Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 4 Thường Niên

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 4 Thường Niên

THÚ HAI TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN.

THÚ HAI TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 5, 1-20

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: “Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi”. Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: “Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này”. Và Người hỏi nó: “Tên ngươi là gì?” Nó thưa: “Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm”. Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.

Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: “Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo”. Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: “Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con”. Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.

 

Suy Niệm 1: Tên tôi là đạo binh

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trừ quỷ là việc Đức Giêsu vẫn hay làm.

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Ngài trừ quỷ ở vùng đất dân Ngoại.

Tài kể chuyện của Máccô được thể hiện rõ nét qua bài Tin Mừng này.

Hiếm khi có câu chuyện sống động và ly kỳ đến thế!

Đức Giêsu và các môn đệ vượt biển để đến vùng đất Ghêrasa.

Vừa ra khỏi thuyền thì gặp ngay người bị ám bởi thần ô uế.

Anh sống ở nơi mồ mả, nơi thường được coi là chỗ ở của quỷ ma.

Anh mạnh ghê gớm đến nỗi không xiềng xích nào có thể kiềm chế được.

Sống cô độc, đe dọa người khác, tự hành hạ và làm hại chính bản thân,

đó là thân phận bi đát mà anh không sao thoát khỏi (cc. 3-5).

Rõ ràng anh hoàn toàn bị quỷ dữ chiếm đoạt, chẳng còn chút tự do.

Nhưng lạ thay, chính anh lại chạy đến với Đức Giêsu để gặp Ngài.

Quỷ dữ nơi anh biết rõ Đức Giêsu là ai, là Con Thiên Chúa Tối Cao.

Nhưng cái biết đó lại khiến nó phải run sợ xin Ngài đừng hành hạ (c. 7).

Quỷ dữ biết danh tánh của Đức Giêsu, nhưng không chế ngự được Ngài.

Bây giờ Ngài bắt nó phải khai danh tánh của nó, trước khi Ngài hành động.

Hóa ra đây không phải là một quỷ, mà là một lũ quỷ đông đảo (c. 9).

Đạo binh quỷ này khẩn khoản xin Đức Giêsu một ơn,

đó là chỉ đuổi chúng ra khỏi người này, chứ đừng đuổi ra khỏi vùng này,

vì chúng hy vọng sẽ tìm được một con mồi khác (c. 10).

Đạo binh thần ô uế xin được nhập vào đàn heo vốn bị coi là ô uế.

Sự đồng ý của Đức Giêsu khiến toàn bộ những gì ô uế bị hủy diệt.

Ngài đã thanh tẩy chẳng những anh bị quỷ ám, mà cả vùng anh ở nữa.

Khi người bị quỷ ám được tự do, anh ấy trở nên khác xưa.

Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo (c. 15).

Người dân trong vùng khiếp sợ nên xin Đức Giêsu đi khỏi đất của họ.

Chỉ có anh vừa được trừ quỷ là xin ở với Ngài như môn đệ (c. 18).

Nhưng ơn gọi làm môn đệ phải đến từ Thầy Giêsu.

Ngài khuyên anh nên về nhà, ở lại vùng đất của mình,

để loan báo mọi điều Chúa đã làm cho anh và thương xót anh (c. 19).

Anh đã vâng lời và trở nên người loan báo về Đức Giêsu nơi dân Ngoại.

Đối với anh, Đức Giêsu chính là Chúa.

Thế giới chúng ta sống thì văn minh hơn, khoa học hơn, hạnh phúc hơn,

nhưng vẫn không thiếu cảnh những người sống như bị ám, như bị ma nhập.

Có những người sống trong cô độc và trở nên nguy hiểm cho tha nhân.

Có những kẻ tự giết mình từng ngày trước khi tự tử.

Tru tréo và lấy đá rạch mình không phải là chuyện hiếm (c. 5).

Ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo

là niềm mơ ước của biết bao gia đình có người thân bị bệnh.

Bệnh tâm thần là căn bệnh mà ít nhiều chúng ta đều dễ mắc.

Lắm khi con người thấy bó tay, không tự mình giải thoát mình được.

Xin Chúa Giêsu tiếp tục trừ quỷ cho chúng ta, cho vùng đất chúng ta sống.

Xin Ngài tiếp tục tẩy trừ sự ô uế đang thao túng ở lòng con người.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

ai trong chúng con cũng thích tự do,

nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.

Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.

Xin giúp chúng con được tự do thực sự:

tự do trước những đòi hỏi của thân xác,

tự do trước đam mê của trái tim,

tự do trước những thành kiến của trí tuệ.

Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,

để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,

để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho chúng con được tự do như Chúa.

Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,

khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi

và chữa bệnh ngày Sabát.

Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,

khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.

Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,

vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.

Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,

để chúng con được tự do bay cao. Amen.

 

Suy Niệm 2: Cuộc chiến xây dựng Nước Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Xây dựng Nước Thiên Chúa là xây dựng hạnh phúc. Nhưng đó không là hạnh phúc có sẵn. Đó thực sự là một cuộc chiến. Cuộc chiến chống ma quỉ. Cuộc chiến rất khốc liệt. Vì ma quỉ rất mạnh và rất đông: “Tên chúng tôi là đạo binh. Vì chúng tôi đông lắm”.

Ma quỉ là lực lượng sự chết. Chúng muốn tiêu diệt con người. Giam cầm con người trong bóng tối của thế giới kẻ chết. “Từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liên ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả”. Chưa hoàn toàn giết chết anh, nhưng ma quỉ làm cho anh chết dần mòn. Trước hết là tâm trí mê man, mụ mẫm. Không còn sáng suốt. Không còn tỉnh táo. Vì bị ma quỉ khống chế. Không có tự do để làm điều tốt. “Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá rạch mình”. Chỉ làm theo sự sai khiến của ma quỉ. Và tiếp tay với ma quỉ tàn phá. “Anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được”.

Chỉ có Thiên Chúa và Đấng Người sai đến, là Chúa Giê-su Ki-tô, mới chiến thắng ma quỉ. Chúa truyền lệnh. Ma quỉ phải ra khỏi con người. Khi thoát khỏi ách ma quỉ, con người sống lại “ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo”. Và có thể làm việc lành. “Anh nài xin được ở với Người”.

Ma quỉ có thể dùng con người giết hại lẫn nhau. Như Áp-sa-lôm, đòi giết vua cha Đa-vít để cướp ngôi. Như Sim-y, nguyền rủa và ném đá vua Đa-vít. Đa-vít đã dùng quyền năng Thiên Chúa chiến thắng. Nhận mình tội lỗi. Không phản ứng lại các xúc phạm. Để Thiên Chúa phân xử và hành động theo ý Chúa. “Cứ để nó nguyền rủa, nếu Đức Chúa đã bảo nó. May ra Đức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta, và Đức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc” (năm chẵn).

Ma quỉ có thể dùng vua chúa bắt đạo. Môn đệ Chúa phải chống lại bằng sự hi sinh quên mình. Dâng hiến mạng sống. Để xây dựng Nước Thiên Chúa. Chiến thắng ma quỉ. Nhờ đức tin, các ngài chiến thắng bằng sức mạnh của Thiên Chúa. “Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn”. Nhờ đó các ngài xây dựng Nước Thiên Chúa. Làm cho Nước Thiên Chúa lớn mạnh.

 

Suy Niệm 3: Số phận của Chúa Giêsu

Người Do thái thời Chúa Giêsu có một cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả bằng những hình ảnh rất sống động: Chúa Giêsu trục xuất cả một đạo binh ma quỷ ra khỏi người bị quỷ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.

Thế nhưng, sự thành công của Chúa Giêsu dưới cái nhìn của Marcô thật là yếu ớt. Dường như tất cả những người mà Ngài tìm đến đều có thái độ dè dặt đối với Ngài. Chỉ có ma quỷ là kẻ duy nhất biết rõ Ngài là ai nhưng chẳng bao giờ có thể hoán cải được nữa. Các luật sĩ và biệt phái thì càng lúc càng tỏ ra chai lỳ, bà con thân thuộc thì chỉ nhìn về Ngài với những tính toán vụ lợi, đám đông dân chúng thì không nhận ra được ý nghĩa đích thực của sứ mệnh thiên sai của Ngài, còn dân ngoại thì nài nỉ Ngài quay trở lại quê hương Ngài để họ khỏi phải mang họa vào thân, và khi Chúa Giêsu chiến thắng được ma quỷ, thì đó cũng là lúc loài người tẩy chay Ngài. Trong một tình thế bi đát như vậy, cái chết trên Thập giá là chuyện tất yếu đối với Chúa Giêsu. Trong cái nhìn của Marcô, mỗi cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người đương thời của Ngài là một tiên báo về cuộc tử nạn của Ngài, Ngài là một con người triền miên bị khước từ.

Suy nghĩ về số phận của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại thân phận của người Kitô hữu chúng ta trong trần thế. Là môn đệ Chúa Giêsu, là chấp nhận lội ngược dòng. Không thể đi theo Chúa Giêsu mà lại sống theo triết lý: người ta sao, tôi vậy. Làm chứng cho Ðấng đã từng bị khước từ, người Kitô hữu bị khước từ đã đành, mà ngay cả khi phục vụ một cách vô vụ lợi, họ cũng không hẳn được người đời thương mến. Nói như thánh Phaolô: bổ khuyết những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu, đó là số phận của người Kitô hữu trong trần thế này.

Nguyện xin Chúa ban thêm can đảm và sức mạnh, để chúng ta kiên trì trong mọi khổ đau vì Danh Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Chúa Giêsu chế ngự ma quỷ

Đức Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. (Mc. 5, 1-3)

Trình thuật về phép lạ Chúa chữa người bị quỷ ám và đàn heo biến mất đặt ra những vấn đề khó xử và có nhiều điều khác thường tưởng chừng như mê tín dị đoan.

Hình như đây là những sự kiện biệt lập được ghép lại với nhau. Chúa Giêsu lúc đó đang ở vùng Ghêrasa nằm ở phía đông Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét là vùng đất dân ngoại, nơi nuôi heo là thú vật ô uế đối với người Do thái. Khi Chúa chữa cho một người bị quỷ ám ở đây thì có một sự cố xảy ra trong một trại nuôi heo lớn. Có lẽ là hai sự kiện này xảy ra vào cùng kỳ, nên được tác giả lợi dụng ghép lại với nhau để sự kiện này giải thích cho sự kiện kia và rút ra một bài học luân lý. Đó cũng là một lối kết cấu câu chuyện có tính cách bình dân vậy.

Nhưng sự ghép nối này trở nên có ý nghĩa. Thánh sử Maccô dùng nó để minh họa cho điều ngài muốn chứng minh: Chúa Giêsu tỏ bày quyền năng của Người đối với thần ô uế ở vùng đất thuộc dân ngoại. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô địch. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.

Một quyền năng vô địch

Để chứng tỏ Chúa Giêsu có một sức mạnh vô song, trước tiên Maccô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sự ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Nếu “bị gông cùm và bị xiềng xích”, nhưng người bị quỷ ám ấy “đã bẻ gẫy xiềng xích và đập tan gông cùm”, thì phải nói gì về quyền lực của Đấng đã bắt qủy phải xưng tên mình ra – điều đó theo ý kiến các vị trừ tà thời ấy – là dấu chứng tỏ một sự chế ngự hoàn toàn.

Một xứ sở được thanh tẩy

Còn về chuyện bầy heo cả chừng hai ngàn con nhảy xô xuống biển và chết ngộp dưới đó, thì đó là dấu chỉ rằng một người được ơn giải thoát có ảnh hưởng tới người xung quanh. Vì đối với người Do thái, heo là con vật biểu tượng của sự ô uế. Sự chết chìm bi thảm của cả bầy heo cũng ngụ ý sự chấm dứt quyền lực của sự ác vốn ngự trị trên miền đất này và càng làm sáng tỏ ảnh hưởng phấn khởi của ơn giải thoát do Chúa Kitô mang lại vậy.

 

Suy Niệm 5: Chúa tỏ bày quyền năng, và …

Sau phép lạ dẹp yên sóng gió, hôm nay trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu lại tỏ bày quyền năng của Ngài ở vùng đất dân ngoại.

Sức mạnh của sự dữ thật lớn, nhưng Ðức Giêsu không gặp khó khăn nào khi xua trừ ma quỉ. Vậy mà Ngài phải khựng lại trước thái độ của con người.

Trình thuật kết thúc bằng sự thất bại bi thảm: Ðức Giêsu bị người ta trục xuất khéo léo. Thiên Chúa luôn mở rộng con đường hạnh phúc, nhưng Satan thì cản lối và con người lại nhát đảm dấn thân. Họ khước từ bởi họ quyến luyến với trần thế hơn.

 

Suy Niệm 6: Sứ vụ của Đấng Thiên Sai

Có những cái nhìn và lối suy nghĩ đã đi vào truyền kiếp. Nếu cái nhìn tích cực thì lối suy nghĩ cũng tích cực, nếu không thì ngược lại!

Người Do thái thời Đức Giêsu cũng vậy! Họ đã nhìn ai với cái nhìn khinh bỉ thì muôn đời, con người đó không có điểm nào tốt được!

Thật vậy, vào thời Đức Giêsu, dưới con mắt của người Do thái, dân ngoại là dân đáng bị miệt thị, là dân luôn sống trong tội lỗi và dưới ách thống trị của Ma Quỷ.

Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đến, Ngài không còn phân biệt lằn ranh giữa Do thái hay dân ngoại, nhưng sứ vụ của Ngài là đem ơn cứu độ đến với muôn dân.

Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu đến vùng Ghêrasa và làm phép lạ xua đuổi Ma Quỷ ra khỏi người bị quỷ ám.

Qua phép lạ này, dưới con mắt người đời, thì đây là một sự thành công, vì người bị Quỷ ám có một sức mạnh phi thường, không ai đụng tới hắn được, bởi lẽ anh ta bị cả một cơ binh Quỷ nhập vào. Một cơ binh chính là tên gọi của một đạo quân Lamã thời ấy và có khoảng 6.826 người lính. Như vậy, số Quỷ nhập vào người này cũng đông vô số kể như vậy. Khi Ma Quỷ nhập vào người thanh niên này, anh ta mạnh khỏe phi thường.

Phép lạ này cho thấy, Đức Giêsu có quyền năng trên Ma Quỷ, Ngài đến để giải thoát con người khỏi bị ràng buộc bởi sự dữ. Đem lại cho họ cuộc sống tự do.

Nhưng cái giá mà Ngài phải chịu, chính là sự loại trừ của những Luật Sĩ và Pharisêu.

Suy nghĩ về sứ vụ và thân phận ngôn sứ của Đức Giêsu, một lần nữa chúng ta ý thức hơn về sứ mạng và số phận của mỗi người chúng ta trên hành trình sống đạo và loan báo Tin Mừng. Số phận của Thầy cũng là của trò. Muốn trở nên môn đệ đích thực của Thầy Giêsu, hẳn chúng ta phải lội ngược dòng. Đi ngược quy luật tự nhiên để hiểu được giá trị của những nghịch cảnh khi chúng ta bị người đời phản đối, khước từ, cho dù những việc làm của chúng ta là những hy sinh vô vị lợi!

Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của Chúa đã không ngừng thi ân giáng phúc, nhưng Chúa đã không được người đời coi trọng, mà luôn bị khinh khi! Xin Chúa cho chúng con hiểu được sự thật này để chỉ tìm vinh danh Chúa và mong sao cho Nước Chúa được hiển trị muôn nơi, còn chuyện khen chê, xin cho chúng con không coi trọng nó mà ảnh hưởng đến sứ vụ được trao. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Chúa giải thoát con người khỏi ma quỷ

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Ma quỷ có sức mạnh phi thường. Nhưng sức mạnh phi thường của ma quỷ cũng phải phục tùng Chúa Giêsu. Chúa muốn mỗi người chúng ta làm chứng nhân cho Thiên Chúa toàn năng và từ bi.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, không phải chỉ người thanh niên miền Ghê-ra-sa kia mới là nạn nhân của ma quỷ, nhưng cả con nữa. Ma quỷ không ngừng đến cám dỗ loài người, trong đó có con. Evà xưa kia đã bị thua, và bà cùng con cháu là loài người chúng con đã bị thảm hại với sức mạnh độc dữ của ma quỷ. Con đã được Chúa cứu chuộc, nhưng ma quỷ vẫn không ngừng tìm cách thống trị con.

Người Ghê-ra-sa bị trần trụi, sống chui rúc ở các mồ mả, anh bẻ gãy xiềng xích gông cùm, lấy đá vạch hết mình mẩy và tru trếu, nghe dễ sợ và không ai trị nổi. Anh bị quỷ ô uế làm cho ra như thế, nhưng Chúa đã giải thoát anh.

Lạy Chúa Giêsu, con dễ dàng bị ma quỷ khéo léo lôi con vào cảnh tương tự. Con sẽ trần trụi, mất hết mọi nhân đức và công phúc. Con sẽ sống chui rúc và cứ lén lút phạm tội. Con sẽ có sức mạnh của ma quỷ vì con không sao bỏ được những thói quen xấu xa. Con cũng làm khổ chính mình vì hàng ngày bị bối rối lo âu, và không ai có thể đem lại cho con sự bình an nội tâm.

Chỉ có Chúa là Đấng Thánh, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ mới có thể giải thoát con. Lạy Chúa, xin cứu giúp con.

Chúa không muốn cho người thanh niên Ghê-ra-sa đi cùng Chúa, nhưng muốn anh ở lại với thân nhân và làm chứng về Chúa cho họ. Chúa cũng không cất con khỏi thế gian, nhưng muốn con loan truyền quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Xin giúp con trong sứ vụ này. Amen.

Ghi nhớ: “Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này”.

 

Suy Niệm 8: Chúa Giêsu chữa người bị quỷ ô uế ám ở Ghêrasa

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Bị cám dỗ, Samson vào bẫy của Philitin khi bị cạo trọc đầu, ông mất sức, không còn được sức mạnh như trước đó, nên bị quân Philitin bắt trói, khoét mắt, xiềng lại, bỏ tù và bắt xay cối xay (x. Tph 16,19-21).

Ma quỷ cũng vậy, chúng cám dỗ chúng ta theo chúng, rồi chúng khoét mắt đức tin của chúng ta. Và khi chúng ta không còn ánh sáng đức tin chiếu soi nữa, ma quỷ dẫn chúng ta dễ dàng đi trên con đường tội lỗi để sa xuống hỏa ngục với chúng.

Suy Niệm

Ngay từ thuở tạo thiên lập địa… khi ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của con rắn là Satan, một thế lực đối nghịch với “Thiên Chúa – Đấng Thánh” và ảnh hưởng của chúng lan tràn trên cuộc sống con người.

Tin Mừng hôm nay cho thấy ma quỷ bị Chúa Giêsu vạch mặt chỉ tên là “thần ô uế”. Như thế, “thần ô uế” – ma quỷ là có thật, có thể gây ảnh hưởng trên con người như: quấy, phá, hành, hại, ám và nhập.

Chúa Giêsu Kitô là “Đấng Thánh” đến cứu vớt tất cả mọi người, đặc biệt những ai đang bị quyền lực Satan trói buộc. Ngài dùng uy quyền của mình xua đuổi “thần ô uế” cho người đang bị chúng khống chế được tự do.

Qua mọi thời, ma quỷ vẫn luôn tìm cách ảnh hưởng trên cuộc sống con người. Chúng là dối gian; hận thù; ghen ghét… Chúng ta chỉ thật sự thoát khỏi sự khống chế của “thần ô uế”, của ma quỷ, khi tin và phó thác hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa – Đấng Thánh là ánh sáng chiến thắng bóng tối – Satan để người tin sống trong tự do hoàn toàn của con cái Thiên Chúa…

 

Suy Niệm 9: Chúa Kitô trừ quỷ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Vừa đến miền Ghêrasa, Chúa Giêsu gặp ngay một người bị quỷ ám. Anh ta thường ở nơi mồ mả. Thấy Chúa Giêsu, anh ta tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa và xin Người đừng làm khổ anh. Chúa đuổi quỷ ra khỏi anh. Ma quỷ liền xuất ra khỏi người đó và nhập vào đàn heo, làm cho đàn heo lao mình xuống biển chết hết!  Những người chăn heo thấy vậy hoảng hốt chạy báo tin khắp nơi. Dân chúng tuốn đến  thì thấy người trước kia  bị quỷ ám đang tề chỉnh ngồi đó. Họ khiếp sợ  nên xin Chúa rời khỏi địa hạt của họ.
  2. Người Do thái thời Chúa Giêsu có cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó, cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại  mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả  bằng những hình anh rất sống động: Chúa Giêsu đã trục xuất cả đạo binh ma quỉ ra khỏi người bị quỉ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.
  3. Tình trạng người bị quỉ ám được nói đến trong Tin Mừng hôm nay rất đáng thương. Dưới sự kềm tỏa của thần ô uế, anh ta đã bị tước mất tình người và bị cách ly với cộng đoàn. Đó là hình ảnh của những ai đang còn sống dưới  sự chi phối của ma quỷ. Họ có thể là những người tôn thờ ma quỷ, qua việc sử dụng bùa ngải; hoặc đang sống trong sự chối bỏ Thiên Chúa và chìm đắm trong tội lỗi. Họ có thể là những dân tộc chưa được đón nhận Tin Mừng, đang sống trong sự tối tăm lầm lạc.
  4. Chúa Giêsu đối diện với cả một “cơ binh quỷ dữ” để dành lấy một con người. Chúa Giêsu không chỉ kéo một con người ra khỏi tội lỗi và đời sống xấu xa, mà còn nhấn chìm tận căn cả bè lũ satan cùng với sự ô uế tội lỗi, mà chuyện gần cả hai ngàn con heo từ “trên núi” lao “xuống biển” chết sạch là một biểu tượng.

Cả đàn heo đã lao từ trên núi xuổng chết đuối nói lên ý nghĩa: Núi trong quan niệm Thánh Kinh của Do thái là nơi hiện diện của thần linh; biển là nơi ẩn náu của ma quỷ xấu xa tội lỗi. Chúa Giêsu đã tống xuống biển cả và dìm chết ma quỷ và sự ô uế, đòi lại chủ quyền cho Thiên Chúa, lấy lại sự thánh thiện và đời sống thiêng liêng trong sạch cho con người. Đó là nội dung Tin Mừng cần chuyển tải, chứ không phải tính lịch sử của câu chuyện.

Như vậy, trước ánh sáng thần hóa của Thiên Chúa thì mọi thứ nhơ uế bị quét sạch; có Chúa Giêsu ngự trong con người thì quỷ ma không thể làm gì được. Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đang được ở trên “núi thánh” của Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để Ngài xua đuổi “bầy heo ma quỷ” ra khỏi tâm hồn chúng ta (Hiền Lâm).

  1. Chúa Giêsu đã bầy tỏ quyền năng của Người. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô song. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.

Để chứng tỏ Chúa Giêsu có sức mạnh vô song, trước tiên thánh Marcô  nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sức ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Tên quỷ đã bẻ cong được gông cùm và xiềng xích, thì Đấng chế ngự được nó nhất định phải mạnh hơn. Chúa đã trừ khử được tên quỷ đó, chứng tỏ sức mạnh của Chúa là sức mạnh vô địch.

  1. Truyện: Ai lớn hơn.

Một bé trai hỏi bố:

– Quỷ lớn hơn con không?

– Lớn hơn.

– Quỷ lớn hơn bố không?

– Lớn hơn.

– Quỷ lớn hơn Chúa Giêsu không?

– Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỷ.

Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:

– Vậy con không sợ quỷ.

 

Suy Niệm 10: Quyền của Chúa Giêsu trên ma quỷ

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Các đoạn Tin Mừng từ Thứ Bảy tuần trước đến Thứ Ba tuần này lần lượt kể các phép lạ của Chúa Giêsu, mỗi phép lạ mặc khải một khía cạnh của mầu nhiệm Chúa Giêsu.

Phép lạ này mặc khải uy quyền Chúa Giêsu chiến thắng uy quyền ma quỷ

– Người bị quỷ ám trong chuyện này là sào huyệt của tất cả quyền lực ma quỷ được tổng động viên. Hắn tự xưng “Tên tôi là đạo binh” (câu 9).

– Ảnh hưởng của việc bị quỷ khống chế

a/ Mất tương giao hài hòa với đồng loại “”Anh ta thường sống trong đám mồ mả” (câu 3)

b/ Mất tự do đích thực “bị gông cùm xiềng xích” (câu 4)

c/ Tự hại mình “Lấy đá đập vào mình” (câu 5)

d/ Mất nhân phẩm “tru tréo” (câu 5), không ăn mặc đàng hoàng, muốn nhập vào đàn heo (câu 12).

– Kết quả khi được Chúa giải thoát

a/ Nhân phẩm được trả lại “Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo” (câu 15)

b/ Gắn bó với Chúa “Anh nài xin được ở với Ngài” (câu 18)

c/ Hội nhập lại trong tương giao đồng loại “Anh cứ về nhà với thân nhân” (câu 19).

d/ Thành sứ giả của Tin Mừng “Anh ra đi và bắt đầu rao truyền… tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho anh” (câu 20).

Thế nhưng dân làng xin Chúa Giêsu rời khỏi vùng đất của họ vì tiếc của (đã bị chết chừng 2000 con heo), họ từ chối Đấng Messia!

B…. nẩy mầm.

  1. Phản ứng của người bị quỷ khống chế là không muốn được giải thoát khỏi sự khống chế đó Người bị quỷ ám này nói với Chúa Giêsu “Chuyện tôi can gì đến ông?… Tôi van ông đừng hành hạ tôi”. Chúa phải hành động mạnh “Thần ô uế kia, hãy xuất khỏi người này” – Khi ma quỷ khống chế ta, nó cũng xúi ta trốn tránh Chúa và không muốn được giải thoát. Xin cho con đừng mù quáng muốn ở lì mãi trong tội và trốn tránh những người thiện chí Chúa gởi đến cứu giúp con…
  2. Chúa Giêsu phân biệt rất rõ Ngài cương quyết tiêu diệt thế lực của ma quỷ, nhưng vẫn yêu thương và muốn giải thoát những kẻ bị ma quỷ khống chế.
  3. Trong Thánh Kinh, heo là hình ảnh của ô uế và của thế lực gian tà. Làng Ghêrasa này đầy heo nhưng lại tiếc rẻ khi đàn heo ấy chết đuối. Họ lại còn xin Chúa Giêsu rời khỏi làng họ. Khi ta bám vào của cải vật chất thì ma quỷ cũng theo đó mà bám víu ta.
  4. Có lần Napoleon cầm tấm bản đồ thế giới, chỉ vào nước Anh, tức tối nhận xét “Nếu không có cái chấm đỏ này thì Ta đã là bá chủ thế giới.

Ma quỉ cũng chỉ vào thánh giá Đức Kitô nói “Nếu không có chấm đỏ này thì ta đã bá chủ thế giới.” (Góp nhặt)

  1. Một thanh niên say rượu, đi ngang qua đám đông đang nghe giảng. Anh muốn tỏ ra “ta đây” và làm cho nhà giảng thuyết mất mặt chơi. “Chào, này ông ơi, về nhà đi thôi, đừng giảng nữa, ma quỉ chết hết rồi!” Vị giảng thuyết lạnh lùng nhìn anh nói “Ma quỉ chết rồi à ? Vậy là từ nay anh mồ côi rồi!” Chàng ta xấu hổ lủi mất, trong khi đám đông được trận cười khoái chí. (Góp nhặt)
  2. “Chúa Giêsu bảo kẻ trước kia đã bị quỷ ám ‘Anh cứ về nhà với thân nhân và loan tin cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh và Người đã thương anh như thế nào” (Mc 5,19)

Sau khi được chữa lành, người trước kia đã bị quỷ ám nài xin Chúa cho được ở với Người. Nhưng Người đã không đồng ý và bảo anh trở về nhà loan truyền và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa những người thân yêu của mình.

Chúa Giêsu đã làm ơn cho anh nhưng không muốn giữ anh lại với Người để kẻ chịu ơn phải suốt đời đền ơn đáp nghĩa. Người chỉ muốn ơn ban chảy tràn đến mọi người, qua trung gian của những kẻ đã một lần được yêu thương và chữa lành.

Con đường dẫn ta đến với Chúa chẳng bao giờ là đường cùng hay ngõ cụt nhưng luôn dẫn ta đến với mọi người, trước hết là những người thân cận, rồi đến những người đáng thương hay đang cần được yêu thương và giúp đỡ.

Chúa ơi! Đường của con là Chúa. Tình yêu của con là Chúa. Và quê hương của con cũng là Chúa. (Epphata)

 

Suy Niệm 11: Uy quyền của Chúa Giêsu trên ma quỉ

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Tin Mừng thứ bảy tuần trước cho chúng ta thấy uy quyền của Chúa trên sức mạnh của thiên nhiên: Chúa dẹp yên sóng gió bão táp.

Phép lạ trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy uy quyền của Chúa Giêsu trên ma quỉ: Chúa chiến thắng ma quỷ.

 Khi được Chúa giải thoát thì kết quả hết sức tốt đẹp:

  1. Chúa Giêsu đã bày tỏ bày quyền năng của Người. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô địch. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.

Chúa Giêsu có một quyền năng vô địch.

Một bé trai hỏi bố: – Quỉ lớn hơn con không?

– Lớn hơn.

– Quỉ lớn hơn bố không?

– Lớn hơn.

– Quỉ lơn hơn Chúa Giêsu không?

– Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.

Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:

– Vậy con không sợ quỉ,

Để chứng tỏ Chúa Giêsu có một sức mạnh vô song, trước tiên Marcô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sự ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Tên quỉ đã bẻ cong được gông cùm và xiềng xích, thì Đấng chế ngự được nó nhất định là phải mạnh hơn. Chúa đã trừ khử được tên quỉ đó, chứng tỏ sức mạnh của Chúa là sức mạnh vô địch.

Hơn nữa việc xua đuổi cả một bày quỉ cho nó nhập vào đàn heo làm cho đàn heo chừng hai ngàn con nhảy xô xuống biển và chết ngộp dưới đó, thì đó là dấu chỉ một người được ơn giải thoát đã có ảnh hưởng tới người xung quanh. Vì đối với người Do Thái, heo là con vật biểu tượng của sự ô uế. Sự chết chìm bi thảm của cả bầy heo cũng ngụ ý sự chấm dứt quyền lực của sự ác vốn ngự trị trên miền đất này và càng làm sáng tỏ hơn ảnh hưởng phấn khởi của ơn giải thoát do Chúa Kitô mang lại vậy.

  1. Việc Chúa Giêsu làm phép lạ này ở miền đất của dân ngoại chứng tỏ sứ mạng của Chúa Giêsu không còn đóng khung trong miền đất của người Do Thái nữa. Ngài đến để cứu vớt tất cả mọi người. Và sau khi Phục Sinh, Chúa còn sai các Tông Đồ đi rao giảng cho muôn dân. Rồi khi các người Kitô hữu đầu tiên ở Jêrusalem bị bắt bớ thì họ đã chạy sang tận bên kia bờ Địa Trung Hải. Tại đây họ cũng đã bắt đầu rao giảng về Chúa cho những cư dân ở đó. Rồi từ đó, Tin Mừng được loan đến cho những nơi khác.

Tin Mừng được loan báo cũng có nghĩa là quyền lực của Satan bị đẩy lui.

Có một người đàn ông ở Scotland. Người này bị ngã gãy lưng vào năm 15 tuổi. Suốt 40 nằm trên giường bịnh, nỗi đau của ông không thề nào tả xiết. Nhưng ơn Chúa đã giúp ông luôn bình tâm chấp nhận. Có lần ông được hỏi:

– Có bao giờ ma quỉ cám dỗ ông không, chẳng hạn nó bảo ông Thiên Chúa là quan án nghiêm khắc để ông nghi ngờ tình Ngài.

Ông đáp: “Có chứ, nhiều lần lắm. Khi thấy người khác giàu có, Satan bảo: nếu Chúa tốt lành, hẳn Ngài đã cho anh khỏe mạnh giàu sang, chứ đâu anh phải khốn khổ như vậy.

– Thế ông làm gì khi Satan cám dỗ?

– À, con dẫn Satan đến núi Calvê, chỉ cho nó thấy Đức Giêsu với các dấu đinh và nói: “Ngài không yêu tôi đó sao? Thế là nó cút, để tôi yên”.

  1. Sau khi được chữa lành, người trước kia đã bị quỷ ám nài xin Chúa cho được ở với Người. Nhưng Người đã không đồng ý và bảo anh trở về nhà loan truyền và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa những người thân yêu của mình.

Chúa Giêsu đã làm ơn cho anh nhưng không muốn giữ anh lại với Người để kẻ chịu ơn phải suốt đời đền ơn đáp nghĩa. Người chỉ muốn ơn ban chảy tràn đến mọi người, qua trung gian của những kẻ đã một lần được yêu thương và chữa lành.

Con đường dẫn ta đến với Chúa chẳng bao giờ là đường cùng hay ngõ cụt nhưng luôn dẫn ta đến với mọi người, trước hết là những người thân cận, rồi đến những người đáng thương hay đang cần được yêu thương và giúp đỡ.

Chúa ơi! Đường của con là Chúa. Tình yêu của con là Chúa. Và quê hương của con cũng là Chúa. (Epphata)

Lạy Chúa Giêsu,

xin sai chúng con lên đường

nhẹ nhàng và thanh thoát,

không chút cậy dựa vào khả năng bản thân

hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng

với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,

biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng

đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao

người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la

mà vòng tay chúng con quá nhỏ.

Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau

mà tin tưởng lên đường,

nhẹ nhàng và thanh thoát. (Rabboni).

 

THỨ BA TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 5, 21-43

Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng:: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống”. Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.

Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ:: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành”. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi:: “Ai đã chạm đến áo Ta?” Các môn đệ thưa Người rằng:: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi: “Ai chạm đến Ta?” Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà:: “Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”.

Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng:: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?” Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng:: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin”. Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê.

Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ:: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó”. Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng:: “Talitha, Koumi!”, nghĩa là:: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!” Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn.

 

Suy Niệm 1: Đụng đến áo

Suy niệm:

Giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu,

có những người đụng vào áo Ngài.

Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý,

đụng lén như sợ bị bắt quả tang.

Ðó là cái đụng của một người phụ nữ,

mười hai năm mắc bệnh băng huyết,

mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi,

mười hai năm bị coi là ô nhơ:

không được đụng đến người khác,

không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ.

Người phụ nữ đụng vào áo Ðức Giêsu

bằng tay và bằng lòng tin,

một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ.

“Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”

Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Trong đời sống Kitô hữu,

chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.

Ðụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài.

Ðụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.

Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen,

không để lại một âm vang nào,

không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống.

Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ,

ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi.

Hay nói đúng hơn,

vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài.

Ðụng vào Ðấng Thánh để được nên trong sạch.

Chúng ta cần đụng đến Ðức Giêsu mỗi ngày

và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.

Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình.

Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.

Như con gái của ông trưởng hội đường,

chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo:: “Hãy trỗi dậy.”

Trỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.

Trỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường.

Trỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.

Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ:

“Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34).

Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đảo của Giarô:

“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36).

Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu.

Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.

Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể,

ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em,

là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.

Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng,

ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.

Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi,

đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

dân làng Nazareth đã không tin Chúa

vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.

Các môn đệ đã không tin Chúa

khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.

Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa

chỉ vì Chúa sống như một con người,

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa

hiện diện dưới hình bánh mong manh,

nơi một linh mục yếu đuối,

trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình

nơi những gì thế gian chê bỏ,

để chúng con tập nhận ra Ngài

bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con

để khiêm tốn thấy Ngài

tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: SỰ ÂN CẦN

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Bài Tin mừng cho thấy quyền năng phi phàm nhưng đồng thời cũng cho thấy sự ân cần của Chúa. Giữa những người chen lấn vẫn có sự quan tâm đến từng người. Giữa những người cao sang vẫn còn thì giờ quan tâm đến những người bé nhỏ. Quan tâm đến một phụ nữ vô danh. Đưa chị ra ánh sáng để ca ngợi đức tin mạnh mẽ của chị. Con người này cao quí vì có đức tin mạnh mẽ chứ không vì có địa vị trong xã hội. Quan tâm nên đến tận nhà một em bé. Thời xưa, trẻ con, nhất là trẻ gái, thường không được quan tâm. Huống hồ đây là một trẻ gái đã chết. Thái độ của Chúa thật ân cần. Chúa cầm tay và nói với em. Vừa yêu thương. Vừa trân trọng.. Và còn ân cần hơn nữa. Khi mọi người tíu tít mừng rỡ thì Chúa quan tâm lo cho em ăn uống.

Điều này khiến ta an tâm tin tưởng. Vì Chúa yêu thương và quan tâm đến từng người chúng ta. Dù chúng ta là những người bé nhỏ nghèo hèn, vô danh tiểu tốt. Còn hơn cả quan tâm, Chúa hi sinh vì chúng ta. Chúa gánh lấy mọi bệnh hoạn, đau khổ tật nguyền của chúng ta. Để chúng ta được lành mạnh. Người còn cam lòng chịu chết cho ta được sống. Như thư Do thái khẳng định:: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí”. Vì thế nếu ta gặp khó khăn thử thách, hãy vững lòng tin tưởng chiến đấu. Vì Chúa sẽ trợ giúp và giải thoát ta.: “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (năm lẻ).

Chúa bày tỏ tấm lòng của người cha yêu thương con. Nếu Đa-vít tiếc thương Áp-sa-lôm là đứa con phản bội. Thánh vương còn muốn chết thay cho con. Khi Áp-sa-lôm đã chết, nhà vua khóc thương:: “Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con”. Nhưng Chúa không chỉ muốn chết thay cho ta. Chúa thực sự đã chết cho ta (năm chẵn).

Vì thế dù tội lỗi đến đâu, ta hãy tin tưởng. Đứng dậy trở về. Vì Chúa quan tâm yêu thương từng người. Chúa đến tìm con chiên lạc. Chúa sẵn sàng chết cho ta được sống.

 

SUY NIỆM 3: Nhận ra phép lạ mỗi ngày

Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Ðavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau:: “Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới”.

Cái chết mà ông Ðavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi: “tại sao”, mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà:: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.

Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.

Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.

Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Một y dược mới lạ

Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin:: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc. 5, 21-23)

Tương truyền thánh Maccô là một y sĩ. Phúc âm của ngài đầy rẫy những chi tiết về thuốc men cùng những ngón nghề trị bệnh. Nhưng hình như ngài đã tự ý bỏ nghề làm thuốc sau khi đã so sánh những thành công về y khoa của mình với những thành công của Tin Mừng nơi Đức Giêsu Kitô. Thế nên, trong bài tường thuật này, Maccô muốn minh chứng sự đụng chạm đến Chúa Giêsu, dù là kín đáo, cũng tạo được một khả năng hữu hiệu là phục hồi sức khỏe hay phục sinh.

Đụng chạm đến Chúa Giêsu

Chúa Giêsu thực hiện một số phép lạ: “từ xa” hoặc bằng lời nói của Người. Trong trường hợp này, Maccô nhấn mạnh đến chi tiết này là phép lạ đã xảy ra nhờ tiếp xúc với Chúa:: “Ai đã sờ vào tôi?”,: “Người cầm lấy tay đứa bé”.

Chúng ta biết Chúa Giêsu có thể chữa bệnh từ xa, nhưng cũng phải biết rằng Người có thể tác động cách gần gũi, cảm thấy được. Các Bí tích là gì, nếu không phải là những cử chỉ và hành động của Đức Kitô – như trong Bí tích Thánh Thể – của chính Đức Kitô.

Nhưng chúng ta có giống như đám đông chen lấn Chúa, đụng chạm đến Người, mà chẳng sinh được hiệu quả gì chăng? Hay sẽ như người đàn bà nọ bị bệnh băng huyết tiến đến gần Người với lòng tin nên được khỏi bệnh chăng? Chúng ta đến lãnh nhận các Bí tích với tinh thần nào?

Dù là kín đáo không ai hay biết

Có nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện trước công chúng, mà mọi người được mắt thấy tai nghe. Trong trường hợp phép lạ ở đây, lại khác hẳn. Việc người phụ nữ bị bệnh loạn huyết được khỏi, chẳng có ai hay biết, còn số người chứng kiến việc con gái ông Giai-ia được phục sinh cũng chỉ có mấy người. Việc Chúa Giêsu hành động cách kín đáo, hoặc Người bảo người ta phải kín miệng cảnh báo chúng ta phải coi chừng những phép lạ hàng loạt, và những trường hợp lành bệnh có tính cách phô trương rùm beng. Mỗi người cần có niềm tin sâu xa tự đáy lòng mình, đó mới là điều cốt yếu.

Tiến tới một sự phục hồi toàn diện

Cuối cùng, sự tiếp xúc với chính Chúa Kitô và đụng chạm đến Người phải đưa đến một sự phục hồi toàn diện con người. Chúa Giêsu không ngừng làm cho ta đứng thẳng, trong tư thế của người đang làm việc; Người làm cho chúng ta trở thành người hữu ích, đảm đang. Và cứ như thế cho đến giai đoạn phục hồi chung cuộc, khi con người toàn diện của chúng ta, luôn tỉnh thức phục vụ, được phục sinh trong ngày Chúa ngự đến.

 

Suy Niệm 5: TIN SẼ ĐƯỢC KHỎI (Mc 5, 21-43)

Trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu gặp rất nhiều người đến xin Ngài chữa bệnh hoặc người ta tự ý đụng chạm đến Ngài để được khỏi bệnh. Trong mọi trường hợp, Ngài đều khơi gợi lên nơi họ một mối tương quan trực tiếp với Ngài. Mối liên hệ đó chính là đức tin. Có đức tin sẽ được lành. Không có đức tin thì không thể khỏi.

Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành một người đàn bà bị băng huyết và cho em bé 12 tuổi đã chết được sống lại.

Trường hợp người đàn bà băng huyết thì Đức Giêsu đòi hỏi bà ta phải có niềm tin trực tiếp vào Ngài. Còn với em bé được Ngài cho sống lại thì chính đức tin của cha em đã làm Đức Giêsu chạnh lòng thương và cứu sống em.

Trong cuộc sống đạo của chúng ta, nhiều khi chúng ta tin Chúa, nhưng tin nửa vời, tức là tin khi thành công, thuận lợi, nhưng khi đức tin bị thử thách, chúng ta sẵn sàng buông xuôi. Như vậy, nếu không có lợi thì tức khắc chúng ta chuyển niềm tin sang đối tượng khác! Chúa không còn là Đấng duy nhất chúng ta tin tưởng!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin của mình được triển nở. Bởi vì đức tin mà không việc làm thì đức tin chết. Đức tin phải được thanh uyện bằng những thử thách. Có thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình, và mình mới đủ can đảm để làm chứng cho Chúa ngay trong những lúc khó khăn, thử thách nhất.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chính nhờ đức tin của chúng con vào Chúa, chúng con được sự sống đời đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Sờ vào áo Người, là sẽ được cứu

Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Một tác giả người Mỹ đã ghi lại một câu chuyện về niềm tin như sau: Tại một vùng bên Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.

Một ngày Chúa nhật nọ, tất cả các vị mục sư tại các nhà thờ trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buổi cầu nguyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình.

Vào giữa trưa một ngày thứ Bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng tập trung tại quảng trường. Tất cả mọi người đều tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện. Họ đến đó tràn trề hy vọng. Các vị mục sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau trong cùng một niềm tin và hy vọng. Những bài thánh ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. Khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta cũng giơ lên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ thấy có một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm dù gương lên cao. Em là người duy nhất mang theo dù để chuẩn bị đón mưa (Theo Radio Véritas).

Suy niệm

Bà góa bị bệnh băng huyết, theo quan niệm của người Do Thái xưa, máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi bà mất dần đi, tiêu hao đi coi như bà là người đang đi vào cõi chết. Hơn thế nữa, theo Luật Môisê (x. Lv 15,25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng: Bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ vì tiếp xúc với bà. Cho nên, bà không chỉ đau đớn về bệnh tật hoành hành cả đời bà, niềm đau hơn nữa là bà bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, khỏi cộng đoàn tôn giáo. Trong cơn thất vọng về tình trạng bệnh tật và tâm linh, bà tin Đức Kitô có thể chữa bà khỏi cơn bạo bệnh và qua đó còn đưa bà trở về với cuộc sống xã hội. Bà tin và chân thành xin một chút sức mạnh từ nơi Đấng Mêssia bằng cử chỉ đụng vào áo Ngài, lòng tin đơn sơ nhưng thật mạnh mẽ:: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi” (Mc 5,28). Và bà: “chạm đến áo Người” trong lúc bà mang cơn bệnh là thái độ liều lĩnh vì đã xé rào Luật Lệ ngăn cấm, nhưng đó cũng là thái độ đức tin vững vàng của bà. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.Ông Giairô đã không hề ngại đến thân thế của mình là trưởng hội đường, ông khiêm tốn nài xin Chúa Giêsu đến thăm viếng để cứu chữa người con gái ông đang bị bệnh nặng:: “Xin Ngài đặt tay trên nó”(Mc 5,23). Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân và họ được khỏi bệnh (x. Mc 6,5; 7,32; 8,23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng: Ngài sẽ chữa khỏi được bệnh cho con ông. Ông xác tín cử chỉ đặt tay của Thầy – Đấng Mêssia mang đến cho con ông được cứu như ông tuyên tín:: “Để nó được khỏi và được sống” (Mc 5,23b), dù em bé bệnh rất nặng và đang hấp hối nguy ngập. Thái độ này của Giairô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu và con ông đã được sống dù nó đã chết như người nhà loan báo khi Chúa đến đầu ngõ nhà ông.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin mà Đức Giêsu xác nhận. Với người phụ nữ đau khổ góa bụa mắc bệnh băng huyết có lòng tin vững vàng:: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34) như mỗi lần chữa lành bệnh tật, Ngài thường khẳng định:: “Niềm tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22; Lc 8,48; 17,19; 18,42…). Được lành bệnh, được phục hồi, người được chữa lành không chỉ tìm lại được sức khỏe thể lý mà còn có cuộc sống mới trong niềm tin và họ đã tuyên xưng. Còn ông Giairô, Ngài nâng đỡ ông hãy vững lòng tin:: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), khi ông muốn ngã quỵ vì nhận được tin dữ như sét đánh ngang tai:: “Con ông đã chết rồi: “ (Mc 5,35).

Sống đức tin là dám sẵn sàng ra khỏi chính mình để đi theo tiếng gọi của niềm tin, sẵn sàng đi ra khỏi tư tưởng áp đặt đám đông để sống thực cho những đòi hỏi của đức tin. Sống đức tin đích thực là sẵn sàng lội ngược dòng như bà góa vượt qua lề luật để gặp và sờ áo Chúa và ông Giairô vượt qua thân phận chủ hội đường mà đến với Đức Kitô.

Ngày hôm nay, mỗi chúng ta đều mang bệnh tật: Có thể về thể xác như mang các cơn bệnh, có thể là những thứ bệnh tâm lý như lo lắng, cô đơn, cay đắng, giận hờn, stress, có thể là những cơn bạo bệnh tâm linh khi sống mất phương hướng, hoang tàn trong cuộc đời, còn tệ hơn nữa là chết về tâm hồn… Chúng ta luôn cần được chữa lành như người phụ nữ mang bệnh tật đến với Đức Giêsu với niềm tin vào Ngài, như người cha Giairô xin Thầy đến bên con gái ông đang bị bệnh gần chết với niềm tin con ông được sống.

Mỗi giây phút cuộc đời, với tất cả tình trạng của mình, chúng ta hãy chạy đến với Thầy:: “Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa” (Tv 131,2).

 

Suy Niệm 7: Chữa bệnh và cho sống lại

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Bài Tin Mừng hôm nay thánh Marcô thuật lạ cho chúng ta hai phép lạ. Khi Chúa Giêsu đang đứng trên bãi biển thì ông trưởng hội đường đến sấp mình van xin Người cứu chữa con gái ông sắp chết. Người liền đi với ông, và dân chúng kéo theo rất đông. Dọc đường, có người đàn bà mắc bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã tìm thầy chạy thuốc hết tiền hết của mà không hết bệnh. Khi nghe nói đến Chúa Giêsu, bà thầm nghĩ: nếu sờ được áo Người chắc khỏi bệnh, nên bà lẩn vào đám đông và sờ vào áo Chúa. Tức thì bà được lành bệnh.

Lúc ấy người nhà ông trưởng hội đường đến đưa tin con gái ông đã chết và khuyên đừng rước Chúa đi nữa. Nhưng Chúa bảo ông cứ vững tin. Rồi Người cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan đến nhà ông. Người cầm tay đứa bé và bảo: “Hỡi con, Ta truyền cho con chỗi dậy”. Tức thì đứa bé chỗi dậy, trước sự kinh ngạc của mọi người.

  1. Muốn có phép lạ phải có đức tin đi trước.

Tất cả các phép lạ Chúa Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi đuợc những phép lạ Người đã làm như chữa bệnh, trừ quỉ, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại… Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt mọi người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Chúa Giêsu hay nói với bệnh nhân: ”Đức tin của con đã chữa con”.

Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ: “Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Người thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ  bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà: “Đức tin của con đã chữa con”.

  1. Phép lạ còn đòi phải có lòng khiêm nhường.

Ông trưởng hội đường Giairô hôm nay đã diễn tả lòng tin tưởng với khiêm nhường thẩm sâu. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Chúa Giêsu  diễn tả niềm tin sâu sắc của ông, ông đã quỳ mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.

  1. Qua việc chữa lành cho người đàn bà bị xuất huyết và phục sinh cho con gái ông trưởng hội đường, Chúa Giêsu đã tỏ bầy lòng thông cảm và quan tâm đến những nỗi khổ của con người.

Trong cuộc sống hằng ngày mà ai ai cũng biết thông cảm và quan tâm đến nhau thì đau khổ sẽ bị chế ngự và hạnh phúc sẽ ngự trị nơi mỗi người và trong xã hội.

Mỗi người trong chúng ta có một vai diễn trên sân khấu của cuộc đời.

Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm với mọi người xung quanh, nói với họ rằng chúng ta yêu mến họ.

Nếu bạn không quan tâm đến người khác, bạn sẽ không bị trừng phạt đâu, đơn giản bạn chỉ bị lãng quên, hững hờ y như bạn đã từng đối với người khác.

Vậy từ hôm nay, chúng ta hãy tập thói quen bày tỏ sự quan tâm đến người khác. Đâu mất gì khi chúng ta nở một nụ cười, siết chặt một bàn tay, thốt lên một lời khích lệ hoặc đơn giản nói rằng chúng ta muốn lắng nghe.

  1. Truyện: Biết lưu tâm đến người khác.

Vào tháng hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.

Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời  mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: “Chị tạp vụ ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.

Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:

– Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.

Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên  của chị tạp vụ trong trường. Chị tên là Mai Hương.

Vâng, chúng ta hãy học tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.

Các nhà đạo đức ngày nay đã nói nhiều về sự: “dửng dưng và vô cảm” của người thời đại. Hình như cuộc sống càng cao, càng sung túc thì con người lại càng ích kỷ thêm. Nhiều người đã biến trái tim của mình  thành vô cảm trước những nỗi khổ đau của người khác, nhất là những người nghèo khó đau khổ.

Là những người con của Chúa, chúng ta đừng bao giờ làm như thế. Hãy nhớ: Niềm vui biết chia sẻ  là niềm vui sẽ được nhân lên gấp bội và nỗi buồn được chia sẻ  là nỗi buồn sẽ vơi đi một nửa.

 

Suy Niệm 8: Chúa Giêsu là chủ và nguồn của sự sống

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Phép lạ cuối cùng trong loạt 3 phép lạ mặc khải uy quyền của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết

– Nơi đứa con gái của ông Giairô sự sống đã mất hẳn vì nó đã chết, ai nấy cũng xác nhận cái chết ấy vì họ đã bắt đầu khóc than kêu la ầm ĩ, người ta còn cười nhạo khi Chúa Giêsu bảo nó chưa chết.

– Nơi người phụ nữ bị băng huyết sự sống đang mất dần (máu là biểu tượng của sự sống).

– Chúa Giêsu là chủ và là nguồn của sự sống:

a/ Người phụ nữ bị băng huyết chỉ cần sờ đến gấu áo Ngài thì sự sống được phục hồi;

b/ Ngài gọi cô bé sống lại cách dễ dàng như đánh thức một người khỏi giấc ngủ.

B…. nẩy mầm.

  1. “Đứa bé có chết đâu. Nó ngủ đấy thôi”. Khi Ladarô chết, Chúa Giêsu cũng nói “Ladarô bạn của ta đang yên giấc. Thầy đi đánh thức anh ấy dậy” (Ga 11,11). Đối với Chúa, chết chỉ là một giấc ngủ, mở mắt thức dậy là một cuộc sống thật, vĩnh cửu.
  2. Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng.”

Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”

Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)

Ta chỉ tin suông vào sự sống thật mai sau. Thực chất là ta vẫn còn coi trọng sự sống đời này hơn.

  1. Một ông lão ở Marocco đến gặp một nhà truyền giáo để tìm con đường cứu độ, vì ông biết mình chẳng sống bao lâu nữa. Để giúp ông, nhà truyền giáo dùng một cuốn sách, trong đó trang 1 màu đen tượng trưng cho tội lỗi, trang 2 màu đỏ tượng trưng máu Chúa Kitô, trang 3 màu trắng chỉ lương tâm trong sạch, trang 4 màu vàng chỉ vinh quang Nước Trời.

Sau khi nhập đạo ít lâu, người đó lâm cơn hấp hối. Bà vợ là người theo đạo Hồi khuyên ông kêu cầu đức Mahomet, nhưng ông không chịu, bảo Chúa của ông là Đức Kitô.

Bà vợ nói: “Vậy ông hãy lấy cuốn sách nhà truyền giáo cho, mở trang 3, hi vọng Chúa sẽ cho ông sạch tội mà vào thiên đàng.”

Ông đáp: “Không, hãy mở trang 2 cho tôi.” Và ông chết trong lúc tựa đầu vào trang sách tượng trưng máu Chúa Kitô. (Góp nhặt)

  1. Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:

-Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.

-Thứ  hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.

-Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.

-Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao! (Góp nhặt).

  1. “Người phụ nữ lách qua đám đông tiến đến phía sau Chúa Giêsu và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ Tôi mà sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu. Tức khắc bà đã được khỏi bệnh” (Mc 5,27-29)

Băng huyết là bệnh nan y trong thời Chúa Giêsu. Người mắc bệnh này thường tuyệt vọng. Nhưng người phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng đã không giam mình trong nỗi thất vọng. Chị đã đến với Chúa và hết lòng tin tưởng vào Người, tin rằng Người có thể lấp đầy những khát vọng của mình.

Dù cách biểu lộ niềm tin của chị còn thô thiển là tìm cách sờ vào áo của Người, nhưng chỉ cần ngần ấy thôi cũng đủ để Chúa Giêsu nhận ra lòng tin mãnh liệt của chị, lòng tin mà, theo Người, đã cứu chữa chị và đem lại cho chị sự bình an.

Tôi chợt nghĩ đến căn bệnh của thời đại, đến những người đang thất vọng vì nhiễm HIV, và thầm nguyện cho họ được vững một niềm tin vào Chúa, Đấng duy nhất có thể thoả mãn những mong đợi mà Người đã đặt trong trái tim của mỗi người. Chính Người đã đến để loan báo cho ta niềm hy vọng tuyệt vời, vì Người là tác giả của sự sống.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì nhờ Người mà con đã khám phá ra khuôn mặt mới của Thiên Chúa một Thiên Chúa giàu lòng thương xót và yêu thương hết mọi người. (Epphata)

 

THỨ TƯ TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 6,1-6

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người.

Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.

 

Suy Niệm 1: Quê quán của Người

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình, xa ngôi làng Nadarét bao lâu rồi.

Nhưng hôm nay, Ngài lại trở về với hội đường của làng vào ngày sabát.

Dù sao Ngài đã có danh tiếng trước đám đông, lại có môn đệ đi theo…

Trở về với hội đường thân quen, Ngài được mời đọc sách thánh và giảng dạy.

Nghe lời Ngài giảng, nhiều người sửng sốt ngỡ ngàng.

“Bởi đâu ông này được như thế?

Ông được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?

Ông làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?” (c. 2).

Những câu hỏi cho thấy người dân Nadarét nhìn nhận

sự khôn ngoan trong lời giảng và quyền năng trong việc làm

mà họ bắt gặp nơi con người ông Giêsu, người cùng làng với họ.

Chỉ có điều là họ nghĩ không ra nguồn gốc của những chuyện đó.

Tại sao họ lại không coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa,

và coi Thiên Chúa là nguồn gốc mọi khả năng lạ lùng của Ngài?

Câu trả lời là vì người dân làng đã quá quen với ông Giêsu.

Họ tự hào biết rất rõ về nghề nghiệp của ông: một bác thợ.

Họ tự hào biết rất rõ về họ hàng ruột thịt: mẹ và anh chị em của ông,

những người họ có thể kể tên, những người đang là bà con lối xóm với họ.

Họ cũng biết rõ quãng đời thơ ấu và trưởng thành của ông Giêsu.

Chính cái biết này đã ngăn cản

khiến họ không thể tin ông Giêsu là một ngôn sứ.

Hay đúng hơn chính vì họ có một hình ảnh rất cao cả về một ngôn sứ

nên quá khứ bình thường của Đức Giêsu khiến họ không thể tin được.

Người dân Nadarét đã không ngờ mình có người làng cao trọng đến thế:

một ngôn sứ, một Đấng Kitô, một Thiên Chúa làm người, ở với họ.

Và họ cũng không ngờ sự cao trọng đó lại được gói trong lớp áo tầm thường,

không ngờ Đức Giêsu sẽ là người làm cho cả thế giới biết đến Nadarét.

Làm thế nào chúng ta tránh được sai lầm của người Nadarét xưa?

Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình thường của cuộc sống.

Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen gặp mỗi ngày.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

dân làng Nadarét đã không tin Chúa

vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.

Các môn đệ đã không tin Chúa

khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.

Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa

chỉ vì Chúa sống như một con người.

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa

hiện diện dưới hình bánh mong manh,

nơi một linh mục yếu đuối,

trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình

nơi những gì thế gian chê bỏ,

để chúng con tập nhận ra Ngài

bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con

để khiêm tốn thấy Ngài

tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.

 

Suy Niệm 2: Bản tính khó dời

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con người khó thay đổi. Khó thay đổi vì quá quen thuộc. Đã thành nếp. Nếp ăn. Nếp nghĩ. Người dân Na-da-rét quá quen với hình ảnh Chúa Giê-su thợ mộc. Cha Người làm thợ mộc. Người cũng làm thợ mộc. Không thể khác được. Khó thay đổi vì ngại ngùng. Tuy nghe tiếng Người ở Ca-phác-na-um đã làm những điều kỳ diệu. Tuy trực tiếp nghe những lời lẽ khôn ngoan Người nói. Họ ngạc nhiên vì sự thay đổi nơi Chúa Giê-su. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Nhưng chính họ không chịu thay đổi. Đã quen với ý niệm Giê-su thợ mộc, họ không thể đổi thành ý niệm Giê-su tiên tri được. “Và họ vấp ngã vì Người”.

Con người vốn yếu đuối và hay sai lầm. Vì thế cần thay đổi. Cần sám hối. Cần được chỉ dạy.

Thư Do thái khuyên nhủ ta hãy biết khiêm tốn nhận lời chỉ dạy của Chúa. Đó là tình yêu thương của Chúa. Yêu cho roi cho vọt. “Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy”. Chỉ khi khiêm tốn đón nhận, ta mới thay đổi để nên tốt hơn. “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính” (năm lẻ).

Đa-vít trở nên thánh vương vì ngài biết khiêm nhường chấp nhận tội lỗi. “Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Đức Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn”. Sám hối ngay khi được tiên tri Gát cảnh tỉnh. Và sẵn sàng đón nhận sự sửa dạy của Chúa. “Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên con và nhà cha con!” Thay đổi như thế cần sự khiêm nhường. Biết mình. Phục thiện. HOàn toàn đón nhận thánh ý (năm chẵn). Đó là điều người dân Na-da-rét thiếu. Họ kiêu ngạo. Không biết mình. Và tệ nhất là không phục thiện để thay đổi.

Xin cho con biết khiêm nhường. Biết mình. Và mạnh dạn thay đổi. Theo lời Chúa dạy.

 

Suy Niệm 3: Cuộc sống âm thầm

Thánh Gioan Bosco, nhà giáo dục giới trẻ lừng danh nhất của thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ năm Ngài lên 9 tuổi như sau: Ngài mơ thấy mình ở giữa một đám trẻ đang chơi đùa, nghịch ngợm, cãi cọ và nói những lời thô tục. Muốn cho đám trẻ một bài học, cậu bé liền gọi một số em ra và dùng nắm tay để đe dọa. Nhưng chính lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra gọi cậu bé lại và nói:

– Này Gioan, muốn biến những con chó sói này thành chiên con, thì con không nên dùng sức mạnh của đôi tay, mà hãy dùng lòng tốt.

Lúc đó, cậu bé thưa với Chúa:

– Lạy Chúa, chắc con không làm được đâu.

Chúa Giêsu liền chỉ cho Gioan Bosco thấy gương mặt hiền hậu của một người mẹ đang đi bên cạnh và nói:

– Ðây là mẹ của con và cũng là mẹ của chúng nữa. Với mẹ, con có thể biến đổi giới trẻ cho Nước Chúa, cho một thế giới tốt đẹp hơn.

Quả thật, về sau, cả công cuộc giáo dục giới trẻ của Gioan Bosco đều được đặt dưới sự hướng dẫn và bảo trợ của Mẹ Maria. Nhưng để có thể đến với Mẹ Maria, Gioan Bosco đã tiếp nhận lời dạy bảo và gương sáng của chính người mẹ ruột của mình. Có lẽ ngài không bao giờ quên lời căn dặn của mẹ ngài: “Mẹ đã sinh ra trong cảnh nghèo, mẹ đã sống trong cảnh nghèo; nếu con muốn làm linh mục để nên giàu có, thì mẹ sẽ không bao giờ đến thăm con nữa”.

Mẹ Maria có lẽ đã không bao giờ nói một lời như thế với Chúa Giêsu, khi Ngài đã sống bên cạnh Mẹ Maria tại Nazareth trong suốt 30 năm. Tin Mừng đã không ghi lại một lời nào của Mẹ trong giai đoạn này, nhưng chắc chắn, cũng như mọi đứa trẻ, Chúa Giêsu đã sống và lớn lên một cách bình thường, nghĩa là Ngài đã từng uống từng lời dạy dỗ của Mẹ. Sống kiếp người chỉ có 33 năm, thì 30 năm, Chúa Giêsu lại dành cho cuộc sống ẩn dật âm thầm tại Nazareth. Ðây chắc chắn không phải là một giai đoạn uổng phí trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không lập gia đình, nhưng đã sống phần lớn cuộc sống của Ngài trong gia đình, một cuộc sống âm thầm và bình thường, đến độ những người đồng hương của Ngài phải thốt lên với giọng gần như khinh bỉ: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?”

Phản ứng của những người đồng hương về những năm âm thầm của Chúa Giêsu tại Nazareth là một xác quyết rằng Chúa Giêsu đề cao đời sống gia đình. Ngài đã không sống như một siêu nhân, Ngài đã không làm bất cứ một việc phi thường nào, nhưng đã sống một cách bình dị trong cảnh nghèo như mọi người. Chính vì Con Thiên Chúa đã sống một cách bình dị những thực tại hàng ngày của cuộc sống gia đình, mà đời sống ấy mang một giá trị và có ý nghĩa đối với con người. Tất cả những biến cố trong cuộc sống của Con Thiên Chúa làm người đều đáng được chúng ta chiêm ngưỡng, và trong ánh sáng của những biến cố ấy, chúng ta được mời gọi để nhìn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

Nguyện xin Chúa thánh hóa cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, để chúng ta sống một cách sung mãn từng giây phút và trở thành nhân chứng tình yêu Chúa trước mặt mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Quen quá hóa lờn

Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc. 6, 1-2)

Hẳn một ngày nào đó bạn đã có một kinh nghiệm này về chụp ảnh: để lấy hình một đài kỷ niệm hoặc một tòa nhà, bạn phải lùi lại xa. Đứng gần quá bạn chỉ trông thấy được một khối khổng lồ, nặng nề như muốn đè bẹp ta. Khi lấy ảnh quá gần, ta chỉ thấy được những tiểu tiết, không có được cái nhìn khái quát.

Những tương quan xã hội, gia đình, bằng hữu của ta cũng chịu chung số phận như vậy. Gần nhau quá nhiều dễ làm ta mất ý thức về người khác, nên dễ lờn, dễ coi thường… có khi lại chỉ nhìn thấy một vài khuyết điểm nhỏ nhoi của họ, mà không nhận ra bao điểm tốt khác.

Những người làng Nadarét đã có một cái nhìn quá gần, quá thiển cận về Chúa Giêsu. Đúng là “Gần chùa gọi Bụt bằng anh!”.

Từ mệt mỏi đến chán nản

Làm sao giải thích hiện tượng này?

Chủ yếu là bởi tại ta chỉ là những con người phàm trần, những người lớn. Phải, ta mau chán, mau quen lờn khiến cho cái mới dễ trở nên cũ, không còn hấp dẫn, như ta vẫn thường nói “có mới nới cũ” là vậy đó. Thực ra chỉ có các trẻ em – và những ai giống như chúng – mới có thể giữ cho cái nhìn ngỡ ngàng và cảm phục của mình luôn mới mẻ. Tuổi trẻ thường ngưỡng mộ các anh hùng, hoặc tuổi trẻ tài cao, như ta vẫn nói. Thế rồi, sau một thời gian, ta lại vội vã thu mình vào khung cảnh thường nhật và nếp sống đã quen, hầu che dấu đi những nỗi chán nản thất vọng của ta. Ta không còn ngưỡng mộ ai khác, ngay cả chính bản thân mình nữa.

Từ lòng tin đến nhận biết

Thế nên câu Phúc âm sau đây tuy vắn vỏi nhưng thật có tầm quan trọng: “Người lấy làm lạ vì họ không tin!”…

Đức tin không những là cần thiết để đón nhận lời Chúa Giêsu quả quyết Người là Con Thiên Chúa và là Con Người. Đức tin là cần thiết cốt để hiểu biết rõ Đức Kitô, cũng như để nhận biết mọi con người vậy.

Ta chỉ biết rõ một người, nếu như ta có lòng tin vào họ. Con người dù là nam hay nữ đều là một huyền nhiệm. Phải tin vào huyền nhiệm đó, nghĩa là tin vào cái thực thể phong phú, không bao giờ nắm bắt hết được, tin vào cái chiều sâu khôn lường của một nhân vị. Đó chính là nền tảng của mọi nhận thức vậy.

Nhận biết một người là tin trưóc rằng người ấy là một con người.

Tiếp đó, chúng ta mới sẽ có thể tin bằng tất cả sự thật rằng nơi con người này là Đức Giêsu Kitô còn có một huyền nhiệm khác nữa – huyền nhiệm là Con Thiên Chúa.

 

Suy Niệm 5: Số phận tiên tri và quê hương

Trong cuộc sống đời thường, người ta vẫn hay nói: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”; hay: “Bụt chùa nhà không thiêng, thiêng Bụt chùa người”.

Hôm nay, Đức Giêsu bị chính đồng hương của mình khinh miệt. Chuyện kể rằng: sau một khoảng thời gian, Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ, hôm nay, Ngài trở về nơi chôn nhau cắt rốn để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Mặc dù lời dạy của Ngài thật khôn ngoan và uy quyền, thế nhưng với những người đồng hương, họ sẵn có tính kỳ thị, và chính từ đó, lòng họ trở nên chai lỳ. Họ nói với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?”.

Lối phản ứng trên đây cho thấy một sự lạnh nhạt, và không chấp nhận những giáo huấn của Đức Giêsu, mặc dù vẫn biết đấy là lời khôn ngoan!

Lối nói: “Con bà Maria” là lối nói kiểu khinh thường. Mẹ Maria cũng là người bình thường như ai, vậy thì một người vô danh tiểu tốt như thế không thể sinh ra một người con phi thường được, nên họ có đủ lý do để khước từ Đức Giêsu!

Trong cuộc sống của chúng ta, chắc cũng không thiếu những lối suy nghĩ như vậy! Một khi đã có sẵn trong lòng sự kỳ thị nào đó, thì nơi người ấy không có chút gì là tốt và chúng ta cũng không ngừng tìm mọi cách để làm cho họ không còn uy tín để làm việc…

Tại sao lại có những lối suy nghĩ xa lạ với Tin Mừng như thế? Thưa! Đơn giản là vì sự ích kỷ, đố kỵ, hẹp hòi và kiêu ngạo luôn luôn ngự trị trong lối nhìn và cách nghĩ của chúng ta, khiến ta không thể vượt ra xa và nhìn rộng để thấy tổng quát.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta không ngừng phấn đấu để vượt thắng những tham sân si đó, sống quảng đại và sẵn sàng đón nhận những giá trị tốt nơi người anh chị em chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có cái nhìn của Chúa, để chúng con biết yêu thương không giới hạn và sẵn sàng đón nhận anh chị em mình như Chúa đã quảng đại đón nhận chúng con là con Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Vượt qua thành kiến

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Để sẵn sàng đón nhận ánh sáng tươi mát của đức tin, cần phải mạnh dạn vượt qua sự vây hãm của thành kiến và những lo toan thế trần.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian rao giảng ơn cứu độ cho các tội nhân, khơi dậy hy vọng giữa cõi đời tăm tối. Chính vì thế, những lời rao giảng của Chúa có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Nhưng một điều lạ lùng là chính những người đồng hương với Chúa lại chỉ nhận ra đó là những lời chói tai của con bác thợ mộc, chứ không nhận ra đó là lời loan báo tin vui của Con Thiên Chúa. Họ đã không giải mã được sứ điệp, vì họ không thể vượt qua được các thành kiến của mình. Họ đã từ chối ngước nhìn lên cao, đã cam chịu bám víu lấy trái đất, sợ phải xa rời những lực hút vốn đã quen, dù biết rằng sẽ có ngày đất nuốt họ đi. Con người đã chọn chính các giới hạn của mình làm nơi trú ẩn.

Lạy Chúa, chính con cũng đã sống như không có đời sau. Đức tin mà con đã lãnh nhận từ ngày được rửa tội vẫn chỉ là một đốm sáng hiu hắt giữa mịt mùng đêm tối. Nhiều khi con đã dừng lại, tự lừa dối mình rằng, bóng đêm là màn che an toàn nhất. Con lấp đầy khoảng trống trong đời con bằng những câu chuyện tiền nong cơm áo, bằng men rượu, bằng các giao du vô bổ. Con sống như người vô thần vì đã không nhận ra Con Thiên Chúa mang hình hài con bác thợ mộc, không nhận ra sứ điệp từ trời qua những tín hiệu trần gian.

Lạy Chúa, xin thương đánh thức con dậy và ban sức mạnh để con vượt qua chính bản thân mà đến với Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương”.

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đại thi hào R. Tagore, thi sĩ nổi tiếng Ấn Độ, là người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu…

Một ngày kia ông làm được một bài thơ và đưa cho bố coi thử. Chẳng biết bố có đọc hết hay không, nhưng liền nhăn mũi mà bảo: “Dở ẹc”.

Ngày hôm sau, cậu lại sáng tác một bài thơ khác và cũng đưa cho bố coi thử. Lần này bố liền “kê tủ đứng vào mũi” cậu nhóc: “Đúng là bài thơ … con cóc”.

Bực quá, cậu nhóc bèn chơi trò láu cá, cậu nghĩ ra một cái mưu nho nhỏ, đó là đem bài thơ vừa mới làm xong, chép lại cẩn thận, rồi ghi thêm xuất xứ từ trong một tập thơ cổ.

Lần này thì bố cứ đọc đi đọc lại, rồi vỗ đùi đánh đét một phát và phán: “Tuyệt vời, tuyệt vời, còn trên cả tuyệt vời nữa”.

Sau đó, ông bố đem bài thơ khoe với anh con trai lớn, đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Cả hai bố con đều tấm tắc khen lấy khen để, rồi lại còn muốn đem trình làng cho bà con thiên hạ cùng thưởng thức. Và để cho ăn chắc, bèn bảo cậu nhóc đem cuốn thơ cổ ra để đối chiếu. Tới lúc đó thì mới vỡ lẽ ra: bài thơ ấy chính là của cậu nhóc. Ông bố giận sôi lên sùng sục, nhưng cũng cảm thấy thán phục cậu nhóc và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình (Theo trang mạng Dũng Lạc).

Suy Niệm

Dân làng Nadarét, quê hương của Đức Kitô không tin vào Ngài, Đấng được Thiên Chúa sai đến, dù rằng họ rất ngạc nhiên, sửng sốt khi nghe những lời giáo huấn từ Ngài, nhưng gốc gác, thân thế về gia đình Đức Giêsu khiến họ hoài nghi về sứ vụ Mêssia của Ngài: “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” (Mc 6,3).

Theo M.E. Boismard “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến là Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Tryphon, thánh Giustinô (khoảng năm 150) làm vang vọng lại niềm tin này khi kể lại ý niệm sau đây của những học giả Do Thái: “Nếu có người nói rằng Đấng Mêssia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay ngài là Đấng Mêssia” (Dial. 110,1).

Có lẽ vì thế với dân làng Nadarét nói riêng và dân Do Thái nói chung, khi biết thân phận khiêm tốn của Ngài “Họ đã vấp phạm vì Người” (Mc 6,3b), họ đã cố chấp cứng tin (x. Mc 6,6). Vì nguồn gốc khiêm tốn, vì quá quen biết về gia đình của Đức Giêsu, lòng ghen ghét đố kị đã khiến họ không tin vào Ngài cho nên thánh Gioan Kim Khẩu xác định: “Sự đố kị ghen ghét đi vào trong trái tim và đặt họ vào tình trạng chống đối với Đức Kitô” (Homélie XLIX sur l’évangile selon saint Matthieu).

Khi suy gẫm hành động cố chấp cứng tin của dân nói chung và của dân làng Nadarét nói riêng, chúng ta có cảm nghiệm đó cũng là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới mọi thời, nơi những người cố chấp không tin.

Ngày hôm nay, trong phương diện tập thể, thế giới muốn tục hóa dù rằng mình được nuôi sống trong nền văn hóa Kitô giáo (như ở Âu châu và Bắc Mỹ) chối bỏ nguồn gốc niềm tin của mình. Trên phương diện cá thể, người có đức tin lại cảm thấy như muốn xa rời bằng cách sống niềm tin hời hợt, họ mang tâm trạng như dân gian có câu: “Bụt nhà không thiêng”. Hay họ vẫn còn niềm tin vào Thầy, vào Đức Kitô, vào Thiên Chúa nhưng cách thực hành niềm tin mang dấu ấn: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”, khi dồn sức tất cả cho giấc mơ tiền tài vật chất mà quên hoặc coi nhẹ cách thực thi đức tin theo lời giáo huấn của Thiên Chúa.

Thật thế, như Gioan thánh sử đã nói:

‘‘Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).

Hôm nay nhìn vào thái độ của dân làng Nadarét đối với Đức Kitô: Vấp phạm vì Ngài, cố chấp không tin, chúng ta cũng suy nghĩ về thái độ đức tin của chúng ta vào Ngài: Tin hay không tin trong đời sống hằng ngày. Rất có thể chúng ta đang có thái độ của dân làng Nadarét bằng cách cư xử, sống hững hờ với niềm tin chính mình, so đo thiệt hơn, ích kỷ với tính toán tiền bạc, cơm áo gạo tiền mà quên đi tin là chấp nhận sống trung thành lúc bình an hạnh phúc, đầy đủ nhưng cũng trung thành vượt khó với đức tin.

 

Suy Niệm 8: Chúa Giêsu bị khước từ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau khi đi rao giảng Tin Mừng một thời gian ngắn, hôm nay Chúa Giêsu trở về Nagiarét quê hương của Người. Người vào giảng dạy trong hội đường. Ai nấy đều cảm phục vì bao phép lạ Người làm, vì giáo lý của Người rất cao siêu và giảng dạy rất khôn ngoan. Nhưng vì họ cứ nghĩ Người là một anh thợ mộc tầm thường trong làng, mà không nhìn nhận Người là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, nên không chịu tin Lời Người. Họ có thành kiến lớn lao đối với Người. Thế nên Người không làm phép lạ nào để cứu giúp họ, mà chỉ chữa vài người bệnh, vì Người không muốn tỏ quyền năng của Người cho những kẻ đóng kín tâm hồn.
  2. Theo ông Đào Duy Anh, “Thành kiến” là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có nữa. Thành  kiến đã bóp méo sự thật, giống như người đeo kính mầu xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính mầu đỏ thì vật gì cũng đỏ.

Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi yêu thì coi mọi sự đều đẹp đều tốt, khi ghét thì mọi cái là xấu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét ca tông chi họ hàng”.

  1. Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ  vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên; do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình” (Ga 4,44).
  2. Dân làng Nagiarét không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó  có thể là Vị Cứu Tinh, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.

Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân làng Nazareth, Chúa Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay: “Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu Thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu Thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu Thế  như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.

  1. Trên đường truyền giáo, Chúa Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng.

Các nhà rao giảng Tin Mừng hãy bắt chước Chúa Giêsu mà đón nhận thái độ “Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Chúa Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy: phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi với tình thương mến.

  1. Truyện: Cậu bé R. Tagore.
  2. Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn Độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.

Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê:

– Thơ mày là thơ thẩn!

Tagore mới nghĩ ra một mưu: cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.

Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói:

– Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.

Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của ông.

Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia ra để đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.

Đến đây câu chuyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.

 

Suy Niệm 9: Thái độ không tin của người đồng hương với Chúa Giêsu

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Thánh Marcô đã từng cho thấy thái độ không tin nơi những người bà con của Chúa Giêsu (x.Mác Cô 3,20-21: họ nói Ngài mất trí và muốn bắt người về quê; Mác Cô 3,31: Họ ngăn cản Ngài rao giảng). Trong đoạn này, Mác Cô ghi nhận thêm thái độ không tin cỉa những người cùng làng với Ngài.

Lý do không tin là thành kiến “Bụt nhà không thiêng”: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria, và anh em ông không phải là Giacôbê, Giosê và Simon sao? Chị em ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta hay sao?” (câu 3)

Hậu quả của thái độ không tin: “Ngài đã không làm được phép lạ nào tại đó; Ngài chỉ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ.” (câu 5)

  1. Suy Niệm (…nẩy mầm)
  2. Ta dễ ngưỡng mộ tài năng và đức độ của những “người dưng” và coi thường những “người nhà”. Thánh Gioan tiền hô nói với dân Do Thái “Có một vị giữa các ông mà các ông không biết” (Gioan 1,26). Trong nếp sống cộng đoàn thái độ này không có thái độ khuyến khích và tôn trọng lẫn nhau.

“Gần chùa gọi bụt bằng anh”. phải chăng vì Chúa quá gần và quá dễ dãi với chúng ta nên ta coi thường Chúa?

  1. Tin vào một Chúa Giêsu đang làm những phép lạ hiển hách ở Cá-phác-na-um thì dễ hơn là tin vào một Chúa Giêsu là bác thợ mộc, là anh chị em ta. Bài Tin Mừng hôm nay khuyến khích chúng ta làm điều thứ hai, tức là tin vào Chúa Giêsu trong đời thường, trong công việc, trong anh chị em…

Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sỹ ấn giáo tại chân núi Hymãlạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông: Trước đây tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn nhận thêm người tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà tu viện bây giờ chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sỹ thì lèo tèo vài người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sỹ ấn giáo cho biết nguyên nhân hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện đến tình trang trên đây. Tu sỹ ẩn giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Và ông giải thích: “Chúa Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài”.

Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và thông báo cho họ biết Chúa Cứu Thế đang cải trang thành một ngươì trong nhà. Các tu sỹ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Chúa Cứu Thế cải trang vậy? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ có thể là Chúa Cứu Thế.

Vậy từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Chúa Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm tin đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (Trích “Món quà Giáng Sinh”)

  1. “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4)

Ra trường với mảnh bằng sư phạm trong tay, tôi được cử dạy tại một ngôi trường gần nhà. Tôi rất sung sướng vì khỏi phải đi xa. Tôi dã cố gắng vận dụng mọi kiến thức và khả năng để giảng dậy cho các em, và điều đó làm cho tôi rất vui.

Một ngày kia, tình cờ tôi nghe thấy các em nói với nhau: “Ổng ở gần nhà tao đó. Mày có biết không, hồi nhỏ ổng dốt lắm, anh tao nói môn toán “xơi ngỗng” hoài!”.

Từ ngày đó, tôi phải chấp nhận những ánh mắt nghi ngờ, những dấu chấm hỏi làm nhức nhối con tim. Dù sao tôi vẫn không thể thoái nhiệm hay dễ dàng rời xa lý tưởng của mình.

Cầu nguyện: Xin giúp con theo Chúa đến cùng trên con đường yêu thương và phục vụ, dù có bị rẻ rúng giữa những người mà con đã hết lòng yêu thương và phục vụ. (Epphata)

 

Suy Niệm 10: Chúa Giêsu bị người đồng hương chống đối

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Thông thường ta dễ ngưỡng mộ tài năng và đức độ của những “người dưng” và coi thường những “người nhà”. Thánh Gioan Tiền Hô nói với dân Do Thái “Có một vị giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26).

“Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Phải chăng vì Chúa quá gần và quá dễ dãi mà người ta đã coi thường Chúa?

Tin vào một Chúa Giêsu đang làm những phép lạ hiển hách ở Capharnaum thì dễ hơn là tin vào một Chúa Giêsu là con bác thợ mộc, là anh chị em với mình.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta, hãy biết tin vào Chúa Giêsu trong đời thường, trong công việc, trong anh chị em… hơn là tin vào một Chúa Giêsu ở ngoài cuộc sống của chúng ta.

  1. Chúa Giêsu đã phải đau xót mà nhắc lại một câu ngạn ngữ “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4).

Đi đâu Chúa Giêsu cũng được ca tụng tôn vinh, nhưng khi trở về quê hương mình thì lại bị coi thường.

Tại sao thế?

Con người thường có thói để cho những thành kiến chi phối mình.

Những người ở Nazareth đã làm cho Chúa Giêsu không làm được những phép lạ nào. Một sự thiệt thòi không đáng xảy ra nhưng nó đã xảy ra vì sự suy nghĩ hẹp hòi của họ.

Nếu chúng ta cũng như thế thì chúng ta sẽ làm mất đi rất nhiều niềm vui trong cuộc sống của chúng ta. Hãy biết đón nhận cuộc sống đang sống với tất cả lòng yêu thương và quảng đại. Lúc đó chúng ta sẽ thấy được cuộc sống quả là một hồng ân.

Trong kho tàng những câu chuyện cổ của người Đức, người ta đọc được câu chuyện này:

Có một nhà hiền triết nọ, chuyên cố vấn giúp đỡ những ai gặp buồn phiền, chán nản trong cuộc sống. Bất cứ ai đến xin chỉ bảo cũng đều nhận được từ ông những lời khuyên thiết thực…

Một hôm, có một người thợ may mặt mày thiểu não chạy đến xin ông giúp đỡ. Gia đình ông gồm có ông, vợ ông và 7 đứa con trai nhỏ. Tất cả chen chúc nhau trong một căn nhà gần như đổ nát. Người vợ phải la hét suốt ngày vì sự quấy phá của 7 đứa con. Xưởng may của ông lúc nào cũng lộn xộn, bẩn thỉu vì những nghịch ngợm của lũ trẻ. Thêm vào đó là những tiếng la hét, khóc nhè suốt ngày, khiến người thợ may không thể chú tâm làm việc được.

Nghe xong câu chuyện, nhà hiền triết mới đề nghị với người thợ may như sau:

– Anh hãy ra chợ mua cho kỳ được một con dê, rồi dắt nó về cột ngay trong xưởng may của anh.

Người đàn ông đáng thương không đoán được ẩn ý của nhà hiền triết, nhưng vẫn đặt tất cả tin tưởng vào ông, cho nên anh về thu góp hết tiền của trong nhà để ra chợ mua cho kỳ được con dê.

Chúng ta hãy thử tưởng tượng: sự hiện diện của con dê trong xưởng may sẽ giúp được gì cho anh ta? Con vật hôi hám ấy không những không giúp được gì mà còn phóng uế nhơ bẩn kêu la be be om xòm suốt ngày. Cái xưởng may của anh ta vốn đã ồn ào nay lại biến thành một chuồng súc vật bẩn thỉu không thể chịu được…

Người thợ may lại đến than phiền với nhà hiền triết vì sự hiện diện của con dê. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới bảo anh:

– Anh hãy tức khắc mang nó ra chợ và bán lại cho người khác.

Người đàn ông cảm thấy như nhẹ nhõm cả người. Anh dắt con vật ra chợ. Trong khi đó, ở nhà, vợ anh mang nước vào tẩy uế cái xưởng may. Bảy đứa nhóc con của anh bắt đầu trở lại xưởng may và hò hét trở lại. Khi về đến nhà, người đàn ông nhìn xuống sàn nhà của xưởng may rồi mỉm cười nhìn những đứa con trai của anh đang chạy nhảy la hét. Anh tự nhủ: dù sao, tiếng la hét của mấy đứa con của mình, so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn, vẫn dễ chịu hơn nhiều. Anh nở một nụ cười thật tươi vì chưa bao giờ anh cảm thấy hạnh phúc bằng ngày hôm đó.

Theo tâm lý thông thường, thì chúng ta dễ có thái độ “đứng núi này nhìn núi nọ”. Những cái quen thuộc, những cái trước mặt, những cái thường ngày, những cái nhỏ bé thường dễ bị khinh thường…

Không ai trong chúng ta được chọn lựa cha mẹ để sinh ra làm người. Mỗi người chúng ta đều vào đời với một hành trang có sẵn. Chúa mời gọi chúng ta đón nhận cuộc đời như một hồng ân của Chúa. Ngài mời gọi chúng ta đón nhận từng phút giây của cuộc sống như một ân huệ…

Nói như thánh Phaolô “tất cả đều là ân sủng của Chúa”: tất cả đều phải được đón nhận với lòng biết ơn và tín thác. Có như thế, chúng ta mới có thể thấy niềm vui cho cuộc sống mình, bằng không thì suốt đời sẽ chỉ là những bất mãn, những chán nản, những thất vọng và cuộc đời như thế sẽ chẳng được chúc phúc như những người Nazareth trong bài Tin Mừng hôm nay.

 

THỨ NĂM TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mc 6, 7-13

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế.

Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ”.

Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.

 

Suy Niệm 1: Không được mang gì

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Đức Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai

để họ ở với Ngài và để được Ngài sai đi rao giảng và trừ quỷ (Mc 3, 14-15).

Bây giờ, sau một thời gian sống gần gũi bên Thầy,

đã đến lúc họ được sai đi để làm những điều họ thấy Thầy làm:

kêu gọi người ta hoán cải, trừ quỷ, xức dầu chữa bệnh nhân (cc. 12-13).

Các môn đệ trở nên cánh tay nối dài của Thầy.

Họ được Thầy Giêsu tin tưởng cho chia sẻ cùng một sứ mạng.

Các môn đệ mang gì khi lên đường?

Một lệnh sai đi, một người bạn đồng hành, một quyền lực trên thần ô uế.

Đức Giêsu cho phép họ mang một cái gậy và đôi dép để đi đường xa.

Tất cả hành trang chỉ có thế!

Những thứ bị cấm mang khi đi đường

là những thứ vốn tạo ra sự bảo đảm hay dư thừa không cần thiết:

lương thực, bao bị, tiền giắt lưng, hai áo trong.

Như thế người được sai đi phải hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa lo liệu,

và phải hoàn toàn cậy dựa vào lòng tốt mỗi ngày của tha nhân.

Nhẹ nhàng, đơn sơ là thái độ của người luôn sẵn sàng ra đi.

Siêu thoát, vô vị lợi là thái độ của người không dính bén với vật chất.

Người tông đồ cũng không dính bén đến cơ sở hay tiện nghi.

Họ không tìm cách đổi chỗ ở để có chỗ tốt hơn (c. 10).

Hơn nữa họ chấp nhận sự thất bại, sự từ chối không muốn đón tiếp (c.11),

vì chính Thầy của họ cũng đã chịu cảnh ngộ tương tự ở quê nhà.

Nhóm Mười Hai đã ra đi theo lệnh Thầy Giêsu

và đã làm được những điều họ không dám mơ (cc. 12-13).

Họ đã học được kinh nghiệm về tin tưởng, khó nghèo, siêu thoát.

Họ đã thấy sức mạnh của Nước Trời đang thu hẹp lại mảnh đất của Satan.

Họ đã đem lại niềm vui cho bệnh nhân và người khao khát Tin Mừng.

Giáo Hội mọi thời vẫn được nhắc nhở từ đoạn Lời Chúa trên đây.

Chẳng ai giữ từng chữ của bản văn, nhưng tinh thần thì không được bỏ.

Sự nhẹ nhàng, cơ động của một Giáo Hội đến phục vụ con người,

luôn kéo chúng ta ra khỏi những nặng nề, trì trệ dễ vướng phải.

Hôm nay Chúa cho phép tôi được mang gì

và cấm tôi mang gì?

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin sai chúng con lên đuờng

nhẹ nhàng và thanh thoát,

không chút cậy dựa vào khả năng bản thân

hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm đuợc những gì Chúa đã làm:

rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,

chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng

với niềm vui của người tìm đuợc viên ngọc quý,

biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng

đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ

của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,

thế giới thật bao la

mà vòng tay chúng con quá nhỏ.

Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau

mà tin tưởng lên đuờng,

nhẹ nhàng và thanh thoát.

 

Suy Niệm 2: Vương quyền

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đa-vít là vị vua đạo đức. Chúa hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Vương quyền thuộc về nhà ông mãi mãi. Nếu con cháu ông đi trong đường lối của Chúa. Ý thức điều đó nên trước khi lìa đời Đa-vít kỹ lưỡng dặn dò Sa-lô-môn: “Hãy tuân giữ các huấn lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người, như đã ghi trong Luật Mô-sê. Như thế con sẽ thành công trong mọi việc con làm và trong mọi hướng con đi, và Đức Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán với cha rằng: “Nếu con cái ngươi sống cho phải đạo, là hết lòng hết dạ bước đi trung thực trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en”“(năm chẵn).

Lời hứa đó đã ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Nhưng đã đổi mới. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng khai mạc một vương quốc mới. Không phải vương quốc trần thế. Nhưng vương quốc trên trời. Không còn cai trị Ít-ra-en cũ với 12 chi tộc. Nhưng một dân mới đặt trên nền tảng 12 tông đồ. Không còn chiến đấu với các dân nước lân bang. Nhưng chiến đấu với thần ô uế, với quỉ dữ. Không còn giữ luật Mô-sê. Nhưng tuân giữ Lời Chúa. Không cậy dựa vào sức mạnh trần gian. Nhưng tin vào sức mạnh của Thiên Chúa. Không chỉ làm cho dân được an cư lạc nghiệp. Mà còn cho dân được an vui hạnh phúc. Nhưng để được làm dân trong vương quốc mới của Thiên Chúa, ta phải ăn năn sám hối. Từ bỏ lối sống cũ trong tội lỗi. Để sống đời sống mới trong ân sủng, thánh thiện. “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”.

Vương quyền của Chúa Giê-su bền vững muôn đời. Vương quyền Người nhận được vì đã đổ máu ký kết giao ước mới: “Máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben”. Ta được trở thành công dân mới. Sống trong “thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời”. Nơi đó ta không còn bị tà thần ám ảnh. Vì ta sống “với muôn vàn thiên sứ”. Nơi đó ta “tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện”. Ta tới vương quốc hạnh phúc muôn đời: “Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”.

 

Suy Niệm 3: Sứ mệnh tông đồ

Một tôn giáo chỉ tồn tại, nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người gia nhập. Kitô giáo do Chúa Giêsu thiết lập cũng nằm trong diện đó. Dưới con mắt Chúa, mỗi linh hồn đều có giá trị như nhau và mỗi người đều được sai đi tìm những con chiên lạc và dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi. Ngài ý thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải để bị vất vào lò lửa đời đời, nhưng là để được thu vào kho lẫm. Do đó, mối bận tâm lớn nhất của Ngài khi đến thế gian chính là đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người.

Từ trước tới giờ, Ngài vẫn làm việc đó một mình, nhưng nay vì tính cách khẩn thiết của việc tông đồ, Ngài cần có những con người cộng tác: Mùa gặt bề bộn, mà thợ gặt thì ít. Sứ mệnh tông đồ từ nay được trao cho họ. Sứ mệnh đó thật cao cả và cấp bách, vì thế Chúa đòi hỏi nơi họ sự thoát ly trọn vẹn, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Ra đi một cách thảnh thơi, không bồn chồn, không bối rối, không bận tâm đến bị, đến tiền. Không những thế, họ còn phải hy sinh tất cả cho sứ mệnh, đo lường mọi sự theo lợi ích của Nước Thiên Chúa. Họ chấp nhận giao tiếp với thế gian nếu đó là cơ hội để phổ biến sứ điệp, họ không mưu cầu tư lợi, nhưng dũ bỏ hết những gì không liên quan đến sứ mệnh, chỉ như thế, họ mới có thể đạt tới trình độ siêu thoát và dễ dàng chinh phục các linh hồn về cho Nước Chúa.

Mỗi người chúng ta cũng được kêu gọi vào sứ mệnh tông đồ, chúng ta có ý thức sứ mệnh cao cả ấy không? Các linh hồn được cứu rỗi hay bị luận phạt, một phần lớn tùy thuộc vào đời sống của chúng ta. Ðiều đó có thể làm chúng ta run sợ, nhưng nếu chúng ta nhiệt tâm mở rộng Nước Chúa nơi các tâm hồn, chúng ta sẽ được an tâm, không ai có thể trách chúng ta đã đùa giỡn với số phận đời đời của họ, và các linh hồn sẽ là triều thiên cho chúng ta trong ngày Chúa vinh quang ngự đến.

Chúng ta hãy sống kết hiệp với Chúa. Tất cả hoạt động của chúng ta sẽ chẳng có giá trị gì, nếu không bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Càng kết hiệp với Chúa, chúng ta càng có khả năng chu toàn bổn phận người tông đồ giữa dân Chúa, và như vậy chắc chắn chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa hứa cho người thợ tận tâm, nhiệt tình cho Nước Chúa trị đến.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Nếp sống nghèo cần thiết

Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. (Mc. 6, 7-8)

Hôm nay các Tông đồ bắt đầu thực tập công việc truyền giáo. Các ông đã được thấy Chúa làm, nghe Chúa nói, thì giờ đây đến lượt các ông nói và làm. Tuy thời kỳ huấn luyện các ông còn chưa xong – chỉ đến ngày Lễ Hiện Xuống công việc này mới kết thúc – nhưng các ông đã có thể thử nghiệm cho biết cuộc đời truyền giáo là thế nào.

Khi sai đi truyền giáo, Đức Giêsu đã dặn dò, chỉ thị cho các Tông đò nhiều điều. Chúng ta sẽ lưu ý hai sự kiện có ý nghĩa này: dặn dò sống khó nghèo và làm cho xong công việc.

Đừng mang theo gì cả

Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ không được mang theo gì cả; các ông phải ra đi không cồng kềnh vướng vít, không mang theo ngay cả đồ ăn thức uống nữa.

Tôi nghĩ: xem ra đây là một điều kiện để người truyền giáo có được thảnh thơi. Ra đi không hành lý, chính là từ chối kéo theo mình những gì là riêng tư, là không khui và phô ra trước mặt người khác, tiền bạc, của cải, uy thế của mình… Ra đi không hành lý là muốn nói lên rằng chỉ có bản thân, tư cách con người truyền giáo mới là chiếc xe tốt cần thiết cho việc đi rao giảng Tin mừng. Làm chứng là nói bằng chính con người và đời sống của mình, chứ không phải bằng nhừng lời nói xuông mà thôi, nghĩa là sống sao thì dạy vậy, và dạy sao thì sống vậy.

Một khía cạnh khác nữa của nếp sống nghèo cần có đối với người truyền giáo là chấp nhận lòng hiếu khách của người ta, sẵn lòng khi được người ta mời. Người ta dễ đón nhận mình hơn khi ta không choán hết chỗ của họ!

Ta đến không mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh, người ta sẵn lòng đón tiếp ta; hai việc này thường đi đôi với nhau. Ai cũng biết rõ rằng nếu ta tới nhà họ với đôi bàn tay trống – ngoại trừ chứng từ của đời sống ta – thì sự tiếp đón của họ mới thật trong sáng: người ta sẽ tỏ ra quan tâm đến chứng từ, chứ không phải vì món đồ nào đó được cất dấu trong những chiếc va-li của ta.

Làm cho xong công việc

Các Tông đồ đều là những người mới vào nghề; việc các ông làm chẳng phải là điều mắt thấy tai nghe: xức dầu cho vài người bệnh, săn sóc cho mấy bệnh nhân, úy lạo những người khốn khổ, thất vọng.

Có lẽ chúng ta quá tán dương việc các Tông đồ làm, nên đâm ra nhát sợ không có khả năng làm chứng như các ngài. Lần này, ta hãy cứ tạm biết rằng các ngài cũng đã chỉ làm những việc bình thường mà ta có thể làm được, và trước hết các ngài đã trở thành những bàn tay săn sóc, trước khi miệt mài với công việc rao giảng.

Lúc này đây, Chúa Giêsu đang bảo ta: “Nào con, ta đi làm việc thôi, và hãy làm với tinh thần đơn sơ mà can đảm!”.

 

Suy Niệm 5: Giảng gì? Giảng như thế nào?

Sau khi được Đức Giêsu gọi và chọn các môn đệ, các ông đã ở lại với Ngài một thời gian, nay Ngài sai họ đi để rao giảng Tin Mừng.

Đức Giêsu truyền cho họ đi rao giảng, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ biết giảng điều gì, và giảng như thế nào!

Về nội dung lời giảng: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Đây cũng chính là sự tiếp nối lời giảng dạy của Đức Giêsu và của Gioan Tiền Hô.

Về cách giảng:

– Trước tiên, để lời giảng của các ông có giá trị, họ phải là chứng nhân.

– Thứ đến, chữa lành thể xác bằng việc chữa bệnh.

– Cuối cùng, giải thoát con người khỏi xiềng xích trói buộc của Ma Quỷ.

Về thái độ, tác phong của người môn đệ: người thừa sai phải là người nghèo. Nghèo để thanh thoát; để liên đới; để tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.

Người đi theo Chúa phải là người luôn luôn xây dựng và cổ võ sự hiệp nhất, sống tình huynh đệ và yêu thương, trở nên chứng nhân cho Lời Chúa bằng hành động.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo. Nhưng trước tiên, xin cho chúng con biết sống nghèo, tin tưởng, phó thác nơi Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Được Chúa sai đi rao giảng

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tông đồ là người được Chúa sai đi, được giao nhiệm vụ rao giảng ơn cứu độ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên thế giới và dựng nên con. Con thật nhỏ bé giữa vũ trụ mênh mông rộng lớn này. Ai cũng có một mảnh đời riêng, một khoảng hẹp riêng cho đời mình. Dù không là gì so với vô tận không gian, con vẫn biết rằng Chúa không bỏ quên mỗi một người trong chúng con. Đàng khác, dù con có muốn lẩn trốn vào góc quên lãng, muốn cuộn mình vào trong lớp vỏ lặng câm, vì mặc cảm nhỏ nhoi hèn kém, thì con vẫn không thể tránh khỏi cái nhìn yêu thương của Chúa.

Chúa đã sai các tông đồ đến với chúng con, gọi chúng con bước ra khỏi vỏ bọc của mình, khiến trái tim khép kín phải mở cửa nhảy mừng, khiến môi miệng lặng câm phải cất vang lời hát, và khiến mọi khao khát được no thỏa niềm vui. Các mục tử chính là sự hiện diện sống động của Chúa giữa đàn chiên, là những người được Chúa sai đến tới mọi ngõ ngách của thế giới này. Qua các ngài, chính con cũng được sai đi để đến với anh em mình, nhìn vào mắt nhau để nói lời yêu thương, cầm tay nhau mà sánh bước về Nước Chúa. Như vậy, con sẽ chìm lặng trong sự hủy diệt nếu con quay mặt làm ngơ trước sự săn sóc của Chúa. Trái lại, khoảng hẹp đời con sẽ rộng mở thênh thang nếu con đón lấy ánh lửa yêu thương Chúa gửi đến với con.

Lạy Chúa, con mong sao được là ngọn lửa thắp lên từ lửa tình yêu của Chúa, và được sai đi để thắp sáng cuộc đời anh em, biến những khoảnh khắc thành vĩnh cửu, biến những vui buồn mau qua thành hạnh phúc đời đời. Xin Chúa chúc lành cho ý nguyện của con. Amen.

Ghi nhớ: “Người bắt đầu sai các ông đi”.

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai đi

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Cha Piô Ngô Phúc Hậu vị tông đồ truyền giáo vùng sông nước mênh mông, đất đai thẳng cánh cò bay hiu quạnh ở vùng cực nam của Tổ quốc, cha chia sẻ về một trong những kinh nghiệm truyền giáo: Mình xách môbylét đi một đường, vừa đi vừa liếc, lòng thầm cầu nguyện để Chúa chọn cho người truyền giáo một nơi dừng chân. Tự nhiên lòng mình thấy ấm hẳn lên khi nhác thấy một căn nhà lá có trồng cây lựu ở phía trước. Trái lựu to bằng nắm tay đang đánh đu theo gió. Như một phản xạ, mình lái môbylét vào tới hàng ba, làm bộ ngắm nghía cây lựu. Bà chủ nhà, nét mặt hiền từ, mái tóc muối tiêu, nghe tiếng xe nổ và tắt máy vội vàng chạy ra.

– Thầy kiếm ai đó?

– Chào bác. Cây lựu nhà bác dễ thương quá, cho tôi ngắm một tí.

– Thì vô trong nhà uống nước đã.

– Bác thứ mấy để tôi xưng hô cho dễ.

– Tôi thứ năm. Thứ của ông nhà tôi.

– Thế bác trai đi đâu rồi, bà Năm?

– Ông tôi mất từ lâu rồi.

– Bây giờ bà Năm ở với ai?

– Có hai bà cháu à. Thầy ở đâu mà vô đây?

– Tôi ở Ô Môn vô đây dạy giáo lý. Sáng vô, chiều về. Đi tới đi lui thấy bất tiện quá. Tôi muốn ở lại đây luôn, mà chưa kiếm được chỗ nào ở cho thuận lợi.

– Thì thầy ở đây với tôi. Nhà rộng rinh à. Thầy ở đây thì cũng như con cháu trong nhà chứ gì.

– Thế bà Năm theo đạo nào?

– Tôi chẳng theo đạo nào hết. Thờ ông bà vậy thôi.

– Cám ơn Chúa. Cám ơn bà Năm. Vậy ngày mai tôi vô ở luôn nhá.

– Ừa (Trích Nhật ký Truyền giáo, Bà Năm).

Suy Niệm

Người môn đệ được sai đi, hành trang duy nhất là sự nhiệt thành và lòng tin thác cậy trông. Mang tâm tình của Đức Kitô truyền cho các môn đệ: “Đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”. Người lại bảo: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi”…

Thánh Gioan Kim Khẩu Suy Niệm lệnh truyền của Chúa trên các tông đồ: “Ngài phòng giữ cho các môn đệ khỏi mọi sự nghi ngờ của những ý niệm trần gian lưu tâm; Ngài cất đi nơi các ông khỏi mọi sự lo toan trần thế, để toàn tâm lo việc Lời Chúa, và Ngài làm cho các ông biết quyền năng và sự chăm sóc mà Ngài dành cho họ”. Thật thế, đêm hôm trước cuộc tử nạn, Ngài chất vấn các ông về sự quan tâm của chính Ngài: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22,35)… Sau khi đã trang bị cho các ông những quyền lực cần thiết cho sứ vụ, Ngài ra lệnh cho các ông để lại tất cả những gì không cần thiết” (Theo Homélie XXXII sur l’évangile selon saint Matthieu, 4). Để lại những lo toan trần thế, không cần thiết để làm “nhẹ bớt”, sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần như Đức Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nhận định: “Hãy cắt đứt xích xiềng ràng buộc con, dù là xích vàng, để tiến tới. Cuối đường có Chúa đón chờ con” (ĐHV số 179).

Làm việc tông đồ một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Vì thế Chúa Giêsu nói đến hình ảnh sai hai người ra đi. Trong Công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành với nhau: Phêrô và Gioan (x.Cv 3,1; 4,13); Phaolô và Barnabê (x.Cv 13,2); Giuđa và Sila (x.Cv 15,22b)…

Chúa gọi và sai người môn đệ. Người tín hữu qua bí tích Rửa Tội cũng được gọi sai đi. Mỗi ngày, hay ít là Chúa nhật, chúng ta tham dự thánh lễ, Missa – Messe, chữ Messe- Missa – thánh lễ có nghĩa là “sự sai đi” như lời truyền: “Anh hãy đi! Anh em được sai đi” “Ite, Missa est”. Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống sai đi và trao cho mọi người chúng ta. Sai đi để sinh hoa kết quả tôn vinh Thiên Chúa như lời mời gọi: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15,8), đó là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu như Chúa nói: “Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại”(Ga 15,16).

Thật thế, đời con là một sự ra đi, ra đi tiến vào đời vì được sai như lời ca được tấu lên tiễn bước con: “Ngài sai tôi đi vào đời, niềm tin vui gieo lòng người, Ngài sai tôi đi mọi nơi…”.

 

Suy Niệm 8: Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau một thời gian huấn luyện, hôm nay Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Chúa sai các ông đi từng hai người một, ban cho các ông có quyền chữa bệnh và khử trừ ma quỉ. Người không cho các ông mang theo gì, trừ ra cây gậy và đôi dép, để các ông hoàn toàn phó thác vào Người. Người dặn bảo các ông: đến nơi nào thì cứ kiên trì ở đó giảng  và làm phúc cho họ. Nếu nơi nào người ta không chịu nghe lời thì hãy đi nơi khác, nhưng hãy cảnh cáo cho họ biết lỗi của họ.
  2. Hôm nay các Tông đồ bắt đầu thực tập công việc truyền giáo. Trong thời gian qua, các ông đã được trong thấy việc Chúa làm, Chúa giảng dạy… thì giờ đây đến lượt các ông phải nói và làm. Tuy thời kỳ huấn luyện  các ông còn chưa xong – chỉ đến ngày lễ Hiện Xuống việc này mới kết thúc – nhưng các ông có thể thử nghiệm cho biết cuộc đời truyền giáo là thế nào.
  3. Chúa muốn các ông sống khó nghẻo và đơn sơ phó thác.

Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ không được mang theo gì cả, các ông phải ra đi không cồng kềnh vướng vít, không mang theo ngay cả đồ ăn thức uống nữa.

Xem ra đây là một điều kiện để người truyền giáo có được thảnh thơi. Ra đi không hành lý, chính là từ chối kéo theo mình những gì là riêng tư, và phô ra trước mặt người khác, tiền bạc, của cải, uy thế của mình… Ra đi không hành lý là muốn nói lên rằng chỉ có bản thân, tư cách con người truyền giáo mới là chiếc xe tốt cần thiết cho việc đi rao giảng Tin Mừng. Làm chứng là nói bằng chính con người và đời sống của mình, chứ không phải bằng những lời nói xuông mà thôi, nghĩa là sống sao thì dạy vậy, và dạy sao thì sống vậy.

  1. Một khía cạnh khác của nếp sống nghèo cần có đối với người truyền giáo là chấp nhận lòng hiếu khách của người ta, sẵn lòng khi được người ta mời. Người ta dễ nhận mình hơn khi ta không choán hết chỗ của họ. Ta đến không mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh, người ta sẵn lòng đón tiếp ta; hai việc này thường đi đôi với nhau. Ai cũng biết rõ rằng nếu ta tới nhà họ với đôi bàn tay trống – ngoại trừ chứng từ của đời sống ta – thì sự tiếp đón của họ mới thật trong sáng: người ta sẽ tỏ ra quan tâm đến chứng từ, chứ không phải vì món đồ nào đó được cất giấu trong những chiếc Va-li của ta.
  2. Chúa muốn các nhà truyền giáo làm chứng cho Người.

Mỗi người chúng ta có trách nhiệm phải thi hành sứ mạng tiên tri nghĩa là phải làm chứng cho Chúa Giêsu như lời Người dạy: “Các con là chứng nhân của Thầy”. Rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa không phải chỉ dùng lời nói suông nhưng phải dùng cả đời sống, cả con người của mình để làm chứng, vì con người chúng ta là phương tiện hữu hiệu để chỉ cho người ta biết Thiên Chúa. Vì vậy, mỗi người phải có đời sống gương mẫu để xứng đáng là “chứng nhân” của Chúa, ngược lại chỉ là những“phản chứng” thôi. Cho nên chúng ta có thể nói: cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.

Về phương diện này có người kể lại rằng: “Đã có lần Lénine nói về thánh Phanxicô Assisi: “Để có thể thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích Mỗi ngày một Tin vui”).

  1. Chúa cũng muốn chúng ta phải làm chứng nhân cho Chúa.

Mỗi công việc đều có phương tiện để đạt tới mục đích. Trên thế giới này có biết bao nhiêu ngàng nghề, biết bao lãnh vực cho nên có vô vàn vô số những phương tiện thích hợp. Trong lãnh vực truyền giáo, Chúa cũng dùng đủ mọi phương tiện để nhờ đó người ta có thể nhận biết Chúa, nhưng phương tiện sống động và hữu hiệu nhất là chính con người chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa.

Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.

  1. Truyện: Thánh Phanxicô Assisi giảng đạo.

Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi nói với thầy dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo”. Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà”!

Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao”?

Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ (Góp nhặt).

 

Suy Niệm 9: Để họ đi rao giảng

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Trước đây Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ, mục đích là “để họ ở với Ngài và để Ngài sai họ đi rao giảng” (Mác Cô 13,14). Vậy sau khi họ đã “ở với Ngài” một thời gian, nay Ngài “sai họ đi rao giảng”. Đây Là những người còn non yếu, cho nên trước khi họ ra đi, Chúa chỉ dẫn họ những điều cần thiết.

Mục đích lần sai đi này là “để họ đi rao giảng”. Họ phải giảng điều gì và giảng thế nào?

– Về nội dung lời giảng, Thánh Marcô tóm lược trong công thức rất gọn “các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Như thế, đây là nôi dung chính, tất cả những lời rao giảng khác đều qui về nội dung chính này. Hơn nữa, đây cũng chính là nội dung rao giảng của Chúa Giêsu (x. Mác Cô 1, 15) và của Gioan Tiền Hô (x. Mác Cô 1,14).

– Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn bằng

a/ việc làm chứng (c7: họ đi từng nhóm hai người, đúng qui định của luật lệ Môisê và điều kiện để sự làm chứng có giá trị);

b/ việc giải thoát người ta khỏi xiềng xích của thế lực gian tà (“trừ Quỷ”);

c/ việc giải thoát người ta khỏi đau khổ thể xác (“chữa bệnh”).

– Những chỉ dẫn về tác phong người rao giảng có thể toám lại trong hai điều: nghèo và tin tưởng vào Chúa quan phòng.

  1. Suy Niệm (…nẩy mầm)
  2. Cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là một cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.

Đã có lần Lênin nói với thánh Phanxicô Assisi “Để có thể làm thay đổi bộ mặt Thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích “mỗi ngày một tin vui”)

  1. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi “từng hai người một”. Việc truyền giáo là việc là của tập thể và phải làm trong tinh thần cộng tác với nhau.

Có những người làm việc Chúa những không theo tinh thần ấy: họ làm theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân, không thích bị người khác kiểm soát, không muốn người khác chia sẽ thành công…

Ngày kia, Thánh Phanxicô Assisi nói với một thầy dòng: “nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo”. Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác và về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe Ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!”

Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồng của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?”

Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chính tá của họ. (Góp nhặt)

  1. “Nơi nài người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì ra khỏi nơi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” (Mc 6,11)

Để tiện việc ôn thi đại học của đứa em, tôi phải thuê nhà trọ ở gần trường và ở chung với nó. rồi một buổi tối, trời mưa như trút nước, ba mẹ con hành khất đến xin chủ nhà cho ngủ trọ. Người chủ nhà từ chối và tìm cách đuổi khéo.

Nhìn bóng ba mẹ con hành khất khuất dần trong bóng tối, tôi cảm thấy sức nặng của Tin Mừng và những đòi hỏi quyết liệt của nó. Giả như các môn đệ của Chúa đến với tôi không bị, không bánh, không tiền, liệu tôi có thể tiếp nhận các Ngài không? Rất có thể một lần nữa, các Ngài sẽ bị xua đuổi hay khước từ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra Chúa nơi tất cả mọi người nhất là những người cùng khổ, để luôn ân cần đón tiếp mọi người. (Epphata)

 

Suy Niệm 10: Nội dung, tác phong và cách rao giảng

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ, mục đích là “để họ ở với Ngài và để Ngài sai họ đi rao giảng”.

Họ phải giảng điều gì và giảng thế nào?

Về nội dung lời giảng, Thánh Marcô tóm lược trong công thức rất gọn: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 6,12).

– Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn bằng những việc làm cụ thể.

– Tác phong của người rao giảng: Biết sống nghèo và tin tưởng vào Chúa quan phòng.

Cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là một cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.

Đức Thánh cha Phaolô VI: “Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì vì những vị thầy này là những chứng nhân”.

Đã có lần Lênin nói về thánh Phanxicô Assisi như thế này: “Để có thể làm thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích “mỗi ngày một tin vui”).

Ngày kia, Thánh Phanxicô Assisi nói với một thầy dòng:

– Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.

Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi:

– Con nghe cha nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!

Thánh Phanxicô đáp:

– Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế, chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?

Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ. (Góp nhặt)

Người rao giảng Tin Mừng phải thực sự là người cảm nghiệm được một cách sâu xa niềm vui của một cuộc sống siêu thoát. Có như vậy, họ mới có thể thanh thản sống cuộc đời làm chứng cho Tin Mừng

Một ngày nọ, người cha giàu có dẫn con trai đến vùng quê để thằng bé thấy những người nghèo ở đây sống như thế nào. Họ tìm đến nông trại của một gia đình nghèo nhất nhì vùng.

Đây là một cách để dạy con biết quí trọng những người có cuộc sống cơ cực hơn mình – Người cha nghĩ đó là bài học thực tế tốt cho đứa con bé bỏng của mình.

Sau khi ở lại và tìm hiểu đời sống tại đây, họ lại trở về nhà. Trên đường về, người cha nhìn con trai mỉm cười:

– Chuyến đi như thế nào hả con?

– Thật tuyệt vời bố ạ!

– Con đã thấy người nghèo sống như thế nào rồi đấy!

– Ô, vâng rất tuyệt!

– Thế con rút ra được điều gì từ chuyến đi này?

Đứa bé không ngần ngại:

– Con thấy chúng ta có một con chó, họ có tới bốn con. Nhà mình có một hồ bơi dài đến giữa sân, còn họ thì có cả một con sông dài bất tận. Chúng ta phải đưa những chiếc đèn lồng vào trong vườn, còn họ thì có cả một bầu trời sao lấp lánh suốt đêm. Mái hiên nhà mình chỉ đến trước sân, còn họ thì nhà cửa rộng tít đến cả chân trời. Chúng ta có một miếng đất để sinh sống, còn họ thì có cả những cánh đồng trải dài. Chúng ta phải có người phục vụ, còn họ lại phục vụ người khác. Chúng ta phải mua thực phẩm, còn họ lại trồng ra những thứ ấy. Chúng ta có những bức tường bảo vệ xung quanh, còn họ có những người bạn láng giềng che chở nhau…

Đến đây người cha không nói gì cả.

– Bố ơi, con đã biết chúng ta nghèo như thế nào rồi. Cậu bé nói thêm.

Rất nhiều khi chúng ta đã quên mất những gì mình đang có và chỉ luôn đòi hỏi những gì mình chưa có hay không có. Có những thứ không giá trị với người này nhưng lại là mong mỏi của người khác, điều đó còn phụ thuộc vào cách nhìn và cách đánh giá của mỗi người. Xin Chúa cho chúng ta đừng quá lo lắng, chờ đợi vào những gì chúng ta không có hay sẽ có, mà bỏ quên những điều chúng ta đang có, dù chúng là những gì rất nhỏ nhoi. Có như thế chúng ta mới thấy cuộc đời có nhiều niềm vui và mới hăng say trong sứ mạng tông đồ.

  1. Goethe nói: “Sự chiếm hữu có ý nghĩa gì đâu. Sự ưng thuận mới là tất cả”

Giữa một thế giới

chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,

xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.

Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,

xin cho con đừng thu tích của cải.

Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,

xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.

Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,

xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,

xin cho con nghe được lời mời của Chúa:

“Các con hãy cho họ ăn đi”.

Ước gì chúng con dám trao

tất cả những gì chúng con có cho Chúa,

để Chúa trao tất cả những gì Chúa có

cho chúng con và cho cả nhân loại. Amen.

 

THỨ SÁU TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN

 Lời Chúa: Mc 6, 14-29

Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: “Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng”; kẻ thì bảo: “Ðó là Êlia”; kẻ khác lại rằng: “Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác”. Nghe vậy, Hêrôđê nói: “Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại”.

Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: “Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình”. Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe.

Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: “Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho”, và vua thề rằng: “Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho”. Cô ra hỏi mẹ: “Con nên xin gì?” Mẹ cô đáp: “Xin đầu Gioan Tẩy Giả”. Cô liền vội vàng trở vào xin vua: “Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa”. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ.

Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.

 

Suy Niệm 1: Vì đã trót thề

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Như mọi con người khác ở trên đời,

con người của Hêrôđê bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt.

Vấn đề là ông ta sẽ ngả theo cái nào.

Hêrôđê biết Gioan là người công chính thánh thiện nên sợ ông.

Hêrôđê đã bảo vệ che chở cho Gioan và thich nghe ông nói,

dù những điều đó làm Hêrôđê hết sức bối rối (c. 20).

Nhưng Hêrôđê cũng là người đã sai bắt Gioan và xiềng ông trong ngục,

chỉ vì Gioan dám nói: “Nhà vua không được lấy vợ của anh mình.”

Rõ ràng cái ác trong Hêrôđê đã thắng cái thiện, cái xấu đã thắng cái tốt.

Hêrôđê thuộc loại người “nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận,

nhưng không đâm rễ, mà là những kẻ nông nổi nhất thời…” (Mc 4, 16-17).

Chính vì thế khi gặp thử thách thì ông vấp ngã ngay.

Hêrôđê còn quỵ ngã một lần nữa nặng hơn.

Ngày sinh nhật của ông cũng là ngày chết của một vị ngôn sứ.

Khi con gái bà Hêrôđia biểu diễn một điệu múa làm vui lòng mọi người,

Hêrôđê đã lỡ thề hứa một điều thiếu khôn ngoan,

trước mặt bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê:

“Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23).

Không biết lúc đó Hêrôđê đã say chưa,

nhưng chắc chắn nhà vua đã quên một điều quan trọng.

Ông quên mình chỉ là một tiểu vương nắm vùng Galilê và Pêrê (Lc 3,1),

nên ông không có quyền cho đất hay chia đất.

Bà Hêrôđia đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này để trả thù Gioan.

Bà nói với cô con gái xin đầu Gioan Tẩy giả (c. 24).

Hẳn điều này là một bất ngờ lớn đối với Hêrôđê.

Lập tức ông bị đặt vào thế giằng co xâu xé.

Một mặt ông hết sức đau buồn vì quý mạng sống của Gioan.

Mặt khác ông lại không muốn thất hứa với cô bé,

một lời hứa đã trót nói ra công khai trước mặt quan khách dự tiệc.

Hêrôđê có dám chịu đánh mất chút danh dự của mình không

khi khiêm tốn xin rút lại lời thề hứa vội vàng, bồng bột?

Ông có dám nhận mình đã sai và chịu mất mặt không?

Tiếc quá! Hêrôđê đã không có được can đảm này.

Như người thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi (Mc 10, 22),

Hêrôđê cũng sẽ buồn suốt đời vì cái chết do ông gây ra.

Như Hêrôđê, sau này Philatô cũng chịu áp lực khi ông xử án Đức Giêsu.

Ông cũng phạm đúng tội của Hêrôđê trước đám đông (Mc 15, 15),

coi ghế ngồi của mình quý hơn mạng sống của Đức Giêsu, người vô tội.

 

Cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi

mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên

để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang

để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường

để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai

để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề

để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.

(R. Tagore – Ðỗ Khánh Hoan dịch)

 

Suy Niệm 2: Đa-vít và Hê-rô-đê

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đa-vít và Hê-rô-đê là hai vị vua có nhiều điểm giống nhau. Đa-vít say mê sắc dục. Chiếm vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết U-ri-gia. Hê-rô-đê cũng say mê sắc dục. Chiếm đoạt bà Hê-rô-đi-a là vợ của Phi-líp-phê, anh vua.

Nhưng càng về sau hai vị vua càng khác biệt. Được Na-than nhắc nhở, Đa-vít tỉnh ngộ và ăn năn sám hối. Nhưng Hê-rô-đê chỉ lưỡng lự phân vân. Sau đó còn nghe lời tình nhân, giết chết Gio-an Tẩy giả.

Từ khi ăn năn sám hối, Đa-vít sống tốt lành thánh thiện. Luôn tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Đặc biệt ông dùng tài ca nhạc, sáng tác ca tụng Thiên Chúa. “Với trọn cả tâm tình, ông hát lên những khúc thánh thi tỏ lòng yêu mến Đấng tạo thành ông”. Ông còn sắp đặt lễ nghi phượng tự cho long trọng. Vì thế “Đức Chúa đã xoá bỏ tội lỗi của ông và nâng cao uy thế ông luôn mãi” (năm chẵn).

Còn Hê-rô-đê vì lưỡng lự nên không những không tiến bộ mà ngày càng lún sâu vào tội ác. Nếu Đa-vít dùng đàn ca ca tụng Thiên Chúa, thì Hê-rô-đê bị đàn ca mê hoặc đến nỗi đưa ra những lời hứa nhẹ dạ. Nếu Đa-vít khiêm tốn nhận mình tội lỗi, thì Hê-rô-đê sĩ diện, lỡ hứa rồi, biết là nông nổi, nhưng không dám rút lại. Nếu Đa-vít nghe lời can gián, thì Hê-rô-đê giết người can ngăn mình phạm tội. Vì thế triều đại Đa-vít bền vững mãi mãi. Còn triều đại Hê-rô-đê mau chóng suy tàn.

Thư Do thái khuyên nhủ ta hãy noi những tấm gương ấy mà chọn một con đường tốt đẹp. “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ. Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời”. Chúa vẫn thế. Thế cuộc đổi thay. Nhưng những nguyên tắc đạo đức ở trong thánh ý Chúa không hề thay đổi. Vẫn là kim chỉ nam đưa ta đến sự sống.

Xin cho con noi gương thánh vương Đa-vít. Biết sám hối tội lỗi. Và dành thời gian còn lại của đời sống đền bù lỗi lầm. Ca tụng tôn vinh Chúa.

 

Suy Niệm 3: Sự bất tử của thánh nhân

Những bậc vĩ nhân thường được nhân gian biến thành bất tử. Người Do thái tin rằng vị tiên tri vĩ đại nhất của họ là Êlia đã không chết, nhưng được cất nhắc về Trời; khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, người ta lại tin rằng ngài chính là hiện thân của Êlia: rồi đến lượt Gioan Tẩy Giả bị giết chết, người ta lại cho rằng ngài đang sống lại trong con người Chúa Giêsu.

Có lẽ để xóa tan những lời đồn đoán như thế, thánh sử Marcô đã kể lại từng chi tiết cuộc xử trảm Gioan Tẩy Giả, cũng như ghi lại việc chôn cất thánh nhân. Gioan Tẩy Giả đã thực sự chết và ngài đã không bao giờ sống lại, cũng chẳng được cất nhắc lên trời như Êlia.

Gioan Tẩy Giả là nạn nhân của bất công. Có bất công khi người ta đặt chính trị lên trên những giá trị khác của cuộc sống, như tinh thần và niềm tin; có bất công khi người ta hành động theo bản năng hơn là theo tinh thần. Vua Hêrôđê lẫn nàng Hêrôđia đều đã hành động theo lối ấy. Hêrôđia sống bất chấp luân thường đạo lý, còn Hêrôđê thì cho dù vẫn sáng suốt để phân biệt được điều ngay với lẽ trái, nhưng lại chọn sống theo bản năng hơn là lý trí.

Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần của Gioan Tẩy Giả, của các Tông Ðồ, của các Thánh Tử Ðạo, đã sống mãi trong Giáo Hội và trở thành giây liên kết mọi Kitô hữu. Ðiều này luôn được Giáo Hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt các thánh được đặt trên bàn thờ. Tập san Giáo Hội Á Châu do Hội Thừa Sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục:

“Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo Hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi giây liên kết với Giáo Hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi giây liên kết hữu hình ấy. Ðây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hiệp với Người mãi mãi”.

Chúng ta cũng hãy hiên ngang nói lên niềm tin và lòng trung thành với Chúa Kitô. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta cũng hãy thốt lên: “Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô”.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Tấn tuồng của con người

Vua Hê-rô-đê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: “Đó là ông Gia-an Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” Kẻ khác nói: “Đó là ông Ê-li-a.” Kẻ khác nữa nói: “Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ.” Vua Hê-rô-đê nghe thế, liền nói: “Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” (Mc. 6, 14-16)

Cái chết của thánh Gioan Baotixita là một trong những trang bi thảm nhất của Phúc âm vì những hoàn cảnh éo le đã xui nên. Những tâm tình hắc ám nhất của nhân loại đều thấy cùng gặp gỡ nhau ở đây: một người có ý định sát nhân, đúng hơn lại muốn để cho người khác can tội vì muốn bảo toàn danh dự mình hoặc khỏi mất thanh danh đối với những khách dự tiệc có lẽ đang say xỉn; một cô gái nhảy đùa giỡn với mạng sống con người với tư thế ung dung như cô đang chơi trò giật dây con rối vậy. Đó là một trong những trang bi đát nhất của tất cả tấn tuồng của con người từ đó để lộ ra lẫn lộn tất cả sự hèn nhát, nhân nhượng, mưu mô, thù oán, say sưa và tàn bạo hầu làm nên cái mà Mauriac gọi là uẩn khúc nham hiểm của loài rắn độc.

Tính nhu nhược của Hêrôđê là đầu mối cho tất cả sự việc này. Từ khi nghe lời Hêrôđia xúi xiểm tống giam Gioan Tẩy giả cho đến khi bị mắc kẹt trước các khách dự tiệc, không thể rút lại mà không phơi trần một sự yếu hèn hơn, Hêrôđê sẽ vẫn là một con người bị người khác vận dụng và sẵn sàng nhượng bộ tất cả với điều kiện là “giữ được thể diện” cho mình. Ông sẽ chẳng coi chi những tâm tình vị nể và cảm phục ông Gioan, người mà tự thâm tâm ông vẫn thích nghe.

Sau đó ít lâu, một tấn tuồng khác gần tương tự sẽ còn làm nổi bật tính nhu nhược này của con người. Tại pháp đình, trước đám đông người Do thái bị các trưởng tế xúi giục hò hét, Philatô sẽ rửa tay tỏ ra vô can trong cái chết của Đức Kitô, mặc dầu ông không tìm được chứng cớ nào để kết án tử Người.

Thiết lập một danh sách liệt kê những biến cố đại loại như trên, thiết tưởng không phải là chuyện khó làm. Những vụ giết người và phản bội thường có nguồn gốc là một lô những nhu nhược, hèn nhát, yên lặng đắc tội…Những người có quyền, có địa vị mà nhu nhược thường bao che cho những kẻ quỷ quyệt để chúng hưởng lợi. Quả thực, ít có những người có sự thật và biết tôn trọng sự thật đến cùng, một sự thật ngoan cường.

Còn chúng ta, chính chúng ta thường tỏ ra khôn khéo hơn trong vai những người mềm yếu và nhu nhược khi chúng ta diễn lại tấn tuồng trên đây của con người.

 

Suy Niệm 5: Số phận của các ngôn sứ

Có những cái chết đã đi vào bất tử, trường tồn, bởi nó đã trở thành biểu tượng cho một tinh thần bất khuất. Vì thế, muôn thế hệ sẽ còn tưởng nhớ chính nhân.

Cái chết đó chính là cái chết của Gioan Tẩy Giả.

Nếu các Ngôn Sứ là những người thay mặt Chúa, thông truyền sứ điệp của Thiên Chúa cho dân; sứ mệnh của các ngài chính là việc dạy dỗ, khuyên răn dân đi theo đường lối của Thiên Chúa để được sống; đồng thời, lên tiếng tố cáo những việc làm sai trái mà dân đang thực hiện. Mặt khác, các ngài cũng không quên một nhiệm vụ quan trọng, đó là nhắc dân từ bỏ con đường bất chính gian tà để trở về với Thiên Chúa. Chính vì thế, các ngài thường bị dân chúng giết chết để khỏi trướng tai gai mắt họ.

Thật vậy, Gioan cũng đã chung số phận khi lên tiếng tố cáo cuộc sống loạn luân của vua Hêrôđê khi ông ta bỏ vợ để cướp vợ của anh cùng cha khác mẹ với mình. Cuộc sống của vua đã trở thành đồi bại, vô luân, và nhất là gây nên một gương mù lớn trong dân.

Khi Gioan tố cáo Hêrôđê, thì đồng nghĩa với việc ông lên tiếng phản đối cả một hệ thống lãnh đạo suy đồi khi cùng với vua hưởng lạc trong lúc chứng kiến con gái bà Hêrôđia múa hát để chiêu mộ lòng vua!

Sự thật thì mất lòng! Gian dối lên ngôi! Tội lỗi hoành hành! Và, nhất là một con người nhu nhược, không có lập trường như Hêrôđê, Gioan đã bị giết dưới lưỡi gươm của tội lỗi!

Tiếp nối sứ vụ của Gioan, và nhất là thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, suốt hơn 2.000 năm nay, Giáo Hội không ngừng lên tiếng cho công lý, sự thật, bảo vệ những người nghèo, không có tiếng nói…, thế nên nhiều chứng nhân anh dũng đã can đảm nói không với ái ác, bất nhân và vô luân. Họ đã: “Vâng lời Thiên Chúa, hơn là vâng lời con người”. Vì thế, biết bao nhiêu máu đào đã đổ ra và những đống xương “chất đầy thành núi” qua các cuộc tử đạo để gióng lên tiếng nói của lương tâm, hầu tố cáo những thói vô luân của con người, nhất là những vị lãnh đạo bất nhân và ham dục…

Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên ngôn sứ của Đức Kitô, trở nên người loan báo chân lý…

Tuy nhiên, theo bản tính tự nhiên, chúng ta khó có thể vượt qua được những toan tính thiệt hơn của con người, nên thay vì làm chứng cho Chúa, chúng ta lại phản chứng khi trở nên như Hêrôđê, ghen tỵ, oán ghét, và tàn độc.

Những lúc như thế, ấy là lúc chúng ta chưa dám sống công chính và đi theo giáo huấn của Đức Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm, trung thành với sứ vụ, đồng thời, xin cũng ban cho chúng con lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ cho anh chị em chúng con, khi bị thù ghét, bỏ vạ, cáo gian. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Hêrôđê chém đầu Gioan Tẩy Giả

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Hoàng hậu Ideven của vua Akhap rước thần ngoại bang vào vương quốc Israel và bảo trợ cho các tư tế, phù thủy của tà thần, đuổi bắt các ngôn sứ của Thiên Chúa.

Dù trước bạo quyền, ngôn sứ Êlia một mình chống lại các tư tế của thần dân ngoại. Tinh thần chính trực của ông đã bị vua và hoàng hậu truy bắt đuổi giết, khiến thân phận ngôn sứ của Thiên Chúa thật gian nan, khốn khổ và luôn sống trong sự trốn tránh (1V 17-18).

Suy Niệm

Gioan, cái tên được Thiên Chúa đặt là dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa, sự công minh chính trực của Gioan đã được ngôn sứ Isaia nói trước: “Chúa đã gọi tôi, từ khi tôi còn trong bụng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi như gươm sắc bén, dấu tôi dưới bàn tay Người… biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người” (Is 49,1-2).

Sứ mạng ngôn sứ và ơn thánh đã nuôi dưỡng Gioan: “Cậu bé càng lớn lên, thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc 1,80). Vì thế, người quân tử này không sợ trước bất kỳ quyền lực nào, chỉ luôn biết sống trung tín và loan báo những gì mà Thiên Chúa muốn ông nói và làm.

Gioan bộc trực, thẳng thắn phê phán những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh (Mt 3,7), ông phê phán, đương đầu trực diện cả vương quyền khi họ thực hiện những điều bất nghĩa: Ông đã ngăn cản vua Hêrôđê đã cướp vợ của anh trai vua, chính vì thế mà ông bị tống ngục và Hêrôđia – người tình của vua đã tìm cách ám hại ông (Mc 6,17-29).

Cái chết của ông là minh chứng cho sự trung thực thẳng thắn, là triều thiên tử đạo đổ máu đào cản ngăn những điều bất nghĩa bất nhân.

 

Suy Niệm 7: Thánh Gioan bị trảm quyết

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marô thuật lại cho chúng ta cuộc tử nạn của thánh Gioan Tẩy Giả. Khi ấy, danh tiếng Chúa Giêsu lẫy lừng vì những lời giảng và hành động thật uy quyền đã đến tai Hêrôđê khiến ông ta sống bất an, lương tâm cắn rứt và nghĩ rằng chính Gioan Tẩy Giả tiếp tục sống trong Đức Giêsu. Những ray rứt của kẻ giết người lại nổi lên trong con người ông và lên án chính ông. Đây chính là tâm trạng của những kẻ gây ra những điều gian ác. Tâm hồn họ đã đánh mất sự hiện diện của Thiên Chúa. Tiếng lương tâm cắn rứt chính là dấu chỉ Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi họ hối cải.
  2. Gioan Tẩy Giả không phải là ánh sáng, nhưng chỉ đến làm chứng cho ánh sáng. Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị tiên tri. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời minh chứng của mình. Gioan Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu phải trả giá là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị tiên tri sau cái chết đóng đinh nơi thập giá đối với ngưới Do thái lúc đó. Gioan Tẩy giả đã tự xóa mình để cho Đấng Cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại. Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa: ”Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý.
  3. Còn vua Hêrôđê, ông là hình ảnh của những con người yếu đuối, hướng chiều theo tội lỗi. Sở dĩ ông tống ngục ông Gioan Tẩy Giả là cũng vì nghe lời Hêrôđiađê xúi giục, chứ riêng ông thì ông nể sợ Gioan Tẩy Giả vì biết Gioan là người công chính thánh thiện. Marcô viết: ”Ông che chở Người. Khi nghe ông nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại thích nghe”. Hêrôđê chính là mẫu người yếu đuối, buông theo sự dễ dãi đến khi muốn trở lại thì đã quá trễ, không thể làm lại được nữa.

Hêrôđê để cho mình bị thú vui nhục dục che khuất, loạn luân, rơi vào cái bẫy “mỹ nhân kế” của mẹ con bà Hêrôđiađê bầy ra, rồi lỡ miệng thề thốt trong cơn say, cuối cùng để bảo vệ danh dự, ông đã phạm vào tội ác giết người vô tội. Cũng vậy, xã hội ngày hôm nay, và cách riêng mỗi người chúng ta, giữa những cám dỗ thế tục, những thú vui nơi các cuộc ăn chơi – tụ điểm múa nhảy, rồi kéo theo những hệ lụy sau đó không còn kiểm soát được. Rồi một khi, ai đó dám cảnh tỉnh chúng ta, thì thay vì quay đầu sửa lỗi, lại tìm cách ám hại người nhắc nhở mình, thậm chí sẵn sàng ám hại người khác để bịt đầu mối và bảo vệ danh dự của mình.

  1. Còn bà Hêrôđiađê từng là vợ của tiểu vương Hêrôđê Philipphê (cũng là một trong ba người con của Hêrôđê Cả), do bị thánh Gioan Tẩy Giả can ngăn, làm ảnh hưởng đến chuyện tư tình của mình với Hêrôđê Antipas, nuôi lòng thù hận và đã bầy ra trò mỹ nhân kế của cô con gái rồi dùng bàn tay tình nhân để hãm hại người công chính. Bà là mẫu gương sống theo sự dữ. Đã pạm tội loạn luân, lấy em chồng của mình thì chớ, lại còn căm thù ông Gioan và muốn giết ông…

Giữa xã hội hôm nay cũng thế, nhiều người không ngại dùng nhiều thủ đoạn thậm chí còn tàn độc hơn cả Hêrôđiađê để trả thù  những ai dám cản trở những cuộc tình mờ ám hay những việc làm sai trái của mình.

  1. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn còn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần Gioan Tẩy Giả, của các Tông đồ, của các thánh Tử đạo, đã sống mãi trong Giáo hội và trở thành dây liên kết mọi Kitô hữu. Điều này luôn được Giáo hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt của các thánh được đặt trên bàn thờ.

Tập san Giáo hội Á châu do hội Thừa sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục: “Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không  bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi dây liên kết Giáo hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi dây liên kết hữu hình ấy. Đây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hợp với Người mãi mãi”(Mỗi ngày một tin vui).

  1. Truyện:  Một học sinh can đảm.

Suy Niệm gương thánh Gioan Tẩy Giả: tôi có can đảm và sống Lời Chúa bất chấp mọi khó khăn, mất mát không?

Một học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất  trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì?. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cảm ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì” (Góp mặt).

 

Suy Niệm 8: Cái chết của Gioan tẩy giả

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Hạt giống…

Câu chuyện về cái chết của Gioan tẩy giả gồm 4 nhân vật với những đặc điểm tâm lý khác nhau

– Hêrôđê là một người không có lập trường một đàng kính trọng Gioan nhưng đàng khác khi bị Gioan vạch tội thì căm thù Gioan; khi nghe Gioan giảng thì ông thích, nhưng khi nghe bà Hêrôđia xúi bậy thì lại bắt Gioan tống ngục; Lúc thì hứa sẽ cho cô con gái của Bà Hêrôđia bất cứ điều gì nó xin, nhưng khi nó xin cái đầu của Gioan thì ông lại buồn, nhưng không dám từ chối…

– Bà Hêrôđia một người đàn bà chạy theo đam mê bằng mọi giá bất chấp thủ đoạn phụ tình với chồng cũ, giết Gioan…

– Con gái bà Hêrôđia (nàng Salômê) không biết dùng nhan sắc và tài năng vào việc tốt, lại dùng chúng để làm tội…

– Gioan tẩy giả một ngôn sứ chính danh. Ngôn sứ là sứ giả của Lời Chúa, can đảm nói lời Chúa cho dù phải tù tội và phải chết.

B…. nẩy mầm.

  1. Những dư luận về Chúa Giêsu rất khác nhau Gioan tẩy giả sống lại, Êlia, một ngôn sứ… Ngày nay cũng có nhiều dư luận về Chúa Giêsu, trong đó có những dư luận không tốt. Tôi phải làm gì để cho người ta hiểu đúng về Ngài?
  2. Tên “Giêsu” nghĩa là “Chúa Cứu độ”, hay nói theo ngôn ngữ thông dụng, Ngài là Đấng “cứu nhân độ thế”. Người ta không quan tâm lắm đến những danh hiệu khác của Ngài (Con Thiên Chúa, Kitô Messia, Con Vua Đavít v.v.). Nếu Ngài là đấng “cứu nhân độ thế” thì ai cũng thấy cần đến Ngài bởi vì ai cũng có điều cần Ngài cứu giúp, hoặc vật chất hoặc tinh thần. Nhưng làm sao cho người ta không chỉ biết mà còn thấy rõ Ngài là Đấng cứu nhân độ thế? Giáo Hội và các môn đệ Ngài phải cho người ta thấy điều đó qua cách sống và những việc làm của mình.
  3. Suy nghĩ về tính thiếu cương quyết của Hêrôđê nếu thấy một điều gì đó là đúng thì phải cương quyết làm; nếu thấy một điều gì đó sai thì cũng phải cương quyết bỏ; không chần chứ, không rút lại điều đã quyết định.
  4. Suy nghĩ về những đam mê của bà Hêrôđia: đam mê là một động lực rất mạnh nhưng cũng là một con dao hai lưỡi. Nếu đam mê một điều tốt thì người ta sẽ làm được những kỳ công; nếu đam mê một điều xấu thì tai hại rất lớn…
  5. Xem câu chuyện của nàng Salômê, tôi phải xin Chúa giúp tôi biết xử dụng những khả năng Chúa ban cho đúng.
  6. Suy gẫm gương thánh Gioan tẩy giả, tôi có can đảm nói và sống Lời Chúa bất chấp mọi khó khăn, mất mát không?
  7. Một học sinh Nhật là Kitô-hữu duy nhất trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì? Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô-hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cám ơn Chúa, ta đã biết là Kitô-hữu, mình phải làm gì.” (Góp nhặt)

 

 

 

THỨ BẢY TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 6, 30-34

Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy.

Người liền bảo các ông: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài.

Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.

 

Suy Niệm 1: Đến một nơi thanh vắng

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Các môn đệ trở về gặp lại Thầy Giêsu

sau cuộc hành trình tông đồ đầu tiên nhiều thú vị.

Họ cùng nhau tụ họp chung quanh Thầy

và thi nhau kể cho Thầy nghe tất cả những gì họ đã làm và đã dạy.

Thầy Giêsu thấy họ vui vì đã có thể đuổi được quỷ, chữa được bệnh.

Những ông đánh cá ít học, nói năng bỗ bã,

trở thành người rao giảng mạnh bạo Tin Mừng về Nước Trời.

Nhưng Thầy Giêsu cũng thấy nét mêt mỏi nơi khuôn mặt họ.

Các tông đồ không có giờ ăn uống vì bị đám đông bao vây.

“Anh em hãy lánh riêng ra,

đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (c.31).

Lời mời trên cho thấy mối quan tâm của Thầy đối với các môn đệ,

những người thợ cần được nghỉ ngơi cả thân xác lẫn tinh thần.

Họ cần tách mình ra khỏi đám đông, khỏi công việc,

để đến nơi hoang mạc mà tĩnh tâm.

Tĩnh tâm là nghỉ ngơi bên Thầy trong sự ấm áp của tình thầy trò,

không bị vướng bận bởi công việc phục vụ.

Tĩnh tâm là dành một thời gian để lòng mình lắng xuống,

đọc lại những biến cố đã xảy ra trong đời mình,

nhìn lại những kinh nghiệm mình đã trải qua bằng cái nhìn của Chúa,

cả những khó khăn và thất bại, những bất trung và vấp ngã…

Nhưng tĩnh tâm không phải chỉ để nhìn lui, mà còn để nhìn tới.

Các tông đồ cần vượt qua những hứng khởi nhất thời do thành công.

Họ cần trầm lắng để chuẩn bị cho những khó khăn sắp đến.

Lời mời của Thầy Giêsu vẫn đụng đến chúng ta hôm nay,

những con người tất bật, vội vã, lo âu và căng thẳng,

những con người kiệt sức vì đòi hỏi của công việc hay vì nghiện việc.

Lánh riêng, nghỉ ngơi ở nơi hoang vắng, tĩnh tâm,

đó không phải là những điều dành riêng cho giới tu sĩ.

Đó là nhịp bình thường của những người bỗng thấy mình đang bị cuốn đi,

trôi đi, mất hướng, mất chính mình, trở nên con rối ngờ nghệch.

Tuy nhiên, không dễ tìm được nơi hoang vắng, để cách ly mình khỏi công việc.

Khi Thầy và các môn đệ đến được nơi hoang vắng ưng ý,

thì chỗ đó chẳng còn vắng nữa, vì dân chúng đã đến trước rồi.

Chúng ta vẫn cứ phải tìm chỗ vắng riêng cho mình với Chúa suốt đời.

 

Cầu nguyện:

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,

xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,

xin cho con quý chuộng những lúc

được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,

xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa

để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,

xin cho con thoát được lên cao

nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,

ước gì tinh thần cầu nguyện

thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện,

xin cho con gặp được con người thật của con

và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.

 

Suy Niệm 2: Lời ban sự sống

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành. Mục tử ban sự sống cho đoàn chiên. Sự Sống đến từ Lời Chúa. Vì Lời Chúa là Ngôi Lời, là chính Thiên Chúa. Chính vì thế khi thấy đám đông tất tưởi bơ vơ thì Chúa dậy dỗ họ. Chính vì thế mà dân chúng say mê nghe Lời Chúa đến quên ăn quên ngủ, quên cả đường về.

Con người là một tổng thể phức tạp với những khát vọng vô biên. Những con người, phương tiện, lý thuyết, tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của loài người chẳng thể nào thỏa mãn được khát khao của con người. Từ xa xưa biết bao người nghĩ tưởng có thể giải quyết được mọi vấn đề trên thế giới, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng tất cả đều chỉ là ảo tưởng, có khi còn tha hóa, hạ nhục con người. Thế kỷ 20 chứng kiến sự sụp đổ của hai lý thuyết lớn là Phát xít và Cộng sản. Hai lý thuyết này khi mới xuất hiện từng đưa ra ảo tưởng xây dựng thiên đường nơi trần thế. Nhưng 1 thế kỷ trôi qua, họ đã xây dựng những địa ngục trần gian với tất cả sự chết chóc qua 2 cuộc thế chiến, qua các trại học tập cải tạo. Sự nghèo đói. Và khủng khiếp hơn, sự suy thoái đạo đức. Tất cả chỉ là bánh vẽ. Tệ hơn nữa là những trái cây bên ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong chứa thuốc độc chết người. Tất cả chỉ là những người chăn thuê bóc lột đoàn chiên cho lợi ích riêng tư.

Chỉ có Chúa là mục tử nhân lành. Chúa ban lương thực nuôi sống đoàn chiên. Lương thực đó không chỉ là vật chất. Nhưng còn là lương thực thiêng liêng. Dẫn con người đi trên đường ngay nẻo chính. Đến sự thật toàn vẹn. Đến sự sống muôn đời. Chính Chúa chịu chết để minh chứng điều đó. Thịt Máu Chúa trở thành lương thực nuôi đoàn chiên (năm lẻ). Đường Chúa đi trở thành con đường dẫn ta đến hạnh phúc thiên đàng. Chính vì thế Salomon không xin điều gì khác ngoài biết lắng nghe và biết theo Lời Chúa mà phân biệt phải trái. Vì thế ông trở thành người khôn ngoan nhất trong các kẻ khôn ngoan (năm chẵn).

Ta hãy noi gương dân chúng thời Chúa Giêsu. Hâm mộ tìm nghe Lời Chúa. Say mê Suy Niệm Lời Chúa. Và nhiệt thành thực hành Lời Chúa. Đó chính là Con Đường ngay thẳng. Đó chính là Sự Thật toàn vẹn. Đó chính là Sự Sống viên mãn. Sẽ lấp đầy mọi khát vọng thâm sâu của con người. Sẽ giải quyết mọi vấn đề của thế giới. Sẽ đem đến hạnh phúc cho nhân loại.

 

Suy Niệm 3: Dung mạo Chúa Giêsu

Manio Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động: năm 1942, đứa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: “Một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: “Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi”. Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa bé mà nói: “Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều mà có thể cho được”. Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về các phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô tả các phép lạ”.

Những dòng trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Thật thế, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều, Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Ðọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thủy múa may cây đũa thần của mình, Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm lóe mắt thiên hạ. Phép lạ là dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương đến độ hóa thân làm người và sống thiết thân với con người.

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong câu nói: “Chúa Giêsu thấh đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương”. Ðây là tất cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như một em bé, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.

Chiêm ngắm một Thiên Chúa như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận ra được một chân lý về con người, bởi vì như Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” đã nói: Chỉ trong ánh sáng của Ngôi Lời Nhập Thể, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Con người bởi đâu mà đến? sẽ đi về đâu? chúng ta nhận ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn phải biết sống thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết trên Thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.

Tin mừng của chúng ta là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không ngừng được mời gọi để sống kết hiệp với Ngài, để đón nhận sức sống của Ngài và sống theo lý tưởng của Ngài. Ước gì chúng ta luôn được củng cố trong niềm xác tín rằng Ngài đang hiện diện và đồng hành với chúng ta trong từng phút từng giây cuộc sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Hãy nghỉ ngơi đôi chút

Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi việc các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (Mc. 6, 30-31)

Tuần làm việc đã kết thúc. Thế là ngày thứ bảy. Mặc dầu một số lớn các công nhân phải trực ca ở sở, sinh hoạt phố xá vẫn thay đổi nhịp độ kể từ năm giờ chiều thứ sáu đến tám giờ sáng thứ hai. Người ta muốn lấy hơi thở, dù rằng cứ thứ bảy và chủ nhật nào ai nấy lại thường không phải hết cả hơi, vì những công chuyện như: đi chợ mua thực phẩm, đi tiệm sắm đồ, công việc nội trợ, chơi thể thao, thăm viếng gia đình, bạn bè, họp mặt liên hoan…

Nhưng tất cả những hoạt động đầy ắp những ngày cuối tuần này thật ra có giúp ích gì cho việc nghỉ ngơi không? Phải chăng những hoạt động ấy chỉ là tiếp nối cuộc chạy đua với thời gian làm việc trong tuần? Những hoạt động này có tăng thêm sinh khí cho con người, trí tuệ và đời sống thiêng liêng của ta không? Chúng ta có thực sự đạt được việc dành cho mình những giây phút để trở về với lòng mình, mặt đối mặt với Thiên Chúa, hoặc để thưởng thức một công trình âm nhạc hay văn chương, nhờ đó ta tiến gần tới sự thật, sống có bề sâu, sống thánh thiện và mang vẻ đẹp của một con người luôn đổi mới và biết xây dựng mình? Chúng ta có biết bố trí thời giờ dành để tập thể dục giúp cho thân thể được khỏe mạnh để làm việc không?

Những việc kể lại trong Phúc âm hôm nay chứng tỏ rằng Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ của Người, sau khi đi truyền giáo về, cần nghỉ “ngày thứ bảy cuối tuần”, cần được nghỉ ngơi. Dầu rằng quanh các ông, dân chúng vẫn tấp nập, kẻ lui người tới, hỏi han thì Chúa vẫn dưa các ông lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và có thì giờ ăn uống.

Làm việc và nghỉ ngơi thay phiên nhau vẫn là luật căn bản của con người, ai coi thường người ấy làm việc kém năng xuất, nếu không sẽ ốm đau và suy giảm tinh thần. Quá mệt mỏi, lúc nào cũng tù túng trong cùng một bầu khí, hoặc thường xuyên bận bịu với cũng một công việc, con người phải sống trong cái vòng lẩn quẩn hoặc tệ hơn, ta đánh mất ý thức về việc làm của mình.

Vậy thì “Anh em hãy nghỉ ngơi đôi chút”.

 

Suy Niệm 5: Lánh sang nơi thanh vắng

Sự quan tâm của Đức Giêsu với các môn đệ hôm nay làm cho chúng ta thấy một hình ảnh đẹp tuyệt vời về thái độ liên đới và nghĩ đến môn sinh của mình nơi vị Thầy khả ái.

Sau khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, hôm nay, các ông về hối hả kể cho Đức Giêsu nghe những thành tích của mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã khuyên các ông: “Anh em hãy lánh đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”.

Nghỉ ngơi đôi chút, đây là cách nói thể hiện sự quan tâm của Đức Giêsu đến sức khỏe thể xác, nhưng không dừng lại ở chỗ bề ngoài, mà nó còn đi sâu xa hơn để thấy được ý nghĩa, giá trị của sự nghỉ ngơi tâm linh.

Nếu người môn đệ của Đức Giêsu quá quan tâm đến những thành quả bên ngoài, đến những kết quả bằng con số, thì e rằng họ đang bám víu vào công việc của Chúa hơn là chính Chúa, tức là cậy dựa vào những điều phụ thuộc hơn là chính yếu.

Tuy nhiên, Kinh Thánh kể tiếp, Đức Giêsu và các môn đệ đi sang bờ bên kia, nhưng khi các Ngài tới thì dân chúng đã đến trước rồi, nên Đức Giêsu đã chạnh lòng thương họ như đàn chiên không người chăn dắt, vì thế Ngài đã dạy họ nhiều điều.

Sống trong một xã hội tân tiến như hiện nay, mọi sự trở nên gần gũi khi ngôi nhà thế giới được xích lại nhờ những phương tiện truyền thông. Người ta có thể ngồi trong một căn phòng chỉ mấy mét vuông, nhưng có thể nhìn ra cả thế giới bên ngoài. Nhưng lại chớ trêu thay, những điều đó tưởng chừng như làm cho người ta gần nhau, quan tâm đến nhau hơn thì lại làm cho người ta chỉ biết nghĩ đến mình trong khi biết bao người kêu gào tình yêu, đói khát sự liên đới!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một mặt hãy tập trung vào đời sống thiêng liêng, coi đời sống thiêng liêng như là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống đạo. Mặt khác, luôn biết quan tâm đến những người xung quanh, để lời nói và hành động của chúng ta được thiết thực khi chúng đi đôi với nhau.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết sống tình liên đới với anh chị em, nhất là với người nghèo. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết coi trọng đời sống nội tâm để chúng con tìm thánh ý Chúa và thực thi điều Chúa muốn chúng con làm. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Sự cần thiết của sự nghỉ ngơi thánh

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Người ta đồn rằng thánh Gioan tông đồ thích chơi với chim sẻ nuôi trong nhà. Ngày kia, một thợ săn đến thăm và rất ngạc nhiên thấy một người nổi tiếng như vậy mà lại vui chơi. Ông nghĩ có thể dùng thời giờ đó làm một việc tốt lành và quan trọng. Nên ông hỏi: “Tại sao ngài lãng phí thì giờ vui chơi? Sao ngài lại dành thì giờ cho một chú chim sẻ vô dụng thế?”.

Thánh Gioan nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Tại sao ông ta không vui chơi? Vì thế, ngài hỏi ông: “Tại sao dây cung của ông không kéo căng ra?”.

“Nó không thể kéo căng, vì như thế dây cung sẽ mất độ đàn hồi và không thể bắn tên”.

Thánh Gioan bảo ông: “Này bạn, anh cần thả lỏng dây cung, nghĩa là anh cũng phải giải thoát sự căng thẳng trong anh và nghỉ ngơi. Nếu tôi không nghỉ ngơi và giải trí, tôi sẽ không có sức cho bất kỳ công việc hệ trọng nào. Tôi cũng sẽ không có sức làm những việc tôi phải làm và cần làm, đòi hỏi sự chú tâm hoàn toàn của tôi”.

Suy Niệm

Ngay từ thời tạo dựng trời đất, Thiên Chúa đã ấn định thời gian nghỉ ngơi bằng ngày thứ Bảy (x.St 2,2). Trong Giao ước với dân Chúa tuyển trọn, Ngài cũng truyền cho dân phải tôn trọng ngày nghỉ thứ Bảy (x.Xh 23,12).

Tin Mừng Mc 6,30-34 một lần nữa xác quyết cho chúng ta sự cần thiết của sự nghỉ ngơi thánh, các tông đồ sau những ngày làm việc trong bước rao giảng Tin Mừng quay về bên Chúa Giêsu, Ngài đã truyền lệnh cho các ông đi vào thời gian nghỉ ngơi: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi…” (Mc 6,31), Đức Kitô đã thấu hiểu nguyên tắc làm việc và nghỉ ngơi phải luôn đi đôi với nhau. Ngài xác lập một cách gián tiếp cho các tông đồ biết việc nghỉ ngơi là một giai đoạn quan trọng trong đời sống thường ngày sau những giây phút làm việc và trực tiếp hơn nữa, nghỉ ngơi tâm linh là một giai đoạn quan trọng trong công tác tông đồ và cuộc sống tâm linh.

Theo lời dạy của Đức Kitô, chúng ta đặt cuộc sống mình trong ánh sáng của Tin Mừng về làm việc và nghỉ ngơi:

Nơi đời sống thường ngày, để làm việc có hiệu quả và cuộc sống thêm phát triển trong công việc, tôi đã thu xếp cho mình một giấc nghỉ ngơi, giải trí thật hợp lý. Một khi có giấc ngủ sâu và những giây phút giải trí lành mạnh, bạn sẽ cảm nghiệm được hiệu quả của thời gian tĩnh dưỡng và thời gian giải trí đối với cuộc sống mỗi ngày. Xin hãy thử, rồi bạn sẽ thấy…

Về đời sống tâm linh, tôi đã làm việc tông đồ, đã tích cực tham gia những hoạt động mục vụ của cộng đoàn, Gx, đã đến nhà thờ để cầu kinh dâng thánh lễ, tất cả đều tốt cho đời sống tinh thần, đó là biểu hiện hoa trái của đời sống tôn giáo. Nhưng đời sống tâm linh tôi có để những giây phút tĩnh tâm, thinh lặng thánh để được nghỉ ngơi trong bàn tay của Thiên Chúa. Như sách Khôn Ngoan viết: “Trở về nhà, tôi nghỉ ngơi bên cạnh Đức Khôn Ngoan, vì làm bạn với Đức Khôn Ngoan, không bao giờ cay đắng, và chung sống với Đức Khôn Ngoan, chẳng khi nào đau khổ, mà luôn luôn thích thú, hân hoan” (Kn 8,16).

Nơi giây phút thinh lặng và nghỉ ngơi đó, tôi được tâm sự với Chúa về gia đình tôi, về những khó khăn nặng nhẹ của công ăn việc làm về tất cả những gì trong đời sống tôi. Trong những giờ phút nghỉ ngơi linh thiêng đó tôi có tha thiết:

“Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,

hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv 42,2).

Hãy dành những giây phút thinh lặng thánh trong đời sống, có thể đó là thời điểm của đầu ngày hay là những giây phút trước giấc ngủ, trong những giờ phút nghỉ ngơi này, chúng ta cùng nhau gặp gỡ tâm sự với Chúa. Chính Ngài bồi dưỡng thêm sức cho như Ngài đã khẳng định:

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề,

hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng…” (Mt 11,28).

Ý lực sống:

“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,

hồn con mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2).

 

Suy Niệm 7: Hãy nghỉ ngơi một chút

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Thánh Marcô cho biết: sau khi vâng lệnh Chúa đi giảng đạo, các Tông đồ trở về bên Chúa, tường trình về các việc đã làm, các lời đã giảng dạy. Và vì Chúa thấy dân chúng kéo theo các ông đồng đảo quá, đến nỗi không có thời giờ ăn uống, nên Chúa bảo các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi một chút. Thế là thầy trò xuống thuyền đi… nhưng dân chúng đoán biết nơi Chúa và các Tông đồ định đi, nên kéo nhau đến đó trước.

Vì thế, khi vừa bước lên bờ Chúa đã thấy họ ở đó đợi rồi, nên Người cảm động và thương xót dạy dỗ họ lâu giờ, vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt giúp đỡ.

  1. Chúa quan tâm đến các Tông đồ.

Trước hết, Chúa Giêsu cảm thông  với nỗi vất vả của các Tông đồ khi làm việc truyền giáo nên cần có thời gian nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe cả về thể xác cũng như tâm hồn. Nghỉ ngơi để lấy lại sức, để nhìn lại những việc đã làm, để sống thân tình với Chúa và với nhau. Đây là nhu cầu chính đáng và rất bổ ích nhằm quân bình cuộc sống.

Lại nữa, Chúa Giêsu muốn các Tông đồ cần có sự quân bình giữa đời sống cầu nguyện và truyền giáo, giữa chiêm niệm và hoạt động, giữa việc đạo đức kết hợp với Chúa và công việc mục vụ. Đó cũng là một điều hết sức cần thiết cho các vị lo việc truyền giáo và mục vụ ngày nay. Có những vị “quá dấn thân” cho việc “mục vụ” và “xây dựng” đến nỗi không còn thời giờ để đọc kinh Phụng vụ, không còn những phút thinh lặng cầu nguyện và dần dần đời sống đạo đức èo uột, nói về Chúa mà không sống với Chúa và cuối cùng chỉ còn công việc mà không có Chúa đồng hành nữa.

  1. Truyện: Nghỉ ngơi cần thiết và có lợi.

Trong một buổi thuyết trình về vấn đề thư giãn trong cuộc sống, người dẫn chương trình giơ cao một ly nước lên và hỏi khán giả:

– Quý vị thử đoán xem ly nước này nặng bao nhiêu?

– Điều đó còn tùy thuộc vào chuyện anh cầm nó trong bao lâu chứ? Một khán giả nói.

– Đúng vậy – Người dẫn chương trình trả lời – Nếu tôi cầm nó trong một phút thì không có gì đáng nói. Nhưng nếu tôi cầm nó trong một tiếng đồng hồ thì tay tôi sẽ mỏi. Còn nếu tôi cầm nó cả một ngày, quý vị sẽ phải gọi xe cấp cứu cho tôi. Cùng một khối lượng, nhưng mang nó càng lâu thì nó càng trở nên nặng hơn.

Trong cuộc sống cũng vậy. Nếu chúng ta cứ liên tục chịu đựng gánh nặng, nó sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng. Không sớm thì muộn chúng ta gục ngã. “Điều quý vị phải làm là đặt ly nước xuống nghỉ một lát, rồi lại tiếp tục cầm nó lên”.

Thỉnh thoảng, chúng ta phải biết đặt gánh nặng cuộc sống, nghỉ ngơi lấy sức để còn tiếp tục mang nó trong quãng đời tiếp theo. Mỗi ngày, chúng ta đều cần phải có giây phút nghỉ ngơi, không bận tâm đến bất kỳ một gánh nặng nào.

  1. Chúa Giêsu quan tâm đến dân chúng.

Họ giống như đàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt. Đây là hình ảnh đáng thương của dân Isrsel thời bấy giờ. Không phải dân không có  các vị lo việc phụng tự và dạy dỗ, bởi vì trong 12 chi tộc thì đã có cả một chi tộc Lêvi làm tư tế, trung bình 1/12. Họ còn có những tầng lớp lãnh đạo, các luật sĩ, biệt phái… Thế nhưng, những đầu mục, các tư tế và các luật sĩ chỉ lo tìm kiếm tư lợi hơn là dạy cho dân nghe Lời Chúa. Họ tìm cách chú giải những điều luật theo ý mình và có lợi cho mình hơn là Lời Chúa.

Chính vì thế mà sự xuất hiện của Tin Mừng mà Chúa Giêsu và các môn đệ rao giảng làm họ phấn khởi đi theo. Chính điều này đã đạt ra một sự cấp bách truyền giáo, mà Chúa Giêsu và các môn đệ phải xả thân đến nỗi không còn thời giờ để nghỉ ngơi vì sự khao khát của dân chúng.

  1. Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln.

Abraham Lincoln là vị tổng thống Hoa kỳ đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sự đất nước. Ngày nọ, căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm tư, tổng thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.

Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn khởi lên như thế. Người bạn già của tổng thống cho biết: tổng thống không bàn hỏi với ông bất cứ điều gì có liên quan đến chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình (Chờ đợi Chúa).

 

Suy Niệm 8: Làm việc và nghỉ ngơi

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Chúa Giêsu như một chiếc phao giữa biển mà nhiều người lênh đênh bám vào. Thánh Mác-cô viết “Lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thời giờ ăn uống”.

Trong hoàn cảnh bận rộn như vậy, Chúa Giêsu làm sao? Một mặt Ngài lo liệu cho các môn đệ Ngài được nghỉ ngơi: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Mặt khác, về phần mình, Ngài hy sinh thời giờ nghỉ ngơi của mình để tiếp tục phục vụ cho dân.

Động cơ của cách cư xử đầy lòng nhân hậu ấy là tình thương của Ngài “Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông thì động lòng thương”.

B…. nẩy mầm.

  1. Sau khi làm việc mệt nhọc, tôi có quyền nghỉ ngơi. Chính Chúa Giêsu cũng đã kêu các môn đệ tìm chỗ yên tĩnh để nghỉ ngơi.

Vì tôi có quyền nghỉ ngơi, nên lúc tôi đã mệt mà người ta vẫn đến “quấy rầy”, tôi thường bực bội gắt gỏng. Hãy xem gương Chúa Giêsu Ngài không hề gắt gỏng, trái lại Ngài động lòng thương và tiếp tục phục vụ.

Nếu tôi chưa được như Chúa hy sinh cả thời giờ nghỉ ngơi, thì ít ra tôi đừng gắt gỏng với người ta. Tôi phải học biết “động lòng thương” họ.

  1. Khi Chúa Giêsu động lòng thương dân chúng thì Ngài làm gì? Việc trước tiên Ngài làm không phải là chữa bệnh, mà là “dạy dỗ họ nhiều điều”. Chúa thương người ta đau khổ, nhưng Chúa càng thương hơn vì người ta không biết Tin Mừng. Nói cho người ta một lời đem lại sức sống còn ích lợi hơn chữa cho người ta khỏi bệnh phần xác.

Tôi có sẵn những lời đó không? Nếu tôi gặp một người đang đau khổ, tôi sẽ nói gì để người đó thực sự được an ủi và lạc quan hơn chứ không có cảm tưởng nghe một lý thuyết suông?

  1. Abraham Lincoln là vị Tổng thống Hoa kỳ đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sử đất nước. Ngày nọ, căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm sự, tông thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.

Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn khởi lên như thế, người bạn già của tổng thống cho biết tổng thống không bàn hỏi với ông bất cứ điều gì có liên quan tới chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình. (Chờ đợi Chúa)

  1. “Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài” (Mc 6,33)

“Em thân mến! Giờ đây chị đã bình an. Chị không còn oán trách, giận hờn anh ấy và các bạn nữa. Trước đây, chị luôn nghĩ mình là người vững vàng, bản lãnh, là chỗ dựa của mọi người. Chị yêu anh ấy, nhưng lại cho rằng anh ấy thật yếu đuối. Chị đã làm tổn thương đến danh dự và lòng tự trọng của anh. Tình yêu tan vỡ, bạn bè xa lánh, chị rơi vào vực thẳm cô đơn, buồn thảm.

Trong hoàn cảnh tối tăm ấy, chị đã cầu nguyện thật nhiều. Và khi đối diện với Chúa, Đấng hiền lành và khiêm nhượng, chị nhận ra mình kiêu căng và tự mãn biết bao. Cảm ơn Người đã cho chị nhận biết sự thật về chính mình, dù là một sự thật đau lòng.

Em thân mến, khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn, em hãy lắng nghe Lời Chúa và khám phá ra thánh ý Người trong mọi biến cố của cuộc sống. Chị tin rằng mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp hơn và tâm hồn em sẽ được bình an.

Phúc cho chị vì chị đã chạy đến với Chúa và nhận ra ý Người. Còn em, có lẽ chỉ biết khóc và oán giận thôi; chẳng để ý đến sự hiện diện của Chúa và cũng chẳng tìm kiếm thánh ý Người.”

Lạy Chúa, Chúa vẫn ở bên con và đỡ bước con đi. Xin mở mắt cho con được thấy tôn nhan Chúa và nhận ra thánh ý Người. (Epphata)

print