinh miệt. Bị coi thường. Bị coi là thiếu hiểu biết. Chọn Chúa tôi phải tránh xa quyền lực. Và đừng quá lý thuyết. Chúa Giê-su không phải là một lý thuyết. Chúa Giê-su là một ngôi vị sống động. Phải đến trực tiếp gặp Người. Như Ni-cô-đê-mô. Như lính vệ binh. Như dân nghèo. Phải xem việc Người làm. Phải nghe lời Người nói. Đừng lý sự. Hãy quỳ xuống cầu nguyện. Rồi đức tin sẽ đến. Rồi tình yêu sẽ bừng lên. Và tôi sẽ được sức sống mới.

SUY NIỆM 3: Dư luận về Chúa Giêsu.

Blondin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh ta là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Nirgara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không? Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, cậu bé thét lên: “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó”. Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai, thì em đã lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự đảm bảo của người biểu diễn.

Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phần các con, các con bảo Ta là ai?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các Tông đồ, chúng ta cũng sẽ trả lời: “Thày là Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng trong thực tế, thái độ sống của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa. Thái độ của chúng ta có lẽ cũng giống như của những người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay: người thì xem Ngài như một tiên tri, kẻ nhận Ngài là Chúa Kitô, đa số thì dựa vào những hiểu biết trong Kinh Thánh để lý giải về thân thế của Ngài.

Sự hiểu biết mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có về Ngài không phải là một hiểu biết trên lý thuyết hoặc chỉ là lời tuyên xưng trên môi miệng, mà phải là vác Thánh giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Liền sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và Ngài đề ra như một mệnh lệnh: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập giá và đi theo Ta”. Danh hiệu Kitô gắn liền với Thập giá. Không thể tuyên xưng Chúa Kitô mà lại chối bỏ Thập giá của Ngài, không thể tự cho mình biết Chúa Kitô mà không liên kết với Ngài trong cuộc tử nạn. Thánh Phaolô đã nói lên kinh nghiệm của ngài: “Phần tôi, tôi chỉ biết có một Đức Kitô chịu đóng đinh”. Biết theo nghĩa Kinh Thánh là môt sự kết hợp thâm sâu. Biết do đó phải là một cam kết. Biết Đức Kitô như thánh Phaolô diễn tả chính là nên một với Chúa Kitô trong mầu nhiệm tử nạn. Biết Đức Kitô chịu đóng đinh chính là bổ túc nơi mình những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Ngài.

Mùa chay là mùa thanh luyện, chúng ta được mời gọi để sống một cách ý thức hơn bản sắc đích thực của người kitô hữu, đó là để Đức Kitô chiếm hữu và sống bằng chính sức sống của Ngài. Điều đó cũng có nghĩa là người kitô hữu không chỉ mang danh hiệu của Đức Kitô, lời tuyên xưng của họ không chỉ đọng lại trên môi miệng, mà phải là một cuộc sống kết hiệp với Ngài, với những cố gắng không ngừng của từ bỏ, quảng đại, yêu thương và phó thác.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Ðón nhận sự thật

Những người chống đối Chúa Giêsu kiên quyết bảo vệ lập trường sai lầm của mình. Họ tự hào rằng mình am hiểu Kinh Thánh, rằng mình thông thạo lề luật, và họ khư khư căn cứ vào sự hiểu biết của họ để mô tả hình ảnh của một Chúa Kitô theo trí tưởng tượng của họ và kết quả là họ đã không gặp được Ngài.

Nhóm người tán thành Chúa Giêsu thì ứng xử theo lối khác. Họ lắng nghe những lời Chúa Giêsu nói, quan sát những việc Chúa Giêsu làm. Họ thấy cả những lời nói và việc làm này có một sự thật, một tình thương, một sức giải phóng tâm hồn. Thế là họ tin vào Người, họ không lý luận bằng chữ nghĩa, họ chỉ nghe ngóng với con tim. Lời lẽ của họ thật là đơn sơ: “Ông này là vị ngôn sứ. Ông này là Ðấng Kitô”. Người ta có thể nói rằng hãy nhắm mắt lại để thấy, hãy bịt tai lại để nghe. Quả thật, có nhiều điều chúng ta chỉ có thể thấy được, nghe được, hiểu được bằng cách vượt lên khỏi lối nhìn, lối nghe và lối hiểu thông thường dựa vào hình tướng bên ngoài.

Lạy Chúa, lắm lúc con cũng thường đánh giá mọi chuyện dựa theo cái vỏ bên ngoài của chúng và giải thích chúng dựa theo những kiến thức tôn giáo xã hội mà mình thụ đắc được, những lúc đó, con tưởng mình đã nắm gọn chân lý trên tay và con lớn tiếng phê phán chỉ trích đủ điều, con không ngờ rằng nhiều lúc mình chỉ như gã mù xem voi. Mù vì thiên kiến hẹp hòi, mù vì kiêu căng tự mãn, mù vì những ghen ghét giận hờn. Làm nô lệ cho những tật xấu, những tội lỗi, những mù quáng tinh thần này, con không thể nào gặp được Chúa. Xin Chúa cho con biết đón nhận sự thật với tâm hồn đơn sơ và một con tim đổi mới, cởi mở. Xin ban cho con Thánh Thần Chúa, thanh tẩy con với mọi tội lỗi, giúp con thoát khỏi mọi sự mù quáng để nhận ra Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 5: Họ chia rẽ vì Người

Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: “Ông này thật là vị ngôn sứ.” Kẻ khác rằng: “Ông này là Đấng Kitô.” Nhưng có kẻ lại nói: “Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao? nào kinh thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. (Ga. 7, 40-43)

Không phải hôm qua họ đã chia rẽ vì Đức Giêsu. Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy họ chia rẽ nhau. Họ đã chia rẽ ở thời Đức Giêsu, họ vẫn còn chia rẽ nhau cho đến ngày nay. Một ngày nào đó, chỉ cần đến Đền thờ Mộ Thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì thấy rõ sự chia rẽ đó. Tất cả đều nói về Đức Kitô, nhưng lại tranh luận xem những phần nền nhà này, bến đậu kia là đất thuộc về tôn giáo nào! Xin Người mau chóng lập lại trật tự đi.

Hẳn đó không phải là điều Đức Kitô đến dạy chúng ta. Nhưng đó là sự kiện thật như Đức Kitô đã nói: “Tôi mang gươm giáo đến, ai thuận với Tôi và ai chống lại Tôi”. Không có chuyện nửa vời. Thuận với Người thì phải từ bỏ những lý lẽ của lý trí, ít ai chịu bỏ. Muốn nhận biết Người cần phải trở nên bé nhỏ và khiêm nhường mới hợp với giáo lý và những đòi hỏi của sứ điệp Đức Giêsu và đi sâu hơn vào mầu nhiệm của Người.

Bản văn thánh Gio-an cho chúng ta thấy những ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề Đức Giêsu, còn xa mới đi tới nhất trí.

Kết cục, chính các vệ binh có nhiệm vụ giữ an ninh trật tự công cộng, tuy ít học, nhưng đã có những suy nghĩ rất chính xác và rất rõ nét: “Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy”. Câu nói ngây ngô trước những ông biệt phái, đã xúc phạm nặng nề đến các ông nhưng nhận xét của những kẻ mà các ông coi là dân đen lại thật sáng suốt và có lương tri rất tốt.

Các ông trách họ tàn tệ: “Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong hàng thủ lãnh và giới trí thức biệt phái có ai tin vào tên ấy đâu? Chỉ có bọn hạ lưu cặn bã như các anh mới phạm sai lầm xét đoán như thế thôi”. Các ông biệt phái luôn luôn có thái độ kiêu ngạo, khinh bỉ quá khích đối với những người đã khâm phục sự khôn ngoan của Đức Giêsu.

Đức Kitô sẽ không bao giờ đạt tới kết quả là quy tụ được tất cả loài người. Xin đừng ngạc nhiên vì Người đã tiên báo về chính Người: “Tôi sẽ là dấu chỉ gây ra sự mâu thuẫn”.

Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ hiểu dấu chỉ đó, chúng ta sẽ chịu đau khổ vì thế, nhưng chúng ta sẽ sẵn sàng chấp nhận: “Cùng chịu hấp hối với Người cho đến tận thế”. Câu nói tuyệt vời của Pascal.

G.F.

SUY NIỆM 6: TẠI SAO LẠI VẤP NGÃ?  (Ga 7, 40-53)

Đã có lần Đức Giêsu nói Ngài đến không phải để đem bình an, nhưng là đem chia rẽ: cha chống lại con trai, và ngược lại. Con dâu chống lại mẹ chồng và mẹ chồng chống lại nàng dâu. Anh em chống đối nhau…

Hôm nay, sự xuất hiện và lời giảng dạy của Ngài cũng làm cho dân chúng trong mọi tầng lớp chia rẽ.

Họ chia rẽ bởi vì có những nhận định về Đức Giêsu khác nhau. Kẻ thì cho rằng Ngài là vị ngôn sứ; người khác lại khẳng định Ngài là Đấng Kitô, nhưng lại có nhóm phủ nhận tính Kitô nơi Ngài vì cho rằng Ngài không xuất thân từ dòng dõi vua Đavít và từ Bêlem, làng của vua Đavít mà lại từ Galilê!

Rồi đến những nhận định về tài giảng dạy của Ngài, trong đó phải kể đến nhóm vệ binh, họ nói: “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” Nicôđêmô, một người trong nhóm Pharisêu thì đứng lên bênh vực Ngài nhưng không mạnh mẽ, mà chỉ khơi khơi…

Trước những phản ứng đó, các thượng tế và người Pharisêu không tin vào dân chúng và tỏ ra tức tối khi dân này ca ngợi Đức Giêsu…

Lý do họ không tin vào đám dân này là vì họ gọi những người ấy là lũ dân xứ này. Với họ, những người dân này chỉ như là hạng bọt bèo, hạ đẳng, không đáng để họ khinh miệt chứ đừng nói gì đến chuyện tin hay không! Họ còn khinh bỉ những người thường dân này đến độ coi họ không có chút học thức hay đạo đức gì, bởi vì nếu có thì không thể tin vào Đức Giêsu được, chỉ những người ngu xuẩn mới tin vào Đức Giêsu mà thôi!

Trong thời đại hôm nay, vẫn còn có nhiều người như Pharisêu và Thượng Tế, họ vẫn tự hào là người học cao hiểu rộng, có một số vốn kiến thức đây đó, rồi từ đó sinh ra tự tôn, kiêu ngạo, để rồi Đức Giêsu là Đấng chỉ để họ bàn tán, còn tin và yêu mến cũng như thực hành những điều Ngài dạy thì không có. Hay có những người cho mình là đạo đức, sống đạo tại tâm, không cần đi lễ, nhà thờ hay cầu kinh sớm tối, cho rằng những chuyện đó là dư thừa, phù phiếm…

Nghĩ như thế, ấy là lúc chúng ta tách đạo ra khỏi đời sống, mà đạo của chúng ta là đạo sống, tức là gắn liền với mọi chiều kích cũng như các mối tương quan trong xã hội, chứ không phải là một mớ ý niệm, định nghĩa…

Trong khi đó, nhiều người bình dân học vụ thì họ lại nhận ra Thiên Chúa cách rõ nét ngang qua tình thương của Ngài ban cho họ trên cuộc sống.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đứng về phía sự thật và can đảm làm chứng bằng cả cuộc sống. Mặt khác, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn để được ơn cứu độ từ Đức Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trong Mùa Chay này biết ý thức rằng: “Đức tin mà không có hành động thì đức tin chết”. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Chúa hiện diện mỗi ngày nơi người nhỏ bé

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một hoàng đế nọ mở đại tiệc và nhiều người được mời. Đến giờ ăn, một cơn bão dữ dội ập tới và chẳng ai đến được. Tức giận với “thần bão”, hoàng đế ra lệnh cho lính bắn lên trời để trả thù.

Những mũi tên rơi trở lại và gây thương tích cho rất nhiều lính, còn thần mặt trời Jupiter không bị phương hại gì. Những lời than trách của chúng ta cũng giống như những mũi tên bắn lên Chúa. Chúng sẽ quay lại và làm ta thêm đau khổ..

Suy niệm

Sau khi lắng nghe và nhìn thấy những việc Đức Giêsu làm, giữa những người Do Thái, có người nhận Ngài là Ðấng Tiên Tri, người khác nhận là Ðức Kitô – Đấng Thiên Sai… Vì thế, Ngài trở nên nguyên nhân chia rẽ trong dân Do Thái…

Nhưng giới lãnh đạo Do Thái là các thượng tế và biệt phái vì Đức Giêsu lên án sự cố chấp, giả hình của họ, nên muốn bắt Người. Họ cắt nghĩa Thánh Kinh lệch lạc để không muốn nhìn nhận Ngài là Ðấng Kitô, và kết án Ngài kiêu ngạo tự nhận là Con Thiên Chúa, họ tìm cớ để lên án tử cho Ngài.

Căn tính của Ðức Giêsu vừa là Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến cứu chuộc trần gian: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16) và Ngài cũng là người thật như khởi đầu Tin Mừng thứ tư xác định: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).

Thiên Chúa qua Người Con nhập thể trở thành con người ở giữa chúng ta – thân phận bất toàn hữu hạn, nhưng là “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Ngài hoàn toàn chấp nhận kiếp con người, hòa nhất với chúng ta, để Ngài dẫn chúng ta về với Thiên Chúa qua sự chết và phục sinh của Ngài.

Xin cho chúng con biết nhận ra tiếng Chúa vẫn nói với chúng con trong đời thường: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37)

Và với con mắt đức tin trong sáng, chúng con nhìn thấy Chúa hiện diện nơi những anh em nhỏ bé nhất trong cuộc sống hằng ngày.

Ý lực sống: “Tình yêu của Thiên Chúa đã được biểu lộ bằng sự dâng hiến của chính Con Một Ngài để cho nhân loại sống” (Thánh Hilaire de Poitiers).

Suy Niệm 8: Dư luận chia rẽ về Đức Giêsu

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Khi nghe Đức Giêsu giảng trong Đền thờ, dân chúng đã dị nghị về Ngài. Và khi nghe bài giảng xong, dư luận càng chia rẽ về nguồn gốc của Ngài. Bài Tin Mừng cho biết dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài nay hoang mang, kẻ thì nói Ngài là Đấng Kitô, kẻ khác không còn tin nữa, vì theo những kẻ này Đức Kitô không xuất thân từ Galilê mà phải xuất thân từ Belem thành của Đavít. Các thượng tế và biệt phái thì nóng lòng muốn bắt Ngài. Nicôđêmô lên tiếng bênh vực Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Ngài.
  2. Đức Giêsu là ai? Đứng trước Đức Giêsu, kẻ thì nhìn nhận Ngài là Con Thiên Chúa làm người, kẻ thì nghĩ Ngài là một vĩ nhân, một tiên tri có sứ mệnh đặc biệt nào đó, kẻ khác nữa thì cho là một người phàm như mọi người. Thế là người ta hoang mang chia rẽ nhau. Đó cũng là thái độ của người Do thái thời Đức Giêsu như được thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúng ta sẽ lần lượt nói đến những hạng người đó.

  1. Thứ nhất: đây là những con người bình thường ngay lành có lương tâm trong sáng, không bị dư luận xấu chi phối. Họ thuộc giới bình dân. Họ đã nghe lời Chúa giảng, hoặc đã được hưởng việc lạ Chúa làm, và tuyên xưng Chúa là Đấng đến giải phóng cho muôn người, như tiên tri Isaia đã báo trước: “Ngài làm cho người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què đi được, kẻ chết sống lại và tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Như vậy, những người này đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Đấng Kitô.
  2. Thứ hai: Những nhà lãnh đạo tôn giáo như thượng tế, biệt phái và luật sĩ chối bỏ tất cả, họ không công nhận Ngài là một tiên tri, cũng không phải là Đấng Thiên Sai hay Đấng Kitô, vì không hội đủ những điều kiện về địa dư và dòng tộc, họ coi Ngài chỉ là người tầm thường như mọi người, một người như thế không thể là Đấng Kitô được, thế mà tự nhận cho mình địa vị và vai trò đó. Cho nên họ tức giận và ra lệnh cho binh lính tìm bắt Ngài.
  3. Thứ ba: Những người lính  được các thượng tế sai đi bắt Chúa giải về cho họ xử. Những người này không dám bắt Ngài vì một phần còn sợ dân, nhất là khi nghe Ngài giảng như Đấng có uy quyền. Họ trở về trình diện các thượng tế với dáng vẻ sợ sệt mà trình bầy với họ bằng những lời: “Chúng tôi chưa từng gặp một người nào nói năng như ông ấy”. Như vậy, mặc nhiên họ đã công nhận  Chúa là một người khác biệt, một siêu nhân.
  4. Thứ tư: Ông Nicôđêmô, là một người trong nhóm biệt phái, một người có thế giá, một thành viên hội đồng lập pháp, đã bênh vực Đức Giêsu khi ông nói: “Luật pháp của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không”?  Như vậy ông đề nghị trước khi kết án Đức Giêsu thì phải điều tra cho cẩn thận; nhung đề nghị của ông không được họ chấp nhận, đúng là họ theo luật rừng.
  5. Đức Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?”. Thật ra điều kiện chính yếu để có thể nhận biết Thiên Chúa, đó là thái độ khiêm tốn, vô tư, trung thực, gạt bỏ tự cao tự đại, thay đổi quan điểm, thành kiến, hy sinh quyền lợi riêng tư để theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa. Người Do thái xưa đã không tin nhận Đức Giêsu là vì họ thiếu những điều kiện kể trên.

Đối với chúng ta ngày nay, chúng ta đã tin nhận Đức Giêsu, nhưng chúng ta có thực hiện Lời Chúa dạy bảo không? Đức tin không việc làm là đức tin chết.

Mùa Chay là ăn năn sám hối và sửa đổi đời sống, chúng ta hãy nghe Lời Chúa kêu gọi: “Hôm nay nếu anh em nghe Lời Chúa, thì đừng cứng lòng nữa”.

  1. Truyện: Đức tin phải có việc làm.

Blodin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Niagara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé đứng gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không”? Giữa tiếng thác đổ âm ầm, cậu bé thét lên: “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó”. Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự đảm bảo của người biểu diễn.

Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời cho câu hỏi của Đức Giêsu: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các Tông đồ, chúng ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng trong thực tế, thái độ sống của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa” (Mỗi ngày một tin vui).

Suy Niệm 8: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Sự xuất hiện của Chúa Giêsu tạo ra một cuộc tranh chấp quyết liệt giữa những người tin và những kẻ chống đối. Hãy theo Chúa với một lập trường dứt khoát vững vàng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống luôn là một sự chọn lựa, và đức tin lại càng đòi hỏi phải chọn lựa quyết liệt hơn. Con tin vào Chúa là con tin vào tình yêu vô biên của Chúa, và đồng thời đức tin đòi con phải chấp nhận dấn thân trọn vẹn, chấp nhận một sự đổi đời. Chúa ban đức tin cho con không phải để ru ngủ con trong yêu thương, trái lại con biết Chúa đòi con chọn lựa một cách quyết liệt để đi theo Chúa, để sống cho Chúa và anh em. Chúa đến bằng con đường thập tự, và đòi buộc con cũng phải dứt khoát theo Chúa.

Lạy Chúa, theo Chúa như vậy thực sự là khó. Cuộc sống ở đời có bao nhiêu cám dỗ ngọt ngào, bao nhiêu thử thách cam go. Và vì thế con thường theo Chúa nửa vời lấp lửng, con muốn vừa được Chúa vừa được thế gian, vừa theo Chúa vừa sợ hy sinh gian khổ. Rốt cuộc con chỉ chuốc lấy đau khổ vào thân. Cũng chính vì con không dứt khoát chọn đứng về phía Chúa mà sau bao nhiêu năm theo Chúa, con vẫn ì ạch ở nửa đường. Xin Chúa thương tha thứ và nâng đỡ con.

Lạy Chúa, trong đời sống có những lúc con sẽ phải công khai đứng về phía Chúa và tuyên xưng lòng tin một cách chân thành như các vệ binh hay ít nữa là bênh vực Chúa như ông Nicôđêmô. Con sợ không làm đuợc vì con thường sợ bị liên lụy thiệt thòi. Xin Chúa giúp con can đam giữ vững lập trường đã chọn. Chỉ có Chúa là Chúa, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của con. Xin giữ gìn con trọn đời trung thành với Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao ?”

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…
  2. Bài đọc 1: Hôm qua chúng ta đã nghe một đoạn sách không ngoan nói về việc người công chính bị kẻ gian ác bách hại. Hôm nay, ngôn sứ Giêrêmia cũng lập lại ý tưởng đó. Người công chính thường bị bách hại, đó là một chủ đề lớn của Cựu ước. Chúa Giêsu cũng không được miễn khỏi định luật khắc khe đó.
  3. Bài Tin Mừng: Càng ngày, Chúa Giêsu càng tiến đến gần lúc nguy hiểm. Dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài nay hoang mang, kẻ thì nói Ngài là Đức Kitô, kẻ khác không còn tin nữa, vì theo những kẻ này Đức Kitô không xuất thân từ Galilê mà phải xuất thân từ Bêlem thành của vua Đavít. Các thượng tế và biệt phái thì nóng lòng muốn bắt Ngài. Gamaliên lên tiếng bênh vực Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Ngài.
  4. Nẩy mầm…
  5. Chúa Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi “Giêsu là ai ?”. Câu trả lời của tôi thế nào: đối với tôi, Giêsu là Đấng để tôi chạy tới xin ơn ? Là Đấng nhân từ luôn thông cảm tha thứ ? Là người rắc rối hay đặt vấn đề cho lương tâm tôi ? Là đấng mà tôi phải trung thành đi theo, cho dù phải theo trên con đường Thập giá ?
  6. Trong khi nhiều người chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ lập trường, thì Gamaliên đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng ta ngày nay cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can đảm như Gamaliên không ?
  7. “Blondin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Niagara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé đứng gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không ?”. Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, câu bé thét lên “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó”. Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em đã lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự bảo đảm của người biểu diễn.

Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu “Phần các con, các con bảo Ta là ai ?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các tông đồ, chúng ta sẽ trả lời “Thầy là con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng trong thực tế, thái độ của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa.” (“Mỗi ngày một tin vui”).

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Càng ngày, Chúa Giêsu càng phải đối đầu với những nguy hiểm xem ra càng lúc càng mạnh hơn. Dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài nhưng nay thì hoang mang. Các thượng tế và Pharisêu thì nóng lòng muốn giết Chúa. Nicôđêmô lên tiếng bênh vực Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Chúa.

Chúa Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi “Giêsu là ai ?”.

Có lẽ bằng lời nói, không ai trong chúng ta mà không tuyên xưng và nhận Chúa Giêsu là Chúa của mình, nhưng trong thực tế của cuộc sống thì hình như giữa lời tuyên xưng và cách sống hằng ngày của chúng ta vẫn còn một khoảng cách rất khó lấp đầy.

Blondin là một trong những tên tuổi lừng danh trong ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có lần anh đi trên một sợi dây cáp bắc qua thác Niagara, là thác dài nhất và sâu nhất thế giới. Một lần nọ, khi vừa bước lên dây cáp để chuẩn bị đi qua bờ bên kia, nhìn xuống anh thấy có một cậu bé đứng gần đang há hốc miệng nhìn lên anh, anh nhìn thẳng vào mắt cậu bé và hỏi:

– Em có tin là chú có thể mang một người trên vai chú và đi qua bên kia không ?

Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, câu bé thét lên:

– Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó.

Thế nhưng, khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em đã lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự bảo đảm của người biểu diễn.

Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phần các con, các con bảo Ta là ai ?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các tông đồ, chúng ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16). Nhưng trong thực tế, thái độ của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa dám tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa”. (Mỗi ngày một tin vui)

  1. Nhân chứng

Trong khi nhiều người chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ lập trường, thì Nicôđêmô đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng ta ngày nay, cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can đảm như Nicôđêmô không ? Dám can đảm làm nhân chứng cho Chúa đó là dấu chỉ của một con người có niềm tin và là một người nhận Chúa làm Chúa của cuộc đời mình.

Một hôm, bên Châu Mỹ Latinh, một linh mục cử hành thánh lễ trong vùng “ổ chuột”. Bài giảng hôm ấy được thực hiện dưới dạng đối thoại với anh chị em tín hữu, nhắm tới sự giao hòa. Thế là một cậu bé đã tuyên bố:

– Thưa các nhà thừa sai, chúng con cảm ơn các ngài, vì các ngài đã dạy chúng con yêu thương kẻ thù. Cách đây một tuần, con đã sắm sẵn một con dao để giết một thằng bạn mà con vẫn căm ghét. Nhưng sau khi nghe cha giải thích cho chúng con nghe bài Tin Mừng, con đã đi mua một chiếc bánh kem để tặng cho kẻ thù của con.

Một chủng sinh trẻ người Liban đã bị giết cách đây vài năm, trên con đường đi về nhà để mừng lễ Giáng Sinh. Đó là nạn nhân của cuộc chiến tranh, huynh đệ tương tàn đang xảy ra tại quê hương anh. Người ta đọc được những lời sau đây trong di chúc của anh: “Tôi thấy rồi, mình sẽ bị bắt cóc và sẽ bị giết trên đường để tới làng tôi. Tôi nói với mẹ và các chị em tôi: Xin mẹ và chị em đừng buồn. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, chắc chắn mà, trong nơi vĩnh cửu trên trời. Con xin mẹ và các chị em một điều: Xin hãy tha thứ hết lòng cho những kẻ đã giết con. Ước gì máu con được đổ ra để chuộc được tội cho Liban. Ước gì cái chết của con dạy cho con người sống bác ái. Xin hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện và yêu thương các kẻ thù”.

Tại vùng Chouf (một miền thuộc xứ Liban, ở miền Nam Beyrouth), vào lúc cuối năm 1983, em Maria Khoury đã bị một kẻ cuồng tín bắt, hắn chĩa súng vào gáy em:

– Hãy chối Giêsu Kitô đi, rồi mày sẽ được sống.

Em trả lời:

– Tôi sẽ không chối Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Tôi muốn trung thành với các lời hứa khi nhận phép rửa tội. Anh cứ việc bắn, nếu anh muốn.

Hắn đã nổ súng. Nghĩ rằng em đã chết, hắn bỏ em nằm đó trên vũng máu. Được cứu, nhưng bị mù và què quặt, em đã nói:

– Em tha thứ cho người bắn em, như em đã tha thứ cho người giết mẹ em và cho người đã giết cha em.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu trái đất này,

và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,

sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,

nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Amen.