Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 6 Thường Niên

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 6 Thường Niên

THỨ HAI TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN.

THỨ HAI TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 8, 11-13

Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người.

Người thở dài mà nói: “Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào”. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.

 

Suy Niệm 1a: Tìm một dấu lạ từ trời

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Ai cũng dễ bị hấp dẫn bởi cái lạ thường, cái khác thường.

Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.

Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,

lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.

Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ trong mấy năm sứ vụ.

Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,

cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.

Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ:

một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.

Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá:

một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết Ngài.

“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).

Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.

Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…

Kitô giáo không đặt nền trên những chuyện dị thường, ma quái.

Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ

vì Ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,

vì Ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,

và vì Ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.

Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.

Các ông Pharisêu không phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.

Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận:

“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).

Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.

Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào Ngài.

Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.

Làm sao chúng ta nhìn ra được những điều bình thường, nho nhỏ

mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày?

Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.

Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.

Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.

Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu

nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,

xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha

trong vũ trụ vô cùng lớn, trong những hạt tử vô cùng nhỏ,

và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.

Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín, mầu vàng mặt trời xế chiều.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.

Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,

tiếng gió rì rào qua kẽ lá.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.

Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,

hương thơm của nắng xuân dìu dịu.

Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha

khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,

sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,

sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,

và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.

Dưới lòng đất, trên núi cao,

giữa biển sâu, trong rừng vắng,

chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.

Xin cho chúng con

biết chung sống với thiên nhiên này

như một người bạn, một quà tặng Cha ban,

biết giữ gìn ngôi nhà trái đất

để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,

và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.

Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này

và muôn loài Cha đã dựng nên

được cùng với cả nhân loại chúng con

vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.

 

Suy Niệm 2: Đòi một dấu lạ

Suy niệm:

Trong Tin Mừng Máccô, ngay sau phép lạ bánh hóa nhiều lần thứ hai,

các ông Pharisêu đã đến và tranh luận với Đức Giêsu.

Đơn giản họ muốn đòi Ngài làm một dấu lạ từ trời.

Có vẻ phép lạ nuôi đám đông vừa qua và những phép lạ trước đó

không đủ để thuyết phục họ tin vào con người Ngài.

Họ vẫn muốn thử thách Đức Giêsu (c. 1).

Chẳng trách Đức Giêsu đã thở dài não nuột

và quyết liệt từ chối một cách trịnh trọng: “Tôi bảo thật cho các ông biết:

thế hệ này sẽ không được cho một dấu lạ nào cả.” (c. 12).

Toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu đã là một dấu lạ từ trời rồi.

Trong nỗi muộn phiền, Ngài đặt câu hỏi với các ông Pharisêu:

“Tại sao thế hệ này lại đòi một dấu lạ?” (c. 12).

Hóa ra họ lại vấp vào tội của cha ông họ thời xưa trong hoang địa:

“Tổ phụ các ngươi đã từng thách thức

và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.

Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán.” (Tv 95, 8-11).

Bất chấp bao việc lạ Chúa làm (Ds 14, 10-12. 22),

dân Chúa hôm qua cũng như hôm nay vẫn không ngớt đòi thêm.

Các vị lãnh đạo Do Thái giáo đòi thêm vì họ không muốn tin Đức Giêsu.

Chính vì lòng họ chai đá, không muốn tin,

nên các phép lạ lớn lao trước mắt chẳng ảnh hưởng gì trên họ.

Họ mong một phép lạ lớn hơn nữa, rõ hơn nữa, ấn tượng hơn nữa.

Nhưng dù dấu lạ manna rơi xuống từ trời có xảy ra lại

thì chưa chắc họ đã tin Đức Giêsu.

Thay vì đòi Ngài làm thêm phép lạ để minh chứng,

con người cần ra khỏi sự chai đá của lòng mình

Cần có mắt sáng để thấy được ý nghĩa sâu xa của phép lạ.

Cũng như cần có tai tốt để hiểu được các dụ ngôn của Đức Giêsu.

và đi vào mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Mc 4, 11).

Phép lạ của Đức Giêsu không chỉ hấp dẫn vì yếu tố kỳ diệu, lạ lùng,

nhưng vì chúng khai mở Nước Thiên Chúa

và vén mở cho ta thấy Đức Giêsu là ai.

Chẳng phải chỉ người Do Thái mới đòi hỏi những dấu lạ (1 Cr 1, 22).

chúng ta cũng dễ đặt đức tin mình trên nền tảng dấu lạ, phép lạ.

Chúng ta không thích cái bình thường, cái đều đặn xảy ra mỗi ngày,

vì chúng ta không tin Chúa hiện diện và hoạt động trong thầm kín.

Thay vì quá tìm kiếm và đòi hỏi những dấu lạ,

chúng ta được mời gọi nhận ra những dấu chỉ của thời đại mình sống.

Qua những thao thức và khát vọng của con người hôm nay,

chúng ta nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.

Qua dấu chỉ của một thế giới đang biến chuyển từng ngày,

chúng ta thấy Giáo hội cần thích nghi và đáp ứng những nhu cầu mới.

Người Pharisêu không đọc được ý nghĩa những dấu lạ Đức Giêsu làm.

Chúng ta xin ơn đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa cho thời hôm nay.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:

Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này

là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước

không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,

bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,

không còn những cô gái đứng đường

hay những người ăn xin.

Con mơ ước

những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,

các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước

tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,

các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,

con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,

xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,

và xanh của bao niềm hy vọng

nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,

thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 3: Đúc Tin

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su buồn và than phiền về thế hệ này. Họ chỉ đòi dấu lạ. Nhưng không có đức tin. Có đức tin thì không cần dấu lạ. Không có đức tin thì dấu lạ cũng vô ích. Nên Chúa quyết định: “Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia”. Chúa Giê-su bỏ họ lại đó với sự cứng lòng chết chóc của họ. Chúa sang bờ bên kia của đức tin. Chỉ có đức tin mới nối kết được con người với Thiên Chúa.

Nhưng đức tin luôn gặp thử thách vì những khó khăn trong đời sống. Những thử thách Chúa gửi đến có mục đích thanh luyện đức tin, kiểm nghiệm đức tin và ban thưởng đức tin.

Người có đức tin có Thiên Chúa ở cùng. Nên vui tươi trong mọi hoàn cảnh. Vui tươi khi gặp khốn khó. “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn”. Vui tươi chấp nhận mọi thăng trầm thành bại trong đời. Vì biết rằng mọi sự mau qua. “Người anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; còn người giầu có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ”. Vì thế người có đức tin không do dự. Luôn cầu xin ơn khôn ngoan để biết phân định trong đời sống. Nhờ đó sống trung tín trong mọi hoàn cảnh. Luôn trung tín (năm chẵn).

Người không có đức tin sống như không có Chúa. Ca-in giết em, tưởng Chúa không biết. Nên chối “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?”. Không có đức tin nên không chiến đấu để vượt qua cám dỗ. Dù đã được cảnh báo: “Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn người; nhưng ngươi phải chế ngự nó”. Không chế ngự được mình. Không có đức tin. Nên Ca-in sống trong buồn rầu, thất vọng. “Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi,… Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa” (năm lẻ).

Đức tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những gì khả giác để thấy thế giới siêu nhiên. Vượt qua những giá trị mau qua để chiếm được vương quốc vĩnh cửu. Vượt qua được những cám dỗ rình rập. Vượt qua chính mình để đạt tới Chúa.

 

Suy Niệm 4: Dấu lạ của tình thương

Thánh Marcô đặt cuộc tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ không tin.

Ở đây, chúng ta thấy rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.

Khi những người Biệt phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi”. Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.

Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.

Dấu lạ cả thể mà có lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.

Trong sự đóng góp khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người chưa nhận biết Chúa Kitô.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 5: Chúa Giêsu thở dài

Những người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. Người thở dài não nuột và nói: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc. 8, 11-12)

Than vắn thở dài là chuyện thường tình. Có ai đã không nghe tiếng thở than của một người bệnh, một người hấp hối? Ai trong chúng ta đã không bao giờ buông ra tiếng thở dài não nuột? Khi lòng ta gặp chuyện trái ý, đau buồn, thất vọng, hoặc thân xác ta phải đau đớn, thở dài một tiếng, ta cũng cảm thấy được vợi bớt phần nào. Chính nỗi đau thái quá ta phải chịu, khiến ta bộc lộ những phản ứng thái quá. Làm như thế ta coi như tâm hồn được giải thoát phần nào.

Trong Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu cũng phải buông tiếng thở dài. Người cảm thấy chán quá rồi. Ngay khi Người vừa mới ở dưới thuyền lên, những người Pharisiêu đã xấn lại và bắt đầu chất vấn Người. Họ đòi Người làm cho họ một dấu lạ từ tròi, bởi lẽ theo họ quan niệm, một vị ngôn sứ phải chứng tỏ mình có sứ mệnh Chúa trao bằng một dấu lạ từ trời. Họ đòi một điều như thế đó, khi mà Chúa Giêsu vừa mới làm phép lạ hóa bánh rá nhiều cho bốn ngàn người ăn no. Họ còn muốn được thấy từ trời đổ xuống một trận mưa những miếng bánh mì, như dấu chỉ có giá trị và chứng minh cho sứ mạng chân chính về ngôn sứ của Chúa Giêsu.Trước một yêu sách như thế, chứng tỏ họ cứng lòng và ngoan cố không tin, nên Chúa Giêsu phải thở dài não nuột.

Một thái độ cự tuyệt

Trong những điều kiện như vậy, để phản đối những người Pharisiêu, Chúa Giêsu tỏ một thái độ cự tuyệt, một sự từ chối thẳng thừng: “Thế hệ này sẽ khong được một dấu lạ nào cả”. Biết được lòng dạ xấu xa của họ, Chúa Giêsu không tranh luận, không tự biện bạch, Người từ chối điều họ yêu cầu. Và như để tỏ rõ lập trường hơn nữa, Người nói là làm ngay: Người để họ đứng trơ ra đó, xuống thuyền, đi ngược chiều về phía bờ bên kia. Nguyên sự có mặt của họ cũng đủ làm cho Người bực mình rồi, nên Người muốn thoát đi cho mau lẹ. Chúa Giêsu tỏ ra rất cương nghị, Người tàn nhẫn xua đuổi những kẻ đến trò chuyện với mình. Vì đây là trường hợp hi hữu, trái với thái độ thường xuyên của Người là vốn niềm nở tiếp đón và hiền từ với mọi người: xưa nay Người vẫn hay để cho dân chúng chen lấn xô đẩy, trẻ em “quấn quýt”, bệnh nhân tràn ngập.

Là những tín hữu, chúng ta có thể bắt chước thái độ ngoan cường, cứng rắn đó của Chúa không? Tất nhiên là có, khi danh dự của Chúa – chứ không phải của ta – bị coi thường. Người ta vẫn tố cáo là Kitô giáo đã làm cho con người trở nên nhu nhược, mất tính nam nhi, ta cần phải chứng minh điều ngược lại, khi biết tỏ thái độ cương quyết, lúc cần phải tỏ. Người Kitô hữu là người có khả năng chọn lựa, thì cũng phải có khả năng từ chối. Nhưng người Kitô hữu cũng phải biết cho người ta những dấu lạ ở trần gian khi người ta đòi mình những dấu lạ từ trời.

 

Suy Niệm 6: Cần có đức tin để đón nhận tình thương

Chúng ta thấy trong Tin Mừng, gần như đã trở thành quy luật để Đức Giêsu thi hành phép lạ, đó là đức tin và lòng mến. Nếu không có đức tin thì ắt không thể có lòng mến, mà không có lòng mến thì làm sao có thể hoán cải? Như thế sẽ không bao giờ có phép lạ!

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy những người Pharisêu cũng đến để nghe Đức Giêsu giảng và họ đã chứng kiến rất nhiều phép lạ cả thể Đức Giêsu đã làm. Một trong những phép lạ mới nhất, đó là phép lạ hóa bánh ra nhiều cho bốn ngàn người từ bẩy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ. Tuy nhiên, thay vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, thì họ lại trai cứng và tiếp tục đi vào vết xe đổ như Tổ tiên họ đã thách thức Thiên Chúa trong Samạc; hay đi theo con đường của Satan khi chúng thử thách Đức Giêsu sau khi Ngài ăn chay 40 đêm ngày! Trước sự chai lỳ và u mê do thói kiêu ngạo, ghen tỵ và sự giả dối nơi họ, nó đã làm cho lương tâm những người Pharisêu bị phủ lấp và không còn nhạy bén để nhận ra tình thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ?” Và Ngài đã không làm phép lạ theo như yêu cầu của những người Pharisêu, bởi vì họ không tin và phép lạ không thể diễn ra trong sự thách thức và cưỡng bách được.

Trong đời sống đức tin của chúng ta thường ngày cũng vậy. Nhiều khi cũng thách thức Thiên Chúa khi chúng ta đem Ngài ra để so sánh với ông nọ, thần kia; hoặc có lúc chúng ta cũng ra những điều kiện cho Ngài khi nhủ rằng: nếu Chúa có mặt thực sự, thì Chúa làm cho con được thế này hay thế kia thì con sẽ tin? Những lúc như thế, chúng ta đã bị sự kiêu ngạo thúc bách và khi đó trong ta chỉ còn những yêu cầu phát xuất từ sự tham vọng và thực dụng thuần túy mà không hề nghĩ đến ơn cứu chuộc là hạnh phúc vĩnh cửu!

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con ơn khiêm tốn và lòng yêu mến Chúa để chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và luôn sống trong sự an bài của Ngài. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Một dấu lạ từ trời

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng… Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh… trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước… Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.

Thảm trạng của con người thời đại: Con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm… con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

Suy niệm

Theo văn mạch của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vừa làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (x. Mc 4,35-5,43): Dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (x. Mc 8,1-10). Thế mà những người pharisiêu vẫn chưa tin Ngài, họ lại thách Ngài làm một “dấu lạ từ trời”, nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.

Họ không chú ý tìm chân lý nhưng chỉ để thử Ðức Giêsu, họ thiếu thiện chí, họ không tin là vì họ ngoan cố. Nơi lòng dạ những người cứng tin này, Ðức Giêsu buồn lòng, Ngài không làm gì được cho họ.

Trong phần tiếp theo của Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm thêm những phép lạ khác. Những phép lạ đó không phải làm cho những người pharisiêu cứng lòng, nhưng cho những người tin. Phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn chúng ta tới đức tin. Bởi thế, nếu sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ chưa phải là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.

Xin cho chúng ta biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, đức tin soi chiếu từng bước chân đi vào đời.

Ý lực sống: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).

 

Suy Niệm 8: Biệt phái xin Chúa phép lạ từ trời

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (8,1-10) lần thứ hai ở phía đông biển hồ Bétsaiđa, Chúa Giêsu cùng môn đệ xuống thuyền sang phía tây hồ. Nhưng vừa cập bến được ít lâu, một nhóm biệt phái, có cả nhóm sađucêu nữa, kéo nhau đến rình mò , tranh luận và thử thách Ngài.

Trước đó Người cũng đã làm nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35 – 5,43: dẹp yên bão táp, trục xuất quỉ ám  ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người biệt phái vẫn chưa tin Người. Hôm nay họ lại thách thức Người làm một “dấu lạ từ trời” nghĩa là một phép lạ phát xuất từ chính Thiên Chúa.

  1. “Người thở dài não nuột mà nói…”

Thực ra những phép lạ Người làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ minh chứng Người là Đấng có quyền phép “từ trời”. Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói  sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa .

Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm nhiều phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho  những người biệt phái ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người biệt phái cứng lòng.

  1. Vấn đề phép lạ – dấu lạ.

Đành rằng trong công cuộc truyền giáo, Chúa ban cho một số chứng nhân của Người có khả năng làm một số phép lạ hay dấu lạ để minh chứng lời rao giảng và nâng đỡ niềm tin cho người nghe, nhưng phép lạ hay dấu lạ không là điểm chính yếu và đóng vai trò quyết định cho việc đón nhận Lời Thiên Chúa. Vì thế, sẽ tầm thường hóa niềm tin và hậu quả là sự hời hợt không có chiều sâu cũng như không có sự yêu mến đích thực.

Thánh Phaolô từng dạy rằng, đã trông thấy rồi mới tin thì không còn là đức tin nữa. Nói cách khác, chỉ là sự bất đắc dĩ phải chấp nhận khi chuyện đã tỏ tường mà thôi. Thiên Chúa ban phép lạ hay dấu lạ là do lòng nhân hậu của Người và có giá trị trong chương trình cứu độ, chứ không chiều theo sở thích của con người đòi hỏi Người phải ban dấu lạ điềm thiêng.

Thật vậy, một đức tin trưởng thành không hệ tại ở dấu lạ, mà kiên trì trong thử thách và sự trung tín bền vững vào Chúa. Đó mới là điều hữu ích cho linh hồn tín hữu.

  1. Những phép lạ kể trên  đã đủ chứng minh Chúa Giêsu là Đấng có quyền phép từ trời rồi. Thế nhưng, họ không tin là vì họ ngoan cố, bởi đó Ngài nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.

Chúng ta phải nói lại, phép lạ Chúa như vậy, Tin Mừng hôm nay cho thấy phép lạ “không sinh ra đức tin” mà chỉ là “dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin”. Bởi thế, Sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima, La Vang…) thì chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả mọi việc, kể cả việc nhỏ và tầm thường nhất.

  1. Niềm tin thì chúng ta dễ có, và có thể tạo ra niềm tin, còn Đức tin thì phải đến từ Thiên Chúa, đó là một hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải con người tạo ra Đức tin. Trong hành vi đức tin, Thiên Chúa vừa cho có ánh sáng, vừa cho bóng tối. Đức tin, vì thế đòi hỏi phải có sự khó nhọc, chọn lựa, hy sinh và dấn thân. Một Đức tin mà đòi hỏi một chứng cớ rõ ràng, thì không phải là Đức tin nữa. Vả lại, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình thương, mà trong tình yêu thì không có sự ép buộc hay cưỡng bức, nhưng là sự tự do, tự nguyện.
  2. Truyện: Hãy cho tôi thấy Thiên Chúa.

Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng rất ngạo ngược. Ngày kia, ông bèn nảy ra ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.

Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thực hiện cho nhà vua được? Vì không thiếu phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách  thức ấy.

Biết được nỗi lo âu ấy, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo  cho phép để chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Họ không tin tưởng lắm, nhưng cũng đành lòng chấp nhận.

Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn”.

Nhà vua tức giận quát lớn: “Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai có thể nhìn vào mặt trời chói chang như vậy”?

Lúc ấy, người chăn chiên liền quì gối xuống trước mặt vua mà nói: “Muôn tâu bệ hạ, với một vật Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?

 

Suy Niệm 9: Ý nghĩa và giá trị của phép lạ

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Chuyện này xảy ra sau phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai. Trước đó Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ trong đó có những phép lạ lớn (Mc 4,35—5,43 dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ám ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại). Thế mà những người pharisêu vẫn chưa tin Ngài. Hôm nay họ lại thách Ngài làm một “dấu lạ từ trời” nghĩa là một phép lạ xuất phát từ chính Thiên Chúa.

Thực ra những phép lạ Ngài làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể trên, đã đủ chứng minh Ngài là Đấng có quyền phép “từ trời”. Sở dĩ họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố. Bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa cả. Trong phần tiếp theo, Tin Mừng Mc vẫn tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu làm thêm những phép lạ khác. Tuy nhiên những phép lạ đó cũng chẳng phải làm cho những người pharisêu ấy. Nói cách khác, những phép lạ ấy chỉ có ý nghĩa và giá trị cho những người khác chứ không cho những người pharisêu cứng lòng.

B…. nẩy mầm.

  1. Bài Tin Mừng này cho ta thấy rõ phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là những dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin. Bởi thế, sống đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (Lộ Đức, Fatima, Cha Diệp v.v) chưa hẳn là sống đạo thật. Sống đạo thật là sống bằng đức tin.
  2. Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả những việc Chúa làm, kể cả những việc nhỏ nhoi và tấm thường nhất.
  3. Bà nội và cháu trai 5 tuổi buổi sáng đi dạo ở vùng thôn quê, sương giá nhuộm trên cành lá tạo cho chúng màu sáng lấp lánh thật quyến rũ.

Bà ngạc nhiên, nhìn lên sườn đồi trong màu vàng đỏ tươi lấp lánh: “Hãy nghĩ xem, Thiên Chúa đã sơn tất cả cảnh đó”.

Cháu đồng ý: “Vâng, và Ngài đã thực hiện với cánh tay trái của Ngài”.

– Cháu muốn nói gì?

– Ồ, vào ngày Chủ nhật, chúng con được dậy rằng Chúa Giêsu đang ngồi bên tay hữu Thiên Chúa. (Góp nhặt)

  1. “Chúa Giêsu nói: ”Thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả” (Mc 8,12)

Sáng nay, lời của ông thấy dạy chính trị làm mình rất khó chịu: “Tôi thấy cũng lạ, đã tin là có Chúa, có Mẹ, làm sao các nóc nhà thờ trồng cột thu lôi làm gì. Chẳng lẽ cha mẹ phá huỷ con cái mình sao?” Và mọi người bàn tán xôn xao.

Khi người ta tôn thờ vật chất và tôn vinh con người cách quá đáng thì dễ đi tới kết luận tôn giáo là mê tín, hoang tưởng. Họ khó mà có được lòng khiêm tốn để nhận biết Thiên Chúa, và dễ trở thành những con người độc tôn. Vô ích nếu chỉ đôi co và biện lý.

Dứt khoát tôi không thể chỉ cho họ thấy một Thiên Chúa nhân hậu khi tôi chưa sống như một người nhân hậu.

Lạy Chúa, xin cho con biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, để với niềm tin này con sẽ giúp người khác nhận ra Chúa. (Epphata)

 

THỨ BA TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 8, 14-21

Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: “Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê”. Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: “Tại mình không có bánh”.

Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: “Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?” Các ông thưa: “Mười hai thúng”. – “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?” Họ thưa: “Bảy thúng”.

Bấy giờ Người bảo các ông: “Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?”.

 

Suy Niệm 1: Không nhớ sao?

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Tin Mừng Máccô kể ba câu chuyện về việc Thầy trò vượt Biển hồ.

Lần đầu, Thầy Giêsu đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng

khiến các môn đệ tự hỏi: Người này là ai…? (Mc 4, 35-41).

Lần thứ hai, sau khi hóa bánh ra nhiều, Thầy đã đi trên mặt nước mà đến với họ.

Nhưng lòng các môn đệ còn chai đá,

họ không hiểu được chuyện bánh hóa nhiều (Mc 6, 45-52).

Bài Tin Mừng hôm nay là lần cuối Thầy trò vượt biển qua bờ bên kia,

sau khi Thầy Giêsu đã hóa bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8, 1-10).

Có một sự cố xảy ra khiến các môn đệ lo âu.

Các ông quên mang bánh khi vượt biển.

Trên thuyền chỉ có một cái bánh duy nhất (c. 14).

Không rõ tại sao trong bối cảnh này Thầy Giêsu lại cảnh báo các ông

về thứ men xấu làm hư hỏng con người (x. 1 Cr 5, 6-8),

đó là thứ “men của người Pharisêu và men của người theo Hêrôđê (c. 15).

Có lẽ vì cuộc đụng độ vừa qua với người Pharisêu (Mc 8, 11-13).

Nhưng lời cảnh báo của Thầy Giêsu có thể đã bị các môn đệ hiểu sai.

Các ông tưởng Thầy trách về chuyện họ không mang đủ bánh.

Từ đó xảy ra một cuộc tranh cãi giữa họ với nhau về chuyện này.

Thầy Giêsu chắc là giận lắm.

Chưa khi nào chúng ta thấy Ngài đặt nhiều câu hỏi liên tiếp như vậy.

Tùy lối chấm câu, có thể có từ sáu đến chín câu hỏi.

Qua các câu hỏi, Ngài bày tỏ sự thất vọng về các môn đệ.

Họ chậm hiểu, chậm nắm bắt; tim của họ bị chai (c. 17).

Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe (c. 18).

Trí nhớ và lòng tin của họ khá kém,

vì dù đã chứng kiến hai lần phép lạ bánh hóa nhiều,

một lần, năm chiếc bánh cho năm ngàn người,

lần khác, bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người,

họ vẫn lo âu khi thấy trong thuyền chỉ có một chiếc bánh dự trữ.

“Vậy mà anh em vẫn còn chưa hiểu sao?” (c. 21).

Chúng ta cũng nghe Chúa hỏi câu hỏi này khi chúng ta xao xuyến âu lo

trước những khó khăn của cuộc sống.

Các môn đệ vượt biển mà không mang đủ lương thực cần dùng.

Họ lo âu vì sợ lỡ ra có bão hay sự cố gì thì làm sao đây.

Thực ra điều họ quên không phải là bánh,

mà là quên Thầy Giêsu đang ở cùng thuyền với họ.

Chúng ta cần ôn lại những điều lạ lùng Chúa đã làm cho đời ta từ nhỏ,

để sống mỗi ngày trong bình an.

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

con phó mặc con cho Cha,

xin dùng con tùy sở thích Cha.

Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.

Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.

Miễn là ý Cha thực hiện nơi con

và nơi mọi loài Cha tạo dựng,

thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.

Con trao linh hồn con về tay Cha.

Con dâng linh hồn con cho Cha,

lạy Chúa Trời của con,

với tất cả tình yêu của lòng con,

Vì con yêu mến Cha,

vì lòng yêu mến

thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,

thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,

không so đo,

với một lòng tin cậy vô biên,

vì Cha là Cha của con. (Charles de Foucauld)

 

Suy Niệm 2: Anh em không nhớ sao?

Suy niệm:

Ít khi Đức Giêsu giận các môn đệ đến thế.

Ngài đặt cho họ dồn dập bảy câu hỏi liên tiếp (cc. 17-21),

và Ngài chỉ cho họ hai cơ hội trả lời (cc. 19, 20).

Câu chuyện xảy ra khi Thầy trò đang ở trên thuyền đi qua bờ bên kia.

Các môn đệ quên đem bánh theo,

hay đúng ra trên thuyền chỉ có một chiếc bánh (c. 14).

Hẳn các ông đã cảm thấy lo âu, bất an,

vì lỡ ra cuộc hành trình kéo dài,

một chiếc bánh làm sao đủ ăn cho cả nhóm?

Chính vì thế họ mới bàn tán với nhau về chuyện thiếu sót này (c. 16).

Chẳng rõ cuộc bàn cãi giữa họ có lớn tiếng không,

nhưng chắc chắn Thầy Giêsu đã biết được (c. 17).

“Tại sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh?” (c. 17).

Tại sao anh em lại có vẻ lo sợ, không yên?

Thầy Giêsu rõ ràng không chấp nhận thái độ bất an đó.

“Anh em chưa hiểu, chưa thấu sao?

Anh em có trái tim cứng cỏi như thế sao?” (c. 17; Mc 6, 52).

Đối với người Do Thái, trái tim là nơi phát sinh mọi suy nghĩ và hiểu biết.

Một trái tim cứng cỏi ắt không còn khả năng thấu hiểu.

Khi đường vào trái tim bị nghẽn, mọi lối vào qua giác quan cũng bế tắc:

“Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe sao?” (c. 18).

Người có trái tim cứng cỏi thì trở nên mù lòa và điếc lác.

Để các môn đệ thấy rằng nỗi lo âu của họ là vô lý,

Thầy Giêsu đã gợi cho các ông nhớ lại hai lần Ngài làm bánh hóa nhiều.

“Anh em không nhớ sao?” (c. 18).

Với năm chiếc bánh Thầy bẻ cho năm ngàn người ăn,

anh em còn thu về được mười hai thúng bánh vụn (c. 19; Mc 6, 31-44).

Với bảy chiếc bánh Thầy bẻ cho bốn ngàn người ăn,

anh em còn thu được bảy giỏ đầy (c. 20; Mc 8, 1-9).

Thầy có thể nuôi được số đông người như thế một cách dư dật,

vậy mà anh em còn lo vì thấy cả nhóm chỉ có một chiếc bánh khi qua hồ.

Câu hỏi cuối cùng của Thầy: “Anh em vẫn chưa hiểu sao?”

Con người là con vật hay lo, quay quắt vì lo.

Có khi lo vì dễ quên những gì Chúa đã làm cho đời mình.

Nếu ta dành giờ để suy nghĩ về những kỳ công Chúa làm trong quá khứ,

ta sẽ được giải thoát khỏi những nỗi lo hiện tại chẳng đáng gì.

Hãy để cho trái tim mình mềm lại, trí hiểu được thông suốt,

mắt sáng lên và tai nhạy bén, trí nhớ minh bạch rõ ràng.

Như thế là hãy để cho toàn bộ con người mình mở ra trước Thiên Chúa,

tín thác vào sự quan phòng của Ngài khi ta băng qua biển đời.

Hôm nay Đức Giêsu vẫn hỏi chúng ta: Anh em không nhớ sao?

Nhớ là hành vi quan trọng trong đời sống thiêng liêng.

Nhớ sẽ làm chúng ta bình an ra khơi với Thầy, dù chỉ có một chiếc bánh.

Nhớ sẽ làm chúng ta dám chia sẻ số bánh nhỏ nhoi của mình cho đám đông.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,

nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,

dễ thấy Chúa hiện diện

và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,

xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,

khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu

để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu

để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,

vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,

hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 3: Men Biệt phái

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Men kích thước rất nhỏ. Nhưng tác dụng rất lớn. Chỉ một nắm men nhỏ cũng làm dậy lên cả thúng bột. Có men tốt. Nhưng cũng có men xấu. Vì thế Chúa dạy các tông đồ: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê”. Đừng nhiễm một chút nào những thói xấu của họ.

Men Pha-ri-sêu là thói giả hình. Bề ngoài đạo đức. Nhưng bên trong xấu xa. Như mồ mả tô vôi. Là thói kiêu ngạo. Tự cho mình là công chính. Khinh miệt người khác. Là thói duy luật. Thờ kính Chúa bằng môi miệng. Nhưng lòng dạ thì xa Chúa. Câu nệ lề luật. Nên tàn nhẫn với tha nhân.

Men Hê-rô-đê là thói ham quyền. Dùng nhiều thủ đoạn để chiếm ngai vàng. Là thói ham hưởng thụ. Vì sắc dục mà làm điều phi luân. Say sưa yến tiệc và sắc đẹp. Nên bốc đồng hứa quàng. Là thói bất công. Sẵn sàng đàn áp, giết chóc. Cướp vợ của anh trai. Giết hàng loạt hài nhi vô tội. Giết cả vị tiên tri đáng kính.

Men thói đời rất nguy hiểm. Nó làn tràn khắp nơi. Như thời No-e. Khiến Chúa buồn phiền hối hận. “Đức Chúa thấy rằng trên mặt đất sự gian ác của con người quả là nhiều, và suốt ngày lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng”. Và quyết định rửa sạch trái đất. Chỉ mình No-e, nhờ không nhiễm thói đời, nên được Chúa cứu thoát. “Người hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta chỉ thấy ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này” (năm lẻ).

Cám dỗ là một hạt men nhỏ. Phát triển trong dục vọng. Tàn phá trong cái chết. “Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình … Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết”. Vì thế thánh Gia-cô-bê khuyên nhủ ta hãy kiên trì chiến đấu chống lại men cám dỗ. “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người” (năm chẵn).

Phải có phân định chính xác. Vì men rất tinh vi. Phải có thanh luyện liên tục. Vì men rất dễ nhiễm. Phải quyết liệt. Vì nếu nhân nhượng sẽ dẫn đến cái chết.

 

Suy Niệm 4: Tín thác vào tình yêu của Chúa

Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ để đi về hướng Betsaiđa; Ngài lợi dụng những giây phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Ngài đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều.

Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của Biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm người này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để nói đến tinh thần kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiểu được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.

Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra khỏi những bận tâm vật chất ấy để hiểu được ý nghĩa các phép lạ và sứ điệp của Ngài. Ðó cũng chính là nội dung của chương trình huấn luyện mà Ngài đeo đuổi trong ba năm rao giảng của Ngài. Mãi đến lúc Ngài bị bắt và chịu treo trên Thập giá, xem chừng các môn đệ vẫn chưa hiểu được chiều sâu sứ điệp của Ngài. Mơ tưởng của những người dân chài này là được trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc trần gian mà họ nghĩ là Chúa Giêsu đã đến để thiết lập.

Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài hãy vượt lên những bận tâm vật chất để đi vào chiều sâu sứ điệp của Ngài. Ðiều đó cũng có nghĩa là tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài. Giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, con người dễ dàng chạy đến với Chúa: đó là thái độ rất chính đáng, bởi vì qua cử chỉ ấy, con người tuyên xưng niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy có một thái độ vô vị lợi hơn, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Ngài. Một thái độ như thế sẽ cho chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài, và cho chúng ta thốt lên như các vị thánh: “Tất cả đều là hồng ân của Chúa” bởi vì tình yêu của Ngài vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta một niềm tin như thế, để trong mọi sự, chúng ta luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 5: Quên mang theo bánh

Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh? Các ông đáp: “Thưa được mười hai.” “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói: “Thưa được bảy.” (Mc. 8, 19-20)

Khi thuyền đã ra tới gần giữa Biển Hồ, các môn đệ mới nhận thấy là chỉ có một cái bánh cho bữa ăn. Một cái bánh cho mười hai người mà phần lớn đều là những tay chài thì thật quá ít, chẳng bõ nhét kẽ răng cho mỗi người. Vì thế cuộc cãi vã nổi lên có lẽ để dò tìm cho biết ai là người đã gây nên cớ sự này, ai là người phụ trách lo lương thực cho nhóm? Chẳng lẽ người ấy không có thể mang theo cả thúng bánh thừa sau phép lạ sao? Thấy vậy, Chúa liền can thiệp mạnh mẽ và nghiêm nghị đến độ ta phải ngạc nhiên. Tại sao rầy rà nhau vì đã quên mang bánh theo? Tại sao cãi cọ nhau vì một sự cố tầm thường như thế? Thường khi người ta quên sót một điều chi, thì hay bực bội. Nhưng Chúa Giêsu nắm lấy cơ hội này để huấn luyện các môn đệ của mình, và qua đó Người cho ta thấy rằng tư chất cuộc sống thưòng ngày bộc lộ cái tâm cúa ta rõ hơn ta tưởng.

Thực ra không phải vì chuyện quên mang theo bánh khiến Chúa Giêsu bực mình mà vì chuyện quên sót này làm cớ cho các tông đồ cãi cọ nhau và gây lo lắng cho các ông; vả lại cuộc cãi cọ này còn cho thấy các tông đồ hiểu biết về bản thân Chúa còn quá ít. Quên bánh đưa các ông tới điều quên Người là Đức Giêsu Kitô.

Căn nguyên của sự quên xót

Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Chúa cảnh báo các môn đệ về căn nguyên sự quên lãng chính bản thân Người, tức là thái độ không tin. Men Pharisiêu và men Hêrôđê chính là những ý xấu, những thái độ từ chối và thù địch đối với Chúa Giêsu và là sự cố chấp không chịu tin các dấu lạNgười làm. Những tâm hồn cứng cỏi này có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe. Đã hẳn các tông đồ không phải là những con người như vậy: các ông đã không đòi hỏi những dấu lạ từ trời, không tích cực tỏ ra không tin. Tuy nhiên các ông đã không nắm bắt được ý nghĩa việc Chúa làm trước mắt các ông, và do đó có nguy cơ dẫn đến thái độ không tin. Bởi lẽ các ông sống và suy nghĩ như thể đã không được nhìn thấy phép lạ hóa bánh vậy. Chúa bảo các ông phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisiêu là có ý như vậy. Quên Đức Giêsu Kitô nơi tư chất sống của Người có thể dẫn đến việc công kích Đức Giêsu Kitô vậy.

Chúng ta sợ hãi gì? Sợ thiếu những sự cần, sợ phải rủi ro xui xẻo, sợ ốm đau, sợ chết. Sợ những điều đó là chuyện thường tình của con người … người tín hữu đâu phải là siêu nhân. Nhưng khi ta sợ hãi như vậy, chẳng phải là đã có sự quên lãng Chúa ư, và thậm chí đã không tin Chúa một cách nào đó sao?

 

Suy Niệm 6: Anh em chưa hiểu ư ?

Qua những ngày làm việc mệt nhọc với đám đông dân chúng và sau khi Đức Giêsu bị những người Pharisêu đòi hỏi về dấu lạ…, Đức Giêsu đã không những không làm mà Ngài đã bỏ họ mà đi nơi khác.

Thánh Máccô kể: Đức Giêsu và các môn đệ đã trèo thuyền để ra đi hướng về Betsaiđa. Khi Ngài và các ông đang ở trên thuyền, thì đây là lúc riêng tư để thầy trò tâm sự. Đức Giêsu đã lên tiếng căn dặn các môn sinh của mình: “Anh em phải coi chừng, hãy đề phòng men Pharisêu và Hêrôđê!”. Tại sao Đức Giêsu lại cẩn trọng nhắc các môn đệ như vậy? Thưa là vì Ngài thấy rõ sự mù quáng do thành kiến và xuất phát từ thói kiêu ngạo, ghen tỵ, hình thức gây ra cho hai nhóm này, nên lòng họ khô cứng, trai lỳ, không còn nhạy bén với lương tâm nữa. Chính vì thế mà Đức Giêsu cảnh báo các môn đên dừng đi vào vũng lầy đó của họ.

Mặt khác, qua những lời thầm thì thể hiện sự lo lắng của các môn đệ về chuyện các ông không mang bánh theo, Đức Giêsu đã khiển trách các môn đệ và Ngài tiếp tục dạy cho các ông bài học về sự phó thác. Đức Giêsu đã dùng phương pháp hồi tưởng để gợi lại cho các môn sinh về sự quan phòng của Thiên Chúa khi con người tin tưởng vào Ngài qua hai phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nhắc lại như thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn để củng cố lòng tin của các ông vào chính Ngài, đó là: có Chúa là có tất cả. Chúa là kho báu mà không gì có thể sánh bằng.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn, tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, nhất là những lúc khó khăn, thử thách.

Khi phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay phù trợ, che trở và đỡ nâng chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con phó thác cuộc đời của mình vào bàn tay từ ái của Chúa để được Ngài yêu thương. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Men Pharisiêu và Hêrôđê

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Con mèo bề ngoài trông có vẻ hiền lành, mềm mại. Khi muốn ăn, nó đến sát cạnh ta, cọ mình vào chân ta, ve vẩy đuôi, kêu meo meo, gừ gừ tỏ vẻ tình tứ, nhưng khi đã ăn rồi nó đi thẳng một lèo, gọi mấy cũng không đến. Khi rình chuột thì nó đi lại rất nhẹ, thu mình vào một xó tối, nằm im không cử động để chuột mất cảnh giác chạy ra tung tăng. Khi đó, anh mèo mới giở thủ đoạn chồm lên bắt mồi, ngoạm cổ đem đi cắn xé ăn thịt.

Người giả hình cũng tương tự như vậy.

Suy niệm

Trước phép lạ hóa bánh ra nhiều và các phép lạ của Chúa Giêsu, người biệt phái giả hình cố chấp vẫn không tin Chúa Giêsu. Họ còn đòi Ngài làm một dấu chỉ từ trời (x. Mc 8,11-13). Những người phái Hêrôđê thì lo chuyện quyền bính chính trị và quyền lợi vật chất nên cũng không lưu tâm đến giáo lý Chúa Kitô. Họ cứng lòng cố chấp. Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ phải tránh men giả hình của biệt phái và men quyền bính và ham vật chất của phái Hêrôđê. Hình ảnh “men” chỉ những gì gây nên tình trạng biến chất, hư hại do kiêu ngạo và thành kiến, làm cho người Pharisiêu và Hêrôđê cố chấp mù quáng không nhận ra ý nghĩa phép lạ.

Chính các môn đệ lòng trí hẹp hòi, con mắt thiển cận, chỉ nghĩ đến những cái trước mắt, những cái vật chất của thế giới trần tục nên dễ bị nhiễm thứ men này. Cho nên, Ðức Giêsu cảnh giác các đồ đệ, Ngài hướng các ông đến sự khát khao thần thiêng: Cuộc sống vĩnh cửu mới, đòi hỏi sự cố gắng mỗi ngày. Chúa Giêsu nhắc các môn đệ nhớ lại hai lần hóa bánh ra nhiều và giúp họ nhận ra ý nghĩa của các phép lạ Chúa làm. Ðiều đó cũng có nghĩa khẳng định tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài.

Ước chi mỗi người chúng ta cũng có thái độ vô vị lợi, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa và nhận ra tình yêu của Ngài, tình yêu vĩ đại vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.

Ý lực sống: “Chúa Giêsu bảo các môn đệ: Anh em phải coi chừng,

phải đề phòng men Pharisiêu và men Hêrôđê”(Mc 8,15).

 

Suy Niệm 8: Hãy tránh men biệt phái

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu xuống thuyền đi với các môn đệ. Nhưng các ông quên mang bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh. Dọc đường, Chúa căn dặn các ông cẩn thận lo tránh “men những người biệt phái và Hêrôđê”, tức là lo tránh thói tự mãn, cứng đầu cứng cổ của họ. Nhưng các ông không hiểu ý Chúa muốn nói, mà cứ tưởng là Chúa quở vì không mang bánh theo ăn, nên Chúa trách các ông chậm hiểu kém tin. Chính mắt các ông đã thấy hai phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều cho mấy ngàn người ăn no nê mà còn dư thừa, chính tai các ông đã nghe bao nhiêu lời Chúa dạy mà cũng chưa hiểu chưa tin.
  2. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ đi về hướng Betsaiđa; Người lợi dụng những phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông  về những phép lạ Người đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá ra nhiều.

Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để nói đến tính kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiều được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.

  1. Từ thời Ai cập cổ đại, người ta đã dùng men để làm bánh mì, làm rượu. Mãi đến năm 1857 nhà khoa học Louis Pasteur mới khám phá ra rằng men thực ra là một thứ vi sinh vật thuộc loài nấm, âm thầm mọc rễ đam chồi trong các chất hữu cơ và làm biến chất chúng. Có những loài men hữu ích loài người biết được và sử dụng, nhưng cũng có hàng ngàn thứ men có hại như men chua, men thối làm hư hỏng thức ăn, thậm chí gây nhiễm độc chết người.

Chúa Giêsu cho biết về mặt thiêng liêng cũng có nhiều thứ “men”. Có thứ “men Nước Trời” mà người môn đệ Kitô đem thấm nhập vào trong thúng bột thế giới và âm thầm làm nó dậy men. Cũng có thứ men mà Chúa cảnh giác các môn đệ phải coi chừng, phải loại bỏ men biệt phái và men Hêrôđê (5 phút Lời Chúa).

  1. “Anh em phải coi chừng, phải đề phong men biệt phái và men Hêrôđê” (Mc 8,150.

Khi xuống  thuyền vội vàng, các ông quên mang bánh theo, trên thuyền chỉ có một chiếc thì không đủ cho mọi người. Các ông bàn tán việc đi mua bánh. Nhân dịp này, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ hãy dè giữ cho khỏi men người biệt phái và men Hêrôđê.

Như chúng ta đã biết “Men” là hình ảnh những gì gây nên tình trạng biến chất, làm hư hại các chất hữu cơ). Các rabbi coi đó là những những hướng chiều xấu nơi con người. Ngày nay men biệt phái và men Hêrôđê vẫn còn sinh sôi nảy nở trong thời đại của chúng ta. Đó là thói kiêu căng giả hình, đánh mất lòng nhân nghĩa. Đó là “men” thực dụng, nặng về tiền bạc và vật chất, sống hưởng thụ và ích kỷ, men dâm ô, qua sách báo phim ảnh xấu khiến chúng ta vì đam mê chúng mà trở nên lãnh đạm thù nghịch với tình yêu Chúa và ơn cứu độ của Người. Vậy chúng ta đang “say” thứ men nào, “men trần tục” hay “men Kitô”?

  1. “Người bảo các ông: “Anh em chưa hiểu ư”?

Câu hỏi này là lời Chúa trách móc các môn đệ. Họ là những người đã chứng kiến những phép lạ Chúa làm, họ đã phân phát bánh hóa nhiều mà họ còn lo lắng để tiếp tế lương thực, trong lúc Chúa Giêsu còn ở bên cạnh họ! Thế nhưng họ đã không ý thức rằng có Chúa Giêsu ở với họ, là họ có tất cả.

Điều này thật đúng tâm lý chúng ta. Chúng ta dễ dàng chấp nhận rằng: dĩ vãng, Thiên Chúa đã can thiệp cứu giúp chúng ta, ở với chúng ta. Nhưng hiện tại, khi chúng ta gặp khó khăn, gặp thử thách, phản ứng đầu  tiên của chúng ta là lo lắng hốt hoảng, nghi ngờ, bối rối, chứ chúng ta có giữ bình tĩnh và tin chắc rằng Chúa vẫn tiếp tục ở với chúng ta không?

  1. Truyện: Hãy nhìn ra dấu chỉ của thời đại.

Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng… Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Tây phương, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh… trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước… Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ gặp một xác người. Một người thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành”.

Tại sao lại có chuyện thế này? Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng”.

Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm… con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại (Mỗi ngày một tin vui).

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu cảnh giác men pharisêu và men Hêrôđê

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Câu chuyện này có liên quan tới phép lạ bánh hóa nhiều mà Mc vừa tường thuật phía trước (Mc 8,1-10)

– Phép lạ ấy đã chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu Ngài là một ông Môsê mới, ban lương thực dư dật không những cho người do thái mà còn cho cả lương dân.

– Nhưng những người pharisêu vẫn không tin Chúa Giêsu. Họ còn đòi Ngài làm một dấu chỉ từ trời (Mc 8,11-13). Còn những người phái Hêrôđê thì chỉ lo chuyện chính trị và bảo vệ quyền lợi vật chất của họ. Phép lạ hóa bánh ra nhiều (và cách chung là tất cả những phép lạ của Chúa Giêsu) chẳng giúp cho họ hiểu gì cả.

– Bởi đó Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ mình: “Anh em phải coi chừng men pharisêu và men Hêrôđê”. Hình ảnh “men” chỉ những gì gây nên tình trạng biến chất, hư hại. Do đó ý Chúa Giêsu muốn bảo các môn đệ đừng vì thành kiến như pharisêu hay vì sự thù nghịch như phái Hêrôđê mà mù quáng không nhận ra ý nghĩa phép lạ.

– Cũng chính vì thế nên một lần nữa Chúa Giêsu nhắc các môn đệ nhớ lại hai lần hóa bánh ra nhiều và giúp họ nhận ra ý nghĩa của chúng.

B…. nẩy mầm.

  1. Thành kiến làm cho người ta ra mù quáng. Người có sẵn thành kiến giống như một người đã mang kính râm nên nhìn cái gì cũng thấy tối đen theo màu kính.
  2. Khi còn nhỏ, J. Dillinger phải ra tòa vì một tội vụn vặt. Được tha về, cha mẹ dẫn anh đến trường. Một số phụ huynh khác thấy thế, đến làm áp lực với thấy giáo nếu thầy để Dillinger ở đây, chúng tôi sẽ đem con đến trường khác. Ông thầy bối rối không biết làm thế nào cho các phụ huynh an tâm. Ông đành nói thật cho Dillinger nghe. Anh bỏ học, không bao giờ bước chân tới trường nữa. Ít năm sau, anh trở thành một tội phạm nguy hiểm nhất Hoa kì trong thập niên 30. (Góp nhặt)
  3. Sau phép lạ bánh hóa nhiều, điều còn vương vấn lại trong trí các môn đệ chỉ là… bánh, không có gì hơn! Các ông không biết đi từ dấu chỉ ấy để vươn lên tới chỗ nhận ra uy quyền của Chúa Giêsu.

Chúng ta cũng thế, đầu óc chúng ta cũng nông cạn như thế. Nhiều khi Chúa ban cho ta một ơn lành, chẳng hạn một thành công, một sự an ủi v.v. Sau đó điều duy nhất chúng ta còn nhớ chỉ là sự thành công và an ủi đó. Chúng ta không thể vươn xa hơn một chút để thấy đó là những dấu chỉ về tình thương của Ngài. Chúng ta phải tập nhìn những sự việc xảy ra như những dấu chỉ tới những điều cao hơn.

  1. Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng… Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ “Đây chỉ là một ảo ảnh… trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước… Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.

Thảm trạng của con người thời đại con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đây ánh sáng và mầu nhiệm… con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại.” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)

  1. “Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men pharisêu và men Hêrôđê” (Mc 8,15)

Lên Sài gòn học tiếp đại học, tôi và một anh bạn “chúa ghét” thuốc lá. Nhưng rồi cũng phải hút, là để ngoại giao, xin việc, vì kẻ nào đến xin việc cũng làm như vậy và họ đã được đưa đón ân cần hơn. Bằng không, cứ thấy chiếc xe đạp dựng trước cơ quan là y như rằng lại vào ra không, tí khói lửa liền được chào mời tử tế… Lâu ngày, cứ hễ nhạt miệng là chúng tôi lại mồi thuốc, bất kẻ những người xung quanh là ai già trẻ, trai, gái, người đau, kẻ ốm… và bất kể nơi nào, thậm chí ngay trên xe khách chật ních người.

Tệ hơn nữa, bây giờ chúng tôi lại mắc chứng “nổ” hết xảy, nói dóc không “gớm miệng”. Oái oăm thay, người đời lại thích vậy, nên chúng tôi có thêm tài “ngoại giao” và kiếm việc làm.

Vâng, chắc chắn cả hai chúng tôi đã nhiễm, không những “mùi thuốc lá” mà còn mắc phải cả “men lãnh đạm” trước những nhu cầu của tha nhân, một thứ men làm cho lương tâm ra chai lì, không còn nhạy bén với chân lý nữa.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến và cho con can đảm lội ngược dòng, để con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, hòa mình chứ không biến mình, nhập thể chứ không biến thể. Xin mau đến, lạy Chúa, kẻo con “lên men” mất. (Epphata)

 

THỨ TƯ TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 8, 22-26

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bếtsaiđa, người ta dẫn tới Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay trên người ấy. Chúa cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi: “Ngươi có thấy gì không?” Anh nhìn lên và trả lời: “Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi”.

Chúa lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu cho người ấy về nhà và căn dặn: “Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì đừng nói với ai”.

 

Suy Niệm 1: Anh có thấy gì không?

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong phong trào hướng đạo có ngành Ấu.

Các em thuộc ngành này được gọi là sói con.

Các em sói con qua hai giai đoạn huấn luyện: mở một mắt, rồi mở hai mắt.

Sau khi được mở hai mắt, các em đã tiến bộ về kỹ năng hơn trước nhiều.

Trong bài Tin Mừng hôm qua, Thầy Giêsu đã phàn nàn về sự mù lòa của môn đệ:

“Anh em có mắt mà không thấy sao?” (Mc 8, 18).

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu chữa anh mù ở vùng Bếtsaiđa.

Chuyện này có một số nét giống chuyện Chúa chữa người câm điếc (Mc 7, 31-37).

Cả hai anh đều được người ta đem đến cho Đức Giêsu và xin Ngài đụng đến.

Cả hai anh đều được dẫn đến một nơi riêng và được chữa lành bằng bôi nước miếng.

Chỉ mình Máccô kể lại hai câu chuyện lý thú trên.

Đức Giêsu đã không chữa người mù khỏi ngay lập tức.

Ngài phải chữa lần thứ hai anh mới thấy rõ hẳn.

Đây là chuyện lạ, vì nơi các sách Tin Mừng, chẳng bao giờ có chuyện như thế.

Đặc biệt nơi Tin Mừng Máccô, mọi sự đều xảy ra rất nhanh.

Trong chương 1, có 8 từ lập tức (euthus) ở các câu 12, 18, 20, 23, 28, 29, 30, 42.

Sau khi được Đức Giêsu bôi nước miếng trên mắt và đặt tay lần đầu

anh mù mới chỉ thấy lờ mờ, thấy người ta như những cái cây biết đi (c. 24).

Sau khi được Đức Giêsu đặt tay lần thứ hai trên mắt

anh mới thấy tỏ tường mọi sự (c. 25).

Đức Giêsu phải chữa đến hai lần, chắc không phải vì trường hợp này khó hơn.

Nhưng vì chuyện anh mù được sáng mắt ở đây

tượng trưng cho hành trình mở mắt đức tin của các môn đệ.

Họ sẽ phải đi từng bước một để nhận ra con người của Thầy Giêsu.

Lúc đầu họ chỉ thấy một phần con người Ngài, thấy không rõ như anh mù.

Phải đợi sau này, khi Thầy Giêsu được phục sinh, họ mới thấy Ngài trọn vẹn.

“Anh có thấy gì không?”

Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi chúng ta như vậy.

Hãy để tay Ngài nắm lấy tay ta mà dắt vào chỗ riêng tư kín đáo.

Hãy để Ngài chạm đến sự mù lòa của ta để ta được sáng mắt,

nhờ đó ta thấy được Ngài, thấy được sự thật về mình và về tha nhân.

Nhưng ta cũng cần kiên nhẫn vì con đường giác ngộ là con đường dài.

Chỉ mong hôm nay tôi sáng hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.

 

Cầu nguyện:

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,

xin cho con trở nên mù lòa

vì ánh sáng chói chang của Chúa,

để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,

ánh sáng phá tan bóng tối trong con

và đòi buộc con phải hoán cải.

Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối

chỉ vì chút tự ái cỏn con.

Xin cho con khiêm tốn

để đón nhận những tia sáng nhỏ

mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.

Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý

để Chân lý cho con được tự do. Amen.

 

Suy Niệm 2: Sáng tạo mới

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Việc Chúa chữa anh mù thật kỳ công. Đưa anh riêng ra khỏi làng. Trộn bùn và nước bọt. Xức vào mắt anh. Cử chỉ này khiến ta liên tưởng cảnh sáng tạo con người. Thiên Chúa lấy bùn đất nặn nên con người. Thổi hơi vào lỗ mũi. Và con người có sự sống.

Anh mù chưa bao giờ nhìn thấy ánh sáng. Chưa bao giờ nhìn thấy thế giới. Hôm nay là lần đầu tiên anh thấy ánh sáng và anh thấy thế giới. Anh được thực sự có sự sống. Anh được tái tạo.

Nhưng ánh sáng trong anh tiệm tiến. Khởi đầu anh thấy lờ mờ. Sau này mới thấy rõ ràng. Ánh sáng chói lọi nhất là anh nhận biết Chúa là sự sáng. Và là sự sống. Anh sống trong một thế giới mới. Thế giới tự nhiên rực rỡ chan hoà ánh sáng. Và hơn nữa thế giới siêu nhiên trong Thiên Chúa tươi sáng hơn bội phần.

Tổ phụ No-e cũng đã có thứ ánh sáng đó. Bốn mươi ngày chìm trong bóng tối. Mưa gió đen tối. Cửa tầu đóng kín trong tăm tối. Chỉ khi chim bồ câu tha nhành ô-liu về tổ phụ mới thấy ánh sáng. Ánh sáng là trái đất có sự sống. Đây là sự sống mới. Tất cả sự sống cũ đã bị huỷ diệt. Tổ phụ tràn đầy niềm vui vì được sinh lại. Được sống một đời sống mới. Bắt đầu một thế giới mới. Tổ phụ ý thức sâu xa chính Thiên Chúa là ánh sáng ban sự sống. Trong thế giới mới được tái tạo, No-ê trở thành tổ phụ mới. Của mọi sự sống trên thế giới mới. Đó là năm 601. Và đó là tháng thứ nhất. Bắt đầu một lịch sử mới. Lịch sử đó do Thiên Chúa làm chủ. Nên No-e đã dâng lễ vật cho Chúa để tạ ơn và bắt đầu một thời kỳ mới. Thời kỳ của lòng thương xót. Vì Chúa sẽ không bao giờ trừng phạt thẳng tay như thế nữa (năm lẻ).

No-e sở dĩ tồn tại và trở thành tổ phụ cho thời kỳ mới vì ông không nói năng gì. Chỉ nghe và tuân giữ Lời Chúa truyền. Đó là điều thánh Gia-cô-bê dạy ta. Đừng ham nói. Hãy nghe. Và thực hành Lời Chúa. Nghe Lời Chúa mới chỉ hiểu biết lờ mờ. Như anh mù nhìn thấy người ta như cây cối đi đi lại lại. Chỉ tuân giữ Lời Chúa mới nhìn thấy rõ ràng. Vì hiểu biết thực sự về Chúa. Về vũ trụ. Về con người. Và về bản thân. Nghe và giữ Lời Chúa sẽ biến ta nên con người mới. Giúp ta xây dựng thế giới mới. Hài hoà. Yêu thương. Đức hạnh (năm chẵn).

 

Suy Niệm 3: Ðôi mắt đức tin

Có một người đàn bà đạo đức nọ suốt đời chỉ có một khát vọng, đó là được thấy dung nhan Chúa trước khi chết. Một đêm kia, trong giấc mơ, Thiên Chúa cho biết Ngài sẽ đến thăm bà nội đêm mai. Thế là ngày hôm sau, người đàn bà dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa tiệc thịnh soạn để đón vị khách quý. Thế nhưng suốt buổi tối người đàn bà chờ đợi vẫn không thấy Chúa đến, bà thiếp ngủ đi trong chán nản. Bỗng có tiếng nói với bà rằng:

– Tại sao Ta đến mà con không đón tiếp Ta”

Người đàn bà giải thích cho Chúa là bà đã chờ Ngài ở trước cổng nhà. Người đàn bà ngạc nhiên khi Chúa nói là Ngài đã đến ở cửa sau.

Thế là cả ngày hôm sau, người đàn bà lại chuẩn bị với hy vọng sẽ gặp được Chúa. Ðêm đến, bà hết chạy ra cửa trước lại vào cửa sau, nhưng tuyệt nhiên vẫn không thấy Chúa. Lần này trong giấc mơ, Chúa lại hiện đến và trách người đàn bà. Ngài cho biết là Ngài đã đến qua cửa sổ. Ngài giải thích cho bà hiểu như sau:

– Nếu con chỉ muốn thấy Ta ở một nơi nào đó mà thôi, con sẽ không bao giờ có thể thấy Ta ở mọi nơi. Ta muốn cho con thấy Ta, nhưng không phải một lần trước khi con chết, mà là mỗi giây phút cuộc đời con. Và điều kiện để được thấy Ta là con hãy từ bỏ khát vọng được thấy Ta bằng con mắt xác thịt, vì con mắt ấy qua yếu ớt để có thể nhìn thấy sự vô biên của Ta. Con chỉ có thể xem thấy Ta bằng đôi mắt của quả tim mà thôi.

Con người chỉ có thể thấy Chúa bằng đôi mắt của quả tim, và đôi mắt này chính là đôi mắt đức tin mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho con người.

Tin Mừng theo thánh Marcô mà chúng ta lắng nghe hôm nay, thuật lại việc Chúa Giêsu cho một người mù được thấy. Ðặt câu truyện này vào bối cảnh cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với nhóm Biệt phái cũng như với các môn đệ, thánh Marcô muốn cho chúng ta thấy rằng đức tin tức ơn sáng mắt là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người Biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng tức trong ánh sáng riêng của họ để khước từ Chúa, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thể thấy được ý nghĩa các phép lạ của Chúa Giêsu. Chữa lành cho người mù, Chúa Giêsu vừa tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chỉ mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.

Qua phép Rửa, chúng ta nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài ban cho chúng ta chính đôi mắt của quả tim để có thể nhìn thấy Ngài trong mọi sự và trong từng phút giây cuộc sống. Ước gì chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa, để chúng ta có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách trong cuộc sống và luôn tin vững nơi tình yêu của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Một sự chữa lành công phu

Người cầm lấy tay anh mù đưa ra khỏi làng, và nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và nói: “Anh có thấy gì không?” Anh ngước mắt lên và thưa: “Tôi thấy người ta, trông họ như cây cối đi đi lại lại.” (Mc. 8, 23-24)

Trang Phúc âm này của Maccô là độc nhất. Không có một thánh sử nào đã kể lại phép lạ được thực hiện từng giai đoạn này. Thực vậy, phần lớn các phép lạ của Phúc âm đều xảy ra ngay tức khắc; một số khác đòi hỏi một tiến trình từ phía những người được hưởng phép lạ, như trường hợp mười người phong hủi được lành khi đang trên đường đi trình diện với tư tế. Ở đây, trái lại, trình thuật nhấn mạnh đến vẻ từ từ, tiệm tiến và hơi công phu của việc làm cho anh mù dược sáng mắt. Bước đầu, Chúa nhổ nước miếng vào mắt người mù và đặt tay trên anh. Đoạn Chúa hỏi anh cho biết tình trạng mắt thế nào, thì được anh trả lời khoái chí: “Tôi thấy người ta, trông họ như cây cối đi đi lại lại”. Khi thấy cái nhìn của anh còn lờ mờ và không rõ nét, Chúa làm lại cử chỉ đặt tay trên mắt anh, tức thì anh được khỏi hẳn và trong rõ.

Khía cạnh biểu tượng của phép lạ

Việc khỏi bệnh này cũng nêu lên một khía cạnh biểu tượng, vì ngoài sự việc nhãn tiền, không gì thực hơn, nó còn để cho thấy một ý nghĩa kín đáo. Nói khác đi, ở đây không chỉ đơn thuần là việc làm sáng mắt người mù, mà chính là một mạc khải về Chúa Giêsu: Người là Đấng ban ánh sáng, giải thoát con người khỏi cảnh tối tăm. Thánh sử nhấn mạnh đến khía cạnh kín đáo của phép lạ này: Chúa Giêsu đưa anh mù ra khỏi làng, ở một nơi riêng, chữa anh khỏi mà không để cho những con mắt tò mò dòm ngó, và một khi anh đã thấy rõ rồi, Người dặn anh đừng có vào làng. Người không khua chiêng gõ mõ để phô trương như những kẻ làm được đôi ba điều lạ và những pháp sư. Việc chữa khỏi được diễn ra từ từ còn làm nổi bật tính thận trọng và kín đáo này. Âu đó cũng là một cách để nói không cho những người đòi được xem những dậu lạ từ trời. Đừng kêu gọi con mắt, nhưng hãy kêu gọi tâm hồn.

Việc chữa lành người mù một cách công phu cũng là dấu chỉ việc làm sáng mắt thiêng liêng cho các môn đệ, đồng thời làm nổi bật những nỗ lực của Chúa giúp cho các ông mở mắt ra. Chúa Giêsu vừa mới tố cáo các ông có mắt mà chẳng thấy, y hệt như người mù. Chịu khó và mất thời giơ một chút, Người đã trả lại cho người mù này ý thức về thị giác, về sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Cũng thế, Người sẽ dẫn đưa các tông đồ tới tin vào Người, mặc dầu trí tuệ các ông lúc này còn kém cỏi. Chỉ cần một điều là chính các ông cũng phải để cho Người cầm tay dẫn đi, và ở một nơi riêng biệt, gặp gỡ Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta thường sống đức tin như những kẻ chỉ nhìn thấy lờ mờ. Cái nhìn và hiểu biết của ta về thế giới mới, về những thực tại siêu nhiên lại lu mờ và không rõ nét, nên càng trở nên xa lạ đối với ta. Ta đừng xao xuyến, đừng ngạc nhiên, cũng đừng quyết định ngớ ngẩn. Đúng hơn ta hãy cố gắng gặp gỡ Chúa Giêsu. Hãy để cho Người là Đấng có khả năng làm sáng mắt cầm tay dẫn dắt chúng ta.

 

Suy Niệm 5: Ánh sáng của niềm tin

Nếu bài Tin Mừng hôm qua Đức Giêsu cảnh báo các môn đệ của mình đừng rơi vào lối sống của những người Pharisêu; đồng thời Ngài củng cố đức tin của các ông và mặc khải cho họ biết rằng: có Chúa là có tất cả.

Hôm nay, sau một chặng hành trình lênh đênh trên biển khơi, và qua những tâm sự của thầy trò. Đức Giêsu và các môn đệ đã đáp bến.

Nghe thấy tin Đức Giêsu đến, dân chúng đã dẫn một người mù đến gặp để xin Ngài chữa lành.

Thực ra thì bệnh mù là một thứ bệnh rất phổ biến tại các nước Đông Phương. Kinh Thánh cũng thường xuyên nhắc tới bệnh mù. Riêng Tân Ước là 52 lần và toàn bộ Kinh Thánh là 80 lần. Nhưng điều quan trọng là ý nghĩa của sự kiện này.

Tình thương của người dân qua việc dẫn anh mù đến với Đức Giêsu và nhất là sự tín thác của chính anh vào Ngài cho thấy một thái độ hoàn toàn khác với những người Pharisêu. Sự khác biệt này đã là điều kiện cần và đủ để phép lạ xảy ra. Thật vậy, thấy được lòng tin mạnh mẽ nơi dân chúng và anh mù, Đức Giêsu đã chữa cho anh ta được sáng mắt.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mặc khải cho chúng ta một điều quan trọng: Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để đem lại cho con người ánh sáng ngõ hầu họ nhận ra chân lý và tình thương của Ngài. Ai nhận ra Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống thì được nhìn thấy tình thương của Ngài trên cuộc đời của mình và được ơn biến đổi.

Mặt khác, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy biết yêu thương, cảm thông như Đức Giêsu và những người có lòng tốt dẫn anh mù đến gặp Ngài. Hơn nữa, qua đó, Lời Chúa mời gọi chúng ta vững tin vào Chúa như anh mù.

Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con sáng mà lại thành mù vì không nhận ra tình thương của Chúa. Xin Chúa giải thoát chúng con khỏi tình trạng mù tâm linh và cho chúng con ánh sáng của niềm tin và ân sủng. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Đức Giêsu-ánh sáng thế gian

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trước đại chiến năm 1914, có một người đã từng viết nhiều bài báo công kích và nhạo báng đạo Công giáo. Ông tên là Lavedan. Nhưng sau này, khi gặp nguy hiểm sắp chết, ông liền viết một bài cải chính lại tất cả những gì ông đã viết trước đây.

Trong bài này, có đoạn ông viết rằng: “Từ trước đến nay, tôi vẫn nhạo cười chế giễu người Công giáo và tôi tin rằng mình khôn ngoan, giỏi giang, song thật ra, tôi đã lầm và những ai đọc những tác phẩm và văn thơ của tôi cũng lầm nữa. Tất cả những gì tôi làm xưa nay, đều lầm lạc, say sưa và mơ hồ. Bỏ Thiên Chúa, tức là tự sát. Không biết ngày mai tôi có còn sống nữa chăng, nên giờ đây, tôi phải nói cho mọi người biết điều này là: tôi không dám chết trước lúc chối Chúa. Hỡi linh hồn tôi, hãy vui mừng và bây giờ tới lúc ngươi có thể quỳ gối xuống và xưng rằng: “Con tin, lạy Chúa, con tin!”.

Suy niệm

Đức Kitô là ánh sáng soi chiếu vào đêm tối. Anh mù đã được tình thương của Thiên Chúa chạm vào anh: Đức Giêsu phun nước miếng vào người mù (x. Mc 8,23). Tác giả J. Potin nghiên cứu môi trường văn hóa trong Kinh Thánh xác nhận việc chữa lành bằng cử chỉ đụng chạm với nước miếng là: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Theo Đức Giêsu, Lịch sử đích thực, Centurion, tr.172). Chúa Giêsu lấy nước miếng là phương thế bình dân để tỏ bày quyền năng Thiên Chúa.

Ánh sáng tỏa tình thương của Thiên Chúa cho muôn dân như mặt trời của hừng đông chiếu rạng ngời:

“Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,

cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,

soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối

và trong bóng tử thần,

dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,77).

Anh mù cũng là hình ảnh của chúng ta trong thực tại mà Chúa Giêsu đã từng cảnh tỉnh các môn đệ là những người cứ “tưởng mình thấy rõ” (Ga 10,39-40). Thật thế, chúng ta mù khi: “Tính ích kỷ làm ta mù không thấy nhu cầu của tha nhân. Tính vô cảm làm ta mù không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân. Tính tự phụ làm ta mù không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình. Tính kiêu căng làm ta mù không thấy khuyết điểm của mình. Những thành kiến làm ta mù không thấy sự thật. Sự hối hả làm ta mù không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh. Khuynh hướng duy vật làm ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng. Sự hời hợt làm ta mù không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án”. Hay cũng có thể chúng ta là những người sáng mắt như các biệt phái và luật sĩ vẫn tự khoe là thông thái và sáng suốt, tự hào với sự sáng của mình để rồi không thấy được Đấng đem ánh sáng cứu rỗi đến cho con người. Họ tự giam mình trong tối tăm của sự chết… Họ sáng nhưng trở nên mù…

Như anh mù, chúng ta tiếp nhận Đức Giêsu – ánh sáng thế gian, được chữa lành và sáng mắt bước vào một hành trình khẳng định đức tin mình vào Đức Giêsu: “Thiên Chúa quả là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng” (Tv 36,10).

Ý lực sống: “Tin là gắn bó bản thân của con người với Thiên Chúa” (Giáo lý Công giáo).

 

Suy Niệm 7: Chúa chữa người mù ở Betsaiđa

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau những lời khiển trách các môn đệ và trước lời tuyên xưng đức tin đầu tiên của Phêrô, Đức Giêsu chữa bệnh cho một người mù. Khi ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Betsaiđa, người ta dẫn người mù  đến xin Chúa cứu chữa. Chúa dẫn người đó ra ngoài làng rồi lấy nước miếng xức vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi anh có thấy gì chưa? Anh thưa mới thấy lờ mờ. Chúa lại đặt tay trên anh một lần nữa, thế là anh được thấy rõ ràng.
  2. Đặt câu truyện này vào bối cảnh cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và nhóm biệt phái cũng như với các môn đệ, thánh Marcô muốn cho chúng ta thấy rằng đức tin tức ơn sáng mắt là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng tức trong ánh sáng riêng của họ để khước từ Chúa, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thấy được ý nghĩa các phép lạ của Đức Giêsu. Chữa lành cho người mù, Đức Giêsu vừa tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chính mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.
  3. Để chữa anh mù hôm nay, Đức Giêsu đã làm một loạt các hành động: “cầm tay”, “đưa đi”, “nhổ nước miếng”, “đặt tay” và “hỏi”, thế mà hiệu quả là  anh ta chỉ thấy lờ mờ. Tại sao Đức Giêsu phải vất vả như vậy? Ở các lần chữa bệnh khác, Chúa chỉ cần nói một lời là đem lại hậu quả tức thì: kẻ què đi được, kẻ chết sống lại… Phải chăng vì ca bệnh hôm nay quá khó khiến Ngài phải đật tay trên mắt anh một lần nữa? Hẳn là không. Nhưng hành động như thế, Chúa muốn cho các môn đệ thấy hành trình mở mắt đức tin của họ cũng diễn ra như vậy. Họ đã theo Chúa bao năm nhưng con mắt đức tin của họ vẫn mù tối. Trước khi chữa lành cho anh mù, Chúa đã nặng lời trách các ông: “Lòng anh em ngu muội thế sao? Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư” (Mc 8,17-18)? Quả thế, các ông chỉ thực sự thấy và biết Chúa cách tỏ tường khi Ngài từ cõi chết sống lại  (5 phút Lời Chúa).
  4. Việc khỏi bệnh này cũng nêu lên một khía cạnh biểu tượng, vì ngoài sự việc nhãn tiền, không gì thực hơn, nó còn để cho thấy một ý nghĩa kín đáo. Nói khác đi, ở đây không chỉ đơn thuần là việc làm sáng mắt người mù, mà chính là một mạc khải về Đức Giêsu: Ngài là Đấng ban ánh sáng, giải thoát con người khỏi cảnh tối tăm. Thánh sử nhấn mạnh đến khía cạnh kín đáo của phép lạ này. Đức Giêsu đưa anh mù ra khỏi làng, ở một nơi riêng, chữa anh khỏi mà không để cho những con mắt tò mò dòm ngó, và một khi anh đã trông thấy rõ rồi, Ngài dặn anh mù đừng vào làng. Ngài không khua chiêng gõ mõ để phô trương như những kẻ làm được đôi ba điều lạ và những pháp sư. Việc chữa khỏi được diễn ra từ từ còn làm nổi bật tính thận trọng và kín đáo này. Âu đó cũng là một cách để nói không cho những người đòi được xem những dấu lạ từ trời. Đừng kêu gọi con mắt, nhưng hãy kêu gọi tâm hồn.
  5. Việc chữa lành người mù một cách công phu cũng là dấu chỉ việc làm sáng mắt thiêng liêng cho các môn đệ; đồng thời làm nổi bật những nỗ lực của Chúa giúp cho các ông mở mắt ra. Đức Giêsu vừa mới tố cáo các ông có mắt mà chẳng thấy, y hệt như người mù. Chịu khó và mất thời giời một chút, Ngài đã trả lại cho người mù này ý thức về thị giác, về sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Cũng thế, Ngài sẽ dẫn đưa các môn đệ tin vào Ngài, mặc dầu trí tuệ các ông lúc này còn kém cỏi. Chỉ cần một điều là chính các ông cũng phải để cho Ngài cầm tay dẫn đi, và ở một nơi riêng biệt, gặp gỡ Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta thường sống đức tin như những kẻ chỉ nhìn thấy lờ mờ. Cái nhìn và hiểu biết của ta về thế giới mới, về những thực tại siêu nhiên lại lu mờ không rõ nét, nên càng trở nên xa lạ đối với ta. Ta đừng xao xuyến, đừng ngạc nhiên, cũng đừng quyết định ngớ ngẩn. Đúng hơn ta hãy cố gắng gặp Đức Giêsu. Hãy để cho Ngài là Đấng có khả năng làm sáng mắt cầm tay dẫn dắt chúng ta (Trích Xây nhà trên đá).

  1. Truyện: Đôi mắt của quả tim.

Có một người đàn bà đạo đức nọ suốt đời  chỉ có một khát vọng, đó là được thấy dung nhan Chúa trước khi chết.

Một đêm kia, trong giấc mơ, Thiên Chúa cho biết Ngài sẽ đến thăm bà nội đêm mai, thế là ngày hôm sau, người đàn bà chờ đợi mà vẫn không thấy Chúa đến, bà thiếp ngủ đi trong chán nản. Bỗng có tiếng nói với bà rằng:

– Tại sao Ta đến mà con không đón tiếp Ta?

Người đàn bà giải thích cho Chúa là bà đã chờ Ngài trước công nhà. Người đàn bà ngạc nhiên khi nghe Chúa nói là Ngài đã đến ở cửa sau.

Thế là cả ngày hôm sau, bà lại chuẩn bị với hy vọng sẽ gặp được Chúa. Đêm đến, bà hết chạy ra cửa trước lại vào cửa sau, nhưng vẫn không thấy Chúa. Lần này trong giấc mơ Chúa lại hiện đến và trách người đàn bà. Ngài cho biết là Ngài đã đến qua cửa sổ. Ngài giải thích cho bà hiểu như sau:

– Nếu con chỉ muốn thấy Ta ở một nơi nào đó mà thôi, con sẽ không bao giờ có thể thấy Ta ở mọi nơi. Ta muốn cho con thấy Ta, nhưng không phải một lần trước khi con chết, mà là mỗi giây phút cuộc đời con. Và điều kiện để được thấy Ta là con hãy từ bỏ khát vọng được thấy Ta bằng con mắt xác thịt, vì con mắt ấy quá yếu ớt để có thể nhìn thấy sự vô biên của Ta. Con chỉ có thể xem thấy Ta bằng đôi mắt của quả tim mà thôi (Mỗi ngày một tin vui).

 

Suy Niệm 8: Chúa Giêsu chữa một người mù

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Muốn hiểu ý nghĩa phép lạ này (Chúa Giêsu chữa một người mù), ta phải đọc nó trong văn mạch những chuyện phía trước. Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mc 8,1-10), nhưng các người pharisêu chẳng những không tin vào quyền năng của Ngài mà lại còn thách Ngài làm một dấu lạ từ trời (Mc 8,11-13). Chính các môn đệ cũng không thấy được điều gì cao hơn là những miếng bánh (Mc 8,14-21). Họ đúng là những người mù không đọc ra ý nghĩa những dấu chỉ.

Người mù trong chuyện này là hình ảnh của những người không hiểu (pharisêu, các môn đệ, và chúng ta ngày nay)

– Việc làm cho họ hiểu rất là khó. Vì thế Chúa Giêsu phải đặt tay vào mắt anh mù tới hai lần thì anh mới thấy.

– Tuy nhiên phép lạ này cũng khuyến khích chúng ta nếu kiên trì tìm hiểu Chúa thì cuối cùng cũng sẽ thấy được Ngài: người mù ban đầu không thấy gì cả, sau khi được Chúa Giêsu sờ vào mắt thì anh thấy mờ mờ, sau khi Ngài đặt tay lần thứ hai thì anh hoàn toàn thấy rõ.

B…. nẩy mầm.

  1. Ngày chúng ta được rửa tội, Linh mục cũng thay mặt Chúa nói với chúng ta “Epphata” nghĩa là hãy mở ra. Nhưng đức tin của chúng ta chỉ như một con mắt mới mở hé, cho nên phần nào đó chúng ta cũng còn giống như người mù. Hôm nay chúng ta hãy xin Chúa một lần nữa đặt tay Ngài trên mắt chúng ta, để cặp mắt đức tin của chúng ta được mở ra trọn vẹn để nhìn thấy Ngài.
  2. Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận “Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả.” Vợ ông bước ra tiếp lời “Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông”. Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình. (Ernst Wilhelm Nusselein).
  3. Hai ông cháu đi dạo trên hè phố. Họ đến cạnh hàng rào hoa hồng rất đẹp. Cô bé thở nhẹ nói “Nội ơi, nội có thể ngửi những bông hồng này? Chúng rất thơm phải không?” Rồi hai ông cháu nghe giọng nói của một bà từ trong mái hiên vọng ra “Cứ làm tất cả những gì các bạn muốn”.

Hai ông cháu ngắt một bông hoa rồi cám ơn bà và khen luống hoa thật đẹp. Bà nói “Tôi trồng những bông hồng này mục đích là để những người khác được hạnh phúc. Tôi không thấy họ. Tôi mù” (Góp nhặt)

  1. “Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bétsaiđa. Người ta dẫn một người mù và xin Chúa Giêsu sờ vào anh ta… Người đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi hẳn” (Mc 8,22-25)

Tối 14-12-1995, hàng triệu người Việt nam hồi hộp đón xem trận đấu giữa Việt Nam và Mianma để tranh vào vòng chung kết Cúp vô địch Bóng đá Sea Games 18. Khoảng 22g30, đội tuyển VN đã làm nên một giây phút lịch sử khi ghi được tỉ số 2-1, thắng đội Mianma. Ngay lập tức, hàng vạn thanh niên thành phố đã tràn xuống đường trong niềm vui sướng tột độ. Họ diễn hành thành từng đoàn, cùng hô vang những khẩu hiệu “Việt nam vô địch. Việt nam chiến thắng”.

Sài gòn một đêm tuyệt vời, một đêm không ngủ. Tuyệt vời vì những con người vốn xa lạ bỗng trở nên gần gũi thân quen. Muôn người như một hiệp nhất trong niềm vui. Hạnh phúc tưởng đâu xa, hóa ra thật gần khi con người yêu thương nhau.

Vậy mà đôi mắt con, vì bị che khuất bởi những tham vọng, bởi lòng hẹp hòi ích kỷ nên đã không nhận ra được hạnh phúc quanh mình.

Lạy Chúa, xin cho con có cái nhìn bao dung để có thể nhận ra những cái hay cái tốt nơi kẻ khác và cùng họ xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. (Epphata)

 

THỨ NĂM TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN

Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” Các ông đáp lại rằng: “Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri”. Bấy giờ Người hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Ðấng Kitô”.

Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.

Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: “Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”.

 

Suy Niệm 1: Tư tưởng của loài người

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Không rõ tại sao Thầy Giêsu lại chọn lúc đi đường với các môn đệ

lên vùng cao phía bắc xứ Paléttin, gần chân núi Khécmôn,

để thăm dò xem dân chúng nghĩ Thầy là ai.

Quan trọng hơn, Thầy muốn biết các môn đệ nghĩ gì về Thầy:

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Thầy Giêsu đã sống bên các môn đệ từ mấy năm qua.

Họ đã được gọi, được chọn, được theo,

đã được thấy, được nghe, được chạm đến.

Bao nhiêu là kinh nghiệm gần gũi!

Nhưng Thầy Giêsu chẳng nói rõ cho họ biết mình là ai.

bây giờ Thầy lại đặt câu hỏi cho họ.

Ông Phêrô đại diện cho anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.”

Đấng Kitô là Đấng Mêsia, Đấng được Thiên Chúa xức dầu thánh hiến.

Vì thế người ta thường coi Ngài là Đấng giải phóng hùng mạnh.

Nhiều người Do Thái mong Đấng Kitô đến

để đánh đuổi quân Rôma và đem lại thái bình cho đất nước.

Câu trả lời của Phêrô cơ bản là đúng.

Thầy đúng là Mêsia, nhưng lại không phải là Mêsia như Phêrô nghĩ.

Bởi lẽ Thầy là một Mêsia phải chịu nhục nhã và thất bại,

chịu mang thân phận đau khổ của Người Tôi Trung (Is 52-53).

Để vào ánh sáng, Thầy phải vượt qua bóng tối của hố thẳm.

Dù sao câu trả lời của Phêrô đã mở ra một giai đoạn mới.

Từ nay Thầy sẽ chia sẻ nhiều hơn cho các ông về định mệnh tương lai.

Thầy sẽ nói rõ chứ không nói bóng gió bằng dụ ngôn nữa (c. 32).

Thầy Giêsu biết rõ đau khổ và cái chết đang đe dọa mình

đến từ phía các nhà lãnh đạo Do thái giáo.

Nhưng Thầy cũng tin rằng Cha ở với Thầy và sẽ không bao giờ bỏ Thầy.

Lần đầu tiên Thầy chia sẻ cho môn đệ chuyện riêng tư,

niềm đau và hy vọng, cái chết sắp đến và niềm tin vào sự sống lại,

dù chắc Thầy đã không nói nguyên văn như ta thấy ở câu 31.

Phêrô không thể chấp nhận được định mệnh mà Thầy mới gợi lên (c. 32).

Ông không hiểu được chuyện Đấng Kitô mà phải chịu khổ đau, nhục nhã.

Ông không biết rằng chữ phải ấy đến từ Thiên Chúa,

và thất bại cũng như cái chết có chỗ trong chương trình của Ngài.

Phêrô thương Thầy, và tình thương lại trở thành một cám dỗ lớn.

Ông muốn Thầy đổi ý, ông muốn đi trước dẫn đường cho Thầy.

Thầy Giêsu đòi ông trở lại đằng sau, đi sau Thầy như môn đệ (c.33).

Chúng ta cũng sợ như Phêrô, sợ cùng với Thầy Giêsu đi con đường hẹp.

Chúng ta cũng dễ nghĩ theo kiểu người phàm,

chứ không nghĩ theo kiểu Thiên Chúa (c. 33).

Xin được uốn lối nghĩ khôn ngoan của mình

theo sự điên dại của Thiên Chúa (1 Cr 1, 25).

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

sống cho Chúa thật là điều khó.

Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,

ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

trước khi con tập sống cho Chúa

và thuộc về Chúa

thì Chúa đã sống cho con

và thuộc về con từ lâu. Amen.

 

Suy Niệm 2: Tư tưởng của Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sau cơn đại hồng thuỷ, Chúa xót xa khi thấy con người bị tiêu diệt, cỏ cây và súc vật biến mất khỏi địa cầu. Cả một cảnh tượng tang thương chết chóc. Chúa chạnh lòng thương. Nên ra lệnh bảo vệ vũ trụ. Truyền con người phải sinh sản cho lan tràn trên mặt đất. Cấm đổ máu con người. và thật cảm động. Chúa ký kết giao ước với cả vũ trụ. Không chỉ với con người. Mà còn với cả súc vật cỏ cây. “Đây ta lập giao ước của Ta với các ngươi, vói dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tầu đi ra, kể cả dã thú”. Ký kết chưa đủ. Chúa còn thề hứa: “Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau…” (năm lẻ).

Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lên đến cực điểm. Vào thời cuối cùng, Thiên Chúa không trừng phạt con người khi con người tội lỗi. Nhưng lại sai chính Con Một xuống trần chết thay cho loài người. Đền tội con người. Cứu sống con người. Ôi lòng Thiên Chúa bao la ai nào hiểu thấu! Tình thương yêu của Thiên Chúa cao sâu ai nào dò thấu!. Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vượt mọi hiểu biết, tính toán, lô-gích của con người. Để bảo vệ sự sống của con người. Con Chúa phải chịu chết. Để cứu sống con người, Con Chúa phải chịu trừng phạt. Vì thế Phê-rô khuyên can liền bị Chúa trách mắng nặng lời: “Xa-tan! Lui ra đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Theien Chúa, mà là của loài người”.

Vì Thiên Chúa quá yêu thương mọi người. Yêu thương cả súc vật cỏ cây. Nên ta cũng phải có tấm lòng của Chúa. Yêu thương mọi người mọi vật. Vì Thiên Chúa trân trọng sự sống của cả con người lẫn súc vật cỏ cây. Nên ta cũng phải trân trọng con người. Không phân biệt giầu nghèo. Vì ‘Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giầu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (năm chẵn).

Xin cho con có tấm lòng của Chúa. Để con yêu thương mọi người, kính trọng mọi người. Trân trọng cả thiên nhiên, súc vật, cỏ cây. Xin cho con có tư tưởng của Chúa. Để con đi vào con đường của Chúa. Hiến thân. Phục vụ. Quên mình.

 

Suy Niệm 3: Ngài là Ðức Kitô

Ðoạn Tin Mừng hôm nay thường được mệnh danh là cuộc tuyên tín tại địa hạt Cêrarê thuộc quyền Philip.

Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ và rao giảng nhiều điều mới mẻ so với các Rabbi Do thái. Dân chúng đã bắt đầu bàn tán về con người và sứ mệnh của Ngài: người thì bảo là Gioan Tẩy giả đã sống lại, kẻ thì cho là Êlia hay một Tiên tri nào đó. Riêng Chúa Giêsu vẫn tiếp tục giữ thinh lặng về con người và sứ mệnh của Ngài: cứ sau mỗi phép lạ, Ngài thường bảo kẻ được thi ân giữ kín tông tích của Ngài.

Nhưng đã đến lúc Chúa Giêsu muốn phá vỡ sự thinh lặng ấy, Ngài đặt câu hỏi một cách rõ ràng với các môn đệ. Câu trả lời của các ông vừa là phản ánh dư luận của đám đông, vừa là trắc nghiệm về chính lòng tin của họ. Lời đáp của Phêrô quả là một lời tuyên xưng: “Ngài là Ðức Kitô”, nghĩa là Ðấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc. Dĩ nhiên, trong cái nhìn của Phêrô và phù hợp với giấc mơ của ông, thì Ðức Kitô mà các ông mong đợi là Ðấng sẽ dùng quyền năng của mình để đánh đuổi ngoại xâm và biến đất nước thành một vương quốc cường thịnh. Chính vì thế, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn Ngài phải trải qua, Phêrô đã can gián Ngài. Tuyên xưng một Ðức Kitô Cứu Thế, nhưng không chấp nhận con đường Thập giá của Ngài, Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan. Ba cám dỗ của Satan đối với Chúa Giêsu đều qui về một mối là hãy khước từ con đường Thập giá; vì thế, khi Phêrô vừa can gián Ngài từ bỏ ý định cứu rỗi bằng con đường Thập giá, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô là Satan.

Phêrô và các môn đệ chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu, khi Ngài từ trong cõi chết sống lại. Ðấng Kitô là một danh hiệu gắn liền với Thập giá. Mang danh hiệu Kitô, tuyên xưng Chúa Kitô, cũng có nghĩa là chấp nhận đi theo con đường của Ngài, Phêrô và các môn đệ đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của mình; tất cả đều lặp lại cái chết khổ hình của Chúa Kitô.

Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập gía mỗi ngày mà theo Ta”. Cuộc sống hàng ngày, nhất là trong những hoàn cảnh hiện tại, hơn bao giờ hết là một lời mời gọi tham dự vào cuộc khổ nạn của Ngài. Chúa Giêsu không bảo chúng ta đi tìm Thập giá, nếu không, đạo Kitô chỉ là một thứ tôn giáo bệnh hoạn, trong đó con người tự đày ảy mình; nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy thập giá mình. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt một thập giá nặng hơn đôi vai chúng ta.

Có rất nhiều cách để chúng ta khước từ thập giá: chúng ta từ khước thập giá bằng cách không tiếp nhận cuộc sống như một ân ban; chúng ta khước từ thập giá khi chúng ta chỉ nhìn một cách bi quan về các biến cố và con người; khi chúng ta bán đứng lương tâm vì một chút lợi lộc vật chất; khi chúng ta đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ, trong bốn bức tường nhà thờ, mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin Kitô trong từng giây phút của cuộc sống.

Chúng ta hãy lặp lại lời thánh Phaolô: “Tôi chỉ biết có một Chúa Kitô và là Chúa Kitô chịu đóng đinh Thập giá”. Ước gì niềm tin của chúng ta luôn được soi sáng bằng mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, và được thể hiện bằng một thái độ chấp nhận thập giá trong từng giây phút cuộc đời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Một cuộc thăm dò dư luận “bỏ túi”

Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc. 8, 28-29)

Chuyến đi truyền giáo của Chúa Giêsu gần tới giai đoạn chót. Trong hai năm, Người đã rao giảng Tin Mừng, chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền. Giờ đây, Người muốn kiểm điểm một chút ảnh hưởng hoạt động của Người tới đâu, đồng thời tìm biết quần chúng có dư luận thế nào về Người. Đây là thời điểm quan trọng để Người có thái độ và lập trường mới, bởi lẽ từ trước đến nay, Người vẫn giữ kín và bắt người ta giữ kín không cho ai biết Người là ai. Một mình với các môn đệ, Người liền hỏi các ông: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là Ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Tuy ý kiến khác nhau, nhưng dư luận nói chung đều đồng ý coi Người là một người có sứ mạng của Thiên Chúa. Điều này không thể bị coi thường: quần chúng xếp Người vào hàng những bậc vĩ nhân của lịch sử, là một sứ giả của Thiên Chúa loan báo Đấng Mê-si-a sẽ đến.

Chúa Giêsu muốn đẩy cuộc thăm dò của Người đi xa hơn nữa. Nói lại điều người khác nghĩ thì dễ. Như thế có lẽ là một lối tránh né, một cách che dấu tư tưởng riêng của mình, một cách không muốn dấn thân. Người liền hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời thay cho tất cả: “Thầy là Đấng Kitô”. Vậy là cuộc sống chung của các ông với Chúa Giêsu đã sinh hoa kết trái.

Bộ Thầy “muốn dỡn mặt!”

Các môn đệ đã diễn tả các ông nhận định về Chúa Giêsu như thế nào. Còn Chúa Giêsu lại muốn dẫn các ông đi xa hơn vào mầu nhiệm bản thân Người. Người sắp nói cho các ông hay Người ý thức về chính mình như thế nào: phải chịu đau khổ nhiều, bị loại trừ, bị giết chết, rồi được sống lại. Người không phải là Đấng Thiên sai mang tính cách chính trị, có nhiệm vụ giải phóng và giành lại nền độc lập cho dân tộc, nhưng là một người tôi tớ đau khổ. Phêrô thấy quá quắt, không chịu nổi rồi. Ông cho Chúa Giêsu là con người suy nhược và quá bi quan. Ông liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách móc: “Bộ Thầy muốn dỡn mặt!”. Lời nói này của Phêrô chứng tỏ nhiều về tình thầy trò thân mật, tính bình dị và cởi mở của Chúa Giêsu. Phêrô tin mình có quyền trách móc Thầy mình. Tới nước này, Chúa Giêsu không thể nhân nhượng được nữa, Người liền nặng lời khiển trách ông: “Satan, lui lại đằng sau Thầy!” Với tư cách là môn đệ, Phêrô đi theo Chúa Giêsu, phải ở vị trí đứng đàng sau Người, nhưng ở đây, ông đã muốn rời chỗ đó, trèo lên đàng trước làm vai trò người chỉ huy. Có nghĩa là ông đã không đi theo Người mà đã đi vào con đường khác với ý của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa coi ông như Satan là kẻ gây cản trở cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Cả chúng ta nữa, Chúa Kitô đều đặt cho chúng ta một câu hỏi quan trọng: Phần con, con bảo Thầy là ai? Thầy có quan trọng đối với con không? Quan trọng không phải chỉ trong suy nghĩ cúa con, mà cũng cả trong đời sống của con nữa? Lời của Ta có được con tuyệt đối tham khảo để biết và thực hành không? Cách chúng ta trả lời những câu hỏi này, sẽ chỉ cho ta biết những ý nghĩ của ta có phải là ý và đường lối của Chúa không.

 

Suy Niệm 5: Cần xác lập mối tương quan cá vị

Trong nghi thức Thánh Tẩy cho người lớn, Giáo Hội mời gọi đương sự tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài cách xác quyết. Chính trong niềm tin mạnh mẽ như thế, mà người anh chị em của chúng ta được gia nhập Giáo Hội của Đức Giêsu để được sự sống đời đời.

Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy một cuộc tuyên tín cá vị được diễn ra tại địa hạt Cêsarê thuộc quyền Philiphê.

Khởi đi từ việc dân chúng có nhiều nhận định về Đức Giêsu sau khi đã chứng kiến những lời giảng dạy khôn ngoan và quyền năng cũng như những phép lạ cả thể Ngài đã làm.

Thấy vậy, Đức Giêsu muốn làm một bài trắc nghiệm các môn đệ về nhận định của dân chúng về Ngài, Ngài hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?”. Các ông nhanh nhảu trả lời rằng: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Đức Giêsu đã bất ngờ hỏi trực diện các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Quá ngỡ ngàng vì không ai nghĩ Đức Giêsu lại hỏi cụ thể như thế! Tuy nhiên, đây là điều cần thiết trong cuộc đời môn đệ, bởi nếu không có niềm xác tín mạnh mẽ, cá vị vào Đấng mà họ tin theo thì e rằng họ sẽ chạy theo hiệu ứng đám đông và đặt ra cho mình những lợi lộc thực dụng thấp hèn.

Phêrô đã thay lời anh em tuyên xưng cách xác quyết: “Thầy là Đấng Kitô”. Đây là lời tuyên tín xác định căn tính Thiên Sai của Ngài. Tuy nhiên, Phêrô và các môn đệ khác cũng chỉ hiểu theo nghĩa giải phóng chính trị mà không để ý hay không hiểu sứ vụ cứu chuộc của Thầy mình, nên ngay lập tức, Đức Giêsu cấm các ông không được loan báo điều này cho ai.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tín niềm tin của mình vào Chúa như thánh Phêrô và can đảm đi theo Đức Giêsu khi sẵn sàng trở nên môn đệ trung tín của Ngài.

Dù có gặp phải khó khăn, thử thách và những trào lưu dễ dãi, giảm thiêng và thượng tục, chúng ta vẫn vững tin và trung thành với sứ vụ

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khi đã tin theo Chúa thì cũng sẵn sàng và trung thành đi đến cùng con đường mà Chúa đã mời gọi chúng con đi theo. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Lavallière Lepaux là một thành viên Thượng Hội đồng Quốc gia Pháp, rất ghét đạo Công giáo và luôn tìm cách công kích. Ông lập một đạo mang tính trí thức mới bao gồm những triết thuyết có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.

Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras: “Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học thức, có huấn luyện, đào tạo mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học mà cả thế giới theo ông?”

Barras trả lời: “Thưa ngài, nếu ngài muốn thiên hạ theo đạo mình, thì ngài để cho người ta đóng đinh ngài vào ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa nhật ngài cố sống lại đi”.

Suy niệm

Chúa Kitô đã đi vào cõi chết và phục sinh khải hoàn như Ngài đã loan báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31).

Lời tiên báo cuộc thương khó với thập giá, sự chết và phục sinh ngay sau khi lời giải đáp về sự việc dân chúng nhìn nhận Ngài là ai. Trong khi dân chúng nghe lời Ngài giảng dạy cùng với việc chứng kiến phép lạ phi thường. Họ coi Đức Giêsu chỉ là một ngôn sứ có quyền phép làm được những dấu lạ hơn người khác như ông Gioan Tẩy giả, ông Êlia hay một tiên tri nào đó.

Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” khi họ đã ở với Ngài đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14). Nhóm Mười hai mà thánh Phêrô đứng đầu trả lời: “Thầy là Đấng “Christos” nghĩa là Kitô”, “Mêssia” trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ tại Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, Đấng mà mọi người mong đợi để đến “hoàn tất lịch sử”, được các ngôn sứ đã báo trước.

Dù tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, Đấng Mêssia, Phêrô chưa hiểu hết được mầu nhiệm cứu độ của Ngài trong sứ mạng Mêssia. Theo ông, Đấng Mêssia phải vinh quang, chiến thắng theo kiểu loài người, Đấng đến để giải phóng dân tộc Do Thái và làm cho nước này trở nên hùng cường, bá chủ địa cầu. Cho nên, với Phêrô, Đức Kitô phải được tôn vinh như: Thiên Chúa hùng mạnh, danh Ngài lừng vang trên toàn cõi đất, Người là Đấng Thánh của Israel và nước Người tồn tại đến vô cùng tận (x. Tv 11; Tv 12). Chính vì thế, không thể có việc Đấng Kitô phải chịu đau khổ và chết nhục nhã như Thầy vừa loan báo, nên Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: “Satan! đi!”. Vì tư tưởng của Phêrô không phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Qua việc sửa trị Phêrô, Chúa Giêsu muốn những suy tưởng viển vông, thụ động của con người cần phải được dẹp bỏ và thanh tẩy trong mầu nhiệm cứu độ.

Đấng Kitô đối diện với thập giá, trên thập giá, Ngài chấp nhận chết để tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ, đó là hy sinh vô bờ bến để cứu chuộc nhân loại: “không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Chính vì thế, Đấng hy sinh trên thập tự đã làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa được cứu độ.

Xin cho chúng ta ý thức được mầu nhiệm thập giá trong cuộc sống của chúng ta.

Ý lực sống: “Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô,

mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá”(1Cr 2,2).

 

Suy Niệm 7: Đức Giêsu là ai vậy?

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Khi đi đến làng Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu hỏi các tông đồ xem dân chúng cho Ngài là ai. Các ông thưa dễ dàng: người ta cho Ngài là Gioan Tẩy Giả, là Êlia hay một tiên tri nào đó. Nhưng khi Ngài hỏi chính các ông cho Ngài là ai, thì Phêrô đã nhanh nhảu tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô”. Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô, lời tuyên xưng này rất đúng. Nhưng người ta có thể hiểu sai về sứ mệnh chân chính của Ngài. Họ hiểu sứ mệnh cứu độ của Đức Giêsu theo nghĩa chính trị: giải phóng đất nước, dành lại tự do cho dân tộc. Vì thế, ngay sau khi ông Phêrô tuyên tín, Ngài liền báo cho họ con đường Thương Khó và Phục sinh của Ngài.
  2. Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta. Câu hỏi đã được đặt ra  không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.

Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi: Giêsu Kitô, ông là ai? Trên bàn viết của Lênin, thủy tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách… nói về Chúa Giêsu.

  1. Theo dư luận quần chúng.

Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai”? Các ông đáp liền: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó” (Mc 8,28).

Ngày xưa, nhiều người Do thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri: họ lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy Giả… Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.

  1. Theo ý kiến các môn đệ.

Đức Giêsu lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bỏ Thầy là ai”? Ông Phêrô đã nhanh nhảu trả lời ngay: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8,29).

Tước vị “Christos”, “Messiah” trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong đợi để đến “hoàn tất lịch sử”. Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho con người một ý nghĩa.

Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, thịnh vượng hơn thời Salômôn.

  1. Theo tiết lộ của Đức Giêsu.

Sau khi nghe Phêrô nói lên sự thật: “Thầy là Đức Kitô”, thì Đức Giêsu xác định rõ hơn thế nào là Kitô theo quan niệm của Thiên Chúa. Đức Giêsu không ngần ngại minh định tư cách Kitô của mình, đó là một Đấng Kitô theo hình ảnh của người tôi tớ Giavê như được nhắc đến trong sách tiên tri Isaia. Ngài sẽ không là Đấng Kitô theo ý riêng của mình, nhưng hoàn toàn theo ý Thiên Chúa Cha như đã được tiên báo nơi hình ảnh người tôi tớ Giavê và ngày càng được mạc khải rõ hơn nơi Người Con yêu dấu của Thiên Chúa; Thiên Chúa muốn Ngài hoàn thành kế hoạch bằng chính đau khổ và cái chết của Ngài. Mạc khải ấy lẽ ra  phải được các môn đệ đón nhận với cảm thông và chia sẻ.

Phêrô đã đại diện các tông đồ để tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô”, nhưng chỉ tiếc  liền sau đó, ông đã không hoàn toàn cảm nghĩ theo cách thức Thiên Chúa, nhưng đã theo cách thức nhân loại. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Đức Giêsu, và một cách vô tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô (Mỗi ngày một tin vui).

  1. Truyện: Tôn giáo của ông Lavallière Lepaux.

Lavallière Lepaux là một nhân viên Thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.

Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras:

– Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông?

Ông Barras trả lời:

– Thưa đồng chí, nếu đồng chí muốn thiên hạ theo đạo mình, thì đồng chí để cho người ta đóng đinh đồng chí ngày thứ sáu, rồi sáng ngày chủ nhật, đồng chí cố sống lại đi.

 

Suy Niệm 8: Câu hỏi về Chúa Giêsu

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần:

a/ Chúa Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung mọi người đều nghĩ Chúa Giêsu là một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả Nhóm 12: “Thầy là Đức Kitô”.

b/ Sau đó Chúa Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị Chúa trách nặng nề là Satan.

B…. nẩy mầm.

  1. “Người ta nói thầy là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Chúa Giêsu muốn những kẻ tin Ngài phải có một suy nghĩ riêng về Ngài. Người ta nói Ngài là một Đấng hay làm phép lạ, tôi cũng nghĩ theo họ và chạy đến với Ngài để xin phép lạ. Người ta nói Ngài chỉ biết dạy những điều siêu nhiên xa vời nhưng không thể làm cho cuộc sống đời này được hạnh phúc, tôi nghe thế và đức tin bị chao đảo theo. Không, tôi không nên dựa theo dư luận, mà phải có một suy nghĩ riêng của mình và một lập trường riêng của mình. Theo tôi, Chúa Giêsu là ai? Ngài có vai trò nào trong đời tôi?
  2. “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…..” Chúa Giêsu mà tôi tin tưởng là một Chúa Giêsu đi trên con đường thập giá. Tin Ngài thì tôi cũng phải theo Ngài trên con đường thập giá ấy.

“Lạy Chúa, xin cho con bước đi theo Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi”.

  1. Phêrô vừa mới được ơn trên soi sáng cho biết Chúa Giêsu là Đức Kitô, nhưng ông chưa hiểu rõ Kitô như thế nào, do đó ông lên tiếng ngăn cản Ngài bước vào con đường thập giá. Điều này có thể thông cảm được. Nhưng tôi đã được biết Đức Kitô từ lâu, thế mà tôi vẫn không chấp nhận con đường thập giá. Tôi nói tôi tôn thờ thập giá nhưng tôi than thở khi phải vác thập giá. Tôi nói tôi theo Đức Kitô, nhưng tôi muốn dừng chân khi Ngài bắt đầu dẫn tôi lên Núi Sọ.
  2. “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ lão, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau 3 ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31)

Anh ấy đến với tôi, ồn ào, kiêu hãnh. Và tôi đã thực sự bị chinh phục bởi sự phong lưu sang trọng của anh. Chiều thứ bảy, anh đón tôi đi chơi. Ngồi bên nhau trong quán nước quen thuộc, chúng tôi lặng lẽ ngắm nhìn từng giọt mưa đang rơi nhanh ngoài phố. Một đứa bé ăn xin rách rưới và ướt sũng đến bên anh, chìa đôi tay tím ngắt run rẩy ra trước mặt anh. Anh thản nhiên lắc đầu. Nhìn theo dáng đi xiêu vẹo của đứa bé khuất dần sau làn mưa, tôi chợt nghe như có một cái gì đó đang đổ vỡ trong tâm hồn mình.

Thiên Chúa đến với ta, âm thầm, lặng lẽ, nghèo hèn, giản dị, nhưng chan chứa tình thương. Tôi và các bạn có sẵn sàng đón nhận Người hay còn chờ đợi một Thiên Chúa khác, oai nghi và quyền quý, để rồi lại chợt thấy ngỡ ngàng và hụt hẫng như tôi.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu được mầu nhiệm Thánh giá như nhạc sĩ Văn Cao đã hiểu và nói: “Chúa Giêsu trần trụi trên thập giá. Ngài không có gì nhưng lại có tất cả” (Epphata).

 

THỨ SÁU TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 8,34-9,1

Khi ấy, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.

Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình.

Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình, thì nào được ích gì? Và người ta lấy gì mà đánh đổi mạng sống mình? Ai hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta trong thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn từ khước nó, khi Người đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thần thánh”. Và Ngài nói với họ: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong số những kẻ có mặt đây, có người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa đến trong quyền năng”.

 

Suy Niệm 1: Từ bỏ chính mình

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trên con đường đi ngang giáo phận Xuân Lộc,

có ngôi nhà thờ mặt tiền mang một dòng chữ to: “Sống là chọn.”

Câu này dễ làm ta nghĩ đến câu kế tiếp: “mà chọn là bỏ.”

Bỏ là điều, dù muốn dù không, ai cũng phải làm nhiều lần trong đời.

Thai nhi phải bỏ bụng mẹ ấm êm, cô gái bỏ gia đình để về nhà chồng.

Bỏ khi chọn việc, chọn trường, chọn nhà, chọn ơn gọi…

Bỏ thường làm ta đau đớn, nhưng ta không thể chọn tất cả.

Tuy nhiên, có khi từ bỏ đem lại niềm vui, đến nỗi ta không biết mình đang bỏ.

Một vận động viên, một nhà khoa học hay một tu sĩ đã tự ý bỏ nhiều điều.

Nhưng họ rất vui khi nghĩ đến kết quả của việc từ bỏ đó.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời các môn đệ và đám đông

từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ngài (c. 34).

Từ bỏ chính mình là không coi mình như trung tâm nữa,

không coi danh dự, quyền lợi, dự tính, của cải là điều mình phải nắm chặt.

Vác thanh ngang của thập giá là việc mà người sắp bị đóng đinh phải làm.

Như thế vác thập giá đồng nghĩa với việc chấp nhận cái chết sắp xảy ra.

Đức Giêsu đã sống những điều này trước khi mời chúng ta sống.

Ngài đã vác thập giá Cha trao cho Ngài.

Ngài đã từ bỏ chính mình hoàn toàn khi bị treo trên thập giá.

Đời sống người Kitô hữu mãi mãi không bao giờ dễ dàng,

vì đó là hành trình vác thập giá của riêng mình theo chân Thầy Giêsu.

Thập giá ghi dấu ấn trên bất cứ ai dám sống thật sự ơn gọi kitô hữu.

Nhưng thập giá lại không phải là kết thúc của Kitô giáo.

Kitô giáo kết thúc bằng sự sống và sự sống lại của Đức Giêsu.

Tất cả nghịch lý nằm ở chỗ ai dám mất thì lại được,

còn ai cố giữ cho được thì lại mất.

Mà cái được và cái mất không như nhau.

Cái mất chỉ là mạng sống tạm bợ ở đời này,

còn cái được là sự sống vĩnh hằng ở đời sau (c. 35).

Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này, kinh nghiệm được và mất.

Ngài mời chúng ta dám sống kinh nghiệm ấy cùng với Ngài.

Được cả thế giới này mà mất sự sống đời đời thì có ích chi?(c.36).

Đức Giêsu hôm nay vẫn muốn nhắc nhở chúng ta như thế.

 

Cầu nguyện:

Chỉ mong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế Người là tất cả của tôi.

Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,

đến với Người trong mọi sự,

và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.

Chỉ mong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,

nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người

và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen. (R. Tagore)

 

Suy Niệm 2: Đức tin và hành động

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nền tảng của đức tin là Chúa. Tin Chúa là tất cả. Đó phải là chân lý điều hướng cả con người và cuộc đời chúng ta. Vì thế tin là phó thác toàn thân cho Chúa. Chỉ đi tìm Chúa. Để đạt tới cùng đích là chiếm hữu được Chúa. Được sự sống đời đời. Một niềm tin chân chính phải biến thành hành động.

Trước hết phải từ bỏ thế giới này. Thế giới này là vật chất. Ta phải tìm những gì cao hơn vật chất. Thế giới này là chóng qua. Ta phải tìm điều vĩnh cửu. Thế giới này là thung lũng nước mắt. Ta phải tìm hạnh phúc đích thực. Thế giới này sẽ chết. Ta phải tìm sự sống đời đời. Như Lời Chúa dạy: “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống mình, thì người ta nào có lợi gì? Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình”?

Còn sâu xa hơn nữa, phải từ bỏ chính mình: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Cái tôi luôn chống lại Chúa. Muốn được Chúa phải từ bỏ cái tôi. Để Chúa chiếm hữu tôi. Tôi sẽ chiếm được Chúa: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

 Về đức tin chúng ta phải noi gương tổ phụ Áp-ra-ham. Đó là một đức tin sống động. Dám từ bỏ cả cuộc đời. Dám hi sinh cả đứa con duy nhất. Chỉ cần Chúa. Chỉ đạt tới Chúa là đủ. Đó là đức tin có việc làm. Là đức tin hoàn hảo. “Bạn thấy đó: đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo. Như thế ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã chép: Ông Áp-ra-ham tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công chính…. Thật thế, đức tin không có hành động là đức tin chết” (năm chẵn).

Khi có đức tin như thế, con người sẽ hợp nhất với chính mình, với nhau. Và tất cả qui về Thiên Chúa. Khi không có đức tin, con người tự phân hoá. Trong bản thân có nhiều mâu thuẫn. Trong xã hội có nhiều tranh chấp. Và thế giới phân hoá. Đó chính là hậu quả của tháp Ba-ben. Con người kiêu ngạo muốn chống lại Chúa, sẽ chống lại nhau. “Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Đức Chúa đã làm xác trộn tiếng nói cua rmoij người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất”. Phải chăng Ba-ben là Ba-by-lon, đại diện thế lực trần gian chống lại Thiên Chúa? (năm lẻ).

 

Suy Niệm 3: Theo Chúa Giêsu

Khi nhìn về hoạt động của Giáo Hội giữa thế giới hôm nay, có người ghi nhận rằng Giáo Hội hiện tại rất đa năng đa dạng, Giáo Hội có thể có mặt một cách khéo léo và hiệu quả trong hầu hết mọi lãnh vực của đời sống con người; nhưng đôi khi Giáo Hội đã bỏ quên một sở trường có thể là quan trọng nhất, đó là làm người phát ngôn bảo vệ các giá trị tuyệt đối của Tin Mừng và bảo vệ cho đến cùng như được nhắc lại trong Tin Mừng hôm nay.

Sau khi nghe Phêrô nói lên sự thật: “Thầy là Ðức Kitô”, thì Chúa Giêsu xác định rõ hơn thế nào là Kitô theo quan điểm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không ngần ngại minh định tư cách Kitô của mình, đó là một Ðấng Kitô theo hình ảnh của Người Tôi Tớ Yavê như được nhắc đến trong sách Tiên tri Isaia. Ngài sẽ không là Ðấng Kitô theo ý riêng của mình, nhưng hoàn toàn theo ý Thiên Chúa Cha như đã được tiên báo nơi hình ảnh người tôi tớ Yavê và ngày càng được mạc khải rõ hơn nơi Người Con yêu dấu của Thiên Chúa; Thiên Chúa muốn Ngài hoàn thành kế hoạch bằng chính đau khổ và cái chết của Ngài. Mạc khải ấy lẽ ra phải được các môn đệ đón nhận với cảm thông và chia sẻ. Phêrô đã đại diện các Tông đồ để tuyên xưng: “Thầy là Ðức Kitô”, nhưng chỉ tiếc liền sau đó, ông đã không hoàn toàn cảm nghĩ theo cách thức Thiên Chúa, nhưng đã theo cách thức nhân loại. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Chúa Giêsu, và một cách vô tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô.

Chúa Giêsu chẳng những quở trách Phêrô, Ngài còn đưa ra một giáo huấn quan trọng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Từ nay cả Phêrô lẫn những ai muốn làm môn đệ Chúa đều phải sống thân phận tôi tớ như Chúa. Nhưng Ngài còn thêm: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”. Làm tôi tớ Thiên Chúa, từ bỏ chính mình, vác thập giá, đồng nghĩa với chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì Tin Mừng. Nếu có bao giờ con người cảm thấy ngại ngùng với những yêu sách đó, thì cần phải nhớ một lời cảnh giác của Chúa cũng như trong bối cảnh đó: “Ai hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang Cha Ngài với các thánh thiên thần.”

Ðành rằng con đường của Chúa là cả một đoạn trường, nhưng đã là môn đệ Chúa và muốn thi hành số mệnh của mình, chúng ta không còn một chọn lựa nào khác. Xin Chúa cho chúng ta can đảm sống đúng tư cách môn đệ của Chúa, mạnh dạn thực hiện những đòi hỏi của Tin Mừng, để ngày nay Danh Chúa được mọi người nhận biết và mai sau chúng ta được Chúa đón nhận vào Nước Trời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Sống đúng là Kitô hữu

Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; Còn ai liều mất mạng sống vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc. 8, 34-35)

Trong bài Phúc âm hôm qua, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu cho các môn đệ hiểu đúng về bản thân và sứ mạng của Người: sứ mạng của Đấng Mê-si-a phải chịu đau khổ. Phêrô đã bực mình và không phải là không có lý do, bởi lẽ chuyện đó kéo theo hậu quả cho người môn đệ là ông. Điều tuyên bố này của Chúa có liên hệ tới ông. Có được một ông thầy là một đấng Mê-si-a quyền uy chiến thắng và có một người thầy là một Mê-si-a phải chịu đau khổ và bị người ta giết chết, đâu phải là chuyện như nhau. Chúa Giêsu biết rõ như vậy. Nên Người liền giải thích ngay làm môn đệ một Mê-si-a phải chịu đau khổ hệ tại ở sự gì: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo…”

Đảo lộn giá trị

Phải vác thập giá, phải từ bỏ mình, nguy cơ to lớn như vậy không phải là sự thiệt thòi, mất mát đâu. Trái lại, đó chính là một mối lợi. Thật là điều nghịch lý: người môn đệ lấy Đức Kitô làm con bài chủ trong cuộc chơi của mình, người ấy là kẻ thắng cuộc. Mất, chính là được với điều kiện là sự mất mát này là vì Chúa Giêsu và vì Phúc âm. Một cuộc sống chịu thiệt thòi ví Chúa Giêsu và vì Phúc âm như thế được coi như một sự thất bại xét về mặt hoàn toàn trần thế giống như cuộc đời của Chúa Giêsu vậy; nhưng nó lại là một sự hoàn bị, đạt tới mức tròn đầy, bởi lẽ đó là một cuộc đời hoàn toàn quy hướng về Chúa. Trong chiều hướng ngược lại, con người chỉ tìm tán dương, tâng bốc, đề cao cái “tôi” của mình, chỉ muốn giữ mạng sống mình cho riêng mình thôi, người ấy có thể chắc chắn đánh mất cuộc sống ấy, không đạt được đích là sự thăng hoa đích thực. Và cho dù có giầu sang bạc ngàn bạc triệu, người ấy cũng sẽ không có thể dùng tiền mua được cho mình sự sống của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đặt nét chấm phá cho bức họa chân dung người môn đệ bằng một câu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chứng từ: không hổ thẹn vì Chúa Giêsu. Lòng tin của người môn đệ không phải là một chuyện riêng tư; đức tin ấy đòi hỏi được biểu lộ và khẳng định công khai cho dù gặp phải những khó khăn. Lòng tin không phải là chiếc áo, vui thì mặc vào, còn khi gặp phiền hà rắc rối thì rũ bỏ.

Chúng ta có là môn đệ của Chúa Kitô không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần tự hỏi mình xem ta cảm nghĩ thế nào, có tâm tình gì khi người ta nói đến đạo Chúa, Giáo hội, Chúa Kitô… khi ta đang làm việc, ở trong gia đình, hay trong mối quan hệ xã hội bạn bè. Chúng ta có dám đứng về phía Chúa Giêsu Kitô, không ba hoa. khoa trương, nhưng kiên quyết và xác tín? Đối với người môn đệ, việc bày tỏ và khẳng định niềm tin của mình không phải là chuyện tùy tiện.

 

Suy Niệm 5: Tin và đi theo

Sau khi Phêrô thay lời anh em tuyên xưng niềm tin, Đức Giêsu đã ngay lập tức loan báo về cuộc khổ nạn của mình để các ông hiểu rõ về căn tính “Đấng Kitô” theo ý định của Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê trong Cựu Ước mà Isaia đã nhắc tới, đó chính là hình ảnh tiên trưng về Ngài. Quả thật, Đức Giêsu đến không phải là làm theo ý riêng, nhưng hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha trong tư cách là người Tôi Tớ.

Sau khi tỏ cho các ông về cuộc khổ nạn mà Đấng Kitô – Thiên Sai sẽ phải chịu, thì cũng ngay lập tức Ngài mời gọi các ông: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

Thật tiếc thay cho Phêrô! Ông tuyên tín thì mạnh mẽ, nhưng khi nói đến sự vâng phục và con đường khổ giá mà Thầy sẽ đi để cứu chuộc nhân loại, thì ông đã thất vọng và lên tiếng can ngăn Ngài. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Đức Giêsu, và một cách vô tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô theo thánh ý Thiên Chúa Cha.

Như thế, ông đã lộ rõ tính thực dụng của mình khi đặt niềm tin vào một Đấng Thiên Sai đến giải phóng dân tộc theo nghĩa chính trị. Vì thế, ông đã bị Đức Giêsu quở trách thật nặng nề: “Satan! Lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thên Chúa mà là của loại người”.

Trong cuộc sống đạo của chúng ta, nhiều khi không khác gì Phêrô. Có những cơn sốt sắng nổi lên thì thề sống chết với Chúa và trung thành đến cùng với Ngài, nhưng sau đó, khi thử thách hay những khó khăn gặp phải, chúng ta bắt đầu suy xét lại và đem so sánh thiệt hơn với đời. Những lúc như thế, chúng ta đã lập lờ và nhùng nhằng, so đo tính toán…

Nên nhớ quy tắc căn bản của sứ điệp Lời Chúa hôm nay:

Thiên Chúa không bao giờ cất khỏi đau khổ cho con người. Nhưng ngược lại, Ngài sẽ tiếp tục gửi đau khổ đến cho những ai Ngài thương mến. Cũng như chính Ngài, Đức Giêsu luôn luôn mời gọi chúng ta đón nhận đau khổ và chiếu dọi yêu thương vào đó thì đau khổ sẽ có ý nghĩa và nở hoa cứu độ. Nếu không có yêu thương thì thập giá mãi mãi đè bẹp chúng ta, nhưng chúng ta đón nhận và vác lấy trong tình yêu thì nhờ thập giá sẽ trở thành con đường dẫn đến vinh quang, đau khổ sẽ thành biểu tượng tình yêu.

Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta ơn can đảm để lựa chọn và sống mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời. Để ngang qua lòng mến, chúng ta được ơn cứu chuộc. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Thập giá Đức Kitô

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi, anh đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: “Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tùy thích”.

Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vứt cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng xù xì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá…

Và rồi đêm nào cũng thế, cho đến một lần kia anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà. Nhưng ôi khi nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào! (Trích “Phúc”).

Suy niệm

Người môn đệ Chúa Kitô tham dự vào mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô, với tâm tư con người đó là nghịch lý: Ngài đã chỉ đạt được vinh quang thiên sai nhờ đi qua khổ nạn và cái chết, theo chương trình của Thiên Chúa như ngôn sứ Isaia loan báo về tư thế của người tôi tớ đau khổ (Is 50,5-9a).

Cho nên, ai tự nhận mang danh môn đệ của Chúa Kitô, là “Kitô hữu”, được mời gọi bước vào sống mầu nhiệm nghịch lý thập giá của Đức Kitô, chấp nhận đau khổ vì Đức Kitô. Như tông đồ Phaolô đã trải nghiệm và gợi mở sống mầu nhiệm vác thập giá của người môn đệ Chúa Kitô: “Hiện nay tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Ðức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Người được nhờ” (Cl 1,24-25).

Khi hiểu được ý nghĩa cao quý của thập giá, chúng ta bước theo Thầy với thập giá hằng ngày và hãnh diện như thánh Phaolô nói với tín hữu Galata: “Tôi chẳng hãnh diện điều gì ngoài thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14).

Lạy Chúa Giêsu, trên bước đường thập giá Ngài đi, trong tư cách là môn đệ của Chúa:

“Xin cho con bước đi theo Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài, thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa, xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang”.

Ý lực sống: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2Tm 2,11).

 

Suy Niệm 7: Điều kiện để theo Chúa

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau khi khiển trách Phêrô đã ngăn Ngài đi vào con đường Thập giá, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường Thập giá của Ngài: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi” (Mc, 8,34). Xem ra từ bỏ và vác thập giá là đi vào con đường chết, nhưng thật ra đó là con đường dẫn đến sự sống thật: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).
  2. Sau khi các môn đệ đã tuyên xưng cách rõ ràng Ngài là Đấng Thiên Sai: ”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16), Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các ông biết: “Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và luật sĩ, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại”. Ở đây có nghĩa là Đức Giêsu mở ra  một giai đoạn mới, trong  giai đoạn mới này Ngài muốn mạc khải về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã tuyên bố rõ ràng cho các môn đệ và những người đang theo Ngài giảng: “Ai muốn đi theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(Mc 8,34).
  3. THEO ở đây không có nghĩa là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, không phải là chỉ mang tên môn đệ của Ngài, mà có nghĩa là bước theo chân Ngài, gắn kết với Ngài, lấy Ngài làm lẽ sống “sự sống của tôi là Đức Kitô”, giống như cô gái theo một chàng trai. Cô nàng phó thác con người mình cho chàng, cùng chung số phận với chàng, sống chết với chàng, không khó khăn nào  có thể làm cho họ lìa bỏ nhau:

Đi đâu cho thiếp theo cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

Trong lời mời gọi của Đức Giêsu, chúng ta nên để ý đến hai chữ “NẾU” và “THÌ”. Khi dùng chữ “nếu” thì luôn giả thiết lời mời gọi ấy hoàn toàn có tính cách tự do, tự nguyện, muốn theo cũng được, không theo cũng được. Nếu không theo thì thôi, còn nếu đã theo là phải bắt buộc dùng chữ “thì”, vì đây là điều kiện bắt buộc, “điều kiện sine qua non”, không có không được. Như vậy, muốn theo Chúa thì phải thực hiện hai  điều kiện ấy.

  1. Từ bỏ chính mình.

Quả vậy, muốn theo Chúa thì phải khước từ tất cả những cản trở bên ngoài như tha nhân, xã hội, tạo vật… và do bên trong như chính bản thân mình là các khuyết điểm, thói hư tật xấu, tội lỗi…

Đức Thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11/03/1970 đã nói: “Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo: đó là sự từ bỏ.

Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 và 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn là 3,4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình là phải làm tan ý riêng của ta cho hòa vào ý Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự là từ bỏ chính mình.

  1. Vác thập giá mình.

Theo Chúa là phải nỗ lực, cố gắng trong việc chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng trong sự chịu đựng và kiên trì trong việc vác thập giá hằng ngày. Thập giá là những gian nan thử thách, những đau khổ cả tinh thần lẫn thể chất… trong cuộc sống hằng ngày mà mỗi người phải chịu.

Trong đời sống Kitô hữu, ai cũng phải vác thập giá vì không ai có thể trốn tránh được đau khổ. Đau khổ chính là thập giá chúng ta phải vác hằng ngày. Công việc của chúng ta là phải vác như thế nào: tự nguyện hay miễn cưỡng? Theo kinh nghiệm của chúng ta  và cũng là của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng, nếu ai vác bổng thánh giá lên thì sẽ thấy nó nhẹ, còn ai vác uể oải hay kéo lê thì thánh giá sẽ trở nên nặng nề. Tuy nhiên, Chúa biết sức chịu đựng của từng người, có người Chúa trao cho thánh giá nặng, có người Chúa trao cho thánh giá nhẹ, nhưng thánh giá nào cũng vừa sức cho mỗi người.

  1. Truyện: Thánh giá vừa sức mình.

Câu truyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó: có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo:

– Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh giá vừa sức con.

Ông ta mang thánh giá của mình  ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được: có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:

– Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.

Thiên thần yên ủi:

– Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.

 

Suy Niệm 8: Ai theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Sau khi khiển trách Phêrô đã ngăn Ngài đi vào con đường thập giá, Chúa Giêsu dạy các môn đệ:

– Làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường thập giá như Ngài “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình và vác thập giá mình mà theo”.

– Xem ra, từ bỏ và vác thập giá là đi vào con đường chết, nhưng thực ra đó là con đường dẫn tới sự sống thật “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng ống ấy”.

B…. nẩy mầm.

  1. Ta hãy nghe lại lời Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”.

Có lẽ từ trước tới nay, tôi theo Chúa là để “được” (được an ủi, được che chở, được đời này, rồi lại được đời sau). Nhưng Chúa Giêsu dạy muốn “được” thì trước hết hãy “bỏ” (bỏ tất cả những gì cản trở việc đi theo Ngài, bỏ ý riêng, bỏ chính bản thân mình…). Có “bỏ” thì mới “được”.

  1. Có một thuyền trưởng ghé tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển không sao định hướng được, kim nam châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan tàu chứa khối nam châm. Cuối cùng lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người thuyền trưởng phải quyết định vất bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng đúng mà cứu sống cả con tàu. (Trích “Phúc”)
  2. “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì người ta nào có lợi ích gì?” Câu này đã khiến Phanxicô Xaviê bỏ mọi sự để đi theo Chúa, thành một nhà truyền giáo nhiệt tình.

Mỗi người chúng ta hãy duyệt lại xem mình đang tìm kiếm những tôi gì ở đời này (quyền lợi, thú vui, danh vọng…). Rồi nghĩ tới ngày mình nhắm mắt ra đi. Lúc đó mình sẽ mang theo được những gì?

  1. Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những  trắng án mà còn được thưởng nữa.

Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta,  chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng. (Trích “Phúc”)

  1. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”.

Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế  chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!” (John Newton).

  1. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35)

“Chúng tôi muốn lựa chọn một giai cấp thống trị mới, xa lạ với thứ đạo đức thương người, một giai cấp ý thức rằng, dựa trên cơ sở là giống nòi ưu việt nhất, nó có quyền đô hộ; một giai cấp biết thiết lập và duy trì không một chút do dự quyền thống trị của nó đối với quảng đại quần chúng” (“Những bí mật của Chiến tranh thế giới II” – Grigôri Đêbôrin)

Dựa trên thuyết phân biệt chủng tộc, Hítle đã xây dựng một bộ máy chính quyền tôn thờ chiến tranh. Họ coi chiến tranh là “một hoạt động cao quý nhất của những con người thuộc giống nòi ưu việt”. Một đất nước của trại lính và nhà giam đã lôi kéo cả thế giới rơi vào lửa đạn.

50 năm đã trôi qua, chủ nghĩa phát xít đã bị chôn vùi. Nhưng trên thế giới vẫn còn biết bao ý tưởng điên rồ của con người, khiến nhân loại phải điêu đứng vì chiến tranh, đói nghèo và lạc hậu.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu”. Xin giúp con biết hy sinh vì tình yêu đồng loại. (Epphata)

 

THỨ BẢY TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 9, 2-12

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.

Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.

Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?” Và các ông hỏi Người: “Tại sao các biệt phái và luật sĩ lại nói Êlia phải đến trước đã?” Người đáp: “Êlia phải đến trước để sửa lại mọi sự, và như có lời chép về Con Người rằng ‘Người phải chịu nhiều đau khổ và khinh bỉ’. Vậy Thầy bảo cho các con hay: Êlia đã đến rồi và chúng xử với người mặc ý chúng, như đã chép về người”.

 

Suy Niệm 1: Hãy nghe Người

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu được tuyên bố là Con Thiên Chúa ba lần:

lúc chịu phép rửa (1, 11), lúc được biến hình (9, 7), và sau khi tắt thở (15, 39).

Trong cả ba lần này, Đức Giêsu đều ở trong thái độ vâng phục tự hạ.

Lần thứ nhất, khi Ngài đứng chung với những tội nhân chịu phép rửa (1, 9).

Lần thứ hai, sau khi Ngài tiên báo và chấp nhận cuộc Thương Khó (8, 31).

Lần thứ ba, sau khi Ngài bị đóng đinh và chết trên thập giá (15, 39).

Như thế khi Đức Giêsu đi xuống đến cùng của phận người tội lụy

thì Ngài lại được tôn vinh là Con Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu lên một ngọn núi cao.

Ngài chỉ đem theo ba môn đệ thân tín, Phêrô, Giacôbê và Gioan.

Ba ông này đã được thấy Ngài hồi sinh con gái ông Giairô (5, 37),

và sẽ được ở bên Ngài trong vườn Dầu sau này (14,33).

Đức Giêsu được biến hình trước mắt các ông, y phục Ngài trắng tinh rực rỡ.

Cha đã muốn cho ba môn đệ thấy sự cao trọng thánh thiêng của Đức Giêsu,

vốn được ẩn giấu che khuất bởi bề ngoài rất đỗi bình thường.

Đức Giêsu biến hình không phải là đổi qua một hình khác,

mà là vén mở trong một thời gian ngắn

để cho ta thấy tư cách thần linh vẫn luôn luôn có nơi Ngài.

Phêrô và các bạn ngây ngất trước cảnh tượng chưa từng thấy.

Hơn nữa, họ còn thấy ông Êlia và ông Môsê hiện ra trò chuyện với Đức Giêsu.

Hai ông này đã từng đàm đạo với Thiên Chúa trên núi (Xh 33,11; 1V 19, 8-18).

Bây giờ họ cũng đàm đạo với Đức Giêsu trên núi cao.

Phêrô chỉ muốn kéo dài giây phút tuyệt vời này mãi.

Ông đề nghị căng ba lều để ba vị ở lại đây luôn.

Có lẽ ông quên là Thầy Giêsu còn cả một con đường nhọc nhằn phải đi.

“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe ngài” (c. 7).

Câu duy nhất của Chúa Cha nói với chúng ta trong Tin Mừng Máccô.

Cha giới thiệu cho ta Con của Cha, Cha mời gọi ta vâng nghe Ngài.

Ba môn đệ chẳng thể ngờ rằng trên ngọn núi này

họ sẽ được bao phủ bằng sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa qua đám mây,

và tai họ được nghe thấy lời của chính Thiên Chúa nói.

Rồi đến lúc Thầy và các trò phải xuống núi.

Con người Thầy Giêsu trở lại như thường, y phục trở lại bình thường.

Thầy xuống núi này để chuẩn bị lên một ngọn núi khác.

Nhưng những gì diễn ra ở ngọn núi này thật là không thể quên.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa thường hay lên núi cầu nguyện.

Thỉnh thoảng xin dẫn con lên một ngọn núi cao

để con sống tình bạn với Chúa.

Xin cho con ngỡ ngàng khi chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa,

khuôn mặt mà con tưởng mình đã quen biết từ lâu.

Chúa cho con thấy những nét đơn sơ để lòng con trở nên giản dị.

Chúa cho con thấy những nét hiền hậu để con biết thứ tha.

Chúa cho con gặp những nét sáng tươi

để con nở một nụ cười với cuộc sống.

Lạy Chúa, xin hãy cho con có kinh nghiệm lên núi với Chúa,

yêu thích sự cô tịch và thanh thoát, trầm lặng để lắng nghe.

Ước gì khoảng trời bao la trên đỉnh núi

nâng con lên khỏi những nhỏ mọn hằng ngày.

Và ước gì khi xuống núi,

con thấy mình mạnh mẽ hơn để đón lấy những gai góc của đời con. Amen.

 

Suy Niệm 2: Đức tin hi vọng

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thư Do thái khẳng định: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Ta tin tưởng vì Lời Chúa hoàn toàn chân thực và quyền năng.

Ta hi vọng tin tưởng, vì Lời Chúa sáng tạo vũ trụ. Vì thế Thiên Chúa là Chúa Tể Càn Khôn. Nơi Người tràn đầy sức sống, tình yêu và hạnh phúc. Đó chính là điều nhiều vị thánh đã được chứng nghiệm. Mô-sê trên đỉnh Xi-nai khói lửa mịt mù. I-sa-i-a trong thánh điện rực rỡ vinh quang. Hôm nay các môn đệ trên đỉnh núi Ta-bo. “Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”. Đó chỉ là cố gắng diễn tả. Ngôn ngữ trần gian không tài nào tả hết cảnh huy hoàng lộng lẫy của thiên đình. Càng không thể diễn tả hết niềm hạnh phúc tâm hồn cảm thấy. Phê-rô mê mẩn thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!”..Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng”. Không thể diễn tả. Nhưng thật đáng mơ ước. Kinh hoàng vì vượt quá sức loài người. Nhưng hạnh phúc vì đạt tới niềm vui khôn tả. Đó là niềm hi vọng có thật. Hoàn toàn vững chắc. Bảo chứng muôn đời.

Ta hi vọng tin tưởng, vì Lời Chúa dẫn đường chỉ lối cho ta đạt tới hạnh phúc Chúa hứa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Các tổ phụ đã có đức tin lớn lao nên đã vâng nghe Lời Chúa. Và đạt tới lời Chúa hứa. “Nhờ tin…, ông A-ban đã được chứng nhận là người công chính…Ông Kha-nốc..khỏi chết…vì đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. Mà không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa…Nhờ đức tin, ông Nô-ê …cứu được gia đình ông. Tin như thế là ông đã lên án thế gian, và được phần gia nghiệp là sự công chính nhờ đức tin” (năm lẻ).

Ta hi vọng tin tưởng, vì Lời Chúa chân thật xứng đáng cho ta tin cậy. Lời thế gian thường gian dối. Nó phát xuất từ cái lưỡi “làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy….Cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người”. Vì thế thánh Gia-cô-bê khuyên nhủ ta hãy biết dùng lời mà nói những lời thánh thiện và chân thật. Đó là phải “dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta”. Đã tin vào Lời Chúa, ta phải luôn nói lời chân thật “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo” (năm chẵn).

 

Suy Niệm 3: Biến hình với Chúa

Lịch sử cứu độ được dệt bằng những cuộc ra đi. Dường như Thiên Chúa không muốn cho người dậm chân tại chỗ: Ngài kêu gọi Abraham từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi mà ông không biết; Ngài thúc đẩy Môsê rời bỏ cung điện nguy nga để tìm đến nơi hoang vắng, Ngài ra lệnh cho ông phải đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập; Ngài kêu gọi Êlia hãy lên ngọn núi cao để nhận ra sứ điệp của Ngài. Chính Chúa Giêsu cũng đã làm một cuộc ra đi: Ngài rời bỏ ngôi nhà của Cha để đến cư ngụ giữa loài người.

Tin Mừng hôm nay hé mở cho chúng ta thấy vinh quang mà Con Thiên Chúa đã có trước khi đến trần gian. Vinh quang mà Chúa Giêsu hé mở cho các Tông đồ thân tín được thể hiện sáu ngày sau khi Ngài loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết mà Ngài sắp trải qua. Qua cuộc biến hình này, Ngài muốn củng cố niềm tin của các Tông đồ vào sứ mệnh của Ngài: Ngài phải chịu chết rồi mới sống lại vinh hiển, Ngài phải trẩy đi từ sự sống qua sự chết và đạt tới sự Phục sinh vinh hiển. Và đó cũng là con đường tất yếu của những ai muốn đi theo Ngài; con đường Chúa Giêsu sẽ đi qua cũng sẽ là con đường mà các môn đệ Ngài phải đi qua.

Cuộc biến hình nào cũng là một cuộc trẩy đi, một cuộc đổi đời. Cuộc sống của người Kitô hữu là một chuỗi những ra đi, những cái chết từng giây từng phút. Ðó là điều Chúa Giêsu đòi hỏi nơi chúng ta: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sai, thì không xứng đáng là môn đệ Ta”.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nghiêm chỉnh tự đặt cho mình câu hỏi: Tôi có thực sự muốn được biến hình không? Tôi có thực sự muốn sống sự sống thần linh của Chúa không? Tôi có thực sự muốn làm môn đệ của Chúa không? Ðức tin của tôi có đủ mạnh để biến đổi cuộc sống của tôi không? Mỗi quyết định của tôi trong cuộc sống có là một bước tiến để đưa tôi đến gần cuộc sống vĩnh cửu không?

Ước gì Lời Chúa hôm nay soi sáng cuộc sống hiện tại của chúng ta. Những vất vả khổ đau mà chúng ta đang trải qua trong cuộc sống này phải được sống và được nhìn với niềm hy vọng vào cuộc biến hình vinh hiển đang chờ đón chúng ta. Từng bước một, xin Chúa Kitô Phục Sinh thêm sức để chúng ta vững tin tiến tới.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Không được phép dựng lều

Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. (Mc. 9, 2-3)

Trèo lên núi cao, có nghĩa là ra khỏi quê hương hay nơi cư trú của mình, là nâng mình lên cao khỏi những lo lắng thường ngày, là cắt nhịp sống tầm thường để tiến tới cuộc sống phi thường. Thánh Phêrô đã thấy rõ khía cạnh này khi đi lên núi cùng với Chúa Giêsu, Giacôbê và Gioan. Ông cảm thấy khoan khoái khi được ở trên ngọn núi này. Vì thế ông đề nghị dựng lều cho Chúa Giêsu ở đây. Chúa Giêsu từ chối lời đề nghi này của Phêrô, bởi lẽ đối với Chúa không có vấn đề du lịch, cũng không phải ra khỏi xứ. Việc lên núi này tham dự vào sứ mạng của Người. Thực vậy, biến cố Chúa hiển dung trước tiên là vì các môn đệ, và củng cố niềm tin của các ông đối với Chúa Giêsu. Chúa biến đổi hình dạng sáng láng, y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh có nghĩa là Người được bao trùm vinh quang của Thiên Chúa. Hơn nữa, cuộc đàm đạo của Chúa với những nhân vật có thế giá của Cựu ước là Elia và Mô-sê cũng là cách nói cho các môn đệ hiểu rằng Đức Giêsu được nhập vào hàng ngũ và đang đi theo đường lối của hai vị đại ngôn sứ này. Thánh Luca nói đến đề tài của cuộc đàm đạo này: “Các ngài nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.” Cả hai vị Môi-sê và Elia đều là những người từng trải về xuất hành: vị thứ nhất đã đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập; còn vị thư hai đã đi khỏi trần gian này một cách huyền bí vào lúc cuối đời. Bằng cái chết và sự phục sinh của Người, Chúa Giêsu phải thực hiện một cuộc xuất hành mới sẽ cho phép những kẻ thuộc về Người tiến đến cùng Thiên Chúa làm một với Người

Tiếng Chúa Cha phán

Trong chương chín, thánh Maccô đã trình bày cho ta thấy các tông đồ đã gặp ngày xui: các ông chậm hiểu, và Phêrô lại còn bị Chúa quở trách. Tình trạng đó hẳn làm cho các tông đồ mất tinh thần và khiến các ông phải tự hỏi liệu Người có phải đúng vị kinh sư mà mình đã chọn để đi theo không. Vì thế việc Chúa biến đổi hình dạng sáng láng đến đúng lúc. Phêrô đã trả lời nói lên căn tính của Đức Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô”. Đúng, nhưng chưa đủ. Ở đây, Thiên Chúa Cha cho câu trả lời đầy đủ: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Chứng từ này của Chúa Cha làm cho vẻ tăm tối ảm đạm nơi định mệnh của Chúa Giêsu là chân chính, xác thực. Đó là “những tư tưởng của Thiên Chúa “và các tông đồ chỉ có chọn lựa để chấp nhận: “Hãy vâng lời Người!” Dừng lồng khuôn Chúa Giêsu theo hình ảnh đấng thiên sai của các ông, đừng gán cho Người sứ mạng của một Đấng Kitô mang tính cách chính trị phải chiến thắng và phục thù. Các ông phải đón nhận Đấng-Thiên-Chúa-sai như Thiên Chúa sai đến: một Đấng thiên sai phải chịu đau khổ rồi mới vinh quang. Phải có điều này vì điều kia.

 

Suy Niệm 5: Một cuộc biến đổi

Cuộc biến hình hôm nay được diễn ra sau sáu ngày Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Ngài cho các môn đệ.

Giờ đã đến, Đức Giêsu hé mở vinh quang của Ngài trong tư cách là Đấng Thiên Sai – Con Thiên Chúa. Qua cuộc biến hình của Ngài với Êlia và Môsê, Đức Giêsu muốn dạy cho các ông bài học rằng: chính Ngài phải chịu đau khổ rồi mới đến vinh quang; phải trải qua cái chết rồi mới phục sinh. Đây cũng là con đường dẫn đến hạnh phúc dành cho người môn đệ nếu muốn chung phần với Thầy của mình.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta vững tin vào Chúa. Luôn biết quy chiếu cuộc đời chúng ta trong niềm hy vọng phục sinh. Biết đón nhận thử thách và đau khổ trong cuộc đời với lòng yêu mến Chúa, để nhờ đó, chúng ta được hạnh phúc như Chúa đã mặc khải cho các môn đệ khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng yêu mến Chúa tha thiết. Biết trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh, để mai sau được phục sinh với Ngài. Amen.

 Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Đức Giêsu biến hình

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Tin Mừng hôm nay hé mở cho ta thấy vinh quang mà Con Thiên Chúa đã có trước khi đến trần gian. Vinh quang mà Đức Giêsu hé mở cho các Tông đồ thân tín  được thể hiện sáu ngày khi Ngài loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết mà Ngài sắp trải qua. Qua cuộc biến hình này, Ngài muốn củng cố niềm tin của các Tông đồ vào sứ mệnh của Ngài: Ngài phải chịu chết rồi mới sống lại vinh hiển, Ngài phải trải đi từ sự sống qua sự chết rồi mới đạt tới sự Phục sinh vinh hiển. Và đó cũng là con đường tất yếu của những ai muốn đi theo Ngài. Con đường Đức Giêsu sẽ đi qua cũng sẽ là con đường mà các môn đệ Ngài phải đi qua.
  2. Mục đích việc biến hình của Chúa.

Chắc chắn tâm tư các môn đệ vẫn còn xót xa, hoang mang bởi lời quả quyết của Đức Giêsu khi Ngài tiết lộ cho các ông: Ngài phải tới Giêrusalem, để chịu nhục hình, bị đối xử như tên tội phạm, chịu đau đớn, chịu đóng đinh vào thập giá và chết. Trước mắt họ, tương lai toàn là mầu đen nhục nhã. Nhưng toàn cảnh núi Biến hình là vinh quang. Mặt Đức Giêsu sáng rỡ ràng như mặt trời, áo Ngài rực rỡ chói lòa như ánh sáng…

Chắc chắn cảnh tượng đó làm cho các ông phấn khởi, họ đã thấy vinh quang  bên kia cảnh nhục nhã, khải hoàn bên kia cảnh đau khổ, vương miện bên kia thập giá. Ngay lúc ấy, họ cũng chưa phải là đã hiểu trọn vẹn, nhưng chắc chắn họ đã lờ mờ ý thức được rằng thập giá là hoàn toàn khổ nhục, nhưng nó đi liền với vinh quang, là nét chính của cuộc xuất hành đến Giêrusalem và đến cái chết.

  1. Các ông cần được củng cố, nâng đỡ.

Các môn đệ cần được nâng đỡ qua biến cố biến hình này, vì sẽ đến một ngày và ở trên một ngọn đồi kia, lúc đó bầu trời sẽ trở nên tối tăm, khuôn mặt Đức Giêsu sẽ đầm đìa mồ hôi và máu, quần áo của Ngài sẽ không còn chói sáng nữa, mà sẽ bị lột khỏi thân mình Ngài. Sẽ không có tiếng nói phát xuất từ trời nữa, nhưng chỉ có những giọng nói chế diễu và nhạo báng mà thôi. Các môn đệ sẽ bị tản mác, và không muốn tham dự vào những sự việc đang xẩy ra.

Biến cố biến hình còn cho các môn đệ niềm hy vọng là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc, cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục sinh hân hoan. Tựa như học sinh kiên nhẫn và miệt mài hy vọng một mùa thi tốt đẹp, người nông phu dầm mưa dãi nắng cấy cầy vì hy vọng vào mùa gặt bội thu.

  1. Các ông muốn hưởng những phút huy hoàng.

Qua cuộc biến hình nhiều người đã có cảm nghiệm như thánh Phêrô: ông muốn làm ba lều cho Đức Giêsu, cho Maisen và cho Êlia. Ông muốn kéo dài giây phút huy hoàng ấy. Ông không muốn trở về với công việc thường ngày, ông muốn ở lại mãi mãi với vinh quang rực rỡ. Ai đã từng trải qua những giây phút thân mật, trong sáng, bình an, gần gũi với Chúa cũng đều muốn kéo dài những giây phút ấy, như có người đã diễn tả: “Núi Biến hình bao giờ cũng thích thú hơn là công tác phục vụ hằng ngày hay con đường thập giá”.

Nhưng núi Biến hình được ban cho ta chỉ để cho ta có sức mạnh làm công tác phục vụ. Giờ phút vinh quang  không xuất hiện vì chính nó, nó xuất hiện là để khoác vẻ đẹp lóng lánh, rực rỡ  cho những công việc bình thường mà trước kia chúng ta chẳng hề có.

  1. Nhưng các ông cần phải xuống núi.

Cũng như Phêrô và các môn đệ, mỗi người chúng ta  ai cũng muốn được  ở trên đỉnh vinh quang, nhưng lại không muốn đối diện với thực tế của cuộc đời, và muốn trốn tránh kiếp lữ hành trần thế, muốn trốn tránh thập giá là con đường duy nhất đưa đến sự phục sinh. Đức Giêsu hôm nay vừa tỏ cho chúng ta thấy viễn cảnh Phục Sinh  để nâng đỡ niềm tin cho chúng ta và cho chúng ta một niềm hy vọng chắc chắn về đời sống vĩnh hằng, nhưng Ngài mời gọi chúng ta phải xuống núi: xuống núi vừa để giúp những người khác  thêm niềm tin và hy vọng, xuống núi để tiếp tục cuộc lữ hành trần thế tiến về quê Trời.

  1. Truyện: Thưa, chính Chúa đấy ạ.

Cha John Diamond một nhà giảng thuyết nổi tiếng ở Mỹ có kể lại câu chuyện này:

“Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên linh hồn đi lên trước cửa Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng nói vọng ra: “Ai đó”? Linh hồn trả lời: “Con đấy ạ”.

Cửa vẫn đóng.

Sau đó linh hồn trở về với đời sống ở trần thế tìm thầy học đạo. Sau một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa Thiên Đàng một lần nữa. Lại một tiếng hỏi từ bên trong như lần trước và linh hồn trả lời  một cách quả quyết hơn: “Dạ chính con đây”.

Cửa vẫn đóng.

Linh hồn lại phải trở về trần thế… mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì. Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đưởng của mình phải đi  là con đường nào. Đó là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường phải làm chết cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang, phô trương, hay tự mãn, hay ghen ghét. Phải làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn bất chính để làm cho con người của mình dần dần được giống Thiên Chúa Cha trên trời.

Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình nữa thì linh hồn lại lên trời… lại gõ cửa… lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra: “Ai đó”?

Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp lại ngay: “Dạ, thưa chính Chúa đấy ạ”.

Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một đạo binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào Thiên đàng. Thật vui biết bao!

 

Suy Niệm 7: Con đường thập giá của Chúa Giêsu

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Việc Chúa Giêsu biến hình xảy ra sau khi Chúa Giêsu báo tin Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và bảo các môn đệ của Ngài cũng hãy đi theo con đường thập giá của Ngài. Như vậy, việc biến hình nhằm an ủi các môn đệ sau thập giá là phục sinh, sau đau khổ sẽ tới vinh quang.

B…. nẩy mầm.

  1. Phêrô muốn dựng lều cho Môsê, Êlia và Chúa Giêsu, nghĩa là ông thích hưởng cảnh vinh quang sáng láng. Nhưng cảnh đó chỉ diễn ra trong thoáng mắt, sau đó mọi sự trở lại như trước, Chúa Giêsu dẫn các ông xuống núi. Ai mà không thích thiên đàng, nhưng muốn lên thiên đàng thì trước đó phải vác thập giá theo Chúa.
  2. Chúa Giêsu biến hình để trở lại hình ảnh vinh quang vốn có của Ngài trước đây. Chúng ta cũng thường biến hình, nhưng biến từ hình ảnh Thiên Chúa lúc mới được tạo dựng thành hình ảnh méo mó xấu xí vì tội lỗi. Vì thế chúng ta phải thường cố gắng biến trở lại hình ảnh ban đầu.
  3. “Hãy vâng nghe lời Ngài” các môn đệ Đức Giêsu – và cả chúng ta – rất sung sướng được ở trong vinh quang của Chúa. Họ khó chịu khi nghe Ngài nói tới con đường thập giá. Thậm chí Phêrô còn cản ngăn Ngài. Nhưng Chúa Cha bảo “Hãy vâng nghe lời Ngài”, nghĩa là phải chấp nhận đi theo Ngài trên con đường thập giá trước rồi mới được tới vinh quang. Nhưng thực ra, nghe lời một Đức Giêsu vinh quang thì dễ hơn nghe lời một Đức Giêsu thập giá nhiều!
  4. “Từ trong đám mây có tiếng phán rằng Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b)

Tối hôm đó, sau khi đã từ giã bà con thân thuộc và những ân nhân, bạn hữu đến thăm, chỉ còn lại hai mẹ con trong nhà, bà Magarita âu yếm nhìn con và nói “Gioan của mẹ, hôm nay con đã là Linh mục của Chúa và con được diễm phúc cử hành Thánh lễ. Từ nay con đừng lo gì cho mẹ hết, nhưng hãy lo một điều duy nhất là cứu rỗi các linh hồn”. Những lời của mẹ, Gioan Boscô đã ghi lòng tạc dạ và đã nên thánh. Lời của một người mẹ còn có sức mạnh như thế, huống hồ là lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh ngàn lần. Vậy mà tôi lại xem thường, không để tâm thực hành trong cuộc sống.

Lạy Cha, xin giúp con làm những gì Chúa Giêsu đã làm, là hướng về Cha trong tâm tình cầu nguyện. Ước gì con cũng được nghe Cha nói với con “Con là con yêu dấu của Cha” (Epphata).

  1. “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9,3)

Để tổng kết cuối năm, các Công ty tính toán sổ sách và nhìn lại một năm qua đã tiến hay lùi thế nào.

Tôi cũng dành lại thời gian để hồi tâm về quá khứ, tổng kết các công việc của tôi. Trước mắt tôi là “cuốn sổ ghi cuộc đời”. Những kế hoạch, dự định đặt ra vào đầu năm, tôi vẫn cứ loay hoay ở bước khởi đầu; mọi vốn liếng về kiến thức, nhân đức, ơn Chúa như đang bị thâm thủng, nói chi đến lãi lời. Tôi đang chùn bước hay đang tiến? Và nếu có tiến thì tiến ở tốc độ nào? Biết bao nhiêu câu hỏi đặt ra cho tôi vào tối nay. Tôi quyết tâm như thế nào đây?

Lạy Chúa, nhìn lại thì không thiếu, nhìn tới thì không thừa. Xin cho con nhận ra ý Chúa ngay trong hiện tại. (Epphata)