Các Bài Suy Niệm Trong Tuần từ Lễ Tro đến Thứ Bảy Sau Lễ Tro

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần từ Lễ Tro đến Thứ Bảy Sau Lễ Tro

 

THỨ TƯ LỄ TRO.

Thứ Năm sau lễ Tro 44

Thứ Sáu Sau Lễ Tro. 55

Thứ Bảy sau lễ Tro 67

THỨ TƯ LỄ TRO

Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.

Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

“Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con”.

 

SUY NIỆM 1: Cha hiện diện nơi kín ẩn

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Cứ đến Thứ Tư Lễ Tro là chúng ta lại được nghe bài Tin Mừng này.

Đức Giêsu nói đến ba việc đạo đức quan trọng của người Do Thái:

cầu nguyện, bố thí, ăn chay.

Chẳng phải cứ đợi đến Mùa Chay chúng ta mới làm ba việc đó.

Nhưng Mùa Chay là thời gian thuận lợi để ta tập trung chú ý hơn.

Tập trung vào cầu nguyện là làm mới lại tương quan với Thiên Chúa,

từ bỏ những gì làm tôi xa Chúa và dứt bỏ mọi tội lỗi quen phạm.

Tập trung vào bố thí là chia sẻ của cải cho những người nghèo hơn,

tự nguyện bỏ bớt một phần tiện nghi để giúp những ai đói khổ.

Tập trung vào chay tịnh là làm cho thân xác, tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng,

thoát khỏi những kéo xuống nặng nề, những cám dỗ sống hưởng thụ, ích kỷ.

Cả ba việc này có tương quan chặt chẽ với nhau.

Khi làm tốt một việc, ta sẽ dễ làm hai việc còn lại hơn.

Ăn chay giúp chúng ta hàn gắn lại tình bạn với Chúa,

và lớn lên trong sự thân mật đối với Ngài.

Ăn chay giúp ta tránh tội và tránh mọi thứ dẫn đến tội.

Ăn chay là thoát ra khỏi sự thèm muốn tự nhiên về cơm bánh vật chất,

để nếm cảm sự cần thiết của tấm bánh tinh thần.

Nhờ ăn chay con người thấy mình được tự do hơn để sống theo ý Chúa.

Khi chịu đói nơi thân xác, chúng ta sẽ thấy tim mình đói khát Thiên Chúa

và mong Ngài đến với ta để làm ta mãn nguyện.

Nhưng ăn chay cũng giúp ta mở mắt trước tình cảnh thiếu thốn của tha nhân.

Nhờ ăn chay, chúng ta không còn sống cho chính mình nữa,

nhưng biết sống cho Chúa và tha nhân.

Ăn chay giúp ta chế ngự được tính ích kỷ làm ta co lại,

nhờ đó ta có thể mở lòng ra trước nhu cầu của anh chị em mình

và chia sẻ cho họ điều mình đã tiết kiệm được từ ăn chay.

Ngay cả một người có hai áo cũng có thể chia sẻ được cho người trần trụi.

Người chỉ còn vài lon gạo cũng có thể chia cho người đang đói.

Chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình 40 ngày Mùa Chay.

Không phải chỉ là ăn chay, mà là sống chay.

Chay tịnh phải là một thái độ thấm vào cuộc sống.

Khi bớt nuông chiều những đòi hỏi ngày càng nhiều của thân xác,

chúng ta sẽ thắng được những cám dỗ của thèm muốn vô độ.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,

nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,

dễ thấy Chúa hiện diện

và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,

xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,

khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu

để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu

để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,

vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,

hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

 

SUY NIỆM 2: HÃY XÉ LÒNG

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.

Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.

Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.

Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.

Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,12b-13a).

Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.

Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.

Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?
  2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
  3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?
  4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?

 

SUY NIỆM 3: Một chương trình mùa chay

Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (Mt. 6,1)

Mùa chay là thời kỳ ăn năn trở lại và chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Thời kỳ ăn năn nghĩa là thời gian chúng ta cần phải đổi mới con tim và sửa đổi những thói hư tật xấu không phù hợp với yêu cầu của Tin mừng. Đó không phải là điều dễ dàng!

Chúng ta đã sống qua nhiều mùa chay với lòng chân thành mà vẫn không có kết quả, không làm cho chúng ta hoàn toàn đổi mới. Nếu chúng ta bắt đầu vào mùa chay với cảm nghĩ sẽ biến đổi hoàn toàn từ đầu tới đến ngày Phục sinh, chúng ta sẽ bị thất vọng. Ăn năn sám hối, thay đổi con tim của mình là công việc suốt đời. Cần phải cố gắng từng bước từng bước, không nóng vội. Phải tiến bước thế nào?

Tin mừng lưu ý chúng ta chú trọng về ba việc phải làm này: bố thí, ăn chay, cầu nguyện. Không có gì mới, không có gì cách mạng. Đó là lời khuyên có trong hầu hết các tôn giáo trước khi Đức Giê-su đến trần gian. Đức Giê-su không bãi bỏ các việc thực hành đó, mà còn khuyên làm.

Làm việc bố thí là chia sẻ cái gì mình có, chia sẻ tiền của, cơm áo dĩ nhiên nhưng còn chia sẻ thời giờ, trí thức, trái tim. Dùng thời giờ để đem yêu thương đến cho mọi người, nhất là người xấu số, dùng thời giờ làm việc giúp đỡ người khác.

Cầu nguyện: cầu nguyện ở nhà thờ, ở nhà mình. Hiến dâng thời giờ cho Chúa, tiêu hao thời giờ vì Chúa. Chúng ta không siêng năng cầu nguyện, thế là mất nhiều mối lợi to lớn rồi. Đức Giê-su thấy đó là mối lợi to lớn đối với Người, khi Người luôn luôn cầu nguyện với Đức Chúa Cha. Sao chúng ta không cậy trông Người để cầu nguyện.

Ăn chay: Không phải chỉ tinh luyện đời sống mình, mà còn tác tạo, bồi đắp cho ta lòng khao khát mến Chúa vô bờ. Ăn chay để khám phá, phát triển lòng ham thích cầu nguyện. Ăn chay để giúp cho những người khác những gì họ đang thiếu.

Đó là chương trình mùa chay xin đề nghị với chúng ta. Nó đã được ứng nghiệm bằng nhiều chứng nhân. Nó giản dị và vừa tầm tay mọi người. Không còn phương thế nào tốt hơn nữa. Thật vô ích khi tìm việc nào khác.

 

SUY NIỆM 4: Hãy thay đổi cách hành động

(Lm Tạ duy Tuyền)

Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Loại bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.

Omar nói rõ “Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động”. Ðó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiệt”.

Thế nhưng nhiều người vẫn còn tiếp tục hành động như Bin Laden. Người ta thường dùng roi dòn để đè bẹp người khác. Người ta dùng quyền bính để chèn ép người khác. Ở đời có mấy khi tìm được tiếng nói chung. Tiếng nói của cảm thông. Tiếng nói của tôn trọng nhân quyền, của sự tôn trọng lẽ phải. Người ta thường ỷ lớn bắt nạt bé. Người ta thường chà đạp lên nhau theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Người ta thường xuyên tạc tả đột hữu xung để lừa dối dư luận, để lấn át kẻ yếu, kẻ cô thế cô thân. Nếu cuộc đời không còn tiếng nói của lẽ phải, của công bằng thì chỉ còn tiếng than khóc của lầm than, của ai oán cơ hàn. Nếu ở đời người ta không còn lắng nghe nhau, không còn phân biệt phải trái, đó là nỗi bất hạnh cho kiếp người chúng ta.

Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: “Hãy sám hối”. Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Ðừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè. Ðừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Ðừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình. Ðừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp. “Hãy thay đổi cách hành động” cho xứng với nhân tính của một con người. Hãy thay đổi cách sống theo đúng với phẩm giá của những người mang danh là kytô hữu. Ðừng hành động mà không ý thức về hậu quả tai hại do việc làm của mình gây nên. Ðừng hành động nông nổi nhất thời, thiếu suy nghĩ để rồi làm khổ bản thân và gia đình của mình.

Vâng, có thể chúng ta không thảm sát người vô tội như Bin Laden, nhưng có thể vì đời sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình đã phá huỷ cuộc sống hạnh phúc của biết bao con người. Có thể chúng ta không quá khích như Bin Laden nhưng với lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình cũng là nỗi sợ hãi của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Có thể chúng ta không huấn luyện một đội binh hùng hậu chuyên đi giết người, nhưng có thể vì gương xấu của chúng ta đã lôi kéo biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện “xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ”, thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chẳng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện “xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ”. Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.

Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ “một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi”. Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Ðấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen.

 

SUY NIỆM 5: GIỮ CHAY THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?  (Mt 6,1-6.16-18)

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo.

Tuy nhiên, ý nghĩa của việc xức tro và ăn chay nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, mà không có tâm tình bên trong.

Nhân ngày thứ tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.

  1. Xức Tro

Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).

Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.

Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26).  Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết,  nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).

Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự chai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 – 22; x. Lc 10, 13).

Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.

Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?

  1. Ăn Chay

Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người (x. Ds 29,7; Cv 13,2),  (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc trừ Quỉ… (x. Mt 17,21).

Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).

Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).

  1. Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay

Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.

Có những người ăn chay, bố thí… chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ dột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay.

Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì trót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa…

Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”.

Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều… mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!

Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bỉu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ. Như vậy, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, hay giống chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành “danh hài” hay “con hề” trên sân khấu.

Thái độ khiển trách nặng nề những người Pharisêu của Đức Giêsu: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6), không chừng cũng chính là lời trách móc nặng nề cho những ai hôm nay giữ chay hình thức, hời hợt.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo” (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Thiên Chúa … vì bây giờ là cơ hội thuận tiện” (x. 2 Cr 5, 20 – 6, 2).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống tinh thần của ngày lễ hôm nay đó là: “Xé tâm hồn chứ đừng xé áo”. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

SUY NIỆM 6: Hoán cải nội tâm

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.

Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.

Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.

Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).

Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 7: HOA VÀ RÁC

(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Những ngày gần Tết, hoa và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Đến Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hoa đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.

Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:

Đời sống con người giống như hoa cỏ

Như bông hoa nở trên cách đồng

Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi

Nơi nó mọc không còn mang vết tích.

Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:

 “Phù hoa nối tiếp phù hoa,

chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).

Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.

Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.

Sách Giảng Viên viết rằng: “Tất cả chỉ là phù vân”. Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:

“Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau”(Nguyễn Du).

Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:

”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.

 Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi”(Ca dao).

“Bèo dạt, mây trôi đành với phận”(Chu Mạnh Trinh)

Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?

Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.

Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).

Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.

Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).

Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi”. Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui…, anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?

Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.

Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!

Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.

Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.

Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.

Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.

Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.

Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.

Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.

Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.

Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.

Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.

Con người là “hoa” và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, chúng ta sống một Mùa Chay thánh thiện.

 

SUY NIỆM 8: SỨ ĐIỆP CỦA TRO – Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ðây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.

Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?

  1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.

Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.

Lời kinh Thánh nhắn nhủ: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!

  1. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn

Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt.

Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Afghanistan…

Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.

Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ðức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!

Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.

  1. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.

Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.

Ðời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác“.

Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sự sống đời mình!

 

SUY NIỆM 9: Ý NGHĨA CỦA LỬA VÀ TRO – Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng

Lửa và tro là hai biểu tượng ghi dấu để bước vào Mùa Chay. Nhúm tro tàn một cách bột phát gợi lên sự sầu khổ thiêng liêng, sự điêu tàn. Nhưng ở đây, người ta thấy sự khởi đầu một sự bắt đầu lại, một sự sám hối. Đó là nội dung bài chia sẻ của Đức Hồng Y Pierre Eyt cho các bạn trẻ về ý nghĩa Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa Thánh Anrê, giáo phận Bordeaux, Pháp.

Thứ Tư lễ Tro không phải chỉ là ngày hôm sau của Thứ Ba Béo. Trước tiên, nó không phải là một ngày mang nét dân gian. Thứ Tư lễ Tro đối với các Kitô hữu là dịp bước vào Mùa Chay. Nó diễn tả một con đường thiêng liêng, được biểu hiện và hỗ trợ bởi những dấu chỉ, những biểu tượng như lửa và nhúm tro xức trên trán.

Hình ảnh lửa mà chúng ta sẽ lại thấy trong đêm Vọng Phục Sinh có ý nghĩa là chúng ta muốn thiêu đốt những gì cản bước chúng ta, và rồi chúng ta muốn hủy diệt tội lỗi vốn làm cho con người bị tổn thương và dị dạng. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-11). Lời gọi thật rõ ràng. Nó chứa đựng lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: « Hãy sám hối ». Điều này còn có nghĩa là thay đổi tinh thần, thay đổi tâm hồn, thay đổi não trạng. Tất cả những ích kỷ, lười biếng, lề mề, tham lam, giận dữ, bạo hành, kiêu ngạo là những thứ cần phá hủy và thiêu rụi.

Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về tội. Làm thế nào để dũ bỏ nó? Chúa Giêsu dạy bảo trong Tin Mừng rằng chúng ta sẽ là những kẻ chiến thắng tội lỗi khi biết thay thế lửa của sự xấu bằng lửa của Tình Yêu. Bởi vì, trước tiên lửa ở đây bừng cháy để thiêu hủy, nhưng cùng lúc nó còn chiếu sáng, sưởi ấm, củng cố, hướng dẫn và động viên. Như một ngọn lửa sống động, Đức Kitô là ánh sáng, là hơi ấm, là tiếng gọi, là sự an ủi. Ước chi ngọn lửa này tiếp tục bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.

Tro được xức trên trán đối với chúng ta còn minh nhiên kêu gọi sám hối, nói cách chính xác là bằng con đường khiêm nhường. Nắm tro là những gì còn lại sau khi ngọn lửa thiêu rụi chất liệu mà nó đã chiếm lĩnh hoàn toàn. Chúng ta nhận thấy rằng khi có những nắm tro tàn, điều đó hẳn là không còn gì nữa từ cái mà đã bị lửa thiêu hủy. Đó còn là hình ảnh về sự nghèo khó của chúng ta. Nhưng tro cũng còn có thể làm cho đất đai màu mỡ, giúp tái tạo thiên nhiên và sự sống có thể tái sinh dưới đống tro tàn.

Khi chúng ta lưu ý đến những gì mang ý nghĩa từ tro tàn là chúng ta được dẫn vào bí tích giao hòa và thống hối. Nói rằng mình có tội là để được đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nói rằng chúng ta hung bạo và hối tiếc về điều ấy, rồi ăn năn hối lỗi là để đến lượt mình chúng ta cũng biết bắt chước Thiên Chúa trong việc tha thứ. Bí tích giao hòa định hướng nội tâm, cũng giống như ngọn lửa có thể soi tỏ cho chúng ta từ bên ngoài trước bóng đêm tội lỗi. Do đó, con đường Phục Sinh nhìn bề ngoài gồm sáu tuần lễ và bốn mươi ngày của Mùa Chay, nhưng cách đặc biệt còn là con đường của trái tim, con đường của nội tâm, con đường của sám hối.

Lửa, tro, thống hối…nói lên sự phá bỏ và thiêu rụi « con người cũ », nhưng một điều rất rõ ràng, người ta chỉ hủy bỏ và thiêu rụi để thay thế bằng cái khác. Vậy thì tất cả nghĩa cử, hành động, và dấn thân mà Giáo Hội đề nghị thực hành cho Mùa Chay mà trong Tin Mừng chính Đức Giêsu đã giảng giải cho chúng ta về tính khẩn thiết như: bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Điều này đề cập đến việc xây dựng lại những gì đã bị phá hủy. Đó chính là xây dựng bằng ân sủng của Đức Kitô, và bằng cách đưa bàn tay của mình cho Ngài dẫn dắt. Đó còn là xây dựng bằng Thần Khí của Đức Kitô tác tạo nên con người mới. Ở đó hội tụ ba phương hướng mà Tin Mừng nói với chúng ta: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh.

 

SUY NIỆM 10: CON LÀ THÂN TRO BỤI – Lm. Giuse Đinh lập Liễm

Hôm nay là Thứ Tư lễ Tro, ngày khai mạc Mùa Chay thánh. Theo lời thánh Phaolô: ”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cr 6,2b)). Mùa Chay giúp chúng ta thực hành tinh thần thống hối, điều chỉnh lại hướng đi của mình và biết quay trở về với Chúa.

Mỗi người được xức tro trên đầu để chỉ sự khiêm nhường thống hối. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa việc xức tro, đồng thời cầu xin Chúa giúp sức để thi hành trong Mùa Chay này những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.

  1. TÓM TẮT VỀ LỄ TRO

Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.

Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.

Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.

Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15).

  1. Ý NGHĨA VIỆC XỨC TRO
  2. Tro chỉ sự thống hối.

Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhâm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.

Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi, quyết tâm làm điều lành, lánh sự dữ.

Tro là tập tục biểu hiệu của lòng ăn năn sám hối bên Trung Đông. Theo tập tục bên Do thái, trong Kinh Thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ làm nước tẩy uế (Ds 19,9). Ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18,27). Rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do thái (2Sm 13,19; Mac 3,47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa (Eth 4,1; Mt 11,21).

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con ngươi sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.

  1. Tro chỉ sự chóng qua.

Việc xức tro mời gọi chúng ta ý thức về thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay, nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhở ta về thân phận và kiếp người mỏng dòn ấy: thân phận con người là tro bụi.

 Trong lễ an táng, chúng ta thường hát bài thánh vịnh đáp ca 102. Bài thánh vịnh nói lên sự mong manh của kiếp con người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn, không có gì là bền vững:

Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,

Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

Một cơn gió thoảng là xong

Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102, 15-16)

Thi sĩ Nguyễn Khuyến, nhìn cuộc đời chóng qua của kiếp người cũng phải kêu lên bằng những hình ảnh sống động:

Ôi! nhân sinh là thế ấy!

Như bóng đèn, như mây nổi,

Như gió thổi, như chiêm bao!

Trong bài “Cát bụi” nhạc sĩ Trịnh công Sơn cũng nói lên kiếp mong manh của con người: Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hóa kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Một vòng quay. Trăm năm một kiếp người có là mấy: ”Chợt một chiều tóc trắng như vôi”…

Trịnh công Sơn không bi quan. Ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao! Sự sống cao quí biết bao! Nhưng cũng chỉ như một “đóa hoa vô thường” như tên gọi của một bài hát khác của ông. Đó là thực tế, nhìn nhận đúng thực tế đó, đối diện với nó một cách can đảm có thể đưa đến một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích hơn.

Tro không những chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm, mà còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của Đức Giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro để nhắc nhở vị tân Giáo hoàng với câu: ”Sic transit mundi gloria”: vinh quang thế gian cũng mau qua như thế.

  1. Tro nhắc nhở về sự chết.

Trong Cựu ước, tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi và sẽ phải chết: ”Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19. x. Gb 34,4; Gr 6,26; Is 58,5).

Chết là án lệnh của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Người sẽ trở về với bụi đất”(St 3,19). Vì thế không ai có thể tránh được cái chết.

Người Á Đông quan niệm: con người phải trải qua 4 giai đoạn là sinh, lão, bệnh, tử. Có người thoát được lão và bệnh vì chết quá sớm, còn không ai thoát được tử, vì đã có sinh thì phải có tử, sinh tử luôn nối kết với nhau.

Kinh nghiệm ngàn đời đã giúp ông Văn Thiên Trường suy nghĩ về cuộc sống mong manh của con người nên đã phát biểu ý kiến bằng một câu để đời:

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

Ngàn xưa, người thế ai không chết,

Chết, để lòng son rạng sử xanh.

Vì thế, trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Do đó, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martinô thành Tours ở bên Pháp đã nói: ”Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó con trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.

Chớ gì việc xức tro trên đầu khiến cho chúng suy nghĩ về sự chết để biết dọn mình sẵn sàng vì giờ chết đến như kẻ trộm, luôn có tinh cách bất ngờ như người ta nói:

Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.

Ai cũng mong đời sống của mình được trở thanh “cây bách niên” (agavé). Người ta cho biết: cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng. Trong một thế kỷ cây ấy đã sửa soạn cho cái ngày tươi đẹp ấy, nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy. Cả một thế kỷ! Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó.

III. MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI

Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.

Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.

  1. Hãy cầu nguyện.

Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22,42; Ga 11,41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13).

Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.

Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.

Thế nào là cầu nguyện?

Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…

Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.

Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.

Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.

Truyện: Con chỉ nghe.

Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:

– Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.

 – Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?

 – Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!

Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:

– Tôi nói, Chúa nghe.

– Chúa nói, tôi nghe.

– Không ai nói, cả hai cùng nghe.

– Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.

Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:

Nước mắt nói lời của mắt,

Hương hoa nói lời của hoa,

Lặng im nói lời đôi ta!

Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.

Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu!

  1. Hãy ăn chay

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích?

Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói” (Mt 4,1-2).

Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34,28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19,8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.

Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.

Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3,7-8; Samuel 14,24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.

Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.

Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:

– Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.

– Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.

– Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.

Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.

Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa”?

“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).

Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị” để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).

Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:

“Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối” (Tục ngữ).

  1. Hãy làm phúc bố thí.

Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.

Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4,7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.

Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.

Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).

Truyện: Cho đi tất cả.

Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:

– Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.

Người hành khất đáp:

– Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.

Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.

Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần

Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.

Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.

Làm sao có thể chọn yêu thương khi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ?

Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).

Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.

 

SUY NIỆM 11: Các việc đạo đức

Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.

Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia.

Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.

Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành.

Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 12: LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỨ TƯ LỄ TRO

LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.

  1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro

Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: “Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay” (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.

Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là “Đầu Mùa Chay” (Caput ieiunii), hay ” Đầu Mùa ăn chay 40 ngày” (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.

Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.

Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài “Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên” (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).

Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: “Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi” (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng” (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu “tro” đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: “Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời” (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).

  1. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: “Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.

Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.

Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.

Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.

 

SUY NIỆM 13: MÙA CHAY VÀ ƠN CỨU ĐỘ – ĐGM. Bùi Tuần

Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.

Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:

Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,

Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,

Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,

Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,

Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,

Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…

Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.

Vậy ơn cứu độ là gì?

Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.

Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.

Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.

Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.

Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.

Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.

Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.

Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.

  • Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
  • Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.

Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).

  • Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).

Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).

Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).

Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.

Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).

Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).

Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.

Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.

Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.

Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.

 

SUY NIỆM 14: BỤI TRO

Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:

– Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.

Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.

Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:

– Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.

Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.

Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:

– Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.

Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?

Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.

Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.

Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.

Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:

– Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.

Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.

Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.

Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.

 

SUY NIỆM 15: HOÁN CẢI

Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.

Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.

Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.

Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:

– Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.

– Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.

– Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.

Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.

Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:

– Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.

– Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.

Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:

– Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.

– Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.

– Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:

Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó. Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.

Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.

 (Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)

 

SUY NIỆM 16: ĂN CHAY CÁCH NÀO MỚI ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA? – JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
  2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
  3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?

Suy tư gợi ý:

  1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo

Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.

  1. Trước hết, ăn chay – thường đi đôi với hãm mình – là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.
  2. Ăn chay – phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái – là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
  3. Ăn chay – phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm – để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.

Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.

  1. Tinh thần chay tịnh

Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).

Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.

Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.

Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.

  1. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.

Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.

 

SUY NIỆM 17: HÃY XÉ LÒNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.

Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.

Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

 Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.

Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.

Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.

Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.

Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.

Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.

Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.

 

SUY NIỆM 18: MẦU TÍM TRONG PHỤNG VỤ MÙA CHAY

(Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long)

Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.

Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.

Mầu tìm có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin chúng ta?

Mầu tím là hỗn hợp pha trộn của hai mầu đỏ và xanh chung nhau.

Mầu tím nói về sự ăn năn thống hối trở về đường ngay lối chính.

Mầu tím dùng trong Phụng vụ cho mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng sinh nhập thể làm người, cho mùa chay chuẩn bị đón mừng lễ Chúa sống lại từ cõi chết, cho nghi lễ cử hành bí tích hòa giải thống hối, cho lễ nghi rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời, và cho nghi lễ an táng người qua đời.

Trong mùa chay, phẩm phục phụng vụ dùng mầu tím muốn diễn tả: đời sống cũ của con người sụp tàn qua đi, và đời sống mới trong con người nẩy mầm mọc lên.

Đúng như vậy, mầu tím diễn tả sâu xa khía cạnh sụp đổ suy tàn, sự qua đi, sự cởi bỏ của con người cũ, nó khơi lên sự sầu buồn, nhớ nhung mong chờ.

Nhiều người nghĩ rằng mầu tím gợi lên tâm tưởng bất an, gây suy nghĩ bối rối. Có người cho rằng mầu tím đóng vai trò trung gian trình bày giữa trời và đất, giữa đam mê khát vọng và thông minh của trí khôn, giữa tình yêu mến và sự khôn ngoan.

Giáo Hội nhìn nơi mầu tím là mầu nối kết giữa mầu xanh và mầu đỏ. Mầu xanh nói chỉ về trời, còn mầu đỏ nói chỉ về con người.

Mầu tím dùng trong phụng vụ mùa chay muốn nói lên ý nghĩa: Thần linh Thiên Chúa liên kết với con người, cùng tìm cách thấm nhập vào thân xác máu mủ của họ.

Mùa chay không chỉ nguyên là thời thời gian hãm mình kiêng khem, nhưng còn là thời gian tinh luyện tẩy rửa cho trở nên tinh ròng thanh sạch, thân xác hướng về Thiên Chúa nơi trời cao, như mầu đỏ hoà lẫn chung hợp với mầu xanh.

Trong lễ an táng người qúa cố vị chủ tế mặc phẩm phục lễ nghi mầu tím muốn nói lên niềm hy vọng, người qúa cố với cả thân xác linh hồn đi về với Thiên Chúa, trời và đất liên kết lại với nhau, đất được cất nhắc đưa lên trời cao.

Mầu tím trong phụng vụ mùa chay nói lên ý nghĩa cánh cửa mầu nhiệm chết, sự đau buồn mở sang nếp sống mới: sự sống lại của Chúa Giêsu là ơn cứu chuộc cho con người.

 

Suy Niệm 19: Tro bụi

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè phung phí hết tiền của. Cùng đường, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương xót. Người cha gửi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ “về” và kí tên cũng chỉ một chữ “cha”.

Tin Mừng của Chúa cũng là bức điện tín gửi cho thế giới đầy tội lỗi này, với một chữ “về” và một chữ kí “cha”. Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha…

Suy niệm

Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro… tro bụi. Bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi” để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi (x. Kn 15,10; Ed 28,18), sự mỏng giòn của con người, sự khiêm tốn (St 18,2), nỗi đau khổ (x. G 42,6; Gn 3,6; Gdt 4,11-15; Ed 27,30; Mt 11,21) và cả sự thống hối ăn năn (x. Gn 3,6; G 42,6).

Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng thứ Tư Lễ Tro – ngày được gọi là ngày “bụi tro” bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Ðức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590 – 604). Ngày “bụi tro” có nguồn gốc từ “Dies Cinerum” trong sách Lễ Rôma và được tìm thấy trong quyển sách Lễ Grêgôriô. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng giòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm. Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây phương vào thế kỷ X, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo hội tại Công đồng Bênêventô năm 1091.

Khi xức tro lên trán người tín hữu, thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19), hay thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đời sống theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).

Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với dấu thánh giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người tín hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được trở nên con cái của Thiên Chúa (x. Rm 6,3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết trên thập giá và phục sinh, con người sẽ tham dự vào vinh quang với Ngài. Cho nên, việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Giêsu Kitô khải hoàn.

Vì thế, xức tro trên trán là nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá… với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với dấu thập giá – trở nên dấu vinh quang…

Mang tâm tình sám hối trong Mùa Chay, người tín hữu làm việc bác ái, cầu nguyện và chay tịnh. Nhưng Chúa dạy hãy làm với sự khiêm nhường và làm cách kín đáo chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời.

Ý lực sống: Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: “Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hãy nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale – Phục sinh: Một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh” (Enzo Bianchi, Donner sens au temps, Bayard, 2004).

 

Suy Niệm 20: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Các việc đạo đức nhằm thể hiện tinh thần bác ái, cầu nguyện, làm chủ bản thân. Mùa chay giúp ta làm các việc ấy cách thật lòng trước mặt Cha, với ý hướng thi hành Thánh Ý Cha.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cùng với toàn thể Hội Thánh, con bước vào mùa chay để sám hối trở về cùng Chúa. Con tạ ơn Chúa đã cho con thời gian thuận tiện này để duyệt xét lại cuộc đời và chấn chỉnh những thiếu sót, lệch lạc, thái quá. Con đặt mình trước Tôn Nhan Chúa, xin Chúa chiếu dọi ánh sáng của Chúa để con nhìn rõ con người của con. Và nhất là xin Chúa ban ơn nâng đỡ sự yếu hèn của con. Chỉ có ơn Chúa mới có thể làm cho con chỗi dậy trở về với Chúa để canh tân đời sống.

Xin Chúa giúp con biết sống tinh thần bác ái của Chúa. Con thường sống khép kín, ích kỷ, thường bỏ rơi, xúc phạm đến chính Chúa đang hiện diện nơi anh chị em con. Đôi lúc con làm được vài việc bác ái, nhưng lại muốn hãnh diện phô trương. Xin Chúa mở rộng trái tim con để con yêu mến tha nhân cách chân thành và quảng đại.

Lạy Chúa, xin dạy con biết sống tinh thần cầu nguyện. Con không muốn dừng lại ở vài câu kinh hoặc những hình thức lễ nghi, nhưng con muốn đi sâu vào lòng Chúa và kết hợp mật thiết với Chúa. Xin Chúa tỏ Tôn Nhan Chúa cho con, xin cho con cảm mến sự ngọt ngào được sống trong Chúa.

Và sau hết, trong mùa chay này, xin Chúa giúp con chế ngự bản thân. Bao nhiêu những đam mê lệch lạc, vị kỷ, thấp hèn, bao nhiêu những khuynh hướng xấu, xin Chúa giúp con loại bỏ tất cả. Xin Chúa dạy con sống tinh thần hy sinh, từ bỏ theo gương Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy thánh hoá con. Amen.

Ghi nhớ: “Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.

 

Suy Niệm 21: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy về 3 việc đạo đức tiêu biểu mà người do thái thường làm, đó là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Qua 3 việc tiêu biểu này, chúng ta có thể hiểu về tất cả những việc đạo đức khác.

  1. Khi làm, đừng quá chú trọng đến vẻ bề ngoài của những việc đó (“khua chiêng đánh trống”, “trong hội đường hay ở ngã ba đường”, “làm cho ra vẻ thiểu não”)
  2. Đừng làm để được người ta khen (“cốt để người ta khen”, “cho người ta thấy”, “để thiên hạ thấy là chúng ăn chay”)
  3. Mà hãy làm cách kín đáo (kín đáo: không có nghĩa là dấu diếm người ta, mà là không có ý khoe khoang) nhưng và chỉ cốt làm vui lòng Cha trên trời.

B…. nẩy mầm.

  1. Trong Mùa Chay, chẳng những ta gia tăng những việc đạo đức (phương diện lượng) mà còn phải lưu ý làm những việc đó với tâm tình sốt sắng hơn (phương diện phẩm).
  2. Một việc đạo đức đang đi vào quên lãng, đó là Bố Thí. Giá trị của việc bố thí: a/ “Đồng tiền liền khúc ruột”, do đó bố thí có giá trị hy sinh lớn ; b/ Bố thí giúp ta bớt dính bén tiền bạc ; c/ Bố thí còn là một cách đền tội: Sách Tôbia nói “Việc bố thí thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi” (Tb 12,8-9).
  3. Rượu chè: Khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:

– Ông đang trồng cây gì thế ?

– Cây nho.

– Nó có lợi gì không ?

– Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.

– Vậy thì để tôi giúp ông.

Satan mới giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Noe lấy trái nho làm rượu.

Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên ; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử ; Nếu chưa ngưng mà còn uống thêm thì sẽ ngu như lừa ; nếu lại uống nữa thì… hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).

  1. Chỗ ở của chuột: Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một tòa giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi”. Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm. “Ô thế bạn ở đâu vậy ?” “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo”. (Trích “Món quà giáng sinh”)
  2. “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh” (Mt 6,4)

– Bố ơi, sao Thứ Tư Lễ tro năm trước, chúng ta không ăn chay kiêng thịt ?

– Thứ Tư Lễ tro năm trước vào đúng mồng Ba Tết. Thứ Sáu mồng Năm Tết, chúng ta đã ăn chay kiêng thịt bù lại đó.

– Bên Tây người ta ăn tết chỉ có ngày mồng Một thôi.

– Nhưng chúng ta là người Việt. Vả lại cứ cho con là giữ được, nhưng còn những người khác ?

Tôi thấy Hội Thánh thật dễ thương, thật đẹp. Trước đây, có lúc tôi thấy luật lệ Hội Thánh sao khắt khe quá. Tôi nghĩ Hội Thánh không khác gì ông bố già khó tính độc đoán. Nhưng qua các sự kiện, tôi thấy rõ Hội Thánh là người mẹ hiền lo lắng mọi thứ cho con cái. Hội Thánh lo cho tôi hơn chính tôi. Tôi cảm thấy tin tưởng ở luật lệ Hội Thánh hơn, dù có nhiều điều chưa hiểu. Hội Thánh là người mẹ âu yếm tôi, nhưng cũng là người thầy dẫn dắt tôi. Thực ra Chúa mới là người lo liệu quan phòng tất cả.

Lạy Đấng thấu suốt những gì kín đáo, xin cho con luôn ý thức chân lý này và cố gắng sống, để việc sám hối và canh tân của con phù hợp với Tin Mừng. Xin cho con có tâm hồn biết lắng nghe, để đôi tay con biết phục vụ như Đức Kitô. (Epphata)

 

Suy Niệm 22: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Ăn chay là một hình thức thực hành tôn giáo đã có từ lâu đời. Xưa kia ăn chay còn kèm theo đánh tội, mặc áo nhặm nữa. Có nhiều người thắc mắc tự hỏi: tại sao phải ăn chay. Tại sao phải hành hạ thân xác như thế ? Có phải Chúa độc ác đến độ vui sướng khi thấy con người bị hành hạ hay sao ? Chắc chắn không phải như thế. Vậy tại sao ăn chay ?

Theo thánh Tôma tiến sĩ, ta có 3 loại kẻ thù là: ma quỉ, thế gian và xác thịt. Nếu có ai hỏi trong ba loại kẻ thù đó, loại nào nguy hiểm nhất, có lẽ không ai ngần ngại trả lời đó là ma quỉ. Quả thực ma quỉ rất hiểm độc, xảo trá. Tuy nhiên, dù hiểm độc đến đâu ma quỉ vẫn luôn ở ngoài ta.

Cả thế gian cũng thế, dù ở gần gũi ta, dù có ảnh hưởng lớn trên ta, nhưng thế gian vẫn luôn ở ngoài ta. Chỉ khi nào ta đồng ý, ma quỉ và thế gian mới đột nhập được vào cung cấm linh hồn.

Ở đây xác thịt đóng một vai trò quan trọng. Vì xác thịt ở trong ta, thiết thân với ta. Khi mạnh mẽ, xác thịt là người lính canh tốt, là phương tiện phục vụ linh hồn. Nhưng khi yếu đuối, xác thịt thống trị linh hồn. Và tệ hơn nữa, khi ưng thuận với ma quỉ và thế gian, xác thịt trở thành kẻ nội thù, đánh phá ta ngay từ bên trong. Vì thế xác thịt là nguy hiểm nhất.

Thường không ai muốn sự xấu. Không ai muốn phạm tội. Người ta phạm tội hầu hết vì yếu đuối. Vì yếu đuối nên nghe theo ma quỉ, thế gian. Vì yếu đuối nên đồng ý cho ma quỉ, thế gian xâm nhập tâm hồn. Vì yếu đuối nên để ma quỉ, thế gian lèo lái tâm hồn. Muốn chống trả được sự dữ linh hồn phải mạnh khỏe. Muốn mạnh khỏe phải rèn luyện. Mùa chay chính là một thời gian thuận tiện để rèn luyện. Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra cho ta chương trình 3 điểm để rèn luyện trong mùa Chay. Đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.

Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn. Ăn uống là nhu cầu sơ đẳng của con người. Làm chủ được nhu cầu sơ đẳng là bước đầu tiến đến làm chủ bản thân. Chế ngự được cơn đói dẫn ta đến chế ngự dục vọng. Quen nói không với bản năng thấp hèn, ta sẽ biết mạnh dạn từ chối những cám dỗ xấu. Quen tự chế ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Biết từ bỏ ý riêng ta sẽ vươn lên cao trên bậc thang thánh thiện.

Cùng một ngày Darwin sinh ra [12/02/1809 ], một túp lều không ai biết đến, ở khu rừng rậm thuộc tiểu bang Kentucky, một đứa nhỏ khác cũng cất tiếng chào đời. Cha đứa nhỏ này là lão tiều phu nghèo khó Lincoln, và đứa nhỏ được đặt tên là Abraham. Chính đứa nhỏ này cũng vì khổ cực mà đã cố gắng tự rèn luyện để trở nên người. Nếu Abraham Lincoln sinh vào một gia đình quý phái, được vào học tại Đại học đường Harvard, được hưởng một lạc thú gia đình hoàn toàn, có lẽ ông đã chẳng thốt ra những lời nhiệt thành, tự đáy lòng, khi ông tái cử Tổng Thống Hoa Kỳ: “Tôi sẽ cố không xử ác với bất cứ ai và sẽ đại lượng, bác ái với mọi người”.

Cầu nguyện là phương thế không thể thiếu cho người muốn nên thánh. Nếu nên thánh là sống thân mật với Chúa thì cầu nguyện giúp ta đạt được điều này. Cầu nguyện càng sâu xa ta càng thân thiết với Chúa. Chúa là nguồn sức mạnh. Ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ. Chúa là nguồn thánh thiện. Ai thân thiết với Chúa sẽ có tâm hồn nhẹ nhàng siêu thoát mọi dính bén trần tục.

Dale Carnegie thuật lại: “nam tử võ sĩ” Jack Dempsey: không bao giờ quên tụng niệm trước khi ngủ; không bao giờ ăn mà không cám ơn Thượng Đế; trong khi thao luyện chờ lên võ đài, không ngày nào chàng không cầu nguyện và lúc sắp ra đấu, luôn luôn đọc kinh chờ tiếng chuông rung để mở hiệp đấu. Chàng nói: “Cầu nguyện giúp cho tôi có can đảm và tự tin”.

“Nam tử” Commie Mark cũng tụng kinh trước khi ngủ.

“Nam tử” Edward R. Steltinus, trước là nhân viên cao cấp của hãng General Motors và hãng United States Steel, lại có lần làm bộ trưởng nữa, nói rằng ông tụng kinh sáng và tối để được sáng suốt trong hành động.

“Nam tử” J. Pierpont Margan, một trong những nhà tài chánh đại tài, buổi chiều thứ bảy thường một mình lại nhà thờ Trinity ở đầu đường Wall Street quỳ gối cầu nguyện.

Khi “Nam tử” Eisenhower bay qua Anh để thống lĩnh liên quân Cường quốc chống Đức, chỉ mang theo một cuốn sách, cuốn Thánh Kinh.

Tưởng Giới Thạch và Đại tướng Montgomery cũng vậy. Nelson trong trận Trafagar cũng vậy. Đại tướng Washington, Robert E. Lee, Stonewall Jackson và cả chục quân nhân có danh tiếng khác cũng vậy, cũng vậy hết.

Tụng niệm tức là cầu ở Thượng Đế nguồn khí lực vô biên để tăng khí lực của ta… Nhờ vậy, tinh thần lẫn cơ thể của ta được trong sạch, mạnh mẽ hơn. Chẳng có người nào, đàn ông hay đàn bà, dù chỉ tụng niệm có một lát, mà không được kết quả tốt”.

Mẹ Têrêsa nói: “Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tấm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.

Làm việc bác ái. Tình yêu Chúa thực sự sẽ được thể hiện trong tình yêu mến anh em đồng loại. Tập làm việc bác ái giúp ta thêm lòng yêu mến Chúa. Quen nghĩ đến người khác giúp ta biết từ bỏ mình. Biết cảm thương trước những cảnh nghèo cảnh khổ sẽ giúp ta biết chia sẻ, xây dựng một xã hội huynh đệ, hòa bình.

 Đã bao mùa Chay trôi qua, nhưng ta chưa tiến bộ bao nhiêu trên đường thánh thiện. Năm nay, ta hãy quyết tâm sống mùa Chay với chương trình cụ thể 3 việc mà Chúa đã dạy.

 Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao rực sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Đang khi ông chuẩn bị lên đường thì một em bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thầy trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao càng dốc và khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thầy trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thầy uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, thầy ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám uống. Uống nước xong, em bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thầy. Thầy ẩn tu len lén ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thầy đã không biết hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thầy thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thầy biết thương người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

Vâng! Hãy có chương trình ăn chay bằng hãm dẹp những tính mê nết xấu. Hãy gia tăng thời gian cầu nguyện sống bên Chúa. Hãy bớt chi tiêu để chia sẻ với những anh chị em đói nghèo. Nếu có một chương trình cụ thể và siêng năng thực tập những việc đạo đức nói trên, chắc chắn ta sẽ tiến bộ rất nhiều sau mùa Chay này. Ta sẽ được nhiều ơn Chúa và sẽ mừng lễ Phục sinh tràn đầy niềm vui thánh thiện.

Với nghi thức xức tro bây giờ, tôi long trọng khai mạc mùa Chay thánh năm 2020. Ước gì mùa Chay năm nay đem đến cho anh chị em phúc lộc dồi dào của Chúa qua những thực hành đạo đức ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.

Đến đây, ta hãy ngừng lại và rút bài luân lý thực hành của những trường hợp kể trên. Nếu chưa bao giờ bạn làm được ly nước ngon lành bằng trái chanh số phận đã mang lại, thì bạn cũng thử xem nào ? Bạn hãy cố gắng, vì rủi có thua, bạn cũng chẳng mất gì, nhưng nếu được thì bạn sẽ vô cùng hạnh phúc. Bạn phải cố gắng vì hai lẽ: một là ít ra bạn còn có cơ thành công, hai là dù thất bại đi chăng nữa, sự cố gắng của bạn để chuyển bại thành thắng đã bắt bạn nhìn thẳng vào tương lai mà quên đi dĩ vãng. Bạn sẽ có những lý tưởng thiết thực và nghị lực sáng tác sẽ trỗi dậy kích thích bạn làm việc, đến nỗi bạn không còn thì giờ mà nghĩ vơ vẩn, bới đống tro tàn của thời qua.

 

Thứ Năm sau lễ Tro

Lời Chúa: Lc 9, 22-25

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.

Chúa nói với mọi người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”

 

SUY NIỆM 1: Vác thập giá mình hằng ngày

Khi nhìn các bạn đi dự Ngày Giới trẻ Thế giới ở Úc năm 2008

giành nhau chung vai vác cây thánh giá bằng gỗ, thật dài và nặng,

với vẻ mặt hớn hở vui tươi,

chúng ta sẽ dễ nghĩ rằng vác thánh giá đâu có gì khó.

Nhưng khi phải đối diện với những thánh giá không bằng gỗ,

những thánh giá vô hình mà ta phải vác một mình,

chúng ta thấy khó hơn nhiều.

Không thể nói đến Đức Giêsu mà không nói đến thánh giá.

Thánh giá là cái giá Ngài trả cho cả một đời dám sống cho Cha

và cho con người, đặc biệt những người yếu thế.

Thánh giá nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha,

nhưng thánh giá cũng là kết quả của lựa chọn căn bản của Đức Giêsu.

Ngài đã chết như thế vì Ngài đã dám sống như thế.

Đức Giêsu dần dần ý thức rằng

nếu Ngài cứ tiếp tục làm chướng mắt giới lãnh đạo Do thái giáo,

gồm các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư (c. 22),

thì cái chết như Gioan Tẩy giả là điều Ngài sẽ không tránh khỏi.

Đức Giêsu có thừa cách để tránh cái chết.

Nếu Ngài đừng giảng dạy, đừng hành xử như đã quen làm.

Nếu Ngài đừng nhất quyết lên Giêrusalem, nơi nguy hiểm (Lc 9, 51)…

Nếu Ngài chiều sự tò mò của Hêrôđê bằng cách làm vài phép lạ (Lc 23, 8)…

Nhưng Đức Giêsu đã không sợ hãi lùi bước.

Ngài bình thản đón lấy định mệnh bi đát của mình khi nói với môn đệ:

“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị loại trừ, bị giết chết…”

Ngài đón lấy chữ phải từ tay Cha, và tin mọi sự đều không ngoài ý Cha.

Đức Giêsu xác tín Cha sẽ không bỏ rơi mình,

Ngài tin vào kết thúc có hậu của đời mình:

“và ngày thứ ba Con Người phải được nâng dậy” (c. 22).

Chính Cha sẽ nâng ngài dậy từ cõi chết.

Định mệnh của Thầy Giêsu cũng là định mệnh của chính chúng ta.

Kitô hữu là người đi theo Thầy, đi cùng con đường với Thầy.

Vác thánh giá là chuyện bình thường hằng ngày của Kitô hữu

nếu chúng ta muốn sống yêu thương, phục vụ, trong trắng, thành thật…

Chỉ khi từ bỏ chính mình (c. 23), ta mới không đánh mất chính mình (c.25).

Dựa vào sự phục sinh của Đức Giêsu, ta mới dám sống kinh nghiệm đó.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại

chọn những cầu thủ bóng đá,

những tài tử điện ảnh

làm thần tượng cho đời mình.

Hôm nay

Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,

và chúng con thật sự đắn đo

trước khi chọn Chúa.

Bởi chúng con biết rằng

chọn Chúa là lội ngược dòng,

theo Chúa là bước vào con đường hẹp:

con đường nghèo khó và khiêm nhu,

con đường từ bỏ và phục vụ.

Hôm nay, chúng con chọn Chúa

không phải vì Chúa giàu có,

tài năng hay nổi tiếng,

nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.

Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.

Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.

Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa

nhiều lần trong ngày,

qua những chọn lựa nhỏ bé,

để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,

và để chúng con

thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: SỰ SỐNG HAY SỰ CHẾT

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sau khi vượt qua Biển Đỏ, trước khi ký kết giao ước với Thiên Chúa, Mô-sê trình bày rõ ràng tình hình. Để dân chúng tự do chọn lựa. Hoặc ký giao ước với Thiên Chúa để được sống. Hoặc đi theo các bụt thần dân ngoại sẽ bị chết. “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ… Nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần khác và phụng thờ chúng, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất… Anh em hãy chọn sống để anh em và dòng dõi anh em được sống, nghĩa là hãy yêu mến đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh em sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất Đức Chúa đã thề với cha ông anh em”.

Chúa Giê-su đi vào sâu xa hơn. Đó là chọn lựa giữa Thiên Chúa và bản thân. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì”?

Bản thân đang trở thành ngẫu tượng. Với trào lưu tìm hưởng thụ. Cá nhân. Tự do. Con người vừa thờ phượng thân xác. Vừa phóng túng sử dụng nó vào hưởng thụ khoái lạc. Nhưng lại sẵn sàng hi sinh thân thể của tha nhân. Coi như một món hàng. Để trục lợi. Nhưng chọn lựa bản thân sẽ diệt vong. Đó chính là nền văn hoá sự chết. Huỷ hoại chính mình. Huỷ hoại tha nhân. Vì khinh thường sự sống. Thật hiển nhiên: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất”.

Đi theo Chúa là từ bỏ bản thân. Chế ngự xác thịt. Vượt trên thú tính. Đạt đến phẩm giá con Thiên Chúa. Sẽ được chính Thiên Chúa. Là sự sống. Sự sống viên mãn. Là hạnh phúc. Là niềm vui đích thực. Từ bỏ hết. Để được lại tất cả.

Mùa Chay là mùa ta phải ngồi suy xét lại. Kiểm điểm lại. Chỉnh đốn lại. Chọn lựa lại. Chọn lựa đúng đã là khó. Kiên quyết theo chọn lựa đúng còn khó hơn. Biết dễ làm khó. Xin Lời Chúa soi sáng để ta có lựa chọn sáng suốt. Xin sức mạnh của Chúa giúp ta đủ sức thi hành điều đã chọn lựa.

 

SUY NIỆM 3: Theo Chúa Giêsu

Trong lịch sử Giáo hội, từ hơn hai ngàn năm qua đã có biết bao linh mục, tu sĩ, giáo dân dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa trong tha nhân. Ơn gọi của mỗi người thường khác nhau, nhưng có điều chắc chắn là tất cả đều được kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa, theo gương mẫu của Chúa Kitô.

Con đường ơn gọi sống đời tận hiến là hành trình tìm về khổ đau, về cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển. Sống đời tận hiến, sống niềm tin Kitô giáo là chấp nhận thiệt thòi, mất mát, là hy sinh từ bỏ để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu. Nói cách khác sống ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi làm môn đệ Chúa, ơn gọi trở thành công dân Nước Chúa cần một lựa chọn quyết liệt và dứt khoát. Chúa Giêsu đòi hỏi những ai dấn bước theo Ngài sự lựa chọn ấy, cũng như chính Ngài đã lựa chọn dâng hiến cuộc đời và mạng sống vì yêu mến Chúa Cha và để cứu độ con người. Ngài nói: “Ai muốn theo Ta hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy thập gía mình mỗi ngày mà theo Ta”.

Chúa Giêsu có ngặt nghèo và đòi hỏi quá đáng chăng? Không. Ngài chỉ muốn cho chúng ta đước hoàn toàn thanh thoát và hạnh phúc trên con đường sống đời Kitô hữu và đặc biệt là đời tận hiến. Bởi vì chúng ta không thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người một cách thiết thực, nếu còn bị ràng buộc bởi tiền tài, danh vọng, tình cảm.

Xin Chúa ban sức mạnh, để chúng ta kiên quyết dấn thân theo Chúa với một tâm hồn thanh thản và tràn trề hạnh phúc.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Vác thập giá

Người bảo rằng: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy.

Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. (Lc. 9, 22-23)

Để bước theo Đức Kitô, phải vác thập giá mình, người ta biết ít về sứ điệp này và coi đó không đơn giản. Nếu người ta chịu vác thập giá của người khác thì sẽ thấy không quá khó. Còn thập giá của mình có vẻ nặng hơn nhiều của người khác. Nhưng không phải thế, chúng ta ai cũng phải vác thập giá mình. Thập giá mình là thập giá chúng ta không được chọn, không hề muốn, không có chút hấp dẫn nào, thật kinh khủng cho chúng ta.

Thập giá chúng ta phải vác quả thực mang lại khổ cực cho chúng ta vì nó đả thương chúng ta dù không muốn bị thương. Chúng ta hãy dừng ít phút để nghĩ tới cái đả thương chúng ta nhất trên đời mà chúng ta không thể chống lại được, đó là thập giá của chúng ta. Chúng ta phải vác lấy mỗi ngày. Thập giá đó chúng ta phải chấp nhận. Chúng ta chấp nhận vác thập giá, đời chúng ta sẽ không bị uổng công đâu vì tin rằng chúng ta có thể sống sung mãn khi biết vác thập giá. Thập giá bảo đảm không tiêu diệt chúng ta nhưng lại là nguồn sống của chúng ta.

Đức Giêsu đã quả quyết như vậy bằng gương mẫu của chính Người. Người đã vác thập giá mình. Thập giá đã đưa Người đến cái chết. Và qua cái chết Người đã tới sự sống vinh quang. Con đường thánh giá của Người đã là con đường sống. Nếu chúng ta tin điều đó chúng ta có thể đón nhận thập giá của chúng ta. Nếu không tin thì không thể còn cách nào khác để được sống đời đời.

Không ai trên trái đất này thoát khỏi thập giá, vì thập giá là thành phần xây dựng sự sống. Ai không biết rằng phải vác thập giá mới tới sự sống thì thật thảm hại.

J.Y.G

 

SUY NIỆM 5: XÂY DỰNG LẠI CÁC MỐI TƯƠNG QUAN (Lc 9, 22 -25)

Mỗi khi Mùa Chay về, hay nghe nói tới Mùa Chay, chúng ta hiểu ngay: đây là “mùa trở về”.

Trở về với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình.

Trở về với Chúa để cảm nghiệm được tình thương của Người trên cuộc đời chúng ta.

Trở về với tha nhân để nhận thấy bổn phận yêu thương, liên đới và chia sẻ với anh chị em đồng loại.

Trở về với chính mình để nhận ra mình tội lỗi và cần được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ.

Như vậy, cả ba mối tương quan, chúng ta thấy có một mẫu số chung là: nhận thấy mình bất toàn, ích kỷ, kiêu ngạo, nên cần phải trở về với Thiên Chúa, tha nhân và ngay cả với chính mình để được trở nên hoàn thiện.

Muốn hàn gắn và xây dựng lại những mối tương quan ấy, chúng ta hãy để ý đến lời mời gọi của Đức Giêsu: phải từ bỏ chính mình và phải vác thập giá mình.

Khi nói đến từ bỏ chính mình, Đức Giêsu muốn chúng ta phải ý thức tận căn, bởi vì nếu từ bỏ nhiều thứ, dốc quyết nhiều chuyện, mà chưa từ bỏ chính mình thì kể như chưa bỏ gì cả, và nếu có bỏ đi chăng nữa, thì sẽ tìm dịp và tìm cách thuận lợi để lấy lại!

Bỏ mình còn có nghĩa là coi mình ra không để hướng về Chúa và anh chị em, là quên mình để yêu thương, tha thứ và sống cho người khác.

Bỏ mình luôn đi đôi với việc vác thập giá của chính mình hằng ngày. Thập giá của mỗi người chính là ốm đau, bệnh tật, những chiến đấu chống lại cám dỗ, những trái ý, hiểu lầm, vu vạ, cáo gian…

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn từ bỏ tội lỗi, sống yêu thương, đón nhận thánh giá trong đời và trung thành vác lấy cách yêu mến. Xin cũng ban cho chúng con ơn trở về trong Mùa Chay thánh này. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một số nhà truyền giáo đến thăm M. Gandhi, vị lãnh đạo phong trào giải phóng Ấn Độ khỏi thực dân Anh bằng phương pháp bất bạo động. Ông đề nghị các ngài hát một bài thánh ca.

“Bài nào?”.

“Bài nào mà quý vị thấy là diễn tả đức tin sâu sắc nhất”.

Tất cả đồng thanh hát bài Suy tôn Thánh giá.

Suy niệm

Vào đầu Mùa Chay, chúng ta suy ngẫm về ý nghĩa và lời kêu gọi của Mùa Chay: Chúa Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của Ngài ở Giêrusalem và lời mời gọi các môn đệ của Ngài cùng chịu với khổ đau thập giá: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.

Khi nghiền ngẫm lời tiên báo đau khổ, tử nạn và lời mời gọi vác thập giá vượt qua đau khổ và sự chết, chúng ta cảm thấy được an ủi và thêm sức mạnh giữa những lúc đương đầu với thử thách, gian nan, khủng hoảng và đau khổ. Vì vậy, chúng ta vẫn tiến bước trong cuộc sống và đối diện với đau thương mà mỗi người chúng ta luôn đối diện trong những nỗi đau của thể xác, hay nỗi đau về tâm hồn, có khi cả hai nỗi đau về thể xác lẫn tâm hồn…

Chúa Giêsu không chỉ loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”. Thật thế, Đức Giêsu đến Giêrusalem chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng Ngài sống lại ngày thứ ba như lời tiên báo, Ngài đã vượt qua bằng chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, sự chiến thắng huy hoàng cũng dành cho người môn đệ trung kiên vác thập giá, thánh Phaolô khẳng định: Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người (Rm 6,8). Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ, chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết và cho phép chúng ta cùng Ngài vượt qua đau khổ, vượt qua sự chết như Ngài: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.

Cho nên, chúng ta vác thập giá theo Chúa Kitô, không phải giữ mãi đau khổ, đi vào con đường chết, nhưng cùng với Ngài xuyên qua đau khổ, vượt qua sự chết mà đến vinh quang phục sinh như lời Chúa Giêsu loan báo, vì thế thánh Phaolô xác tín: “Vinh dự của tôi là thập giá Chúa Kitô” (Gl 6,14).

Ý lực sống: “Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ… Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (Is 53,10-11).

 

Suy Niệm 7: Điều kiện để theo Chúa

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (Mt 9,18-21), thì Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho các môn đệ về con đường cứu thế của Ngài, là con đường tử nạn và phuc sinh, đồng thời Ngài cũng loan báo về điều kiện phải có để theo Ngài.

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết rõ hơn con đường của Chúa là con đường gì: đó là con đường dẫn tới vinh quang phục sinh, nhưng trước đó phải qua đau khổ của thập giá; ai muốn đi theo Ngài thì cũng phải đi qua con đường thập giá, thậm chí phải vác thập giá hằng ngày.

  1. Phải biết lựa chọn.

Trong việc theo Chúa. Ngài đòi chúng ta phải lựa chọn và lựa chọn trong tự do. Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Mà chọn thì phải bỏ, bỏ cái này để được cái kia. Nên nhớ là chúng ta đã chọn Chúa và con đường của Chúa. Đó là sự lựa chọn căn bản, nhưng lựa chọn căn bản ấy phải thể hiện trong những lựa chọn hằng ngày theo cùng chiều hướng đó. Mùa Chay là thời gian chúng ta xét mình lại về những lựa chọn của mình, đồng thời lặp lại lựa chọn căn bản: chọn Chúa, chọn con đường thập giá, chọn từ bỏ.

  1. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất…”

Chúng ta thấy có mối tương quan biện chứng giữa “mất đi” và “được lại”. Người Kitô hữu  chỉ thưc sự hạnh phúc khi dám đánh mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được cái trường tồn. Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sằn sàng “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời. Và Đức Giêsu đã kết luận bài giáo huấn của Ngài bằng những lời này: “Nếu được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì”?

Truyện: Người ta kể rằng: Trần Bình, vốn là một mưu thần của nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn Sở về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. Người lái đò đưa khách qua lại vốn là một tay cướp giật, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là người giầu có, định ra tay hãm hại để trấn lột tiền của. Biết ý định của tên lái đò, trước khi xuống thuyền, Trần Bình đã cởi bỏ hết quần áo, mình trần như nhộng, và đến xin tên lái đò cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một người trần truồng như thế không phải là một người giầu có, tên lái đò để yên cho Trần Bình. Thế là ông đã thoát nạn.

  1. “Hãy từ bỏ chính mình”.                 

Bước theo chân Chúa mà phải từ bỏ những thứ bên ngoài, những cái làm ngăn trở con người theo Chúa, cái đó đã khó, nhưng bỏ mình, tức là bỏ đi cái “tôi” của mình còn khó biết bao. Ở đây, Đức Giêsu nói rõ “bỏ mình”. Bỏ mình chính là bỏ cái tôi của mình, đó là sự từ bỏ khó khăn nhất. Hoàng đề Alexandre từng nói: “Thắng được vạn quân dễ hơn là thắng được chính mình”. Cái tôi chính là cá tính của mỗi người, vốn dễ kiêu ngạo muốn trên người, muốn thể hiện chính mình, muốn người khác theo ý mình; chứ không dễ gì khiêm tốn và phục vụ tha nhân. Nhưng đó lại là điều kiện của “thập giá”, bởi thập giá làm bằng chất liệu khiêm tốn và phục vụ.

  1. “Vác thập giá hằng ngày mà theo”.

Theo Chúa phải vác thập giá. Vác thập giá không phải chỉ là  dấu hiệu của đau đớn và xỉ nhục, nó còn là dụng cụ của sự chết. Đức Giêsu biết thế nào là đóng đinh vào thập giá.    

Khi Ngài còn là cậu bé 11 tuổi, thì Giuđa, người gốc Galilê đã cầm đầu một cuộc nổi dậy chống Rôma. Ông đã đánh cướp kho vũ khí của vua tại Sepphoris, chỉ cách Nazareth có 6,4 cây số. Rôma trả thù tức khắc. Sepphoris bị san phẳng bình địa, dân chúng bị bán làm nô lệ, 2000 loạn quân bị đem đóng đinh vào thập giá dựng theo dọc hai bên lề đường cái để cảnh cáo cho những ai dám chống lại bạo quyền.

Vác thập giá mình có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng đối diện với những hình khổ như vậy vì lòng trung thành với Chúa. Vác thập giá có nghĩa là sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ loài người có thể làm cho chúng ta vì lẽ chúng ta thành tâm đi theo Chúa Giêsu.

  1. Cách vác Thập giá cho đỡ nặng.

John Newton đã đề nghị chúng ta cách vác thập giá cho có hiệu quả: Chúng ta biết rằng những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của ngày hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi.

  1. Truyện: Biến bại thành thắng.

Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ  săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.

Lũ khỉ qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.

 

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá của mình hằng ngày mà đi theo Ta”. Đó là con đường mà Chúa Giêsu mời gọi mọi người Kitô hữu dấn bước.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đường theo Chúa là con đường hẹp, là con đường từ bỏ ý riêng, biết vui nhận những thánh giá trong cuộc sống. Con biết chính vì thương con mà Chúa mời gọi con bước vào con đường hẹp ấy, vì chỉ có con đường thánh giá ấy mới có thể dẫn con đến với Chúa. Con đường dễ dãi, thênh thang, thoải mái theo ý con hoàn toàn, không thể đưa con tới hạnh phúc đích thực đời đời.

Qua đau khổ mới tới vinh quang, đó là chân lý mầu nhiệm cứu độ. Chính Chúa đã chịu nhiều đau khổ để sống lại vinh quang. Chính Chúa đã đi trước mở đường cho con theo. Xin Chúa giúp con nhận ra giá trị đích thực của những trái ý, những hy sinh con gặp hằng ngày trong đời thường, để con vui lòng chấp nhận vì mến Chúa. Khi con gặp một thất bại, một chuyện buồn, mà không có ơn Chúa giúp, con sẽ chán nản buông xuôi, cáu kỉnh, gắt gỏng, mất tình bác ái. Nhưng với ơn Chúa, con sẽ biến những thánh giá đó thành món quà, thành bông hoa hy sinh kính dâng lên Chúa. Đáp lại, con tin Chúa sẽ ban tặng cho con niềm vui trong cuộc sống, nghị lực để vươn dậy, và tình bác ái trong tâm hồn.

Lạy Chúa, đôi vai con có yếu nhược, nghị lực con có giảm sút, lòng tin con có yếu hèn, không đủ sức để vác trọn thánh giá hằng ngày, thì xin Chúa rộng rãi ban ơn nâng đỡ con. “Ơn Ta đủ cho con”, tin vào Lời Chúa, con mạnh dạn vác thánh giá hằng ngày đi theo Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ai bỏ mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống”.

 

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Bài đọc I trích sách Đệ nhị luật nói về 2 con đường: ai chọn đi theo con đường của Chúa và các giới luật của Ngài thì sẽ được sống; còn ai đi theo các quyến rũ khác thì sẽ diệt vong.

Trong bài trích Phúc Âm, Chúa Giêsu cho biết rõ hơn con đường của Chúa là con đường gì: đó là con đường dẫn tới vinh quang phục sinh, nhưng trước đó phải qua đau khổ của thập giá; ai muốn đi theo Ngài thì cũng phải đi qua con đường thập giá, thậm chí phải vác thập giá hằng ngày.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Mà chọn thì phải bỏ, bỏ cái kia để được cái này. Nên nhớ là chúng ta đã chọn Chúa và con đường của Chúa. Đó là sự lựa chọn căn bản (option fondamentale), nhưng lựa chọn căn bản ấy phải thể hiện trong những lựa chọn hằng ngày theo cùng chiều hướng đó. Mùa Chay là thời gian chúng ta xét mình lại về những lựa chọn của mình, đồng thời lặp lại lựa chọn căn bản: chọn Chúa, chọn con đường thập giá, chọn từ bỏ.
  2. Chúa Giêsu dạy ta một nghịch lý rất sâu sắc: chịu mất thì sẽ được; còn muốn được thì phải mất!
  3. ”Con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì ?” (câu 25). Thánh Inhaxiô đã lặp đi lặp lại mãi bên tai Phanxicô Xaviê câu này. Cuối cùng câu này đã làm cho Phanxicô Xaviê hoán cải. Hôm nay tôi hãy lặp đi lặp lại câu này suốt ngày nhiều lần, hy vọng Chúa sẽ giúp tôi hoán cải như Phanxicô Xaviê.
  4. Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi, anh đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: “Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tuỳ thích”. Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: cây thì quá dài, cây thì quá ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù sì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá… Và rồi đêm nào cũng thế… cho đến một lần kia anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà. Nhưng ôi khi nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào! (Trích “Phúc”)
  5. Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!” (John Newton).

 

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Bài đọc I trích sách Đệ nhị luật nói về 2 con đường: ai chọn đi theo con đường của Chúa và các giới luật của Ngài thì sẽ được sống; còn ai đi theo các quyến rũ khác thì sẽ bị diệt vong.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói rõ hơn con đường của Chúa là con đường dẫn tới vinh quang Phục Sinh, nhưng trước đó phải qua đau khổ của Thập Giá. Ai muốn đi theo Chúa thì cũng phải đi qua con đường Thập Giá, thậm chí phải vác Thập Giá hằng ngày như vậy.

  1. Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Mà chọn thì phải bỏ, bỏ cái này để được cái kia. Nên nhớ là chúng ta đã chọn Chúa và con đường của Chúa. Đó là sự lựa chọn căn bản, nhưng lựa chọn ấy phải được thể hiện ra trong những lựa chọn hằng ngày theo cùng chiều hướng đó. Mùa Chay là thời gian chúng ta xét mình lại về những lựa chọn của mình, đồng thời lặp lại lựa chọn căn bản: chọn Chúa, chọn con đường Thập Giá, chọn từ bỏ.

Chúa Giêsu dạy ta một nghịch lý rất sâu sắc: chịu mất thì sẽ được; còn muốn được thì lại mất!

Một hôm, thánh nữ Têrêsa Avila được Thiên Chúa cho thấy Thiên Đàng lâu bằng đọc một kinh Kính Mừng. Thị kiến này làm cho thánh nữ vô cùng hoan hỷ. Kể từ đó, mọi lạc thú trên trần gian không còn ý nghĩa đối với mẹ nữa. Mẹ viết: “Trí khôn nhân loại không thể tưởng tượng ra được điều gì gần giống với vinh quang Thiên Đàng. Mặt Trời chỉ là u tối so với sự sáng nơi các thánh đang yên nghỉ. Một hôm, đang lúc tôi lên cơn đau quá mức, có một bà sang trọng muốn an ủi tôi. Bà đem đồ nữ trang của bà đến cho tôi xem, đặc biệt là viên kim cương quí báu mà bà hết sức trân trọng. Thái độ của bà làm tôi cảm động, nhưng rồi tôi lại thương cho bà, vì tôi thấy nó không là gì so với điều tôi đã chứng kiến. Nếu cho tôi chọn: Một đàng là phải chịu đau khổ cho đến tận thế để được thêm một chút vinh quang trên trời, và đàng khác là không phải đau đớn nhọc nhằn gì, nhưng phải chịu mất đi một phần nhỏ vinh sáng trên trời, thì chắc chắn tôi sẽ chọn ngay con đường khổ đau hôm nay, nghĩa là tôi sẽ sẵn sàng bỏ tất cả mọi sự, bỏ cả mạng sống tôi để theo Chúa”.

Chúa còn nói “Người nào được lời lãi cả thế gian mà mất chính mình hay là thiệt thân, thì có ích gì ?” (câu 25). Thánh Ingatiô đã lặp đi lặp lại mãi bên tai Phanxicô Xaviê câu này. Cuối cùng, Phanxicô Xaviê đã hoán cải. Hôm nay, chúng ta cũng hãy lặp đi lặp lại câu này nhiều lần. Hy vọng Chúa sẽ giúp chúng ta hoán cải như Phanxicô Xaviê.

Một lần kia, có một người đàn bà giàu có người Hindou đến thăm mẹ Têrêsa. Bà ta nói với mẹ:

– Thưa mẹ, con ước ao được chia sẻ với mẹ và cộng tác với mẹ trong các hoạt động từ thiện.

– Tốt lắm! – Mẹ đáp lại một cách vui vẻ.

Rồi bà ta thú thực với mẹ là bà ta có một điểm yếu rất khó bỏ, đó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo xa-ri, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc một bộ áo xa-ri giá trị 65 đô-la, trong khi chiếc áo xa-ri của mẹ Têrêsa đang mặc chỉ trị giá 65 xu, chưa đầy một đô-la. Như được ơn trên soi sáng, mẹ Têrêsa bỗng nảy ra được tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với mẹ về những bộ áo xari đó. Mẹ khiêm tốn đề nghị:

– Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ áo xa-ri giá 65 hoặc 100 đô-la, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 đô-la thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari khác dành cho người nghèo khó.

Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của mẹ, Dần dần bà ấy cũng đã biết dùng những bộ áo xa-ri rẻ tiền hơn. Sau này, chính bà cũng đã thú nhận với mẹ Têrêsa rằng:

– Thưa mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng và vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi, thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng, chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn thứ con cho đi và chia sẻ với anh chị em nghèo khổ!

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ của mình.

Ước gì từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng tình yêu, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn. Xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.

 

 

 

 

Thứ Sáu Sau Lễ Tro.

 

Lời Chúa: Mt 9, 14-15

Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: “Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?”

Chúa Giêsu nói với họ: “Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay”.

 

SUY NIỆM 1: Chàng rể bị đem đi

Suy niệm;                      

Có một sự khác biệt về lối sống giữa Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu.

Gioan sống khổ hạnh nơi hoang địa, ông lôi kéo người ta đến với ông.

Ông dọa tội nhân về cơn thịnh nộ mà Thiên Chúa sắp giáng xuống.

Còn Đức Giêsu thì đến với những kẻ tội lỗi, bị xã hội loại trừ,

ăn uống vui vẻ với họ vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 11, 18-19).

Sau khi Gioan đã bị tống ngục (4, 12)

các môn đệ của ông vẫn tiếp tục hoạt động (11, 2-6).

Chắc họ khó chịu khi thấy các môn đệ của Thầy Giêsu không ăn chay,

không có vẻ khắc khổ, nhiệm nhặt như họ hay như người Pharisêu,

nên họ hỏi thẳng Thầy về chuyện này (c. 14).

Thầy Giêsu trả lời họ bằng một câu hỏi khác (c.15):

“Khách dự tiệc cưới có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ sao?”

Dĩ nhiên là không rồi!

Câu nói của Thầy Giêsu cho thấy bầu khí Thầy-trò trong nhóm

là bầu khí vui tươi ấm áp, bầu khí của một tiệc cưới.

Thầy là chàng rể, còn trò là khách dự tiệc.

Thời gian Thầy ở với các môn đệ là thời gian hạnh phúc cho họ.

Trong Cựu Ước, hình ảnh chàng rể để chỉ Thiên Chúa (Is 62, 4-5),

Đấng kết duyên cầm sắt với dân Ítraen (Hs 2, 21-22).

Còn ở đây Đức Kitô kín đáo nhận mình là chàng rể.

Chàng rể là nhân vật chủ yếu của tiệc cưới.

Tiệc cưới ấy chính là Nước Trời được ngài khai mở (Mt 22, 1-14; 25, 1-13).

“Nhưng sẽ đến ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ…” (c.15).

Đây không phải là một lời tiên báo rõ ràng về cuộc khổ nạn,

nhưng là một ám chỉ đến cái chết bất ngờ sắp xảy ra.

Chàng rể Giêsu chẳng ở luôn với các môn đệ (Mt 26, 11).

Có ngày họ sẽ không còn thấy Thầy nữa, “bấy giờ họ mới ăn chay.”

Ăn chay đối với Kitô hữu là thái độ chuẩn bị ngày Thầy trở lại.

Ăn chay làm ta nhẹ nhàng để chờ ngày gặp Chúa diện đối diện.

Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường việc ăn chay.

Ngài đã ăn chay bốn mươi ngày trước khi bắt đầu sứ vụ (Mt 4, 2).

Hội thánh sơ khai cũng gắn liền cầu nguyện với ăn chay (Cv 13, 2-3)

Thánh Phaolô vẫn ăn chay, dù vất vả với tông vụ (2 Cr 6,5; 11, 27).

Để rước lễ, chúng ta phải kiêng ăn uống khoảng một giờ.

Ngày thứ sáu vẫn là ngày kiêng thịt theo luật chung của Hội thánh.

Ước gì việc ăn chay làm ta gặp Chúa, gặp anh em và gặp lại chính mình.

 

Cầu nguyện;

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã có kinh nghiệm về cái đói,

sau khi ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa.

Sau khi được dân chúng tung hô lúc vào thành Giêrusalem,

Chúa cũng đói đến mức phải tìm trái nơi cây vả.

Chúa đã xin nước uống nơi người phụ nữ Samari,

và Chúa đã nếm cái khát của người bị mất máu trên thập giá.

Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa có thân xác như chúng con,

nên Chúa đã bênh các môn đệ khi họ bứt lúa mà ăn vì đói,

Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều vì sợ người ta xỉu dọc đường,

Chúa đã bảo nhà ông trưởng hội đường cho cô bé mới hồi sinh được ăn.

Đói khát là chuyện bình thường của thân xác con người,

và Chúa chẳng bao giờ coi thường những nhu cầu chính đáng của nó.

Nhưng xin nhắc chúng con nhớ rằng

con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời Chúa,

con người không chỉ đói khát thức ăn vật chất

mà còn khao khát những giá trị tinh thần của Nước Trời.

Xin dạy chúng con chia sẻ cho những Ladarô đang nằm ngoài cổng,

và đừng khép cửa lòng như ông nhà giàu xây thêm kho.

Xin cho chúng con hiểu được giá trị của một ly nước lạnh được trao đi,

một tấm bánh giữa đêm khuya cho người bạn mượn,

và chút vụn bánh rơi xuống từ bàn ăn đủ nuôi một người.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa là người đói khát vẫn ngửa tay xin chúng con mỗi ngày

mà chúng con không hay.

Xin giúp chúng con bắt chước Chúa trong bữa tiệc cuối cùng

dám bẻ ra và trao đi tấm bánh đời mình để phục vụ tha nhân.

Ước gì mai này chúng con được đồng bàn với Chúa

và với mọi người thành tâm thiện chí trong Nước Trời. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: CHAY TỊNH

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chay tịnh là một thực hành tôn giáo có từ lâu đời. Nhưng nhiều khi biến thành hình thức. Đánh mất ý nghĩa thực sự. Thực ra chay tịnh là để hãm dẹp xác thịt. Kềm chế dục vọng. Loại trừ tính hư tật xấu. Từ bỏ cái tôi. Để Thiên Chúa ngự trị. Khi có Thiên Chúa ngự trị ta đạt đến đích điểm của đạo rồi. Khi đó đạo trở thành niềm vui. Chỉ khi ta phạm tội, lạc mất Thiên Chúa, ta mới phải ăn chay. Như Chúa Giê-su dạy: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay”.

Vì thế từ xa xưa các tiên tri đã quyết liệt đả phá thói ăn chay hình thức. “Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vài thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?”

Tệ hơn nữa ăn chay trở thành giả hình. Và nhất là trở thành phản chứng. Vì khi ăn chay vẫn còn lo kiếm lợi nhuận bằng áp bức tha nhân. Vẫn còn chia rẽ bất hoà, thậm chí hành hung người khác: “Này ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn”.

Chúa cho biết cách ăn chay đẹp lòng Chúa là quan tâm đến người nghèo khổ. Chia sẻ vật chất với người túng nghèo. Giải phóng kẻ bị tù tội. “Cách ăn chay mà ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?”

Ăn chay là để kết hợp với Chúa. Vì thế ăn chay phải quan tâm phục vụ tha nhân. Vì Chúa ở trong tha nhân. Đặc biệt những người anh em nghèo khổ bất hạnh. Vì thế ăn chay là phải hãm dẹp bản thân. Bớt chi tiêu. Để giúp người nghèo. Khi đó ta gặp được Chúa. Khi đó ăn chay đạt tới ý nghĩa đích thực.

 

SUY NIỆM 3: Ý nghĩa của việc ăn chay

Bên Trung Quốc có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc cho gọi ông đến và hỏi: “Nhà người có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?” Nhà điêu khắc trả lời: “Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, việc gì xảy ra là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi”.

Công trình giữ chay của các tín hữu trong mùa chay mỗi năm được gán cho nhiều ý nghĩa: nào là chay tịnh để kềm hãm một nhu cầu mạnh mẽ nhất trong con người, đó là ăn uống để sinh tồn, nhờ đó có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức; nào là ăn chay để kinh nghiệm được sự đói khát, nhờ đó có thể cảm thông và chia sẽ với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp của mình; nào là ăn uống kham khổ để tiết kiệm được một số tiền hầu đóng góp vào các chương trình bác ái, từ thiện. Ăn chay để tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người không chỉ lo làm lụng để cung phụng cho thân xác và đời sống vật chất, nhưng còn cố gắng hướng lên những mục đích tối thượng thiêng liêng. Tất cả những ý nghĩa đó của việc ăn chay có những yếu tố rất tích cực, đáng suy nghĩ và thực hành. Nhưng còn một ý nghĩ khác rất quan trọng, đó là ăn chay để tập trung tư tưởng, nhờ đó khám phá hình ảnh nòng cốt của chính mình và cuả tha nhân: đó là hình ảnh Thiên Chúa tiềm ẩn nơi mỗi người.

Xin cho công việc chay tịnh chúng ta thực hiện trong mùa chay này giúp chúng ta đi vào chiều sâu để khám phá hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta và trong lòng mọi người, ngõ hầu cuộc sống đức tin chúng ta là một công trình ngày càng tỏ lộ và chúng ta có khả năng yêu mến hình ảnh Thiên Chúa nơi người khác.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Thái độ dứt khoát.

Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.

Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.

Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.

Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 5: Tại sao phải ăn chay?

Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: “ Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể đã bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay”. (Mt. 9, 14-15)

Giáo hội mời gọi chúng ta ăn chay suốt cả mùa chay. Nói đúng nghĩa ăn chay là nhịn ăn uống. Người ta có thể tưởng rằng Giáo hội có lý nhắc nhở một điều quan trọng cho chúng ta cần ăn chay vì ăn quá nhiều như ở Mỹ làm mình phì nộn và nhồi tọng đủ thứ trong khi bao nhiêu người trên thế giới thiếu ăn mỗi ngày. Nhưng không phải vì những lý do đó mà Giáo hội khuyến khích ăn chay. Giáo hội có nhiều lý do khác.

Giáo hội đánh giá rằng ăn chay là cách tốt nhất để chúng ta mở lòng hướng về Thiên Chúa và tiếp rước Ngài. Giáo hội tin tưởng rằng trong khi thiếu ăn uống, tự nhiên chúng ta thấy mình là tạo vật yếu đuối cần phải nương tựa vào Đấng gìn giữ, bảo đảm sự hiện hữu của muôn loài. Ăn chay nhất thiết làm cho chúng ta cảm nghiệm ngay trong xác thịt mình thấy rằng đời sống chúng ta và bản chất chúng ta đều bởi Thiên Chúa ban.

Giáo hội khuyến khích ăn chay vì lý do thứ hai: ăn chay là phương thế tốt nhất để chuẩn bị chúng ta mong đợi Đức Ki-tô lại đến. Tất cả chúng ta đều biết tại sao nhiều người ăn mất ngon khi gặp cơn bối rối hay gặp cảnh chia ly. Sau một cơn cãi lộn, người ta không còn muốn ăn uống. Khi mất chồng, vợ bỏ ăn nhiều ngày. Ăn chay còn biểu lộ chúng ta hoàn toàn liên kết với Đức Ki-tô mà chúng ta yêu mến. Chúng ta ăn chay như thể là tưởng nhớ Đức Ki-tô và ra sức trông mong Người.

Đó là ý nghĩa của lời Chúa trong Tin mừng hôm nay. Đức Giê-su đã ở với chúng ta, nhưng chúng ta không hoàn toàn kết hợp với Người. Người đã đến giữa chúng ta, nhưng một ngày kia, Người lại đến trong vinh quang. Trong khi ăn chay, chúng ta tỏ hết lòng thiện chí được thấy Người lại đến để chúng ta hợp nhất với Người trọn vẹn cho đến muôn đời.

J.Y.G

 

SUY NIỆM 6: GIỮ CHAY ĐÚNG NGHĨA (Mt, 9, 14 –15)

Tại Giáo phận Taytay – Philippines, có một thầy ẩn sĩ tu rừng. Thày từ bỏ thế giới náo động, nhộn nhịp bên ngoài để vào rừng sâu ăn chay, cầu nguyện và sống thân tình với Thiên Chúa.

Thi thoảng, mỗi dịp lễ lớn, thày thường đi bộ trên đôi chân trần, không giày, không dép, đi hàng chục kilômét để về nhà thờ chính tòa hiệp thông cùng Giáo Hội. Trông thấy thày, ai cũng thấy toát ra một vẻ hồn nhiên, thánh thiện, thanh thoát, vui tươi và bình an.

Có lẽ vì nơi thày có được vẻ đẹp của Tin Mừng và đời sống chay tịnh cũng như cầu nguyện thường xuyên, nên nhìn mọi người, mọi vật dưới con mắt của Chúa!

Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy thường xuyên nhắc tới việc ăn chay, chẳng hạn như: vua Đavít ăn chay để cầu nguyện cho con khỏi ốm; từ triều đình đến thường dân thành Ninivê đã đáp lại lời mời gọi của tiên tri Giona nên ăn chay và sám hối để thoát khỏi tai họa…

Sang thời Tân Ước, Gioan Tẩy Giả cũng ăn chay và sống khổ hạnh trong sa mạc để chuẩn bị loan báo Đức Giêsu; đến khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng việc chay tịnh và cầu nguyện 40 ngày trong hoang địa sau khi chịu phép Thánh Tẩy; không những thế, Ngài thường xuyên nhắc các môn đệ phải ăn chay, cầu nguyện và Ngài còn cảnh báo các ông, nếu muốn trừ được quỷ thì phải ăn chay và cầu nguyện.

Như vậy, vấn đề chay tịnh là vấn đề quan trọng trong Kinh Thánh.

Tuy nhiên, hôm nay, khi các môn đệ của Gioan đến hỏi Đức Giêsu về việc: “Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”, nhân cơ hội này, Đức Giêsu mặc khải cho biết ý nghĩa đích thực của việc ăn chay.

Ăn chay là để chờ đón Chúa đến, nhưng Ngài đang ở giữa họ thì không có lý do gì để ăn chay nữa. Nếu ăn chay lúc này là mâu thuẫn, chẳng khác gì vải mới vá áo cũ, hay rượu mới đổ vào bầu da cũ vậy!

Ý nghĩa chính yếu của việc giữ chay chính là đền tội, hãm dẹp những khuynh hướng xấu xa, đê tiện, tội lỗi, từ bỏ cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, sống liên đới, yêu thương, tha thứ, giúp đỡ người nghèo…, nhất là tin vào Tin Mừng.

Xin Chúa giúp sức, để mỗi người chúng ta sống tinh thần của Mùa Chay thật sốt sắng và ý nghĩa, ngõ hầu chúng ta hưởng trọn vẹn niềm vui phục sinh. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Ðức Giêsu chính là Tân Lang mang Tin Mừng

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Cha Ira Gillett, nhà truyền giáo ở miền Tây Phi Châu, kể rằng: những người dân bản địa thường đi bộ những đoạn đường dài, qua bệnh viện nhà nước để đến bệnh viện của các nhà truyền giáo chữa trị. Khi được hỏi tại sao mà phải vất vả như thế, trong khi ở bệnh viện nhà nước cũng có những y sĩ giỏi, họ đáp: “Các y sĩ có thể tài năng như nhau, nhưng bàn tay khác nhau!”. Thật thế, khác ở tấm lòng…

Suy niệm

Đám cưới ở Do Thái là một dịp yến tiệc linh đình, kéo dài cả tuần, nhà cửa đôi tân hôn mở rộng để tiếp khách. Mọi người không phân biệt giàu sang đều được mời tham dự yến tiệc vui mừng…

Trong khi đó việc giữ chay theo truyền thống Do Thái giáo, liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế… Khi chuẩn bị đón Chúa Cứu Thế, mọi người chay tịnh, như cách sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả đón Chúa Cứu Thế. Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Ngài đến như tân lang trong tiệc cưới – tiệc cứu độ tình yêu, đem niềm vui đời đời cho chúng ta…

Khi tự xưng mình là tân lang, nghĩa là môn đệ của Ngài, là bè bạn đang dự tiệc cưới với tân lang là Chúa Kitô đang hiện diện, có nghĩa là Đấng Thiên Sai đã đến rồi, nên các phù rể không ăn chay để chờ đợi nhưng đang sống trong niềm vui. Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng: Ngài chính là Ðấng Cứu Thế – tân lang, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Vì thời của Ðấng Cứu Thế – tân lang là thời của hân hoan, của niềm vui, không phải là thời của khóc lóc, tang chế, ủ dột…

Khi các môn đệ Chúa Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và biệt phái, Ngài đã bênh vực các môn đệ – những người đang sống trong thời đại Cứu Thế: Ðức Giêsu chính là Tân Lang mang Tin Mừng – niềm vui Ơn Cứu Ðộ nên phải biết sống vui tươi, tin tưởng. Ủ rũ, sầu khổ là không hợp thời và không đúng lúc.

Hơn nữa, người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, cho nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. Mt 6,16; Lc 18,12).

Với Đức Kitô, dân Ngài trong Giáo hội như đang dự tiệc cưới nước Trời, sống hoàn toàn trong tinh thần mới: tinh thần của Chúa Cứu Thế – Đức Tân Lang Tân ước là tất cả Tin Mừng mà Ngài rao giảng như thứ rượu mới duy nhất không thể thay thế hoặc pha trộn trong bầu da cũ…

Ý lực sống: “Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại: Hãy vui lên” (Pl 4,4).

 

Suy Niệm 8: Nói về việc ăn chay

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Bài Tin Mừng kể lại một phần cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người biệt phái về vần đề ăn chay, chúng ta thấy nhân cuộc tranh luận này, Đức Giêsu đã bộc lộ cho mọi người biết về bản thân và sứ mạng của Ngài.

Luật cũ chỉ buộc người Do thái ăn chay mỗi năm một lần vào ngày đền tội (Lc 16,19-31). Ngoài ra thời Đức Giêsu, người ta còn giữ chay tự nguyện vào những ngày chay chung, vì lý do như để cầu mùa. Hơn nữa, còn có những ngày chay do cá nhân giữ vì lòng đạo đức, như nhóm biệt phái ăn chay mỗi tuần hai lần vào ngày thứ hai và thứ năm (x.Mc 2,18; Lc 18,12).

Hôm nay, rất có thể bữa tiệc của Lêvi (Matthêu) khoản đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài đã được tổ chức trùng vào ngày  những người đạo đức và nhóm biệt phái ăn chay, nên các môn đệ của Gioan đã đến chất vấn Ngài.

  1. “Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay” ?

Đức Giêsu và các môn đệ được mời dự tiệc, có lẽ trùng vào ngày thứ hai hay thứ năm, ngày mà những người đạo đức thường ăn chay. Điều này làm cho các môn đệ Gioan, biệt phái và những người đạo đức thắc mắc.

Câu trả lời của Chúa vừa là một dụ ngôn vừa là một ám ngôn, Chúa đem trường hợp tiệc cưới ra để so sánh; chúng ta biết  tiệc cưới nơi người Do thái thường kéo dài cả tuần lễ, như vậy, dĩ nhiên trong những ngày ấy, những người được mời dự tiệc không ăn chay. Rồi tự coi mình là chàng rể. Chúng ta biết trong Cựu ước, Thiên Chúa tự ví mình là chàng rể và Israel là nàng dâu. Như thế, khi tự nhận cho mình một hình ảnh mà Cựu Ước vẫn dùng để nói về Thiên Chúa thì Đức Giêsu đã đi rất xa trong tiến trình tự mạc khải chính mình, Ngài cho biết Ngài là Thiên Chúa đã đến giữa loài người.

  1. Để cho dễ hiểu, chúng tôi xin trích lời giải nghĩa của cha Phạm Văn Phượng OP: Vậy là Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu xúc tích, Ngài vượt trên vấn đề được đặt ra để mạc khải xâu xa về bản thân và sứ mạng của Ngài: Sao lại bắt các môn đệ của tôi ăn chay giống như các anh? Họ đang dự tiệc cưới mà. Chính tôi là chàng rể đây, chàng rể mà Israel vẫn trông chờ, bao lâu tôi còn ở với họ thì họ đâu cần ăn chay, các anh ăn chay  là để chờ đón Đấng Messia, còn các môn đệ của tôi đã nhận ra tôi là Đấng Messia. Vậy thì nếu họ cũng ăn chay để đón chờ Đấng Messia như các anh thì thật là phi lý, cũng giống như người đang dự tiệc cưới mà ăn chay vậy, nếu các anh muốn thấy họ ăn chay, thì chờ tới ngày chàng rể bị giết, họ sẽ ăn chay để than khóc.
  2. Qua việc chất vấn của các môn đệ Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã nhân cơ hội này, dạy chúng ta những bài học:

– Đừng học đòi những người bắt bẻ môn đệ Đức Giêsu về việc ăn chay bởi vì họ xét đoán người khác, bắt người khác làm theo ý của mình, bắt người khác phải giống như họ, tạo ra một khuôn mẫu để bắt người khác phải chiều theo ý mình.

– Muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu, ta phải thay đổi cách sống cũ, từ suy nghĩ đến hành động, để mặc lấy cách suy nghĩ, cách hành động, cách sống mới cho phù hợp với Tin Mừng.

– Vải vá áo, rượu trong bình là hình ảnh diễn tả đời sống của tôi. Chúa muốn tôi bước theo Chúa thì cần phải thay đổi cách sống cho phù hợp với Tin Mừng. Thay đổi tư tưởng, lời nói và hành động. Thay đổi để trở nên giống như Đức Giêsu, hiền lành, khiêm nhường, yêu thương phục vụ, khoan dung tha thứ…

  1. Chay tịnh là việc cần phải thực hiện cách tích cực trong Mùa Chay, vì thế qua bài Tin Mừng hôm nay, Phụng vụ nhắc nhủ chúng ta về việc ăn chay và ý nghĩa của việc ăn chay; là để đền tội và được kết hợp với Chúa ở đời này và sống với Chúa đời sau.

Cố gắng đừng ăn chay hình thức nhất là để khoe khoang; người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, cho nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. MT 6,16; Lc 18,12).

  1. Truyện: Cái giá treo chuông.

Bên Trung quốc, có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đề khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc này cho gọi đến và hỏi:

– Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?

Nhà điêu khắc trả lời:

– Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản; khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay  để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, mọi sự được tốt đẹp là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện  nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt, để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi.

Việc giữ chay của chúng ta trong mỗi Mùa Chay cũng phải hiểu theo ý nghĩa đó.

 

Suy Niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu luôn mở rộng trái tim để đón nhận tất cả mọi người, đặc biệt Ngài yêu thương và đón nhận các tội nhân trở về với Chúa. Là tội nhân, tôi đã sẵn sàng trở về với Chúa chưa ?

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm phục Chúa đã tự mình đi đến với tội nhân trước, gặp gỡ và sống thân tình với họ. Điều quan trọng là chính Chúa đã đến và gọi đích danh từng người. Chúa quan tâm tới hết mọi người, nhất là thành phần vô danh trong xã hội, bị xã hội lên án, ruồng bỏ hoặc coi thường. Chúa đã gọi ông Lê-vi. Hôm nay Chúa cũng đi tìm và gọi con.

Lạy Chúa, ông Lê-vi đã đứng dậy, nghĩa là ông đã dứt khoát từ bỏ đường lối cũ. Hôm nay, Chúa cũng kêu mời con giã từ nếp sống ươn lười, tội lỗi. Xin ánh sáng Tin Mừng của Chúa soi chiếu tâm hồn con, để con nhận ra con người thật của mình, một con người mang nhiều yếu đuối và khuyết điểm.

Ông Lê-vi đã đi theo Chúa, nghĩa là hoàn toàn phó thác, cậy nhờ Chúa, sống với Chúa và vì Chúa. Xin sức mạnh của Chúa Quyền Năng tác động nơi con, để con đủ nghị lực đi theo Chúa, dám can đảm sống điều Chúa truyền dạy. Tự sức mình, con không thể thực hiện được những điều ấy. Nhưng với ơn Chúa, con sẽ làm được.

Lạy Chúa, ông Lê-vi đã mở tiệc mời Chúa. Nhưng ngày nay, chính Chúa đã mở tiệc mời con tham dự. Con được tham dự Bàn Tiệc Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Chúa tự nguyện đứng lên phục vụ con. Chúa tự hiến chính mình để trở thành lương thực nuôi sống con. Nay con nhận ra tình Chúa yêu thương con và con quyết tâm đứng dậy trở về với Chúa.

Lạy Chúa, xin đón nhận con. Amen.

Ghi nhớ: “Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.

 

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A.- Phân tích (Hạt giống…)

Bài đọc I trích sách Isaia tiếp tục nói về kiểu ăn chay đẹp lòng Thiên Chúa, đó là chấm dứt những việc làm bất công, rộng tay cứu giúp những người đói khổ, tôn trọng ngày hưu lễ.

Bài trích Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu thực hiện điều đó: cứu một người thu thuế tội lỗi là Lêvi, còn gọi ông làm môn đệ, và còn ngồi ăn cùng bàn với những người tội lỗi khác. Ngài tuyên bố “Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Tôi muốn sống cảnh tượng của Lêvi:

– Tôi là người tội lỗi

– Tôi đang “ngồi” yên tại “bàn” tội lỗi của tôi.

– Chúa đang “đi ngang” qua, Ngài “trông thấy” tôi rồi, Ngài “nói với” tôi: Hãy đi theo Ta.

– Tôi “bỏ mọi sự” – Tôi “đứng dậy” – Tôi “theo Người”.

  1. Nhà truyền giáo giảng đạo giữa rừng già Phi châu, dưới ánh trăng đêm và trong hoang lạnh của núi rừng. Ngài kể về đời sống và các phép lạ của Chúa Giêsu, cuối cùng là cái chết trên thánh giá. Ngồi trước bục giảng là viên tù trưởng. Ông chăm chú nghe lời nhà truyền giáo. Khi ngài tả việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá, vị tù trưởng bổng đứng phắt dậy nói: ”Ngừng lại! Hãy đem Ngài xuống khỏi thánh giá! Tôi mới là người đáng phải đóng đinh trên đó, chứ không phải Ngài!”Vị tù trưởng nghĩ rằng mình mới là tội nhân, còn Chúa Giêsu vô tội. (Góp nhặt)

 

Suy Niệm 11: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Vâng, ngay từ thời tiên tri Isaia mà chúng ta cũng đã thấy những hình thức ăn chay thật đáng cho chúng ta suy nghĩ.

– Chay tịnh không phải chỉ là kiêng khem những của ăn vật chất, hay bớt đi một phần ăn trong một bữa, mà là xoá bỏ đi những bất công, những chèn ép, áp bức nhau trong cuộc sống: chúng ta có đang cố ý hay vô tình bất công, chèn ép ai đó không ?

– Chay tịnh còn là biết chia sẻ và giúp đỡ cụ thể những người đang đau khổ. Nếu có cơ hội làm những việc này, chúng ta có làm không ?

  1. Rồi qua bài Tin Mừng, Chúa còn đưa ra một hình thức chay tịnh độc đáo hơn. Chay tịnh là để được sống trong thân tình với Chúa và qua việc được sống thân tình với Chúa, con người biết sống với nhau như anh em nhiều hơn.

Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, người ta đọc được câu chuyện sau đây:

Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.

Ngày ngày, các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều cho mỗi người.

Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi. Một người thì lại ốm o, buồn phiền.

Cả hai người được đưa đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, để xem họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không.

Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã suy niệm về những gì.

Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp:

– Trong suốt năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội tôi đã phạm. Từng giây, từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.

Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau:

– Suốt một năm qua, từng giây, từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.

Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi, vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa.

– Ngoài việc làm cho con người được gần gũi với Thiên Chúa, chay tịnh còn giúp con người làm chủ được mình. Và đây cũng là điều hết sức quan trọng. Làm chủ được mình thì con người sẽ tránh được rất nhiều lầm lỗi và sa lầy trong cuộc sống. Hầu như mọi thứ tội ác đều ít nhiều bắt nguồn từ sự không làm chủ được cuộc đời của mình mà ra.

Bên Trung Quốc, có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc này cho gọi ông đến và hỏi:

– Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế ?

Nhà điêu khắc trả lời:

– Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, mọi sự được tốt đẹp là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt, để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi.

Việc giữ chay của chúng ta trong mỗi Mùa Chay cũng phải hiểu theo ý nghĩa đó.

* Chay tịnh là để kềm hãm một trong những nhu cầu mạnh mẽ nhất của con người, đó là nhu cầu ăn uống để sinh tồn, để nhờ đó mà chúng ta có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức.

* Chay tịnh còn giúp cho chúng ta nhận diện được sự đói khát như thế nào, để nhờ đó chúng ta có thể cảm thông và chia sẻ được với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp với lòng bác ái chân thành của chúng ta.

Nhờ ăn chay như thế mà chúng ta khám phá ra được hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta cũng như trong mọi người, để cuộc sống đức tin chúng ta ngày càng có chiều sâu, giúp chúng ta cảm nhận được một cách rõ ràng hơn tình yêu thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của chúng ta cũng như những người khác, để từ đó con người có thể sống yêu thương nhau nhiều hơn như lòng Chúa mong ước.

Lạy Chúa Giêsu, tiên tri Êlia kiên cường đến thế mà cũng đã có lúc mệt lả đuối sức trên đường lên núi Horeb, huống chi chúng con là những kẻ yếu hèn. Xin Chúa giúp chúng con sống Mùa Chay năm nay một cách nghiêm túc, để nhờ đó chúng con được hân hoan tiến bước theo Chúa trên hành trình đến dự tiệc vui Nước Trời. Amen.

 

Thứ Bảy sau lễ Tro

Lời Chúa: Lc 5, 27-32

Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: “Hãy đi theo Ta”. Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài.

Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: “Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?” Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.

 

SUY NIỆM 1: Kêu gọi người tội lỗi sám hối

Suy niệm:

Việc Thầy Giêsu kêu gọi anh Lêvi làm môn đệ

phải được coi là một cuộc cách mạng lớn vào thời bấy giờ.

Chẳng ai gọi một người thu thuế bị xã hội khinh miệt vào nhóm của mình.

Làm thế là hạ giá chính Thầy và cả nhóm môn đệ.

Đức Giêsu đã vượt qua những biên giới ngăn cách rạch ròi

giữa tội lỗi và công chính, giữa thanh sạch và ô nhơ.

Người Do Thái thường không giao tiếp với các người thu thuế,

họ bị coi là tội nhân vì làm việc cho dân ngoại, vì dễ ích kỷ tham lam.

Đức Giêsu chẳng sợ mời anh Lêvi đi theo mình: “Anh hãy theo tôi.”

Ngài không nhìn anh bằng ánh mắt khác với các môn đệ kia.

Chỉ một lời mời của ngài đủ lấp đi mọi hố sâu ngăn cách.

Lêvi đã quảng đại đáp lại bằng hành động: bỏ tất cả, đứng dậy, đi theo.

Đối với người Do Thái, bữa ăn có tính thiêng liêng.

Đó là lúc người ta thông hiệp với nhau, nên một trong tình bạn.

và cùng chia sẻ với nhau một thứ đồ ăn, thức uống.

Chính vì thế ăn uống với người tội lỗi là điều không được phép,

vì điều ấy sẽ khiến mình bị ô nhơ.

Đức Giêsu có vẻ không sợ chuyện này,

khi ngài nhận lời ăn tiệc chia tay do anh Lêvi khoản đãi.

Bữa tiệc thật là lớn, có đông đủ bạn bè đồng nghiệp của anh.

Trong số khách mời có cả các môn đệ.

Đức Giêsu dám đến nhà người tội lỗi và ăn với họ.

Hẳn là ngài rất vui và tự nhiên, chẳng có gì phải e dè, xa cách.

Chỉ có những người Pharisêu là khó chịu và lẩm bẩm đặt câu hỏi tại sao.

Đức Giêsu sẽ cho họ thấy những lý do.

Vì những người thu thuế và tội nhân là những người đau yếu (c. 31).

Những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc Giêsu.

Vì mục tiêu của đời Đức Giêsu là kêu gọi người tội lỗi sám hối (c. 32),

nên ngài phải đến với họ, gần gũi và chia sẻ, mời gọi và yêu thương.

Đức Giêsu cho họ thấy trái tim thật sự của Thiên Chúa.

Không như người Pharisêu nghĩ, trái tim ấy có chỗ cho tội nhân.

Đức Giêsu cũng dành chỗ cho anh Lêvi trong nhóm môn đệ.

Đức Giêsu giúp chúng ta biết cách mời người khác hoán cải.

Đến với họ, nhìn họ bằng cái nhìn mới, và vui vẻ làm bạn với họ.

Trước khi làm cho người khác hoán cải,

chính chúng ta phải hoán cải nơi cái nhìn của mình về người khác.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng

trước mọi biến cố của cuộc sống,

khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,

hay gặp sự bất trung, bất tín

nơi những người con tin tưởng cậy dựa.

Xin giúp con gạt mình sang một bên

để nghĩ đến hạnh phúc người khác,

giấu đi những nỗi phiền muộn của mình

để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,

để đau khổ làm con thêm mềm mại,

chứ không cứng cỏi hay cay đắng,

làm con nhẫn nại chứ không bực bội,

làm con rộng lòng tha thứ,

chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.

Ước gì không ai sút kém đi

vì chịu ảnh hưởng của con,

không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,

lòng cao thượng, tử tế,

chỉ vì đã là bạn đồng hành của con

trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.

Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,

xin cho con có lúc

thì thầm với Chúa một lời yêu thương.

Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,

tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,

và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.

(dịch theo Learning Christ)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: TIN MỪNG CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Hôm qua, I-sai-a đã chỉ cho ta cách ăn chay đẹp lòng Chúa là sống tình bác ái với tha nhân. Hôm nay I-sai-a còn đi xa hơn khi cho thấy tình yêu thương có sức biến đổi thế giới, sửa chữa và tái thiết thế giới bị hủy hoại, đem lại sự sống đã suy tàn. Ngài nói: “Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe dọa và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thỏa lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối.. Nhờ ngươi người ta sẽ tái thiết những tàn tích cổ xưa, ngươi sẽ dựng lại những nền móng của các thế hệ trước, người ta sẽ gọi ngươi là người sửa lại những lỗ hổng, là kẻ tu bổ phố phường cho người ta cư ngụ”.

Điều đó hoàn toàn ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Đặc biệt với việc Chúa đến bàn thu thuế và kêu gọi Matthêu. Việc kêu gọi Mat-thêu nói lên tình yêu thương của Chúa. Vì lòng thương xót nên Chúa hạ mình xuống nơi nhơ uế này. Vì lòng thương xót nên Người đưa mắt nhìn Mat-thêu. Không nhìn với ánh mắt khinh miệt. Nhưng nhìn với tình yêu thương tin tưởng. Và thật lạ lùng với lòng thương xót, Chúa kêu gọi Mat-thêu, một người tội lỗi, làm tông đồ của Chúa.

Lòng thương xót đã biến đổi Matthêu. Từ một người tội lỗi thành một người thánh thiện. Từ một người phản đạo thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người theo đuổi tiền bạc thành một người tha thiết với các linh hồn. Từ một người ham mê tiền bạc thành một người siêu thoát dứt bỏ. Việc đổi đời, dứt bỏ được tiền bạc khiến ông vui mừng đến nỗi mở tiệc ăn mừng. Quả thật tình yêu có sức biến đổi con người.

Thế giới hôm nay như sau một trận chiến để lại biết bao người mang thương tích, biết bao hoang tàn đổ vỡ. Cần có lòng thương xót để chữa lành vết thương, tái thiết thế giới. Chính trong bản thân ta đang có đổ vỡ, có nhiều vết thương. Xin lòng thương xót của Chúa đến băng bó và chữa lành ta.

 

SUY NIỆM 3: Tin mừng của lòng thương xót

Vua thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình.

Có một nông dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân.

Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trung mùa của mình. Mọi người không ngờ rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất.

Nhà vua sai các cận vệ đem đến một cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vào bằng củ cải này và trao cho người nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xua nịnh và chờ chực đặc ân”.

Giai đoạn trên đây có thể gợi lại cho chúng ta thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ bé mọn, nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, nói chung những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài kết thân với họ, đồng bàn với họ, và tuyên bố họ là những người vào Nước Trời trước những kẻ tự xưng là công chính. Những con người nghèo khổ ấy là một thể hiện cụ thể của mối phúc đầu tiên mà Chúa Giêsu đã công bố trong Bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng được loan bao cho những người nghèo, hay đúng hơn chỉ người nghèo mới có thể mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin mừng.

Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng thương xót: chỉ khi nào con người nhận thức được thân phận nghèo hèn tội lỗi cảu mình, con người mới thấy được tình thương bao dung hải hà của Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng càng dồi dào”. Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng tin tưởng phó thác: có thấy được nỗi bất toàn của mình, con người mới cảm nhận được sức mạnh nâng đỡ của Chúa. Tin mừng của Chúa là Tin mừng của an bình, hạnh phúc: có dốc cạn những ham muốn ích kỷ và những sức mạnh của danh vọng, có trở nên thực sự trống rỗng, thanh thoát, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy và tìm được hạnh phúc bình an đích thực.

Giữa những bôn ba tìm kiếm của cuộc sống, xin cho chúng ta luôn đặt Chúa vào chỗ nhất. Cho dù phải đánh mất tất cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng chúng ta đang có tất cả và được Chúa làm gia nghiệp duy nhất.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Trở về

Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các Ngài. (Lc. 5, 27-29)

Đức Giê-su đến không phải để kêu gọi người công chính. Nhưng để kêu gọi những người tội lỗi. Những người đáng phải quan tâm là những người nghèo khó, khốn khổ, đói khát, tội lỗi, và tất cả những kẻ bị xã hội coi là hạng bất hảo (pas bons). Những người ấy được Chúa muốn biến đổi, muốn cứu chuộc. Đó là những kẻ Người phó dâng đời sống, niềm vui và bình an của Người cho họ. Họ được Người kêu gọi trở về.

Ước mong chúng ta được vào nhóm các người “bất hảo” ấy để được Đức Giê-su mời gọi đến với Người. Chúng ta không luôn luôn dễ dàng nhận mình vào hạng xấu đó đâu. Chỉ cần thấy chúng ta liếc nhìn những người sống chung quanh chúng ta, là chúng ta nghĩ mình chẳng hề xấu như thế, cho nên chúng ta không cần ăn chay trở lại.

Thực ra cũng đúng. Chúng ta khá can đảm, và là người tín hữu khá tốt. Chắc có nhiều kẻ xấu hơn chúng ta! Nhưng nghĩ mình không cần ăn năn trở lại thì đã tự đặt mình ra rìa, và là kẻ tự cao tự đại quá xá rồi.

Cứ nhìn ông Lê-vi đã làm, chúng ta có thể có một chút hiểu biết về thế nào là trở về, rồi ra đi bỏ hết cả tài sản. Ông đã bỏ hết như Tin mừng nói. Ông đã bỏ chức vị. Ông đổi mới cái nhìn, đổi mới phán đoán, đổi mới những tập quán thói quen của đời sống. Và ông đã bắt đầu sống trở về tận nguồn gốc theo Đức Ki-tô mời gọi.

Nếu muốn được trở về, phải sống tận nguồn gốc là Tin mừng để thấy phải từ bỏ mọi hòa hoãn, mọi nửa vời và đi đến tột đỉnh chí thiện và chí ái, lúc đó chúng ta mới thấy sáng tỏ sự cần thiết phải sám hối trở về biết chừng nào. Ai nghĩ ngược lại thì chỉ là kẻ tự phụ, lừa dối mình.

 

SUY NIỆM 5: TỪ BỎ… VÀ ĐI THEO ĐỂ LÀM LẠI CUỘC ĐỜI (Lc 5, 27-32)

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn thấy đây đó có những người đạo đức tốt lành xuất hiện như một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta noi theo! Tuy nhiên, trong số đó, không thiếu những thành phần ăn chơi trác táng một thời; đầu trộm đuôi cướp khét tiếng; hay cũng không thiếu những vị trước đó buôn gian bán lận, sống bằng nghề nhàn hạ khi cho vay nặng lãi trên xương máu của anh chị em mình…

Tại sao họ lại có một sự thay đổi đến lạ thường như vậy? Thưa! Bởi vì họ đã biết dừng lại, nhận thấy mình đi sai đường và nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nên họ thay thái độ để đổi cuộc đời trong ân sủng của Người.

Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy một Mátthêu ăn trên ngồi trước, hà hiếp, bóc lột, phản dân, hại nước khi sống bằng nghề thu thuế cho đế quốc! Nhưng hôm nay, trên chiếc ghế đã gắn liền cuộc đời ông với cái nghề đáng nguyền rủa; trên chiếc bàn đã là bệ kê cho ông chắp bút để ghi những con số nhơ nhớp, bẩn thỉu nhằm thu lại những đồng tiền khốn cùng nơi anh chị em đồng loại của ông. Nhưng chính một thứ tội không thể tha, một con người đáng khinh bỉ, thì hôm nay, tấm lòng nhân hậu của Đức Giêsu ngang qua ánh mắt cảm thông, trìu mến và lời mời gọi đầy yêu thương: “Anh hãy theo tôi!”, đã đảo lộn tất cả. Vì thế, như cá gặp nước, Mátthêu đã sẵn sàng đứng dạy, từ bỏ nơi chốn tội lỗi, và dứt khoát quay lưng lại với cái nghề ám muội để đi theo và làm môn đệ cho Đức Giêsu.

Từ khi bước theo Thầy Chí Thánh, ông đã trở thành người đầy kinh nghiệm về Thiên Chúa tình thương, và luôn mang trong mình tâm tư, nguyện ước của Thầy. Sau này, ông đã viết lại một con người vĩ đại đã cải hóa cuộc đời ông nơi những trang Tin Mừng đầy sống động.

Sứ điệp Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối như Mátthêu và có lòng nhân từ như Đức Giêsu. Đồng thời tránh xa và không được lưu trữ thái độ coi thường, khinh bỉ, cố chấp như những người Pharisêu trong tâm trí của mình, bởi vì trên đời này có ai là vô tội đâu? Tự nhận mình là người xứng đáng và coi khinh kẻ khác là dấu hiệu của một tâm hồn trống rỗng, kiêu ngạo, thích đi theo và làm môn đệ cho ma quỷ chứ không phải là môn sinh của Thầy Giêsu.

Thật vậy, nếu là học trò của Đức Giêsu, chúng ta phải hiểu và thấm câu nói của Thầy mình: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” vì “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết khiêm tốn, lắng nghe lời mời gọi của Chúa, để sẵn sàng đi theo và làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con biết yêu thương và nâng dạy những người tội lỗi như Chúa khi xưa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế Lêvi

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:

– Đúng, anh ta nhập đạo thật.

– Sao anh biết ?

– Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với quy cách ta đặt, không thiếu nữa.

Người nào tiếp nhận Đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.

Suy niệm

Khi nghe tiếng gọi của Đức Kitô, người thu thuế Lêvi đã bỏ tất cả để cất bước theo Ngài, bỏ cả một nghề nghiệp đang hốt bạc của người thu thuế, bỏ cả một quá khứ tội lỗi để Chúa Kitô thánh hiến trở thành môn đệ Ngài…

Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị anh em đồng bào mình khinh miệt do các anh ăn chặn của dân, hơn nữa lại là tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình… Họ là hình ảnh của những gì xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất mà dân chúng coi đồng hạng với các kẻ cắp và các phụ nữ ngoại tình.

Hơn nữa, những người Pharisiêu cho rằng: một người Do Thái ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi…

Thế nhưng Đức Kitô đã ngồi cùng bàn với phường thu thuế, tiếp xúc với bọn đĩ điếm, kẻ tội lỗi (x. Mt 9,10-13; Mc 2,15-17; Lc 5,8; 7,36-50; 15,1-2; 19,7). Họ là người bệnh, người mang vết thương, Đức Giêsu đến chữa lành cho họ. Ngài sẵn sàng đồng bàn, nghĩa là cùng chia sẻ gánh nặng tội lỗi. Ngài mang nó lên thập giá và tiêu diệt nó nhờ cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài (x. 1Cr 15,25-26). Ngài đã trở nên như tội nhân để đưa tội nhân vào sự cứu chuộc khi Ngài đã chết treo trên thập giá với thân phận của một tội nhân, đồng hạng với tội nhân để cứu chuộc tội nhân. Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa lành những người bất hạnh, trong đó có cả những tội nhân. Trên thập giá, Ngài xin ơn tha thứ những kẻ đóng đinh Ngài (x. Lc 23,34).

Chúng ta có bao nhiêu vết thương lòng, bao nhiêu khiếm khuyết bất toàn, bao nhiêu những yếu đuối tội lỗi, hãy chỉ cho Đức Kitô, để Ngài – vị thầy thuốc băng bó, chữa lành, và làm công chính, lúc đó chúng ta cảm nghiệm tại sao thánh Phaolô chia sẻ: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nếu không có Ngài – vị thầy thuốc đến từ Thiên Chúa, chúng ta sẽ chết trong bệnh tật là tội lỗi, trong vết thương yếu đuối và khiếm khuyết của chính chúng ta như người Pharisiêu tự phụ công chính không cần ân sủng nên vẫn sống trong sự tội lỗi (x. Ga 9,41).

Ý lực sống: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18,23).

 

Suy Niệm 7: Đức Giêsu kêu gọi ông Lêvi

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Phụng vụ hôm nay chọn bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu gọi ông Lêvi, để trình bầy cho chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, để khích lệ chúng ta là kẻ có tội biết trông cậy vào Thiên Chúa tình thương.

Bài Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu thực hiện điều đó. Cứu một người thu thuế tội lỗi là Lêvi, còn gọi ông làm môn đệ, và còn ngồi ăn cùng bàn với những người tội lỗi khác. Ngài tuyên bố: ”Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”.

  1. Nghề thu thuế thời Đức Giêsu.

Một trong những tội bị người dân ghét nhất từ cổ chí kim là “cõng rắn cắn gà nhà”, hay là “nối giáo cho giặc”, vì họ cộng tác với ngoại bang làm khổ anh em đồng bào của mình. Là nhân viên thuế vụ, Lêvi làm việc cho Rôma đang cai trị dân Do thái, sưu cao thuế nặng, ức hiếp dân lành và làm giầu trên mồ hôi nước mắt của dân.

Người Do thái thời ấy coi kẻ thu thuế là vừa phản đạo vừa phản quốc và coi họ đứng ngang hàng với gái điếm, phải bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông cách ly. Không ai thèm chơi với họ. Họ chỉ chơi với quân xâm lược La mã và những tín đồ cặn bã của các Hội đường. Lêvi biết tất cả những điều ấy nhưng ông vẫn bất chấp, vì đổi lại ông được chức vụ rất hấp dẫn, đem lại của cải giầu sang.

  1. “Tôi đến kêu gọi người tội lỗi”.

Ai cũng biết, một bệnh viện mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì không còn là bệnh viện; người khỏe mạnh thì không cần đến bác sĩ. Cũng thế, Đức Giêsu không còn là Đấng Cứu Thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những người tự phụ cho mình là người công chính không cần đến Thiên Chúa.

Luật Do thái coi ai tiếp xúc với kẻ thu thuế là đồng lõa với tội lỗi, nhưng Đức Giêsu đã vượt lên tất cả. Chúa cứ gọi ông. Ngài không nhìn quá khứ của Lêvi, nhưng nhìn ông bắt đầu từ lúc ông và Ngài gặp nhau, còn quá khứ của ông thì Ngài đã quên hết rồi.

Người Do thái coi người thu thuế là hạng tay sai cho đế quốc, hạng người mang tiếng là ăn bẩn, tội lỗi. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, luật sĩ, tư tế luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa lại nói với họ: ”Ta đến không để gọi những người công chính, mà là gọi những người tội lỗi” và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”.

  1. Lòng thương xót của Thiên Chúa.

Việc kêu gọi Lêvi nói lên tình yêu thương của Chúa. Vì lòng thương xót nên Chúa hạ mình xuống nơi nhơ uế này. Vì lòng thương xót nên Ngài đưa mắt nhìn Lêvi. Không nhìn với ánh mắt khinh miệt, nhưng nhìn với tình yêu thương tin tưởng. Và thật lạ lùng với lòng thương xót Chúa kêu gọi Lêvi, một người tội lỗi, làm Tông đồ của Chúa.

Lòng thương xót đã biến đổi Lêvi. Từ một người tội lỗi thành một người thánh thiện. Từ một người phản đạo thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người theo đuổi tiền bạc thành một người tha thiết với các linh hồn. Từ một người ham mê tiền bạc thành một người siêu thoát dứt bỏ. Việc đổi đời, dứt bỏ được tiền bạc khiến ông vui mừng đến nỗi mở tiệc ăn mừng. Quả thật  tình yêu có sức biến đổi con người.

  1. Một phút hồi tâm.

Câu chuyện ơn gọi của Lêvi lại một lần nữa khẳng định, Đức Giêsu gọi ai thì Ngài không quan trọng đến thời điểm nào, lý lịch ra sao mà trên hết tất cả là Ngài nhìn thấy nơi ta có dám sẵn sàng bỏ hết tất cả để theo Chúa không?

Ngày hôm nay, nếu bạn đang ngồi nơi bàn giấy quyền cao lương hậu, đang vui thích với công việc đầy lợi nhuận… nếu Chúa gọi bạn theo ơn gọi tu trì, bạn có dám bỏ lại để theo Ngài không. Khi phải lựa chọn giữa một bên là đức tin và lề luật Công giáo và một bên là danh lợi vật chất, bạn có dám chọn Chúa không?

Ngày hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi bạn làm Tông đồ cho Chúa. Thế nhưng, bạn có đáp lại lời mời gọi của Chúa cách thành tâm, thiện chí hay không, dám từ bỏ không, hay còn đang vướng víu bởi những của cải vật chất làm cho tâm hồn trở nên nặng trĩu trước lời kêu gọi?

  1. Truyện: Cải tà qui chính.

Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Hãy xuống những con đường tồi tàn này”. Tác phẩm thuật lại viêc ông cải tà qui chính từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.

Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tai hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời mình.  Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm chung  với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chicô ngủ đã, anh mới quì gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng: ”Tôi bầy tỏ với Chuá những gì có trong trái tim tôi… Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng… Tôi cảm thấy dường như có thể khóc được… đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được”.

Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại: ”Amen”. Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri: ”Tôi cũng tin Chúa”. Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia sẻ quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói: ”Chúc Chicô ngủ ngon nhé! Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.

 

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu luôn mở rộng trái tim để đón nhận tất cả mọi người, đặc biệt Ngài yêu thương và đón nhận các tội nhân trở về với Chúa. Là tội nhân, tôi đã sẵn sàng trở về với Chúa chưa ?

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm phục Chúa đã tự mình đi đến với tội nhân trước, gặp gỡ và sống thân tình với họ. Điều quan trọng là chính Chúa đã đến và gọi đích danh từng người. Chúa quan tâm tới hết mọi người, nhất là thành phần vô danh trong xã hội, bị xã hội lên án, ruồng bỏ hoặc coi thường. Chúa đã gọi ông Lê-vi. Hôm nay Chúa cũng đi tìm và gọi con.

Lạy Chúa, ông Lê-vi đã đứng dậy, nghĩa là ông đã dứt khoát từ bỏ đường lối cũ. Hôm nay, Chúa cũng kêu mời con giã từ nếp sống ươn lười, tội lỗi. Xin ánh sáng Tin Mừng của Chúa soi chiếu tâm hồn con, để con nhận ra con người thật của mình, một con người mang nhiều yếu đuối và khuyết điểm.

Ông Lê-vi đã đi theo Chúa, nghĩa là hoàn toàn phó thác, cậy nhờ Chúa, sống với Chúa và vì Chúa. Xin sức mạnh của Chúa Quyền Năng tác động nơi con, để con đủ nghị lực đi theo Chúa, dám can đảm sống điều Chúa truyền dạy. Tự sức mình, con không thể thực hiện được những điều ấy. Nhưng với ơn Chúa, con sẽ làm được.

Lạy Chúa, ông Lê-vi đã mở tiệc mời Chúa. Nhưng ngày nay, chính Chúa đã mở tiệc mời con tham dự. Con được tham dự Bàn Tiệc Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Chúa tự nguyện đứng lên phục vụ con. Chúa tự hiến chính mình để trở thành lương thực nuôi sống con. Nay con nhận ra tình Chúa yêu thương con và con quyết tâm đứng dậy trở về với Chúa.

Lạy Chúa, xin đón nhận con. Amen.

Ghi nhớ: “Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.

 

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A.- Phân tích (Hạt giống…)

Bài đọc I trích sách Isaia tiếp tục nói về kiểu ăn chay đẹp lòng Thiên Chúa, đó là chấm dứt những việc làm bất công, rộng tay cứu giúp những người đói khổ, tôn trọng ngày hưu lễ.

Bài trích Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu thực hiện điều đó: cứu một người thu thuế tội lỗi là Lêvi, còn gọi ông làm môn đệ, và còn ngồi ăn cùng bàn với những người tội lỗi khác. Ngài tuyên bố “Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Tôi muốn sống cảnh tượng của Lêvi:

– Tôi là người tội lỗi

– Tôi đang “ngồi” yên tại “bàn” tội lỗi của tôi.

– Chúa đang “đi ngang” qua, Ngài “trông thấy” tôi rồi, Ngài “nói với” tôi: Hãy đi theo Ta.

– Tôi “bỏ mọi sự” – Tôi “đứng dậy” – Tôi “theo Người”.

  1. Nhà truyền giáo giảng đạo giữa rừng già Phi châu, dưới ánh trăng đêm và trong hoang lạnh của núi rừng. Ngài kể về đời sống và các phép lạ của Chúa Giêsu, cuối cùng là cái chết trên thánh giá. Ngồi trước bục giảng là viên tù trưởng. Ông chăm chú nghe lời nhà truyền giáo. Khi ngài tả việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá, vị tù trưởng bổng đứng phắt dậy nói: ”Ngừng lại! Hãy đem Ngài xuống khỏi thánh giá! Tôi mới là người đáng phải đóng đinh trên đó, chứ không phải Ngài!”Vị tù trưởng nghĩ rằng mình mới là tội nhân, còn Chúa Giêsu vô tội. (Góp nhặt)

 

Suy Niệm 7: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Trong tất cả những người sống ở Palestine, thì những người làm nghề thu thuế là những kẻ bị khinh miệt hơn hết. Người Do Thái liệt những người thu thuế vào chung với những tên trộm cướp, sát nhân.

Những người thu thuế bị người Do Thái coi khinh cũng phải bởi vì họ thường lạm dụng quyền hành của mình để sách nhiễu làm khổ dân chúng. Tại sao thế ? Thưa, vì hệ thống thuế má đã tạo ra nhiều cơ hội cho những lạm dụng như thế.

Người Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế. Họ ấn định một mức thuế nào đó cho một vùng. Họ bán quyền thu thuế cho ai trả giá cao nhất, miễn là cuối năm người đó nộp đủ số tiền ấn định là được. Ngoài ra thì người thầu được quyền giữ lại bất kỳ món tiền nào họ thu thêm được từ dân chúng. Đây là điểm dễ sinh ra những lạm dụng nhất.

  1. Vậy mà Chúa Giêsu đã chọn một người bị xã hội khinh rẻ như thế làm môn đệ Ngài.

Chúa Giêsu không phải không biết điều đó. Thế nhưng, cái nhìn của Chúa trên con người này thật khác xa với cái nhìn thông thường của dân chúng. Trước mặt Chúa, Lêvi là một con người bệnh hoạn đang cần đến Thầy thuốc và Chúa Giêsu chính là thầy thuốc mà con người này cần đến. Chính cách đối xử bao dung của Chúa đã làm cho Lêvi được khoẻ mạnh lại và hơn nữa còn làm cho ông trở thành một dụng cụ đắc lực trong tay của Chúa sau này.

Sự bao dung thường đem lại những thành quả tốt đẹp, nhiều khi con người chúng ta không lường được.

Ngày 17/7/1990, cả thế giới thương tiếc vì sự ra đi của bà Peggy Mann. Bà đã an bình ra đi để lại bao luyến nhớ cho gia đình cũng như cho nhiều người trên toàn thế giới. Lý do vì bà là một người đã có những cống hiến và những hoạt động không biết mệt mỏi cho việc chống ma túy. Bà đã mang lại rất nhiều lợi ích cho nhiều người. Trước khi nhắm mắt từ giã cõi đời, nhìn thấy bên giường có chồng và con gái thân yêu, bà đã thầm nói với người con gái: “Mẹ mãn nguyện, con gái của mẹ, về những bài mẹ viết để chống lại ma túy”. Kéo ông đến gần hơn, bà nói rất rõ bằng một giọng xúc động: “Em yêu anh biết bao!” Đó là câu nói cuối cùng của bà.

Sau khi bà Peggy nằm xuống, con gái bà là cô Jenifer Mann đã kể lại câu chuyện sau đây, một mặt như bổ sung vào công trình của mẹ một phương pháp nữa trong nỗ lực đẩy lùi tệ nạn nghiện ngập ma túy, và mặt khác cũng để cho mọi người biết, nguyên nhân nào đã thúc đẩy và tạo quyết tâm cho bà, để bà nỗ lực làm việc không biết mệt mỏi chống lại với ma túy để bảo vệ gia đình.

Cô nói “Khi mẹ tôi biết tôi dùng ma túy, bà rất khổ tâm nhưng chưa vội nói gì. Từ hôm ấy, bà bắt đầu đọc các sách báo nói về ma túy để tìm hiểu tính chất độc hại và các hậu quả mà ma túy gây ra. Bà đọc một cách cặn kẽ, chính xác và đầy đủ. Hai tuần sau, mẹ tôi gọi tôi lại và nói:

– Mẹ biết là con không muốn mẹ giảng giải dài dòng về tác hại của ma túy. Thôi thì từ nay mỗi tối, khi nghe đồng hồ đổ “binh binh” báo hiệu giờ đi ngủ, mẹ sẽ nói cho con biết một điều rất ngắn về ma túy thôi.

Tôi không phản đối gì. Đêm đầu, khi đồng hồ đổ “binh binh”, mẹ tôi nói: “Con có biết không, chỉ hút 3 điếu thuốc có ma túy là làm hại phổi bằng 20 điếu thuốc lá bình thường không ?”. Đêm thứ hai: “binh binh” “Con có biết là hút ma túy liên tục thì hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể bị hủy hoại không ?”. Đêm thứ ba “binh binh”, “Con có biết ma túy có hại đến đời sống tính dục, làm phụ nữ có thể sinh ra quái thai không ?” Tất cả những điều mẹ tôi nói đều rất chính xác và có những số liệu chứng minh rõ ràng. Bà nói với tôi bằng một giọng thật bình tĩnh và tràn đầy yêu thương với mong ước cho tôi hiểu tác hại khôn lường của ma túy và can đảm đứng lên làm lại cuộc đời.

Một đêm, tôi ngồi trên giường, hai tay ôm đầu suy nghĩ. Lòng tôi dâng tràn tình yêu dành cho mẹ, Tôi khóc và chạy sang phòng bà. Hình như đêm đêm bà đều chờ đợi tôi như vậy. Tôi ngã vào vòng tay mẹ tôi trong dòng nước mắt và lời nói nghẹn ngào, tôi thì thầm trên ngực bà: “Con nhất định từ bỏ ma túy”. Hai tay bà nâng mặt tôi lên và nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi thấy nụ cười rạng rỡ, ánh mắt vui mừng của mẹ và cả hai hàng nước mắt đầm đìa trên má. Bà ôm chặt tôi vào lòng và khẽ nói vào tai tôi: “Ôi! Con yêu…. con yêu”. Và từ giây phút đó cuộc đời tôi hoàn toàn đổi khác.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ lòng bao dung của Chúa. Xin cho chúng con một quả tim rộng lớn bao dung, để chúng con cũng biết tha thứ và cảm thông với mọi người. Amen.