Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 2 Phục Sinh

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 2 Phục Sinh

Thứ hai tuần 2 Phục Sinh.

Thứ ba tuần 2 Phục Sinh.

Thứ tư tuần 2 Phục Sinh.

Thứ năm tuần 2 Phục Sinh.

Thứ sáu Tuần 2 Phục Sinh.

Thứ bảy Tuần 2 Phục Sinh.

Thứ hai tuần 2 Phục Sinh

 Lời Chúa: Ga 3, 1-8

Khi ấy, trong nhóm biệt phái, có người tên là Nicôđêmô, một đầu mục của người Do-thái. Ông đến thăm Chúa Giêsu ban đêm và thưa rằng: “Lạy Thầy, chúng tôi nhận biết Thầy là một vị tôn sư Thiên Chúa uỷ phái đến. Vì không ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người đó”. Chúa Giêsu đáp: “Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa”. Nicôđêmô thưa Chúa rằng: “Một người đã già, làm sao có thể tái sinh? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?”

Chúa Giêsu đáp: “Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy”.

SUY NIỆM 1: Cửa ngõ vào Nước Thiên Chúa

Trong đoạn Phúc Âm hôm nay chúng ta hãy chú ý đến tinh thần và dung mạo của ông Nicôđêmô, một người thuộc nhóm Pharisiêu, tức biệt phái và là thủ lãnh của dân Israel. Hai chi tiết này cho chúng ta biết là dung mạo nhân bản và thiêng liêng của ông.

Nicôđêmô là một nhà trí thức thông biết Kinh Thánh Cựu Ước và đã thành danh, có địa vị trong dân Israel, có những đặc quyền và đặc ân trong xã hội và có những bổn phận phải chu toàn cũng như những lợi danh cần duy trì. Ðể duy trì danh thế này, ông Nicôđêmô không dám công khai đến với Chúa mà chỉ muốn đến với Chúa ban đêm để người ta đừng trông thấy, để khỏi bị phiền phức và để khỏi bị mất uy tín xã hội mà ông đang vui hưởng.

Nhìn từ bên ngoài và trên bình diện tự nhiên nhân bản, thì có thể nói một người như ông Nicôđêmô đã được thỏa mãn trọn đủ, công thành danh toại rồi, không còn phải nghĩ thêm gì nữa. Tuy nhiên, nếu xét thêm một chút nữa, chúng ta sẽ thấy được một khao khát sâu xa nơi tâm hồn của ông Nicôđêmô, khao khát về ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống, khao khát một cuộc mạc khải trọn vẹn hơn về Thiên Chúa. Ông đã nghe biết giáo lý có uy tín của Chúa Giêsu nên đã dám gọi Chúa là một vị tôn sư và đã quan sát đúng việc lạ Chúa thực hiện và lý luận một cách tự nhiên là có Thiên Chúa hiện diện nơi con người mang danh Giêsu đây. Ông đã mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời công nhận chân thành: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả thật, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy”. Với thái độ sống như vậy, ông Nicôđêmô không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu. Nhưng điều mà cái nhìn phàm trần cho là lợi điểm của ông Nicôđêmô, tức sự hiểu biết của trí khôn, lại trở thành một cản trở, vì nếu muốn hiểu mọi sự nên ông Nicôđêmô chưa được chuẩn bị để đón nhận mầu nhiệm. Ông đã thắc mắc về ý nghĩa của việc sinh ra lại “Làm sao một người lớn tuổi mà có thể chui vào bụng mẹ để được sinh ra lại?”

Chúa Giêsu phải chuẩn bị thêm cho ông Nicôđêmô và long trọng xác nhận với ông rằng để theo Chúa, con người không thể ỷ lại vào sự hiểu biết hay vào lý lẽ khôn ngoan của con người. Cần phải được biến đổi bởi nước và Thánh Thần. Cần phải khiêm tốn lãnh nhận ân sủng Chúa ban và vâng phục sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa nếu không được sinh lại bởi ơn trên, không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần.” Bí tích rửa tội và ơn Chúa Thánh Thần là cửa ngõ mở vào Nước Thiên Chúa.

Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vô cùng vì đã ban ơn Thánh Thần xuống để sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con, xin giải thoát chúng con khỏi mọi tội lỗi và làm cho chúng con được sinh ra lại trong Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Cha thương cho Chúa Thánh Thần hoàn tất trong mỗi người chúng con điều mà ân sủng bí tích Rửa Tội đã bắt đầu. Xin cho chúng con có thái độ khiêm tốn để lãnh nhận những sự thật do Chúa mạc khải và can đảm làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Gió muốn thổi đâu thì thổi

Đức Giêsu đáp:

“Thật, tôi bảo thật ông:

không có ai có thể vào Nước Thiên Chúa,

nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.

Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt;

Còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là Thần khí. (Ga. 3, 5-6)

Để đào sâu mầu nhiệm phục sinh, cần đọc lại Tin mừng theo thánh Gio-an. Đức Giêsu dầu gắn bó với những thực tại dưới đất, Người không ngừng hướng dẫn chúng ta vượt các thực tại đó để đi tới đức tin cho ta đạt tới vinh quang Thiên Chúa. Trong ba ngày này, chúng ta đọc lại cuộc đàm thoại của Đức Giêsu với ông Ni-cô-đem. Cần thiết chúng ta phải biết “tái sinh” mới tham dự được vào đời sống của Đức Kitô phục sinh vừa là nguồn sống vừa là cùng đích của ta. Chỉ xác tín niềm tin như ông Ni-cô-đem chưa đủ: “Quả thật, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy”. Cần phải có biến cố phục sinh để làm cho chúng ta đi sâu vào đời sống mới.

Đời sống mới ở đây cũng như nhiều nơi khác trong Tin mừng thánh Gio-an là sinh lại, sinh bởi ơn trên, không do đàn bà, nhưng do ơn Thánh Thần. Ngài là sự sống và là Đấng ban sự sống. Con người xác thịt được trở nên phần tử của nước Thiên Chúa, thành một người mới. Phép Rửa tội sinh ra ta trong Thánh Thần, đó là cách cho ta tham dự vào sự sống lại của Đức Giêsu. Thánh Thần làm cho ta nên con Thiên Chúa, cho ta sống trong con Thiên Chúa, hành động của Ngài khôn lường. Ngài là Thần Khí cao cả hơn lý trí con người, là gió, là hơi thở của Chúa Cha.

Không có sức bật nếu không ở trong Ngài. Chính nhờ Thánh Thần biến đổi dần dần đời sống chúng ta nên mạnh mẽ và gắn bó với Đức Kitô. Trong Ngài ta được thấy nước Thiên Chúa. Nhờ Ngài ta gọi Đức Giêsu là Chúa. Không có thể làm gì mà không Thánh Thần (1Cor. 12, 3). Đức tin không phải là tột đỉnh của suy luận, cũng không phải thần hứng chóng qua, nhưng là sự tìm tòi, phấn đấu chân thành lâu dài mà một người phải chấp nhận luôn luôn khởi sự lại tất cả. Ba Tin mừng nhất lãm đều nói: “Phải trở nên như con trẻ, nhỏ bé, nghèo hèn để đón nhận ơn cứu độ nước trời. Tin mừng Gio-an nói đến tái sinh, để nhờ sức mạnh của Thánh Thần làm cho nên “một tạo vật mới” như thánh Phao-lô nói trong thư Ga-la-ta (6, 15).

LP

SUY NIỆM 3: ĐỨC TIN SẼ GIÚP TA NHẬN RA PHÉP LẠ (Ga 3,1-8)

Ngày nay, chúng ta vẫn thường nghe, hay chứng kiến đây đó những phép lạ nhờ sự can thiệp của đấng này hay đấng nọ… Tuy nhiên, phép lạ có cần thiết cho đức tin của chúng ta hay không? Có phải do phép lạ mà chúng ta mới có đức tin hay nhờ đức tin mà chúng ta nhận ra phép lạ? Đây là điều chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài Tin Mừng hôm nay.

Thánh sử Gioan trình thuật câu chuyện giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô. Sau khi Nicôđêmô chân nhận uy quyền của Đức Giêsu và tuyên xưng Ngài là Đấng bởi Thiên Chúa, ngay lập tức, Đức Giêsu đã dẫn ông từ những cảm nghiệm bên ngoài qua các dấu lạ đến việc đưa ông vào trọng tâm, nội dung và hệ quả của niềm tin.

Vì thế, điều cần đối với Nicôđêmô ở đây không phải là dừng lại ở những dấu lạ hay đưa ra một vài lời nhận định về Đức Giêsu, bởi những thứ đó chẳng đi đến đâu nếu không dẫn ông đến mầu nhiệm Nước Trời qua việc tái sinh bởi Nước và Thánh Thần. Tái sinh để trở về với một cuộc sống mới, lối suy nghĩ và hành xử mới. Nhất là cần có một tâm hồn thánh thiện, đơ sơ của trẻ thơ.

Tại sao Đức Giêsu lại đòi hỏi Nicôđêmô một điều kiện lớn lao như vậy? Thưa, bởi vì ông vốn là một Pharisêu, vì thế, cần phải đi đến hành động cách chân thực, chứ không chỉ có niềm tin khơi khơi trên giấy tờ, sách vở như các đồng môn của ông!

Như vậy, điều cần đối với Nicôđêmô lúc này là: nhạy bén để nhận ra Chúa và thi hành những điều Ngài truyền dạy chứ không phải chỉ là người đứng bên ngoài để nhận định về những phép lạ cũng như những lời dạy của Ngài. Đồng thời, cần khám phá ra ý nghĩa sâu xa nơi các phép lạ và thay đổi đời sống, chứ không dừng lại ở những chuyện phi thường trước mắt.

Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cốt lõi về Bí tích Thánh Tẩy. Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên tạo vật mới nhờ mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Ngài. Đây là điều hãnh diện cho mỗi chúng ta. Tuy nhiên, điều làm nên hạnh phúc lại không phụ thuộc hoàn toàn dựa trên dấu chỉ bề ngoài cho bằng một cuộc sống đạo thực sự được thúc đẩy từ bên trong nơi lòng mến.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con ơn can đảm để dám sống theo tinh thần của Chúa, và xin cho chúng con được ơn biến đổi từng ngày để xứng đáng là con Chúa và trở nên anh chị em với nhau. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 4: Được sinh ra từ trên

Mùa Phục sinh là thời gian những người dự tòng lãnh bí tích Thanh Tẩy.

Tuy họ là những người đã lớn khôn trưởng thành,

nhưng bí tích Thanh Tẩy đưa họ vào một cuộc sống mới,

cuộc sống như trẻ thơ được sinh lại nhờ Thánh Thần.

Để bước vào cuộc đời này, cần có một người cha sinh ra mình.

Để vào Nước Thiên Chúa, con người cần được Cha trên trời sinh ra.

Con người có sự sống đời này khi Chúa còn ban hơi thở tự nhiên.

Con người có sự sống vĩnh cửu khi được Chúa ban Thần Khí.

Bài Tin Mừng hôm nay nói về sự sinh ra bởi Thần khí, sinh ra từ trên.

Trong đêm tối, ông Nicôđêmô, một vị chức sắc của Thượng Hội Đồng,

đến gặp Đức Giêsu, người mà ông kính trọng gọi là Rabbi.

Ông tin Thầy Giêsu đến từ Thiên Chúa,

và vì Thầy có Thiên Chúa ở cùng nên Thầy mới làm được nhiều dấu lạ.

Có vẻ ông định hỏi Thầy về việc làm sao vào được Nước Thiên Chúa.

Đức Giêsu cho biết phải được sinh ra từ trên (anôthen).

Trong tiếng Hy-lạp, anôthen còn có nghĩa là lại, lần nữa.

Có lẽ vì thế mà Nicôđêmô tưởng là Đức Giêsu nói đến việc sinh lại.

Chính vì thế ông nêu lên thắc mắc :

“Một người đã già rồi, làm sao người ấy có thể được sinh lại lần nữa.”

Dĩ nhiên chúng ta không cần phải vào lòng mẹ lần thứ hai.

Nhưng kitô hữu thực sự phải là người đã được sinh ra bởi Thần Khí.

Tương tự như gió ở chung quanh ta.

Chúng ta chỉ có thể thấy những hậu quả của gió, nhưng không thấy được gió.

Người được sinh bởi Thần Khí cũng vậy.

Chúng ta cũng không rõ cách thức Thần Khí hoạt động nơi người ấy,

nhưng chúng ta nhìn thấy sự biến đổi sâu xa nơi cuộc đời mỗi người.

Mùa Phục sinh là thời gian của sự sống.

Chúng ta đã được sinh lại từ khi lãnh nhận Phép Rửa.

Hãy để cho sự  sống đó được làm mới lại và được lớn lên từng ngày.

Hãy để Thần Khí của Đấng Phục sinh nâng chúng ta lên cao,

để chúng ta thực sự là những người được sinh ra từ trên.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh

xin ban cho con sự sống của Chúa,

sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa,

bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa,

niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa,

hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,

Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Thứ ba tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 3, 7-15

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy”.

Nicôđêmô hỏi lại rằng: “Việc ấy xảy ra thế nào được?” Chúa Giêsu đáp: “Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời”.

SUY NIỆM 1: Ðược Sống Muôn Ðời

Chúng ta chiêm ngắm hai vị thầy gặp nhau trong đêm thanh vắng để trao đổi điều quan trọng mà không bị phiền phức. Ông Nicôđêmô là vị thầy của người Do Thái, một nhà thông thái muốn biết nhiều hơn nữa về Chúa Giêsu và ông đã nhìn nhận như Người đến từ Thiên Chúa, và nhất là có Thiên Chúa ở cùng, vì những dấu lạ được thực hiện, những dấu lạ chưa có ai làm được như vậy.

Ông Nicôđêmô là vị thầy trên trần gian này, còn Chúa Giêsu là vị Thầy từ trên cao xuống, từ cung lòng Thiên Chúa Cha mà đến: “Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống”. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn xác nhận cho ông Nicôđêmô rằng: “Thật, tôi bảo thật ông. Chúng tôi nói những điều chúng tôi đã thấy”, đó là uy tín của Chúa Giêsu Kitô, vị Thầy đến từ Thiên Chúa Cha. Lời quả quyết của Chúa với ông Nicôđêmô làm cho chúng ta nhớ lại lời quả quyết nơi đầu sách Phúc Âm theo thánh Gioan như sau: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).

Ông Nicôđêmô đến với Chúa Giêsu với khả năng trí khôn của ông, muốn hiểu biết sự thật. Nhưng Chúa Giêsu lại mời gọi ông làm một điều khác. Ðừng ỷ lại vào khả năng trí khôn của mình nữa mà hãy nhờ đến sức mạnh từ trên cao của Chúa Thánh Thần. Ông phải sinh ra lại và sinh ra từ ơn trên và tin vào Thiên Chúa: “Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống. Như con rắn của Môisen, Con Người cũng sẽ phải được giương cao để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.”

Ðược sống muôn đời, đó là điều quan trọng nhất, đó là mục tiêu cuối cùng của con người, đó là một hồng ân cần được con người khiêm tốn đón nhận, chứ không phải là đối tượng để hiểu biết suông mà thôi. Trong cuộc đối thoại, chúng ta thấy Chúa Giêsu không ngừng mời gọi nơi ông Nicôđêmô nâng tâm hồn mình lên, hãy để cho Thánh Thần thanh tẩy để có thể nhìn thấy và bước vào trong Nước Thiên Chúa. Hơn nữa, cũng trong cuộc đối thoại này, chúng ta có thể ghi nhận một mạc khải quan trọng khác nữa, đó là Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống cho con người nhờ qua và sau cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, qua và sau cái chết, sự Phục Sinh của Chúa. Cùng với ông Nicôđêmô, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để cho Ngài dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha và đồng thời sẵn sàng lãnh nhận Chúa Thánh Thần.

Lạy Chúa, xin hãy dạy cho con biết những việc trên trời. Xin hãy nói cho con biết tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người. Xin hãy tái sinh con trong Thánh Thần cho con được trở nên Thánh, để giống Chúa mỗi ngày một hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Thánh Thần dẫn tới đâu?

Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói:

Các ông cần sinh ra lại bởi ơn trên.

Gió muốn thổi đâu thì thổi;

Ông nghe tiếng gió,

Nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu.

Ai bởi Thần Khí mà sinh ra cũng vậy.” (Ga. 3, 7-8)

Trong cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đem, sau khi mở cho ông thấy niềm hy vọng được sinh vào đời sống mới, Đức Giêsu đã tự tỏ mình ra, tỏ cuộc sống đã từng trải của Người ra cho ông và nói với ông rằng: “Ai bởi Thánh Thần mà sinh ra thì cũng vậy”.

Chính Người đã sinh ra bởi Thánh Thần, nghĩa là Người sống hoàn toàn dưới ảnh hưởng của hoạt động của Thiên Chúa, của động lực Thiên Chúa. Đức Giêsu nói điều mình biết. Điều Người biết về Thiên Chúa thì Người nói ra, nên chứng của Người là chân thật.

Đức Giêsu cũng nói những dự tính về sứ mệnh tương lai của Người. Nên ai sinh ra bởi Thánh Thần không phải chỉ được sống mà còn lãnh một sứ mệnh như Đức Giêsu. Ai sinh bởi Thánh Thần còn được kêu gọi lên cao.

Điều Đức Giêsu dự tính, chính là sứ mệnh cứu chuộc bằng dấu Thánh giá: “Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người đã từ trời xuống”, hay như thánh Phao-lô nói: “Người đồng phận với Thiên Chúa mà đã không nắm lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Người đã hủy mình đi, hạ mình xuống làm thân phận loài người”.

Tiếp nối cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đem, Đức Giêsu nói để được tái sinh, nghĩa là sống dưới ảnh hưởng của Thánh Thần tái tạo, thì phải theo đường lối Thánh Thần đề ra. Bất cứ ai sinh bởi Thánh Thần đều phải bắt tay hành động theo đường lối lên cao, con đường treo lên thập giá, hay nói cách khác, con đường hiến mạng sống mình cho người khác.

Cử hành Thánh lễ là chúng ta sẽ sống cuốn hút vào của lễ Đức Kitô hiến dâng mình cho muôn người, trong khiêm tốn vâng lời Đức Chúa Cha và ngoan ngoãn theo Chúa Thánh Thần. Nhận biết ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần đối với Đức Kitô có thể là lý do chính chúng ta dâng lễ tạ ơn và tiếp rước cũng một Thánh Thần đến trên của lễ chúng ta xin ơn hôm nay.

C.G

SUY NIỆM 3: Điều kiện căn bản: “niềm tin”

Một tờ báo Công giáo địa phương ở Chicago có đăng trong chương trình “sống đạo” mẩu chuyện như sau: có đôi vợ chồng chung sống với nhau được ba mặt con. Người chồng cũng là người Công giáo, nhưng chủ trương cuộc đời chỉ có ba lần đến nhà thờ: “Rửa tội, lễ cưới và sau khi chết”. Ngược lại, người vợ là một tín đồ ngoan đạo, đêm ngày bà cầu nguyện cho chồng. Lời cầu nguyện của bà hầu như vô vọng khi người chồng đổi công việc làm ăn ở tiểu bang Texas, miền Nam Hoa Kỳ.

Suốt ba tháng trời, bà và các con chẳng được tin tức gì của chồng, nếu có chăng nữa thì cũng chỉ là những tin buồn do người quen kể lại. Họ nói rằng chồng của bà kể như hư đốn hoàn toàn. Ông ta đã sa vào cảnh cờ bạc, rượu chè, chẳng còn nhớ đến ai. Mấy tin tức như thế đã làm cho bà thêm lo lắng xao xuyến. Tuy nhiên, không vì thế mà bà quên cầu nguyện.

Bỗng một đêm kia, khi gia đình đã hoàn toàn chìm vào giấc ngủ, bà nhận được một cú điện thoại từ xa gọi về. Bên kia đầu dây là giọng nói thổn thức của người chồng từ Texas gọi về cho bà. Ông ta đã nói với bà như sau: “Em yêu dấu! Ðây là lần đầu tiên trong cuộc đời anh đã thành tâm quì gối cầu nguyện. Anh đã quì gối không phải trong nhà thờ hoặc một nơi thánh nào đó. Nhưng anh đã quì gối ngay tại chốn ăn chơi. Các bạn anh cười nhạo tưởng anh đã hóa khùng. Có thể đúng. Anh đang khùng, khùng vì Ðức Kitô, vì anh đã trở về với Ngài”.

Anh chị em thân mến!

Trong lúc tưởng chừng như sự việc không còn cách gì để cứu vãn, thì lòng tin bền bỉ của người đàn bà được Thiên Chúa đáp lời. Một lời đáp thật bất ngờ dưới con mắt người đời: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió nhưng chẳng biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi đâu”. Những câu hỏi: nơi nào, khi nào, và thế nào đã được con người đặt ra cho Thiên Chúa chắc chắn là những câu hỏi chẳng bao giờ con người được thỏa mãn vì những sự việc dưới đất họ chưa hiểu hết thì làm sao có thể hiểu được những việc trên trời.

Tuy nhiên, dù cho đang lần mò trong tăm tối của hiểu biết như thế, con người vẫn không bị thất vọng, lạc lối, vì luôn luôn Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ một lối đi dẫn tới vĩnh cửu. Ðường lối ấy do chính Con Một Thiên Chúa từ trời cao xuống vạch ra cho tất cả loài người. Hết thảy mọi người đều được kêu mời đến.

Như ngày xưa, Môisen đã treo con rắn đồng trên sa mạc để cho dân được chữa lành thì hôm nay Con Một Thiên Chúa cũng được treo trên cao để mọi người được cứu thoát. Ngài được treo trên cao cho hết mọi người nhìn thấy, Ngài mở lối cho tất cả bước vào nhưng rồi không phải hết thảy đều đạt mục đích.

Một nhân vật thông thái của hội đường Do Thái là Nicôđêmô đang đứng trước ngưỡng cửa dẫn vào lối sống, thế mà ông vẫn chưa tìm được lối vào chỉ vì ông thiếu một điều kiện căn bản: “niềm tin”.

Thiếu “niềm tin” mọi hiểu biết đều dẫn đến sai lạc vì mọi vận hành trong vũ trụ này không riêng lẻ độc lập nhưng liên hệ với Ðấng đã tạo thành nó. Niềm tin là chiếc cầu cho phép con người bước từ cõi đất lên cõi trời. Niềm tin là ngọn đèn soi tỏ ý nghĩa của mọi sự vật và mọi biến cố xảy đến. Mọi sự vật và mọi biến cố xảy đến không đơn thuần chỉ là những gì con người có thể cảm biết, còn có những ý nghĩa tàng ẩn đàng sau mà chỉ niềm tin mới vén mở cho con người trọn vẹn ý nghĩa của chúng.

Lạy Chúa, xin cho con nhận ra được những thiếu sót trong vốn hiểu biết mà bấy lâu nay như Nicôđêmô, con vẫn hằng tự mãn bằng lòng. Xin cho con biết rằng chỉ có niềm tin mới ban cho con một sự hiểu biết trọn vẹn ý nghĩa của con. Một cuộc sống không hạn hẹp trong cõi đất nhưng được bắt nguồn từ cõi trời. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

SUY NIỆM 4: TIN ĐỂ HIỂU (Ga 3, 7b-15)

Tin Mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua, vì thế, vẫn trong bối cảnh giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô xoay quanh câu chuyện tái sinh và sự sống đời đời.

Thật vậy, vấn đề sự sống đời đời là một chủ đề lớn và vấn nạn ấy khiến cho con người ở mọi thời không ngừng suy tư!

Thấy được Nicôđêmô là một người chân chính, lòng dạ ngay thẳng, không có gì gian dối, nên khi ông chân thành đến với Đức Giêsu và tin tưởng Ngài là vị thầy tâm linh sẽ giúp ông đạt được điều mà ông hằng thao thức! Đức Giêsu đã không ngần ngại để mặc khải cho ông biết phải làm gì và phải làm như thế nào để đạt được sự sống ấy. Ngài nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời”. Nói như thế, Đức Giêsu đã mặc khải thiên tính của Ngài cách cụ thể, để như một con đường và mời gọi Nicôđêmô đi trên con đường ấy thì được cứu độ.

Tiếp theo, Đức Giêsu muốn củng đức tin thêm cho ông, nên Ngài khẳng định: “Thật, tôi bảo thật ông: ‘Chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy”.

Con đường cụ thể mà Đức Giêsu đề ra cho Nicôđêmô là con đường sinh lại từ ơn trên, nghĩa là cần được tái sinh, đổi mới nhờ Thần Khí. Ai đi trên con đường ấy là đi theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mà đường lối của Chúa Thánh Thần chính là đường lối từ trên cao, con đường Gongotha, con đường thập giá, con đường cứu độ bằng cái chết…

Qua cách thức của Đức Giêsu, Ngài đã dẫn Nicôđêmô từ chuyện cố hiểu để tin, sang tình trang tin để hiểu.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn để Lời Chúa được thấm vào trong tâm hồn của mình. Bởi vì nếu không khiêm tốn, thì hồng ân đức tin không thể đến với những người kiêu ngạo.

Sự sống đời đời được trao ban là do phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa chứ không phải do kiến thức mà ta có được. Vì thế, cần phải sám hối để đón nhận mạc khải của Chúa và trung thành đi theo đường lối ấy thì mới mong được cứu độ.

Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người, đó là: hiểu biết điều nào phải tin; hiểu biết điều nào phải ước ao; và hiểu biết điều nào phải thực hiện. (Thánh Thomas Aquinas)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho mỗi người chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa và sẵn sàng đi trên đường lối cứu chuộc mà Chúa mạc khải cho chúng con. Xin cho chúng con được ơn biến đổi hằng ngày để được trở nên con người thánh thiện nhờ được ơn Chúa thanh tẩy. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: Ai tin được sống muôn đời

Suy niệm:

Con người hôm nay vừa bị hấp dẫn bởi cái chết,

vừa bị lôi kéo bởi cuộc sống đời này.

Cuộc sống hôm nay cho chúng ta nhiều tiện nghi thoải mái.

Nó mời chúng ta hưởng thụ, mua sắm, tiêu dùng.

Luôn luôn xuất hiện những mẫu mã mới hơn, tốt hơn, đẹp hơn.

Con người vất vả làm việc để có thể mua được món hàng do mình chế tạo.

Cuộc sống vừa dễ chịu hơn, vừa mệt mỏi hơn bởi vô số những nhu cầu.

Con người hôm nay có hạnh phúc hơn xưa không?

Những thức ăn trần thế có đủ làm con người mãn nguyện không?

Người Kitô hữu quý chuộng cuộc sống ở trần thế này,

nhưng họ hiểu tính chất mau qua và tương đối của nó.

Như Đức Giêsu, họ cũng phải đi qua cuộc sống đời này,

nếm đủ mọi mùi vị của phận người, chịu đựng mọi khó khăn thách đố,

trước khi về với điểm đến chung cục là cuộc sống đời sau.

Thiên đàng, Nước Thiên Chúa hay sự sống vĩnh cửu

là những từ diễn tả hạnh phúc đang chờ đợi người Kitô hữu sau cái chết.

Họ biết mình từ đâu đến và biết mình sẽ đi đâu.

Họ biết phân biệt những ga xép với đích đến cuối cùng.

Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu khẳng định

chẳng ai được vào Nước Thiên Chúa nếu không được sinh ra bởi Thần Khí.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại khẳng định:

“Ai tin vào Con Người thì có sự sống vĩnh cửu” (c.15).

Vào Nước Thiên Chúa đồng nghĩa với có sự sống vĩnh cửu.

Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc để ai nhìn lên thì được khỏi,

Con Người cũng phải được giương cao để ai tin thì được sự sống vĩnh cửu.

Sự sống vĩnh cửu là hoa quả của mầu nhiệm được giương cao.

Đức Giêsu được giương cao khi bị treo trên thập giá,

được giương cao khi được Cha phục sinh,

và được giương cao khi được Cha đưa về trời.

Chính vì Đức Giêsu bị đóng đinh, được phục sinh và về trời

nên chúng ta được sinh lại từ trên nhờ Thần Khí,

được vào Nước Thiên Chúa và có sự sống vĩnh cửu.

Kitô hữu là người đang trên đường về quê hương đích thật.

Đấng từ trời xuống nay đã lên trời (c. 13),

và lôi kéo chúng ta lên với Ngài (Ga 12, 32).

Làm thế nào chúng ta thoát khỏi sức kéo xuống của vật chất?

Làm thế nào chúng ta sống nhẹ nhàng hơn để kéo thế giới quanh ta bay lên?

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu phục sinh

Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,

xin cho con biết sống

cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,

Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.

Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.

Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.

Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.

Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.

Vượt qua những thành kiến con có về người khác…

Chính vì Chúa đã phục sinh

nên con vui sướng và can đảm vượt qua,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh

gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,

tin tưởng và niềm vui.

Ước gì ai gặp con

cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thứ tư tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 3, 16-21

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.

Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.

SUY NIỆM 1: Đi rao giảng Tin Mừng

Câu đầu tiên của đoạn Phúc Âm hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ lại tình trạng tinh thần của các tông đồ lúc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến và trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Chúa. Tình trạng đó là tinh thần của nhóm mười một trước và liền sau biến cố Vượt Qua. Các ông chậm hiểu hay chưa hiểu gì về mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa Giêsu.

Hơn nữa, sau khi Chúa đã sống lại và đã hiện ra cho một số đồ đệ để những người này loan báo tin vui Chúa sống lại cho các ông, thì các ông còn cứng lòng không tin, đến độ bị Chúa khiển trách. Phúc Âm ghi lại cho chúng ta như sau: “Sau cùng, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng. Bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người phục sinh”. Các tông đồ còn có thái độ tiêu cực như vậy. Mặc dù đã theo Chúa ngay từ đầu và đã được Chúa huấn luyện đặc biệt hơn dân chúng trong suốt thời gian sống bên cạnh Chúa.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không thất vọng, không bỏ đi chương trình cứu rỗi nhân loại, không rút lại những gì Chúa muốn các ngài thực hiện, vì thế, Chúa ra lệnh cho các tông đồ và cho những ai tiếp tục sứ mạng của Ngài trong dòng thời gian:

“Hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Hãy làm chứng cho Chúa khắp nơi”, đây là sứ mạng quan trọng nhất liên quan đến tương lai của Giáo Hội Chúa trong lịch sử nhân loại. Sứ mạng được cô đọng lời Chúa Giêsu cho các tông đồ như sau: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin thì sẽ bị kết án”. Chúa Giêsu Phục Sinh đã không ngần ngại trao phó cho những con người bất toàn một sứ mạng rất cao cả. Chúa tỏ cho thấy Người cần đến sự cộng tác của con người phàm trần, có và còn rất nhiều khuyết điểm để thực hiện sứ mạng cứu rỗi. Những khuyết điểm của những con người đã được tuyển chọn, không thể làm hư chương trình của Người.

Nơi các Phúc Âm khác, chúng ta biết thêm là Chúa ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ để biến đổi các ông thành những con người mới, xứng đáng hơn với sứ mạng. “Các con sẽ lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sẽ làm chứng cho Thầy”. Phần thánh sử Marcô, thì ngài tóm gọn thái độ đáp trả của các tông đồ nơi câu cuối cùng của sách Phúc Âm của ngài như sau: “Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.

Hiện tại và tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên kinh nghiệm sống căn bản trên. Chúa luôn hoạt động với các ông, với những ai Người đã chọn và trao cho sứ mạng. Chúng ta hãy tin tưởng, vâng phục và ra đi chu toàn sứ mạng theo Lời Chúa dạy.

Lạy Chúa, nhờ lời khẩn cầu của thánh sử Marcô mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay, xin thương biến đổi mỗi người chúng con trở thành những tông đồ, những cộng tác viên xứng đáng và trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Án xử của Thiên Chúa

Cách đây 2.400 năm, triết gia Hy Lạp là Socrate đã bị mang ra toà và bị kết án phải uống thuốc độc vì hai tội: làm sa đoạ giới trẻ bằng những lý thuyết viển vông và tuyên truyền cho các thần minh mới. Bồi thẩm đoàn xét xử Socrate gồm 501 người được tuyển lựa trong số 6000 công dân Athène. Đây là vụ án nổi tiếng nhất của thế kỷ 4.

Vụ án nổi tiếng nhất cuả thế kỷ 20 hẳn phải là vụ án của Hosê Simon, một cầu thủ bầu dục trở thành tài tử kiêm phóng viên truyền hình về thể thao tại Hoa Kỳ. Simson là một người da đen bị cáo buộc đã giết vợ và bạn trai của cô ta. Đã có quá nhiều chứng cớ hiển nhiên, nhưng sau nhiều tháng xét xử, toà vẫn chưa đưa ra được một phán quyết nào. Nhiều người cho rằng với một bồi thẩm đoàn gồm đa số người da đen và nhất là với những luật sư nổi tiếng mà Simson đã bỏ tiền ra thuê, rồi ra anh ta có thể được trắng án. Và quả thực tin giờ chót vừa cho hay toà tuyên bố Simson vô tội và anh được tha bổng.

Nhà hiền triết bị kết án, kẻ sát nhân được tha bổng, bao nhiêu người vô tội bị đầy ải trong các nhà tù. Công lý của con người vốn bất toàn là thế. Chính vì vậy ở thời đại nào, nỗi khao khát công lý trong lòng người vẫn không bao giờ được toả mãn. Người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng khao khát công lý: Đấng Cứu Thế mà họ mong đợi sẽ là một quan toà khôn ngoan, có khả năng xoá bỏ bất công, trừng trị kẻ gian ác và tái lập công lý. Các tín hữu tiên khởi phát xuất từ Do thái giáo cũng tiếp tục nuôi dưỡng một niềm mong đợi đó.

Nhưng một cuộc phán xử như thế đã không diễn ra khi Chúa Giêsu đến. Thay cho một quan toà nghiêm khắc, người ta chỉ thấy một vị mục tử tốt lành. Thay cho những phán quyết thẳng thừng, người ta chỉ nghe được những lời tha thứ dịu ngọt. Quả thật như Chúa Giêsu đã giải thích cho Nicôđêmô: Thiên Chúa sai Con Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của ngài mà được cứu độ. Chúa Giêsu không xét xử và luận phạt con người. Chính con người tự xét xử mình bằng cách chọn lựa hay khước từ Chúa Giêsu. Mỗi hành động xấu tự nó đã là một bản án cho con người. Sự phán xét do đó không là một biến cố bên ngoài con người, mà chính là thái độ đáp trả của con người với lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nếu tôi bước đi trong ánh sáng của Chúa Giêsu, tôi được bình an thư thái; trái lại, khi tôi chọn lựa bóng tối của ích kỷ, thì tôi đã tự ký bản án, tự đày đoạ chính mình rồi.

Thiên đàng, hoả ngục, ngày chung thẩm vốn được thêu dệt bởi biết bao hình ảnh thần thoại. Đó là những thực tại vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là Thiên đàng, hoả ngục, ngày chung thẩm đều gắn liền với cuộc sống tại thế này. Con người có thể hưởng nếm Thiên đàng ngay từ cuộc sống này khi nó bước đi trong ánh sáng chân lý của Chúa Giêsu. Cũng ngay trong cuộc sống này, mỗi khước từ đối với Ngài đã là một thứ hoả ngục mà con người tự giam mình vào, và ngày chung thẩm cũng đã diễn ra trong con người qua từng chọn lựa của mình.

“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài. Ngài sai Con Một Ngài đến thế gian không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Đó phải là niềm xác tín thúc đẩy chúng ta luôn sống tin tưởng và yêu thương.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 3: Yêu? Phán xét? Án phạt?

Thiên Chúa đã yêu thế gian

Đến nỗi đã ban Con Một,

Để ai tin vào Con của Người

Thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.

Quả vậy, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian

Không phải để lên án thế gian,

Nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người

Mà được cứu độ. (Ga. 3, 16-17)

Giáo lý dạy chúng ta biết rằng: Những ưu phẩm của Thiên Chúa là tốt lành vô cùng, đáng mến vô cùng, toàn thiện vô cùng, thương xót vô cùng, công bằng vô cùng … Nhưng những ý niệm đó đôi khi có vẻ mâu thuẫn nhau: Làm sao Thiên Chúa thương xót và đáng mến vô cùng lại ra án phạt người ta?

Bài Tin mừng hôm nay cho biết: tình yêu phán xét, hình phạt, cứu độ. Chúng ta hãy chú ý đến lời Chúa Giêsu nói như thế nào.

Điều quả quyết thứ nhất của Đức Giêsu là Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Bằng chứng của tình yêu này là hiến Con Một Ngài cho chúng ta. Không phải ơn ban thụ động, mà ơn ban một con người sống động đến thực hiện cho loài người điều này là ban cho mỗi người sống đời đời. Trong thái độ Thiên Chúa ưu đãi chúng ta, có tình yêu và sự tốt lành vô cùng là Con Một Ngài đã không đến để ra án phạt.

Nhưng tuy nhiên, như thánh Gio-an trưng dẫn quả quyết của Đức Giêsu là chính người ta tự phán xét và tự kết án mình. Người ta tự loại mình khỏi ơn cứu độ khi họ từ chối Đức Kitô, từ chối ảnh hưởng của Ngài, vì họ không tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế.

Nhưng chúng ta lại đặt vấn đề này: Người ta là kẻ tội lỗi vì từ chối Chúa, có phải là Thiên Chúa đã không ban đức tin cho họ sao? Câu hỏi này thuộc phạm vi thần học, không thuộc chương trình của Đức Kitô. Người chỉ nói đến vấn đề hành động chối bỏ của người ta như sau: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, sợ rằng các việc họ làm sẽ lên án chê trách họ”.

Người ta rất khôn khéo đổ tội từ chối Đức Kitô đó cho Thiên Chúa vì sợ lời Người tố giác, chỉ có sự phán xét do Thiên Chúa, hệ tại ở chỗ Thiên Chúa nhận biết hoàn cảnh người ta làm và tôn trọng sự lựa chọn của người ta.

C.G

SUY NIỆM 4: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU (Ga 3, 16 – 21)

Khi yêu nhau, người ta có thể làm mọi việc vì nhau và cho nhau. Họ sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu của người mà họ thương để mong sao người yêu được hài lòng. Như vậy, yêu là chấp nhận tất cả vì người mình yêu.

Thiên Chúa cũng vậy, Người yêu thương con người bằng một tình yêu trọn vẹn. Vì thế, Người chấp nhận tất cả để cho con người được hạnh phúc.

Điều này đã được Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta biết khi nói:

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Đây là một mạc khải quan trọng, cốt lõi, vì nó tóm gọn nội dung của Tin Mừng.

Mạc khải này vượt lên trên những suy tư triết học hay lý luận của con người, bởi vì chỉ nhờ mạc khải của Đức Giêsu, Ngài là Con Một Thiên Chúa, Đấng từ Thiên Chúa mà đến và là hiện thân của tình yêu mới giúp cho chúng ta hiểu thấu được.

Thật vậy, thế gian là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, vì thế, Người không chỉ yêu thương có một lần trong quá khứ, nhưng Ngài vẫn còn yêu thương luôn mãi, Qua cuộc đời nhập thể làm người của Đức Giêsu, nhất là nơi cái chết và sự phục sinh của Ngài, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với con người cách trọn vẹn. Nhưng không chỉ có thế, Đức Giêsu tiếp tục hiện diện với con người trong suốt dòng lịch  sử, nhất là qua các Bí tích, để làm bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.

Ước gì chúng ta luôn cảm nhận và tin tưởng vào tình thương của Chúa, và sẵn sàng đi trên cùng một con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã đi.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con mặc lấy tâm tình của Chúa, để chúng con sống và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa ngay trong cuộc sống của chúng con hằng ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: Thiên Chúa yêu thế gian

Suy niệm :

Khi nghĩ về Thiên Chúa, người ta hình dung ra Ngài với nhiều khuôn mặt.

Có khi Thiên Chúa giống một ông cảnh sát, luôn để ý theo dõi để trừng phạt,

hay như một quan tòa cứ theo pháp luật mà kết án nghiêm minh.

Có khi Thiên Chúa giống một nhà buôn, tính toán sòng phẳng,

chỉ ban ơn khi nhận được một lợi lộc nào đó, có qua có lại.

Có khi Thiên Chúa giống một nhà độc tài, áp đặt quyền lực trên con người,

không cho con người được tự do, bắt con người phải theo một định mệnh có sẵn.

Có khi Thiên Chúa như một thứ ô dù để người ấu trĩ dựa dẫm trong lúc khó khăn,

hay như một sản phẩm của người bị áp bức tự ru ngủ mình.

Có bao nhiêu hình ảnh méo mó về Thiên Chúa như vậy.

May mắn đó không phải là khuôn mặt Thiên Chúa của các Kitô hữu.

Ngài chẳng phải là cảnh sát hay quan tòa, là nhà buôn hay nhà độc tài.

Ngài cũng chẳng phải là người cha độc đoán không muốn cho con mình khôn lớn.

Đơn giản Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 8).

Và Tình Yêu vô lượng ấy được thể hiện bằng hành động:

“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (c. 16).

Tình yêu của Thiên Chúa Cha ôm lấy thế gian, dù nó nghiêng chiều về sự dữ.

Như Abraham yêu quý đứa con một là Isaac, và đã chịu sát tế con cho Chúa,

Thiên Chúa Cha cũng yêu quý người Con Một của Ngài là Đức Giêsu,

và đã trao ban người Con ấy cho thế gian.

Cha trao ban Con khi sai Con vào đời mang thân phận xác phàm (Ga 1, 14).

Cha còn trao ban Con cho thế gian qua cái chết của Con trên thập giá.

Nơi máng cỏ Bêlem hay nơi đồi Sọ,

ta thấy Cha đưa hai tay ra để trao món quà tình yêu quý giá nhất cho loài người.

Và Cha chờ con người đáp lại bằng cách đưa hai tay đón nhận.

Con người vẫn có tự do để đón nhận hay từ chối món quà ấy

qua việc tin hay không tin Đức Giêsu.

Đứng trước Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa,

là đứng trước một chọn lựa nghiêm chỉnh có liên quan đến vận mệnh con người.

Ai tin vào Ngài thì có ánh sáng, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu (cc. 16.17.19).

Tiếc thay có kẻ ghét ánh sáng và thích bóng tối hơn ánh sáng.

Hãy từ bỏ những việc làm tối tăm, dối trá, xấu xa,

bạn sẽ dễ dàng đến cùng ánh sáng Giêsu.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,

ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,

còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.

Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối

nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,

con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.

Con an tâm ở lại trong bóng mờ,

vì thấy đó chưa phải là một tội.

Nhưng con cũng áy náy

vì biết rằng bóng mờ là nơi

ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.

Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,

vì con vẫn muốn giữ lại

một điều gì đó rất quý đối với con.

Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc

để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.

Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con

để con được thuộc trọn về Chúa.

Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng, nước đôi,

để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.

Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng

vào những bóng mờ trong đời con.

Và ước gì con được trở nên trong suốt

nhờ để ánh sáng Chúa

tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thứ năm tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 3, 31-36

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Đấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Đấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật. Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy”.

SUY NIỆM 1: Tình yêu thương

“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống đời đời”.

Ðó là một sự thật quan trọng được Chúa Giêsu mạc khải cho ông Nicôđêmô trong cuộc đối thoại ban đêm, được ghi lại nơi chương 3, Phúc Âm thánh Gioan. Lời quả quyết trên về tình thương của Thiên Chúa đối với con người được Chúa Giêsu lập lại một lần nữa trong bữa Tiệc Ly như sau: “Thật vậy, Thiên Chúa Cha đã yêu thương các con vì các con đã yêu mến Thầy và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến” (Ga 16,27).

Thử hỏi, có ai có uy tín hơn Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, để mạc khải cho chúng ta biết tình thương của Thiên Chúa Cha đối với thế gian, đối với toàn thể tạo vật đã được dựng nên và nhất là đối với tất cả mọi người đã được dựng nên giống hình ảnh của Ngài?

Lý trí tự nhiên của con người qua những suy tư triết học khó có thể, nếu không muốn nói là không bao giờ có thể đạt đến kết luận chắc chắn rằng Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài yêu thương con người đến mức độ cho đi điều quí nhất là chính Con Một Thiên Chúa, để cứu chuộc con người khỏi nô lệ tội lỗi, khỏi phải chết. Chỉ nhờ mạc khải của Chúa Giêsu Kitô, con người chúng ta mới nghe được sự thật đầy an ủi này, Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, Thiên Chúa Cha hằng yêu thương con người. Lý do thôi thúc hành động của Thiên Chúa cứu rỗi con người chính là tình yêu thương, và Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người biết và cho cả ông Nicôđêmô, là người có đủ uy tín để nói như vậy, bởi vì Người từ nơi Thiên Chúa Cha mà mạc khải cho chúng ta biết.

Những lời tâm sự trên xác nhận căn cứ và nguồn gốc của Chúa Giêsu từ trên cao, từ Thiên Chúa Cha. Những lời này nhắc cho chúng ta nhớ lại những suy tư cao sâu của tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan, nơi khởi đầu sách Phúc Âm của ngài như sau: “không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một Ngài là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu Kitô”. Làm cho những sự thật được Chúa mạc khải cho con người có được giá trị trỗi vượt hơn mọi lý thuyết, hơn mọi lẽ khôn ngoan do trí khôn con người nghĩ ra. “Kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Ðấng từ trên trời mà đến thì ở trên mọi người”. Người làm chứng về những gì Người đã thấy và đã nghe trực tiếp từ Thiên Chúa Cha, vì Người hằng ở cùng Thiên Chúa Cha, được sai xuống trần gian để mạc khải cho con người biết.

Ðáp lại mạc khải của Chúa Giêsu, con người cần khiêm tốn, vâng phục và kính tin. Ðây là điều Chúa mời gọi ông Nicôđêmô ngày xưa và mọi người ngày nay hãy thực hiện: “Ai tin vào Con Thiên Chúa thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”.

Chúng ta đã đáp lại mạc khải của Thiên Chúa như thế nào?

Thảm trạng của con người bắt đầu khi con người tin không có Thiên Chúa và nếu có Thiên Chúa thì họ vẫn lãnh đạm thờ ơ không tin vào Thiên Chúa, và cũng không tin, không quí trọng sự thật được Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, mạc khải nữa. Nhưng thử hỏi, con người có thể dập tắt khát vọng hướng về Thiên Chúa đã ăn rễ sâu trong tâm hồn của mình hay không?

Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vô cùng vì đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Kitô để chỉ cho chúng con biết con đường sống như những con cái Cha, và trở về cùng Cha an toàn. Xin thương giúp cho chúng con trưởng thành trong đức tin mỗi ngày một hơn. Xin củng cố đức tin chúng con trước những thách đố của môi trường xã hội trần tục, không ngừng tìm cách chối bỏ Chúa cũng như cố ý làm méo mó và cười nhạo những sự thật do Chúa mạc khải.

Lạy Cha, xin thương củng cố đức tin của chúng con.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Hướng nhìn lên cao

Tạp chí Time số tháng 4/95 có ghi lại chứng từ rất cảm động của một cựu tù nhân Mỹ tại Việt Nam, ông Avares. Là một phi công Hải quân, ông đã bị bắn hạ trong một phi vụ dọc theo duyên hải Bắc Việt ngày 5/8/1964. Ông đã bị giam tại Hoả lò trong vòng 8 năm rưỡi. Năm 1993, một nhà sản xuất phim mời ông và một nhóm cựu tù binh Mỹ trở lại Việt Nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu. Avares đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam, điều duy nhất ông muốn nhìn lại là hình Thánh giá trên bức tường đàng sau phòng giam mà ông đã nhìn lên đó để cầu nguyện. Lời cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong những tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn. Ngày nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một lớp sơn vẽ chồng lên, và ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông, đó không phải là hối hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho ông về với gia đình và đã ban cho ông ơn biết tha thứ và quên đi.

Chứng từ của Avares cho thấy khi con người biết nhìn lên cao, con người sẽ cảm nhận được ơn Chúa trong cuộc sống của mình. Đó có lẽ là ý tưởng mà Tin mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta. Thánh Gioan ghi lại hai cái nhìn về Chúa Giêsu: một của Nicôđêmô và một của Gioan Tẩy giả. Nicôđêmô nhìn vào Chúa Giêsu với những hiểu biết uyên bác nhưng hoàn toàn phàm tục của ông; ông lượng giá về Chúa Giêsu theo thước đo thông thường của loài người, đó là cái nhìn từ dưới đất. Trong khi đó, Gioan Tẩy giả mời gọi các môn đệ ông vượt qua cái nhìn từ dưới đất để có cái nhìn từ trên cao. Và thánh Phaolô đã nói: “Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô”. Với tâm tình của Chúa Kitô, nghĩa là với cái nhìn của tin yêu và hy vọng, người ta có thể đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách; với tâm tình của Chúa Kitô, người ta sẽ cảm nhận được ơn Chúa ngay những lúc như bị bỏ rơi và đánh mất tất cả; với tâm tình của Chúa Kitô, người ta sẽ cảm nhận được tình thương và tha thứ ngay giữa nơi chỉ có hận thù và chết chóc.

Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta trong tâm tình ấy.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 3: Trời và đất bất hòa sao?

Đấng từ trên cao mà đến,

Thì ở trên mọi người;

Kẻ từ đất mà ra,

Thì thuộc về đất

Và nói những chuyện dưới đất.

Đấng từ trời mà đến,

Thì ở trên mọi người;

Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe,

Nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người.

Ai nhận lời chứng của Người

Thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. (Ga. 3, 31-33)

Từ Công đồng Vatican 2 đã cho chúng ta ý thức lại giá trị và tự trị của những thực thể trái đất thuộc dự tính của con người. Trái đất không phải là thung lũng nước mắt, vật chất và thân xác không là đồ bỏ. Ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô phải ảnh hưởng tới tất cả mọi thực thể. Thánh Phao-lô đã nói: “Toàn thể tạo vật đang rên xiết mong chờ sự giải thoát”.

Kitô hữu không thể núp mình trong phạm vi hoàn toàn tinh thần và trong thế giới bên kia. Marx đã tố cáo loại người này, họ lãnh đạm trước đau khổ trên trái đất để đi tìm chỗ tốt hơn nơi cao xa, họ còn chẳng làm gì trước bất công và tàn ác, vịn lẽ rằng Thiên Chúa sẽ phạt kẻ giàu và thưởng kẻ nghèo.

Thực ra, rất khó phân lìa và liên kết đất và trời, cũng như những giá trị đất và trời. Hôm nay, Đức Kitô phân biệt một cách như sau: Người nói rằng trời và đất có ngôn ngữ riêng của nó.

Tiếng nói của đất dễ giải nghĩa, vì nó thuộc giác quan của ta. Nhờ đó chúng ta nhận được kiến thức và thông truyền kiến thức.

Tiếng nói của trời khá khó lãnh hội, đó là thứ tiếng chứng từ: Chỉ có Đấng từ trời xuống làm chứng về điều đã thấy, đã nghe, chứng nhận, xác quyết về sự này, điều kia là thực. Còn ngay cả những người được nghe những lời chứng đó cũng không thấy được, biết được sự này, Đấng kia thế nào. Họ cũng không được sống trong diễn biến đó.

Đức Giêsu là chứng nhân của Thiên Chúa, Người đã kể lại những gì đã tồn tại trong Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta, chúng ta trở nên chứng nhân của Thiên Chúa, nếu chúng ta là thành phần trong thân thể của Đức Kitô.

Tiếng nói trong Thánh lễ là tiếng làm chứng rằng: Đức Kitô hiện diện trong cộng đồng, chứng thực Thiên Chúa đang hành động qua các dấu chỉ của Thánh lễ. Và người ta sẽ không hiểu gì về những dấu chỉ này trong Thánh lễ hàng ngày và Chúa nhật, nếu người ta không đón nhận tiếng nói của chính Thiên Chúa.

C.G

SUY NIỆM 4: GIỮ LẤY BẢN SẮC CỦA MÌNH (Ga 3, 31-36)

Ngày nay, trên thế giới, người Việt Nam của chúng ta gần như có mặt hầu hết nơi các quốc gia! Để gợi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đã có nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo về nguồn gốc, văn hóa Việt!

Trong các buổi hội họp đó, gần như không thể quên, người ta luôn nhắc nhớ nhau hãy giữ gìn bản sắc, văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt, cho dù hiện diện ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì!

Tại sao vậy? Thưa, con người chỉ có thể lớn lên cách quân bình khi người ta còn giữ được bản chất, văn hóa, truyền thống của dân tộc mình. Nếu không, họ là một người thiếu trưởng thành!

Là người Công Giáo, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở thành Kitô hữu, tức là chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô. Nói cách khác, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Vì thế, bổn phận của chúng ta phải làm sao cho Đức Kitô được hiện tại hóa trong lời nói, hành động và cử chỉ của chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải khước từ những gì không phù hợp với bản chất của mình.

Hôm nay, vẫn trong trình thuật giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, nhưng câu chuyện ngày càng đi sâu vào cốt lõi của vấn đề, đó là, Đức Giêsu cho Nicôđêmô biết được bản chất của Ngài và những công việc Ngài làm do được lãnh nhận từ Chúa Cha, Ngài nói: “Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3, 34 – 35).

Với câu chuyện trên, qua Nicôđêmô, Đức Giêsu mở rộng ra cho mọi người thấy được tầm quan trọng và giá trị cho những ai được hạnh phúc thuộc về Đức Giêsu, đồng thời cũng mạc khải cho biết hậu quả của những kẻ không tin: “Ai tin vào người Con, thì được sự sống đời dời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con, thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3, 36).

Xin Chúa ban cho chúng ta biết luôn luôn ý thức mình thuộc về Đức Kitô và phải có trách nhiệm làm cho Đức Kitô lớn lên và rạng ngời ngang qua cuộc sống của chúng ta. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: Đấng từ trên cao mà đến

Suy niệm :

Giêsu ơi! Ngài từ đâu đến?

Tôi là Đấng từ trên cao mà đến.

Tôi là Đấng từ trời mà đến (c.31).

Tôi sinh ra trên đất, sống trên đất, chết trên đất.

Nhưng tôi không thuộc về đất, đất không phải là gốc của tôi.

Gốc của tôi ở nơi cung lòng Thiên Chúa (Ga 1, 18).

Dù cư ngụ trên mặt đất, tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời.

Khi làm xong sứ mạng, tôi sẽ trở về với gốc của tôi.

Giêsu ơi! Ngài làm gì vậy?

Tôi làm chứng về điều tôi đã thấy và đã nghe (c. 32).

Tôi làm chứng về Thiên Chúa là Cha của tôi.

Tôi đã thấy việc Người làm và đã nghe tiếng Người nói.

Nhiều vĩ nhân diễn tả rất hay, rất đúng về Thiên Chúa

và cũng có kinh nghiệm rất sâu về Người.

Nhưng họ không phải là Con như tôi.

Họ chẳng thể nào gần mầu nhiệm Thiên Chúa như tôi.

Chẳng ai biết Cha bằng Con, không ai biết Cha trừ ra Con (Lc 10, 22).

Chỉ mình tôi mới có thể vén mở trọn vẹn khuôn mặt Thiên Chúa.

Giêsu ơi! Ngài là ai?

Tôi là người được Thiên Chúa sai đến với nhân loại trên mặt đất (c. 34).

Chẳng có giây phút nào tôi quên mình là Con, người được sai.

Chẳng có giây phút nào tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi.

Khi nhận mình triệt để tùy thuộc vào Cha, tôi chẳng hề xấu hổ.

Tôi đáng tin vì chính sự tùy thuộc đó.

Tôi chẳng làm điều gì tự mình,

tôi chỉ làm điều tôi đã thấy Cha tôi làm (Ga 5, 19).

Tôi chẳng nói điều gì tự mình,

tôi chỉ nói điều tôi đã nghe Cha tôi nói (Ga 8, 26).

Chính khi tôi tùy thuộc trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.

Giêsu ơi! Ngài có hạnh phúc không?

Tôi hạnh phúc vì tôi yêu và được yêu.

Cha tôi yêu mến tôi và tôi ở lại trong tình yêu của Cha (Ga 15, 10),

Người vẫn ở với tôi và không để tôi cô độc (Ga 8, 29).

Người yêu mến tôi vì tôi dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Ga 10, 17).

Tình yêu của Cha thể hiện qua việc Người trao phó mọi sự trong tay tôi (c. 35).

Tôi có quyền phán xét, quyền cho sống lại ngày sau hết, quyền trên mọi xác phàm.

Bởi vậy tôi mới nói mọi sự Cha có là của tôi (Ga 16, 15).

Hãy đón nhận lời chứng của tôi (c. 33).

Hãy tin vào tôi để được sự sống vĩnh hằng ngay từ đời này (c. 36).

Hãy đến với tôi để được chia sẻ cùng một sứ mạng và vinh quang.

Cầu nguyện :

Lạy Cha,

con phó mặc con cho Cha,

xin dùng con tùy sở thích Cha.

Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.

Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.

Miễn là ý Cha thực hiện nơi con

và nơi mọi loài Cha tạo dựng,

thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.

Con trao linh hồn con về tay Cha.

Con dâng linh hồn con cho Cha,

lạy Chúa Trời của con,

với tất cả tình yêu của lòng con,

Vì con yêu mến Cha,

vì lòng yêu mến

thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,

thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,

không so đo,

với một lòng tin cậy vô biên,

vì Cha là Cha của con. Amen. (Charles de Foucauld)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thứ sáu Tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 6, 1-15

Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”.

Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Chúa Giêsu nói: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi”. Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.

Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Đấng Tiên tri phải đến trong thế gian”. Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.

SUY NIỆM 1: Đấng cứu rỗi thế gian

Phép lạ bánh và cá được hóa ra nhiều là phép lạ duy nhất được tường thuật trong cả bốn Phúc Âm. Ðiều này chứng minh cho chúng ta biết tầm quan trọng của dấu lạ này trong toàn bộ giáo huấn của Chúa Giêsu, cũng như trong sinh hoạt của cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các tông đồ. Những người Kitô đầu tiên thường dùng dấu hiệu bánh và cá để nói lên niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi thế gian, và là của ăn ban sự sống đời đời. Chúa Giêsu sẽ giải thích điểm này rộng rãi hơn trong bài giảng tiếp sau biến cố phép lạ bánh và cá được hóa ra nhiều. Chúng ta sẽ lần lượt suy niệm về những lời giảng dạy này trong những ngày tới.

Trong những phút suy niệm hôm nay, chúng ta hãy chú ý đến thái độ của dân chúng đối với dấu lạ Chúa thực hiện. Có thể nói rằng dân chúng đã hiểu lầm ý định của Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta có thể nói rằng dân chúng đã trần tục hóa biến cố, họ hiểu biến cố trong lăng kính vụ lợi vật chất cho bản thân. Phúc Âm theo thánh Gioan ghi lại chi tiết này: “Sau biến cố, dân chúng muốn bắt Chúa đi mà tôn lên làm vua”, có lẽ để tiếp tục phục vụ cho những lợi lộc vật chất, cho những tham vọng của họ. Thay vì biến đổi con người mình trở nên sẵn sàng hơn để lắng nghe sứ điệp của Chúa muốn nói với họ. Hãy cố gắng để được ăn của ăn không hư nát, để được sống đời đời, thì dân chúng lại giới hạn dấu lạ trong chiều kích trần tục của cơm bánh để nuôi sống thể xác mà thôi. Ðây có thể nói là một trong những cám dỗ thường hằng của con người qua mọi thời đại, cám dỗ bắt buộc Thiên Chúa phải và chỉ phục vụ cho những nhu cầu vật chất trần tục mà thôi.

Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi làm nô lệ cho những tham vọng trần tục. Chúa vẫn luôn tiếp tục thực hiện những dấu lạ trong đời sống của con, để mời gọi con luôn nâng tâm hồn lên mà nhìn nhận và tôn vinh Chúa hằng ngày. Xin cho con được luôn sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dạy và sống thực hành trong mọi hoàn cảnh. Xin cho con biết đến gặp Chúa trong bí tích Thánh Thể để được Chúa soi sáng và bổ dưỡng thêm sức mạnh và chu toàn trọn vẹn hơn sứ mạng Chúa đã trao phó cho con.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Sự cộng tác của con người

Kể từ năm 1891, sau khi Đức Lêô XIII ban hành thông điệp Tân sự, đã có nhiều thông điệp khác về vấn đề xã hội được công bố nhằm đánh dấu sự phát triển và đào sâu giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Năm 1931 có thông điệp kỷ niệm năm thứ 40 do Đức Piô XI ban hành; năm 1961 có thông điệp Mẹ và Thầy của Đức Gioan XXIII; năm 1981, Đức Gioan Phaolô II kỷ niệm 90 năm thông điệp Tân sự bằng Thông điệp về lao động; năm 1987 ngài ban hành thông điệp “Mối quan tâm về vấn đề xã hội” nhằm kỷ niệm 20 năm thông điệp Phát triển các dân tộc của Đức Phaolô VI; năm 1991 ngài ban hành thông điệp kỷ niệm năm thứ 100 thông điệp Tân sự.

Tuy với những hoàn cảnh cụ thể và dưới những góc độ khác nhau, những văn kiện trên của các Giáo Hoàng đều đề cập đến những vấn đề của thời đại, đó là tương quan giữa lao động và phát triển. Giáo Hội không đề cao bất cứ một thứ chủ nghĩa chính trị và kinh tế nào. Giáo Hội không ngừng cổ võ sự phát triển dựa trên công lý và tình liên đới. Theo giáo huấn của Giáo Hội, nếu trên thế giới còn có các quốc gia nghèo khổ, là vì những nước giầu còn quá ích kỷ chưa muốn san sẻ tài nguyên và sự phát triển của họ. Nếu trong cùng một quốc gia, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo càng lúc càng tăng, là bởi vì người giầu không muốn chia sẻ của cải mình cho người nghèo.

Tin mừng hôm nay là một trong những trang từ đó Giáo Hội mức lấy giáo huấn của mình về vấn đề xã hội. Chúa Giêsu là Đấng toàn năng, Ngài chỉ cần phán một lời thì đám đông hơn 5.000 người đi theo Ngài có thể ăn no nê. Nhưng chúa Giêsu đã không làm thế. Phép lạ Ngài thực hiện xem chừng chỉ có thể diễn ra nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. 5 chiếc bánh và 2 con cá không là gì so với một đám đông như thế; vả lại trong xã hội Do thái thời đó, em bé vốn cũng chỉ là một con số không trong bậc thang xã hội; vậy mà từ con số không ấy, từ một sự đáp trả khiêm tốn ấy, đám đông hơn 5.000 người đã được ăn no nê.

Bài học mà Giáo Hội đón nhận từ phép lạ ấy thật rõ ràng: lòng quảng đại, sự san sẻ của con người là chìa khoá giúp giải quyết vấn đề nghèo đói. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, vào Giaó Hội tin rằng Ngài vẫn tiếp tục nhân bánh và cá ra nhiều cho những người nghèo đói. Qua bao nhiêu thế kỷ, với những đóng góp và chia sẻ của các tín hữu, đã có biết bao người được ăn uống no nê. Những hoạt động từ thiện, những chương trình trợ giúp phát triển của Giáo Hội là những phép lạ mà Chúa Giêsu không ngừng thực hiện cho những người nghèo đói. Những mẹ Têrêxa Calcutta, những cha Pierre, những nữ tu Emmanuel và bao nhiêu gương mặt âm thầm khác trong Giáo Hội, đó là những em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá đã đóng góp vào việc thực hiện phép lạ.

Một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá, chỉ với một đóng góp ít ỏi đó cũng đủ để Chúa Giêsu làm một phép lạ cả thể. Ngày nay liệu chúng ta có đủ lòng tin để tin rằng với một ít san sẻ do lòng quảng đại của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn còn đó có thể làm phép lạ để bao người đói khổ chung quanh chúng ta được ăn no nê không?

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 3: Dự tính tương lai

Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Khi họ đã ăn no nê rồi thì Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiế bánh lúa mạch người ta đã ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” (Ga. 6, 11-14)

Đã bao giờ chúng ta suy niệm về điểm quan trọng này chưa? Giáo lý thuở ban đầu đã dạy về phép lạ bánh hóa nhiều bằng sáu câu chuyện tương tự được Tin mừng kể lại. Những câu chuyện này chắc chắn có một số nét chung. Hai lần Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều: Một lần từ năm chiếc bánh và hai con cá và thu được mười hai thúng còn dư. Một lần từ bảy chiếc bánh và vài con cá, còn thu được bảy thúng còn dư.

Sự dư thừa dồi dào còn được đối chiếu với câu chuyện Cựu ước trong sách Các Vua từ tám thế kỷ trước Đức Giêsu: Ngôn sứ Ê-li-sê đã làm cho hai mươi tấm bánh hóa ra nhiều cho một trăm người ăn, Chúa cũng đã nói với ngôn sứ: “Họ ăn và còn dư”. Cùng đề tài dồi dào dư thừa do lòng quảng đại của Chúa đã được thể hiện lại trong Tin mừng thánh Gio-an ở tiệc cưới Ca-na: Phép lạ nước biến thành rượu, dồi dào đầy những chum nước lớn chứ không chỉ đầy các chai trên bàn tiệc.

Chắc hẳn, việc Đức Giêsu ban dồi dào dư thừa đó không chỉ là rượu, bánh, của ăn vật chất, nhưng chính là Người nữa, vì Người đã nói: “Ta là cây nho thật” và “Ta là bánh ban sự sống”. Tất nhiên chúng ta phải nghĩ đến phép Thánh Thể. Toàn thể mầu nhiệm về Đức Kitô hàm chứa trong những câu: “Ta là” đã được Tin mừng thánh Gio-an ghi lại: “Ta là … ánh sáng thế gian, là mục tử tốt lành, là cửa chuồng chiên, là sự sống lại và sự sống, là đường, là sự thật và sự sống”. Phải là tất cả những gì chúng ta cần: bánh, rượu, ánh sáng, sự sống, che chở, hướng dẫn, Đức Giêsu là tất cả thứ đó. Thánh Gio-an thêm một định nghĩa nữa Đức Giêsu là Ngôi Lời, nghĩa là Lời Hằng Sống. Với Gio-an, Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng nói với chính Gio-an và với thế nhân, Đấng đã tự nói ra qua các tín hữu của mình … Như thánh Phao-lô đã gọi: Đức Kitô toàn diện, Đức Kitô phục sinh đã nhập thể vào tất cả các kẻ tin nhờ Thánh Thần.

Chúng ta cần phải sống với Đức Giêsu, Đấng đã nuôi dưỡng và tái tạo chúng ta trong Thánh Thần, Đấng đã ban Thánh Thần cho chúng ta, đổi mới chúng ta luôn mãi, Đấng là nguồn mạch sự sống không ngừng, đó là nguồn suối trường sinh khôn lường. Con người mới mà thánh Phao-lô nói với chúng ta, phải thanh tẩy không ngừng, làm việc không ngừng để phụng sự Thiên Chúa. Đấng là nguồn suối chặn đứng mọi cơn khát và mọi già nua, suy thoái của chúng ta.

L.P

SUY NIỆM 4: PHÉP LẠ DO TÌNH THƯƠNG (Ga 6,1-15)

Trong bài hát “để gió cuốn đi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngay ở đầu bản nhạc có viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”.

Thật vậy, trong cuộc sống, nếu ai ai cũng có tấm lòng, dù chỉ một chút thôi, thì chắc con người sẽ sống với nhau trong cảnh hòa bình, ấm no và hạnh phúc! Nhưng tiếc thay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều người giàu có, nhưng cùng lúc, phát sinh nạn phân biệt giàu nghèo rõ rệt hơn bao giờ hết! Vì vậy, vẫn còn đó chuyện “nơi ăn không hết, chỗ lần không ra”.

Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khởi đi từ lòng thương xót của Ngài: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?’” (Ga 6, 5).

Tiếp theo là tấm lòng quảng đại của một em bé: “Có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”, và, Đức Giêsu đã tiếp nhận tấm lòng nhỏ bé nhưng tinh thần lớn lao của em để kết hợp với lòng thương xót của Ngài, Ngài làm nên chuyện phi thường là làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 11).

Ai nấy đều được no nê nhờ vào tấm lòng của vị Mục Tử Giêsu và sự quảng đại của em nhỏ.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chia cơm sẻ bánh cho nhau, tức là sống với nhau trong tinh thần liên đới, trách nhiệm. Đạo Công Giáo không bao giờ chấp nhận chuyện mạnh ai nấy sống. Sống như thế là ích kỷ, là chỉ biết đến cái bụng mà không hề làm cho trái tim lớn lên trong tình yêu.

Bên cạnh đó, chúng ta còn học được bài học tin tưởng, phó thác nơi Chúa, vì có Chúa là có tất cả, không chỉ vậy, mà còn dồi dào. Hình ảnh các môn đệ “thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” có ý muốn nói và củng cố cho chúng ta về lòng tín thác nơi Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống quảng đại, biết nghĩ đến người khác hơn là nghĩ đến bản thân mình. Biết sống tình bác ái huynh đệ để trở thành môn đệ của Chúa đích thực. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con luôn vững tin vào quyền năng Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: Ăn bao nhiêu tùy ý

Suy niệm :

Có người coi tôn giáo như một thứ duy tâm, duy linh,

chỉ để ý đến chuyện linh hồn, chuyện đời sau,

mà hững hờ với cái đói cái no của thân xác, với chuyện áo cơm thường nhật.

Kitô giáo hẳn không phải là thế.

Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian

không phải chỉ bằng việc rao giảng như một thầy dạy,

mà còn bằng việc chữa bệnh thân xác như một thầy thuốc.

Ơn cứu độ do Ngài mang lại có tính toàn diện, cả xác lẫn hồn,

và ơn cứu độ ấy đã bắt đầu ngay từ đời này rồi.

Trong Mùa Phục sinh, Giáo hội cho ta nghe đọc chương 6 của Tin Mừng Gioan,

bởi lẽ chương này nói về Đức Giêsu là Bánh hằng sống, Bánh ban sự sống.

Chương này khởi đầu bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều.

Phép lạ diễn ra ở bên kia hồ Galilê, vào mùa xuân, cỏ mọc xanh mướt.

Đám đông đến với Đức Giêsu đang ở trên núi với các môn đệ.

Tất cả bắt đầu bằng câu hỏi bất ngờ của Thầy Giêsu :

“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?”

Các câu trả lời của hai ông Philípphê và Anrê thật đáng thất vọng.

Hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút (c. 7).

Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá khô thì thấm vào đâu (c. 9).

Nhưng Đức Giêsu lại cần năm cái bánh và hai con cá đó.

Ngài đón nhận sự đóng góp của con người, dù là rất nhỏ mọn.

Nhỏ mọn nhưng là tất cả những gì tìm được ở chốn hoang vu này.

Không có sự đóng góp của một em bé, không chắc phép lạ đã xảy ra.

Khi mọi người đã ngồi xuống trên cỏ theo lệnh các tông đồ,

Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ.

Chắc các tông đồ đã giúp Ngài phân phát đến tay dân.

Chính khi bẻ ra để phân phát thì bánh và cá hóa nhiều.

Chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra.

Mầu nhiệm chia sẻ vẫn làm chúng ta ngỡ ngàng, sửng sốt.

Chia sẻ là biến điều ít ỏi ta đang có trở thành kho báu vô tận cho mọi người.

Chia sẻ làm chúng ta chẳng vơi đi, nhưng còn mãi.

Hơn năm ngàn con người đã được ăn tùy ý, được no nê, được dư thừa.

Gần một tỷ con người sống trên trái đất hôm nay cũng mong được như vậy.

Đức Thánh Cha coi việc liên đới chia sẻ

như một cách thức để thoát ra khỏi nạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Ước gì việc chúng ta chia sẻ Tấm Bánh thánh trong nhà thờ

giúp chúng ta tiếp tục chia sẻ những tấm bánh vật chất ngoài cuộc sống.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới :

Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này

là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước

không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,

bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,

không còn những cô gái đứng đường

hay những người ăn xin.

Con mơ ước

những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,

các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước

tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,

các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,

con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,

xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,

và xanh của bao niềm hy vọng

nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,

thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thứ bảy Tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 6, 16-21

Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ.

Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh.

Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: “Chính Thầy đây, đừng sợ”. Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.

SUY NIỆM 1: Bến bờ bình an

Biến cố Chúa Giêsu đi trên mặt nước cũng được Phúc Âm theo thánh Matthêu và thánh Marcô mô tả nhưng với vài chi tiết khác nhau. Sự khác nhau này làm cho chúng ta thấy được chủ ý khác nhau của mỗi tác giả Phúc Âm. Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan không nói đến chi tiết Chúa Giêsu đến để trợ giúp cho các tông đồ đang gặp khó khăn, cũng không nói gì đến việc làm cho sóng gió im lặng, nhưng lại nhắc đến chi tiết khác là thuyền của các tông đồ tới bến tức thì. Ðọc lại bài tường thuật về biến cố, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điểm này, là tác giả chú ý và muốn cho người đọc như chú ý đến Chúa Giêsu nhiều hơn.

Tác giả bài tường thuật cho chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô đầy quyền năng thần linh và không tùy thuộc vào những định luật giới hạn của thiên nhiên. Thường tình, con người tự nhiên không thể nào đi trên mặt nước mà không bị té ngã. Trong cuộc sống, rất nhiều khi người Kitô chúng ta cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ mặc cho bão táp phong ba xô đẩy. Thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho chúng ta lý trí tự do, ý chí và ân sủng để có thể lướt qua sóng gió cuộc đời. Có thể đến khi thuyền cập bến, chúng ta mới được đối diện với Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xảy ra và những gì Ngài sẽ làm.

Lạy Chúa, giữa những phong ba thử thách cuộc đời, xin cho chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện quyền năng và yêu thương của Chúa, nhờ đó, chúng con an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Tin tưởng vào Chúa

Một vị tướng nọ quyết định đánh địch quân, dù rằng lúc ấy quân số của ông chỉ bằng 1/10 quân số của địch. Ông xác quyết với toàn thể binh sĩ rằng họ sẽ chiến thắng, thế nhưng ai nấy đều lắc đầu thất vọng. vào ngày xuất quân, khi đi ngang qua một nhà nguyện, ông cho đoàn quân dừng lại và nói: “Tôi và một số sĩ quan vào đây cầu nguyện vào gieo thử một quẻ: nếu đồng tiền ngửa, chúng ta sẽ thắng, bằng không, chúng ta sẽ thua”. một lúc sau từ trong nhà nguyện bước ra, ông và các sĩ quan vui mừng loan báo: “Số mệnh đã chỉ cho chúng ta biết chúng ta sẽ thắng trận này”. Nghe thế, mọi người hân hoan lên đường và quả nhiên họ đã chiến thắng một cách dễ dàng. Ngày hôm sau, một sĩ quan thân cận đã tâm sự với vị tướng: “Quả thật trận chiến hôm qua đã chứng tỏ không ai có thể thay đổi được bàn tay của số mệnh”. Vị tướng mỉm cười đáp: “Có lẽ gần đúng như vậy”. Rồi ông lấy từ trong túi đồng tiền đã gieo quẻ hôm trước, cả hai mặt đồng tiền đều giống nhau.

Một trong những yếu tố dẫn đến thất bại, đó là sợ hãi, thiếu tin tưởng. chỉ một thoáng bối rối hiện trên nét mặt cũng đủ để đối thủ chiếm được ưu thế.

Tin mừng hôm nay cũng nói đến sự sợ hãi bối rối nơi các tông đồ. Có lẽ chẳng phải do tình cờ mà các thánh sử đặt phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt biển liền sau phép lạ bánh hoá nhiều. cả hai phép lạ đều có chung một chủ đề là quyền năng củaChuá Giêsu trên thiên nhiên và trên những vật vô tri giác, và trước mỗi phép lạ các môn đệ đều bị đẩy vào tình trạng lo sợ. thương xót đoàn dân theo Ngài, Chúa Giêsu bảo các môn đệ kiếm bánh cho họ ăn, nhưng giữa nơi oang địa làm sao có đủ bánh cho chừng ấy người. sau đó ngài lại giục các ông sang bờ bên kia trước, trong khi ngài ở lại giải tán dân, và rồi thuyền các ông gặp cơn bão táp. Làm như thế, không phải Chúa có ý bỏ rơi các ông, nhưng chỉ muốn các ông có cơ hội củng cố niềm tin. “Chính Thầy đây, đừng sợ”. Ngài vẫn ở gần và quan tâm đến các ông.

Trong cuộc sống, rất nhiều khi người kitô hữu chúng ta cảm thấy như bị Thiên Chuá bỏ mặc cho bão táp xô đẩy. thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho chúng ta lý trí tự do, ý chí và ân sủng để có thể lướt qua sống gió cuộc đời. có thể đến khi thuyền cập bến chúng ta mới được đối diện với Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xẩy ra và những gì Ngài sẽ làm.

Giữa phong ba thử thách cuộc đời, xin cho chúng ta luôn tìn tưởng vào sự hiện diện quyền năng và yêu thương của Chúa, nhờ đó chúng ta an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 3: Đừng sợ, Thầy đây.

Chiều đến các môn đệ xuống Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giêsu còn chưa đến với các ông. Biển động vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm hoặc ba mươi chặng đường, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. (Ga. 6, 16-19)

Sau ngày làm phép lạ bánh hóa nhiều đáng ghi nhớ, các môn đệ lại xuống thuyền vượt biển trở về Ca-phác-na-um. Còn Đức Giêsu ở lại cầu nguyện tới khuya như thói quen mọi ngày. Các tông đồ vất vả chèo thuyền vượt bão biển.

Đó cũng là những kinh nghiệm thường xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Sau khi chúng ta được nuôi dưỡng bằng bánh hằng sống, sau những cảm nghiệm sống đức tin mạnh mẽ, chúng ta lại cảm thấy cô đơn bắt tay vào công việc chẳng thấy tiến bộ gì.

Bao nhiêu thắc mắc vùng dậy: tại sao Đức Giêsu không đến với chúng ta, đồng hành với ta, nâng đỡ ta?

Cần phải nhận biết rằng Đức Giêsu muốn để chúng ta đi một mình, vì chúng ta là tạo vật có trách nhiệm. Đức tin vào Người không san bằng những khó khăn, không dẹp tan giông tố. Đức tin không nhổ sạch các chông gai, trở ngại. Kitô hữu đừng lầm tưởng đạo Chúa Kitô là một đạo dễ dãi, một đạo xây nhà trú ẩn khỏi mọi nỗi lo sợ chiến đấu.

Hơn nữa, nếu Đức Giêsu để các môn đệ đi một mình, chính là chỉ cho ta biết phải lo hành động, phải tập bước, phải cố gắng tự làm một mình, không lười biếng, ỷ nại vào Thiên Chúa. Đó là những thái độ quyết định và giải đáp của con người có nhân bản.

Có thể chúng ta sợ thiếu vắng Đức Giêsu vì chúng ta đã quá quen với những sự bao che của gia đình, của trường học và xã hội. Nay đã đến thời tất cả các thể chế đó không còn nói gì đến Đức Giêsu nữa, nên chúng ta bơ vơ lạc lõng không dám tự đi, không dám tiến lên, không dám tự động hành đạo. Chúng ta sợ không thấy Đức Giêsu đứng chờ bên kia chướng ngại vật, sau cơn bão tố nữa.

Tin mừng cho chúng ta thấy lý do cần phải chúc tụng Thiên Chúa vì biết rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có tự do và trách nhiệm để chúng ta biết quyết định và thăng tiến.

Nhưng chúng ta phải biết luôn luôn cầu nguyện xin Chúa nối kết, đồng hành và tiếp sức cho chúng ta tới bến bờ bên kia, cầu nguyện để tăng thêm lòng trông cậy tin tưởng Ngài ở đó để ban sức mạnh cho chúng ta đạt tới đích muôn đời.

C.G

SUY NIỆM 4: “THẦY ĐÂY ĐỪNG SỢ” (Ga 6, 16-21)

Ai đã từng chứng kiến cảnh biển động hay nhất là khi nó dậy sóng mà vẫn ở ngoài khơi, thì mới thấy sự sợ hãi là dường nào!

Thật vậy, nếu chẳng may đi biển mà gặp phải bão tố, cảnh biển gầm sóng thét, con người mới thấy giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau bằng gang tấc!

Những lúc như thế, ta thấy mình quá nhỏ bé và mong manh trước sự hùng vĩ của thiên nhiên… mạng sống của con người lúc này được ví như:  “Ngàn cân treo sợi tóc”; hay “chỉ mành treo chuông”.

Tin Mừng hôm nay cũng trình thuật việc các Tông đồ gặp phải hiểm nguy khi đang lênh đênh trên biển.

Cuộc đi biển của các ông lần này không có Đức Giêsu hiện diện, bởi lẽ Ngài đã đi trước một mình vì dân chúng đang muốn tôn Ngài lên làm vua theo ý của họ.

Đang đi theo lộ trình và khi trời đã tối, họ bị trận cuồng phong bất ngờ ập tới. Tuy các ông là những người có nhiều kinh nghiệm về biển cả, họ là những tay nghề lão luyện trong giới thủy trình. Ấy vậy, khi sóng gió nổi lên, họ cũng trở thành bé nhỏ và yếu ớt trước sức mạnh của cuồng phong. Sự sợ hãi đó được cộng thêm với hình bóng của Đức Giêsu đi trước mặt thuyền mà họ không biết… Vì thế, trong đầu các ông đang hốt hoảng, hoang mang, và ai nấy đều run sợ, thì Đức Giêsu lên tiếng trấn an các ông: “Thầy đây đừng sợ”.

Đọc lại bài Tin Mừng này trong thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: cuộc đời lữ thứ trần gian của mỗi người như một hành trình của các thuyền nhân đi biển. Sống lênh đênh trên biển, mới thấy mình nhỏ nhoi. Đối diện với bão táp phong ba mới thấy mình bất lực, và được Chúa yêu thương, hiện diện thì ngay lập tức được bình an.

Xét về góc độ luân lý, cho phép chúng ta liên đới với đời sống đức tin của mình để nhận ra rằng: có những lúc trong cuộc đời, chúng ta gặp không ít khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, nhất là do tội lỗi, ích kỷ, kiêu ngạo gây nên. Những khó khăn đó được khởi đi từ lòng mến lạnh nhạt của chúng ta với Chúa, làm cho đức tin bị hao mòn, lòng trông cậy bị lung lay. Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa ban cho mình được bình an nhờ nhận ra có Chúa hiện diện trong cuộc đời mình.

“Thầy đây, đừng sợ” chính là điều mà chúng ta phải xác tín trong cuộc sống hiện tại của mình.

Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của Giáo Hội luôn gặp phải những sóng gió do ma quỷ gây nên. Con thuyền cuộc đời của chúng con cũng vậy. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn, tín thác vào Chúa để lời Chúa nói với các Tông đồ khi xưa: “Thầy đây đừng sợ” cũng là niềm an ủi cho chúng con hôm nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: Chính Thầy đây

Suy niệm:

Vào thời Đức Giêsu, người ta chờ Thiên Chúa sai đến một vị vua.

Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh, toàn thắng,

Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma.

Sau khi Đức Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu,

họ nghĩ ngay Ngài chính là người họ mong đợi từ lâu.

Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua,

làm người đứng lên lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15).

Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong mỏi của dân chúng.

Ngài trốn lên núi một mình.

Đức Giêsu biết mình không phải là một Mêsia đầy quyền lực,

để giải phóng dân Ítraen khỏi ách của người Rôma.

Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,

chịu chết ô nhục và sống lại để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi.

Dân chúng hẳn đã bị hụt hẫng khi thấy Đức Giêsu trốn đi.

Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ,

vì Thầy bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Ítraen,

và chính họ cũng mất đi một cơ hội để tiến thân.

Tin Mừng của thánh Gioan không nói cho ta biết tại sao sau đó

các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên kia (c. 16).

Nhưng theo Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).

Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này.

Bị Thầy bắt qua lại bờ bên kia khi chiều đã sụp tối,

trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên này,

điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ.

Họ muốn ở lại hưởng chút dư vị của thành công vang dội vừa rồi.

Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục.

Chuyến đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì.

Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong bất ngờ gây biển động.

Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét.

Cả nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền.

Họ đã cố chèo được chừng năm, sáu cây số.

Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm đen?

Cuối cùng Thầy Giêsu cũng đến với họ như họ mong ước.

Nhưng Thầy không đến trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.

Thầy đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông (c. 19).

Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.

Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối.

“Thầy đây mà, đừng sợ !”, Đức Giêsu vội vã trấn an.

Giáo Hội hôm nay cũng có kinh nghiệm như nhóm môn đệ ngày xưa,

vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.

Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài.

Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình.

Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa

để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách :

những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;

những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng còn trong tinh thần nữa,

bằng cách thực thi lời hy vọng này :

“Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em

là làm cho chính Ta”. Amen. (Thánh Têrêxa Calcutta)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.