Các Bài Suy Niệm Trong Tuần Sau Lễ Hiển Linh
Thứ Bảy sau Lễ Hiển Linh Ga 3,22-30.
Thứ Hai sau Lễ Hiển Linh
LỜI CHÚA: Mt 4, 12-17. 23-25
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: “Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết”.
Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến”.
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.
Suy Niệm 1: Ánh sáng và sự sống
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Từ sau lễ Hiển Linh đến lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa,
Giáo Hội cho chúng ta đọc các bài Tin Mừng về việc Chúa tỏ mình.
Mỗi bài là một dịp Chúa tỏ mình cho Dân của Người.
Bài đọc hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình lần đầu tiên
tại Galilê, vùng đất có nhiều người ngoại giáo sinh sống.
Ngài tỏ mình tại Caphácnaum, một tỉnh lớn chuyên đánh cá gần hồ Galilê,
tỉnh này nằm trong địa giới của chi tộc Naptali ngày xưa.
Thánh Mátthêu thấy việc tỏ mình này làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia:
“Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng,
những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Như thế Đức Giêsu chính là ánh sáng rực rỡ xua tan bóng tối,
Người nâng dậy những ai đang ngồi trong cảnh chết chóc, tối tăm.
Phần sau của bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy điều đó (Mt 4, 23-25).
Đức Giêsu đã đi khắp vùng Galilê để làm ba việc:
dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh nhân.
Thật ra việc dạy dỗ và việc rao giảng có thể coi là một,
nếu thế chương trình hành động của Đức Giêsu sẽ gồm giảng dạy và chữa bệnh.
Dù giảng dạy hay chữa bệnh, Đức Giêsu chỉ muốn một điều
đó là làm vơi nhẹ gánh nặng của những người đang đau khổ.
Đức Giêsu loan báo Nước Trời đã đến gần (Mt 4, 17),
và Người chứng tỏ cho thấy Nước ấy đã đến thật rồi
qua việc chữa lành moi bệnh hoạn tật nguyền của dân.
Cách đây hai ngàn năm, đã có những người bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt.
Ngày nay, dù khoa học tiến bộ, nhưng bệnh tật vẫn không tha con người.
Y khoa vẫn phải đối mặt với những chứng bệnh mới, chưa có thuốc chữa.
Con người không bị ám bởi quỷ, nhưng bởi những sản phẩm do mình làm ra.
Làm thầy dạy và làm lương y là hai nghề đặc biệt
tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy Giêsu,
để loan báo cho thế giới hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Suy Niệm 2: Ánh sáng soi đêm tối
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu đến chiếu soi luồng ánh sáng mới vào nơi tối tăm. Nơi tối tăm nhất là miền Galilea vì đó là miền dân ngoại, là dân còn ngồi trong bóng tối sự chết.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng đổi mới cuộc đời. Lời kêu gọi “Anh em hãy sám hối” chiếu một làn ánh sáng mới vào đời sống chúng ta. Dưới làn ánh sáng này, ta không còn có thể ngồi yên trong bóng tối sự chết, nhưng phải đứng lên mà bước đi. Dưới làn ánh sáng này, ta không thể ngủ yên trong cuộc đời xưa cũ, nhưng phải sám hối, phải dứt lìa tình trạng tội lỗi xưa, phải giã từ con người cũ kỹ ươn lười tội lỗi, phải tỉnh thức trong một cuộc đời tươi mới, thánh thiện, hăng say nhiệt thành.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng ban sự sống. Sự sống con người bị tổn thương, bị hao mòn vì bệnh tật, bị kìm kẹp trong vòng vây của ma quỉ. Con người bị bệnh hoạn tật nguyền không thể sống trọn vẹn cuộc sống tự do, không thể phát huy đến mức tối đa năng lực Chúa ban. Chúa Giêsu đến chưa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng sâu xa bên trong, Chúa giải thoát con người khỏi trói buộc của ma quỉ, đem lại cho con người sự tự do của con cái Chúa, giúp họ sống trọn vẹn cuộc sống, giải phóng năng lực tiềm ẩn để con người có thể phát triển đến mức thập toàn.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng soi thấu lương tâm giúp ta phân định trong cuộc sống. Cuộc sống có nhiều giả trá. Những giả len lỏi vào tận thâm tâm khiến con người bị lầm lẫn ngay trong lượng giá, chọn lựa nền tảng. Thánh Gioan cho biết không chỉ có thần lành mà còn có thần dữ chi phối chọn lựa của ta. Ánh sáng của Chúa soi chiếu tâm hồn, giúp ta phân định, giúp ta lựa chọn và giúp ta đi trên con đường ánh sáng, con đường của Chúa, con đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng thực hành. Không lý luận phức tạp, không vòng vèo quanh co, ánh sáng của Chúa chiếu lên ánh sáng đơn sơ và thực tế để ai đi trong ánh sáng sẽ có chọn lựa và sống đời sống đơn sơ thực tế, đó là tuân giữ điều răn của Chúa. Và “ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. Người ấy ở trong ánh sáng. Người ấy chan hòa ánh sáng.
Suy Niệm 3: Hãy sám hối.
Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là thánh thiện, và được nhiều người đến xin ông cầu nguyện cho. Điều đó làm cho ông rất hãnh diện.
Một buổi sáng nọ, trên đường đến thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi, nhưng anh ta tiến đến quỳ gối trước mặt ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận, và nói lớn tiếng: “Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật với ngươi: cây gậy mà ta đang cầm trên tay trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân trong thất vọng.
Nhưng chưa đi quá mười bước, cây gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm sâu xuống đất, ông dùng tất cả sức lực để rút lên, nhưng cây vẫn không nhúc nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe có tiếng nói: “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông, một người tỗi lỗi biết hối cải được tha thứ dễ dàng hơn một hơn một kẻ kiêu hãnh”.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Đó là trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu loan báo chính là giải phóng con người khỏi tội lỗi và những hệ lụy của nó, như yếu đau tật nguyền…
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được ơn cứu độ. Sám hối không phải là tiếng khóc của thất vọng, mà là một sức lực mới giúp con người vươn lên.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Nước Trời chính là động lực của sám hối. Và do đó, sám hối đích thực cũng chính là một quyết tâm hướng về những biểu hiện của Nước Trời như sống yêu thương, quảng đại, tha thứ.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên” hay nói đúng hơn hãy sám hối để cho Nước Trời được đến giữa mọi người.
Suy Niệm 4: “Hãy sám hối”
Có một người đàn ông trong vùng nổi tiếng về chuyện nhiều vợ, ông lại là người chuyên uống rượu và hay la lối mọi người. Tuy nhiên, một hôm, ông ta quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi, ăn năn trở về với Chúa qua việc xưng tội và rước lễ. Thấy vậy, nhiều người sầm xì, bàn tán. . . trong nhóm có một bà được cho là đạo đức, đã nói lớn tiếng để mọi người nghe thấy, bà nói: “Người tội lỗi như thế thì làm sao được Chúa tha? Xưng tội và rước lễ như vậy, chẳng qua là hình thức, qua mắt thiên hạ!!!”
Ôi thật xót xa thay! Bà này đâu có hiểu được rằng: người tội lỗi luôn là trọng tâm sứ vụ của Đức Giêsu và họ là đối tượng số một của Tin Mừng! Bởi vì, một người tội lỗi biết hối cải thì được tha thứ dễ dàng hơn một kẻ tự cho mình đạo đức nhưng sống trong kiêu hãnh!; hay một người tội lỗi trở lại thì cả triều thần thiên quốc vui mừng!
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”.
Sám hối theo nghĩa thông thường là ý thức mình tội lỗi, hối hận, cần phải quay trở về đường ngay nẻo chính sau khi đã quyết tâm chừa bỏ con đường cũ. Tuy nhiên, sám hối theo Kitô giáo còn mang chiều kích siêu nhiên, đó là trở về cùng Thiên Chúa, để nhận ra tình yêu thương vô biên của Ngài. Mặt khác, sám hối còn là để biết yêu thương, cảm thông, chia sẻ, quảng đại và tha thứ.
Không chỉ dừng lại ở đó, điều quan trọng nữa là: khi sám hối, chúng ta biết khiêm tốn để soi chiếu cuộc đời của mình với tình thương, lòng nhân hậu của Thiên Chúa, rồi định hướng cho mọi hành vi, lựa chọn của mình trong tương lai để được ơn cứu độ.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta ơn sám hối trong cuộc sống thường ngày, bởi vì, đã là con người thì không ai có quyền nói mình vô tội. Vì thế, chúng ta hãy biết chạy đến với Thiên Chúa trong sự sám hối để được ơn tha thứ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Sám hối, điều kiện tiên quyết để đón Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã kêu gọi hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được đón nhận Chúa. Chúng ta cần sám hối không phải một lần hoặc vài lần, nhưng cần sám hối mỗi ngày và trong từng phút giây của cuộc sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi của Chúa nhắc lại lời mời gọi sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả: “Hãy ăn năn sám hối”. Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường để rao giảng Tin Mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Chúa cần chia sẻ chính mình. Chúa đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần biết tìm về ơn cứu độ.
Lạy Chúa, để nhận ra ánh sáng đó, con cần có lòng khao khát ước mong. Ánh sáng của Chúa cũng vô ích nếu con không muốn thấy bởi vì đối với người mù, ngay cả mặt trời chính ngọ cũng chẳng khác gì đêm tối. Ánh sáng chỉ thuận lợi cho con nếu con muốn và có thể sử dụng. Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con. Chúa đến để giải thoát con khỏi đêm tối tội lỗi.
Xin ánh sáng của Chúa chiếu soi vào tâm hồn con, để con nhận biết thân phận yếu đuối tội lỗi của mình. Bởi vì nhận biết mình tội lỗi là bước đầu của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực của con là quyết tâm sống tốt hơn với những việc làm cụ thể theo Lời Chúa dạy. Xin Chúa giúp con luôn biết sám hối trong suốt cuộc đời.
Xin cho Lời Chúa hôm nay hoán cải tâm hồn con, để ánh sáng của Chúa lan tỏa trong con, phá tan mọi ảnh hưởng tội lỗi, làm cho nẻo đường con đi luôn trong sáng, thánh hóa đời sống con nên thánh thiện. Amen.
Ghi nhớ: “Nước trời đã đến gần”.
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
- Phân tích (Hạt giống … )
Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng:
– Địa bàn hoạt động được Ngài chọn là miền Galilê, một miền được coi là lãnh địa của dân ngoại. Từ thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã nói “Galilê, miền đất của dân ngoại”. Nhưng Isaia đã tiên báo rằng dân ở đó sẽ “thấy một ánh sáng huy hoàng”.
– Hoạt động của Ngài gồm giảng dạy và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền.
– Sứ điệp của Ngài là “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”.
- Suy gẫm (… nẩy mầm)
- Khi nào cần tóm lược một cách vừa gọn nhất mà cũng vừa đầy đủ nhất lời rao giảng của Gioan Tiền hô và của Chúa Giêsu, Phúc Âm dùng câu “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (x. Mt 3,2). Sám hối là điều kiện tiên quyết để được cứu rỗi, bởi vì sám hối là ý thức mình đang đi lệch đường và quyết tâm quay về đường chính. Có quay về như thế thì mới được vào Nước Trời. Cũng vì ý thức sự cần thiết của sám hối nên Giáo Hội luôn kêu gọi sám hối trước mỗi Thánh lễ.
- “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Câu này cũng có nghĩa vì Nước Trời đã đến gần nên con người phải sám hối; nó cũng có nghĩa hãy sám hối để mình có thể vào Nước Trời; và cũng có nghĩa hãy sám hối để Nước Trời có thể đến giữa mọi người.
- Người Hồi giáo có câu chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian. ”
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích “Món quà giáng sinh”)
- Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là thánh thiện và được nhiều người đến xin ông cầu nguyện cho. Điều đó làm cho ông rất hãnh diện. Một buổi sáng nọ, trên đường đến thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi, nhưng anh ta tiến đến quỳ trước mặt ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận và nói lớn tiếng: “Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao ? Ta nói thật với ngươi: cây gậy ta đang cầm trên tay trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân trong thất vọng. Nhưng chưa đi quá mười bước, cây gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm sâu xuống đất. Ông dùng tất cả sức lực để rút lên nhưng cây gậy vẫn không nhúc nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe có tiếng nói “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông. Một người tội lỗi biết hối cải được tha thứ dễ dàng hơn một kẻ kiêu hãnh” (“Mỗi ngày một tin vui”)
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu rao giảng ở Galilê
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Nghe tin Gioan bị bắt, Chúa Giêsu lánh về Galilê để tránh sự thù hằn của nhóm biệt phái và luật sĩ, đúng như lời tiên tri Isaia đã nói: dân ngồi trong bóng tối sự chết đã nhìn thấy ánh sáng của Chúa, Vì ở đó, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin mừng, kêu gọi mọi người sám hối và chữa lành các bệnh tật. Tiếng tăm người đồn ra khắp xứ Syria, nên dân chúng từ khắp nơi tuốn đến theo Người.
Capharnaum, trung tâm truyền giáo
Khi Gioan bị bắt cầm tù, nhiệm vụ của ông đã xong, vai phụ phải lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện. Đức Giêsu đã rời Nazareth đến Galilê và chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo. Vùng Galilê này bị người ta khinh dể bởi vì đối với thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ; đối với người mộ đạo sùng tín, miền này thật đáng nghi ngờ. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư phức tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày.
Thế mà tại sao Đức Giêsu lại tới cư ngụ tại Capharnaum, bên bờ hồ ? Thưa Ngài chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo vì ba lý do:
– Thứ nhất để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo từ 732 năm trước cho các chi họ sống chung đụng với các dân ngoại.
– Thứ hai Capharnaum là quê hương của bốn môn đệ đầu tiên mà có lẽ nhà ông Phêrô là nơi thuận tiện cho việc truyền giáo.
– Thứ ba đây là lý do quan trọng nhất: để cho muôn dân được thấy “một ánh sáng huy hoàng”.
Nội dung việc rao giảng của Chúa Giêsu.
Có thể nói thánh Matthêu đã tóm gọn nội dung việc rao giảng của Chúa Giêsu trong một câu: “Hãy sám hối, vì Nước trời đã gần đến”. Thực ra, nội dung việc giảng dạy này đã được Gioan Tẩy giả rao giảng và sau này các tông đồ cũng tiếp tục thực hiện.
“Sám hối” là bước dứt khoát đầu tiên vào Nước trời, là sức mạnh nhạy bén biến đổi đời người nên mới. Nền tảng sự hối cải là khiêm tốn, nhìn nhận sự lỗi lầm và tội lỗi của mình trước Thiên Chúa. Đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngoại cư ngụ, buôn bán ở Capharnaum.
Sám hối là nền tảng niềm tin của Kitô giáo. Một trong những nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo là càng nhận ra sự nhỏ bé bất toàn của mình, con người càng lớn lên trong ân sủng của Chúa. Chính khi Gioan Tẩy giả nhận mình nhỏ bé, Chúa lại cho Ngài được lớn lên, chính lúc ý thức mình thấp kém, Chúa lại tôn vinh Ngài như người cao trọng nhất trong Nước trời.
“Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến (Mt 4,17)
Lời đầu tiên Đức Giêsu dạy khi rao giảng Tin mừng là “Hãy sám hối”. Theo nguyên nghĩa của nó là trở lại (metanoia). Tại sao chúng ta phải quay trở lại ? Vì đã đi lạc đường. Đời sống con người là một hành trình đi về quê trời. Cuộc hành trình nào cũng phải có đích đến và cuộc hành trình chỉ kết thúc khi tới đích. Trong cuộc hành trình có những người đi lạc hướng, mà nếu đã lạc hướng thì không bao giờ tới đích. Ai đã lạc hướng mà càng chạy nhanh thì càng xa đích đến. Thánh Augustinô khen họ là những người “bene currit, sed extra viam” chạy nhanh đấy nhưng lạc hướng.
Điều kiện sám hối là phải “biết mình”, xem mình đang ở trong tình trạng nào và phải chỉnh hướng cuộc đời làm sao cho đúng. Cổ nhân thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”. Chính vì thế ông Socrate đã mở đầu triết thuyết của ông bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình”.
Truyện: Tướng cướp biết sám hối
Trong một khu rừng già núi Hắc Sơn ở nước Đức, một bọn cướp đang chia nhau chiến lợi phẩm mà chúng lấy được hồi đêm. Bọn cướp này có thói quen bán đấu giá với nhau của cải chúng cướp được, rồi sau đó chúng mới bán lại cho người khác.
Hôm ấy, món cuối cùng chúng đem ra đấu giá là một cuốn Thánh kinh. Tên cướp đóng vai hộ giá viên giới thiệu món hàng này, bằng những lời diễu cợt phạm thượng khiến cả bọn cười ồ lên. Một tên khác mở đại một trang như kiểu bói toán. Hắn chỉ vào một câu và đọc to lên, rồi thêm những lời trào phúng làm cho cả bọn cười ngặt nghẽo.
Nhưng tên cầm đầu trong bọn bỗng dưng trở nên nghiêm nghị, hai tay ôm đầu rồi gục xuống tỏ vẻ suy nghĩ. Ba mươi năm về trước, chính vào buổi sáng ngày hắn quyết định bỏ nhà ra đi, hắn đã nghe ông bố hắn đọc những lời Thánh kinh này trong giờ kinh sáng của gia đình. Lúc này đây hắn không thể ngờ được rằng hắn lại nghe vang lên những lời ấy.
Tên cướp còn đang chúi đầu về dĩ vãng thì một đồng bọn vỗ vai hắn và bảo: “Này, sao đàn anh có vẻ mơ mộng thế ? Đàn anh muốn mua nó không ? Đàn anh cần cuốn Thánh kinh hơn đàn em đó, vì điểm mặt anh hùng phạm pháp trên thế giới thì đàn anh phải là vô địch mà”.
Trước lời diễu cợt bạo gan đó, hắn chỉ chậm rải trả lời: “Mày nói đúng! Tao chính là thằng phạm tội nặng nhất. Cứ để cuốn sách cho tao, bao nhiêu cũng được”.
Bọn cướp chia tay để đem các món hàng đi bán. Riêng tên tướng cướp thì cầm cuốn Thánh kinh, đi tìm một chỗ vắng trong rừng ở lại đó đọc Lời Chúa và ăn năn sám hối về cuộc đời tội lỗi của mình (Mỗi ngày một tin vui).
Suy Niệm 8: Thiên Chúa yêu thích sự sám hối
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng:
- Chúa Giêsu bắt đầu sứ mạng của Ngài lúc Gioan chấm dứt sứ mạng của ông. Chúa Giêsu đã chọn Galilê làm cứ điểm đầu tiên hoạt động truyền giáo. Chúa Giêsu đã không chọn Jêrusalem là thành thánh, là Đền thờ, là nơi các tiên tri lui tới, là nơi Đavid cũng đã dựng ngai tòa ở đây (1Sm 5,9), và cũng ở chính nơi đây tay Hêrôđê đã tái thiết lập đền thánh này. Chúa Giêsu chỉ trở lại Jêrusalem sau khi đụng đầu với Galilê từ chối không tin Ngài (Mc 6,1-6. 9-30). Và Chúa lên Jêrusalem để hoàn tất hy tế Thập Giá tại đó (Mc 10,32t) như lời Thánh Kinh (Mc 11,1-11).
Tại Galilê này, Chúa Giêsu đã chọn cứ điểm truyền giáo đầu tiên là Capharnaum. Capharnaum là một thành phố miền duyên hải gần biển hồ Tiberia. Capharnaum cách Nazareth, quê mẹ Chúa, chừng 30 cây số đường dài. Capharnaum là trung tâm hoạt động của Chúa. Chúa đến đây không phải là để câu cá mà là để kêu gọi sự thống hối. Nơi đây Chúa đã làm rất nhiều phép lạ: trừ quỉ ám (Mc 1,23-28), chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc của Phêrô (Mc 1,29-31), cho con ông Giairô sống lại (Mc 5,21-43). Marcô còn ghi chú thêm là Chúa làm phép lạ chữa đủ mọi thứ bệnh: quỉ ám, kinh phong, bất toại đều được lành.
Cũng ở thành phố này, Chúa Giêsu đã kêu gọi sự thống hối “Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần đến” (c. 17) Ngài tuyên bố mình đến để “kêu gọi kẻ tội lỗi” (Mc 2,17) Chính Chúa đến với Capharnaum để kêu gọi sự thống hối. Sự thống hối hoán cải luôn luôn là một ân sủng phát xuất từ Thiên Chúa trước tiên. Chính ở nơi đây chúng ta gặp hình bóng của Chúa đi tìm chiên lạc (Lc 15,4t), hình ảnh của góa phụ đi tìm đồng tiền bị mất (Lc 18,8), hình ảnh của Chúa đến với Giakêu để ban cho ông ơn tha thứ (Lc 19,5-9).
- Chúa nói “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). Sám hối là điều kiện tiên quyết, cần thiết để được cứu độ, bởi vì sám hối là ý thức mình đang đi lệch đường và quyết tâm quay về đường chính. Lý do phải sám hối là vì Nước Trời đã đến gần; sám hối là để mình có thể vào Nước Trời; và sám hối để Nước Trời có thể đến giữa mọi người. Nếu đọc lại cả Tin Mừng thì chúng ta thấy tất cả những ai thành tâm sám hối đều được Chúa thứ tha. Nói thế để chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thích sự sám hối dường nào.
Người Hồi giáo thích kể cho nhau nghe câu chuyện này: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian. “
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng, còn có một cái gì tốt đẹp hơn. “
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích:
– Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói:
– Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Ðấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. Amen.
Thứ Ba sau Lễ Hiển Linh
LỜI CHÚA: Mc 6, 34-44
Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ, và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều.
Và khi giờ đã muộn, các môn đệ đến thưa Người rằng: “Chỗ này hoang vắng, mà giờ đã muộn, xin Thầy giải tán họ, để họ đi tới các làng các xóm gần đây mà mua gì ăn”.
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Họ thưa Người: “Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng bạc bánh để phát cho họ ăn”.
Người nói với họ: “Các con có mấy cái bánh? Hãy đi xem”. Khi biết được rồi, họ thưa: “Có năm cái bánh và hai con cá”.
Người ra lệnh cho họ bảo mọi người ngồi xuống làm thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, chỗ một trăm, chỗ năm mươi. Người cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời mà chúc tụng, rồi bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho người ta; còn hai con cá, Người cũng chia cho mọi người. Và tất cả đều ăn no.
Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người.
Suy Niệm 1: Ai nấy được no nê
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trên thế giới hiện nay có gần một tỷ người đói ăn,
Và nhiều nơi ở châu Phi vẫn có bao trẻ thơ chết đói.
Có người coi tôn giáo là duy tâm, sống lơ lửng với những ý tưởng đẹp,
và loay hoay với chuyện cứu rỗi linh hồn.
Nhưng Thiên Chúa ta gặp trong Kinh Thánh
lại là một Thiên Chúa để ý đến cái đói của thân xác con người.
Thiên Chúa ấy đã cung ứng manna, thịt chim cút và nước uống
cho dân Người trong cuộc hành trình tiến về Đất hứa,
mà Đất hứa này là vùng phì nhiêu, nơi chảy sữa và mật.
Thiên Chúa ấy được coi là người mục tử
dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối nước trong lành.
Đức Giêsu cũng chẳng làm khác với Cha của Ngài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài tỏ mình ra như người mục tử.
Khi thấy đoàn dân bơ vơ như bầy chiên không người chăn dắt,
Ngài qui tụ họ lại bằng cách dạy dỗ họ nhiều điều.
Nhưng khi chiều xuống, Ngài cũng biết họ cần ăn.
Lo cho chiên được no là nhiệm vụ của người mục tử.
Đức Giêsu đã muốn các môn đệ cộng tác trong việc nuôi ăn này:
“Chính anh em hãy cho họ ăn !”
Với tất cả những gì môn đệ có, vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá,
năm ngàn người đã được ăn no và còn dư mười hai thúng đầy.
Chiều hôm đó, cỏ như xanh hơn vì lòng người vui rộn rã.
Qua phép lạ lớn này, Đức Giêsu tỏ mình ra cho đám đông dân chúng.
Đây là phép lạ của sự bẻ ra và được nhân lên.
Chẳng phải Thầy Giêsu mới là người bẻ ra và trao đi cho các môn đệ.
Chính các môn đệ cũng đã làm như thế cho đoàn dân.
Bẻ ra và trao đi là điều kiện để giải quyết nạn đói của thế giới hôm nay.
Chỉ có thể xóa nạn đói nghèo bằng sẻ chia và liên đới.
Đừng sợ nếu bạn chỉ có ít cá và bánh, ít thời giờ, tiền bạc, khả năng.
Hãy trao vào tay Chúa tất cả những gì bạn có và để Người định liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy Niệm 2: Thiên Chúa là tình yêu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa là Tình Yêu hi vọng. Ta còn gì hi vọng ở những công thức, tính toán, những phán xét khô khan, khắc nghiệt, những tổ chức quá hợp lý đến lạnh lùng? Thiên Chúa là ơn cứu độ đem lại cho thế giới niềm hi vọng được sống vui tươi, bình an và hạnh phúc.
Thiên Chúa là Tình Yêu chứng nghiệm. Chẳng phải là định nghĩa lý thuyết nhưng đã được chứng nghiệm. Vì yêu nên đã đi bước trước. Tạo dựng nên con người. Và còn yêu thương hơn nữa, cứu chuộc con người hư hỏng, phản bội.
Thiên Chúa là Tình Yêu trao ban. Ban chính Con Một của Ngài. Ban cho ta chính bản thân Ngài. Chẳng còn tình yêu nào lớn lao cao quí hơn nữa. Đó là ban hết những gì có thể, chẳng còn có thể ban cho ta gì khác nữa.
Thiên Chúa là Tình Yêu cảm thương. Chẳng phải một trái tim sắt đá vô cảm, nhưng một trái tim biết cảm thương. Chúa Giêsu đã ‘chạnh lòng thương” khi nhìn thấy đoàn lũ dân chúng tất tưởi bơ vơ.
Thiên Chúa là Tình Yêu cụ thể. Bằng những thể hiện. Trước hết là dậy dỗ. Yêu thương nên quan tâm nói những lời an ủi, khai sáng tâm trí, mặc khải chân lý. Chỉ có trái tim yêu thương mới dành thời giờ trò chuyện, quan tâm dậy dỗ như thế.
Thiên Chúa là Tình Yêu hành động. Chẳng phải chỉ nói suông mà còn hành động. Lo cho người đói ăn, dù số lượng vượt sức khả năng hạn hẹp của các tông đồ và hoàn cảnh giữa nơi hoang địa. Lập tức đi tìm. Không chỉ sai bảo, chính Chúa Giêsu trực tiếp vào cuộc, cầm lấy bánh và cá, làm phép, bẻ ra, trao cho môn đệ.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ những ai yêu thương mới hiểu được Thiên Chúa. Không phải yêu bằng bất cứ cách nào, nhưng phải yêu như Chúa yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ có ai yêu thương mới ở trong Thiên Chúa, mới sống trong Thiên Chúa và mới làm cho Thiên Chúa sống trong thế giới, trong anh em.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Người xuống trần mở ra một thời kỳ mới. Thời kỷ yêu thương và tha thứ. Ta hãy cùng Người tiến hành thời kỳ Tân Phúc-âm-hóa trong yêu thương, tha thứ, quan tâm, sửa chữa, nâng đỡ lẫn nhau. Đó là xây dựng một thế giới mới
Suy Niệm 3: Bánh hóa nhiều lần thứ nhất.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã tỏ lộ chính cõi lòng của Ngài, cõi lòng của một mục tử: khi thấy dân chúng đông đảo, Chúa động lòng thương xót, vì họ như chiên không có người chăn.
Việc Chúa tỏ mình bao giờ cũng nhằm làm cho con người được sống và sống hạnh phúc. Chúa đến với con người không phải để đè bẹp hay để làm con người phải sợ hãi, nhưng Ngài đến để yêu thương, để cứu độ con người. Thật vậy, khi Chúa tỏ lộ tấm lòng mục tử của Ngài, thì cảnh bơ vơ lạc lõng của người ta không còn nữa. Tấm lòng mục tử của Ngài không dửng dưng trước nỗi bi đát của con người. Tấm lòng ấy đã làm mọi sự vì con người và cho con người. Và qua tấm lòng ấy, người ta còn nhìn ra chính tấm lòng của Thiên Chúa: Chúa Giêsu chính là ân huệ bằng xương bằng thịt mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.
Đứng trước sự tỏ lộ đầy yêu thương ấy, chúng ta hãy có thái độ biết ơn và vui mừng, cố gắng trở nên những con chiên ngoan hiền bên vị Mục tử nhân hậu và cùng với Ngài tỏ lòng cảm thương những con chiên bơ vơ lạc lõng.
Suy Niệm 4: Yêu thương thật lòng
“Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lí thuyết!”. Đây chính là câu nói của triết gia Thomas Carlyle khi ông được một vị linh mục trong xứ đến hỏi về điều cần làm cho giáo xứ của ngài lúc này.
Thật vậy, con người ngày nay, ai ai cũng biết là có Thiên Chúa, nhưng tin trên lý thuyết đã chiếm đa số, kể cả những người Công Giáo, còn tin trong sự cảm nghiệm thì không biết được bao nhiêu %, có lẽ không đáng kể!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại một hình ảnh đẹp của chính nhà giảng thuyết lẫn thính giả:
Nếu Đức Giêsu chạnh lòng thương và dạy dỗ họ nhiều điều, thì một đám đông say mê nghe lời giảng của Đức Giêsu đến quên cả ăn.
Nếu Đức Giêsu chạnh lòng thương khi thấy đám đông “như bầy chiên không người chăn dắt”, thì đám đông vui mừng vì gặp được chủ chiên của họ cách đích thực, không phải trên lý thuyết!
Thật vậy, thấy đám đông dân chúng, phản ứng đầu tiên của Ngài chính là chạnh lòng thương!
Vì chạnh lòng thương, Đức Giêsu đã trao ban lương thực cả phần hồn lẫn phần xác cho dân chúng.
Phần hồn, Ngài dạy dỗ họ nhiều điều; phần xác, Ngài đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng.
Trong xã hội hôm nay, điều làm cho chúng ta không khỏi suy nghĩ, đó là của cải trên thế giới lại nằm trong tay một số hay một vài nhóm người, khi họ nắm tài nguyên của thế giới! Trong khi đó, nhiều nước vẫn trong tình trạng báo động về nghèo đói, nhiều người vẫn đang quằn quại đối chọi với cái đói, cái khát, rồi nạn thất nghiệp, chiến tranh, khủng bố ngày càng lan rộng.
Nguyên nhân dẫn đến vấn nạn trên, chúng ta thấy mấu chốt của vấn đề: đó chính là thiếu lòng bao dung, tình thương.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cảm thông, liên đới và trách nhiệm với anh chị em mình. Hãy biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa đã thương yêu ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết quên mình để lo cho anh chị em xung quanh như Chúa. Xin cũng ban cho chúng con luôn biết tìm đến Chúa để được hạnh phúc đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Thiên Chúa cần con người cộng tác
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Những công việc của con người tự nó không có giá trị siêu nhiên, nhưng khi cộng tác với Thiên Chúa, nó sẽ trở thành hành động cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước sự kiện Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, con đã tự hỏi: Chúa chỉ cần phán một lời là có thể làm phép lạ. Nhưng tại sao Chúa không làm thế, mà Chúa lại cần đến năm chiếc bánh và hai con cá ?
Lạy Chúa, Chúa không làm như con nghĩ. Chúa cần con cộng tác. Chúa cần con người góp công chung sức để mưu ích cho nhau. Sự đóng góp của các môn đệ, chẳng thấm vào đâu, nhưng từ đó, Chúa đã thực hiện một bữa ăn no nê cho dân chúng.
Thánh Âu-tinh đã nói: để tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần con người. Nhưng để cứu độ con người, Thiên Chúa cần con người cộng tác.
Lạy Chúa, nhìn vào thế giới hôm nay, con tin chắc chắn rằng: Chúa cũng đang chạnh lòng thương xót nhân loại đang đau khổ vì đói khát, vì bệnh tật, vì dốt nát, vì chiến tranh. Chúa cũng có thể làm mọi sự để cứu độ loài người. Nhưng Chúa cần con cộng tác, tuy dù nhỏ bé và âm thầm.
Xin Chúa giúp con luôn biết mở rộng trái tim trước nhu cầu của anh chị em. Xin dạy con biết mở rộng bàn tay dâng hiến cho Chúa và cho tha nhân. Dù sự đóng góp của con chẳng đáng kể là gì so với nhu cầu của thế giới, nhưng con tin Chúa đang chờ đợi đón nhận và nhân lên gấp bội. Xin Chúa dạy con biết nghĩ đến người khác, biết chia sẻ cho nhau, để nhân loại khỏi bị diệt vong vì ích kỷ, nhưng luôn phát triển phong phú khi biết quảng đại sẻ chia. Amen.
Ghi nhớ: “Hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri”.
Suy Niệm 6: Hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống …)
Phúc Âm thánh Marcô trình bày tiếp hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu. Những hoạt động của Chúa Giêsu đã thu hút dân chúng đi theo Ngài rất đông. Họ say mê Ngài đến nỗi quên ăn quên uống.
– Trông thấy họ, “Chúa động lòng thương xót” (x. Mc 6,34). Ngài động lòng vì thấy họ thiếu thốn: thiếu vật chất và nhất là thiếu tinh thần.
– Do động lòng thương xót dân chúng, Chúa Giêsu muốn làm một việc gì đó để giúp họ. Việc đầu tiên Ngài làm là …“Ngài bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều” (x. Mc 6,34): theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, sự đói khát tinh thần cấp bách hơn sự đói khát của ăn, cho nên việc đầu tiên Ngài làm là giảng dạy họ.
– Tiếp đó Ngài mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn. Mà phép lạ này cũng là hình bóng tiên báo Bí Tích Thánh Thể và sự phục vụ của Giáo Hội.
B- Suy gẫm ( … nẩy mầm)
- “Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ” (x. Mc 6,34): phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là yêu thương. Khi thấy những kẻ Ngài yêu thương “như chiên không người chăn giữ” thì Ngài thương đến nỗi “động lòng”. Con người của Chúa Giêsu thật tuyệt vời, tấm lòng của Ngài cũng thật tuyệt vời. Xin cho con cũng được giống Chúa.
- Khi động lòng thương xót dân chúng, việc đầu tiên Chúa làm là “giảng dạy họ nhiều điều” (x. Mc 6,34). Được biết Chúa là điều quan trọng nhất và là nguồn mọi hạnh phúc.
- Một chiều đông lạnh lẽo, triết gia Thomas Carlyle đang ngồi trước lò sưởi trong phòng khách. Cửa mở, cha xứ mới của giáo xứ bước vào. Sau mấy câu xã giao, cha xứ hỏi: “Theo ngài, lúc này giáo xứ mình cần cái gì nhất ?” Không chút ngập ngừng, triết gia đáp ngay: “Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lí thuyết. ” (Góp nhặt).
- “Chúa Giêsu chính là ân huệ bằng xương bằng thịt mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
- “Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ” (x. Mc 6,34)
Bởi động lòng thương xót nên Ngài đã hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài không chỉ quan tâm đến cái đói thể xác nhưng còn muốn ban phát tình thương, của ăn mà nhân loại đang thiếu. Thực vậy, một trong những nghịch lý của thế giới hôm nay là thiểu số người giàu chia nhau đa phần tài nguyên thế giới, là sản lượng của các nước phát triển không ngừng gia tăng; bên cạnh hàng loạt các nước thuộc thế giới thứ ba vẫn mãi nghèo đói. Nạn đói lan tràn, chiến tranh tiếp diễn, thất nghiệp gia tăng… cứ như điệp khúc của bản tin thời sự mỗi ngày. Cái thiếu thốn của thế giới hôm nay chính là tình thương, lòng nhân ái.
Bản thân tôi cũng lãnh nhận nhiều hơn là cho đi, nhưng vẫn luôn thoái thác như các tông đồ xưa: “Làm sao thỏa mãn những nhu cầu của kẻ khác, một khi sức mình có hạn ?”
Xin cho con hiểu rằng chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. (Epphata)
Suy Niệm 7: Phép lạ hóa bánh ra nhiều
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Thấy dân chúng kéo theo đông đảo, Chúa Giêsu rất cảm động. Người thương họ vì thấy không ai lo lắng dạy bảo họ. Và mãi đến chiều tối mà họ vẫn ở lại nghe Chúa giảng dạy. Thấy vậy, các môn đệ xin Chúa cho họ đi mua thức ăn. Chúa bảo các ông lo cho họ ăn, nhưng các ông thưa không thể lo nổi vì các ông chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Người bảo các ông cho họ ngồi từng nhóm rồi cầm lấy năm chiếc bánh với hai con cá ngước mắt lên cầu nguyện với Chúa Cha, rồi trao cho các môn đệ phân phát cho dân chúng ăn. Mọi người đều ăn no nê mà còn dư được mười hai thúng đầy.
Chúa thoả mãn nhu cầu vật chất của con người.
Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, quên ăn quên uống, nhưng dù sao dạ dày của họ cũng phải nổi loạn, khi không được cung cấp thức ăn thức uống cho nó. Bóng chiều đang xuống dần mà dân còn ở trong nơi hoang vắng xa làng mạc thành thị, họ ra về, đường còn xa sợ có người đói lả dọc đường. Chúa Giêsu muốn các môn đệ cho họ ăn. Nhưng trong hoang địa này lấy đâu ra lương thực cho ngần ấy người ăn. Ở đây chỉ có thằng nhỏ có 5 chiếc bánh và hai con cá. Bằng ấy thực phẩm nhằm nhò gì với một biển người như vậy! Nhưng Chúa cứ bảo cho họ ngồi xuống thảm cỏ cho Người làm việc. Thánh Mátthêu kể: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người thu lại được 12 giỏ đầy”.
Chúa thoả mãn nhu cầu tinh thần con người.
Lời giảng của Chúa đã làm cho dân chúng say mê. Lời Chúa là thức ăn nuôi dưỡng và bồi bổ cho linh hồn. Tuy thế, Chúa không quên thoả mãn nhu cầu vật chất cho họ, vì họ là con người có hồn có xác, phải được nuôi dưỡng đầy đủ. Như vậy Chúa thực hiện lời khuyên: “Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa, còn mọi sự khác Ngài sẽ thêm cho”.
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuốn đến với Chúa mong Người tái diễn phép lạ ấy, nhưng Người đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của thánh Gioan, Người còn nói với họ: “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”. Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
Chúa muốn chúng ta cộng tác với Người.
Các Tông đồ chỉ kiếm cho Chúa được có 5 cái bánh và 2 con cá. Thật là một đóng góp quá nhỏ nhoi, nhưng thực ra, chỉ cần bằng ấy đã quá đủ đối với Chúa. Chúa không muốn làm phép lạ tự không mà có bánh cho họ ăn, nhưng Chúa muốn cho con người đóng góp một chút để cộng tác với Chúa. Như vậy, phép lạ hóa bánh ra nhiều là kết quả của sự kết hợp giữa quyền năng vô biên của Chúa với sự cộng tác nhỏ bé của con người.
Khi cộng tác với Chúa, Chúa không đòi hỏi chúng ta những tài năng, tiền của và những phẩm tính mà chúng ta không có. Ngài bảo chúng ta: “Hãy đến với Ta bằng con người thật của ngươi, dù nó nghèo nàn, hãy mang đến Ta điều gì ngươi có, dù ít ỏi, và Ta sẽ sử dụng nó một cách lớn lao trong công việc của Ta”.
Thi sĩ Amado Nervo, một đại thi sĩ và cũng là một nhà huyền bí, người Mễ Tây Cơ tóm tắt sứ điệp và tinh thần bài Tin mừng hôm nay trong bài thơ:
“Con chỉ là một tia lửa,
Xin biến con thành ngọn lửa.
Con chỉ là một sợi dây,
Xin biến con thành chiếc đàn.
Con chỉ là ngọn đồi cỏn con
Xin biến con thành ngọn núi.
Con chỉ là một giọt nước,
Xin biến con thành một dòng suối.
Con chỉ là một cọng lông,
Xin biến con thành chiếc cánh.
Con chỉ là gã ăn mày,
Xin biến con thành một ông vua.
Truyện: Người chạnh lòng thương
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau: Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
Ở Calcutta mỗi ngày dòng nữ tu Bác ái Truyền giáo chúng tôi phải cung cấp lương thực cho 9000 người. Bởi đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:
– Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế ?
Họ trả lời:
– Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những người kém may mắn hơn chúng con.
Mẹ Têrêsa hỏi tiếp:
– Ở Ấn Độ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Tại sao các con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ hàng ?
Họ thưa:
– Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp vào.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
- Mở đầu bài tưởng thuật hôm nay, thánh Marcô viết: “Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì chạnh lòng thương xót họ, vì họ bơ vơ như chiên không có người chăn giữ” (Mc 6,34)
Vâng, chính vì lòng thương xót đối với những đàn chiên không có người chăn giữ này, mà Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, đã dấn thân phục vụ. Tin Mừng cho biết “Ngài đã giảng dạy họ nhiều điều”. (Mc 6,34)
Chúa Giêsu giảng dạy. Đây là công việc chính yếu trong cuộc đời công khai của Chúa.
Một chiều đông lạnh lẽo, triết gia Thomas Carlyle đang ngồi trước lò sưởi trong phòng khách. Cửa mở, cha xứ mới của giáo xứ bước vào. Sau mấy câu xã giao, cha xứ hỏi: “Theo ngài, lúc này giáo xứ mình cần cái gì nhất?” Không chút ngập ngừng, triết gia đáp ngay: “Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lý thuyết”. (Góp nhặt).
“Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lý thuyết”. Cần phải làm cho mọi người thấy được Thiên Chúa là Đấng không phải ở mãi đâu xa mà ở ngay trong cuộc sống của mình.
Vào dịp thánh Phanxicô sang Tòa Thánh để xin Đức Thánh cha phê chuẩn luật dòng Anh Em hèn mọn của mình, Đức Thánh cha đã thân mật hỏi thánh Phanxicô:
– Con có bao giờ thấy Chúa chưa?
– Có, con vừa thấy đêm qua.
– Người có nói gì với con không?
– Người và con ở bên nhau suốt đêm không nói gì. Tuy nhiên, cứ mỗi lúc con nói “Cha” với Người thì Người lại trả lời lại với con “Con Ta”. Cứ thế chẳng có gì hơn cho đến lúc trời sáng.
Vâng! Nói về một Thiên Chúa gần gũi với con người đó là nhiệm vụ hàng đầu của những người rao giảng Tin Mừng.
- Thế nhưng, giảng dạy mới chỉ là thoả mãn được một mặt của những nhu cầu mà những con chiên không người chăn giữ đang khao khát. Ngoài nhu cầu tinh thần đó ra, những chiên này còn cần đến cả những nhu cầu vật chất nữa. Vì thế, để tỏ ra là một mục tử nhân lành, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi những người đã đi theo Chúa và nghe Ngài giảng dạy.
Lòng thương xót của vị mục tử nhân lành ở đây là lòng thương xót phát xuất tự bản chất của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa, theo như lời của Thánh Gioan trong đoạn thư thứ I, được trích đọc hôm nay cho biết: chính là “TÌNH YÊU”.
Vâng! Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu ấy được thể hiện qua sự quan tâm, chăm sóc, quan phòng và xếp đặt cho mọi sự trở nên tốt đẹp cho mọi người. Hãy mở rộng lòng để đón nhận tình yêu đó, chúng ta sẽ cảm nhận được sự kỳ diệu của Tình yêu Chúa dành cho chúng ta.
Moses Mendelssohn là tổ phụ của nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức Felix Mendelssohn. Bề ngoài của ông rất bình thường, ngoại trừ tướng ngũ đoản (mình và tứ chi đều ngắn), ông còn là một người có cái lưng gù kì quái rất buồn cười.
Một ngày nọ, Moses Mendelssohn đến Hamburg để viếng thăm một thương nhân. Thương nhân này có một cô con gái rượu tên là Fossey. Moses yêu cô ấy một cách cuồng nhiệt, nhưng vì chê vẻ bề ngoài của ông nên cô ta từ chối tình cảm của Moses.
Đến lúc phải rời xa nơi đó, Moses lấy hết dũng khí có được, ông đi lên phòng của Fossey, bắt lấy cơ hội cuối cùng này để bày tỏ với cô ấy. Đối diện trước vẻ mặt thánh thiện của cô, ông trở nên rụt rè, Fossey đã thẳng thừng cự tuyệt ông.
Qua nhiều lần thử tìm cách để bày tỏ cùng cô ấy, nhưng không thành, cuối cùng ông xấu hổ nói: “Nàng có tin vào duyên trời định không?”
Cô nhìn thẳng vào ông và nói: “Tôi tin”. Sau đó cô hỏi lại ông: “Còn ông, ông có tin vào điều đó không?”
Ông đáp: “Tôi nghe nói, mỗi người con trai trước khi được sinh ra thì Thượng Đế gọi đến và hỏi anh ta muốn một người vợ tương lai như thế nào? Khi tôi sinh ra, tôi chưa được lựa chọn người vợ tương lai cho mình mà chỉ được Thượng Đế nói cho biết người vợ tương lai của tôi là một cô gái gù”.
Khi đó tôi mới van xin thượng đế rằng: “Thưa Thượng đế, một người phụ nữ mà lại mang trên mình cái lưng gù thì quả là bi kịch, xin người hãy chuyển cái lưng gù ấy sang cho con, hãy để cho người vợ của con là một người phụ nữ xinh đẹp”.
Lúc đấy Fossey nhìn thẳng vào đôi mắt của Moses, quên đi hết những suy nghĩ lúc trước về anh trong sâu thẳm trái tim mình. Cô ấy đưa đôi tay về phía anh, sau đó, cô trở thành người vợ chân thành nhất của ông.
Lev Tolstoy đã nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống”.
Tình yêu là tất cả mọi điều. Đó là chìa khoá cuộc đời và ảnh hưởng của tình yêu làm lay động cả thế giới.
Lạy Chúa,
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình. Amen. (Mẹ Têrêsa).
Thứ Tư sau Lễ Hiển Linh
LỜI CHÚA: Mc 6, 45-52
(Khi năm ngàn người đã được ăn no), Chúa Giêsu liền giục các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước mà đến Bếtsai-đa, đang khi Người giải tán dân chúng.
Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện.
Chiều đến, thuyền đã ra giữa biển, còn Người thì một mình ở trên đất.
Khoảng canh tư đêm tối, Người thấy họ khó nhọc chèo chống vì ngược gió, Người đi trên mặt biển mà đến với họ, và Người muốn vượt qua trước họ. Họ thấy Người đi trên mặt biển, thì tưởng là ma, nên la hoảng lên. Vì ai nấy đều thấy Người và hoảng hốt, nên Người liền lên tiếng bảo họ rằng: “Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ”. Rồi Người lên thuyền họ, và gió im lặng. Tâm hồn họ lại càng sửng sốt hơn, vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh: lòng họ còn mù tối.
Suy Niệm 1: Đến với các ông
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm qua cho thấy Đức Giêsu tỏ mình cho dân chúng
như một người mục tử lo cho nhu cầu vật chất và tinh thần của đoàn chiên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tỏ mình cho riêng các môn đệ.
Ngài xuất hiện như người có uy quyền trên biển cả và cuồng phong.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu trả lại sự lặng lẽ cho vùng hoang địa.
Ngài bắt buộc các môn đệ lên thuyền sang bờ bên kia trước,
Còn Ngài thì đi giải tán đám đông cuồng nhiệt muốn tôn Ngài làm vua.
Hãy lắng nghe sự tĩnh lặng của nơi hoang vu này, của núi và đất.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, sẵn sàng bước vào cuộc trò chuyện với Cha.
Hãy cảm được sự lắng xuống của tâm hồn Ngài, sau một thành công vang dội.
Đức Giêsu chìm sâu trong cầu nguyện với Cha,
nhưng Ngài vẫn biết điều gì đang xảy ra cho môn đệ.
Ngài đang ở trên mặt đất vững vàng,
còn họ phải lênh đênh giữa biển, vất vả chèo chống vì gió ngược.
Hãy chiêm ngắm cách tỏ mình đặc biệt của Đức Giêsu cho các môn đệ.
Ngài “đến với các ông” vào lúc trời gần sáng, lúc chưa thấy rõ mặt người.
Ngài đến khi các môn đệ đã qua một đêm mệt mỏi, vắng Thầy.
Ngài đến một cách khác thường bằng cách đi trên mặt nước biển
Ngài đến khiến các ông nhìn thấy tưởng là ma, hoảng hốt la lên.
Ngài đến đem lại bình an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”
Ngài bước vào con thuyền của các ông, và trời lặng gió.
Chúng ta cần làm quen với những kiểu tỏ mình khác thường của Chúa.
Ngài đến với ta vào lúc không ngờ, dưới những dáng dấp kỳ lạ.
Chúng ta phải có khả năng nhận ra khuôn mặt Ngài trong bóng tối lờ mờ,
giữa những thất bại, nhọc nhằn, giữa những cô đơn, sợ hãi.
Ngài đến đem bình an mà ta tưởng là yêu ma.
Biết bao lần ta gặp gió ngược trong đời,
nỗ lực nhiều nhưng tiến tới chẳng bao nhiêu.
Nhưng kinh nghiệm một mình với gió ngược mà không có Thầy ở bên
cũng là một kinh nghiệm đáng quý.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ
như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa
đang tạo dựng cả vũ trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
Suy Niệm 2: Quyền năng và tình yêu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu làm liền một mạch 3 phép lạ: hóa bánh ra nhiều, đi trên mặt biển và truyền cho biển yên sóng lặng. Như thuở ban sơ, Lời Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Hôm nay Lời Chúa biến đổi vật chất. Cho thấy Chúa hoàn toàn làm chủ vũ trụ. Và đặc biệt chế ngự được biển khơi vốn bị coi là một lực lượng sự dữ hung hãn sẵn sàng nuốt chửng con người.
Thế nhưng các tông đồ sợ hãi, bàng hoàng sửng sốt vì tâm hồn các ông còn chai đá. Tại sao? Vì các ông không hiểu. Thực sự ai đối diện với quyền năng mà không sợ hãi. Vì mọi quyền năng thường đè bẹp, nghiền nát chúng ta. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Chúa dùng quyền năng để quan tâm, yêu thương và chăm sóc. Chúa hóa bánh ra nhiều vì cảm thương dân chúng đói khát. Chúa dẹp yên sóng gió vì lo cho các tông đồ vất vả. Thánh Marcô thuật lại: “Người thấy các ông vất vả chèo chống, nên Người đi trên mặt biển mà đến với các ông”. Tất cả chỉ vì yêu thương. Nhưng lòng các tông đồ chai đá chưa hiểu và đón nhận yêu thương. Nên các ông sợ hãi.
Thánh Gioan trong thư thứ nhất cho biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Nhưng tình yêu phải có hai chiều: cho đi và nhận lãnh. Vì thế tình yêu chỉ hoàn hảo ở hai dấu chỉ. Ta yêu thương nhau và không còn sợ hãi. Ta yêu thương nhau đó là dấu chỉ ta đón nhận tình yêu và phát triển tình yêu. Đón nhận từ Chúa và cho đi sang anh em. Ta không còn sợ hãi đó là dấu chỉ ta ở trong tình yêu của Chúa. Giống như đứa trẻ nằm trong tay mẹ hiền. Chẳng còn sợ hãi gì. Dù giông tố bão táp. Dù phán xét.
Thế giới hôm nay tràn đầy sợ hãi vì thừa quyền lực mà thiếu tình yêu. Quyền lực chính trị để trấn áp. Quyền lực kinh tế để bóc lột. Quyền lực khoa học để khai thác. Vì thế người nghèo nơm nớp lo sợ. Đặc biệt trong những chế độ độc tài toàn trị, nỗi sợ hãi tràn lan và kéo dài. Không chỉ người nghèo mà ngay cả người giầu cũng lo sợ. Người có quyền lực càng lo sợ hơn. Vì thế giới cạnh tranh.
Thiên Chúa tỏ mình ra là quyền năng yêu thương. Đó là niềm hi vọng cho một thế giới mới. Đó chính là ánh sáng Hiển Linh. Chúng ta hãy cộng tác với Chúa xây dựng thế giới mới. Chiếu ánh sáng Hiển Linh khắp chân trời góc biển. Bằng dùng quyền lực để phục vụ. Dùng quyền năng để quan tâm. Dùng quyền thế để yêu thương. Dùng quyền lợi để chia sẻ.
Khi ta thực hành yêu thương, Thiên Chúa ở với chúng ta. Chúng ta không còn sợ hãi. Thế giới trở nên vui tươi, hạnh phúc.
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu đi trên mặt nước.
Ivan, một văn sĩ Nga sống vào thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ của mình như sau:
Tôi mơ thấy là một cậu bé đứng trước cung thánh của ngôi nhà thờ bằng gỗ. Ánh nến lung linh toả chiếu khi mờ khi tỏ bên nhà tạm. Thình lình có một người đứng cạnh tôi, tôi có cảm giác đó là Chúa Kitô. Cảm xúc tò mò xâm chiếm tâm hồn tôi, tôi nhìn sang và nhận thấy một khuôn mặt giống như mọi khuôn mặt.
Giấc mơ của Ivan trên đây mang nhiều ý nghĩa: Đức Kitô đến với chúng ta trong dáng vẻ của một con người, và tâm hồn chúng ta sẽ được bình an khi biết đón nhận Ngài trong cuộc sống, nhất là nhận ra Ngài trong mỗi người anh em.
Bài Tin mừng hôm nay ghi lại kinh nghiệm của các môn đệ về Chúa Giêsu. Qua việc đi trên mặt nước, Chúa muốn chứng tỏ rằng Ngài có đủ quyền năng để chiến thắng sức mạnh của tối tăm, đồng thời mời gọi các môn đệ tuyên xưng thần tính của Ngài, tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu không chỉ là gặp gỡ Ngài qua các Bí tích, mà còn là nhận ra Ngài nơi mỗi người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.
“Cứ an tâm, Thầy đây đừng sợ”. Ước gì lời Chúa trở thành một bảo đảm bình an cho tâm hồn chúng ta trong từng giây phút cuộc sống, nhất là trong mối tương quan với tha nhân.
Suy Niệm 4: Có Chúa là có bình an
Nếu ai đã từng đi biển hay sống trên những hòn đảo giữa khơi thì thấy rõ sự nguy hiểm mỗi khi cuồng phong nổi lên! Thật kinh hoàng khi chập trùng giữa đại dương mà sóng cồn gào thét như muốn vùi dập con tàu của thuyền nhân! Những lúc như thế, hẳn ai ai cũng hoảng sợ, họ chỉ còn biết cậy dựa vào ơn lạ tình thương của Thượng Đế mà thôi, bởi lẽ, sức tự nhiên kể như là cát bụi, không xá gì với những tai ương mà con người đang phải đối chọi.
Hôm nay, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, họ đã muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua, nhưng điều này đã đi ngược lại với sứ vụ của Đấng Thiên Sai, nên Ngài đã truyền lệnh cho các môn đệ phải đi sang bờ bên kia, trong lúc ấy, Đức Giêsu đi cầu nguyện để gặp gỡ Thiên Chúa Cha.
Nhưng trong đêm tối, thuyền các ông đã xa bờ và gặp phải cơn cuồng phong dữ dội, khiến các ông vất vả, loay hoay chống chọi vì ngược gió. Canh tư đêm tối, Đức Giêsu đã hiện đến đi trước họ, khiến họ hốt hoảng và la hét vì ngỡ là ma! Đức Giêsu đã trấn an các ông khi nói: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, rồi sau đó, Ngài đã vào thuyền cùng các ông, lập tức sóng yên biển lặng, khiến các tông đồ không khỏi ngạc nhiên!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học:
Thứ nhất, hình ảnh con thuyền gặp sóng to gió lớn là hình ảnh con thuyền của Giáo Hội trên đại dương mênh mông của cuộc đời. Con thuyền ấy đang bị kẻ thù tấn công tứ phía. Nhưng dù có khó khăn, thử thách, dù kẻ thù có tìm cách tấn công tư bề, thì con thuyền ấy nếu có Chúa, chắc chắn mọi sự hiểm nguy phải lắng xuống và nhường chỗ cho sự bình an ngự trị.
Thứ hai, nhắc cho chúng ta rằng: cuộc đời tâm linh của chúng ta nhiều khi cũng gặp phải thử thách, cám dỗ của Ma Quỷ, nhưng những lúc đau khổ, thất bại và chơi vơi nhất, nếu chúng ta biết cậy dựa vào Chúa, thì Ngài luôn có mặt để nâng đỡ, giải thoát chúng ta khỏi mọi nỗi hiểm nguy.
Lạy Chúa Giêsu, biển đời của chúng con luôn gặp phải những thử thách, hiểm nguy tư bề, xin Chúa ban cho chúng con biết cậy dựa vào quyền năng của Chúa và luôn bám vào tình thương của Ngài. Xin cho chúng con được bình an và vững tin. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Thầy đây, đừng sợ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Giữa biển đời sóng gió, Chúa Giêsu vẫn hiện diện bên ta dù ta không thấy. Sự hoài nghi làm ta sợ hãi và chìm xuống biển sâu. Còn lòng tin sẽ giúp ta nhận ra Chúa và bước đi trong bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chẳng bao giờ Chúa bỏ các tông đồ một mình trong sóng gió. Chúa luôn có mặt chính lúc các ngài đang gặp thử thách. Chúa đến củng cố niềm tin các ngài: “Cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”.
Lạy Chúa, hôm nay con nhớ đến Giáo hội đang gặp những cơn sóng gió, những khủng hoảng, đang phải đương đầu với nhiều thế lực, những quyền bính, những phong trào: tất cả như những đợt sóng vùng lên đòi nhận chìm chân lý.
Con cũng nhớ đến những khủng hoảng của loài người trong xã hội hôm nay: khủng hoảng của gia đình và của chính bản thân con. Con đang bị vật nhào giữa biển đời đầy bất công, hận thù, con đang quay cuồng trong dòng sông gian nan vất vả, và linh hồn con đang thoi thóp giữa cơn sóng gào tội lỗi.
Con cầu nguyện cho những người đang gặp khủng hoảng về niềm tin. Xin Chúa giúp họ vượt thoát được những ngày đen tối của cuộc đời. Đặc biệt, đối với những kẻ đang chao đảo vì cuộc sống hôm nay, xin Chúa đoái thương giúp họ luôn vững tin vào Chúa và gặp được sự bình an trong tâm hồn.
Lạy Chúa, con vẫn tin tưởng Chúa không bao giờ bỏ rơi con. Xin Chúa đến nâng đỡ để con đi trọn hành trình trần gian trong bình an của Chúa. Xin an ủi và giúp con vượt qua những đau khổ. Xin cho con nhận ra Chúa vẫn ở bên con và cho con biết tin tưởng vào tình Chúa yêu thương. Lạy Chúa, niềm tin vào Chúa sẽ là sức mạnh và bình an cho con luôn mãi. Amen.
Ghi nhớ: “Họ thấy Người đi trên mặt biển”.
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu là Môsê mới
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống …)
– Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu “liền giục các môn đệ xuống thuyền” đi nơi khác. Chi tiết này có nhiều ý nghĩa:
a/ Còn phải truyền bá Phúc Âm cho nhiều nơi khác nữa;
b/ Việc các môn đệ ở lại nơi đã xảy ra phép lạ hóa bánh ra nhiều có thể là một nguy hiểm, vì nó trói buộc các ông trong sự quyến luyến những lời khen ngợi và tình cảm biết ơn của những người đã được ăn bánh.
– Phần Chúa Giêsu thì “Ngài lên núi cầu nguyện”: sau một giai đoạn hoạt động ồn ào và mệt mỏi, Chúa thấy cần phải cầu nguyện để múc thêm sức mạnh siêu nhiên.
– Phần tiếp theo là câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Đây cũng là một phép lạ nữa mà ý nghĩa có liên hệ tới ý nghĩa phép lạ hóa bánh ra nhiều (x. Mc 6,52 – cho thấy sự liên hệ đó: các môn đệ bàng hoàng trước việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển “vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh”). Ý nghĩa của việc này là: Chúa Giêsu là Môsê mới. Ngày xưa Môsê đã cho dân Do Thái ăn manna, Chúa Giêsu cũng vừa làm như vậy; ngày xưa Môsê đưa dân Do Thái qua Biển mà vẫn khô chân, bây giờ Chúa Giêsu đi trên mặt biển một cách an toàn.
B- Suy gẫm (…nẩy mầm)
- Sứ mạng của các môn đệ là truyền bá Phúc Âm khắp nơi. Bởi đó mặc dù sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng quyến luyến mến phục các môn đệ, Chúa cũng “bắt” họ “lập tức” rời nơi đó để đi đến các nơi khác. Nếu tình cảm nhân loại tự nhiên mà cản trở sứ mạng của chúng ta, thì dù nó có chính đáng đi nữa, ta cũng không nên quá quyến luyến để nó trở thành bận vướng.
- Cuộc hành trình của các môn đệ (và của chúng ta) đôi khi khó khăn nguy hiểm như đang đi trong bão táp. Cảm giác tự nhiên là hoảng sợ như đang gặp ma. Nhưng nếu biết có Chúa đang đồng hành thì ta sẽ yên tâm: “Chính Thầy đây, đừng sợ”.
- Bão táp diễn ra khi các môn đệ đi thuyền qua “bờ bên kia”, tức là qua vùng đất của dân ngoại. Cơn bão này tượng trưng cho những khó khăn nguy hiểm trong việc truyền bá Phúc Âm cho dân ngoại. Nỗi sợ của các môn đệ cũng là nỗi e ngại sợ sệt của các nhà truyền giáo khi đứng trước vùng đất lạ của lương dân. Lời Chúa Giêsu trấn an các môn đệ xưa cũng là Lời Ngài trấn an chúng ta ngày nay: “Chính Thầy đây, đừng sợ”.
- Một người hành hương gặp bệnh dịch đang vào Baghdad. Anh hỏi bệnh dịch: “Mi định làm gì ở đó ?”
– Tôi sẽ giết 5000 người.
Người hành hương rùng mình và thay đổi dự định. Tuy nhiên, ít lâu sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó và được biết không phải 5.000 nhưng là 50.000 người chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Ông buộc tội: “Anh nói láo. Anh nói sẽ chỉ giết 5.000 người thôi mà”.
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ: “Tôi chỉ giết có 5.000 người. Số còn lại chết vì hoảng sợ” (Góp nhặt).
Nỗi sợ gây thiệt hại nhiều hơn những hiểm nguy có thực.
- “Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ. ” (x. Mc 6,50)
Tôi thường tan học và trở về nhà vào khoảng 9 giờ tối. Tối nay trời mưa gió. Bất chợt tôi nghe có tiếng một người đàn ông bên cạnh: “Đi chậm lại. Ướt hết rồi!”. Tôi sợ hãi và càng đạp xe nhanh hơn. Về đến nhà tôi mới biết người ấy chính là đứa em trai của tôi. Tôi rất cảm động trước sự quan tâm của nó.
Các tông đồ cũng đã trải qua một phen bàng hoàng sửng sốt trước khi nhận ra Chúa đã đến cứu giúp mình khi hoạn nạn. Những lúc thất bại hay khổ đau, dường như tôi không thấy Chúa đâu cả. Nhưng thực sự Ngài vẫn ở bên tôi, và khi cần, Ngài sẵn sàng ra tay trợ giúp.
Lạy Chúa, xin cho con luôn nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống. Và khi gặp thử thách gian truân, xin cho con nghe được tiếng Chúa khích lệ “Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ!”. (Epphata)
Suy Niệm 7: Đức Giêsu đi trên biển
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1 Với phép lạ hóa bánh ra nhiều, 5000 người đã ăn no nê. Thấy vậy họ muốn tôn Chúa làm vua, nên Chúa bảo các môn đệ xuống thuyền lánh đi trước, còn Người ở lại giải tán dân chúng và lên núi cầu nguyện.
Đang khi Người cầu nguyện, thuyền các môn đệ bị sóng gió đánh tạt ra giữa biển… Mãi đến canh tư (3 giờ sáng), Người nhìn thấy các môn đệ chèo chống vất vả nên đi trên mặt nước đến với các ông. Các ông thấy bóng Người thì tưởng là ma nên kêu la inh ỏi. Người liền lên tiếng bảo: “Thầy đây, đừng sợ” ! Rồi Người lên thuyền, sóng gió liền yên lặng. Còn các môn đệ vẫn kinh khiếp sợ hãi vì các ông chưa tin Người là Thiên Chúa.
- Trong cuộc sống ai cũng muốn cho mình có một đời sống an toàn, được bảo đảm, không gặp những thử thách, những trở ngại làm cho mình phải lo sợ. Đấy là ước vọng chúng của mọi người. Nhưng trong thực tế, không ai có cuộc đời tươi đẹp như thế, bao lâu còn ở trên trần thế này. Cuộc đời không thiếu gì chông gai, không thiếu gì những gian nan thử thách làm cho nhiều người có thể vươn lên và có thể làm cho nhiều người tụt xuống.
Cuộc đời giống như con thuyền trên biển cả. Cuồng phong chỉ muốn nhấn chìm, chỉ muốn tiêu diệt tất cả trong lòng biển, cho nên cuồng phong là biểu tượng cho tất cả những gì ngăn cản con người tiến bước trong hành trình đức tin. Các môn đệ phải nỗ lực để băng qua biển, chống chọi lại cuồng phong là biểu tượng của mỗi người chúng ta đương đầu với mọi thế lực muốn tiêu diệt chúng ta.
- Nhưng sau cơn mưa thì trời lại sáng, hành trình vượt biển đầy sóng gió kết thúc trong yên tĩnh vì “gió lặng” sau khi “chiếc thuyền bị sóng đánh vì gió ngược”. Chiếc thuyền cũng là hình ảnh một Hội thánh nói chung đang bập bềnh trên sóng nước của trần gian và của mọi người chúng ta trước những gian nan khốn khó của cuộc đời làm ta yếu tin, nghi ngờ.
Vị Thầy của các ông không có mặt ở trong thuyền, các ông chờ đợi Ngài sẽ xuất hiện vào lúc đêm tàn. Người đã trấn an các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”. Cảnh thanh bình tràn ngập trong sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô “Thiên Chúa ở với chúng ta trong thuyền, thực sự hiện diện trong cộng đoàn đức tin khi làm cho con thuyền Giáo hội vượt qua cơn bão tố” (NIB vol. VIII:30).
- Trong cơn gian nan thử thách ta hay thất bại, nản lòng vì chỉ tin vào sức mình hay vào người khác. Để vượt qua những khó khăn ấy, Chúa đòi chúng ta phải có lòng tin vào Chúa.
Nhìn lại những thăng trầm của cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta sẽ dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những gian nan thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh – như các môn đệ xưa ở giữa sóng gíó – chúng ta dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình. Nhưng “Phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin” (Sư huynh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yêu ớt, mong manh – một khi chúng ta không biết tin thác vào Chúa Kitô để có sự bình an, không còn chia sẻ con đường thập giá như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài (Mai Chi, Cg và DT, số Giáng sinh 95, tr 228).
- Có một sự kiện đơn giản ở đời, một sự kiện đã được vô số người thuộc mọi thế hệ cảm nghiệm, ấy là khi có mặt Chúa Giêsu, thì bão tố trở thành yên lặng, náo loạn trỏ thành bình an, việc bất khả trở thành khả hữu, việc không tài nào chịu đựng nổi biến thành có thể chịu đựng được, và người ta vượt điều đáng lẽ phải ngã quỵ mà không bị ngã xuống, có Chúa Giêsu cùng đi với chúng ta, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta sẽ chinh phục được cả bão tố.
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tĩnh trước mọi thử thách. Một bà khác ở xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết đẻ sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin nhỏ bé đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
- Truyện: Hãy nhìn lên.
Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời. Nhưng đến lưng chừng chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.
Thấy thế, một thủy thủ già la to lên với cậu: “Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi ! Nhìn lên lại bầu trời đi”! Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé là đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển, không biết nhìn lên. Cũng thế, trong đời sống thiêng liêng nếu ta chưa cảm nghiệm được sự bình an thì chắc hẳn là vì chúng ta rời khỏi mắt đi xa Chúa Giêsu.
Suy Niệm 8: Đừng sợ!
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
- Sứ mạng của các môn đệ là loan Tin Mừng khắp nơi. Bởi đó sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, mặc dù dân chúng có quyến luyến, mến phục các môn đệ, Chúa cũng “bắt” họ “lập tức” phải rời nơi đó để đi đến các nơi khác. Vâng! Nếu tình cảm nhân loại tự nhiên mà cản trở sứ mạng của chúng ta, thì dù nó có chính đáng đi nữa, ta cũng không nên quá quyến luyến để nó trở thành bận vướng.
Cuộc hành trình của các môn đệ (và cả của chúng ta) đôi khi cũng có những khó khăn nguy hiểm như đang đi trong bão táp. Cảm giác tự nhiên là chúng ta hoảng sợ. Sợ hãi như vậy không phải là một điều khó hiểu. Khi con người cảm thấy mình bất lực trước một biến cố hay một thách đố nào đó mà tự mình khó có thể đương đầu nổi hay khó có thể vượt qua thì tự nhiên là họ cảm thấy sợ. Nếu chỉ là một sự sợ hãi chóng qua thì chẳng có điều gì phải nói. Nhưng nếu cứ phải sống mãi trong sự sợ hãi triền miên, hay sự sợ hãi lên đến mức quá độ, thì chắc chắn cuộc sống con người sẽ bị ảnh hưởng.
Trong kho tàng những câu chuyện dạy đời, người ta đọc được câu chuyện này:
Một người hành hương đang định vào Baghdad thì gặp bệnh dịch ở dọc đường. Bệnh dịch cũng đang trên đường đi vào đó. Thấy thế người khách hành hương hỏi bệnh dịch:
– Mi định làm gì ở đó?
– Tôi sẽ giết 5.000 người.
Người hành hương rùng mình và ngay lập tức anh thay đổi dự định và đi về hướng khác. Tuy nhiên, ít lâu sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó đi ra và được biết không phải 5.000 nhưng là 50.000 người đã chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Bằng một giọng thật nghiêm khắc anh buộc tội bệnh dịch:
– Mi nói láo. Mi nói chỉ giết 5.000 người, vậy mà thực tế lại quá khác!
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ:
– Tôi chỉ giết có 5.000 người. Số còn lại chết vì hoảng sợ” (Góp nhặt).
Vâng! Có những nỗi sợ gây thiệt hại nhiều hơn cả những hiểm nguy có thực.
- Chúa nói với các môn đệ của Ngài: “Cứ bình tĩnh. Thầy đây! Đừng sợ!” (Mc 6,50) Trong toàn bộ Kinh Thánh người ta đếm được tới 365 lần Chúa nói: “Đừng sợ” như thế. 365 lần tương đương với 365 ngày trong một năm.
Khi chú giải về đoạn Tin Mừng này thánh Augustinô đã viết: “Ngài đạp sóng tiến đến và như thế Ngài đã giày đạp dưới chân mình mọi xô bồ náo loạn của đời này. Vậy hỡi Kitô hữu, tại sao các bạn vẫn còn sợ hãi?”.
Xin gửi đến anh chị em một câu chuyện có thực được kể ở trong cuốn “Bưng biền của Thiên Chúa” của Cha George.
Trong một tu viện đang bị quân đội Xô Viết chiếm đóng, một hôm viên sĩ quan Xô Viết vào tận căn phòng mà họ giam cha tu viện trưởng ở trong đó và nói:
– Hiện giờ chỉ có hai chúng ta, không một ai chứng kiến, vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả! Hãy nói cho tôi biết là ông không còn tin vào tất cả những chuyện Chúa bà, tôn giáo mà trước đây ông tuyên xưng!
Vị Tu viện trưởng trả lời:
– Không! Tôi vẫn tin chứ!
Viên sĩ quan liền rút súng lục ra, dí thẳng vào thái dương cha và nói:
– Nếu ông không nói là ông chẳng tin gì nữa… thì tôi sẽ bắn!
Và một lần nữa cha tu viện trưởng lập lại lời tuyên xưng của mình. Và ngay sau đó khẩu súng được từ từ hạ xuống rồi viên sĩ quan ôm lấy cha tu viện trưởng vừa rưng rưng nước mắt vừa vui sướng kêu lên: “Đây là điều mà tôi trông đợi từ lâu. Đây chính là người mà tôi tìm kiếm. Tôi cũng vậy, bây giờ tôi tin vào Chúa Kitô”.
Vâng! Có một sự kiện đơn giản ở đời, một sự kiện đã được vô số người thuộc mọi thế hệ cảm nghiệm, ấy là khi có mặt Chúa Giêsu, thì bão tố trở thành yên lặng, náo loạn trở nên bình an, việc bất khả trở thành khả hữu, việc không tài nào chịu đựng nổi biến thành có thể chịu đựng được, và người ta vượt được điều đáng lẽ phải ngã quỵ mà không bị ngã xuống, có Chúa Cứu Thế Giêsu cùng đi với chúng ta, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta sẽ chinh phục được cả bão tố.
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Ðạo.
Xin sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả. Amen.
Thứ Năm sau Lễ Hiển Linh
LỜI CHÚA: Lc 4, 14-22a
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền năng của Thánh Thần và danh tiếng Người đồn khắp miền xung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và ai nấy đều ca tụng Người.
Người đến Nadarét là nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, Người vào hội đường ngày Sabbat, và đứng dậy đọc sách. Người ta trao cho Người cuốn sách Tiên tri Isaia.
Người mở sách và gặp chỗ có chép rằng: “Thánh Thần Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Người xếp sách lại, trao cho viên phụ trách, đoạn ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều đưa mắt chăm chú nhìn Người.
Người bắt đầu nói với họ rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe”. Và ai nấy đều công nhận lời Người và ngạc nhiên vì những lời hấp dẫn thốt ra từ miệng Người.
Suy Niệm 1: Trả lại tự do
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình.
Ngài không tỏ mình cho một đám đông trong hoang địa,
nhưng tỏ mình cho người dân làng Nadarét, tại hội đường của họ.
Thánh Luca đã muốn chọn Nadarét thay vì Caphácnaum
làm nơi Đức Giêsu bày tỏ con người và chương trình hành động của Ngài.
Nadarét là một ngôi làng nhỏ, chẳng có gì nổi bật (x. Ga 1, 46),
nhưng ở đây, Con Thiên Chúa làm người đã sống hơn chín phần mười đời mình
như một người thợ (Mc 6, 3), con của một ông thợ khác (Mt 13, 55).
Ở đây, Đức Giêsu đã lớn lên từ từ về mọi mặt (Lc 2, 40).
Bé Giêsu, cậu Giêsu, chú Giêsu rồi ông Giêsu.
Ngài sống như một người bình thường, không có hào quang trên đầu,
cũng không làm nhiều phép lạ như các sách ngụy thư đã kể.
Hôm nay, Đức Giêsu trở lại làng xưa, nơi có biết bao kỷ niệm.
Vì là ngày sabát, theo thói tục, Ngài đến hội đường.
Ông trưởng hội đường đã mời Ngài đọc sách thánh và diễn giải.
Hãy ngắm nhìn cử chỉ đĩnh đạc của Đức Giêsu.
Ngài đứng lên, nhận cuộn sách, mở ra;
sau khi đọc, Ngài cuộn sách, trả lại và ngồi xuống.
Đức Giêsu đã cố ý chọn đoạn sách Isaia 61, 1-2
Ngài thấy đoạn sách thánh đó nói về mình, về sứ vụ tương lai:
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe. ”
Như thế chính Ngài nhận mình là Đấng có Thần Khí Chúa ngự trên,
nhận mình là Mêsia, Đấng được xức dầu để thi hành một sứ mạng.
Sứ mạng của Đức Giêsu chủ yếu là loan báo và công bố ( Lc 4, 18-19).
Sứ mạng ấy nhắm đến những người bất hạnh trong xã hội:
người nghèo, người bị giam cầm, người bị mù lòa, bị áp bức.
Đức Giêsu như đến để mở một Năm Thánh đặc biệt, Năm hồng ân.
Ơn nổi bật là ơn trả lại tự do cho tù nhân và cho người bị áp bức (aphesis).
Vẫn luôn có những người tự nhốt mình trong nhà tù của thành kiến, thói quen…
Xin được ơn tự do để thoát khỏi sự chi phối của cái tôi ích kỷ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.
Suy Niệm 2: Thiên Chúa trong đời thường
Trong tuần lễ Hiển linh, Chúa đã tỏ mình ra bằng nhiều cách khác nhau. Hôm nay không còn úp mở, Chúa nói chính thức và công khai: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe”.
Lời công bố minh nhiên này diễn ra trong làng quê bình lặng, giữa những người dân quê bình thường, trong khung cảnh một ngày thứ bẩy bình thường và trong buổi đọc Sách Thánh, cầu nguyện thường lệ. Thông điệp chỉ đi vào đời thường với những con người tầm thường, thậm chí còn bất hạnh, bị bỏ quên trong xã hội: “Thần Khí Đức chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Quả thật suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã sống phần lớn thời gian rất bình thường, làm thợ mộc giữa những người nghèo hèn. Nhưng Chúa đã yêu thương những con người bình thường. Chính vì thế Chúa đem hi vọng đến cho đời thường. Người mù hi vọng được nhìn thấy những điều mơ ước. Người câm nói được nỗi lòng mình. Người què đi được đến nơi muốn đến. Người điếc nghe được tiếng gọi muốn nghe. Người nghèo tìm được hạnh phúc.
Đời thường chiếm phần lớn thời gian ta sống ở đời. Chắc chắn đời thường có tầm quan trọng trong cuộc đời chúng ta. Ta phải trân trọng đời thường bằng cách yêu mến công việc hằng ngày và đặc biệt yêu mến những người anh em sống quanh ta và với ta.
Tại sao ta phải yêu thương anh em sống quanh ta và với ta? Thánh Gioan đưa ra 3 giải nghĩa.
Yêu Chúa phải yêu anh em. Vì Chúa vô hình còn anh em ta nhìn thấy hằng ngày. Nếu không yêu người hữu hình thì nói yêu Đấng Vô Hình là nói dối.
Yêu Chúa phải yêu anh em. Yêu nhau yêu cả đường đi. Yêu Chúa phải yêu người Chúa yêu. Anh em được Chúa yêu. Nên ta phải yêu anh em. Chúa sinh ra anh em. Yêu Đấng sinh thành thì phải yêu cả người được sinh thành.
Yêu Chúa phải yêu anh em. Đây không phải công việc của xác thịt thế gian, nhưng là công việc của Thần Khí. Yêu thương những người tầm thường, nghèo nàn. Yêu anh em nghèo hèn là sống theo Thần Khí. Đây là điều khó. Nhưng những ai do Thiên Chúa sinh ra đều có thể chiến thắng xác thịt thế gian.
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu viếng Nazaret.
Tuy chỉ diễn ra ở Hội đường Nazaret, nhưng việc Chúa Giêsu xuất hiện lần này nêu bật tư cách và sứ mệnh Mêsia của Ngài. Đồng thời tạo ra một khúc ngoặt trong lịch sự cứu rỗi, vì nó đánh dấu thời điểm mọi lời tiên báo của Cựu ước được thành tựu.
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời kinh thánh tai các ngươi vừa nghe”. Biết bao thế hệ Cựu ước đã nôn nao chờ đợi hai tiếng “hôm nay” ấy. Đây là giờ phút vui mừng tột độ đối với những ai thật lòng chờ đó ngày Yavê. Dĩ nhiên, thời cứu rỗi sẽ ngày càng tốt đẹp do những can thiệp sẽ đến của Thiên Chúa, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc ở giây phút này, giây phút Chúa Giêsu tỏ mình là Đấng mà tất cả Cựu ước đều hướng về.
Đây thật là một cuộc “hiển linh”, nhưng khác với ngờ tưởng của con người, vì là cuộc tỏ mình một cách êm ả, trong khung cảnh phụng vụ quen thuộc: Ngài đến hội đường ngày hưu lễ, cầu nguyện chung với mọi người, nghe đọc và nghe giải thích lời Chúa. Đấng Mêsia gặp gỡ Thiên Chúa, tìm hiểu, lắng nghe và nhận ra thánh ý Thiên Chúa nơi cơ chế phụng tự quen thuộc và nơi Kinh thánh, và rồi Ngài cũng sẽ thực hiện chương trình cứu rỗi bằng chính đời sống lao nhọc vì tha nhân, bằng chính thái độ tận tình đối với tha nhân, để “kẻ nghèo được nghe Tin mừng, người sầu khổ được chữa lành, kẻ bị giam cầm được giải thoát…”.
Chớ gì mỗi khi họp nhau nghe Lời Chúa chúng ta cũng nhận ra được thánh ý cứu độ của Ngài để rồi cùng với Chúa Kitô chúng ta thực hiện thánh ý ấy trong cuộc sống. Điều đó đòi hỏi nơi chúng ta một tấm lòng rộng mở và biết lắng nghe, một con tim quảng đại biết quên mình để dấn thân phục vụ.
Suy Niệm 4: Tất cả cho người nghèo
Có một câu chuyện thật ấn tượng kể về một linh mục dòng Phanxicô khó khăn như sau: ngày cha mới lãnh tác vụ linh mục, một người giàu có muốn tài trợ cho cha mới tất cả kinh phí trong thánh lễ tạ ơn đầu đời linh mục của ngài. Tuy nhiên, khi được tin như vậy, tân linh mục này đã ngỏ ý muốn xin số tiền ấy không phải để mở tiệc ăn mừng, mà là dùng nó vào việc xây dựng nhà cửa, mua thuốc men. . . cho bà con bị bệnh phong tại Biên Hòa – Đồng Nai mà ngài vô tình khám phá ra họ ở trong rừng sâu và không có nhà cửa cũng như không có ai giúp đỡ. . . Một tấm lòng tuyệt vời, khi không nghĩ cho riêng mình, mà là cho người nghèo, người bệnh, người bị xã hội bỏ rơi!
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu trở về quê hương và Ngài vào các hội đường mà giảng dạy. Khi đọc đoạn Kinh Thánh của Isaia, nói về sứ mạng của vị Thiên Sai là đến với người nghèo, để nâng đỡ, an ủi, cứu giúp; xây dựng bình an, giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ. . . Đọc xong, Ngài tuyên bố, đoạn sách ấy hôm nay đã ứng nghiệm!
Khi nói như thế, Đức Giêsu công khai đứng về phía người nghèo, bỏ rơi và bị áp bức. Đây là lựa chọn và sứ vụ của Ngài khi đến trần gian mà hôm nay đã ứng nghiệm.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, mỗi người được trao cho trách nhiệm trở nên ngôn sứ và chứng nhân cho Tin Mừng.
Tuy nhiên, chúng ta có trở nên chứng nhân của Chúa đích thực khi quan tâm đến người nghèo, người thấp cổ bé họng, người không có tiếng nói, người bị bỏ rơi không. . . ? Hay chúng ta đã phản chứng khi khước từ những người cần đến sự giúp của chúng ta, coi khinh và bỏ rơi những người tội lỗi, đồng thời dồn anh chị em mình vào ngõ cụt đường cùng?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết sống tình liên đới, cảm thông và chia sẻ, để trở nên sứ giả của Tin Mừng tình thương trong gia đình, lối xóm và cuộc sống của chúng con hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Cầu nguyện chung với cộng đoàn
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày Sa-bát. Đối với Kitô hữu, việc cầu nguyện riêng tư với Chúa là điều cần thiết, nhưng cầu nguyện chung với cộng đoàn là điều quan trọng không thể thiếu được.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường thờ phượng ở hai nơi công cộng là hội đường, và đền thờ. Mỗi thị trấn đều có hội đường, nên người ta tụ họp vào ngày hưu lễ để nghe, suy gẫm Lời Chúa và cầu nguyện. Người Do thái chỉ có một đền thờ để nhấn mạnh rằng: chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, ở đó người ta tụ họp để dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Đó là nơi dâng hy tế trong tinh thần cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, phụng vụ Lời Chúa như chúng con tuân giữ hôm nay phản ánh công việc tại hội đường: tức là mỗi người cùng lắng nghe Lời Chúa, cùng suy gẫm và cầu nguyện. Còn phụng vụ Thánh Thể thì phản ánh công việc tại đền thờ: nghĩa là mỗi người cùng biểu lộ niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, cùng dâng hy tế trong tinh thần cầu nguyện.
Xin Chúa giúp con ý thức rằng: đời sống đức tin của con cần được nuôi dưỡng và phát triển trong đời sống đức tin của cộng đoàn. Bởi vì cũng như một cục than sẽ luôn cháy hồng rực sáng nếu nằm cạnh những cục than khác, nhưng nó sẽ bị lụi tàn nếu đứng riêng lẻ một mình. Cũng thế, con cần tham dự những buổi cầu nguyện chung với anh em một cách tin tưởng để thờ phượng như Chúa đã làm và dạy con thực hiện. Chúa là mối dây liên kết con với người khác. Amen.
Ghi nhớ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này”.
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
- Phân tích (Hạt giống. . . )
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi truyền bá Phúc Âm cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
- Suy gẫm (. . . nẩy mầm)
- “Thánh Thần Chúa ở trên tôi. . . sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó”. Thời Chúa Giêsu và thời các tông đồ, những kẻ nghèo khó quả thực đã được nghe Phúc Âm. Nhưng những kẻ nghèo khó thời nay có được như thế chưa ?
- Chuyện xảy ra trong một đêm trình diễn văn nghệ Giáng Sinh: một thanh niên hoá trang thành một người ăn mày để diễn nhạc cảnh Chúa đến với người nghèo. Nhưng thanh niên này không thể nào bước lên sân khấu được, vì khi anh tới gần đó thì bị những người trong ban trật tự đuổi đi. Họ tưởng anh là một tên ăn mày thật, và họ sợ anh phá rối buổi trình diễn. Xét về mặt hoá trang thì ban tổ chức văn nghệ đã thành công. Tuy nhiên xét về tinh thần thì họ đã tự mâu thuẫn: họ muốn nói cho khán giả biết Chúa đến với người nghèo, nhưng khi gặp người nghèo, dù chỉ là một người giả nghèo, thì họ đã xua đuổi. Phúc Âm đã không thấm nhập vào lòng những kẻ trình diễn Phúc Âm.
- “Thánh Thần Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó,” (Lc 4,18)
Một người bạn kể lại: “… Trong lớp tôi dạy, có một em tên Bi bị khuyết tật bẩm sinh: sứt môi và điếc một tai trái. Bị các bạn chế diễu, em luôn cảm thấy bị bỏ rơi, thua thiệt. Em trở nên khép kín và xa lánh mọi người. Một hôm, tôi cho các em được tự do đi lại trong lớp và có thể nói nhỏ vào tai bất kỳ một người bạn nào những gì mình thích. Bi ngồi đó, không tham gia, cũng không chờ đợi. Và chính lúc đó, tôi đã đến nói nhỏ vào tai em “Ước gì Bi là đứa em nhỏ của cô!” Bi ngước mắt ngạc nhiên như dò hỏi “Có thật không cô ?” Và tôi đã ôm chầm lấy em. ”
Kỳ diệu thay luồng gió của Thánh Thần! Ngài vẫn tác động trên tâm hồn con người, ngay trên người bạn của tôi, để luôn biết cảm thông và trao tặng… Hành vi ấy đang tiếp nối những hành vi của Chúa Giêsu, Đấng đã được Thánh Thần thúc đẩy để đem Phúc Âm cho người nghèo khó.
Lạy Chúa, khi con đói, xin gởi đến con người cần của ăn. Khi con cô đơn, xin gởi đến con người cần được thông cảm. (Epphata)
Suy Niệm 7: Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nazareth miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày sabat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời tiên tri Isaia.
Trong khi những khát vọng và bao nỗ lực của con người qua những cuộc cách mạng trong dòng lịch sử đã không đem lại sự tự do – công bằng hoàn toàn cho con người. Có một người đã vượt lên tất cả, vượt trên mọi cuộc cách mạng, vượt lên trên không gian và thời gian để đem lại sự tự do và bình đẳng cho mọi người, ở mọi nơi và qua mọi thời đại.
Chính Ngài giải phóng con người khỏi đau khổ, tù đày, áp bức và dẫn đưa con người đến một xã hội công bình, bác ái viên mãn. Đức Giêsu với tước hiệu Kitô luôn là niềm hy vọng vĩnh cửu của nhân loại mà thánh Luca đã trình bày với lời tiên tri Isaia như sau:
“Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm, cho biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
Đức Giêsu đã khẳng định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Từ ngữ “hôm nay” diễn tả hành động trong hiện tại về sứ mạng giải phóng của Đức Kitô, không chỉ là trong quá khứ mà luôn được thể hiện trong lòng nhân loại qua muôn thế hệ. Tác động giải thoát không phải trong bạo lực như cuộc cách mạng của con người đã sử dụng mà là trong tác động của Thánh Thần.
Nếu chúng ta biết để cho Ngài hành động trong niềm tin và sự phó thác, thì những lo âu, những khốn khó của chúng ta sẽ được Ngài chia sẻ gánh vác. Như thế chúng ta đã được giải thoát ngay trong chính niềm tin của chúng ta vào Ngài.
Với lời tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh tai các ngươi vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói rằng: Ngài chính là Đấng Thiên Sai. Lời quả quyết này đã trở thành một tiếng sét đánh bên tai những người nghe Ngài lúc đó. Vâng Ngài đã đến để bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ cứu rỗi. Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến để cứu độ nhân loại. Thế nhưng hiểu được Chúa Giêsu không phải là dễ dàng.
Truyện: Vẽ chân dung Đấng Thiên Sai
Một tu sĩ muốn vẽ chân dung Chúa Giêsu. Ông rảo khắp mọi nơi tìm người mẫu thích hợp. Nhưng càng tìm kiếm ông càng khám phá ra rằng, chẳng có người nào trên trần gian này hoàn toàn giống Chúa, và ông đi tới kết luận: khuôn mặt Chúa Giêsu phải là tổng hợp mọi nét của con người.
Bởi đó, thay vì chọn người mẫu, ông đã thu góp tất cả những nét đẹp của mọi khuôn mặt mà ông bắt gặp. Gặp trẻ em, ông góp được nét đơn sơ. Từ bé gái ca hát nô đùa, ông gặp nét vui tươi trong cuộc sống. Nơi một người đàn ông lực lưỡng đang gồng gánh, ông tìm ra được nét sức mạnh của con người. Nhưng chân dung Chúa Giêsu không chỉ có nét hùng, nét đẹp, mà còn phải có một nét gì khác nữa.
Nghĩ như thế, tu sĩ lại tiếp tục tìm kiếm. Gặp một cô gái lang bạc, ông nhìn thấy nét u buồn trong ánh mắt. Gặp một người hành khất, ông tìm thấy nét thành khẩn van xin. Trong đôi mắt nhà tu hành ông tìm ra sự nghiêm nghị. Và cuối cùng, trên gương mặt người mẹ đi chôn xác đứa con, ông hiểu được thế nào là đau khổ.
Mỗi người một vẻ, nhà hoạ sĩ cố gắng đưa hết vào chân dung Chúa Giêsu. Nhưng ông vẫn chưa hài lòng. Vì ông thấy trên khuôn mặt Chúa vẫn còn một nét nào đó mà ông chưa xác định được.
Ngày kia, vào một khu rừng ông chợt thấy một người che mặt bỏ chạy. Ông chạy theo và khám phá ra đấy là một người phong cùi. Ánh sáng bỗng loé lên trong ông. Thì ra điều còn thiếu trên khuôn mặt Chúa Giêsu, đó là MẦU NHIỆM! Với ý nghĩ ấy, ông lấy cọ vẽ lên khung vải trắng khuôn mặt Chúa Giêsu.
Khi tác phẩm được hoàn thành, tất cả những ai đã cung cấp cho hoạ sĩ nét riêng của mình đều hớn hở đến, để nhìn ngắm nét ấy trên gương mặt Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ chỉ nhìn thấy một tấm vải trắng che phủ khuôn mặt.
Trước sự ngạc nhiên và thắc mắc của mọi người, hoạ sĩ điềm nhiên giải thích:
– Mãi mãi Chúa Giêsu vẫn là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm ấy luôn mời gọi con người tuyên xưng bằng tất cả niềm tin và cuộc sống của mình.
Vâng cho đến hôm nay sau hơn 20 thế kỷ rồi mà chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu hết được con người của Chúa Giêsu. Chúa vẫn còn là một mầu nhiệm, mầu nhiệm được giấu kín từ muôn thuở. Tuy đã được bày tỏ cho con người qua thân phận của một con người, nhưng chúng ta cũng vẫn phải đón nhận mầu nhiệm ấy nhờ đức tin. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đón nhận rồi cất giấu kỹ ở trong lòng mình nhưng là để làm cho mầu nhiệm ấy được tỏ bày ra cho mọi người qua cách ăn nết ở và mọi sinh hoạt trong cuộc sống của chúng ta.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu tỏ mình là Đấng Thiên Sai
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
- Trong bầu khí của lễ Hiển Linh, phụng vụ Lời Chúa trong tuần lễ sau lễ Hiển Linh lần lượt cho chúng ta thấy những lần Chúa Giêsu tỏ mình ra.
Thực vậy, trong ngày thứ hai, qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cho thấy chính con người của Ngài. Ngài là hiện thân cho Nước Trời. Bởi đó, khi rao giảng Ngài đã tuyên bố: “Hãy ăn năn thống hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2).
Bước qua ngày thứ ba, Chúa Giêsu tỏ mình ra là người mục tử nhân lành. Người mục tử nhân lành này đã quan tâm đến đời sống của đoàn chiên. Bởi đó, Ngài đã dạy dỗ họ nhiều điều và làm phép lạ bánh hoá nhiều để nuôi đoàn chiên.
Rồi qua ngày thứ tư, với bài Tin Mừng, Thánh sử Marcô đã tỏ cho chúng ta thấy, lối sống của Chúa Giêsu, một lối sống hoàn toàn quên mình. Chả thế mà, suốt ngày đã bận rộn với việc giảng dạy, thậm chí có những ngày không có thời giờ để ăn uống, nghỉ ngơi, vậy mà chiều đến, Chúa Giêsu vẫn tìm những nơi vắng vẻ để được kết hợp với Thiên Chúa Cha bằng sự cầu nguyện.
Và đến ngày thứ năm hôm nay, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Đấng Thiên Sai. Thánh sử Luca thuật lại việc tỏ mình này ở hội đường Nazareth, nhằm ngày Sabat. Lần này, sau khi đọc một đoạn sách trích từ sách tiên tri Isaia, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4,21). Nhưng lời Kinh Thánh đó nói gì?
Lời đó nói rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa lành những ai sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho những ai bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát những ai bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18).
- Với lời tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói rằng, Ngài chính là Đấng Thiên Sai. Lời quả quyết này đã trở thành một tiếng sét đánh bên tai những người nghe Ngài lúc đó. Vâng, Ngài đã đến để bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ cứu rỗi.
Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến để cứu độ nhân loại. Thế nhưng, hiểu được Chúa Giêsu không phải là dễ dàng.
Một tu sĩ muốn vẽ chân dung Chúa Giêsu. Ông rảo khắp mọi nơi tìm người mẫu thích hợp. Nhưng càng tìm kiếm ông càng khám phá ra rằng, chẳng có người nào trên trần gian này hoàn toàn giống Chúa, và ông đi tới kết luận: khuôn mặt Chúa Giêsu phải là tổng hợp mọi nét của con người.
Bởi đó, thay vì chọn người mẫu, ông đã thu góp tất cả những nét đẹp của mọi khuôn mặt mà ông bắt gặp. Gặp trẻ em, ông góp được nét đơn sơ. Từ bé gái ca hát nô đùa, ông gặp nét vui tươi trong cuộc sống. Nơi một người đàn ông lực lưỡng đang gồng gánh, ông tìm ra được nét sức mạnh của con người. Nhưng chân dung Chúa Giêsu không chỉ có nét hùng, nét đẹp, mà còn phải có một nét gì khác nữa.
Nghĩ như thế, tu sĩ lại tiếp tục tìm kiếm. Gặp một cô gái lang bạt, ông nhìn thấy nét u buồn trong ánh mắt. Gặp một người hành khất, ông tìm thấy nét thành khẩn van xin. Trong đôi mắt nhà tu hành ông tìm ra sự nghiêm nghị. Và cuối cùng, trên gương mặt người mẹ đi chôn xác đứa con, ông hiểu được thế nào là đau khổ.
Mỗi người một vẻ, nhà họa sĩ cố gắng đưa hết vào chân dung Chúa Giêsu. Nhưng ông vẫn chưa hài lòng. Vì ông thấy trên khuôn mặt Chúa vẫn còn một nét nào đó mà ông chưa xác định được.
Ngày kia, vào một khu rừng ông chợt thấy một người che mặt bỏ chạy. Ông chạy theo và khám phá ra đấy là một người phong cùi. Ánh sáng bỗng lóe lên trong ông. Thì ra điều còn thiếu trên khuôn mặt Chúa Giêsu, đó là MẦU NHIỆM! Với ý nghĩ ấy, ông lấy cọ vẽ lên khung vải trắng khuôn mặt Chúa Giêsu.
Khi tác phẩm được hoàn thành, tất cả những ai đã cung cấp cho họa sĩ nét riêng của mình đều hớn hở đến để nhìn ngắm nét ấy trên gương mặt Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ chỉ nhìn thấy một tấm vải trắng che phủ khuôn mặt.
Trước sự ngạc nhiên và thắc mắc của mọi người, họa sĩ điềm nhiên giải thích:
– Mãi mãi Chúa Giêsu vẫn là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm ấy luôn mời gọi con người tuyên xưng bằng tất cả niềm tin và cuộc sống của mình.
Vâng, cho đến hôm nay sau hơn 20 thế kỷ rồi mà chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu hết được con người của Chúa Giêsu. Chúa vẫn còn là một mầu nhiệm, mầu nhiệm được giấu kín từ muôn thuở. Tuy đã được bày tỏ cho con người qua thân phận của một con người, nhưng chúng ta cũng vẫn phải đón nhận mầu nhiệm ấy nhờ đức tin. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đón nhận rồi cất giấu kỹ ở trong lòng mình nhưng là để làm cho mầu nhiệm ấy được tỏ bày ra cho mọi người qua cách ăn nết ở và mọi sinh hoạt trong cuộc sống của chúng ta.
Thứ Sáu sau Lễ Hiển Linh
LỜI CHÚA: Lc 5, 12-16
Xảy ra khi Chúa Giêsu đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy phong hủi, thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch”.
Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: “Ta muốn, hãy nên trơn sạch”. Lập tức, người ấy khỏi phong hủi. Người ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: “Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch”.
Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng đông đảo kéo nhau đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Suy Niệm 1: Hãy đi trình diện tư tế
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vừa tỏ mình, vừa giấu mình.
Ngài giấu mình khi Ngài ra lệnh cho người phong không được nói với ai.
Nhưng hẳn anh ấy cũng khó giữ kín chuyện này, khi anh đi gặp các tư tế.
Thế nên cuối cùng tiếng đồn về Ngài đã lan ra,
khiến người ta nô nức, lũ lượt kéo đến với Ngài (c. 15).
Đức Giêsu đã không thể giấu mình trước đám đông dân chúng.
Ngài lôi cuốn họ như một vị giảng thuyết và như một người chữa lành.
Con người mãi mãi cần sức mạnh tinh thần và sức khỏe thân xác.
Đức Giêsu đem đến cả hai điều ấy cho hạnh phúc con người.
Hãy nhìn người phong, mình anh đầy những vết lở loét.
Anh đến với Đức Giêsu, sấp mặt xuống nài xin.
“Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 12).
Lời nguyện của người phong là lời cầu xin mẫu mực cho ta.
Dĩ nhiên là anh ấy rất muốn được khỏi căn bệnh nan y này,
căn bệnh đã làm tan nát thân xác anh và cả cuộc đời anh,
Hơn nữa, nó còn bắt anh trở nên kẻ sống ngoài lề xã hội và tôn giáo.
Nhưng anh vẫn không để ước muốn quá đỗi bình thường của mình lấn lướt.
Anh đặt ước muốn ấy dưới ước muốn của Đức Giêsu.
“Nếu Ngài muốn !” nghĩa là Ngài có thể và có quyền không muốn.
Anh để cho Đức Giêsu được tự do muốn điều Ngài muốn.
“Ngài có thể làm tôi được sạch: anh tin vào khả năng của Ngài,
khả năng làm cho những vết lở loét kia biến mất.
Chính khi Đức Giêsu được tự do, được tin cậy và phó thác,
thì dường như Ngài không thể từ chối được nữa.
“Tôi muốn, anh hãy được sạch. ”
Đức Giêsu tẩy sạch anh bằng một ước muốn được nói ra lời,
kết hợp với một cử chỉ đầy yêu thương là đưa bàn tay ra đụng vào anh.
Khi cầu xin, bạn hãy để cho Chúa được tự do giúp bạn,
theo ý muốn của Chúa, theo cách của Chúa, vào lúc của Chúa.
Đừng dạy Chúa phải làm gì, vì Chúa biết điều tốt nhất cho bạn.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
Suy Niệm 2: Thánh Thần, nước và máu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu tiếp tục hiển linh với quyền năng tuyệt đối khi chữa lành người bệnh phong. Ngôi vị Thiên Chúa của Người được chứng thực bằng chính lời chứng của Thiên Chúa với ba chứng nhân: Thánh Thần, Nước và Máu. Thánh Thần là lời chứng đến từ Đức Chúa Cha. Nước và Máu là lời chứng của chính Chúa Giêsu. Tất cả làm thành lời chứng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả là lời chứng về quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Thánh Thần là tình yêu kết hiệp Ba Ngôi Thiên Chúa, là sự sống, là sức mạnh, là lò lửa, là nguồn sinh lực vô biên, không bao giờ vơi cạn, nhưng ngày càng sung mãn. Là sự thật, là nguồn mạch sự thật, nên là lời chứng không thể phủ nhận được.
Nước và Máu là tình yêu cụ thể, thể hiện trong xác thịt Con Người, trước mắt mọi người. Là tình yêu bao dung, tẩy sạch mọi tội lỗi vô vàn vô số của nhân loại. Nhưng trên hết là tình yêu cứu độ đưa loài người từ tình trạng bị trừng phạt đến được thứ tha, từ thân phận nô lệ khốn khổ về làm con Thiên Chúa trong tự do, từ vực sâu sự chết đớn đau về vinh quang khôn sánh của con Thiên Chúa. Đó là tình yêu lớn lao cao cả nhất dám hi sinh tính mạng vì bạn hữu. Vì thế cũng là lời chứng chân thực nhất và có sức thuyết phục nhất.
Lời chứng tuyệt đối quan trọng không chỉ vì thế giá của Thiên Chúa, nhưng quan trọng vì quyết định vận mệnh của ta. Bằng chứng ấy chỉ nói lên một điều quan trọng: Thiên Chúa yêu thương ta vô vàn và Thiên Chúa đã làm tất cả chỉ vì muốn ta được sống và được hạnh phúc. Chính vì thế lời chứng ấy đặt ta trước một chọn lựa sinh tử: Tin hay không. Từ đó là quyết định sống hay chết.
Người bệnh phong là người coi như đã chết vì bị loại trừ khỏi cộng đoàn và không có hi vọng được chữa lành. Người bệnh phong là người đã ở bên bờ vực sinh tử, ở lằn ranh giữa cái chết và cái sống. Anh đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Anh đã lựa chọn đúng nên đã từ cõi chết trở về cõi sống. Anh đã lựa chọn niềm tin vào con Thiên Chúa nên anh có sự sống, không chỉ là sự sống với đầy đủ ý nghĩa nhất của thân xác, nhưng còn là sự sống đời đời của linh hồn bất diệt.
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu. Bằng chứng của Chúa chính là bằng chứng của tình yêu. Động lực của bằng chứng cũng là tình yêu: mong muốn đem đến cho con sự sống đời đời. Xin cho con biết tin nhận và tuyên xưng Thiên Chúa Tình Yêu trong suốt cuộc đời con.
Suy Niệm 3: Chữa một người phung hủi
Bài Tin mừng hôm nay cho thấy cử chỉ ưu ái mà Chúa Giêsu dành cho những người cùng khổ, những kẻ bị xã hội ruồng rẫy.
Với sự nhạy cảm của một lương y, thánh sử Luca ghi lại một chi tiết đáng chú ý, đó là sự kiện Chúa Giêsu giơ tay chạm đến người phung hủi, biểu lộ một tình yêu xoá bỏ mọi ngăn cách, một tình yêu đi đến và dừng lại nơi những đau khổ của con người. Đối với Chúa Giêsu, con người cùi hủi ấy không còn là một phế nhân, môt kẻ bị loại bỏ, mà là một con người đáng cảm thông và thương yêu. Người phung hủi được chữa lành, nhưng nhất là được phục hồi nhân phẩm, được sống như một con người giữa mọi người.
Chung quanh chúng ta có biết bao người bị đẩy ra bên lề xã hội. Họ đang chờ đợi một cánh tay nâng đỡ, một lời an ủi, một nụ cười cảm thông. Bao nhiêu nghĩa cử là bấy nhiêu phép lạ.
Ước gì chúng ta biết sống thế nào để Chúa Giêsu có thể thực hiện phép lạ tình yêu của Ngài đối với tất cả mọi người.
Suy Niệm 4: Cái khổ của người bị bệnh
“Khi còn có thể làm việc được thì người mắc bệnh vẫn còn được chung sống với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm được chi nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, máu mủ vấy đầy, khiến những người chung quanh nhờm gớm, kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết ra sao mặc kệ!
Khi yếu liệt, cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi đói khổ mà chết dần chết mòn một cách thảm khốc, ấy là không kể trường hợp có thể bị cọp đói tha đi, vì có lời đồn đại rằng cọp rất hám thịt người cùi.
Nói tóm một điều: người cùi là một bệnh nhân biết rõ mình đang chết và với đôi mắt tỉnh táo còn chứng kiến được rành rành giữa thanh thiên bạch nhật những sình thối rục rã của chốn mồ sâu. . . !”
Câu chuyện trên đây chính là nhận định của Đức Cha Cassaigne, thừa sai sống giữa anh chị em người cùi.
Trong cuộc sống, cái gây nên đau khổ nhất cho con người chính là: bệnh tật và sự cô đơn.
Bệnh tật thì làm cho con người ta thất vọng và nghĩ mình vô dụng; bệnh tật còn làm cho con người đau đớn thể xác. . . Còn sự cô đơn thì làm cho con người trở nên dư thừa, họ bị cô lập không được tiếp xúc với ai và cũng không ai thèm tiếp xúc với họ. Đau khổ nhất chính là bị đẩy ra một nơi xa cộng đồng, không được ở với cha mẹ, anh chị em và bà con xóm làng.
Tất cả những tâm trạng đó, nơi người bị bệnh phong, họ phải hứng chịu tất cả.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết yêu thương ngay cả đến người không đáng yêu, tha thứ kẻ không đáng tha thứ. Đức Giêsu đã làm thế và chúng ta cũng phải làm như vậy, nếu chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa.
Mong sao mỗi người chúng ta sẵn sàng chia sẻ và gánh lấy những gánh nặng cho nhau. Thập giá mà mỗi người chúng ta phải vác, sẽ nhẹ đi biết bao, khi chúng ta biết bắt chước Đức Giêsu, giơ tay ra chạm đến người phong cùi.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta được trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa trong xã hội hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Chúa có quyền chữa lành bệnh tật và tội lỗi
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Khi chữa lành người phong hủi, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài có quyền chữa lành mọi bệnh tật và giải thoát người ta khỏi tội lỗi. Ta hãy tin tưởng và kêu cầu Chúa cứu chữa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đối với chúng con, bệnh tật là một nỗi sợ. Đau đớn nơi thân xác do bệnh tật gây ra kéo theo những khổ đau tâm hồn. Bệnh tật làm cho con thấy sự sống của thân xác mỏng manh biết bao. Cuộc đời này ngắn ngủi qua mau biết bao.
Lạy Chúa, qua việc Chúa chữa lành cho người phong cùi, con hiểu rằng Chúa muốn con sống hạnh phúc, khỏe mạnh. Ngày nay, tuy Chúa không hiện ra để làm phép lạ chữa bệnh, nhưng Chúa vẫn âm thầm hiện diện và giúp cho ngành y khoa tiến bộ. Để qua đó, Chúa chữa lành bệnh tật cho loài người. Con xin tạ ơn Chúa hết lòng.
Chúa ơi, trên thế giới này có bao người mắc phải những thứ bệnh ngặt nghèo, tiền mất mà tật vẫn mang. Cũng có nhiều người quá nghèo, không đủ tiền chữa bệnh. Cuộc sống của họ lây lất khổ đau. Con nguyện xin Chúa cho họ gặp được những người có lòng quảng đại giúp đỡ. Con cũng nguyện xin cho các bác sĩ, y tá là những người trực tiếp phục vụ bệnh nhân, xin cho họ có tinh thần phục vụ vô vị lợi để xoa dịu nỗi đau của nhân loại. Và con nguyện xin Chúa chữa lành những người đau ốm trong gia đình con. Xin cho tất cả chúng con được sống mạnh khỏe an vui.
Lạy Chúa Giêsu là Chúa của con, con xin phó thác trọn vẹn đời con trong tay Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Lập tức người ấy khỏi phong hủi”.
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu hoạt động cứu rỗi
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống. . . )
Chúa Giêsu tiếp tục hoạt động cứu rỗi, Ngài chữa một người bị phong cùi.
– Việc chữa người phong cùi làm ứng nghiệm lời tiên tri Isaia về Đấng Messia, chứng minh Chúa Giêsu chính là Đấng Messia.
– Thái độ của người cùi chứng tỏ người này tin Ngài là Messia: anh “liền sấp mặt xuống đất” kêu xin; anh nói “Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch” (thời đó, phong cùi được coi là chứng nan y vô phương chữa trị).
– Thái độ của Chúa Giêsu biểu lộ một sự ưu ái đặc biệt: “Người giơ tay chạm đến người ấy” (không ai khác dám đụng người cùi, vì sợ lây bệnh và lây sự ô uế).
– Lời Ngài bảo anh đi trình diện tư tế và dâng của lễ chứng tỏ Chúa Giêsu tôn trọng luật lệ đạo Do Thái.
B- Suy gẫm (. . . nẩy mầm)
- Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh; Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được hội nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn. Sự quan tâm của ta với những người nghèo khổ có được toàn diện như thế chưa ?
- Cái nghèo cũng là một thứ “tội đầu”, vì nghèo nên khổ, vì nghèo khổ nên bị coi khinh và xua đuổi.
- Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: “ Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì”.
Mặt người ăn xin sáng lên và nói: “Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!” (Góp nhặt).
Việc giúp đỡ người nghèo khổ chưa chắc có giá trị bằng thái độ tôn trọng của ta đối với họ.
- “Chúa Giêsu giơ tay chạm đến người ấy và nói: ‘Ta muốn, hãy nên trơn sạch’. Lập tức, người ấy khỏi phong hủi” (x. Lc 5,13)
Tôi có người bạn học, sắp theo ngành cảnh sát. Trước khi nhập học, bạn đã hỏi cha mình “Con có nên nhập bọn với nhóm tội phạm, để một ngày nào đó phá tan băng nhóm ấy không ?” Cha bạn trả lời “Áo dơ muốn sạch thì phải chịu khó nhúng tay vào”.
Người mắc bệnh phong, vì muốn được khỏi bệnh nên đã tìm đến với Chúa Giêsu. Chúa cũng muốn anh được chữa lành nên đã chạm đến anh.
Chúa cũng đã chạm đến tôi nhiều lần: khi tôi rước lễ, khi tôi cầu nguyện, đọc sách thánh… nhưng dường như chẳng có gì thay đổi nơi tôi cả! Phải chăng vì tôi chưa thực sự tin tưởng vào Chúa và thực tâm muốn được chữa lành ?
Lạy Chúa, xin cho con khao khát được canh tân và ước muốn được chữa lành, để con luôn bước đến với Chúa và được hoàn toàn đổi mới. (Epphata)
Suy Niệm 7: Chúa chữa người phong cùi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
- Chúa Giêsu đang ở trong thành thì có người phong cùi đến sấp mình van xin Người cứu chữa. Người liền giơ tay sờ anh ta, tức thì anh được lành sạch. Người dặn anh đừng cho ai biết, những hãy đi trình diện với tư tế để chứng minh anh đã khỏi bệnh. Nhưng đi tới đâu anh ta cũng thuật lại phép lạ Chúa đã làm cho anh, nên dân chúng khắp nơi kéo nhau theo nghe Chúa giảng và xin Người cứu chữa bệnh tật.
- Luật Do thái về bệnh phong cùi.
Theo luật Do thái, những ai mắc bệnh cùi không được sống trà trộn trong dân chúng vì bệnh này là bệnh nan y và hay lây. Vì vậy số phận của họ đã khổ vì bệnh hoạn lại còn khốn nạn hơn vì tình trạng cô đơn.
Căn bệnh đáng sợ nhất đối với người Do thái là bệnh cùi. Nó như cơn đại dịch truyền nhiễm gieo rắc biết bao khiếp sợ cho những nạn nhân của nó vì hồi đó không có hy vọng cứu chữa, số phận của người bệnh cùi thực sự rất đáng thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh, người bệnh bị cách ly khỏi mọi đời sống xã hội và buộc phải trốn tránh xa xã hội.
- Đau đớn thể xác của người cùi.
Có những triệu chứng để xem biết ai đã mắc chứng bệnh này: nó có thể bắt đầu bằng những mụn nhỏ và lở loét, những chỗ ung lở thì có mùi tanh hôi. Ở trên mặt thì lông mày rụng hết, mặt lộ ra, thanh quản bị lở, giọng nói trở nên khàn đặc, hơi thở khò khè. . . Trung bình bệnh này phát triển trong 9 năm, cuối cùng điên loạn, hôn mê và chết. Nhưng cũng có trường hợp bệnh nhân còn sống lâu năm nhưng ở trong tình trạng đau đớn và thất vọng.
- Đau khổ tinh thần của người cùi.
Đau khổ tinh thần còn lớn hơn đau đớn về thể xác. Theo sách Lêvi, người phong cùi phải sống tách biệt khỏi gia đình và bạn hữu, bị coi như đã chết. Và sách còn cho biết thêm: “Người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế, ô uế”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế, ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại. Ngoài ra người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì phong cùi bị coi là nhơ bẩn và bị coi như Chúa phạt”.
- Đức Giêsu đã chữa người phong cùi.
Theo luật, không ai được phép chào hỏi một người phong cùi ở ngoài đường, không được đến gần 2 mét. Nếu người phung hủi đứng đầu gió thì người ở cuối gió phải cách xa 45 mét. Ngay cả một quả trứng, các rabbi Do thái cũng không ăn nếu bán ở đường phố có người phong cùi đi qua. Thế mà Chúa Giêsu bất chấp những cấm cách ấy, Ngài tỏ lòng thương xót bệnh nhân nên đã giơ tay ra sờ vào bệnh nhân và anh ta được khỏi. Đối với Chúa Giêsu, trong cuộc sống chỉ có một điều bó buộc duy nhất là luật yêu thương.
- Bệnh phong cùi thiêng liêng.
Ngoài bệnh cùi thể xác ra, còn một loại bệnh cùi thiêng liêng nữa. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hóa về thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng khiến người ta bị cô lập hóa về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác.
- Thái độ đối với người bệnh cùi.
Đứng trước nạn nhân phong cùi đau khổ này, chúng ta phải có một quyết tâm không bao giờ tự làm cho mình thành người cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình một pháo đài ích kỷ, lập dị. . . Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử. . . chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu người Do thái xa lánh người phong cùi.
- Truyện: Léon Tolstoi và người hành khất.
Một hôm Tolstoi, một đại văn hào người Nga, đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá trong một công viên gần nhà, thì bỗng có người đàn ông lớn tuổi, áo quần nhếch nhác, đến gần và giơ chiếc mũ cũ rách ra trước mặt nhà văn để xin giúp đỡ. Nhà văn liền thò tay vào túi áo định lấy tiền cho người ăn xin, nhưng tìm hết túi này sang túi khác mà không kiếm thấy đồng nào.
Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói với sự hối tiếc như sau:
– Này người anh em, xin thứ lỗi cho tôi. Vì hôm nay tồi rất tiếc đã để quên ví tiền ở nhà rồi.
Bấy giờ, người ăn xin thay vì buồn giận, thì đã mỉm cười và nói:
– Tôi thật không biết phải cám ơn ông thế nào cho xứng. Vì hôm nay ông đã cho tôi một món quà quí báu hơn tiền bạc. Đó là ông đã không những không khinh dể tôi, mà còn tôn trọng tôi khi gọi tôi là “Người anh em”.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu quyền năng
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
- Bài Tin Mừng, tiếp tục khai triển đề tài Chúa tỏ mình ra. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy, Ngài là một Thiên Chúa quyền năng.
Thánh Luca đã ghi lại việc Chúa tỏ mình ra ở đây qua câu chuyện Chúa chữa một người phong cùi.
Thánh sử ghi: “Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: Ta muốn – hãy nên sạch. Lập tức người ấy khỏi phong cùi”. (Lc 5,12)
Rõ ràng là ở đây, Chúa Giêsu đã tỏ ra cho con người thấy quyền năng của Chúa. Bởi chỉ bằng một ý muốn, một lời nói, Ngài đã chữa lành người phong cùi.
- Chúa Giêsu của chúng ta ngoài việc tỏ mình ra là một Thiên Chúa quyền năng, Chúa còn tỏ ra cho ta thấy, Ngài là một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Lòng thương xót này còn được chứng tỏ qua việc Ngài lấy máu của mình để chuộc tội cho những ai biết tin vào Ngài.
Hơn nữa, Đấng quyền năng ấy, còn là một Thiên Chúa luôn biết cảm thông. Bản chất yêu thương của Chúa đã khiến Ngài muốn cảm thông với thân phận con người.
Họa sĩ tài ba Vincent Van Gogh không phải lúc nào cũng cầm cọ. Ông đã từng đến làm việc tại một mỏ than ở Borinage, Bỉ. Ở đó mọi người rất quý trọng ông. Những khi rảnh rỗi, ông thường được mọi người mời nói chuyện về cuộc sống. Ông nhận ra có một số người thường phản ứng khi nghe ông nói chuyện. Ông hiểu vì cuộc sống họ quá khổ sở, đến nỗi họ thấy khó mà tin được vào lời nói của người khác. Hằng ngày nhìn những người thợ mỏ phải làm việc trong các điều kiện khó khăn triền miên mà chỉ nhận được đồng lương chết đói. Gia đình họ luôn phải chạy ăn từng bữa, ông chợt thấy xót xa khi so sánh với cuộc sống tương đối sung túc của mình.
Vào một buổi tối cuối năm lạnh lẽo, trong đoàn người thợ mỏ mệt mỏi lê từng bước chân về nhà, ông thấy một ông lão chân bước xiêu vẹo băng ngang qua cánh đồng, giấu chặt người sau miếng vải bố để tìm chút hơi ấm. Van Gogh đã lấy quần áo của mình đem cho ông lão và chỉ giữ lại một bộ duy nhất. Ông quyết định sống với khẩu phần lương thực ít ỏi và phân phát tiền lương của mình cho những thợ mỏ khốn khổ ấy.
Có lần, mấy đứa trẻ của một gia đình nọ bị sốt thương hàn, tuy bản thân cũng đang sốt, Van Gogh vẫn nhường giường của mình để bọn trẻ có chỗ nằm.
Một gia đình giàu có trong vùng gợi ý dành riêng cho ông một căn phòng trống để trọ, nhưng Van Gogh từ chối lời để nghị này. Ông nói nếu có thiện chí, gia đình đó nên giúp những người có hoàn cảnh khó khăn hơn.
Những người trước đây thường phản ứng với ông giờ đã hiểu và rất kính trọng ông.
Ông ý thức rất rõ rằng giữa lời nói và hành động có một sự cách biệt khá lớn. Chính cuộc sống và hành động mới là tiếng nói ấn tượng nhất, hơn tất cả mọi lời hoa mỹ. Ông nhận ra dù ở bất cứ nơi đâu, chỉ nên dùng lời nói khi thật cần thiết.
- Phần chúng ta, là những người được hưởng lòng thương xót một cách nhưng không của Chúa, chúng ta cũng phải biết đem tình thương của mình mà ban phát cho những anh chị em chung quanh chúng ta, bằng cách chia sẻ và gánh lấy những gánh nặng cho nhau.
Ngày kia tại Trung Quốc, một em bé đói rách tiều tụy vì phong cùi, bị dân chúng dùng gậy gộc xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em. Trước cảnh tượng đau lòng ấy, một nhà truyền giáo phương Tây đã ẵm em lên để che chở cho em khỏi những gậy gộc vút lên thân mình em và những viên đá phũ phàng ném vào em để xua đuổi em đi. Thấy có người chịu mang em bé đi, dân làng mới thôi, nhưng miệng họ vẫn không ngớt lời kêu la: “Phong hủi, phong hủi, phong hủi, cút đi!”.
Những giọt nước mắt lăn trên gò má em bé, nhưng lần này không phải là những giọt nước mắt đau buồn mà là những giọt nước mắt mừng vui, vì đã có người che chở. Em bé hỏi nhà truyền giáo:
– Tại sao ông lo lắng cho cháu như thế?
Nhà truyền giáo trả lời:
– Vì ông trời đã tạo nên cả hai chúng ta. Em sẽ là em gái của ta và ta sẽ là người anh của em. Từ nay, em sẽ không phải đói khổ và không còn lo không có nơi nương tựa nữa.
Suy nghĩ hồi lâu, em lại hỏi:
– Em phải làm gì?
– Em hãy trao tặng lại cho người khác tình yêu càng nhiều càng tốt – Nhà truyền giáo trả lời:
Kể từ đó đến 03 năm sau, khi em bé tắt hơi thở cuối cùng, em luôn chăm sóc, giúp đỡ, băng bó các vết thương, đút cơm cho các bệnh nhân trong trại cùi mà nhà truyền giáo đã đưa em về đó ở. Khi lìa đời, em mới lên 12 tuổi, và mọi bệnh nhân khác đã kháo láo với nhau:
– Bầu trời bé nhỏ của chúng ta đã về trời!
Vâng! Bầu trời bé nhỏ của chúng ta đã về trời! Ôi đẹp biết chừng nào tình yêu biết chia sẻ cho nhau.
Thứ Bảy sau Lễ Hiển Linh Ga 3,22-30
LỜI CHÚA: Ga 3, 22-30
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa. Cũng có Gioan làm phép rửa tại Ainon, gần Salim, vì ở đó có nhiều nước, và người ta đến để chịu rửa. Vì chưng, khi ấy Gioan chưa bị tống ngục.
Xảy ra có cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và người Do-thái về việc thanh tẩy. Họ đến cùng Gioan và nói với ông: “Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!”
Gioan trả lời rằng: “Người ta không tiếp nhận gì mà không phải bởi trời ban cho. Chính các ngươi đã làm chứng cho tôi là tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Kitô, nhưng tôi được sai đến trước Người. Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm vui của tôi như thế là đầy đủ. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
Suy Niệm 1: Mọi người đều đến với ông
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình
tại một nơi nào đó thuộc vùng đất Giuđê.
Nơi đây Đức Giêsu và các môn đệ ở với nhau, và Ngài đã làm phép rửa.
Tại một nơi khác có tên là Ênôn, gần Salim, có lẽ thuộc vùng Samaria,
Gioan Tây Giả cũng đang làm phép rửa
cho những người đến với ông.
Như thế ở hai nơi khác nhau, có hai phép rửa khác nhau,
được làm bởi hai người khác nhau.
Ta không thấy có gì khác biệt về bản chất giữa hai phép rửa này.
Chỉ có điều là phép rửa của Đức Giêsu thu hút được nhiều người hơn.
Các môn đệ của ông Gioan đã nhận thấy điều đó
và họ đi báo cho Thầy Gioan của mình một tin không vui:
“Mọi người đều đến với ông ấy!” (c. 26).
Họ khó chịu vì Đức Giêsu, người đã từng được Thầy của họ làm chứng,
người đã sống bên Thầy ở bên kia sông Giođan (c. 26),
bây giờ lại nổi tiếng hơn Thầy.
Ông Gioan lại chẳng hề khó chịu chút nào.
Ông chưa bao giờ quên sứ mạng của mình là làm chứng cho Đức Giêsu,
Đấng mà ông đã thấy Thần Khí ngự xuống khi chịu phép rửa. .
Gioan biết sự cao trọng của mình nằm ở đâu:
Ông là người được Thiên Chúa sai đến trước Đức Kitô (c. 28).
Ông không phải là chú rể, ông chỉ là bạn của chú rể,
vì thế ông không có quyền “có cô dâu” (c. 29).
Cựu Ước coi dân Ítraen là cô dâu (Is 62, 4-5; Gr 2, 2; Hs 2, 21).
Tân Ước coi Giáo Hội Kitô là cô dâu (2 Cr 11, 2; Ep5, 25-27. 31-32).
Ông Gioan coi Đức Giêsu là chú rể, và ông đứng đó nghe chàng.
Ông vui mừng hớn hở khi nghe được tiếng nói của chàng.
Khi người ta kéo đến với Đức Giêsu để chịu phép rửa,
thì ông Gioan biết rằng mình đã thành công trong sứ vụ của mình,
sứ vụ làm nhịp cầu cho Dân Chúa và Đức Giêsu Kitô gặp nhau.
Ông như reo lên vì mãn nguyện: “Đó là niềm vui của Thầy,
niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (c. 29).
Chúng ta không quên ơn Gioan, không quên sự xóa mình của ông.
Đức Giêsu được hiển linh, được nổi bật, chính vì Gioan đã chịu lu mờ đi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,
để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động,
để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống.
Suy Niệm 2: Chiến thắng ác thần
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đã có tranh luận và tranh chấp. Vì đòi quyền lợi, đòi uy tín. Các môn đệ Gioan muốn kéo Gio-an vào cuộc. Thánh Gioan Tẩy giả đã vượt qua cuộc tranh chấp bằng một chiến thắng bản thân.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài đã biết phân định. Đúng như lời thánh Gioan Tông đồ: “Thiên Chúa ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật”. Cuộc phân định của Thánh Gioan Tẩy giả thật minh bạch khi Ngài xác định: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn”.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài luôn ở trong Thiên Chúa. Nhận biết mọi việc của mình đều bởi Thiên Chúa ban cho, nên Ngài đã khuyến cáo môn đệ: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban”. Biết mọi sự mình có đều là của Chúa. Xác tín mình thuộc về Thiên Chúa chứ không thuộc về trần gian, Ngài đã thoát được thói tranh đua của trần gian. Luôn qui phục Thiên Chúa.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài luôn thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Ngài có bổn phận làm chứng cho Chúa Giêsu. Ngài tự nguyện chìm vào bóng tối để Chúa Giêsu càng được nhận biết: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”. Chấp nhận lu mờ đến tự hủy mình chịu chết trong cung điện vua Hê-rô-đê.
Chúa Giêsu đến tiến hành cuộc chiến giữa Nước Trời và thế gian. Thánh Gio-an Tẩy giả xứng đáng là người mở đường khi can đảm tự nguyện hi sinh để Nước Trời có cuộc chiến thắng thế gian ngay trong chính bản thân Ngài. Xin cho con biết noi gương thánh Gioan Tẩy giả luôn biết quên mình để chương trình của Chúa được thực hiện.
Suy Niệm 3: Gioan làm chứng lần cuối
“Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Đó là tâm tình của thánh Gioan Tẩy Giả mà Giáo hội muốn gửi đến chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.
Thật vậy, ảnh hưởng của Chúa Giêsu càng lớn, thì vai trò của Gioan càng lu mờ. Ba Phúc âm Nhất lãm đã làm nổi bật sự kiện ấy khi đặt sứ vụ công khai của Chúa Giêsu chấm dứt vai trò của Gioan Tẩy Giả.
Gioan đã diễn tả vai trò tiền hô của mình qua câu nói bất hủ: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Thay vì ghen tức, buồn phiền, Gioan đã vui mừng đóng trọn vai phụ của mình. Như một quản trò trong tiệc cưới, Gioan đã khơi dậy niềm vui và hướng mọi người đến với Tan Lang là Đức Kitô.
Ngày nay, người Kitô hữu cũng tiếp tục vai trò của Gioan Tẩy Giả. Phương châm hành động của họ là: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Nhỏ lại trong những khuynh hướng xấu lôi kéo chúng ta vào tội lỗi, nhỏ lại trong những đam mê, ích kỷ của chúng ta, để nhờ đó Chúa Kitô đước lớn lên trong chúng ta.
Nguyện cho ánh sáng và sức sống của Đức Kitô tràn ngập tâm hồn và cuộc sống chúng ta, để chúng ta đạt tới tầm mức viên mãn của chính Ngài.
Suy Niệm 4: Lớn lên và nhỏ lại như thế nào?
Đoạn kết Tin Mừng hôm nay được khép lại với câu nói có hậu của Gioan Tiền Hô: “Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại”. Nói là kết, nhưng nó lại mở ra cho một tương lai và hy vọng mới.
“Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại”, đã trở thành một phương châm sống cho vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế.
Giữa lúc uy tín của Gioan lên như diều, mọi người từ khắp nơi ai ai nghe thấy tên của ông cũng đều nghiêng mình kính cẩn, đến nỗi nhiều người muốn tôn ông là ngôn sứ vĩ đại, là Đấng Mêsia. Tuy nhiên, ông đã đứng đúng vị trí của mình là tiền hô, kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế, vì vậy, ông đã thẳng thắn tuyên bố: tôi không phải là Đấng Kitô, Đấng ấy đến sau tôi, tôi không đáng cởi giây dép cho Người! Khi Đấng ấy đến, Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần. . . và “Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại” vì “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối người đi” (x. Mt 3,3).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở thành tiền hô cho Chúa trong xã hội hôm nay. Đồng thời sống đúng tư cách của người tiền hô, để “Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại”.
Để cho Chúa lớn lên, ấy là khi chúng ta biết sống quảng đại, mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Biết cảm thông, yêu thương và tha thứ, bao dung và nhân hậu. Sẵn sàng sống cho người khác.
Tôi phải nhỏ lại, tức là nhỏ lại cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, khoe khoang. . .
Tuy nhiên, trong xã hội hôm nay, vẫn còn đó những tiền hô không đứng đúng vị trí của mình! Họ đã đứng lên vị trí của Đấng Cứu Thế, còn Đấng Cứu Thế thì lại bị đẩy ra bên lề. Vì vậy, thay vì dọn đường thì lại hưởng lợi, thay vì làm vinh danh Chúa thì họ lại tìm vinh danh mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi theo gương sáng của Gioan Tiền Hô khi xưa, luôn sống theo tinh thần đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ, để Chúa được lướn lên, còn chúng con thì nhỏ lại. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Chúa phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Đó là tâm tình của thánh Gioan Tẩy Giả mà Giáo Hội muốn gởi đến chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khởi sự sứ mệnh tông đồ bằng việc đến sông Gio-đan xin Thánh Gioan làm phép rửa cho mình như một người môn đệ. Và từ vị thế của một môn đệ, Chúa đã từ từ thu hút một số các môn đệ, và cuối cùng trở thành một bậc thầy hơn cả Thánh Gioan. Ảnh hưởng của Chúa càng lớn thì vai trò của Thánh Gioan Tẩy Giả càng mờ nhạt. Thánh Gioan Tẩy Giả đã không ghen tức và buồn phiền vì Chúa thành công, nhưng ngài đã vui mừng vì đã đóng trọn vai phụ của mình. Đặc biệt thánh Gioan đã khơi dậy niềm vui và quy hướng mọi người về với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, con cũng cần tiếp tục vai trò của Thánh Gioan Tẩy Giả: Chúa phải lớn lên, còn con phải nhỏ lại: nhỏ lại trong muôn vàn những khuynh hướng xấu đang lôi kéo con vào vòng tội lỗi. Con cần nhỏ lại trong sự tham lam ích kỷ của mình để người khác được lớn lên bằng tấm lòng quảng đại của con. Con cần nhỏ lại trong hận thù, ghen ghét, để tha nhân được lớn lên bằng sự cảm thông và tha thứ. Và khi người khác được lớn lên thì cũng chính là lúc Chúa được lớn lên trong tâm hồn con.
Lạy Chúa Giêsu, xin ánh sáng Lời Chúa soi dẫn để con biết khám phá những nét đẹp nơi người khác. Xin sức sống của Bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng tâm hồn con mỗi ngày, để con biết hy sinh chính mình, cho Chúa lớn lên trong anh chị em con. Amen.
Ghi nhớ: “Bạn hữu của tân lang vui mừng vì tiếng nói của tân lang”.
Suy Niệm 6: Lời chứng cuối cùng của Gioan Tẩy giả
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống. . . )
Lời chứng cuối cùng của Gioan Tiền hô:
– Chúa Giêsu và Gioan cùng làm phép rửa, mỗi người một nơi, mỗi người có quần chúng ngưỡng mộ riêng.
– Việc làm phép rửa ấy gây nên một cuộc tranh luận và khiến các môn đệ Gioan ganh tức. Họ đến mách với Gioan, ngầm xin ông tỏ một thái độ ngăn cản hay chống đối nào đó với Chúa Giêsu.
– Nhưng Gioan chẳng những không chống đối Chúa Giêsu, mà còn làm chứng về Ngài và đề cao Ngài: “Tôi không phải là Đấng Kitô, nhưng tôi được sai đến trước Người. . . , Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
B- Suy gẫm (. . . nẩy mầm)
- Thánh Gioan Tiền hô dạy ta bài học phải biết đóng vai phụ. Ai mà không thích đóng vai chính. Nhưng trong một vở tuồng, vai chính chỉ cần một hai người, còn vai phụ thì rất nhiều. Nhiều khi nhờ các vai phụ đóng khéo mà vai chính được nổi bật lên.
- “Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải nhỏ đi” còn có nghĩa phải làm cho trong con người tôi phần của Chúa càng ngày càng lớn lên, và phần của xác thịt, của tội lỗi và của khuynh hướng xấu dần dần nhỏ bớt.
- Trên một chuyến tàu xuyên đại dương, vị giám mục kể cho một giáo sĩ trẻ mới ra trường về cuộc đời gian khổ của mình, rồi xin anh nói về ơn gọi của mình. Anh tự mãn trả lời: “Dễ thôi. Tất cả là Thiên Chúa cần con”.
Vị giám mục nói: “Này bạn trẻ, quả là trùng hợp! Như tôi nhớ, trong Thánh Kinh, chỉ có một lần Thiên Chúa nói Ngài cần một điều gì đó. Trong Lc 19, 34 trên đường vinh thắng vào Giêrusalem, Ngài nói Ngài cần một con lừa” (Góp nhặt).
- “Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm vui của tôi như thế là đầy đủ. ” (Ga 3,29)
‘‘Từ các hàng ghế đại biểu, chúng tôi chứng kiến những đôi mắt thấm đẫm niềm vui của hàng trăm thầy cô giáo, ban giám hiệu các trường dõi theo bước chân học trò mình lên nhận thưởng…” Bài báo khiến tôi lâng lâng một cảm giác khó tả. “Phía sau chùm hoa ấy… là dấu chân lặng thầm”. Thật vậy, phía sau những thành công và niềm vui của học trò là những đêm thức trắng, những tháng ngày lo lắng vun đắp của các thầy cô giáo. Quý thầy cô là những người tiên phong dọn đường cho thế hệ trẻ tiến bước, vươn cao và vươn lên mãi.
Ông Gioan Tẩy giả cũng là người đi trước dọn đường cho Chúa đến. Ngài lặng lẽ dâng trọn cuộc đời mình mở đường cho Chúa đến, để mọi người được phúc chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế.
Xin cho con luôn tìm được niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ tha nhân, khi dọn đường cho Chúa đến với các tâm hồn. (Epphata)
Suy Niệm 7: Gioan làm chứng về Đức Kitô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu cùng với môn đệ đến Galilê. Người làm phép rửa tại đó. Thánh Gioan cũng làm phép rửa gần bên. Nhưng dân chúng kéo theo Chúa Giêsu đông hơn, nên môn đệ Gioan ghen tức. Họ phàn nàn với ông: “Thưa Thầy, Người Thầy ca tụng đang làm phép rửa bên kia và dân chúng kéo theo ông ta. . . ”. Thánh Gioan liền trấn an họ và nói cho họ biết: Đó chính là Chúa Giêsu, là Đấng Thiên Sai. . . Tôi chỉ là người được sai đi trước để dọn đường cho Người. Một khi tôi đã làm xong sứ mạng đó thì tôi phải rút lui để cho Người được tôn vinh.
Trong lúc Chúa Giêsu và Gioan đang làm phép rửa, mỗi người một nơi và mỗi người có một số quần chúng ngưỡng mộ riêng, thì xảy ra một sự việc là việc Chúa Giêsu cùng làm phép rửa đã đưa đến một cuộc tranh luận và khiến các môn đệ Gioan ganh tức. Họ đến mách với ông Gioan, ngầm xin ông tỏ một thái độ ngăn cản hay chống đối nào đó với Chúa Giêsu.
Nhưng Gioan chẳng những không chống đối Chúa Giêsu, mà còn làm chứng về Ngài và đề cao Ngài: “Tôi đây không phải là Đức Kitô mà chỉ là kẻ được sai đi trước mặt Ngài. . . Ngài phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi”.
Đúng thế Gioan tự thú trước đây ông chưa biết Đấng Cứu Thế, mặc dầu ông là bà con với Chúa Giêsu. Nói như vậy chỉ có nghĩa là ông không biết hoặc biết không chắc chắn Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Ông chỉ được biết điều đó từ trên mạc khai cho, khi Đức Giêsu đến xin ông làm phép rửa cho, và chính Thiên Chúa đã báo cho ông biết qua tiếng nói từ trời: “Ngươi thấy Thần khí xuống và ngự trên ai, thì người ấy chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Khi đã biết đích xác Đức Giêsu là ai, ông bắt đầu làm chứng và khẳng định rằng: “Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Gioan biết đóng đúng vai trò của mình: ngài chỉ đóng vai phụ, còn Chúa Giêsu mới đóng vai chính. Khi vai chính xuất hiện thì vai phụ rút lui. Theo kinh nghiệm trên đời ai mà không muốn đóng vai chính. Nhưng trong một vở tuồng, vai chính chỉ cần một hai người, còn vai phụ thì cần rất nhiều. Nếu trong cuộc sống, người nào cũng đòi đóng vai chính thì ai sẽ làm vai phụ. Và kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong một vở tuồng nhiều khi nhờ các vai phụ đóng khéo mà vai chính được nổi bật lên. Gioan đã làm như thế trong sứ vụ của mình. Tất cả đều để cho Chúa được lớn lên.
Gương khiêm nhường của thánh Gioan Tẩy giả.
Ông là người khiêm tốn vì khi người ta hiểu lầm nên đã tôn ông lên làm Đấng Cứu Thế, nhưng ông xác nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế mà chỉ là người dọn đường cho Ngài, Đấng ấy cao trọng hơn ông đến nỗi ông không đáng cởi dây giày cho Ngài. Ông chỉ là là người đóng vai phụ, còn Đức Giêsu mới đóng vai chính. Bây giờ Đức Giêsu đến thì ngài phải rút đi cho vai trò của Đức Giêsu được tôn vinh. Vì thế Ngài đã nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.
Truyện: Một gương khiêm nhường khác
Mục sư tiến sĩ Spencer, nổi tiếng một thời, nhà thờ của ông chật ních những người, nhưng thời gian trôi qua, tín hữu của ông ít dần. Một vị mục sư trẻ đến ngôi nhà thờ bên kia đường, và ông đã thu hút hết đám đông dân chúng của ông mục sư Spencer.
Đêm nọ, trong ngôi nhà thờ của tiến sĩ Spencer chỉ có ít số người họp lại, ông nhìn xuống bầy chiên ít ỏi của mình và hỏi xem những người khác đi đâu hết rồi ?
Mọi người im lặng, ngượng ngùng, rồi một viên chức tế nhị đáp: “Tôi nghĩ rằng họ đã đến ngôi nhà thờ bên kia đường để nghe ông mục sư trẻ bên đó”.
Tiến sĩ Spencer im lặng trong phút chốc rồi mỉm cười nói: “Tốt lắm, vậy tôi nghĩ rằng chúng ta nên đi theo họ”. Rồi ông bước xuống toà giảng, dẫn số tín hữu qua bên kia đường.
Suy Niệm 8: Gioan Tẩy giả biết đóng vai phụ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
- Vâng! Một lần nữa chúng ta lại gặp ông Gioan. Ngày mai Chúa Nhật Chúa Giêsu chịu Phép Rửa chúng ta gặp lại ông một lần nữa. Có thể nói mỗi lần ông xuất hiện là mỗi lần ông để lại những dấu ấn rất đậm đà và đẹp đẽ nơi những người đến với ông. Ông quả là người xứng đáng với vai trò Tiền Hô của Chúa Cứu Thế.
Thực vậy, đang lúc mà tiếng tăm của ông lẫy lừng, người ta lũ lượt đến với ông, để xin ông làm Phép Rửa cho họ, rồi lại còn muốn suy tôn ông lên làm Đấng Messia, thì chính lúc đó ông đã không ngần ngại tuyên bố: “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” (Mt 3,3tt).
Gioan cũng không quên xác định thật rõ chỗ đứng của mình bên cạnh Đấng Messia: “Có một Đấng đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi và tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài” (Lc 3,16).
Ông làm tất cả những điều ấy với một mục đích duy nhất đó là để cho “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”. (Ga 3,30)
- Thánh Gioan Tiền Hô dạy cho chúng ta bài học phải biết đóng vai phụ. Trên đời ai mà không thích đóng vai chính. Nhưng trong một vở tuồng, vai chính chỉ cần một hai người, còn vai phụ thì cần rất nhiều. Nếu trong cuộc sống người nào cũng đòi đóng vai chính thì ai sẽ làm vai phụ. Và kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong một vở tuồng nhiều khi nhờ các vai phụ đóng khéo mà vai chính được nổi bật lên. Gioan đã làm như thế trong sứ vụ của mình. Tất cả là để cho Chúa được lớn lên.
Làm được như thế không phải là điều dễ dàng. Phải có một lòng khiêm nhường thẳm sâu mới có thể làm được như thế. Thế nhưng, để có được một tấm lòng khiêm nhường thì đâu phải là ai cũng làm được.
Trên một chuyến tàu xuyên đại dương, vị giám mục kể cho một giáo sĩ trẻ mới ra trường về cuộc đời gian khổ của mình. Sau đó, ngài xin anh nói về ơn gọi của mình cho ngài nghe. Người giáo sĩ trẻ tự mãn trả lời: “Dễ thôi. Tất cả là Thiên Chúa cần con”.
Vị giám mục nói: “Này bạn trẻ, quả là trùng hợp! Hình như tôi nhớ không sai là trong Thánh Kinh, chỉ có một lần Thiên Chúa nói Ngài cần một điều gì đó. À tôi nhớ ra rồi trong Tin Mừng của Luca (Lc 19,34) trên đường vinh thắng vào Jêrusalem, Ngài nói Ngài cần một con lừa” (Góp nhặt).
- Đoạn Tin Mừng hôm nay là do chính Gioan Tông Đồ ghi lại. Gioan Tông đồ đã từng là môn đệ của Gioan Tẩy Giả, được chính thầy mình giới thiệu nên đã đi theo Chúa Giêsu. Chính vì thế mà khi viết Tin Mừng, ông đã viết với một mục đích rất rõ ràng. Mục đích ấy là nhằm xác định vị trí của Gioan Tẩy Giả như là một người dọn đường cho Chúa Giêsu, chứ không có vị trí cao hơn. Nhiều người muốn tôn xưng Gioan Tẩy Giả là thầy, là Chúa, nhưng tác giả Gioan đã chứng minh Gioan Tẩy Giả mặc dù có một địa vị rất cao, rất trọng nhưng địa vị cao trọng nhất vẫn phải dành cho Chúa Giêsu. Điều này chính Gioan Tẩy Giả cũng khẳng định. Gioan Tẩy Giả khẳng định rằng, địa vị của ông không phải là đứng đầu mà ông chỉ được phái đến như người loan tin, đi trước dọn đường cho một Đấng cao trọng sắp đến. Gioan làm thế bởi vì ông luôn ý thức rằng, dù có làm một công tác thứ yếu cho Chúa thì công tác ấy đối với Chúa cũng hết sức quan trọng. Về vấn đề này thì Browning đã nói rất hay: “Với Thiên Chúa thì mọi công tác đều đồng hạng”. Bất cứ việc gì chúng ta làm cho Thiên Chúa cũng đều nhất thiết quan trọng.
Mục sư tiến sĩ Spencer, nổi tiếng một thời, nhà thờ của ông chật ních những người, nhưng thời gian trôi qua, tín hữu của ông ít dần. Một vị mục sư trẻ đến ngôi nhà thờ bên kia đường thu hút hết đám đông của ông. Đêm nọ, trong ngôi nhà thờ của tiến sĩ Spencer chỉ có số ít người họp lại, ông nhìn xuống bầy chiên ít ỏi của mình và hỏi:
– Những người khác đi đâu hết rồi?
Mọi người im lặng, ngượng ngùng, rồi một viên chức đáp:
– Tôi nghĩ rằng, họ đã đến ngôi nhà thờ bên kia đường để nghe ông mục sư trẻ bên đó.
Tiến sĩ Spencer im lặng trong phút chốc rồi mỉm cười nói:
– Tốt lắm, vậy tôi nghĩ rằng, chúng ta nên đi theo họ.
Rồi ông bước xuống tòa giảng, dẫn số tín hữu của mình qua bên kia đường.
Cuộc sống của chúng ta chắc sẽ thoát được rất nhiều điều xấu như ghen tị, bực tức, đố kỵ, bất mãn, nếu chúng ta nhớ rằng, sự thành công của người ta là do Thiên Chúa ban cho họ. Phần chúng ta, chúng ta hãy biết chấp nhận những giới hạn của mình, biết tôn trọng những cái hay cái đẹp Chúa ban cho người khác và cố gắng sống như lời Thánh Phaolô đã nói: “Ai cũng được miễn là Chúa Giêsu được vinh danh”.
Nếu tất cả mọi người trong chúng ta đều biết sống như thế, tôi tin là Thiên Đàng sẽ xuất hiện giữa chúng ta. Amen.