Các Bài Suy Niệm Từ 17-24/12

print

Các Bài Suy Niệm Từ 17-24/12

 

Ngày 17 tháng 12.

Ngày 18 tháng 12.

Ngày 19 tháng 12.

Ngày 20 tháng 12.

Ngày 21 tháng 12.

Ngày 22 tháng 12.

Ngày 23 tháng 12.

Sáng Ngày 24 tháng 12.

 

Ngày 17 tháng 12

LỜI CHÚA: Mt 1, 1-17

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.

Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.

Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Roboam; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.

Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.

 

Suy Niệm 1: Từ Bà, Đức Giêsu được sinh ra

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Chúng ta bước vào một giai đoạn mới để mừng lễ Giáng Sinh,

mừng Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người cách trọn vẹn.

Làm người là có một gia phả.

Thánh Matthêu đã muốn viết một gia phả dài của Đức Giêsu Kitô,

không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử,

nhưng mang nặng ý nghĩa thần học.

Matthêu muốn cho thấy Đức Giêsu là con của cụ tổ Abraham,

và cuộc đời Ngài gắn kết với Ítraen, dân được tuyển chọn.

Ngài cũng là Con của vua Đavít, nên Ngài có cơ sở để là Đấng Kitô.

Làm người là sống trong dòng lịch sử một dân tộc

với tất cả những thăng trầm và biến động của nó.

Matthêu chia lịch sử dân Do-thái làm ba thời kỳ.

Thời kỳ chuẩn bị cho bước đầu của vương triều vua Đavít (cc. 2-6a),

thời kỳ trị vì của các vua thuộc dòng Đavít (cc. 6b-11),

và thời kỳ sau lưu đầy, khi vương quyền Đavít đã mai một (cc. 12-16).

Mỗi thời kỳ mười bốn đời, nghĩa là hai lần bẩy, một con số linh thánh.

Đức Kitô đã đằm mình trong dòng lịch sử này.

Ngài là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (c. 16-17).

Tất cả lịch sử của dân tộc Ítraen cũng là lịch sử cứu độ.

Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô.

Nơi Ngài, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.

Trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ.

Đó là chuyện lạ, vì người Do-thái thường chỉ để tên người cha.

Trừ Đức Maria, bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại.

Ta-ma và Ra-kháp gốc Canaan, Rút gốc Mô-áp, vợ Urigia người Hít-tít.

Các phụ nữ này đều có hoàn cảnh khác thường.

Ta-ma giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giu-đa,

hầu sinh con cho nhà chồng (St 38).

Ra-kháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2).

Bét-sa-bê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (2Sm 11-12).

Rút đã lấy ông Bô-át là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (R 1-4).

Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này.

Ngài cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại.

Cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.

Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau:

“Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria,

từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16).

Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người.

Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít.

Làm người cần được sống trong bầu khí gia đình để lớn lên.

Gia phả của Đức Giêsu nhắc tôi về gia phả của chính mình.

Cũng với những bóng tối của lưu đày, với bao bất thường và vấp ngã.

Chỉ mong trong cuộc đời tôi, gia đình tôi, dân tộc tôi, có mặt Giêsu.

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,

mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

 

Suy Niệm 2: Thiên Chúa thương xót

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Bản gia phả dài dằng dặc khô khan. Nhưng lại mặc khải những điều trọng đại.

Thiên Chúa làm chủ lịch sử. Gia-cóp chúc phúc cho Giu-đa. Tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ sinh bởi dòng tộc Giu-đa (Bài đọc 1). Lời tiên báo đó được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Nhưng để ứng nghiệm, lời tiên báo đó vượt qua biết bao thăng trầm. Tội lỗi của Rưu-ven, Si-mê-on và Lê-vi khiến phúc lành rơi xuống Giu-đa. Giu-đa nhờ toan tính loạn luân của Ta-ma mà có con cháu nối dõi. Đa-vít chiếm vợ của U-ri-gia nhưng lại có Sa-lô-mon kế nghiệp. Tội lỗi không thắng được thánh thiện. Phản bội không thắng được trung tín. Hận thù không thắng được tình yêu. Thiên Chúa thanh tẩy lịch sử tội lỗi. Con Chúa sinh ra đời làm nên một lịch sử mới. Một nhân loại mới.

Thiên Chúa là Lòng Thương Xót. Bản gia phả dài kéo dài lâu đời cho thấy tình yêu của Chúa. Tình yêu lớn lao trong một chương trình hoàn hảo. Ba lần 14 đời. Mỗi lần là 2 lần 7 triều đại. Số ba và số bảy cho thấy sự hoàn hảo của kế hoạch. Chương trình càng dài càng tiêu tốn tâm cơ trí lực. Càng chứng minh tình yêu lớn lao. Thiên Chúa yêu thương nên cho con người giống hình ảnh Người. Nhưng con người không giữ nổi hình ảnh Thiên Chúa. Thì Thiên Chúa quá yêu nên đành mặc lấy hình ảnh con người. Mặc lấy thân phận con người yếu đuối mỏng dòn. Gánh lấy tội lỗi con người. Tình yêu lớn lao biến thành Lòng Thương Xót. Biết bao lần con người tội lỗi muốn làm hỏng kế hoạch. Chúa lại kiên tâm sửa chữa. Khoan dung độ lượng biết bao. Chúa Giê-su là điểm đến của một quá trình. Một tình yêu kiên vững lâu dài của Thiên Chúa. Một lịch sử tràn đầy tội lỗi phản bội của con người. Chúa Giê-su gánh trên vai gánh nặng của cả nhân loại. Khiêm nhường biết bao. Yêu thương biết bao.

Tôi hãy tin tưởng. Dù tôi yếu đuối tội lỗi Chúa vẫn yêu thương. Dù tôi làm sai Chúa sẽ sửa chữa. Tôi có vấp ngã Chúa sẽ nâng dậy. Và để đền đáp tôi cũng phải đối xử với anh em như Chúa đối xử với tôi. Hãy bao dung độ lượng trước những yếu đuối. Hãy gánh lấy gánh nặng của anh em. Hãy uốn nắn dòng lịch sử bằng tình yêu, lòng trung tín và lòng thương xót.

 

Suy Niệm 3: Gia Phả Của Chúa Giêsu Kitô

Ðể ứng nghiệm Lời Chúa hứa ban ơn cứu chuộc sau khi Adam và Eva tổ tiên con người phạm tội, Kinh Thánh đã có câu: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu đã kể lại gia phả của Chúa Giêsu để gợi lên cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi của Ngài trải qua dòng thời gian rất lâu dài, chu đáo và kỹ lưỡng. Thiên Chúa đã chọn tổ phụ Abraham là mẫu gương cho những ai tin Ngài và Abraham được gọi là cha các kẻ tin. Ðức tin là điều kiện tiên quyết khi chúng ta gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo. Chính khi bắt đầu gia nhập vào Giáo Hội, Linh Mục hỏi: “Con xin gì cùng Hội Thánh”. Chúng ta thưa: “Thưa, con xin đức tin”.

Khi Thiên Chúa gọi Abraham ra đi để làm cha các dân tộc dù ông đang ở tuổi già. Thường ở lứa tuổi này ít ai dám mạo hiểm xông pha để khám phá những nơi rừng núi nguy hiểm đang đón chờ mà trí óc già cả lẩm cẩm không thể dễ dàng suy tính nhanh nhẹn, xoay sở, ứng biến y như hồi còn trẻ được. Thiên thần với hình dáng của một người qua đường đến báo với ông rằng bà Sara, vợ ông mặc dù đã già nhưng vào thời kỳ này qua năm bà sẽ sinh con, và Sara cười có vẻ mỉa mai vì không tin, nhưng ông, ông vẫn tin tưởng việc Chúa làm.

Rồi khi sinh được đứa con trai duy nhất là Isaac, Thiên Chúa lại muốn thử thách lòng tin của ông một lần nữa, Ngài truyền đem Isaac lên núi để hiến tế. Dù rất đau lòng vì tình phụ tử dạt dào nhất trong cảnh cha già con muộn, Abraham vẫn lẳng lặng cúi đầu, cặm cụi mò mẫm lê tấm thân già nua cùng với đứa con leo lên núi cao để sát tế con độc nhất của mình dâng cho Thiên Chúa. Từ lòng tin kiên vững và sâu xa đó, Abraham đã được hưởng lời Chúa hứa: “Abraham là cha các dân tộc đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển”. Dòng họ này kế tiếp dòng họ kia, từ Abraham đến vua David có mười bốn đời, từ vua David đến thời kỳ lưu đày ở Babylon gồm có mười bốn đời. Tổng cộng từ Abraham đến Chúa Giêsu là đời thứ bốn mươi hai.

Ðiểm thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay gợi lên một cái nhìn chân xác: “Xem quả thì biết cây”. Cây tốt sinh trái tốt. Không thể tìm hoa hồng nơi bụi cỏ gai rậm rạp được. Chúng ta cũng thường nghe nói: “Hổ Phụ Sinh Hổ Tử”, cha mẹ hiền lành chắc hẳn con cái không hung dữ được, hoặc “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”.

Là người Kitô hữu thì tất cả mọi người đều là anh em với nhau, có Thiên Chúa là Cha, Ngài là Ðấng nhân từ, khoan dung, yêu thương và đầy lòng tha thứ. Chúng ta học theo tính tình người Cha, bắt chước Cha để trở nên khoan dung độ lượng, yêu thương và tha thứ. Không một lý do gì mà chúng ta không ăn ở thuận hòa với nhau trong cuộc sống, không một lý do gì mà chúng ta không yêu thương hiệp nhất nối kết chúng ta lại với nhau trong tình yêu của một Cha chung. Những thiếu sót, khuyết điểm lầm lỗi của nhau không còn cản trở tình thương đang đổ chan hòa trên chúng ta là con cái yêu thương của một người Cha nhân từ. Yêu nhau không phải là nhìn nhau nhưng là cùng nhìn về một hướng, hướng đó là hướng đích điểm nhắm về Cha là Thiên Chúa. Ðừng để những gai nhọn hai bên đường làm chúng ta mất thì giờ dừng lại trên con đường dài thăm thẳm tiến về Nước Trời để rồi chúng ta không tiến bước được về nhà Cha là nơi Cha vĩnh cửu luôn yêu thương và chờ đón chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức được Chúa đã chuẩn bị chương trình cứu rỗi yêu thương của Thiên Chúa như thế nào đối với nhân loại, trong đó có chúng con để chúng con cố gắng sống xứng đáng với lòng yêu thương mà Chúa đã dành cho chúng con.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn Abraham làm cha các kẻ tin. Xin ban cho chúng con có một niềm tin kiên vững và mạnh mẽ để chúng con tìm thấy thánh ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày trên con đường tiến về quê trời. Không phải chúng con tìm thấy hoa nở hai bên đường nhưng xin Chúa ban thêm nghị lực, kiên nhẫn, bình an và lạc quan để chúng con vững bước về với người Cha đầy thân yêu nhân ái đang chờ đón chúng con. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Gia phả Chúa Giêsu.

Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến ba danh hiệu trọng đại: Abraham, Davít, Giêsu. Abraham là người đã lãnh nhận lời hứa và đức tin để trở thành  cha của những kẻ tin. Davít là người đã nhân danh Chúa các đạo binh chiến đấu cho Đấng Tối cao và biến Yêrusalem nên thành trì Thiên Chúa. Chúa Giêsu  là Đấng đã đích thân thực hiện mọi lời hứa, hình thành một dân tộc ưu tú gồm những kẻ tin vào Ngài, chiến thắng quân thù thiêng liêng của Thiên Chúa, xây đắp Yêrusalem mới và vương quốc thiêng liêng.

Qua việc Ngôi Lời Nhập thể làm người, Thiên Chúa đã hạ mình xuống giữa nhân loại, mang lấy giòng lịch sử và quá khứ của nhân loại cũng như thừa kế gia tài qua các thế hệ. Đó là bản lý lịch chính thức. Xét theo máu mủ, Ngài sinh ra từ dòng dõi Davít, thuộc về một dân tộc, trong đó không thiếu những bậc tổ tiên là người tội lỗi và người ngoại giáo, như Davít, Salomon, Tamar, Rahab, Bethsabê, Ruth. Đó là những yếu tố rất tầm thường, nhưng đã được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài, vì Thiên Chúa đã hứa và trung thành hoàn tất lời hứa.

Như thế, bên trong bản gia phả khô khan, đã hàm ngụ một Tin mừng “Thiên Chúa đã nhập thể trong Đức Kitô” bất chấp những khiếm khuyết và tội lỗi của nhân loại. Bài mở đầu Tin mừng Mathêu còn gây cho ta một xác tín: Thiên Chúa có thể nhìn đến và sử dụng chúng ta, không gì có thể cưỡng lại được ý định của Ngài, dù đó là quá khứ đen tối hay sự bất toàn của chúng ta. Bởi vì trong Đức Kitô, Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, những gì hèn hạ đã trở nên cao trọng, những gì xấu xa được thanh tẩy, những gì vô nghĩa mặc một giá trị, và những gì trần tục sẽ được thần linh hoá.

 

Suy Niệm 5: Gia phả Đức Giêsu

Bạn tự hỏi chắc có ý nghĩa gì đó khi kể một chuỗi tên như vậy. Tại sao phụng vụ không in bài khác đơn giản và hay hơn bài này? Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kỹ hơn, bài này có thể giúp chúng ta hiểu hơn về mầu nhiệm Giáng sinh.

Bạn thấy có một sự sắp xếp khá rõ của thánh Mát-thêu: Trong gia phả của Đức Giêsu được chia làm sáu chuỗi, mỗi chuỗi có bảy tên. Đức Giêsu Kitô đứng đầu chuỗi thứ bảy mà chưa có tên ai, nghĩa là Người đứng đầu một chuỗi mới của một thời đại mới có vô số vô cùng tên chưa thể kể hết được.

Thật quá rõ, ngôn ngữ Kinh thánh là tiếng nói biểu tượng, là một thứ tượng từ: Những tên nơi chốn, tên người có một ý nghĩa nào đó. Những con số và vị trí của số đều có ngụ ý. Số bảy ngụ ý toàn hảo, toàn bích, toàn vẹn.

Thánh Mát-thêu đã sắp xếp gia phả của Đức Giêsu cho chúng ta tìm thấy ý nghĩa của con số bảy. Mỗi một chuỗi tên đầu toàn hảo, hoàn toàn: Chuỗi của Áp-ra-ham, chuỗi các thẩm phán, chuỗi các vua. Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bảy là chuỗi hoàn hảo trọn vẹn, Người đến làm hoàn hảo lịch sử tôn giáo của dân tộc được tuyển chọn, Người đến khởi đầu một thời đại mới đầy hứa hẹn tốt hơn, hoàn toàn hoàn hảo.

Nhờ Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bảy, chúng ta được ghi tên vào chuỗi của Người. Chúng ta được cưu mang bởi Đức Giêsu để sinh ra làm con Thiên Chúa. Chúng ta được đồng phận với Người trong sự chết và sống lại. Chúng ta là dòng dõi của Đức Kitô.

Nhờ Đức Kitô, chúng ta là thừa tự của những người tin đầu tiên là Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Nhờ Đức Kitô, chúng ta được hưởng gia nghiệp tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện giữa lòng lịch sử như thời Đa-vít, Sa-lo-môn, thời toàn thể dân tộc Do thái. Chúng ta được hưởng toàn vẹn gia nghiệp đó, nhưng với cái nhìn của một dòng dõi khác, dòng dõi được đổi mới, được nên chi thể của Thánh thể toàn vẹn của Đức Kitô.

Gia phả của Đức Giêsu hướng chúng ta trở về nguồn gốc của Kitô giáo, đó là: chúng ta là dòng dõi của Đức Kitô, chúng ta chuẩn bị thời đại cuối cùng, thời đại biểu lộ toàn vẹn, chúng ta sửa soạn một lễ Noel cuối cùng: Đấng sẽ là tất cả trong mọi sự, hiện diện ở mọi tạo vật.

  1. G

 

Suy Niệm 6: Gia phả của Đấng cứu độ trần gian

Ngày nay, nhiều dòng họ đã lưu lại gia phả của họ tộc mình, nhằm lưu truyền cho hậu thế và để cho con cháu biết đến tổ tiên của dòng tộc mình.

Đức Giêsu khi mang lấy bản tính nhân loại, Ngài cũng có một dòng tộc trong lịch sử loài người, vì thế, hôm nay, bài Tin Mừng ghi lại gia phả của Đức Giêsu để xác minh tính chất kỳ diệu của mầu nhiệm cứu chuộc.

Thánh sử Mátthêu trình bày gia phả của Đức Giêsu thành 3 nhóm kép, mỗi nhóm kép chia làm hai nhóm đơn, mỗi nhóm đơn có tên của bẩy người. Kết thúc nhóm kép ba và cũng là khởi đầu một nhóm khác chính là tên Đức Giêsu.

Như vậy, đầu nhóm thứ bẩy này chính là tên của Đức Giêsu, điều này cho thấy: Đức Giêsu  chính là Đấng đứng đầu của một chuỗi lịch sử mới, một thời đại mới được mở ra và con số không giới hạn.

Đức Giêsu đứng đầu chuỗi thứ bẩy trong tư cách là Trưởng Tử, đồng thời cũng nói lên một sự trọn vẹn, vì theo nghĩa ngôn ngữ của Kinh Thánh, con số bẩy được hiểu là con số hoàn hảo. Vì thế, khi chúng ta đứng trong hàng ngũ những người được chọn, chúng ta sẽ được lãnh nhận dồi dào ân sủng trong Đức Giêsu. Bởi vì, Đức Giêsu đến để kiện toàn lịch sử cũ và khai sinh một thời đại mới, thời đại của Ngôi Lời, ân sủng và tha thứ.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta hồng ân đặc biệt này là: nhờ Đức Giêsu là Trưởng Tử của chuỗi thứ bẩy, mà mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được sáp nhập vào chuỗi của Đức Giêsu, tức là chuỗi của những người được giải thoát, tha thứ và cứu chuộc. Cũng chính từ đây, dòng máu của Đấng là Đầu được được lưu truyền trong con người của những ai tin và sáp nhập vào đoàn dân mới của Đấng Cứu Thế, tức là dân Kitô giáo.

Như vậy, qua gia phả của Đức Giêsu, một mặt hướng chúng ta về nguồn cội một dân tộc thánh được ân sủng của Thiên Chúa gội rửa mọi tội lỗi, để từ nơi đó, xuất hiện Đấng Xóa Tội Trần Gian; mặt khác, từ nơi nguồn cội đó, xuất hiện Đấng Cứu Tinh là Đức Giêsu, Ngài đến nhằm thiết lập một dân tộc mới để đồng hành và giải thoát chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con mỗi khi mừng đại lễ Giáng Sinh, luôn biết nhìn về nguồn cội của lịch sử cứu độ để tạ ơn, chúc tụng vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi lịch sử nhân loại, đồng thời luôn ý thức mình thuộc về Chúa, để hãnh diện và sống xứng đáng hồng ân cao quý này. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Mầu nhiệm ân sủng và tội lỗi

Hôm nay, Phụng vụ Giáo Hội chuyển sang phần hai của Mùa Vọng. Tức là thời gian chuẩn bị cho việc đón Chúa trở nên gần hơn trước. Tuy nhiên, Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta biết về gia phả của Đức Giêsu, không chỉ nhằm mục đích cung cấp cho chúng ta thông tin về lai lịch dòng tộc của Đức Giêsu, mà còn mặc khải cho chúng ta biết về tình thương và ân sủng của Thiên Chúa ngang qua mầu nhiệm về tội lỗi của dòng tộc này. Mặt khác, cũng cho chúng ta thấy lối nhìn và cách hành xử của Thiên Chúa khác xa lối nhìn và suy nghĩ của con người.

Toàn bộ gia phả cho thấy: lòng từ bi của Thiên Chúa trải dài qua muôn thế hệ. Vì thế, cách thế Người gọi và chọn những người cộng tác trong chương trình này cũng rất đặc biệt. Không nằm trong lý luận của con người. Chẳng hạn như việc tổ phụ Abraham, thay vì ông chọn trưởng tử Ismael, con của bà Aggar, thì lại chọn Isaac là đứa con của lời hứa, con của bà Sara, vợ của ông. Rồi, đến lượt Isaac muốn chúc lành cho trưởng nam Esau, nhưng rốt cuộc đành chúc lành cho Giacóp, theo một ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Hay như Giacóp, đã không chọn Ruben, con trưởng, hoặc chọn Giuse, người được ông yêu thương nhất, hơn nữa Giuse cũng là người tài giỏi, có tình thương và đại lượng hơn mọi anh em khác, nhưng Giacóp lại chọn Giuđa là người đã bày binh bố trận bắt cóc Giuse và bán sang Aicập!

Sang thời quân chủ, chúng ta thấy các vua trước lưu đầy nằm trong gia phả đa số là những người tội lỗi, bất nhân, thất trung, chỉ có hai vị trung thành với Thiên Chúa mà thôi, đó là: Ezechiel và Geroboam. Sau thời lưu đầy cũng chỉ có hai là vua: Salathiel và Zorobabel.

Ngay cả vua thánh Đavít, người được nhắc đến nhiều cũng là người mang trong mình tội lỗi!

Rồi đến các phụ nữ, chúng ta thấy các bà cũng đại đa số là những người bất hợp luật như: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mại dâm, Rut là một người ngoại bang và người đàn bà cuối cùng được nhắc đến trong gia phả chính là Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.

Như vậy, trong gia phả của Đức Giêsu, chúng ta có thể ví như là một dòng suối ô nhiễm, nó chỉ được trở nên trong sạch, tinh tuyền khi có sự xuất hiện của Đức Maria, thánh cả Giuse, Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu xuất hiện, chúng ta thấy dòng suối cứu độ được chảy ngược dòng và xuôi dòng để gội sạch tội lỗi của tổ tiên trong quá khứ cũng như hậu sinh sau này.

Khi đọc lại gia phả của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc bày tỏ tình thương của Người ngay trong lịch sử gồm nhiều người tội lỗi, và như thế, chúng ta có quyền hy vọng vào tình thương của Ngài, mặc dù chúng ta đều là những người bất xứng. . . Hơn nữa, chúng ta được nhập đoàn không phải với những người tội lỗi, nhưng với đoàn dân, những người mang trong mình niềm hy vọng cứu chuộc.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cất cao lời tạ ơn Chúa vì Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu trong lịch sử cứu độ, mà chúng ta là những thành phần trong lịch sử mầu nhiệm này.

Mặt khác, mời gọi chúng ta có lòng cảm thông với những người tội lỗi và giúp họ vươn lên trong ân sủng của Thiên Chúa vì: ở đâu tội lỗi tràn đầy, thì ở đó ân sủng của Thiên Chúa chứa chan gấp bội. Bởi lẽ, thánh nhân nào cũng có quá khứ và tội nhân nào cũng có tương lai.

Như vậy, chúng ta nhận thấy rõ rằng: không ai và không có gì có thể ngăn cản được tình yêu của Thiên Chúa.

Hơn nữa, qua trình thuật về gia phả của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ hoàn toàn không phải do công trạng của người này hay người kia mà Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng chính yếu là do lòng thương xót của Thiên Chúa.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Tình thương Chúa thật bao la và lòng từ bi Chúa vô tận. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức mình bất xứng nhưng lại được Thiên Chúa yêu thương. Từ đó chúng con luôn mang trong mình niềm hy vọng được Chúa cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 8: Con Thiên Chúa nhập thể là một người thực sự

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Gia phả của Chúa Giêsu chứng tỏ Con Thiên Chúa nhập thể là một người thực sự trong lịch sử Dân Chúa. Qua các thời đại, Thiên Chúa là Đấng trung thành đã thực hiện lời hứa cứu độ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, gia phả của Chúa Giêsu tạo ra cảm tưởng dài lê thê với những tên tuổi xa lạ vô nghĩa đối với con. Nhưng chính cảm tưởng dài lê thê ấy lại cho con phần nào cảm nhận được rằng lịch sử Dân Chúa là những tháng ngày dài đằng đẵng mong đợi Chúa đến. Lịch sử càng dài, nỗi niềm mong đợi càng mãnh liệt, không biết Chúa có đến cứu độ như lời đã hứa chăng.

Con biết Chúa là Đấng trung thành, vẫn âm thầm từng bước thực hiện chương trình cứu độ. Mỗi một người sinh ra, tưởng chừng như tự nhiên, tình cờ, tầm thường, nhưng thực ra là một mắt xích quan trọng trong chương trình của Chúa. Thậm chí tổ tiên của Chúa Giêsu cũng có nhiều kẻ tội lỗi, họ cũng có một chỗ đứng trong lịch sử cứu độ.

Lạy Chúa, Chúa Giêsu đã đến trần gian, nhưng lịch sử cứu độ vẫn diễn tiến xuyên qua cuộc đời chúng con. Con cảm tạ Chúa vì đã gọi con vào đời góp phần làm nên lịch sử cứu độ. Trong chương trình của Chúa có tên của con. Dù con tầm thường nhỏ bé, dù con tội lỗi yếu hèn, nhưng con biết rằng con có mặt trên đời chẳng phải là điều ngẫu nhiên tình cờ hoặc bất đắc dĩ, nhưng vì Chúa muốn. Con cảm tạ Chúa và xin hứa sẽ chu toàn sứ mạng trong chỗ đứng mà Chúa đã đặt con vào. Thật ra, con có quá nhiều tội lỗi yếu hèn, đôi lúc phá vỡ chương trình của Chúa. Nhưng con tin Chúa vẫn đang âm thầm hướng dẫn lịch sử cứu độ đến chỗ hoàn thành tốt đẹp. Xin Chúa hoàn tất những điều tốt đẹp Chúa đã khởi sự nơi con. Amen.

Ghi nhớ: “Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít”.

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu là một con người nhân loại

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Có hai thánh sử ghi chép lại gia phả Chúa Giêsu: Mt 1,1-16; Lc 3,23-38

  1. Thánh Máthêu viết Phúc âm nhằm trình bày Chúa Giêsu là Đấng cứu thế cho dân Do Thái. Do đó Ngài trình bày Chúa Giêsu là con Vua Đavít như các tiên tri từng loan báo.
  2. Cách trình bày khác nhau: Máthêu viết xuôi từ Abraham tới Chúa Giêsu, còn Luca kể ngược lại từ Chúa Giêsu đến Adong.
  3. Khác nhau về pháp lý: Máthêu kể theo huyết nhục, Luca kể theo pháp lý.
  4. Mathêu kể ra 42 đời chia làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn 14 đời. Gia phả của Luca kể ra 72 đời và chia làm 4 giai đoạn.
  5. Thánh Mathêu đã chọn gia phả theo sách bà Ruth (4,18-22); còn Luca kể lại chọn gia phả theo sách Sáng Thế Ký(5,32 và 11,10-26).

Tuy nhiên cả hai bản gia phả cũng có những điểm tương đồng:

  1. Cả hai gia phả đều tận cùng bằng thánh Giuse được gọi là cha nuôi Chúa Giêsu. Theo tục lệ Do Thái chỉ người cha mới có giá trị pháp luật vì họ theo chế độ phụ hệ. Đức Mẹ cũng thuộc một ngành Đavít, truyền thống cũng nghĩ thế.
  2. Cả hai bản gia phả đều dùng một số những bản gia phả của chi họ, cho nên có nhiều tôn giáo khác nhau.
  3. Cả hai bản gia phả đều ghi rõ tổ tiên của Chúa có một số tội nhân như Đavít, Salômôn, Rahab, Besabeth. . . để nói lên Thiên Chúa đến cứu chuộc cả nhân loại tội lỗi nữa.

Riêng trong gia phả của thánh Mathêu hôm nay chúng ta thấy:

  1. Những chữ “sinh ra” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đến chỗ Giuse là chữ “sinh ra” biến mất. Giuse là người cha theo pháp luật. Nhờ có Giuse mà Chúa Giêsu được đặt vào lịch sử nhân loại theo pháp luật. Nhờ có Giuse mà Chúa Giêsu có giòng họ Đavít (“sinh ra” còn có nghĩa kế vị, kế tiếp).
  2. Người ta tự hỏi bản gia phả của Mathêu có thực không? Có tính cách lịch sử không? Hai lớp trước từ Abraham đến Đavít rồi từ Salômôn đến Giêkôn thì đã có sẵn trong Cựu Ước, cứ việc theo đó mà chép vào. Còn lớp thứ ba từ Salath đến Chúa Giêsu thì không biết lấy gốc ở đâu. Chúng ta chỉ biết có một điều này là khi viết Phúc Âm, Máthêu được Chúa Thánh Thần linh ứng và dùng những tài liệu gia phả khác nữa, Máthêu không thể phịa ra được. Nên biết người Do Thái giữ gìn gia phả rất cẩn thận.
  3. Bản gia phả muốn nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu là một người thực sự Nhập Thể, nhập khẩu giữa loài người, có tổ có tông, Chúa Giêsu là một con người nhân loại, “đầu đội trời chân đạp đất” như trăm nghìn chúng sinh. Trong số tổ tiên của Chúa có rất nhiều bậc anh hùng như Abraham, Maisen. . . Nhưng số những vị vua tội lỗi như Đavít, Salômôn, có vua thờ ngẫu tượng; trong số phụ nữ có Rahab, Ruth, Uria, Besabeth tiếng tăm không tốt gì. Nhưng Thiên Chúa đã nhập thế giữa họ bất chấp khuyết điểm lầm lỗi của nhân loại. Ngài là bông sen. Không gì chống lại được ý định Thiên Chúa. Mọi sự được thay đổi, tội lỗi được tẩy sạch, những gì trần thế được thần linh hết.

 

Suy Niệm 10: Gia phả Đức Giêsu Kitô

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Thánh Matthêu viết lại gia phả Đức Giêsu là để giới thiệu: Đức Giêsu là Đấng muôn dân trông đợi, Đấng mà các tiên tri của dân Do thái loan báo trước, Ngài là con người thật. Ngài cũng có dòng dõi tổ tiên như chúng ta. Ngài được sinh ra và thuộc về một dân tộc như chúng ta. Tuy nhiên, bản gia phả không nói: ông Giuse sinh ra Đức Giêsu, nhưng lại nói: “Ông Giuse chồng bà Maria, bà là Mẹ Đức Giêsu, cũng gọi là Đấng Kitô”. Điều đó cho thấy Ngài còn có nguồn gốc là Thần linh. Ngài được thụ thai không theo kiểu loài người nhưng do quyền năng của Thánh Thần. Vì thế, Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người thật.
  2. Qua gia phả mà thánh Matthêu kể lại chúng ta thấy từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời, từ Đavít đến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời, và từ thời lưu đầy đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời. Gia phả cho ta thấy Đức Giêsu là con người thật, con người lịch sử. Ngài cũng có dòng dõi tổ tiên như chúng ta. Ngài được sinh ra thuộc về một dân tộc như chúng ta. Ngài có cha có mẹ hợp pháp theo lý lịch như chúng ta.
  3. Trong suốt chiều dài lịch sử, qua gia phả Đức Giêsu, chúng ta thấy Đức Giêsu sinh ra làm người trong một dòng tộc gồm có kẻ tốt người xấu, kẻ có đạo người ngoại giáo, kẻ tốt như Abraham, Isaác, Giacóp; người xấu và ngoại đạo như Tama đã lấy cha chồng, Rakháp là một kỹ nữ, Bétxêba là người đàn bà ngoại tình. . . Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa chấp nhận làm người trong thân phận thấp hèn của họ để cứu chuộc họ, và đây là dấu chỉ tính phổ quát của ơn cứu độ.
  4. Chúng ta nên lưu ý: trong bản gia phả, thánh Matthêu thường dùng cụm từ “cha sinh con”, nhưng khi đến thánh Giuse, bản gia phả không nói: ông Giuse sinh ra Đức Giêsu, mà viết: ”Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16). Điều đó cho thấy Đức Giêsu còn có nguồn gốc Thần linh. Ngài được sinh ra không theo kiểu loài người nhưng do quyền phép của Thiên Chúa. Như vậy, thánh Giuse không là cha sinh ra Đức Giêsu nhưng chỉ là cha nuôi, cha trên lý lịch, nhờ đó Đức  Giêsu được thừa hưởng danh hiệu “con cháu của vua Đavít”.
  5. Lịch sứ cứu độ qua những nhân vật bất xứng làm nên gia phả Đấng Cứu Thế, gợi cho chúng ta sự xác tín rằng: dù chúng ta tội lỗi, bất xứng, nhưng chúng ta không mặc cảm, mà vững tin tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.

Chúa không thực hiện việc cứu độ loài người từ trời cao. Người có thể và dư quyền để làm việc đó. Nhưng để cứu loài người, Chúa đã nhập thể và nhập thế để từ đó Chúa đưa loài người sa ngã đứng lên. Con Thiên Chúa chấp nhận làm con cháu của người phàm, trong đó có cả những người tội lỗi. Ngài đã đón nhận và liên kết với con người, với cả những lỗi lầm và thiếu sót của họ. Kẻ tội lỗi cũng có chỗ đứng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

  1. Truyện: Ai có thể đứng vững?

Có một thành viên trong Hội đồng giáo xứ đang rơi vào chuyện sa ngã tội lỗi, gây xôn xao trong giáo xứ. Cha xứ liền triệu tập các thành viên còn lại, rồi với tình yêu thương và thương xót, ngài trình bầy lại đầu đuôi câu chuyện đáng buồn cho mọi người rồi ngài hỏi như thế này:

– Nếu như chính các ông các bà bị cám dỗ như người anh em của chúng ta, quý vị sẽ làm gì?

Người thứ nhất tin tưởng ở khả năng mình có thể đứng vững trong cơn cám dỗ, nói:

– Thưa cha, chắc chắn con chẳng bao giờ chịu nhượng bộ trước tội lỗi đáng ghê tởm đó.

Mấy người khác cũng lần lượt lớn tiếng dõng dạc nói như vậy. Ai cũng muốn cho mọi người thấy mình là người đàng hoàng đạo đức, hoặc can đảm đồi đầu với mọi chước cám dỗ xấu xa.

Sau hết, cha xứ có vẻ chưa vừa ý, quay sang hỏi người cuối cùng trong Hội đồng giáo xứ. Ông này vốn là người ít nói, chỉ lẳng lặng âm thầm chu toàn các việc nhỏ trong giáo xứ. Trong cuộc họp, ông cũng luôn ngồi ở một góc phòng. Nghe cha xứ hỏi ông đứng lên nhỏ nhẹ thưa:

– Thưa cha và mọi người, thú thật, tự đáy lòng con phải thú nhận rằng, nếu con bị cám dỗ và thử thách như người anh em đó, có lẽ con sẽ còn sa đọa hơn thế nữa.

Cả phòng yên lặng sững sờ. Cha xứ gật gù bảo:

– Đây là người duy nhất có thể đi với tôi để nói chuyện với anh em lầm lạc đó, để cố gắng dìu dắt người ấy quay trở về với Chúa.

 

Suy Niệm 11: Con Thiên Chúa nhập thế đi vào lịch sử loài người

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Bắt đầu từ hôm nay, 17-12 cho đến 24-12, Giáo Hội dành ra tuần bát nhật trong đó các bài đọc trong Thánh lễ được tuyển chọn cách đặc biệt để chuẩn bị gần cho Lễ Giáng Sinh và giới thiệu những nhân vật có liên hệ trực tiếp tới cuộc Giáng Sinh này. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày Đấng sắp sinh ra là Con Thiên Chúa nhập thế đi vào lịch sử loài người để cứu loài người.

Chúa đã thực hiện việc cứu chuộc loài người bằng những gì loài người không thể ngờ được. Chúa đã không cứu loài người từ trời cao. Dĩ nhiên là Người có thể và dư uy quyền để làm được việc đó. Để cứu loài người Chúa đã nhập thể và nhập thế để từ đó Chúa đưa loài người sa ngã đứng lên. Chúng ta thấy cứu một người sắp chết đuối bằng cách từ trên bờ thảy cho người đó một chiếc phao sẽ không có ý nghĩa cho bằng chính mình nhảy xuống nước kéo người đó lên.

Một ông vua có vị thủ tướng rất tài giỏi học cao biết rộng. Một ngày kia vị thủ tướng trở thành tín đồ Kitô giáo và công khai hoá đức tin mình trước mặt dân chúng. Vị ấy thường làm chứng rằng, mình tin Đấng Cứu Thế đã đến thế gian để cứu những kẻ có tội. Nhà vua của vị thủ tướng này không hiểu được sự việc đó cho nên đã nói: “Trẫm là vua, nếu trẫm muốn thi hành điều gì thì chỉ cần truyền lệnh cho các thần dân là đủ. Lẽ nào Đức Kitô là Vua trên các vua mà lại tự hạ mình xuống thế gian này? Điều đó thật vô lý!”.

Nhà vua muốn cho vị thủ tướng ấy về vườn, vì tội đã dám tin theo Đức Kitô, nhưng nhà vua có lòng yêu mến ông lắm nên hứa rằng, nếu ông có thể giải nghĩa xuôi vấn đề này thì sẽ tha tội cho, không cách chức. Vị thủ tướng xin vua cho mình suy nghĩ trong 24 giờ rồi sẽ giải đáp. Vị này bèn sai tìm một người thợ mộc rất khéo léo làm một tượng gỗ giống y hình hoàng thái tử mới 2 tuổi và cũng mặc một thứ quần áo giống như của hoàng thái tử. Ngày hôm sau, vua cỡi thuyền rồng dạo chơi sông với thủ tướng. Thủ tướng đã dặn người thợ mộc hãy đứng trên bờ sông bên kia, hễ xa xa thấy một dấu hiệu của thủ tướng thì ném cái tượng gỗ ấy xuống nước. Vua ngồi trên thuyền thấy tượng gỗ ấy rơi tưởng là con mình ngã xuống sông, không kịp hỏi ai, liền nhảy ùm xuống nước, bơi ra cứu con.

Vị thủ tướng bèn hỏi lại vua sao không sai một đầy tớ nhảy xuống nước để vớt hoàng thái tử, mà chính vua lại nhảy xuống nước làm gì, đến nỗi gần phải chết đuối và ướt hết long bào. Vua trả lời:

– Đó là do lòng thương.

Vị thủ tướng liền tâu rằng:

– Cũng một lẽ ấy, Đức Chúa Trời là Đấng Thượng Đế dựng nên thần, nên đức vua và muôn vật, cũng không đành lòng sai ai xuống thế này để đem sứ mạng cứu rỗi cho loài người; nhưng vì lòng yêu thương của Ngài vô hạn, nên Ngài từ bỏ ngôi vinh hiển trên trời xuống trần gian mà cứu chúng ta. Đó cũng là do nơi lòng thương chúng ta vậy.

  1. Trong số các tổ tiên của Chúa Giêsu có những người tội lỗi, như “Ông Giuđa ăn ở với bà Tama” (câu 3), “vua Đavid lấy vợ ông Uria sinh ra vua Salômôn” (Mt 1,5b) v. v. Như thế kẻ lỡ phạm tội không hẳn là hoàn toàn biến mất mà kẻ tội lỗi vẫn có chỗ đứng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Có một thành viên trong Hội Đồng Giáo Xứ hiện đang rơi vào chuyện sa ngã tội lỗi, gây xôn xao trong họ đạo. Cha sở liền triệu tập các thành viên còn lại, rồi với tình yêu và thương xót, ngài trình bày lại đầu đuôi câu chuyện đáng buồn cho mọi người rồi ngài hỏi như thế này:

– Ví bằng chính các ông các bà bị cám dỗ như người anh em của chúng ta, quý vị sẽ làm gì?

Người thứ nhứt tin tưởng ở khả năng mình có thể đứng vững trong cơn cám dỗ, nói:

– Thưa cha, chắc chắn con chẳng bao giờ chịu nhương bộ trước tội lỗi đáng ghê tởm đó!

Mấy người khác cũng lần lượt lớn tiếng dõng dạc nói như vậy. Ai cũng muốn cho mọi người thấy mình là người đàng hoàng đạo đức, hoặc can đảm đối đầu với mọi chước cám dỗ xấu xa.

Sau hết, cha sở có vẻ vẫn chưa vừa ý, quay sang hỏi người cuối cùng trong Hội Đồng Giáo Xứ. Ông này vốn là người ít nói, chỉ lẳng lặng âm thầm chu toàn các việc nhỏ trong họ đạo. Ở cuộc họp, ông cũng luôn ngồi ở một góc phòng. Nghe cha sở hỏi ông đứng lên nhỏ nhẹ thưa:

– Thưa cha và mọi người, thú thật, tự đáy lòng con phải thú nhận rằng, nếu con bị cám dỗ và thử thách như người anh em đó, có lẽ con sẽ còn sa đọa hơn thế nữa.

Cả phòng yên lặng sững sờ. Cha sở gật gù bảo:

– Đây là người duy nhất có thể đi với tôi để nói chuyện với anh em lầm lạc đó, để cố gắng dìu dắt người ấy quay trở về với Chúa.

 

 

 

Ngày 18 tháng 12

 

LỜI CHÚA: Mt 1, 18-24

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.

 

Suy Niệm 1: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )

Thiên Chúa bất ngờ và mãi mãi bất ngờ.

Ngài muốn cứu độ nhân loại bằng cách sai Con Một làm người.

Cách trở thành người của Con Thiên Chúa

vừa bình thường, lại vừa tuyệt đối khác thường.

Bình thường vì Ngài được một phụ nữ sinh ra (x. Gl 4, 4).

Khác thường vì Ngài được sinh ra không do một người cha ruột,

nhưng do quyền năng của Thánh Thần (cc. 18. 20).

Đây là niềm tin ngay từ thuở ban đầu của các Kitô hữu.

Giáo Hội sung sướng đến với máng cỏ

để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu và Mẹ đồng trinh của Ngài.

Nhưng chúng ta không được quên thánh Giuse.

Giuse đã bối rối, đau khổ khi thấy vị hôn thê của ông mang thai,

dù Maria chưa về chung sống với ông, dù chưa làm đám cưới.

Ông không muốn tố cáo Maria vì tội ngoại tình,

nhưng ông cũng không thể lấy Maria làm vợ,

với thai nhi trong bụng không phải của ông.

Cuối cùng ông chọn giải pháp là chia tay bà một cách kín đáo (c. 19).

Như thế ông hy vọng sẽ bảo vệ được danh dự và an toàn cho Maria.

Nhưng Thiên Chúa Cha cần Giuse,

cần một người cha nhân loại cho Con mình.

Con Thiên Chúa không thể sinh ra trong một gia đình không cha.

Người cha cần biết bao cho sự phát triển quân bình của đứa trẻ.

Maria cũng cần chỗ dựa và không thể một mình nuôi con.

Qua sứ thần, Thiên Chúa mong Giuse đón Maria về làm vợ (c. 20),

nghĩa là làm đám cưới chính thức với Maria.

Việc này đi kèm với việc đặt tên cho người con trai của Maria,

nghĩa là nhận người con ấy là con của mình trước pháp luật (c. 21).

Một lời mời quan trọng chờ nơi Giuse một tiếng Xin Vâng.

Đâu phải Thiên Chúa chỉ cần tiếng Xin Vâng của Maria là đủ.

Giuse có thể từ khước vì thấy mầu nhiệm khó hiểu và khó tin.

Làm sao quyền năng Thánh Thần lại có thể làm cho Maria mang thai?

Giuse có thể sợ vì thấy mình phải chịu trách nhiệm làm chồng làm cha,

dù thực sự mình chẳng hề là thế.

Thiên Chúa đã mời Giuse trong giấc ngủ đêm khuya.

Và ông đã làm y như lời sứ thần truyền khi thức dậy (c. 24).

Tiếng Xin Vâng của Giuse quá quan trọng cho kế hoạch cứu độ,

nhờ đó Con Thiên Chúa đàng hoàng bước vào cuộc đời,

có một mái nhà, có mẹ, có cha, có tên, có tuổi.

Nếu không có những tiếng Xin Vâng của Maria và Giuse,

thì điều gì sẽ xảy ra cho nhân loại đang cần ơn cứu độ?

Thiên Chúa chỉ ở-với-chúng ta nếu có những tấm lòng xin vâng.

Ngài vẫn cần tấm lòng của người mẹ biết cưu mang như Maria,

và tấm lòng của người cha dám chịu trách nhiệm

để Giêsu có chỗ đứng hợp pháp trong thế giới.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

sống cho Chúa thật là điều khó.

Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,

ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

trước khi con tập sống cho Chúa

và thuộc về Chúa

thì Chúa đã sống cho con

và thuộc về con từ lâu. Amen.

 

Suy Niệm 2: Triều đại công chính

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Từ xưa người nghèo luôn bị bóc lột. Dân nghèo luôn bị nô lệ. Vì thế luôn mong chờ một triều đại công chính. Giê-rê-mi-a loan báo sẽ có vua công chính từ dòng dõi Đa-vit. Sẽ thi hành điều chính trực công minh. Sẽ là “sự công chính của chúng ta”.

Công bình chính trực. Công bình là của ai phải trả lại cho người ấy. Người ta bất công vì muốn chiếm đoạt của người khác. Vì thế sinh ra chiến tranh, oán hờn, bất ổn. Đặc biệt người ta chiếm đoạt quyền của Thiên Chúa. Cần phải “của Xê-da trả cho Xê-da; của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”(Mc 12,17). Chỉ khi Vua Công Chính đến ta mới được hưởng nền “thái bình thịnh trị”.

Thánh Giu-se thuộc về triều đại công chính. Nên Người sống công chính. Chỉ dám nhận những gì thuộc về mình. Không dám nhận Ma-ri-a vì Mẹ thuộc về Thiên Chúa. Không dám nhận Chúa Giê-su vì Chúa là Con Thiên Chúa. Không dám tố cáo Ma-ri-a vì quyền xét đoán thuộc về Thiên Chúa. Thánh nhân chỉ biết lặng lẽ rút lui. Để Thiên Chúa ra tay. Vì quyền thuộc về Thiên Chúa. Quả nhiên Thiên Chúa đã nói với thánh Cả: “Đừng sợ nhận Ma-ri-a”. Lại còn truyền cho ngài đặt tên cho con trẻ. Đặt tên là có quyền trên con trẻ. Con trẻ được trinh nữ sinh ra. Trinh nữ làm sao sinh con. Đó chỉ có thể là quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng Giu-se được quyền. Vì Chúa là Em-ma-nu-en. Là Thiên Chúa ở với loài người. Chỉ khi được Thiên Chúa trao quyền, Giu-se mới dám trở về lãnh nhận. Đó là người công chính.

Người công chính. Thuộc về triều đại công chính. Xứng đáng đón nhận Vua Công Chính. Đó là tấm gương cho ta. Ta cũng phải sống công chính. Để được là thần dân của Vua Công Chính. Ta phải làm chứng cho Vua Công Chính. Nên phải sống công chính. Ta phải cùng người xây dựng triều đại công chính. Nên phải sống công chính.

Lạy Vua Công Chính, xin hãy đến. Xin hãy giúp con sống công chính. Để góp phần thay đổi thế giới này. Một thế giới còn quá nhiều bất công. Nơi người mạnh ức hiếp người yếu. Người giầu chèn ép người nghèo. Người có quyền chà đạp người dân lành. Xin cho con biết xây dựng triều đại công chính. Để Chúa ngự trị trên thế giới. Để muôn dân được hưởng nền thái bình thịnh trị.

 

Suy Niệm 3: Dòng Tộc Của Chúa Kitô

Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Ðiều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.

Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quần nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.

Ðến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.

Ðộng lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.

Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt của mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”.

Anh chị em thân mến!

Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuật việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.

Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ tạo lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của Người sẽ vững bền mãi mãi”.

Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.

Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?

Theo luật Do Thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.

Ðang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.

Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang.

Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Đấng Emmanuel

Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.

Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.

Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để  cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên giới mà không cần quan hệ giới tình.

Đấng Emmaanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân loại xoá bỏ những chia rẽ, đố kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu nhân loại còn đầy những ích kỷ, oán hận, tranh chấp.

Nhưng trên tất cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài có thể mãi mãi là Đấng Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.

 

Suy Niệm 5: Trong kế hoạch của Thiên Chúa

Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt. 1, 20-21)

Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giu-se như chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.

Giu-se bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giu-se công chính vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi thánh Giu-se chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đa-vít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đa-vít.

Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính như thánh Giu-se không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?

  1. St. G

 

Suy Niệm 6: Thiên Chúa ở cùng chúng ta

Giữa lúc dân Israel đang quằn quại trong cảnh lưu đầy tại Babylon. Dân mong ngóng được Thiên Chúa giải thoát khỏi cảnh sầu thương tang tóc. Sự mong đợi của dân đã được Thiên Chúa nhìn đến khi cho xuất hiện tiên tri Giêrêmia đến để loan báo tin vui cho dân, ngài loan báo: một vị Vua Công Chính, Khôn Ngoan sẽ ngự trị để lãnh đạo dân, và Ngài sẽ được gọi là: “Chúa công bình của chúng ta”. Sứ vụ của vị vua này chính là đưa dân trở về quê hương để lập lại một dân mới.

Sang bài Tin Mừng, thánh Mátthêu giới thiệu cho chúng ta biết vị vua đó chính là Đấng Emmanuel, nghĩa là  Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ngự giữa dân cách cụ thể và cứu dân bằng con đường tự hủy. Ngài vốn là một Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã tự hủy mình đi, nhận lấy thân phận người phàm, trở nên giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi để cứu chuộc chúng ta.

Thật vậy, Đức Giêsu, Đấng là Emmanuel đó đã xóa đi mọi ngăn cách để ở giữa loài người và không ngừng thi ân giáng phúc cho mọi người.

Trong những ngày này, nhiều nơi đang chuẩn bị làm hang đá, tập những bài thánh ca. . . để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Tuy nhiên, những việc làm đó sẽ trở nên vô ích khi chính đời sống nội tâm chúng ta không chuẩn bị thanh lọc những thứ như đố kỵ, giận hờn, ghen ghét. . . Vẫn còn bộn bề với lối sống hình thức bên ngoài. . . !

Nếu không chừng, Đấng Emmmanuel, đã ở cùng nhân loại nhưng vô phúc cho chúng ta vì Ngài lại không có một chỗ để ở trong cung lòng của ta!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy yêu thương nhau, đón nhận nhau trong tình huynh đệ. Hãy mở rộng cánh cửa tâm hồn để trong sâu thẳm nội tâm, chúng ta có một chỗ cho Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta.

Lạy Đấng Emmanuel, xin cho tâm hồn chúng con xứng đáng là máng cỏ cho Ngài ngự trị. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Hạnh phúc khi để Chúa thực hiện điều Chúa muốn

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở giữa loài người để yêu thương và ban ơn cứu độ. Ngài mời gọi ta cùng thực hiện kế hoạch này theo gương Đức Maria và thánh Giuse.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con phải tri ân và cảm phục biết bao vì Đức mẹ và Thánh Giuse vâng phục và cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Đứng trước việc Mẹ sẽ thụ thai và sinh con, Mẹ hoàn toàn choáng váng, ngỡ ngàng, nhưng khi hiểu ra được Thánh Ý Chúa, Mẹ hết lòng xin vâng. Đứng trước việc Đức Maria mang thai, thánh Giuse thực sự bối rối và hốt hoảng, nhưng khi hiểu ra được kế hoạch của Chúa về Đấng Em-ma-nu-en, Thánh Giuse xin hết lòng cộng tác.

Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay giúp con hiểu được rằng: con chỉ có thể có được sự bình an, sự cảm thông và hạnh phúc, khi con để cho Chúa thực hiện điều Chúa muốn. Sở dĩ bao gia đình công giáo hôm nay vẫn bất hòa chia rẽ, nghi ngờ nhau và đi đến tình cảnh bi đát là li dị nhau, phải chăng vì đã không để cho Đấng Em-ma-nu-en ngự trị trong lòng họ và họ đã chối từ Thánh Ý Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết cộng tác với kế hoạch Em-ma-nu-en của Chúa, để con nỗ lực xóa tan đi những đố kỵ ngăn cách giữa người với người. Xin Chúa hãy cắm lều và ở lại trong lòng con, để biến đổi trái tim chai lì khô cứng của con thành một trái tim yêu thương, luôn biết nhạy cảm trước những nỗi đau khổ của tha nhân. Xin cho con biết chấp nhận thánh giá, những nghịch cảnh trong cuộc đời, để Ý Chúa được nên trọn trong con. Và xin Đấng Em-ma-nu-en ở giữa gia đình con cũng như bao gia đình trên thế giới, để xua đuổi đi những hiểu lầm, tranh chấp, những ích kỷ nhỏ nhen, và ban ơn bình an hiệp nhất cho muôn người. Amen.

Ghi nhớ: “Chúa Giêsu sẽ sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse, thuộc dòng dõi Ðavít”.

 

Suy Niệm 8: Khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu nét thứ hai của Chúa Cứu Thế sắp sinh ra: Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người (C. 23). Bài Tin mừng cũng giới thiệu một người đóng vai trò tích cực cho việc Ngài sinh ra: Thánh Giuse.

  1. Phần đóng góp của Thánh Giuse vào công trình nhập thể của Chúa Giêsu là:

a/ Cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Đavít, nhờ thế thực hiện đúng lời Thiên Chúa đã hứa xưa từ thời Cựu Ước C. 20b: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít”; C. 21 “Ông sẽ đặt tên cho con trẻ”: Thánh Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu nghĩa là nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý.

b/ Bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu: C. 20c “Đừng ngại đón Maria về; c. 24 “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như lời sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”; c. 25 “Và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu. ”

  1. Về ý định ban đầu, Thánh Giuse muốn bỏ đi cách âm thầm kín đáo, các chuyên viên Thánh Kinh còn chưa nhất trí nhau ở một số chi tiết. Nhưng mọi người đều nhất trí về động cơ hướng dẫn mọi hành động của thánh Giuse (ý định ban đầu, và quyết định ở lại sau đó), đó là vì “Giuse là người công chính. ” Một giải thích rất đáng lưu ý là: Ban đầu, Giuse biết mình không phải là cha của đứa bé nên vì công chính mà không dám nhận quyền làm cha, bởi đó định âm thầm ra đi (Công chính=không xâm phạm quyền lợi của người khác); sau đó khi biết ý Thiên Chúa muốn mình bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu thì, cũng vì công chính nên Ngài đã ở lại (Công chính=thi hành ý Thiên Chúa).
  2. Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. ” Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thể sống chung với loài người, bất chấp mọi nghèo nàn, túng thiếu, hèn hạ, khổ sở. . . Yêu thương là chia vui sẻ buồn, chia sẻ thân phận. . .

Suy gẫm

  1. Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”: Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu Kitô. Muốn cứu người, không phải chỉ đứng xa chỉ tay năm ngón, hoặc vẽ kế hoạch rồi cho người khác thực hiện. Nhưng là chia sẻ thân phận, đồng hành, và cuối cùng là chịu thiệt vào thân, leo lên cây Thập Giá. Thập Giá là bước cuối cùng của nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu Kitô. Lạy Chúa, xin dạy con biết dấn thân phục vụ như Chúa.
  2. Giuse đã thay đổi kế hoạch của mình để theo ý Chúa. Những nhận định và tính toán của ta, dù đầy thiện chí, nhiều khi lại không hợp với chương trình và ý định của Thiên Chúa. Người công chính là người biết bỏ ý riêng, biết thi hành ý Chúa, biết sống lời Fiat như Mẹ Maria, biết sống câu “Xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” như Chúa Giêsu.
  3. Với con mắt người đời, tình yêu của đôi nam nữ Giuse và Maria xem ra chỉ là chuyện bình thường. Nhưng với kế hoạch của Thiên Chúa, với sự quảng đại đáp trả ơn Chúa gọi, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã góp phần cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết dùng tình cảm và tình yêu của con để phục vụ Nước Chúa.
  4. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như thiên thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24)

Tên thánh của tôi là Giuse. Tôi rất tự hào về điều đó và thường tự hỏi “Mình phải làm thế nào để trở nên giống thánh bổn mạng?” Thánh Giuse đã làm như thiên thần dạy là đón nhận Đức Maria. Ngài chấp nhận cuộc sống âm thầm để phục vụ Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Còn tôi thì sao? Một lần, tôi nhờ mẹ giặt hộ một bộ quần áo để đi dự tiệc. Vì bận việc, mẹ tôi đã quên. Tôi cằn nhằn và bỏ luôn buổi tiệc… Ngay cả chuyện nhỏ như vậy mà tôi chưa sẵn sàng vui vẻ đón nhận thì kể gì đến những chuyện lớn lao.

Xin Thánh Giuse dạy con biết khiêm tốn đón nhận và thực thi ý Chúa cách trọn vẹn như Ngài.

 

Suy Niệm 9: Truyền tin cho ông Giuse

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Bài Tin Mừng cho chúng ta biết: Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse. . . Vì cả hai đã khấn giữ mình đồng trinh nên không chung sống với nhau. Nhưng Maria lại có thai, nên thánh Giuse buồn sầu  định lén bỏ đi. Chúa liền sai Thiên thần đến báo cho ông biết: Maria mang thai là do phép Đức Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, phải đặt tên là Giêsu. Đây là Đấng Cứu chuộc nhân loại, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo và gọi là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Thánh Giuse đã làm đúng như lời Thiên thần truyền, ông tiếp nhận Maria và khi bà sinh con thì đặt tên là Giêsu.

  1. Mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse (Mt 1,18).

Chúng ta cần tìm hiểu phong tục cưới hỏi của người Do thái. Luật Do thái phân biệt rõ ràng trong hôn nhân: việc đính hôn và cưới xin. Tuy cũng có lễ hỏi và lễ cưới nhưng giá trị và ý nghĩa khác với Việt nam chúng ta.

Lễ đính hôn (cũng gọi là lễ hỏi) được diễn ra như sau:

Thời gian đính hôn kéo dài trong một năm. Trong năm đó đôi bạn được kể như vợ chồng dù họ không có những quyền của vợ chồng. Lễ hỏi Việt nam chưa làm vợ chồng, còn lễ hỏi Do thái coi như thành vợ chồng. Chứng cớ là theo luật:

– Vị hôn thê bất trung sẽ bị ném đá như vợ chính thức.

– Vị hôn phu có chết thì vị hôn thê trở thành quả phụ.

– Vị hôn thê cũng giống như người vợ chính thức chỉ có thể bỏ nhau bằng tờ ly dị.

– Đứa con cưu mang trong thời gian đính hôn được coi là con chính thức.

Như thế luật cho hai người quyền ăn ở với nhau trong thời gian này.

Giuse và Maria đang ở trong giai đoạn này.

  1. Giuse được báo mộng trong giấc mơ về chương trình của Thiên Chúa được thực hiện qua cuộc hôn nhân  giữa ông và Maria, việc nàng có thai không phải ý của phàm nhân nhưng dưới tác động của Chúa Thấn Thân. Vì thế ông đã đón nhận Maria  về nhà mình theo sự báo mộng của Thiên Thần thay vì ý định ruồng bỏ nàng lúc phát hiện người bạn đời có thai (không phải của mình). Giấc mơ của Giuse đã thành hiện thực bởi sự trung tín vào Thiên Chúa với báo mộng về lời phán truyền của tiên tri Isaia về Đấng Thiên Sai sẽ thành hiện thực ở nơi gia đình ông (x. Is 7,14-16). Chính con trẻ này sẽ trở nên ơn cứu độ và bao bọc cho cả nhân loại.
  2. Ông Giuse là người công chính.

Kinh thánh gọi Giuse là người công chính: “Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).

Chúng ta biết, nơi người Do thái, không phân biệt rõ  thời kỳ đính hôn và cưới hỏi. Mặc dù chưa cưới, hai người đã đính hôn cũng có thể ăn ở như vợ chồng mà không có lỗi gì đối với lề luật. Do đó, người ta thấy vị hôn thê có thai, thì chỉ một mình vị hôn phu có thể phán đoán trong việc đó là có tội hay không. Như vậy, thánh Giuse có thể hành động bằng hai cách: hoặc là tuyên bố theo sự hiểu biết tự nhiên của mình là Maria đã phạm tội ngoại tình, và như thế Maria mất thể diện hoàn toàn; hoặc là để mặc cho người ta tin rằng ngài là cha của đứa bé sắp sinh. Giuse chọn giải pháp nào?

Đang phân vân lo nghĩ không biết xử trí ra sao thì Thiên Chúa báo mộng  cho ông: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Ông Giuse được báo mộng và ông yên tâm nhận Maria làm vợ. Việc này thường xẩy ra trong Cựu ước khi Thiên Chúa muốn truyền cho ai một điều gì. Vậy hôm nay, việc báo mộng cho Giuse là cách thức Thiên Chúa dùng để tỏ ra thánh ý của Ngài về việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria.

  1. Hài nhi  sinh ra sẽ được gọi là Emmanuel nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thể sống chung với loài người, bất chấp con người xấu xa tội lỗi, nghèo nàn, túng thiếu, khổ sở. . . Thiên Chúa làm người đã vui lòng chia sẻ thân phận với người trần thế. Ngài muốn cho ngày Giáng sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu con người để kêu gọi con người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu.
  2. Truyện: Thiên Chúa nói bằng tiếng nào?

Ngày xưa có chú bé Phi châu tên là Emmanuel. Chú luôn thắc mắc: “Thiên Chúa nói bằng tiếng nào”? Chú hỏi thầy giáo thì thầy cũng không biết. Sau đó chú Emmanuel lại đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận, nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.

Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin có người biết được điều ấy.

Một đêm nọ, Emmanuel đến ngôi làng Belem. Chú cố tìm chỗ để nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả đều không còn chỗ. Vì thế, chú quyết định tìm cái hang ngoài trời để trú đêm. Quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, người mẹ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.

Chú bé quá sửng sốt, và người mẹ trẻ nói tiếp: “Đã từ lâu, con đi tìm để hỏi xem Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con đã có câu trả lời. Ngài nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài”.

 

Suy Niệm 10: Lời chứng của Thiên Chúa mới có giá trị

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúng ta đã đi được hơn một nửa đường của Mùa Vọng. Ngày mai chúng ta bước vào tuần bát nhật để chuẩn bị mừng Màu Nhiệm Giáng Sinh. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về hai lời chứng: Một của Gioan Tẩy Giả và Một của Thiên Chúa. Chúa Giêsu coi lời chứng của Thiên Chúa mới là Lời chúng có giá trị.

  1. Trước hết là Lời chứng của Gioan Tẩy Giả.

Tin Mừng ghi Gioan là ngọn đèn cháy sáng. Ông đến để làm chứng, làm chứng cho Chúa Giêsu, làm chứng cho sự thật

Chúa Giêsu nói đến những chứng cớ để người ta nhận ra người là do Thiên Chúa gửi đến. Chứng cớ đó chính là Gioan. Tin Mừng thứ Tư nói về Ông như thế này: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. (Ga 1,7-8)

“Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô. ” Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?” Ông nói: “Không phải. ” “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không. ” Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói. Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người. ” (Ga 1,19-27)

Rất rõ ràng và dứt khoát. Không có gì mờ ám trong những lời làm chứng náy.

  1. Bên cạnh Lời chứng của Gioan, chúng ta còn được thấy cả lời chứng của Thiên Chúa nữa.

Lời chứng cùa Thiên Chúa được Tin Mừng ghi lại trong hai biến cố xảy ra trong cuộc đời của Chúa Giêsu.

Lần thứ nhất khi Chúa đến xin Gioan làm phép rửa cho mình.

Tin Mừng ghi ghi: “Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. ” (Mt 3,16-17)

Lần thứ hai khi Chúa biến hình trên núi. Lúc ba môn đệ đang ngây ngất trước cảnh biến hình của Chúa và lúc các: Ông còn đang nói, thì chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17,5).

Thật là rõ ràng và minh bạch thế nhưng kết quả như thế nào thì chúng ta hãy đọc lại một đoạn trong Tin Mừng thứ tư: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga 1,10-12)

  1. Lời chứng của chúng ta.

 Chúng ta là những người đón nhận, tức là đã tin vào danh Người, và được Người cho quyền trở nên con Thiên Chúa. Nói thế có nghĩa là chúng ta phải làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng bằng nhiều cách nhưng cách tốt nhất vẫn là bằng cuộc sống của chúng ta.

Vào các ngày từ 4 đến 5 tháng 10 năm 1997 “Ngày Gia Đình Thế Giới gặp gỡ Đức Thánh Cha” họp tại Rio de Janeiro, nước Brazil, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã đến chủ tọa Đại Hội này. Trong Đại Hội, ngoài các phần nghi lễ, phát biểu, còn có phần chứng từ. Một trong số đó có chứng từ của chị Emmanuella đã khiến mọi người cảm động sâu xa trước tình yêu cao cả của một người mẹ, mẹ của chị. Emmanuella năm nay 36 tuổi, chị đã đứng trước Đại Hội để làm chứng về trường hợp của chị. Chị nói:

“Cách đây vừa tròn 36 năm, mẹ tôi, một người mẹ Công Giáo bình thường như bất cứ một người mẹ nào. Và bà cũng có một trái tim, trái tim của một người mẹ biết yêu thương và biết hy sinh tất cả cho con cái. Tấm lòng bình thường của một người mẹ đã không còn bình thường, không còn tầm thường nữa mà đã trở nên phi thường đứng trước một chọn lựa thiết thân liên quan đến sinh mạng của bà.

Mẹ tôi lúc đó đang mang thai tôi. Bà bị bệnh nặng. Bác sĩ bảo phải phá thai mới cứu được mẹ. Nếu để thai thì mẹ sẽ phải chết, và thai nhi cũng khó sống. Đứng trước chọn lựa sinh tử đó, mẹ tôi đã chọn cái chết để thai nhi được sống. Thật là một chọn lựa anh hùng và can đảm. Chỉ có con người, và chỉ có tấm lòng của một người mẹ có một tình thương bao la mới có thể có chọn lựa đó mà thôi. Bà đã không lầm khi chọn điều đó.

Kết quả là 36 năm sau tôi được vinh dự đứng trước Đại Hội về Gia Đình để làm chứng cho tình yêu bất diệt của mẹ tôi. Đây cũng là cơ hội để tôi nói lên lòng biết ơn sâu xa đối với người mẹ đã cưu mang tôi, đã sinh ra tôi và đã hy sinh vì tôi. Mạng sống tôi đã được đổi bằng chính mạng sống của mẹ tôi. Thật là một sự hy sinh cao cả, sự hy sinh này đã là dấu chỉ họa lại sự hy sinh lớn lao của Đức Ki-tô, Đấng đã hy sinh mạng sống mình vì nhân loại.

Tôi xin làm chứng cho điều đó. Và tôi xin nhân danh những người con tỏ lòng biết ơn cha mẹ, tán dương công ơn trời bể của các bậc sinh thành. ”

Được biết, bà mẹ của chị Emmanuella đã được Giáo Hội tôn phong Chân Phúc.

 

 

 

Ngày 19 tháng 12

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 5-25

Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabeth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabeth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.

Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương. Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: “Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth  vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị.

Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: “Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?” Thiên Thần liền đáp: “Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy. Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng”.

Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh. Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh. Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm. Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà. Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: “Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nỗi khổ nhục tôi khỏi người đời.

 

Suy Niệm 1: Chuẩn bị sẵn sàng

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi

là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa.

Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét

đã sống với nhau bao lâu mà không có con.

Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7).

Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm.

Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ,

dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6).

Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?

Chính khi ta thất vọng, thì Chúa đến loan báo Tin Vui (c. 19).

Tư tế Dacaria may mắn trúng thăm, nên ông được vào Nơi Thánh

để lau hương án và dâng hương mới.

Tại nơi thâm nghiêm này, khi ông lo việc tế tự,

ông được sứ thần Chúa báo tin về đứa con sắp chào đời của mình.

Gioan, nghĩa là Đức-Chúa-thi-ân, sẽ là món quà ông được tặng.

Nhưng Gioan sẽ còn là món quà cho nhiều người Ítraen,

vì Gioan có sứ mạng giải hòa dân tộc ông với nhau và với Chúa.

Một con người chưa được mang thai và chào đời,

nhưng về người ấy, Thiên Chúa đã có bao ước mơ và dự tính.

Ngài cho Gioan được đầy Thánh Thần từ trong lòng mẹ (c. 15).

“Làm cho kẻ ngỗ nghịch trở về nẻo chính đường ngay,

và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (c. 17).

Đó là những việc Gioan sẽ làm sau này trong tư cách là Êlia mới.

Dacaria có vẻ không tin vào lời sứ thần,

Có vẻ ông không còn nuôi hy vọng có một đứa con (c. 18).

Ông quên mất chuyện Ápraham đã sinh con trong lúc tuổi già.

Là một tư tế hẳn ông phải biết có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn

đã sinh con làm thủ lãnh đất Ítraen (Tl 13, 2; 1Sm 1-2; St 16, 1).

Việc ông bị câm là một hình phạt, nhưng ông không bị loại trừ.

Thinh lặng chín tháng là thời gian ông chờ đợi để lời hứa nên trọn.

Từ khi bà Êlisabét có thai, bà ẩn mình một thời gian.

Bà chưa muốn cho ai hay biết chuyện này.

Niềm vui bất ngờ đến với bà, người được hưởng hạnh phúc làm mẹ.

“Chúa đã làm cho tôi như thế đó,

khi Ngài đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời. ”

Mỗi một trẻ thơ chào đời đều có nét của Gioan.

Chẳng người nào thấy ánh mặt trời mà lại nằm ngoài ý Thiên Chúa.

Như Gioan, ngay từ khi tôi chưa hiện hữu trong lòng mẹ,

Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi, và biết tên tôi.

Tôi có chỗ rất riêng trong chương trình của Chúa.

Chúa có một sứ mạng rất riêng cho tôi hôm nay.

Thời nào cũng cần Gioan, cần những người kêu gọi hoán cải.

Nhân loại thời nay cần những người dọn đường sáng tạo,

có khả năng mở những con đường mới đi vào lòng thế nhân.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,

Chúa đã làm người như chúng con,

nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.

Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc

mà con người lại yếu đuối mong manh.

Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,

và giữa ánh sáng,

cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,

nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,

xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu

Chúa đã buồn muốn chết được.

Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,

xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá

Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con ?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.

Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.

Xin cho con yêu đời luôn

dù đời chẳng luôn đáng yêu.

Xin cho con can đảm

đối diện với những thách đố

vì biết rằng cuối cùng

chiến thắng thuộc về người

có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

 

Suy Niệm 2: Thành đạt

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sam-son và Gio-an có nhiều điểm giống nhau. Trước hết các ngài đều là người của Thiên Chúa. Cha mẹ các ngài đều cao niên và hiếm hoi. Trước mặt người đời thì các ngài không còn khả năng sinh con. Nhưng Thiên Chúa đã ra tay. Quyền năng Thiên Chúa thật lớn lao. Có thể làm từ không ra có. Từ chết thành sống. Các ngài là ân huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên các ngài phải tuân thủ một số qui luật của Thiên Chúa. Đây chính là điều làm nên khác biệt giữa các ngài.

Sam-son và Gio-an có những khác biệt. Khi được thiên sứ báo tin thì bà Ma-nô-ác tin ngay. Còn ông Gia-ca-ri-a không tin. Nên bị câm cho đến ngày Gio-an chào đời. Nhưng khi lớn lên thì xảy ra điều ngược lại.

Sam-son thất bại. Vì không thực hành Lời Chúa. Sam-son được lệnh không được cạo đầu: “Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh”. Sam-son yếu đuối rơi vào chước cám dỗ của Đa-li-la, để bị cạo đầu. Ông không giữ được lệnh Chúa truyền. Nên không cứu được Ít-ra-en. Chính ông bị rơi vào tay người Phi-li-tinh. Ông trở nên mù tối. Và làm tôi mọi cho họ.

Gio-an thành công. Vì hoàn toàn tuân giữ Lời Chúa. Ông vào sa mạc. Chuyên tâm cầu nguyện. Ăn châu chấu và mật ong. Mặc áo da thú. Đã thành công trong việc dọn đường cho Chúa. Giới thiệu Chúa cho mọi người. Ông hoàn thành nhiệm vụ “đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. Được Chúa khen ngợi là người cao cả nhất. Là ngọn đèn chiếu sáng.

Chúng ta sinh ra không phải do quyền năng người phàm. Nhưng do quyền năng Thiên Chúa. Khi sinh ra ta, Chúa trao cho ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Ta sẽ thất bại nếu không tuân giữ Lời Chúa. Ta sẽ thành đạt nếu tuân theo chỉ thị của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con. Sự sống là một hồng ân cao cả. Chỉ có Chúa mới ban tặng được. Và khi cho con có mặt ở đời, Chúa đã dành sẵn cho con một định mệnh cao quí. Xin cho con biết chu toàn mệnh lệnh của Chúa. Để con thành đạt trong Chúa.

 

Suy Niệm 3: Gioan Tẩy Giả Sinh Ra

Trong bài đọc I hôm nay, sách Thẩm Phán cũng kể lại việc thiên thần Chúa hiện ra với bà có chồng là Manuel thuộc chi họ Dan, và nói với bà rằng: “Ngươi son sẻ không có con, nhưng sẽ được thụ thai và sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch vì ngươi sẽ thụ thai hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó, nó sẽ được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Philitinh. Bà hạ sinh một con trai và con trẻ sinh ra tên là Samson”.

Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên hai ý tưởng:

– “Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được”. Hai người đàn bà son sẻ vợ của Zacharia và Manuel, tuổi đã già vậy mà sinh được hai người con là Gioan Tẩy Giả và Samson. Theo tục lệ Á Ðông xưa của chúng ta có nói: “Nữ thập tam, nam thập lục”. Nghĩa là người nữ khoảng mười ba đến bốn mươi tuổi là cơ thể bắt đầu biến đổi để có thể chuẩn bị trở thành một người mẹ. Luật Giáo Hội xác định mười sáu tuổi, mà đa số các quốc gia chấp nhận mười tám tuổi là tuổi trưởng thành cho nữ giới để có thể kết hôn. Khả năng sinh con của người đàn bà có thể kéo dài từ đó đến quãng đời từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi. Qua khỏi tuổi năm mươi thì hầu như không thể thụ thai được nữa. Lẽ dĩ nhiên phải năm mươi đến sáu mươi tuổi thì mới gọi là đã già, lại càng không thể có hy vọng sinh con cái được nữa. Hơn nữa khi nhìn vào trường hợp của Abraham, ông được mệnh danh là cha của kẻ tin. Mặc dầu Sara vợ ông đã già nhưng được thiên thần báo tin sẽ sinh một con trai trong lúc tuổi già. Abraham đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng mà ông tôn thờ: “Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.

– Muốn hiến thánh cho Thiên Chúa để lo việc phụng sự Ngài, Thiên Chúa đòi hỏi con người phải cộng tác với Người: “Ngươi hãy cẩn thận, không uống rượu và thức ăn có men, cũng đừng ăn những món gì không thanh sạch”. Tất nhiên chúng ta cũng không hoàn toàn hiểu theo nghĩa đen nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng nữa.

Mùa Vọng là mùa chuẩn bị mừng Chúa Cứu Thế đến, chúng ta không chỉ sửa soạn sạch sẽ, tô vôi, sơn quét lại ngôi thánh đường thân yêu trong Giáo Xứ, làm hang đá thật đẹp, thật lộng lẫy để Chúa Hài Nhi nằm nhưng chúng ta còn phải lo quét dọn tâm hồn, trang hoàng hang đá và làm cho ngôi thánh đường nhỏ bé xinh xinh ở trong tâm hồn chúng ta luôn sạch sẽ để như chiên bò ngày xưa thở hơi ấm áp cho Chúa nơi hang đá giá lạnh trần gian. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm tình đón Chúa như lời thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng: “Núi đồi hãy san cho bằng, hố sâu hãy lấp cho đầy, đường quanh queo hãy uốn cho ngay thẳng, và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

Lạy Chúa, không có gì mà Chúa không làm được. Xin cho chúng con nhận biết Quyền Năng của Chúa để chúng con luôn sống trong tin yêu và hy vọng trong cuộc đời. Lạy Chúa, để dấn thân phục vụ Nước Chúa cho rộng lớn, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết dùng tự do, thời giờ, tâm trí và tài năng riêng của mỗi người mà Chúa đã ban cho để tham dự vào việc mở mang nước Chúa mà không một đắn đo suy tính thua thiệt theo kiểu nhân loại. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Truyền tin cho Zacaria

Bài tin mừng hôm nay làm nổi bật tác động cứu độ của Thiên Chúa: Thiên Chúa không bỏ rơi ý định cứu độ của Ngài, nhưng Ngài chuẩn bị và thực hiện bằng những bước vững chắc suốt chiều dài lịch sử- cho đến Gioan, vị sứ giả sống sát thời Đấng Mêsia.

Việc Thiên Chúa can thiệp tích cực trong mầu nhiệm cứu độ chính là biểu hiện của tình thương hải hà. Thiên Chúa can thiệp và cứu độ chỉ có nghĩa là Ngài quá xót thương con người mà thôi. Bởi đó, càng nhìn lại những sự kiện, những hoàn cảnh hay những con người đã giúp thực hiện việc cứu độ, chúng ta càng nhận thấy vai trò sự cứu độ viên mãn. Đây là một điểm quan trọng, bởi vì đứng trước hoạt động lớn lao của Thiên Chúa, con người thời này thường có thái độ phản kháng khi cho rằng Thiên Chúa xử sự bằng cách giữ phần chủ chốt tức là đã coi thường con người, trong khi lẽ ra họ phải bày tỏ tâm tình khiêm tốn, thán phục và biết ơn Thiên Chúa. Đấng đã yêu thương, đã dấn thân và làm mọi sự chỉ vì hạnh phúc cho con cái mình.

Sống mùa vọng, ước gì chúng ta biết  nhận ra tác động của Thiên Chúa trong đời mình và trong lịch sử nhân loại, đồng thời biết hướng theo lời mời gọi hoán cải tâm hồn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 

Suy Niệm 5: Một Thiên Chúa đột xuất

Vậy một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Da-ca-ri-a đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan…”. (Lc. 1,11-13)

Ở tuổi già và với người vợ son sẻ, ông già Gia-ca-ri-a không còn hy vọng gì có con nữa. Đứa con trong ước mơ đã được ông liên lỉ cầu nguyện. Nhưng bây giờ về cuối đời rồi, ông không còn cầu nguyện xin sinh cậu ấm như trước nữa. Không còn trông cậy kêu xin một điều hão huyền đó với Thiên Chúa.

Tuy nhiên, với Thiên Chúa, không có gì hão huyền, không có gì bất lực. Điều không thể đó sẽ xảy ra. Ê-li-gia-bét, vợ ông, sẽ sinh Gioan tẩy giả.

Ông Gia-ca-ri-a đã suy ngắm Kinh thánh suốt đời ông, tuy vậy, ông vẫn nghi ngờ một chút rằng Thiên Chúa đã luôn luôn hài lòng nắm giữ trong tay mọi sự và thực hiện những kỳ công trong lúc bất ngờ. Ông đã biết rõ rằng trong quá khứ, nhiều lần hình như tuyệt vọng, như mất hết, Thiên Chúa đã can thiệp giải thoát cho dân khốn cùng. Ông đã biết thế, nhưng ông không thể tưởng tượng được Thiên Chúa lại làm như thế cho ông.

Chúng ta nhiều lần có những nghi ngờ như ông Gia-ca-ri-a. Đọc Kinh thánh, chúng ta thấy lạ lùng trước những sự kiện cao cả đã được Thiên Chúa thực hiện trong suốt dòng lịch sử, nhưng ý nghĩ như thế không còn xảy đến nên không còn làm cho chúng ta ngạc nhiên nữa. Chúng ta tin nhiều kỳ công Thiên Chúa đã làm cách đột xuất lạ lùng xưa kia hơn là ngày nay. Chúng ta phải tự hỏi mình xem mình còn tin thật rằng Thiên Chúa luôn luôn sống động không?

Hiện thời Giáo hội đang trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng. Giáo hội đang đi trong đen tối, không còn ảnh hưởng như xưa. Nhiều con cái đã bỏ Giáo hội. Nhiều con cái khác lại phản đối Giáo hội trầm trọng. Hầu như chạy tán loạn! Sau cùng … nhiều kẻ nghĩ và nói rằng: “Tương lai không còn Giáo hội nữa”.

Nhưng chính những lúc đó, khi tất cả đều đen tối và như tuyệt vọng, thì Thiên Chúa lại hiện ra mạnh mẽ hơn xưa. Chúng ta có còn đủ niềm tin rằng Ngài sẽ lại hiện đến không? Chúng ta còn đủ lòng hy vọng cậy trông rằng khủng hoảng hiện thời sẽ là một khủng hoảng trưởng thành, khủng hoảng thăng tiến không?

Thiên Chúa mà chúng ta cử hành lễ tạ ơn Ngài là một Thiên Chúa đột xuất và sống động hàng ngày.

  1. F

 

Suy Niệm 6: Thiên Chúa ban ơn cho người công chính

Trong cuộc sống luôn có những điều kỳ diệu làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Đây là tâm trạng của ông Giacaria và bà Êlisabét. Hai ông bà là người cao niên. Qua nhiều năm, họ đã tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa ban cho mình một mụn con. Tuy nhiên, càng mong càng mất. Vì thế, đã có lúc, ông bà thất vọng và không còn dám mơ ước một điều mà ông bà cho là viển vông.

Tuy nhiên, giờ của Thiên Chúa đã đến, Người đã đoái thương đến người công chính, vì thế, Ngài đã ban cho ông bà một điều kỳ diệu, đó là cho bà Êlisabét mang thai một người con trai, mà sau này chính là Gioan Tẩy Giả.

Đây là một phép lạ cả thể, đến nỗi chính bản thân ông Giacaria cũng ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng vì không phải do ông không tin Thiên Chúa, bởi vì trong suốt lịch sử dân Israel, nhiều lúc Thiên Chúa đã can thiệp cách phi thường cho dân. Tuy vậy, vì sự chờ mong quá lâu, và hai ông bà đã về già, nên những chuyện mà hai ông bà đang cầu xin là điều khó có thể xảy ra! Nhưng Chúa có cách của Ngài.

Trong cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay cũng vậy. Nhiều khi niềm tin của chúng ta bị thử thách bằng thời gian, đôi khi trong sự chờ mong của chúng ta bị đánh đổi bằng đau khổ và nước mắt. Thiên Chúa để chúng ta chờ mong như vậy, không có nghĩa Ngài là vị Thiên Chúa vô cảm, nhưng ngang qua đó, Thiên Chúa muốn biểu lộ quyền năng mạnh mẽ hơn.

Tuy nhiên, trong lịch sử cho thấy, đã có biết bao người thua cuộc. Đã có nhiều người phải đầu hàng vì thiếu niềm tin mạnh mẽ, can trường.

Thật vậy, muốn chứng minh niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, đôi khi chúng ta phải có đủ độ lỳ trong hy vọng vào quyền năng của Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con thêm niềm hy vọng. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Truyền tin cho ông Giacaria

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Thời vua Hêrôdđê, có vị tư tế tên là Giacaria và vợ là Elizabeth. Cả hai là người công chính, nhưng đã già mà không có con. Một hôm ông Giacaria trúng thăm vào cung thánh dâng hương cho Chúa. Đang lúc dâng hương ông thấy Thiên thần hiện ra báo cho ông biết: Chúa đã nhận lời ông cầu nguyện, vợ ông sẽ mang thai và sinh con trai đặt tên là Gioan. Người này sẽ nên cao trọng, sống khắc khổ, sẽ dọn đường cho Chúa Cứu Thế.

Nhưng ông Giacaria không tin, nên ông bị câm. Còn vợ ông thì thật sự có thai đúng như lời Thiên thần truyền.

  1. Thử thách đối với ông Giacaria và bà Elizabeth.

Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ biết dựa vào đức tin phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp.

Kinh Thánh cho biết hai ông bà là người công chính trước mặt Thiên Chúa (Lc 1,6), nhưng Chúa lại để cho hai ông bà bị hiếm muộn, son sẻ, mà theo quan niệm người Do thái là người có tội bị Thiên Chúa phạt, như người ta nói: “Cây khô không lộc, người độc không con”.

Nhưng công việc của Thiên Chúa thì chúng ta không hiểu được. Có thể đó là những điều Chúa thử thách rồi Người sẽ ban ơn cho như trường hợp hai ông bà hôm nay.

Vấn đề son sẻ được đề cập đến rất nhiều trong Cựu Ước như bà Sara, bà Rebecca, bà Rakhen, mẹ ông Samson, mẹ ông Samuel và Elizabeth đều là những phụ nữ son sẻ, nhưng đã sinh con và những người con của họ đều là những người đã được Thiên Chúa chọn và dùng vào trong công trình vĩ đại của Người. Điều đó cho chúng ta thấy sự bất lực của con người lại tỏ bày quyền năng của Thiên Chúa trong công việc của Người.

  1. Theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay, một gia đình đã có một lời cầu nguyện rất sốt sắng: Lạy Chúa, qua câu chuyện trên đây, Chúa muốn cho con biết: nếu con sống đẹp lòng Chúa, thì dù con xin điều gì khó khăn cách mấy, Chúa cũng sẽ sẵn sàng ban cho con. Như trường hợp vợ chồng ông Giacaria không hy vọng gì có con, nhưng ông bà là người công chính luôn luôn sống đẹp lòng Chúa, nên chẳng những cho được sinh con mà còn chọn con ông bà làm tiền hô dọn đường cho Chúa.

Xin cho gia đình con và các gia đình luôn sống đẹp lòng Chúa, hằng ngày siêng năng sốt sắng thờ phượng Chúa, tuân giữ luật Chúa, để được Chúa ban ơn cần thiết, nhất là để được Chúa thương chọn nhiều người trong gia đình chúng con giúp việc Chúa.

  1. Theo gương thánh Gioan Tẩy giả đến làm chứng cho ánh sáng cũng là làm chứng cho Chúa Cứu Thế. Chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa bằng bất cứ cách nào: ” Các con là chứng nhân của Thày” (Lc 24,48).

Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng lời nói, chữ viết hay bất cứ phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính cách thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta  thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho Linh mục Gioan Vianney, cha sớ xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy  chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: ”Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.

  1. Truyện: Một chứng tích hùng hồn.

Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quí phái, Sophie Beranski phải thất nghiệp.

Ngày kia, gia đình Hersten, một gia đình Do thái thuê nàng về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ.  Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo,  ông chủ đã đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy hương ấy nhưng nàng nhất định không cho: bí mật của đời cô mà !

Dưới sự săn sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên nhu mì ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua, tai họa dồn dập xẩy đến: Bé Naim đau nặng. Cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng lại càng nặng thêm. Tuy nhiên Sophie vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi ba đứa nhỏ  trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua. Hôm nay là ngày giỗ của Sophie Beranski. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến nhà thờ Công giáo dự thánh lễ. Phải chăng là phép lạ?

Không! Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: ”Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng từ hùng hồn”.

Ông hết sức cảm phục. Cả gia đình ông cũng thế. Sau đó tất cả mọi người đều đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội.

 

Suy Niệm 8: ,,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thánh Gioan Tẩy Giả đã được sinh ra trong thời kỳ ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét đã cao niên và son sẻ. Chính Chúa đã can thiệp. Chúa cũng hằng ngày can thiệp vào cuộc sống của ta để ta sinh hoa trái trước mặt Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã can thiệp cách đặc biệt để Thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra và trở nên vị tiên tri dọn đường cho Chúa cách trung thành. Con và gia đình con được hồng ân trở thành con Chúa. Đó chính là nhờ sự can thiệp đầy tình yêu thương của Chúa. Chúa đã giáng trần, đã chịu bao nhiêu thương khó, chịu nạn và sống lại vinh quang. Chúa đã hạ mình xuống thân phận tôi đòi để chúng con được sống sự sống của chính Thiên Chúa.

Chúa lại ban các tông đồ, các vị chủ chăn, để giúp chúng con sống cuộc đời làm con Chúa. Chúa lại còn can thiệp bằng cách thánh hiến các linh mục vì chúng con. Con còn gặp biết bao anh chị em thánh thiện, làm gương sáng và dắt dìu nhau về cùng Chúa. Con quên sao được ơn sống đạo của ông bà cha mẹ trong gia đình con. Chúa đang dùng nhiều cách để giúp con sống thân tình với Chúa mỗi ngày một hơn. Con chúc tụng tạ ơn Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang đến với con và đang muốn dùng con để Chúa đến với các linh hồn xung quanh. Ngày ngày Chúa vẫn can thiệp vào cuộc sống của con. Ngày ngày Chúa vẫn thanh tẩy con như thanh tẩy Thánh Gio-an. Còn hơn thế nữa, ngày ngày Chúa vẫn dùng Mình Máu Chúa mà nuôi dưỡng thánh hóa con. Con cũng muốn sống theo gương Thánh Gio-an. Con muốn trung thành dọn đường cho Chúa đến với mọi người. Xin Chúa giúp con. Amen.

Ghi nhớ: “Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra”.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu hoàn cảnh sinh ra nhân vật thứ hai sẽ dọn đường cho Chúa Cứu Thế: Gioan Tiền Hô.

  1. Ông Dacaria và bà Êlisabét được trình bày theo hình ảnh của những tổ phụ thời Cựu Ước: công chính, tuân giữ mọi đều răn và mệnh lệnh Thiên Chúa, nhưng son sẻ và cao niên cũng như Abraham, Sara; cha mẹ của Samson; cha mẹ của Samuel… Do đó có thể nói hai ông bà là đại diện cho Cựu Ước.
  2. Đứa con mà họ sẽ sinh ra cũng là đại diện của Cựu Ước: Gioan được mô tả như các ngôn sứ, được Thiên Chúa gọi ngay từ lòng mẹ, chính Thiên Chúa đặt tên cho, rượu lạt rượu nồng đều không uống, đầy Thần Khí và uy quyền của ngôn sứ. Gioan sẽ thay mặt Cựu Ước để giới thiệu Đức Giêsu của Tân Ước.
  3. Việc sinh con trong hoàn cảnh son sẻ tuổi già của các nhân vật Cựu Ước và của vợ chồng Dacaria chuẩn bị cho cuộc sinh ra đặc biệt của Chúa Giêsu, bởi vì “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37)

Suy gẫm

  1. Theo cái nhìn đức tin, và trong chương trình cứu độ của Chúa, mỗi người sinh ra đều có một ơn gọi, một sứ mệnh. Xin Chúa cho con nhìn ra và xác tín ơn gọi, sứ mệnh của con hôm nay. Xin Chúa cho con cũng nhìn ra và quý trọng ơn gọi, sứ mệnh của anh chị em đang sống bên con, nhất là sứ mệnh dọn đường cho Chúa đến.
  2. Việt Nam ta có một truyện cổ nói lên niềm tin dân gian vào sứ mệnh, vào số mệnh của từng con người trên đời. Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết. Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi. Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.
  3. Giacaria bị câm nín một thời gian sau đó hát lên bài ca nổi tiếng Benedictus. Đời sống đạo của ta cũng có thể có nét gì tương tự như vậy. Sau những thử thách, sau những gian khổ nghiền ngẫm, sau mùa đông… Sẽ là niềm hân hoan an bình, sẽ là bài ca chúc tụng, sẽ là những bông hoa tươi đẹp… nếu ta biết vững niềm tin cậy phó thác vào tình thương của Chúa.
  4. “Một sứ thần hiện ra với Dacaria và bảo: “Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan. ” Dacaria thưa rằng: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già mà nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (Lc 1,13. 18)

Cô Isabelle 19 tuổi, nữ sinh viên người Pháp, đã cảm thấy “Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa nữa,” vì sau những đau khổ, mất mát xảy đến với cô, Thiên Chúa đã “ngoảnh mặt làm ngơ. ” Cô không còn thiết sống nữa. Nhưng chính trong bước đường cùng ấy, theo lời khuyên của một người bạn, cô đã “đến và ở lại với Chúa,” và cô đã cảm nghiệm được lòng nhân từ của Người, đến nỗi có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Không gì có thể tách tôi ra khỏi Tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô. ”

Cuộc sống đã hơn một lần khiến tôi cảm thấy không biết phải dựa vào đâu để tin vào Thiên Chúa và chấp nhận những gì xảy đến cho tôi. Cũng như ông Dacaria và cô Isabelle, trước những thách đố của cuộc sống, tôi cũng cảm thấy bối rối, lo âu, không biết nương nhờ ai để có thể đứng vững.

Lạy Chúa, xin cho con biết đến và ở lại với Chúa, tìm và gặp nơi Ngài chỗ nương thân.

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

 

Suy Niệm 11: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Theo cái nhìn đức tin, và trong chương trình cứu độ của Chúa, thì mỗi người sinh ra đều có một ơn gọi, một sứ mệnh. – Không phải chỉ có các tổ phụ hay các đấng bậc có chức có vị trong Giáo Hội mới là những người có sứ mệnh nhưng là tất cả mọi người.

Tháng 7-1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng, ngài viết cho cha mẹ già có những dòng như sau:

“Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống để trở về với cha mẹ nữa không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước rất nhiều. Thế nhưng, con cũng không sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng, cũng đừng buồn sầu vì con. Rồi đây, cha mẹ cũng không còn nhận được thư của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều khó khăn thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ tiếp tục rao giảng Tin Mừng và tình yêu Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả mà con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa. Các phép lạ Chúa Giêsu làm đều được minh chứng rằng, có Thiên Chúa, do đó con vẫn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Thánh Thần Chúa phán bảo con. Mười tháng sau, khi nghe con rao giảng về Chúa Kitô, một binh sĩ đã được ơn tin nhận Chúa và xin rửa tội. Điều đó giúp con rất nhiều và giúp con thêm bền lòng vững chí.

Thân ái chào cha mẹ yêu dấu, và có lẽ đây là lời chào cuối cùng, của con gửi đến cha mẹ trên trần gian này”.

  1. “Sứ thần hiện ra với Giacaria và bảo: “Bà Êlisabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”. Giacaria thưa rằng: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già mà nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (Lc 1,13. 18).

Giacaria muốn xin một dấu lạ. Việc xin một dấu lạ thực ra không có gì đáng trách cả. Môisen xưa kia đã từng xin Giavê một dấu lạ. (Xh 15,28). Tướng Gêđêon cũng thế, ông cũng muốn xin một dấu lạ khi thiên thần báo cho ông hay là Chúa đã chọn ông làm tướng cứu dân Israel. Ở đây, Giacaria cũng xin một dấu lạ nhưng ông đã bị phạt vì ông không đủ lòng tin.

Giacaria bị câm nín một thời gian nhưng sau đó hát lên bài ca nổi tiếng “Benedictus”. Đời sống đạo của mỗi người chúng ta cũng có thể có nét gì tương tự như vậy. Chính vì thế mà chúng ta phải biết luôn kiên trì trên con đường theo Chúa.

Sau những tháng năm làm đầy tớ cho một gia đình quí tộc, Sophie Beranska phải thất nghiệp.

Ngày kia, gia đình Hersten, một gia đình Do Thái thuê nàng về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy chương ấy nhưng nàng nhất định không cho: bí mật của đời cô mà!

Dưới sự chăm sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên nhu mì ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua thì một hôm, tai họa dồn dập xảy đến: Bé Naim đau nặng. Cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng thì càng nặng thêm trên đôi vai Sophie. Tuy nhiên, nàng vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi 3 đứa nhỏ trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua. Hôm nay, là ngày giỗ của Sophie Beranska. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến một nhà thờ Công giáo dự thánh lễ. Phải chăng là phép lạ ?

Không! Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương của nàng mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được một mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”.

Ông hết sức bàng hoàng cảm phục. Rồi gia đình ông cũng thế. Và sau đó tất cả mọi người đều đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội.

 

 

 

Ngày 20 tháng 12

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38

Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.

Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.

Nhưng Maria thưa với Thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và Thiên thần cáo biệt Bà.

 

Suy Niệm 1: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Cách đây gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này

vào lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin cho Đức Mẹ.

Hôm nay chúng ta nghe đọc lại bài này trong bầu khí rộn ràng

của những ngày gần đại lễ Giáng Sinh.

Các sách Tin Mừng không nói nhiều về thời gian Đức Mẹ mang thai.

Luca chỉ nói về chuyện Mẹ đi thăm bà chị họ hiếm muộn (Lc 1, 39-45).

Còn Mátthêu nói về chuyện thánh Giuse nằm mộng và được sứ thần mời

đón nhận Maria làm vợ và thai nhi Giêsu làm con của mình (Mt 1, 18-24).

Nhưng thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng,

nhất là đối với người mẹ trẻ sinh con so.

Các bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm,

mầu nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình.

Dần dần mỗi chuyển động của thai nhi

và cả nhịp tim cũng được người mẹ cảm nhận.

Thai nhi trở thành người trọn vẹn

nhờ được dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ.

Con Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế.

Ngài không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng,

nhưng Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ.

“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể…

Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,

con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7).

Con Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha.

Tiếng Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không,

để “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7).

Khi trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ,

Con Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính.

Ngài vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất

để Ngài thực sự là anh em của họ.

“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa.

Xin xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38).

Ngay sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống,

và Con Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35).

Ngài từ từ có trái tim, khuôn mặt, vân tay riêng…

Đấng Cứu Độ sung sướng trở nên một sinh linh nhỏ bé,

để nói cho nhân loại biết về sự cao quý của một thai nhi.

Đức Maria trở thành Hòm Bia Thiên Chúa, nơi Ngôi Hai hiện diện.

Chúng ta ít khi nghĩ đến thời gian Mẹ Maria mang thai.

Thời gian cưu mang chẳng bao giờ nhẹ nhàng hay dễ dàng.

Để có thể sinh ra Đức Giêsu cho môi trường ta đang sống,

cũng cần thời gian thai nghén lâu dài và vất vả.

Chúng ta phải mang Ngài trong lòng mình,

kiên nhẫn và chăm chút để Ngài lớn lên, trước khi sinh Ngài cho thế giới.

“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ tôi” (Mc 3, 35).

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con gặp được ánh mắt của Chúa

ít là một lần trong đời.

Khi tương lai con đang vững vàng ổn định,

xin hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lêvi

và mời gọi con đứng lên theo Chúa,

bỏ lại tất cả những gì con cậy dựa.

Khi con chẳng còn là mình, vấp ngã như Simon,

xin hãy quay lại nhìn con

bằng ánh mắt xót thương, tha thứ,

để con òa khóc như trẻ thơ.

Khi con khao khát sống cuộc đời hoàn thiện,

xin hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương

như Chúa đã trìu mến

nhìn người thanh niên giàu có.

Khi con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,

xin Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,

như Chúa đã ngước lên nhìn Dakêu

và cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.

Lạy Chúa Giêsu,

xin dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay

bằng ánh mắt của Chúa.

Chúa động lòng thương

khi thấy bao người yếu đau,

thấy đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.

Ánh mắt Chúa thấu suốt lòng người.

Chúa buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,

nhưng Chúa cũng vui

khi thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.

Đôi mắt Chúa đã từng nhòa lệ

trước cái chết của người bạn thân là Ladarô,

và trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.

Lạy Chúa, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.

Xin cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa. Amen.

 

Suy Niệm 2: Đặt tên là Giêsu

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trong các ơn không ơn nào trọng bằng ơn cứu độ. Trong các lời hứa không lời nào trọng bằng lời hứa ban Đấng Cứu Độ. Trong các dấu lạ không có dấu lạ nào bằng lớn lao bằng Thiên Chúa sinh xuống làm người để cứu độ nhân loại. Vì thế Chúa không hứa cho A-khát điều gì khác ngoài lời hứa ban Đấng Cứu Độ sinh ra bởi người trinh nữ. Nghĩa là do quyền năng của Thiên Chúa. Để trở thành Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở giữa loài người. Thế giới nhân loại có quá nhiều đau khổ. Quá nhiều lo âu. Quá nhiều đổ vỡ. Quá nhiều vấn đề. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải quyết được hết các vấn đề của con người. Mới có thể tạo nên con người mới. Khởi đầu một lịch sử mới. Xây dựng một thế giới mới. Một thế giới tràn đầy ân sủng.

Lời hứa từ ngàn xưa được ứng nghiệm nơi Đức Mẹ và Chúa Giê-su. Chúa Giê-su chính là Đấng muôn dân trông đợi. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa cứu. Người đến cứu thế giới khỏi bế tắc. Cứu nhân loại khỏi diệt vong. Giải thoát con người khỏi ách thống trị của ma quỉ. Vì Người là Thiên Chúa. Tuy sinh ra trong trần gian nhưng “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người”. Đó là vị vua muôn dân trông đợi. Để tái lập thời huy hoàng của Đa-vít. Thời đất nước hùng mạnh. Dân được hưởng an lạc thái hoà.

Đức Mẹ chính là người trinh nữ sinh con mà tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa. Đức Mẹ chính là người đầu tiên được hưởng ơn cứu độ. Nhờ Chúa Giê-su mà Đức Mẹ được ơn vô nhiễm nguyên tội. Và được đồng trinh trọn đời. Đức Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”. Vì Đức Mẹ cưu mang Chúa Giê-su là nguồn mạch ân sủng. Thiên sứ cho biết con trẻ sẽ được “đặt tên là Giê-su”. Nghĩa là Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Đức Mẹ là người đầu tiên được cứu khỏi tội lỗi. Đức Mẹ là công dân đầu tiên của vương quốc Nước Trời, của triều đại Thiên Chúa. Nên Đức Mẹ được “đầy ân sủng”. Và từ lòng Mẹ, ân sủng tràn lan khắp thế giới.

Kế hoạch của Thiên Chúa thành công. Vì Chúa Giê-su hoàn toàn vâng phục ý Chúa Cha. Và vì Đức Mẹ dâng mình làm “nữ tỳ” ngoan ngoãn để Thiên Chúa sử dụng. Xin cho con biết noi gương Đức Mẹ. Hoàn toàn ngoan ngoãn để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Con sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi. Con sẽ được Thiên Chúa ở cùng. Con sẽ được đầy tràn ân sủng. Con sẽ được ơn cứu độ.

 

Suy Niệm 3: Ngôi Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể

Gabriel trong tiếng Do Thái có nghĩa là: “Thiên Chúa là sức mạnh”. Bởi thế, khi lãnh sứ mạng truyền tin cho Mẹ Maria, hình ảnh sức mạnh nổi bật nơi người mang sứ điệp và chính tại nội dung của sứ điệp. Mẹ Maria phân vân thắc mắc bằng những suy nghĩ thường tình của con người: “Việc ấy thành sự sao được? Vì tôi không biết đến người Nam”. Tuy nhiên, thắc mắc này không làm nao núng vị sứ giả biểu tượng cho sức mạnh Thiên Chúa. Sứ giả đã trấn an Mẹ với lời khẳng định: Chẳng có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Dù cho tuổi già như Elisabeth thì Ngài vẫn cho sinh hạ một con trai để góp phần gia truyền ơn cứu độ. Ngài đã tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài đã gầy dựng một dân tộc từ một đôi vợ chồng son sẻ mà tuổi đã xế chiều, thế mà tại sao Ngài lại không thể tạo cho mình một thân xác từ trong cung lòng người Nữ được?

Thiên Chúa Quyền Năng làm được mọi sự, nhưng dù cho quyền năng thế nào đi nữa thì khi đứng trước tự do của con người Ngài cũng phải đành bó tay, vì Ngài tôn trọng sự tự do của con người. Quả thật tự do là một món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Với lý trí và tự do con người đã vẽ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân phận thụ tạo của mình. Có tự do mới có tình yêu, vắng bóng tự do thì chỉ còn là những áp đặt, trói buộc hoặc lợi dụng. Không gì làm đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng khi con người biết dùng tự do để đáp lại tình yêu của Ngài, và cũng không gì làm đau lòng Ngài cho bằng khi con người sử dụng tự do để phản bội Ngài. Dù Ngài Quyền Năng tuyệt đối thì Ngài vẫn không dùng Quyền Năng để ngăn cản sự tự do của con người. Vì thế mà thảm cảnh đã đến với nhân loại khi nguyên tổ đã cản ngăn chương trình tốt lành của Thiên Chúa dành cho mọi thụ tạo.

Thế nhưng, Thiên Chúa lại không bỏ mặc con người nhưng Ngài đã hứa ban ơn cứu độ ấy được thể hiện qua dòng lịch sử. Khung cảnh được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay là điểm cuối của hằng bao thế kỷ chuẩn bị ấy. Và dù phải bỏ công chuẩn bị suốt một thời gian dài như vậy, Thiên Chúa cũng không dùng quyền năng của mình để ép buộc Mẹ Maria chấp nhận chương trình của Ngài. Ngài đợi chờ hai tiếng “Xin Vâng” thốt ra từ môi miệng của Mẹ, Ngài tôn trong tự do nơi Mẹ. Về phần Mẹ Maria, Mẹ cũng dùng lý trí của Mẹ để tìm hiểu, thắc mắc. Tuy nhiên, khi dùng lý trí thì Mẹ vẫn không bước ra ngoài sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

Câu hỏi của Mẹ là một thắc mắc chính đáng trong cái suy nghĩ thường tình của con người: “Làm sao một người nữ lại có thể sinh con khi không có sự tiếp tay của người nam”. Sứ thần đã hướng dẫn lý trí của Mẹ suy nghĩ đến quyền năng của Thiên Chúa. Lúc này tâm trí của Mẹ không chỉ qui về sự việc bà chị họ mang thai nhưng bao gồm tất cả chiều dài của chương trình lịch sử cứu độ.

Nhờ thế mà hôm nay Giáo Hội mới có được lời kinh Magnificat để chúc tụng trong giờ kinh Phụng Vụ. Và rồi chẳng ngần ngại Mẹ đã thưa “Xin Vâng”. Hai tiếng “Xin Vâng” tuy vắn gọn nhưng không mất tính chất quan trọng của một chiếc chìa khóa mở cửa cho nguồn ơn cứu độ đến với nhân loại. Chẳng gì là quá đáng khi chúng ta lập lại lời thơ của Hàn Mặc Tử:

“Lạy Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel!

Khi người xuống trần gian truyền tin cho Thánh Nữ.

Người có nghe xôn xao muôn vị tinh tú?

Người có nghe náo động cả phương trời?”

Vì do sự sử dụng tự do của nguyên tổ mà chương trình tốt lành của Thiên Chúa bị cản ngăn, thì lúc này với sự sử dụng tự do của Mẹ Maria chương trình cứu độ tình thương của Ngài được thiết lập.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta bắt chước ở nơi Mẹ Maria thái độ lắng nghe, tìm hiểu và rồi sẽ đáp trả trong tự do và tin tưởng. Vì mỗi ngày Thiên Chúa vẫn hằng chờ đợi chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể và trong các biến cố của cuộc sống. Ngài chờ đợi một lời đáp trả trong “tin yêu”, vì Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do của ta. Nếu chúng ta biết thưa hai tiếng “Xin Vâng” như Mẹ Maria đã thưa thì chắc chắn Ngài sẽ đến và sẽ hành động trong chúng ta. Nhưng nếu một khi đã có Thiên Chúa đến ở với thì tôi tớ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Cũng vậy, là tạo vật hèn kém, bất xứng nhưng một khi được Thiên Chúa ở cùng chúng ta sẽ chỉ là chi thể, là bạn hữu và là anh em của Ngài.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Truyền tin cho Đức Maria

Người ta kể lại rằng: một hôm có người tìm đến thánh Don Bosco vấn kế về phương pháp xây dựng hoà bình thế giới. Nhằm lúc thánh nhân đang bận việc, con người thao thức về hoà  bình ấy gõ cửa mỗi lúc một mạnh hơn. Mãi một lúc sau, thánh nhân ra mở cửa và niềm nở mời khách vào phòng, Ngài kiên nhẫn lắng nghe, chờ cho người đó trình bày hết ý kiến, rồi mỉm cười nói: “Ông không nghĩ rằng một trong những phương pháp hữu hiệu để xây dựng hoà bình là gõ cửa phòng người khác nhẹ hơn sao?”.

Giai thoại trên minh hoạ phần nào thái độ đứng núi này trông núi nọ của rất nhiều người. Nhiều người chưa làm nổi những việc nhỏ đã nghĩ đến những việc lớn: nhiều người không đủ kiên nhẫn chịu đựng những việc thường ngày đã nghĩ đến việc tử đạo cho đại cuộc.

Trong lãnh vực đức tin cũng thế, nhiều người tưởng có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong bốn bức tường nhà thờ, trong những giờ phút thinh lặng, trong những giờ cầu nguyện liên tục. Thiên Chúa dường như không chấp nhận bị giam trong những giờ phút giờ phút hay khung cảnh giới hạn nào đó. Ngài đến trong từng giây phút và biến cố cuộc sống, trong những cái nhỏ nhặt thường ngày của cuộc sống.

Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta lặp lại xác tín đó. Sứ thần được sai đến với một Trinh nữ khiêm hạ, thuộc một ngôi làng nhỏ bé  Nazarét, xứ Galile. Nhưng chính từ khung cảnh âm thầm ấy, thánh Luca đã làm nổi bật những tước hiệu cuả Đấng Cứu Thế: “Ngài sẽ nên cao  trọng và được gọi là Con Đấng Tối cao. Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp”.

Một Thiên Chúa Toàn năng đã đến gặp con người, trong thân phận con người, trong khung cảnh bình thường, trong những bất ý nhất của cuộc  sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta mỗi khi tuyên xưng: “Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chuá, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria”.

Nét độc đáo của niềm tin  Kitô là tuyên xưng Thiên Chúa đã mặc xác phàm. Và tin nhận Thiên Chúa làm người cũng có nghĩa là luôn sẵn sàng đón nhận Ngài trong từng phút giây cuộc sống, là biến mỗi phút giây cuộc sống thành  cuộc gặp  gỡ với Đức Kitô.

 

Suy Niệm 5: Hỏi hay chiêm niệm

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu.

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xãy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

Sứ thần đáp: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (Lc. 1, 30-31. 34-35)

Nhiều câu hỏi được đặt ra:

Khi thiên thần Gáp-ri-en báo tin cho Maria sẽ là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ không thể không hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào? Vì tôi khấn giữ đồng trinh”. Mẹ hài lòng vì câu trả lời của thiên thần nên nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.

Chúng ta tò mò hơn Đức Maria, không chỉ hỏi một câu mà nhiều câu thắc mắc liên quan đến sự sinh con đồng trinh của Đức Mẹ.

Người duy lý hỏi: “Làm sao Thiên Chúa có thể làm một việc nghịch với bản tính tự nhiên?”. Kẻ đa nghi hỏi: “Có thể xảy ra như thế không? hay thánh sử Tin mừng tô điểm thêm cho đẹp”. Tín hữu yếu đức tin cũng hỏi: “Tại sao chúng ta buộc phải tin điều như thế?”.

Câu trả lời chân chính: Chúng ta không chấm dứt được những câu hỏi đặt ra cho chúng ta về vấn đề sinh hạ Đức Giêsu cách lạ lùng. Những câu đó là vô ích. Trong khi tìm cách trả lời, chúng ta cố gắng chiêm niệm sâu xa hơn về mầu nhiệm của Thiên Chúa và nắm bắt lấy thánh ý Ngài một chút.

Nhưng câu hỏi chân chính nên đặt ra chính là câu hỏi: Chúng ta có nên hỏi hay nên chiêm niệm mầu nhiệm cưu mang đồng trinh? Điều nào là quan trọng hơn? Đức Maria nhất thiết chọn việc chiêm niệm mầu nhiệm hơn. Ngài đã đón nhận và suy niệm mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ngài không thử thách Thiên Chúa, không tìm cách thọc mạch những điều bí ẩn. Ngài đã hoàn toàn tin cậy Chúa. Mẹ đã nhận thấy điều căn yếu này: Thiên Chúa sẽ làm nơi Mẹ những điều lạ lùng.

Nếu chúng ta chăm chú chiêm niệm hơn về mầu nhiệm sinh ra Đức Giêsu, có thể chúng ta sẽ dễ dàng tìm được những câu đáp tốt lành cho những thắc mắc của chúng ta. Có thể chúng ta sẽ được chìm vào sâu thẳm của mầu nhiệm khi chiêm niệm, và lúc đó những thắc mắc sẽ biến tan.

  1. Y. G

 

Suy Niệm 6: “Xin Vâng”

Vào thời Đức Maria, luật lệ Dothái rất gắt gao đối với những phụ nữ bị phạm tội ngoại tình. Nếu bị mắc phải, tức là có thai trước hôn nhân hay trong thời kỳ đính hôn là bị án tử hình. Hình phạt chính là ném đá cho đến chết.

Trong hoàn cảnh như thế, Đức Maria cũng thuộc về thành phần trong dân tộc này, hẳn Mẹ không thể thoát khỏi tội chết khi tự nhiên trong bụng mình có một Thai Nhi ngày càng lớn dần theo theo năm tháng…

Ai là người hiểu được Mẹ ngoài Thiên Chúa là chủ thể của Thai Nhi trong bụng Mẹ! Như thế, khi không chồng mà chửa là chắc chắn chết. Mẹ biết rõ điều đó. Tuy nhiên, khi Mẹ nhận được lời giải thích của Sứ Thần, Mẹ đã chấp nhận đi vào cuộc phưu lưu với Thiên Chúa trong niềm tin tưởng và phó thác. Quyết định này là một hành vi can đảm, bởi vì khi quyết định như vậy, Mẹ sẽ gặp phải muôn vàn khó khăn đến từ gia đình, xã hội và nhất là với Giuse, bạn trăm năm của mình. Nhưng, vì tin vào Thiên Chúa tuyệt đối, nên Mẹ đã buông theo ân sủng để Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời của Mẹ.

Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, đức tin nhiều khi bị lung lay vì những thử thách đến với chúng ta từ nhiều phía…

Đôi khi chính chúng ta cũng thử thách ngược lại Thiên Chúa để thỏa mãn sự hiếu tri của mình trước khi tin, và như thế, hẳn khó có thể chấp nhận nghịch lý ân sủng của Thiên Chúa.

Nguyên nhân sâu xa chính là việc chúng ta không nhạy bén với ơn Chúa, còn nghi ngờ quyền năng của Ngài, và cũng có thể do sự kiêu ngạo phủ lấp tâm trí chúng ta, nên Lời Chúa khó biến đổi tâm hồn trai đá của mình. Vì thế, nhiều khi còn uốn nắn Lời Chúa theo thiển ý của ta nữa.

Sở dĩ Đức Mẹ trở thành Nữ Tỳ Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận lời “xin vâng” với Thiên Chúa là vì Mẹ nhạy bén với ơn Chúa đã được loan báo từ trong thời Cựu Ước. Mẹ cũng khiêm tốn khi thấy điều này là kế hoạch đến từ Thiên Chúa chứ không phải do con người, nên Mẹ đã “xin vâng” để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng, phó thác cuộc đời cho Chúa như Đức Mẹ. Khiêm tốn để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn và sinh hoa trái trong cuộc sống của chúng ta. Sống trung thành với Chúa dù có phải gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Can đảm đón nhận thánh ý Chúa và trung thành với Thiên Ý.

Lạy Mẹ Maria, xin phù trợ chúng con để chúng con khiêm tốn, can đảm, nhạy bén và trung thành với Chúa như Mẹ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Truyền tin cho Đức Maria

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đến ngày ấn định, Chúa sai thiên thần Gabriel đến thành Nagiarét, báo cho Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse: bà được đầy ơn phúc. Chúa đã chọn bà làm Mẹ Thiên Chúa. Bà sẽ sinh Con Đấng Tối Cao.

Maria thưa với Thiên Thần là việc đó không thể xẩy ra được vì bà giữ mình đồng trinh không biết đến việc vợ chồng thì làm sao sinh con được. Nhưng Thiên Thần cho bà biết việc đó do Chúa Thánh Thần làm, nên Đấng bà sinh ra là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa… Đồng thời Thiên Thần cũng nói cho biết việc bà Elizabeth đã có thai sáu tháng rồi, vì không có việc gì Thiên Chúa không làm được.

Bấy giờ Bà Maria thưa với Thiên Thần: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”.

  1. Thiên Chúa cần con người cộng tác với Ngài.

Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng bất cứ cách nào theo sự khôn ngoan thượng trí của Ngài. Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng trong công cuộc cứu độ này, Ngài không muốn hành động một mình mà muốn có sự cộng tác của con người. Chính vì vậy mà Ngài đã sai sứ thần Gabriel  đến hỏi ý kiến Đức Maria trong việc làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài không áp đặt mà chỉ đề nghị. Ngài muốn sự đáp trả sáng suốt của con người. Sau khi Đức Maria đã thưa xin vâng, Ngôi Hai Thiên Chúa lập tức đầu thai trong lòng trinh nữ Maria và Maria đã trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa.

  1. Trở nên dụng cụ để Thiên Chúa dùng.

Đức Maria đã trở nên dụng cụ Thiên Chúa dùng trong công cuộc cứu chuộc loài người sau tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ.

Khi nói đến dụng cụ là nói đến một đồ vật để con người xử dụng theo ý mình. Dụng cụ chỉ biết phục tùng theo ý muốn người xử dụng. Không bao giờ dụng cụ có thể nói với người xử dụng tại sao lại dùng vào việc nọ việc kia, mà chỉ biết hoàn toàn vâng theo người xử dụng nó, có khi người xử dụng phế thải cả dụng cụ, thì chính dụng cụ ấy cũng không có quyền phản đối.

Đức Maria đã đặt mình dưới quyền xử dụng của Thiên Chúa vì Ngài nhận thấy mình chỉ là người đầy tớ vô dụng. Tuy nhiên, Chúa có thể dùng vào việc lớn lao mà mình không ngờ. Chúng ta có thể tìm được hình ảnh này trong văn chương bình dân Việt nam:

Ai làm cho cải tôi ngồng,

Cho dưa tôi khú, cho chồng tôi chê.

Chồng chê thì mặc chồng chê,

Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ. (Ca dao)

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Linh mục. Ngày kia, thừa lệnh Giám mục giáo phận, một vị giáo sư Thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội ngiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn:

– Vianney, anh dốt như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:

– Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?

  1. Đức Maria có một lòng tin sâu sắc.

Sau khi đã nghe sứ thần báo tin và cắt nghĩa cho Đức Maria hiểu theo quyên lực vô biên của Thiên Chúa, Ngài đã sẵn sàng thưa “Xin vâng”. Câu xin vâng đã nói lên lòng tin sâu sắc của Đức Maria vào quyền năng của Thiên Chúa.

Lịch sử cứu độ thời Cựu ước bắt đầu bằng một hành vi đức tin của Abraham. Ông được gọi là “cha của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng bắt đầu bằng hành vi đúc tin của Đức Mẹ. Đức Maria được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vi đức tin của người đó.

  1. Truyện:Đức tin nhỏ mà lớn.

Có một bà nổi tiếng đạo dức, nhân hậu và luôn bình tâm  trước mọi thử thách. Một bà khác ở xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: – Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?

Bà thưa:

– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.

 

Suy Niệm 8: Đức Maria: nhân vật quan trọng

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

  1. Hạt giống…

Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu nhân vật quan trọng nhất trong việc Chúa Cứu Thế sinh ra: Đức Maria.

  1. Thánh Luca trình bày Đức Maria là “Thiếu nữ Sion” (Câu “mừng vui lên” là âm hưởng của lời ngôn sứ Xôphônia nói với thiếu nữ Sion: x. Xp 8,14). Ngày xưa qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa hứa sẽ đến ở nhà “thiếu nữ Sion” (tức là dân Chúa). Lời hứa này hôm nay được thực hiện nơi Đức Mẹ.
  2. So sánh Đức Maria với ông Dacaria: khi được báo tin sẽ có con, cả Dacaria và Đức Maria đều thắc mắc hỏi lại. Nhưng câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự không tin (câu 20: Lời thiên sứ nói “Bởi vì ông không tin”). Còn câu hỏi của Đức Maria là để xin soi sáng thêm (“việc ấy xảy đến thế nào?”), và sau đó Người đã mau mắn thưa Fiat.

B…. nẩy mầm.

  1. Đức Maria hỏi “Việc ấy xảy ra cách nào được, vì…”. Thiên sứ đáp “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
  2. Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: “Xin cứ làm cho tôi…”.
  3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

– Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.

– Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.

  1. Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước bắt đầu bằng một hành vi đức tin của Abraham. Ông được gọi là “cha của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng bắt đầu bằng hành vi đức tin của Đức Mẹ. Đức Maria được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Lịch sử cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vị đức tin của người đó.
  2. “Sứ thần nói với cô Maria: Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Cô Maria thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,31.38)

Một biến cố như cuồng phong chợt đến trong tâm tư người thôn nữ Nadarét, làm đảo lộn mọi dự tính, mọi ước mơ. Và có nguy cơ bị hiểu lầm, ruồng rẫy… Nhưng Mẹ Maria đã dám “Xin Vâng”, tin tưởng phó thác vào tình thương và sự tín trung của Thiên Chúa. Mẹ đã dám “Xin Vâng” và nhận mình là bé nhỏ, là thuộc về. Mẹ đã dám “Xin Vâng”, và nhận được sự bình an.

Tuổi trẻ luôn có nhiều ước mơ, hoài bão, tự xây cho mình nhiều kế hoạch để khẳng định chính mình, nên rất sợ những biến cố, những tai họa, vì chúng tạo ra những thay đổi, gây nên những thất bại và làm đổ bể mọi kế hoạch. Tôi lo lắng, sợ hãi vì chưa biết chấp nhận sự nhỏ bé của mình, chưa tin tưởng phó thác vào Tình yêu của Thiên Chúa, và chưa dám Xin Vâng như Mẹ Maria.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết Xin Vâng như Mẹ. Xin Vâng mỗi ngày trong suốt cuộc sống của con, để dù cuộc sống có như thác đổ, lòng con vẫn cứ bình an vì biết rằng Chúa luôn đồng hành với con. (Epphata)

 

Ngày 21 tháng 12

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 39-45

Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.

 

Suy Niệm 1: Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,

Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ

giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,

giữa hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.

Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.

Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã

băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.

Chị không đi một mình trên đường xa,

vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.

Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét

để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.

Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.

Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.

Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.

Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.

Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,

để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.

Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.

Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.

Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).

Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria

vì chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.

Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ

vì chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.

Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,

chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.

Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,

chị còn có phúc vì chị đã tin rằng

Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.

Chúng ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.

Ngài tăng trưởng như mọi người.

Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,

những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.

Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.

Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,

không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,

vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;

không ai được coi thường người phụ nữ,

vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.

 

Cầu nguyện:

Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,

xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ

tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.

Xin ban cho con quả tim đơn sơ,

mau quên những nỗi buồn phiền.

Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,

dịu dàng để cảm thông.

Một quả tim trung thành và quảng đại.

không quên ơn, không báo oán.

Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.

yêu mà không mong được yêu lại,

hân hoan xóa mình đi

để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.

Một quả tim vĩ đại và bất khuất,

không khép lại trước những vô ơn,

không chán nản trước người lạnh nhạt.

Một quả tim khắc khoải

lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,

quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,

vết thương chỉ lành

khi được sống với Ngài trên trời. Amen.

 

Suy Niệm 2: Chúa là niềm vui

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Tình yêu làm nên niềm vui. Tội lỗi gây nên nỗi buồn. Vì ngăn cách con người với Thiên Chúa. Biết bao đau thương, buồn tủi, xót xa. Nhưng rồi đến thời của ơn cứu độ. Chúa xuống cứu loài người. Đó là thời điểm của tình yêu.

Sách Diễm ca diễn tả sự náo nức của Thiên Chúa trên đường đến gặp con người. “Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi”. Tình yêu bừng cháy trong lòng khiến cả vũ trụ thay đổi. Chim chóc ca hát. Hoa lá nở tưng bừng. Hương thơm ngào ngạt: “Sơn hà nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp đồng quê ta. Vả kia đã kết trái non, vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào”.

Sách Xô-phô-ni-a diễn tả niềm vui của con người được gặp Chúa: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! …Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa”. Nhưng lạ lùng thay niềm vui của Chúa thật lớn lao khi được gặp con người. Đến nỗi Chúa nhảy lên vui sướng: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng”.

Tất cả những tiên báo đã ứng nghiệm khi Đức Mẹ đến viếng bà Ê-li-sa-bét. Chúa còn trong bào thai đã đem niềm vui đến cho Gio-an. Đến nỗi ông nhảy mừng trong lòng mẹ. Đó là niềm vui ơn cứu độ. Được tha hết tội khiên, Gio-an vui sướng nhảy mừng. Đó là niềm vui của cả nhân loại. Thời tình yêu đã đến. Thời ân phúc khởi đầu. Sẽ tràn lan cả địa cầu. Niềm vui của Gio-an tràn sang bà mẹ. Khiến bà cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa và ca ngợi Đức Mẹ. Đức Mẹ cùng hợp tiếng ca tụng Chúa trong bài Magnificat tuyệt diệu. Đức Mẹ cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa từ ngàn xưa. Và còn mãi đến ngàn sau. “Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham. Và cho con cháu đến muôn đời”.

Chúa là niềm vui. Vì Chúa là tình yêu. Tình yêu khiến Chúa nao nức đi gặp con người. Và vui sướng khi được ở với con người. Tình yêu của Chúa sẽ biến đổi ta. Ban cho ta ơn tha thứ. Rửa ta sạch tội lỗi. Làm biến đổi vũ trụ và con người. Khi ta được trong sạch. Ta sẽ được hưởng tình yêu của Chúa. Một mùa xuân mới sẽ bừng lên. Một thế giới mới sẽ thành hình. Ta sẽ được hạnh phúc. Vì được sống trong tình yêu.

 

Suy Niệm 3: Bởi Ðâu Tôi Ðược Mẹ Chúa Viếng Thăm

Với cuộc sống con người, ai ai trong chúng ta cũng mang lấy tâm trạng muốn cho mình tích trữ được nhiều thứ của cải: của cải vật chất và của cải tinh thần. Của cải vật chất như được giàu sang, được uy quyền. Ai lại chẳng muốn được như câu nói mà người ta thường đùa với nhau: “Ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật” và cuối cùng là “đám tang Việt Nam”.

Ở nhà Tây, vì tiện nghi đầy đủ. Ai lại không khen các món ăn của Tàu nổi tiếng là ngon. Người đàn bà Nhật chiều chuộng chồng mình không ai lại không cảm thấy không kính phục. Và đám tang Việt Nam chúng ta với bao nhiêu nghi thức đầy cảm động gợi lên tâm tình của người còn sống đối với người thân yêu đã khuất. Ai trong chúng ta lại chẳng muốn được quyền uy, đi đâu có tiền hô hậu ủng, đưa đón rước sách, mọi người nhìn bằng cặp mắt kính nể, thán phục.

Về của cải tinh thần, ai lại không mơ ước trên phương diện nghệ thuật mình sáng tác, những bản nhạc thời danh như Bach, Bethoven, Mozart, hoặc thành những khoa học gia nổi tiếng về không gian chế ra bom B1-B2 và hỏa tiễn lên cung trăng đầu tiên như Volgra người Ðức gốc Do Thái. Và biết bao nhiêu mơ ước, biết bao nhiêu tham vọng khác nữa ở trong mỗi một con người nhỏ bé của chúng ta.

Ðó là tâm trạng tâm lý thường tình của con người mà thôi. Nó không tốt mà cũng không xấu, khi chủ ý đặt mục đích và phương tiện tốt thì nó tốt, còn khi chúng ta dùng để tự kiêu, ngạo mạn và làm hại người khác thì nó xấu. Có một điều quan trọng nhất của người Kitô hữu chúng ta đó là khi chúng ta xin đức tin cùng Hội Thánh trong ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, được rước Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta khư khư giữ lấy Chúa ích kỷ riêng cho mình, không mang Thiên Chúa đến cho người khác.

Thiên Chúa chúng ta là một kho tàng vô giá, một kho tàng tích chứa tình yêu vô bờ bến, một kho tàng tích chứa bình an thực sự, và là một kho tàng tích chứa sự khôn ngoan tuyệt đối. Một kho tàng quí giá vô cùng như vậy thế mà chúng ta đã không biết lợi dụng để mang đến cho mọi người, để rồi tha nhân không nhìn ra khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương qua cuộc sống của chúng ta. Vì thế, những người vấp ngã, những người gặp hiểm nguy khó khăn trong cuộc sống, họ không gặp được Thiên Chúa bình an, Thiên Chúa hy vọng và Thiên Chúa hạnh phúc. Những người hoang mang lạc lối trên đường đời chúng ta đã không chỉ cho họ đến với Thiên Chúa là Ðấng thông minh, khôn ngoan tuyệt vời. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi chúng ta đã không mang Chúa đến cho tha nhân.

Và hôm nay Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua gương mẫu Mẹ Maria, chính Mẹ đã nhận được diễm phúc mang Con Chúa trong lòng, để rồi Mẹ đã vội vã lên đường mang Chúa đến cho người chị họ là bà Isave. Nhờ đó, thánh Gioan Tẩy Giả nằm trong bụng mẹ cũng được chia sẻ niềm vui ấy. Ðó là bài học quí hóa nhất cho cuộc sống chúng ta, người con cái của Thiên Chúa đã nhận biết Chúa, đã mang Chúa trong tâm hồn, không ích kỷ giữ riêng Chúa cho mình nhưng cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu rỗi đó cho mọi người xung quanh.

Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con tâm tình sốt sắng đón nhận Chúa đến để sự bình an của Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng con. Lạy Chúa, như xưa Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho bà chị họ là bà Isave, thì nay xin Chúa cho chúng con luôn biết hăng say đem Chúa đến cho mọi người qua cuộc sống hiền hòa, yêu thương, tha thứ trong niềm tin yêu hy vọng và lạc quan, vì Chúa đến và vui thích ở giữa dân Người. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Đi thăm bà Isave

Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng là một thứ cưu mang: mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, sống trong tự do, xây dựng nhiều hăm hở.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền sơn cước. Đức Maria đã chỗi dậy, vì cưu mang con trong lòng. Cưu mang con trong lòng cũng có nghĩa là nuôi dưỡng một niềm vui bất tận: đứa con càng lớn, niềm vui càng tăng.

Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng Người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.

Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.

Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Maria và người chị họ Isave là kết thúc của cuộc ra đi. Không ai đi để tiến về cô đơn, để giam mình trong cõi chết, nhưng ra đi là để gặp gỡ, chia sẻ.

Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích rửa tội.

Cưu mang sự sống mới, người Kitô hữu cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin. Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi…

Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ Thiên Chúa trong cuộc sống này. Điểm đến ấy sẽ không bao giờ hiện ra đối với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.

Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hay ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những  trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.

 

Suy Niệm 5: Chia sẻ đức tin

Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. (Lc. 1, 40-42)

Ngay sau khi Đức Maria biết bà Ê-li-sa-bét đã quá già mà sắp sinh cậu ấm, Mẹ đã đến thăm viếng bà, không phải để xác minh lời thiên sứ có thật không, nhưng để thực thi thánh ý Thiên Chúa và thăm viếng bà chị cùng đồng cảnh với mình. Hơn thế nữa, Đức Maria thấy cần chia sẻ niềm vui và lòng tin của mình với người khác.

Cả hai đều luôn dễ vâng lời và hiểu biết thánh ý Chúa. Cả hai đều được Thiên Chúa đã làm những sự lạ lùng.

Tin mừng tường thuật cho chúng ta biết một cách vắn gọn về việc đã xảy ra giữa hai người nữ diễm phúc. Người ta tưởng tượng khá tốt rằng: Cả hai đã cống hiến một thời gian dài để giúp nhau khám phá ra ý nghĩa về việc sẽ xảy đến với hai bà. Và như tất cả các bà mẹ, hai bà mơ ước về hai đứa con sẽ trở nên thế nào …

Phần chúng ta, họa hiếm lắm chúng ta mới biết chia sẻ niềm tin của mình cho người khác, vì thực sự chúng ta không quen. Khi những người tín hữu chúng ta gặp nhau, hầu hết là để tổ chức hoạt động, để thảo luận vấn đề khác. Chúng ta rất ít khi tụ họp để bày tỏ cho nhau những tâm tình tận đáy con tim, những điều chúng ta tin tưởng, những điều chúng ta trông cậy. Chúng ta không dám cởi mở cho nhau hết tấm lòng mình về Đức Kitô. Chúng ta không dám nói cho người khác những điều Thiên Chúa đối với mình, đã làm cho mình, với vợ con mình, và cả với các bạn tri kỷ của mình. Chúng ta hầu như không bao giờ nói về Đức Kitô.

Chính vì thế, chúng ta hình như đã quên, hay hình như đã không còn hiểu gì về Đức Kitô, đến nỗi chúng ta thực sự rất cô đơn trong niềm tin. Thực thế, chúng ta còn nhiều điều phải học biết.

Chúng ta cần thiết phải biết lòng tin của người khác để củng cố lòng tin của chúng ta. Và người khác cũng cần biết lòng tin của chúng ta để củng cố niềm tin của họ.

Khi Mẹ Maria và bà Ê-li-sa-bét gặp nhau, các ngài nói cho nhau biết thông cảm những điều lạ lùng mà Thiên Chúa đã làm cho mình để tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Nếu chúng ta biết chia sẻ lòng tin của chúng ta với nhau, có lẽ chúng ta sẽ thấy được những sự lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.

  1. Y. G

 

Suy Niệm 6: Cuộc viếng thăm đầy ân sủng

Trong cuộc sống, nơi các mối tương quan, hẳn sự cảm thông, liên đới là điều quan trọng. Có sự cảm thông, chúng ta dễ dàng tôn trọng, hiểu biết, và đón nhận nhau hơn. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau để giúp nhau thăng tiến…

Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.

Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt phục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét… Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.

Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.

Mong sao trong Mùa Vọng này, mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Đem Chúa đến cho người khác

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Bác ái không chỉ là giúp đỡ về phương diện vật chất, bác ái còn là biết đem Chúa đến cho người khác. Và đây chính là hình thức bác ái cao cả nhất.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, đạo của Chúa vẫn được gọi là đạo bác ái. Mở Phúc Âm ra hầu như trang nào con cũng thấy Chúa đề cao đức bác ái. Đối với Chúa, cốt lõi của đạo chính là đức bác ái. Điều răn trọng nhất đối với Chúa chính là điều răn bác ái. Tội nặng nhất đối với Chúa cũng chính là tội lỗi về đức bác ái.

Cuộc sống khó khăn, kinh tế eo hẹp nhiều lúc làm cho con ra ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ nghĩ đến gia đình, ai sống chết mặc ai. Nhiều lúc con dửng dưng, thờ ơ trước những nỗi thống khổ của anh em, nỗi khổ vật chất cũng như nỗi đau tinh thần.

Xin Chúa cho con được mặc lấy tâm tình bác ái của Mẹ Maria, cho con biết mở lòng ra với mọi người, biết chia sẻ cho người bất hạnh, biết cắt nghĩa lành cho người khác, biết tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình.

Lạy Chúa, xin cho con biết lên đường cùng với Mẹ Maria, biết đi bước trước đến với mọi người, không nghĩ đến lợi ích riêng mình, nhưng quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh em. Xin cho con biết ra đi với trái tim đầy yêu thương, với đôi tay luôn giang rộng và với đôi chân luôn tiến bước.

Xin Chúa cho con biết bắt chước Mẹ Maria, cưu mang Chúa nhưng không chỉ giữ cho riêng mình, trái lại, biết trao ban, chia sẻ và giới thiệu Chúa cho mọi người. Xin cho con biết sống sạch tội và kết hợp với Chúa, để nhờ có Chúa trong lòng, mọi việc con làm sẽ đem lại hoa trái cứu độ cho người khác.

Lạy Chúa, xin cho gia đình chúng con tâm hồn bác ái như thánh Phan-xi-cô thành Át-si-di. Amen.

Ghi nhớ: “Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi”.

 

Suy Niệm 8: Niềm vui được chia sẻ

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng là một cưu mang: mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, sống trong tự do, xây dựng đời sống, do đó cuộc hành trình nào cũng chứa đựng nhiều hăm hở.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền Sơn Cước. Đức Maria đã chỗi dậy, vì cưu mang con trong lòng. Cưu mang con trong lòng cũng có nghĩa là nuôi dưỡng một niềm vui bất tận: đứa con càng lớn, niềm vui càng tăng.

Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng Người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.

Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.

Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Maria và người chị họ Isave là kết thúc của cuộc ra đi. Không ai đi để tiến về cô đơn, để giam mình trong cõi chết, nhưng ra đi là để gặp gỡ, chia sẻ.

Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích Rửa tội.

Cưu mang sự sống mới, người Kitô cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin. Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi.

Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.

Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.

 

Suy Niệm 9: Viếng thăm bà Elizabeth

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Vừa mang thai Đức Giêsu, Đức Maria đã vội vã đi thăm bà Elizabeth. Đức Mẹ vừa vào nhà thì việc lạ đã xẩy ra: hài nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth!  Được Chúa Thánh Thần soi sáng bà đã cất tiếng ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Lãnh sứ mạng sinh Chúa Cứu Thế, Đức Maria đã nghĩ ngay đến người khác. Mẹ đem Chúa đến cho thân nhân, Mẹ thực thi bác ái trọn hảo. Và theo lời bà Elizabeth, Mẹ nêu gương lòng tin tuyệt vời vào Lời Chúa phán hứa. Chính nhờ niềm tin vững mạnh đó mà Mẹ đã được Thiên Chúa chọn sinh Đấng Cứu Thế.

  1. Phải có tinh thần biết chia sẻ cho người khác.

Sau khi đón nhận tin cưu mang  Đấng Cứu thế, Đức Maria đã vội vàng đi thăm gia đình Giacaria để chia sẻ niềm vui trong gia tộc. Mẹ ra đi loan truyền niềm vui cho bà chị họ và đem Đấng Cứu Thế đến cho Gioan Tẩy Giả. Vì thế, thai nhi nhảy mừng trong lòng mẹ như là lời đáp trả được đón nhận niềm vui cứu độ mà Tin Mừng đã trình bầy. Maria đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho chính Mẹ niềm vui, niềm vui chờ đón Con Mẹ khi dấn thân phục vụ mà Mẹ đã biểu lộ qua lời ca Magnificat.

Con người không những cần được cung cấp của ăn thức uống cho thân thể, nhưng còn phải được chia sẻ tâm tình trong cuộc sống. Đúng là: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Chúng ta củng phải theo gương Đức Mẹ mà biết chia sẻ cho ngưới khác vì như người ta nói: “Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, còn nỗi buồn mà được chia sẻ thì được giảm đi một nửa”.

  1. Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng.

Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi cho mình nữa.

Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niềm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần: Ngài thêm xác tín về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà bây giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bầy cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài cất lên lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong kinh ngợi khen Magnificat.

  1. Đức Maria, mẫu gương của bác ái.

 “Đức Maria đã vội vã ra đi lên miền núi”: điều đó nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia sẻ vui buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến ba, bốn ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.

Dầu Đức Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, lại  phải mất ba bốn ngày mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái dậm trường. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do từ chối.

Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của bác ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Đức Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.

  1. Truyện: Lòng bác ái của bác sĩ Longet.

Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Doley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.

Được hỏi tại sao ông quí mến bệnh nhân như thế?

Bá sĩ Longet đáp:

– Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.

Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ, bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm Linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.

 

Suy Niệm 10: Đón nhận Chúa, chia sẻ người

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Sau khi đã đón nhận Chúa vào lòng, giờ đây Mẹ Maria đem Chúa đến cho người khác. Khi Chúa đến trong tâm hồn ai thì thường Chúa cũng mở rộng tâm hồn của người ấy, để họ cũng nghĩ đến những người chung quanh. Thí dụ trong Tin Mừng, chúng ta thấy khi Chúa đến với ông Giakêu thì tâm hồn của ông được mở rộng ra để hướng về những người khác ngay. “Tôi sẽ lấy một nửa gia tài tôi mà giúp kẻ nghèo và nếu tôi làm thiệt hại ai, thì tôi sẽ đền gấp bốn”. (Lc 19,8)Nghĩ đến kẻ khác, đến với kẻ khác, đó là dấu chỉ có Chúa hiện diện ở trong tâm hồn. Chính vì thế mà sau khi được thụ thai Chúa Giêsu và khi biết bà chị họ của mình đang cần một sự giúp đỡ, thì mẹ đã lên đường ngay, không một chút chần trừ do dự. Biết tìm đến với những người khác nhất là những người ở trong những hoàn cảnh khó khăn đó là dấu chỉ của một tâm hồn có Chúa. Mỗi khi lần chuỗi thứ hai của năm sự vui chúng ta ngắm “thứ hai, Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, ta hãy xin cho được lòng yêu người”.

Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, để biểu lộ lòng yêu người cho chúng ta bắt chước.

Hồi đó, – mẹ Têrêsa Calcutta kể – nhằm lúc thành phố Calcutta thiếu đường ăn thì có một em bé chừng bốn tuổi đem đến cho tôi một chén đường và bảo tôi:

– Thưa mẹ, con đã nhịn ăn đường suốt một tuần nay, xin mẹ hãy dùng ít đường này cho trẻ mồ côi của mẹ.

Một em bé mới có bốn tuổi mà có được cử chỉ như thế thì thật anh hùng biết bao! Em đã học được bài học yêu thương đến độ dám hi sinh cả những gì mình cần thiết cho các em nhỏ khác. Rồi một dịp khác, em bắt tôi đem rá gạo ra vo để nấu cơm cho cả nhà ăn. Nhưng rồi bất chợt có một người đàn ông đến gặp tôi và nói:

– Thưa mẹ, gần đây có gia đình người Hindu có tám đứa con, mà cả tuần nay họ không có gì ăn cả.

Lập tức tôi bưng rá gạo đi theo người đàn ông ấy và tìm đến nhà người Hinđu kia. Bước vào túp lều lụp xụp, tôi bắt gặp những khuôn mặt xanh xao và cơn đói lúc đó đang hành hạ họ. Không cầm lòng được, tôi trao hết rá gạo cho bà ta. Bà này cảm động đón lấy rá gạo, rồi lập tức ngồi xuống chia làm hai phần. Sau đó, bà bưng một nửa ra đi … và một lúc sau, bà trở lại, tôi ngạc nhiên hỏi bà:

– Bà đi đâu vậy? Đem gạo cho ai?

– Họ cũng đói lắm!

– Nhưng họ là ai?

– Họ là những gia đình Hồi giáo. Họ cũng có những đứa con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường, và cả tuần nay, họ cũng không có gì ăn cả.

Đọc lại câu chuyện này sao nhiều lúc tôi cảm thấy buồn cho mình. Mình là người có đạo mà nhiều khi còn thua những người không có đạo nhiều quá. 2. Có một câu châm ngôn mà người ta hay nói cho nhau nghe mỗi khi hội họp “Niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng lên gấp đôi và nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”.

Vâng! “Niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng lên gấp đôi và nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”.

Trong cuốn Tâm Hồn Cao Thượng của Edmondo De Amicis tôi đọc được một lá thư của một người mẹ gửi cho người con. Bà viết như thế này: “Mẹ viết thư này để con đọc. Sáng nay ở trường về, con đi trước mẹ mấy bước. Mẹ thấy con đã đi ngang qua một người đàn bà đáng thương đang bế trên tay một đứa bé xanh xao và ốm yếu. Người ấy xin con tiền. Con đã nhìn sừng sững vào bà ta và con đã không cho gì hết dù mẹ biết con đang có tiền trong túi.

Nghe mẹ bảo đây con! Đừng bao giờ dửng dưng đi qua trước những người nghèo khổ đang ngửa tay xin mình giúp đỡ và nhất là trước một người mẹ xin một đồng cho con của mình. Con hãy nghĩ đi: biết đâu đứa bé ấy đang đói. Hãy nghĩ đến nỗi khắc khoải của người đàn bà đáng thương ấy. Hãy nghe lời mẹ dạy con đây. Thỉnh thoảng con phải biết chia sẻ một đồng tiền từ túi của con, đặt nó vào lòng bàn tay của một cụ già không nơi nương tựa, một bà mẹ không có bánh ăn, một đứa trẻ không cha không mẹ.

Con phải biết rằng: con chẳng thiếu thốn chi hết, còn người nghèo thì thiếu thốn mọi thứ. Trong lúc con ước mong được sung sướng thì họ chỉ cần cầu xin cho khỏi chết đói. Thật là buồn khi thấy giữa bao nhiêu ngôi nhà giàu có, giữa bao nhiêu trẻ em ăn mặc đẹp, lại có những người đàn bà và trẻ em không có gì để ăn cả… Con hãy suy nghĩ đi, và đừng bao giờ con hành động như buổi sáng hôm nay nữa con nhé.. ”.

Vâng! Chúng ta hãy biết chia sẻ vì “niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng lên gấp đôi và nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi đi một nửa”. Amen.

 

Ngày 22 tháng 12

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 46-56

Khi ấy, Maria nói rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!”

Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

 

Suy Niệm 1: Nữ tỳ hèn mọn

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bài ca ngợi khen Đức Chúa bật ra trên môi Maria

sau khi bà Êlisabét cất tiếng ca ngợi Mẹ.

Êlisabét ca ngợi Maria là người được chúc phúc hơn mọi phụ nữ

vì Mẹ đang cưu mang trong dạ Đấng Cứu Tinh.

Bà còn ca ngợi Maria có phúc vì đã dám tin vào lời Chúa phán,

và dám liều để cho lời ấy dẫn dắt đời mình.

Nhờ được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét mới biết được Tin Vui

mà Maria tưởng rằng đó là bí mật chỉ riêng mình biết.

Khi đứng trước bà chị cao niên đang mang thai,

Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần nói,

và vào mầu nhiệm đang âm thầm lớn lên nơi cung lòng mình.

Khi bà chị Êlisabét ca ngợi Mẹ, thì Mẹ hân hoan ca ngợi Thiên Chúa.

Maria nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Độ của Mẹ (c. 47).

Nếu Mẹ được đầy ân sủng, được Chúa ở cùng và được đẹp lòng Ngài,

nếu Mẹ được thụ thai Con Đấng Tối Cao nhờ Thánh Thần (Lc 1, 28-35),

thì đó không phải là do công của Mẹ, nhưng là ơn của Chúa.

“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả” (c. 49).

Maria không có một sự khiêm nhường giả tạo về mình.

Khiêm nhường thực sự là nhìn nhận sự thật.

Mẹ nhìn nhận những điều độc nhất vô nhị Chúa làm cho đời mình.

Ngài đã nhìn xuống đời Mẹ, cuộc đời thấp hèn của một tỳ nữ.

Và cái nhìn cúi xuống của Ngài đã nâng Mẹ lên cao,

khiến cho muôn thế hệ phải ngợi khen, tôn kính (c. 48).

Nhưng Maria không phải là người duy nhất được Thiên Chúa thi ân.

Ngài thương xót những ai hèn mọn, đói nghèo, biết kính sợ Chúa.

Ngược lại, Ngài giơ cánh tay biểu dương sức mạnh (cc. 50-53),

để dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi đi kẻ giàu sang.

Thiên Chúa đầy thương xót, nên cũng mạnh tay để tạo lại sự công bằng,

để đem lại sự no đủ cho người nghèo và sự tự do cho người bị áp bức.

Thiên Chúa ấy cũng trung tín giữ lời hứa với Dân Ítraen (cc. 54-55).

Maria đã ở lại với bà chị họ độ ba tháng mới trở về nhà.

Ba tháng mang thai đầu tiên của một người mẹ trẻ đâu có dễ.

Maria đã ở lại để phục vụ cho bà Êlisabét gần ngày sinh.

Mẹ quên gánh nặng của mình để mang gánh nặng của người khác.

Êlisabét hẳn là vui vì được hầu hạ bởi Thân Mẫu Chúa.

Gioan trong bụng mẹ sung sướng vì được gần Đấng Thiên Sai.

Ít khi ta suy niệm chuyện Đức Maria mang thai hơn chín tháng.

Thai Nhi Giêsu lớn dần lên từng ngày trong dạ mẹ, chờ ngày chào đời.

Tình Mẹ-Con cũng lớn lên, thân thiết, gần gũi.

Mang thai và sinh con là niềm vui, nhưng đòi bao hy sinh nhọc nhằn,

nhất là vào thời xưa, khi vệ sinh và tiện nghi không có.

Để sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, vẫn cần có những Maria

chấp nhận cưu mang, chấp nhận vượt cạn,

chấp nhận kiên nhẫn chờ đợi để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới.

 

Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì

Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì

Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì

Cha làm cho đời con. Amen.

 

Suy Niệm 2: Tình thương của Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

 Từ khi con người tách lìa Thiên Chúa, thế giới đi vào bế tắc. Thế giới đổ vỡ. Trật tự đảo lộn. Mọi thứ đều như chống lại con người. Con người chống lại nhau và chống lại chính mình. Mạnh hiếp yếu. Giầu áp bức nghèo. Lớn chèn ép nhỏ. Nhưng chính những người làm khổ người khác cũng chẳng thấy vui. Con người đi trong đêm tối. Không thấy tia hi vọng nào.

Nhưng khi có bàn tay Chúa can thiệp mọi sự đổi khác. Bà An-na được Chúa ban cho người con trai. Bà thoát khỏi nỗi ô nhục bị người đời cười chê. Bà được đổi đời. Bà được hãnh diện. Biết rằng mình được như vậy là nhờ ơn Chúa. Bà nhận ra tất cả là của Chúa. Chính vì thế bà tạ ơn Chúa muôn ngàn lần. Không những dâng lễ vật trọng hậu mà còn dâng chính người con vào đền thờ để phục vụ Chúa. Của Chúa phải dành cho Chúa. Bà đã cảm nhận được tình thương của Chúa. Tình thương Chúa giải thoát bà, đổi đời bà.

Đức Mẹ còn cảm nhận được ơn Chúa cách thâm sâu và cao xa hơn nữa. Đức Mẹ và bà Ê-li-sa-bét được chứng kiến một sự lạ lớn lao. Thánh Gio-an được tha tội đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Cả hai nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa. Bà Ê-li-sa-bét lớn tiếng ca tụng Đức Mẹ. Lập tức Đức Mẹ cất tiếng ca tụng Chúa. Tất cả là tình thương của Chúa: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”. Tình thương đó thay đổi cuộc đời Đức Mẹ: “Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Còn hơn thế, tình thương Chúa sẽ thay đổi thế giới. Một cuộc cách mạng thay bậc đổi ngôi sẽ xảy ra. Để thế giới được sống trong công lý và hoà bình: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giầu có, lại đuổi về tay trắng”. Tất cả là do tình thương của Chúa. “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”.

Thế giới chúng ta đang sống đầy vấn đề. Cuộc đời ta đầy bế tắc. Nhất là tội lỗi không buông tha. Luôn trói buộc ta. Gần đến ngày Chúa ngự viếng thăm. Ta tràn trề hi vọng. Tình thương Chúa sẽ đổi mới bản thân ta. Chúa sẽ làm một cuộc cách mạng thay đổi thế giới. Muôn dân sẽ sống trong an lạc thái hoà. Nhưng điều cần là tôi phải noi gương bà An-na và Đức Mẹ, luôn chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa đến. Với niềm tin tưởng. Với đời sống ngay thẳng trong sạch. Và với tâm tình biết ơn tình thương bao la của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Magnificat

Người đời Đức Kitô không những giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài còn là kiểu mẫu của con người đã được giao hoà. Ngài đến để mang lại Tin mừng. Tin mừng ấy chính là con người với Tin mừng cho bằng thái độ phấn khởi vui tươi trong cuộc sống.

Đức Maria là người đầu tiên đã đón nhận ơn cứu độ. Thái độ của Ngài cũng là thái độ mẫu mực cho người Kitô hữu. Người đã mau mắn ra đi đến với Isave để báo tin vui, và trong một giây phút xuất thần, Người đã để cho lời ca của cả một dân tộc được hát lên. Bài ca ấy qua muôn thế hệ được Giáo Hội lấy làm chính lời kinh của mình.

Trong Giáo hội và cùng với Giáo hội, mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca ấy. “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi”, đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong người Con Một ấy, chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng, không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà cha, có biết bao người cùng tiến bước với chúng ta.

Ước gì niềm vui ơn cứu độ luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta, ước gì cùng với Đức Maria, lời kinh muôn thủa của chúng ta luôn là lời ca tán dương Chúa trong từng phút giây cuộc sống.

 

Suy Niệm 4: Ngợi khen Chúa

Bấy giờ Maria nói:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng

Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. (Lc. 1, 46-47)

Tin mừng hôm nay là một bài ca đẹp về việc tạ ơn, có thể chia làm hai nhịp:

Trước hết là tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban ơn riêng cho Đức Maria:

“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng

Vì Chúa đã thương đến phận hèn tớ nữ,

Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.

Thực vậy, Đức Maria đã nhận biết Thiên Chúa, đã yêu thương chính riêng mình. Ngài đã tín thác cho Mẹ một sứ mệnh cao cả. Đức Maria, trong niềm phấn khởi vô tận, đã khám phá thấy Thiên Chúa đã đổ đầy cho mình muôn ơn lành. Còn chúng ta, khi có ai tin tưởng trao cho mình nhiệm vụ lớn lao hay ban cho mình một quà tặng, chúng ta tự nhiên ca tụng họ hết lời: “Anh đã rất tốt nghĩ đến tôi, thật quá tốt, tôi còn lâu mới xứng đáng được như vậy”.

Đến lượt chúng ta, chúng ta có biết dừng những giây phút để khám phá ra trong đời mình những điều mà Thiên Chúa đã thương yêu thực hiện cho chính mình không? Khi khám phá được thế, chúng ta sẽ dễ dàng noi gương Đức Maria để cầu nguyện với con tim tự phát thành bài ca cảm tạ ngợi khen Chúa đã làm cho mình những điều lạ lùng.

Nhưng Đức Maria còn đi xa hơn nữa, trong lời cầu nguyện tạ ơn khi nhìn đến hàng loạt những cử chỉ Thiên Chúa đã tỏ ra cho dân mình trong suốt chiều dài lịch sử.

Lòng thương xót nhân ái của Chúa đã trải qua đời nọ tới đời kia cho những ai kính sợ Ngài … tức là những người đã sống liên đới với Chúa từ Áp-ra-ham xuyên suốt tới hết thảy dòng dõi ông, Thiên Chúa đã yêu thương những kẻ nghèo khó và những kẻ hèn mọn.

  1. N

 

Suy Niệm 5: Linh hồn tôi tạ ơn Chúa

Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, cha ông ta rất đề cao chữ hiếu và lòng biết ơn sâu xa đến với những người làm ơn cho mình. Không biết nói lời cám ơn, đồng nghĩa với việc bất hiếu.

Hôm nay, Tin Mừng cho thấy việc Đức Maria đã hân hoan dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu nơi Mẹ, lời tạ ơn ấy được gói trọn trong bài ca Magnificat.

Bài ca này, Mẹ Maria muốn diễn tả:

Thứ nhất, tâm tình ngợi khen, chúc tụng vì Thiên Chúa đã làm những việc cả thể nơi Mẹ là đã thương chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đấng mà muôn dân mong đợi.

Thứ hai, Mẹ nhận thấy Mẹ được muôn đời khen ngợi vì có phúc là bởi Mẹ có Chúa ở cùng, nên lòng Mẹ sung sướng, tràn ngập trong ân sủng.

Thứ ba, Mẹ đã ca ngợi sự khôn ngoan của Thiên Chúa khi ra tay dẹp tan lòng trí người kiêu căng, nhưng lại ra tay bênh đỡ kẻ nghèo hèn.

Cuối cùng, Mẹ đã ca ngợi sự trung thành của Thiên Chúa trong việc giữ lời hứa ban Đấng Cứu Độ. Nếu trong Vườn Địa Đàng, con người phạm tội và Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế đến, thì hôm nay, Đấng mà muôn dân mong đợi đã đến trong cung lòng Mẹ, Ngài sẽ cứu chuộc Israel và muôn dân…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Chúa vì Ngài cũng làm cho chúng ta biết bao kỳ công. Ơn vĩ đại nhất chính là ơn cứu độ. Hành vi cao thượng hơn cả đó chính là sự quảng đại, tha thứ của Thiên Chúa trên mỗi người.

Cất cao lời tạ ơn Chúa còn giúp cho chúng ta nhận ra mình yếu đuối và đang được Thiên Chúa thương yêu. Đồng thời cũng bày tỏ lòng sám hối, biết ơn với Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành.

Lạy Thiên Chúa tình yêu, chúng con xin hợp cùng Mẹ Maria cất cao lời ngợi khen Chúa vì Chúa đã làm cho chúng con biết bao điều kỳ diệu. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Đức Mẹ vui mừng dâng lời ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa vì Người đoái thương nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn của Mẹ. Chúa hạ bệ những kẻ cao ngạo và nâng cao kẻ khiêm nhường.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong phút cầu nguyện hôm nay, con muốn nối tiếp lời tạ ơn của Mẹ Maria để dâng lên Chúa lời ngợi khen cảm tạ của chính con. Nhìn vào bản thân con, đời sống con, những người thân yêu của con, con nhận thấy muôn vàn ân huệ Chúa đã tuôn đổ trên chúng con. Có những ơn con thấy được, nhưng cũng có rất nhiều ơn con không nhận ra. Dù con chưa nhận ra, nhưng con biết rằng toàn thân con, tất cả nhưng gì làm nên đời sống con, những gì con đang được hưởng, và lạy Chúa, ngay cả những gì con đang gánh chịu, tất cả đều do tình thương Chúa ban tặng cho con. Có gì con có mà không phải nhận lãnh đâu.

Lạy Chúa, con chỉ là tạo vật hèn mọn, đôi tay bất xứng lại luôn xòe rộng để hứng đón hồng ân. Con chẳng là gì cả, nhưng Chúa vẫn đoái nhìn đến con. Chúa vẫn cho con là quan trọng và ban tặng hồng ân. Con xin Chúa cho con mang lấy tâm tình của Mẹ Maria: càng được Chúa đoái nhìn và cho là quan trọng, thì Mẹ lại càng thấy mình chẳng là gì cả.

Phần con, con chẳng là gì, nhưng đôi khi con lại cho mình là quan trọng, con đưa mình lên cao quá, con tự mãn về mình. Con biết Chúa yêu kẻ khiêm nhường và chống lại kẻ kiêu ngạo. Xin Chúa cho con biết sống khiêm nhường để được Chúa nâng cao trong trái tim Chúa. Xin cho con sống tâm tình biết ơn để xứng đáng tiếp tục nhận lãnh tình thương của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại”.

 

Suy Niệm 7: Bài ca Magnificat

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Đây là bài ca Magnificat mà Giáo Hội vẫn thường hát và thích hát.

– Hoàn cảnh: Đức Maria vừa được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế mà muôn dân trông đợi hàng bao nhiêu thế kỷ nay. Người hay tin bà chị họ là Êlisabét cũng đã mang thai trong lúc tuổi già, nên Người vội vã lên đường đến thăm và giúp đỡ người chị họ ấy. Khi hai người gặp nhau, Bà Êlisabét chức mừng Đức Maria “Em có phúc hơn mọi người phụ nữ”; còn bà Êlisabét thì tràn ngập vui mừng “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi”; ngay cả bào thai trong bụng bà Êlisabét cũng vui mừng đến nỗi nhảy lên! Trong bầu khí tràn ngập vui mừng ấy, Đức Maria đã hát lên bài ca này để tán dương và tạ ơn Thiên Chúa vì đã thương đến những người hèn mọn khiêm nhu.

– Bối cảnh: Thực ra bài ca này không phải do Đức Mẹ đã một mình sáng tác. Nó là cô đọng cả một trào lưu suy tư của những người hèn mọn trải suốt lịch sử cứu độ. Từ xưa đến nay và mãi tới muôn đời, hễ ai hèn mọn nhưng biết khiêm tốn nương nhờ nơi Thiên Chúa thì Ngài sẽ bênh vực che chở. Còn những người “lớn” và “mạnh” mà kiêu căng ỷ sức mình hay cậy vào những thứ mình đang có thì Thiên Chúa sẽ hạ bệ. Đức Maria chỉ làm công việc đúc kết tất cả những cảm nghiệm ấy trong bài ca Magnificat này.

Suy gẫm

  1. “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”: không phải chỉ một mình Đức Mẹ có thể thốt lên lời ca này, không phải chỉ có các thánh mới có thể hát như Đức Mẹ, mà bất cứ ai cũng đều có thể như thế, miễn là phải chịu khó nhìn lại đời mình và nhận ra những ơn lành Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mình.

Hãy nhìn lại dòng đời của mình, xin Chúa và Đức Mẹ mở trí mở lòng để chúng ta nhận ra những ơn của Ngài, và chúng ta hãy cùng Đức Mẹ hát lên những lời tạ ơn tán tụng.

  1. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao những kẻ khiêm nhu”: Đây là một chân lý, chân lý đã được chứng minh qua hàng bao nhiêu ngàn năm. Thế thì tại sao tôi lại cứ mãi ngu dại sống kiêu căng tự phụ. Người kiêu căng tự phụ không những sẽ bị mọi người ghét bỏ, mà ngay cả chính Thiên Chúa cũng hạ bệ.
  2. Mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi. ” Đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính Máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong Người Con Một ấy chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng; không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà Cha, có biết bao người cùng tiến bước với ta.
  3. “Đức Maria nói: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1,46-47)

Thuở còn bé, khi tôi xoè bàn tay nhỏ xíu hứng những giọt nước mưa, những hạt nước chảy tràn ra ngoài. Tôi cảm thấy thiên nhiên thật kỳ diệu! Lớn lên, cũng với bàn tay ấy, tôi mở ra để đón nhận hồng ân Thiên Chúa, những ân huệ của Người và của Đời. Không biết vì tay tôi lớn hay vì ân huệ kia quá ít mà chưa bao gờ tôi cảm thấy đủ, để nói lên lời tạ ơn. Tôi đã không nhận ra những ân huệ đang tuôn đổ trên tôi mỗi ngày.

Đức Maria đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa và đón nhận với tâm tình ngợi khen, cảm tạ. Vì khiêm nhu nhỏ bé, Mẹ đã nhận ra ơn Người thật lớn lao.

Lạy Cha, xin ban cho con quả tim đơn sơ, luôn biết ngỡ ngàng trước tình yêu Cha dành cho con, để có thể cất lên lời tạ ơn Cha mỗi ngày trong đời con.

 

Suy Niệm 8: Bài ca Magnificat

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Nghe lời ca ngợi của bà Elizabeth, Đức Maria vô cùng xúc động vì ơn cao trọng Chúa ban, nên dâng lên Chúa  lời cảm tạ ngợi khen như sau:

Chúa là đấng toàn năng cao cả đã thương Mẹ là phận hèn tớ nữ, vì muôn đời Chúa hằng thương xót kẻ khiêm nhường, nghèo khó; còn hạng kiêu căng, giầu có ỷ thế thì Chúa lật đổ xuống. Chúa luôn luôn giữ đúng lời hứa. Người đã cứu dân Người như đã phán hứa cùng các tổ phụ xưa.

Mẹ Maria muốn nói với chúng ta: Thiên Chúa làm được mọi việc trọng đại lạ lùng cho chúng ta, với điều kiện chúng ta biết nhận mình hèn mọn, kém cỏi, thiếu sót tất cả; hoàn toàn trông cậy, tin tưởng, phó thác cho Chúa.

  1. Trong bài ca Magnificat (Lc 1,46-55), Đức Maria ca tụng kỳ công  mà Thiên Chúa đã thực hiện ở nơi mình, đó là mầu nhiệm Nhập Thể. Đồng thời, bài ca này tuyên dương Thiên Chúa là Đấng“Toàn Năng”, “Lân Tuất”. Người lưu tâm đến những kẻ khó nghèo khiêm tốn. Đức Maria không những chỉ cảm tạ Thiên Chúa vì những đặc ân dành cho bản thân mình, nhưng còn chúc tụng Người vì tấm lòng trung tín và quảng đại dành cho dân Israel và toàn thể nhân loại. Đối lại, bài ca này mở màn cho những lời chúc tụng mà Hội Thánh dâng lên Đức Maria, kẻ có phúc vì đã tin.
  2. Bài ca Magnificat là bài ca tụng những kỳ công lạ lùng của Chúa đã làm để cứu chuộc nhân loại. Những sự lạ lùng cùa thời Cựu Ước là: việc tạo dựng, phép lạ xuất hành, việc ban hành Lề luật. Nhưng nơi Đức Maria, Chúa đã làm những điều cao cả hơn: Ngài đã cho Đấng Cứu Thế sinh ra làm người.

Chúng ta cần nhậy cảm khám phá ra những kỳ công lạ lùng của Chúa nơi vũ trụ vạn vật, nơi xã hội và con người, nơi Hội thánh và những Kitô hữu, nơi chính bản thân mình để ca tụng quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

  1. Mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi”. Đó phải là bài ca trong từng giây phút cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu  của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong Người Con Một ấy chúng ta tìm được ánh sáng, chân lý, bình an và hy vọng; không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà Cha, có biết bao người tiến bước với ta (Mỗi ngày một tin vui).
  2. Chúng ta hãy đón nhận lời mời gọi của thánh Ambrôsiô khi giải thích bài ca Magnificat của Mẹ Maria, như sau:

 “Ước chi linh hồn của Mẹ Maria hiện diện trong mỗi tín hữu để ngợi khen Thiên Chúa; ước chi thần trí của Mẹ Maria hiện diện nơi mỗi tín hữu để nhảy mừng trong Thiên Chúa; trên bình diện thể xác, chỉ có một người là Mẹ của Chúa Kitô, nhưng trong bình diện đức tin, tất cả mọi linh hồn đều “sinh ra” Đấng Kitô. Thật vậy, mỗi tín hữu đón nhận trong tâm hồn Ngôi Lời Thiên Chúa… Linh hồn Mẹ Maria chúc tụng Thiên Chúa, và Thần trí Mẹ nhảy mừng trong Thiên Chúa, bởi vì,  được tận hiến hoàn toàn linh hồn và thần trí cho Chúa Cha và Chúa Con, Mẹ Maria, với hết tấm lòng yêu mến, tôn thờ một Vị Thiên Chúa Duy Nhất, nguồn mạch của mọi sự, tôn thờ một Thiên Chúa mà từ đó mọi sự được hiện hữu”.

  1. Chúng ta hãy học gương Mẹ Maria sống tâm tình biết ơn  và cảm tạ.

Biết ơn là bổn phận của thụ tạo đối với Đấng Tạo Hóa, biết ơn còn là sự chân nhận mình bé nhỏ không làm được gì, không có cái gì mà tất cả luôn luôn nhận ơn ban từ Chúa.  Nhưng biết ơn không chỉ dừng lại nơi nhận thức và công nhận điều mình được mà còn đòi hỏi sự đáp trả. Mẹ Maria là gương mẫu tuyệt hảo về tấm lòng biết ơn. Qua bài ca tuyệt diệu này, chúng ta thấy tâm hồn Mẹ đã tràn đầy lòng biết ơn sâu xa đối với Thiên Chúa. Chính vì lòng biết ơn đó đã làm Mẹ hướng tâm trí lên Thiên Chúa và trải rộng ra tới tha nhân.

  1. Truyện: Con người phải biết cám ơn.

Có hai người bộ hành đi trong một khu rừng rậm. Đó là hai ông cháu. Trời nóng và oi bức. Họ khát nước. Cuối cùng, ông cụ và đứa cháu cũng tìm đến một con suối nhỏ. Hai người cúi xuống uống nước. Uống xong ông cụ nói: “Cảm ơn dòng suối nhỏ nhé”.

Đứa cháu thấy vậy thì cười. Ông cụ liền hỏi: “Sao cháu lại cười”? Đứa cháu trả lời: “Có gì mà ông phải cám ơn dòng suối chứ? Nó có phải là người đâu? Nó không nghe được lời ông nói, nó không hiểu được lời cám ơn của ông”.

Ông cụ tỏ vẻ suy nghĩ. Dòng suối vẫn chảy róc rách. Chim vẫn hót vang trong cánh rừng. Sau một hồi lâu im lặng, ông bảo với đứa cháu: “Thế đấy, dòng suối có nghe thấy gì đâu. Nếu như có một con sói đến uống nước, có thể nó không biết ơn dòng suối. Nhưng chúng ta không phải là chó sói, mà là con người. Đừng quên điều đó cháu ạ. Cháu có biết con người nói hai tiếng cám ơn là để làm gì không”?

Đứa bé trầm ngâm. Nó chưa bao giờ suy nghĩ về điều đó. Cụ già chậm rải bảo cháu: “Cháu ơi, con người nói lên hai tiếng cám ơn chính là để không bao giờ trở thành chó sói”.

 

Suy Niệm 9: Noi gương Mẹ-biết cám ơn Chúa

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúng ta noi gương Đức Maria để biết cám ơn Chúa, vì Chúa hơn là vì những ơn ta được. Hãy tập cho mình có tâm tình cảm tạ tri ân mỗi khi chúng ta được thụ ơn.

Có hai người bộ hành đi trong một khu rừng rậm rạp. Đó là hai ông cháu. Trời nóng và oi bức. Họ khát nước. Cuối cùng, ông cụ và đứa cháu đến một con suối nhỏ. Hai người cúi xuống uống nước. Uống xong ông cụ nói:

 – Cám ơn dòng suối nhỏ nhé!

Đứa cháu thấy vậy thì cười. Ông cụ hỏi:  

– Sao cháu lại cười?

Đứa cháu trả lời:

 – Có gì mà ông phải cám ơn dòng suối? Nó có phải  là người đâu? Nó không nghe được lời ông nói, nó không hiểu được lời cám ơn của ông.

Ông cụ tỏ vẻ suy nghĩ. Giòng suối vẫn chảy róc rách. Chim vẫn hót vang trong rừng… Sau một hồi lâu im lặng, ông bảo: 

– Thế đấy, giòng suối có nghe thấy gì đâu. Nếu như có một con sói đến uống nước, có thể nó không biết cám ơn giòng suối. Nhưng chúng ta không phải là chó sói, mà là con người. Đừng quên điều đó cháu ạ…Cháu có biết con người nói hai tiếng cám ơn là để làm gì không?

Đứa bé trầm ngâm. Nó chưa bao giờ suy nghĩ về điều đó. Cụ già chậm rãi bảo cháu:

 – Cháu ơi, con người nói lên hai tiếng cám ơn chính là để không bao giờ trở thành… chó sói! 

  1. Bài ca Magnificat là những lời bộc phát tâm tình hân hoan hiếu thảo chan chứa của kẻ chịu ơn đối với Đấng ban ơn.

Mỗi lần đến với Chúa qua những việc đạo đức, chúng ta cũng cần phải nhận ra những ơn Chúa ban để khơi dậy niềm tin cậy mến và tâm tình hân hoan hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân lành và luôn yêu thương chúng ta.

Sách Gương Chúa Giêsu khuyên: “Hãy biết ơn vì những ơn nhỏ, bạn sẽ đáng được ơn lớn.

Dầu Chúa phạt, Chúa đánh, bạn cũng hãy tạ ơn Chúa; vì không có gì Chúa để xảy đến mà không cốt mưu phần rỗi cho ta. “

Bài Magnificat là bài ca tụng những kỳ công lạ lùng của Thiên Chúa đã làm để cứu chuộc nhân loại. Những sự lạ lùng của thời Cựu Ước như việc tạo dựng vũ trụ (St 5,9), phép lạ Xuất hành (Xh 3,24), việc ban hành lề luật. Đó là những kỳ công Chúa đã làm vv… (Tv 119,18), nhưng ở nơi Đức Maria, Thiên Chúa còn làm những điều cao cả hơn nữa: Người đã cho Đấng Cứu Thế sinh ra làm người.

Chúng ta cần phải biết nhạy cảm để khám phá ra những kỳ công lạ lùng của Thiên Chúa nơi vũ trụ vạn vật, nơi xã hội và con người, nơi Hội Thánh, nơi những Kitô hữu, nơi chính bản thân mình để ca tụng quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Bài ca Magnificat còn là bài ca, ca tụng sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã thương yêu những kẻ nghèo hèn khiêm nhu. Chính vì  khó nghèo khiêm nhu mà người ta biết đặt tất cả lòng tín thác vào một mình Thiên Chúa và tùy thuộc Người. Chính vì thế mà lòng đạo đức được nảy nở. Sau này trong bài giảng về những mối phúc thật, Chúa Giêsu đã công khai chúc phúc cho những hạng người đó. Như vậy là từ đây những kẻ nghèo khó, dốt nát, hèn yếu trên đời này không còn là những kẻ khốn nạn phải thất vọng, từ đây họ  được Thiên Chúa yêu thương, nâng đỡ, bênh vực và che chở.

Mục sư Thomas Collins kể lại rằng: Một gia đình nơi ông phục vụ có một thiếu phụ sống rất bi quan và luôn cảm thấy rằng, Chúa đã bỏ mình. Một hôm, mục sư Collins gặp thiếu phụ đang bế con, ông bảo bà: 

– Bà hãy buông đứa bé xuống đất đi?

Thiếu phụ nhìn mục sư ngạc nhiên không hiểu tại sao ông lại nói như thế?   

Mục sư lại bảo:

–  Nếu có ai trả cho bà một số tiền lớn để buông đứa bé cho cháu rơi xuống sàn nhà, bà có chịu làm không?

Hơi tức giận, thiếu phụ nói:

– Dù cho người ta có cho tôi nhiều tiền như sao trên trời, tôi cũng không đời nào buông con tôi cho nó rơi xuống đất và phải chịu đau đớn như vậy.

Lúc ấy, mục sư ôn tồn bảo:

–  Bà có nghĩ là tình thương của bà đối với đứa trẻ này lớn hơn tình thương của Thiên Chúa đối với con cái của Người chăng?

Nghe vậy thiếu phụ liền bừng tỉnh.

Hãy noi gương Đức Mẹ biết tin tưởng phó thác đời mình cho tình thương của Thiên Chúa chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng.

Lạy Chúa Giêsu,

có những niềm vui

Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,

có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.

Xin dạy chúng con biết tươi cười,

cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.

Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,

dù không phải tất cả đều màu hồng.

Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,

nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.

Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,

vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương

và được sai đi thông truyền tình thương ấy.

Amen.

 

 

Ngày 23 tháng 12

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 57-66

Khi đến ngày sinh, bà Isave hạ sinh một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà.

Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan”.

Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó”. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan”. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa.

Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”.

 

Suy Niệm 1: Tên cháu là Gioan

(Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Vào trước lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu,

Giáo Hội cho chúng ta suy niệm về sự chào đời của Gioan Tẩy giả.

Có vẻ bà Êlisabét là người vui hơn cả.

Bà đã mang nỗi hổ nhục từ bao năm nơi người đời (Lc 1, 25),

bây giờ bà mới thấy rõ lòng thương xót bao la của Chúa (c. 58).

Niềm vui của bà được tăng lên nhờ láng giềng, thân thích đến thăm.

Thiên Chúa bắt bà chờ quá lâu, đến mức bà chẳng còn hy vọng.

Rồi bất ngờ bà lại được tất cả những điều mình mong ước.

Có một đứa con trai lúc đã cao niên, điều đó kể như một phép lạ.

Khi bà khăng khăng đòi đặt tên cho đứa con là Gioan (c. 60),

nhiều người ngăn cản, vì không ai trong dòng tộc mang tên này,

vì cứ sự thường, con phải được đặt tên theo tên cha.

Nhưng quyết định cuối cùng nằm trong tay ông Dacaria.

Ông mới là người có quyền đặt tên cho con trai ông.

Vì ông câm và điếc, nên ông cần một cái bảng nhỏ để ghi tên con.

”Tên cháu là Gioan” (c. 63).

Tên này trùng với tên vợ ông đề nghị.

Chính lúc Dacaria vâng lời sứ thần đặt tên cho con ông là Gioan,

thì lập tức miệng ông được mở ra và lưỡi ông được tháo cởi (c. 64).

Giờ đây ông có thể chúc tụng Thiên Chúa sau hơn chín tháng bị câm.

Những người thân thích, xóm giềng đi từ ngỡ ngàng đến kinh sợ.

Quả thực có nhiều điều lạ lùng vây quanh sự chào đời của cậu bé.

Người ta đồn thổi tin này khắp miền núi Giuđê.

”Đứa trẻ này rồi sẽ ra sao?” (c. 66).

Làm sao biết tương lai của đứa trẻ mới được tám ngày tuổi.

Nhưng qua những biến cố lạ lùng xảy ra:

ông bà sinh con trong lúc tuổi già, ông bị câm rồi lại được khỏi,

ông bà cùng nhất trí về tên của đứa con dù không trao đổi trước,

người ta nhận ra bàn tay Chúa ở với em (c. 66).

Em đúng là Gioan, tiếng Híp-ri nghĩa là Thiên-Chúa-tặng-ban,

bởi em là quà tặng cho gia đình, dân tộc và cho cả nhân loại.

Cậu bé Gioan đã từ từ lớn lên và theo một lối sống khác thường.

Cậu không lập gia đình và sống khắc khổ nơi hoang địa (c. 80).

Lễ Giáng Sinh là lễ của trẻ thơ, của niềm hy vọng.

Mỗi trẻ thơ chào đời đều là một dấu hiệu của tình thương Chúa.

Ngay một cuộc sinh nở bình thường cũng là một điều lạ lùng.

Mỗi trẻ thơ được cha mẹ đặt tên,

nhưng tên của em đã được khắc ghi từ lâu trong trái tim Thiên Chúa.

Em nào cũng là một quà tặng cho thế giới, em nào cũng là một Gioan.

Mỗi em đều có chỗ đứng trong chương trình của Thiên Chúa.

Nhiệm vụ của nhà giáo dục là giúp em tìm thấy ơn gọi riêng của mình,

và trưởng thành nhờ sống trọn vẹn ơn gọi đó.

Xin được chung vui với gia đình Dacaria và mọi gia đình trên địa cầu.

 

Lạy Chúa,

con được no nê mà vẫn thiếu ăn,

vì bên con còn có người đói lả.

Con uống nước mát mà họng vẫn khô ran,

vì bên con còn có người đang khát.

Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi,

vì bên con còn có người phiền muộn.

Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm,

vì bên con còn có người mù tối.

Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi,

vì bên con còn có người trần trụi.

Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức,

vì bên con còn có bao người thiếu thốn. Amen. (Myrtle Householder)

 

Suy Niệm 2: Ê-li-a đến chấn chỉnh

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con dân tội lỗi. Phản bội Thiên Chúa. Lìa xa đường lối của cha ông. Chúa đã sai Ê-li-a đến chấn chỉnh “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông”. Ê-li-a đã đến như lửa. Cuộc đời ngài bừng bừng lửa sốt mến. Lời ngài như lửa. Làm cho xứ sở bị hạn hán. Ngài dùng lửa thanh luyện tâm hồn Ít-ra-en. Chống lại vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben. Giết chết hơn 400 sư sãi của Ba-an. Làm cho dân trở về với Chúa. Theo đường lối của cha ông. Tiên tri Ma-la-khi tiên báo sau cùng Chúa sẽ đến. Nhưng trước đó, Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa. Lời tiên báo ứng nghiệm vào Gio-an Tẩy giả. Chính Chúa Giê-su xác nhận Gio-an là Ê-li-a mới. Đến để mở đường cho Đấng Cứu Thế.

Ông mở đường bằng nghiêm chỉnh thực thi Lời Chúa. Cha mẹ ông đã làm gương về điều đó. Chúa truyền đặt tên ông là Gio-an. Nghĩa là Thiên Chúa thi ân. Bà Ê-li-sa-bét và ông Gia-ca-ri-a tuyệt đối vâng theo lệnh truyền. Đặt tên là xác nhận quyền làm cha mẹ. Khi đặt tên theo lệnh Thiên Chúa, ông bà xác nhận Gio-an là do Thiên Chúa ban tặng. Ngay khi đó Gia-ca-ri-a, trước đó bị câm, mở miệng nói được. Chỉ khi nói theo ý Chúa lời mới có ý nghĩa.

Chính Gio-an cũng nghiêm túc tuân thủ lời Chúa dạy. Nên ông xa lánh phồn hoa. Vào ở trong sa mạc. Ăn uống đạm bạc. Chỉ có châu chấu và mật ong rừng. Y phục đơn sơ. Một mảnh da thú đủ để che thân.

Ông chỉ nói lời của Chúa. Nên mạnh mẽ đe phạt những người đi vào đường tội lỗi. Kết án cả vua Hê-rô-đê. Vì đã chiếm vợ của anh vua. Ông đúng là Ê-li-a mới. Chấn chỉnh mọi sự. Dọn đường cho Chúa Cứu Thế ngự đến.

Bàn tay Chúa phù hộ em”. Nhận biết điều đó nên dân chúng tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Không ai biết được đường đi của Chúa. Không ai biết gió từ đâu tới và sẽ đi đâu. Gio-an luôn ở trong bàn tay Chúa. Luôn luôn nói Lời Chúa. Ông trở thành loa phát thanh Lời Chúa. Ông là “tiếng kêu trong hoang địa”. Ông là người chấn chỉnh mọi sự. Sửa đường cho ngay để đón Chúa Cứu Thế ngự đến.

Xin cho con noi gương thánh Gio-an. Chấn chỉnh chính mình. Rồi thế giới sẽ trật tự đón Chúa đến.

 

Suy Niệm 3: Sinh Nhật Của Gioan Tẩy Giả

Vào thời quân chủ xưa, khi các vị vua muốn viếng thăm một nơi nào ngoài kinh đô, thì đầu tiên các sứ giả của triều đình được gửi đến đó để chuẩn bị nơi chỗ cho xứng đáng, đồng thời dạy dân chúng biết cách thức và nghi lễ khi đón tiếp vua. Vì có những nghi thức thật quái lạ mà bình thường con người ít khi nghĩ tới như: để tỏ lòng kính trọng khi vua đi ngang qua thì tất cả các thần dân phải sấp mình xuống đất không được nhìn lên dù chỉ là một cái liếc mắt, nếu bị gặp đều phải lãnh phạt, hình phạt có những lúc tới mức độ phải tử hình, do đó mà không thể thiếu việc các sứ giả được sai đi.

Trong bài đọc của phần Phụng Vụ hôm nay, ngôn sứ Malakia đã tiên báo về một sứ giả có nhiệm vụ dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm Ngài. Sứ giả ấy là Elia: “Này đây, Ta sai tiên tri Elia đến cùng các ngươi trước ngày trọng đại kinh khủng của Ta, người sẽ hoán cải lòng cha ông về lại với con cháu và lòng con cháu trở về cùng cha ông”. Về sau Chúa Giêsu sẽ tỏ lộ cho các môn đệ Ngài biết: “Elia chính là Gioan Tẩy Giả”, và trong bài Tin Mừng thánh sử Luca đã nói gì với sứ giả Gioan này?

Chẳng khác gì người Việt Nam chúng ta, người Do Thái cũng sống tình bà con láng giềng rất thắm thiết. Nghe Elizabeth sinh hạ con trai, bà con láng giềng liền đến giúp đỡ và chia sẻ niềm vui cùng với gia đình Zacharia. Ðến ngày thứ tám, lúc làm lễ cắt bì và đặt tên cho con trẻ cũng có sự hiện diện của họ. Họ muốn lấy tên Zacharia mà đặt tên cho con trẻ chứ không phải là Gioan. Gioan hay Giokhanan tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”. Vì sự chào đời của Gioan là một biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa, cách riêng cho Zacharia và Elizabeth, vì Thiên Chúa đã cất đi sự tủi nhục bấy lâu đè nặng trên người đàn bà son sẻ và cách chung cho toàn thể gia đình nhân loại. Vì hôm nay đã xuất hiện vị sứ giả để dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm dân Ngài, một niềm vui mà đã mấy ngàn năm gia đình nhân loại ngóng chờ. Chắc chắn những người hiện diện đều biết chữ Gioan hay Giokhanan có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.

Tuy nhiên, họ lại không hiểu được lòng thương xót của Thiên Chúa nên đã từ chối không chịu nhận tên Gioan cho con trẻ. Họ không hiểu vì tâm trí của họ đang bị ràng buộc bởi những suy nghĩ của trần thế, quá lệ thuộc vào các tập quán cổ xưa. Vì thế, họ không còn cảm nhận được giá trị của lòng thương xót Thiên Chúa ban xuống cho con trẻ và gia đình: “Không ai trong họ hàng bà có tên này”.

Con người cứ nhắm mắt đưa chân theo những vết xưa cũ ấy nên họ chẳng nhận ra được những thực tại trước mắt, không biểu lộ được ý nghĩa của công việc họ đang tham dự. Ðến chung vui vì Thiên Chúa đã xót thương, thế mà họ lại không chịu tuyên xưng lòng thương xót của Ngài.

Với Zacharia cũng thế, lý luận mang tính cách trần thế đã khiến ông không tin nhận lòng thương xót của Thiên Chúa đang được ban xuống cho gia đình ông. Vì thế mà ông đã phải lãnh nhận hình phạt là bị câm. Chỉ khi ông đã quyết định đặt tên cho con trẻ là Gioan, tức là khi ông tuyên xưng lòng thương xót của Thiên Chúa thì lúc đó ông mới được tha khỏi hình phạt, và cũng là lúc ông chúc tụng ngợi khen lòng thương xót của Thiên Chúa.

Thật thế, trong cuộc đời có lẽ không có gì làm buồn lòng con người cho bằng đi làm ơn mà chỉ được lãnh nhận thái độ lãnh đạm, thờ ơ và cũng chẳng có gì đáng trách cho bằng thái độ vô ơn. Nếu trong dân gian có những câu nói diễn tả lòng dạ ác độc như cầm thú thì về phương diện biết ơn, thú vật đôi lúc lại được xếp hạng trên con người: “Cứu vật vật trả ơn. Cứu nhân nhân trả oán”.

Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng để chuẩn bị mừng kính mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, một mầu nhiệm diễn tả lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại. Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta kiểm điểm lại tâm tình biết ơn của mình. Có thể chúng ta không cố tình quên ơn nhưng trong thực tế chúng ta lại sống như những người vô ơn. Tuy nhiên, như những người láng giềng của gia đình Zacharia, thì qua cách suy nghĩ trần tục, các thành kiến hẹp hòi, các thói quen ích kỷ đã vây phủ lấy chúng ta, làm cho chúng ta bị mờ tối nên chẳng nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa hằng bao bọc chúng ta cũng như tình thương của người anh em đang tặng ban cho chúng ta. Nhưng khi nhận ra lòng thương xót ấy thì chúng ta cũng như Zacharia là thốt lên lời chúc tụng và ngợi khen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Thừa hưởng thánh ý Chúa

Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em, nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. (Lc. 1, 59-60)

Phụng vụ hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chứng nhân khác theo hình ảnh Đức Maria, ông đã nhận được tin Thiên Chúa đoái thương, nhưng vì cứng lòng tin, ông đã bị câm.

Giờ đây ông tin lời thiên thần đã báo cho ông khi trước, dù phải trái với tục truyền về cách đặt tên cho con, Gia-ca-ri-a đã biết phải vâng theo thánh ý Chúa để đặt tên cho con là Gioan và chúc tụng Chúa. Trước sự kiện lạ đó, láng giềng bà con đã nhận ra bàn tay Thiên Chúa phù hộ.

Thường xuyên chúng ta cũng được mời gọi đón nhận thánh ý Chúa nhờ đức tin, mà chẳng biết tại sao xảy ra như vậy. Thí dụ: vợ được bài học qua cái chết của chồng hay tu sĩ khám phá ra một ơn gọi đặc biệt vượt quá sức mình. Có nhiều hoàn cảnh giúp chúng ta sống đức tin để trở nên người thừa hưởng thánh ý Thiên Chúa. Chính lúc đó người ta cảm thấy được can đảm cần có, được bình an nội tâm và nhận biết phải sống với Chúa bằng tình bạn chí thiết.

Đang sống giữa những tiếng ồn ào náo nhiệt chuẩn bị Noel, chúng ta có biết khám phá ra ý nghĩa của ngày đại lễ này không? Chúng ta có biết sống nhiệt tâm theo thánh ý Chúa hằng ngày để đón mừng Đấng Cứu thế đến không?

Dù những nghi nan như ông Gia-ca-ri-a, chúng ta biết chấp nhận ý Chúa trong đức tin, chúng ta sẽ được thừa hưởng ơn phúc của lời Chúa hứa ban như Chúa đã ban cho ông Gia-ca-ri-a.

  1. N

 

Suy Niệm 5: Trẻ nhỏ này rồi sẽ ra sao?

Sau những ngày tháng cưu mang hài nhi, bà Êlisabét đã tới ngày sinh con. Gioan đã chào đời trong niềm vui mừng của mọi người. Niềm vui mà mọi người dành cho gia đình ông Giacaria không chỉ thuần túy là có một người con mới chào đời trong lúc hai ông bà tuổi đời đã xế bóng, hay sự xuất hiện của Gioan trong gia đình này còn là rửa đi nỗi nhục son sẻ cho mẹ ngài. Nhưng niềm vui sâu xa ở chỗ trẻ Gioan này sẽ trở thành vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Cứu Thế mà muôn dân ngóng đợi.

Sự xuất hiện của Gioan đã làm cho dân chúng phải ngỡ ngàng khi mọi người định lấy tên cha là Giacaria mà đặt tên cho cậu con quý tử. Tuy nhiên bà mẹ không bằng lòng và yêu cầu hỏi Giacaria xem ý ông thế nào. Ông đã làm hiệu lấy cho mình tấm bảng và ông ghi tên con trẻ sẽ là Gioan. Mọi người lại ngỡ ngàng nữa là vì trong họ hàng không có ai cùng tên như vậy. Điều lạ lùng là ông Giacaria vừa câm lại vừa điếc, thế mà ông đã không trùng ý với mọi người. Sự kiện này cho thấy Giacaria đã làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa qua sứ thần lúc truyền tin cho ông.

Ngay lập tức, miệng lưỡi ông đã bị câm điếc từ lâu, nay được mở ra và ông lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, mọi người kinh ngạc và thắc mắc không biết rồi đây con trẻ này sẽ ra thế nào vì bé luôn có bàn tay Thiên Chúa phù trợ. Tin đồn đó được lan ra các vùng phụ cận.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta vững tin vào Chúa và tin tưởng nơi Ngài, vì Ngài làm được mọi chuyện, miễn sao chúng ta tin tưởng và cậy trông nơi Ngài cách vững vàng. Mặt khác, khi chúng ta cảm nhận được tình thương của Chúa trên cuộc đời chúng ta, mỗi người hãy cất cao lời tạ ơn Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con vững tin vào Chúa mọi nơi mọi lúc, nhất là những lúc thử thách gian truân. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Bàn tay Thiên Chúa phù hộ

Sau những tháng ngày tối tăm trong lòng mẹ, Gioan tiền hô đã ra chào đời giữa niềm vui chào đón của gia đình, gia tộc và làng xóm. Có lẽ niềm vui của họ đầu tiên chỉ vỏn vẹn trong việc được một cậu con trai nối dõi tông đường, được một gậy chống cho tuổi già. Nhưng Thiên Chúa đã ban hơn lòng mong tưởng là không những được thoát khỏi điều sỉ nhục, không còn son sẻ mà con của họ trở thành “vị tiền hô của Đấng tối cao”.

Họ hàng bà con đều tới chúc mừng, không những vì Giacaria là tư tế mà còn vì cậu con sinh ra trong lúc ông bà tuổi đời muộn mằn, chắc phải có một nhiệm vụ gì hơn là nhiệm vụ đứa con của một gia đình (c. 14). Và sau khi sinh ra được tám ngày, theo luật Do thái là làm lễ cắt bì cho con trẻ (Stk 17,12. 21,4; Lev 12,3). Theo luật Maisen thì tám ngày sau khi sinh, dù là vào ngày Sabat (Gio 7,53).

Thật ra nghi lễ cắt bì không phải là việc riêng của hàng tư tế lúc ấy đâu, có thể do bất cứ một người Do thái nào có khả năng hay cả các bà cũng được phép nữa (1Xac 1,63. 2 Mac 6,10), Cũng có thể làm tại tư gia. Tuy nhiên tại mỗi thành phố cũng có một nhân viên về việc cắt bì mà người ta gọi là Mohel, là một người kinh nghiệm và có khả năng. Trường hợp con ông bà Giacaria làm tại nhà riêng. Và thường là vào giây phút lễ nghi này, người ta đặt cho con trẻ một tên gọi (Stk 17,5-15). Việc cắt bì đây là dấu chỉ làm hòa với Thiên Chúa và thuộc về dân tộc Do thái.

Khi cắt bì cho người con thì họ định lấy tên cha là Giacaria mà đặt tên cho cậu con (c. 59) nhưng mẹ đã không bằng lòng, và đó cũng là ngược lại với phong tục Do thái vì phải tránh húy cha mẹ. Còn bình thường ra người cha chọn và đặt tên cho người con. Có thể vì Giacaria cha đã già nên họ muốn ghi nhớ một hoàn cảnh đặc biệt, cho nên muốn lưu niên tên Giacaria chăng. Nhưng bà mẹ Isave đã can thiệp ngay mà bảo gọi con trẻ là “Gioan” mà không chờ lệnh người cha. Làm thế đúng như lời thiên thần truyền (Lc 1,13). Các giáo phụ Theophil, Euthymiô giả thuyết rằng bà viết được tên đó là bởi ơn Chúa Thánh Thần. Cũng có thể là Giacaria dùng cách viết chẳng hạn mà báo trước cho bà ta rồi.

Nhưng khi thấy vậy, mọi người ngạc nhiên vì tên Gioan không có ai giống như thế trong gia tộc (c. 61). Vì thế người ta đã làm hiệu cho Giacaria xem ý ông muốn ra sao. Giacaria lúc ấy vừa bị câm lại vừa có thể điếc (c. 62). Có người bảo ông bị câm điếc như thế là để khỏi phải cãi nhau xem phải đặt tên nào. Nhưng khi ông xin tấm bảng để viết thì ông viết tên “GIOAN”. Vừa già cả lại vừa câm điếc mà viết đúng tên Gioan nên ai nấy đều chấp thuận vì hai ông bà muốn như thế!

Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông được mở ra nói và nghe được như thường (c. 64), đúgnnhhư lời thei thần truyền (1,20). Ngay lúc ấy, ông dâng lời tạ ơn Chúa. Mọi người lấy làm sợ hãi (c. 65). Tự nghĩ không biết rồi mai đây bé trai này sẽ làm trò trống gì? Thế mà tin đồn về Gioan từ đây lan ra cắp vùng Giudê.

Đó là một câu chuyện mà Thiên Chúa quan phòng đã sửa soạn cho Gioan tiền hô, và là bài học cho mỗi người chúng ta nữa. Thiên Chúa đã tiền định cho đời chúng ta rồi. Vậy đừng tự ti mặc cảm cho rằng có thế giá gì, mình sinh lầm thế kỷ:

“Kiếp sau xin chớ làm người,

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.

Những người ấy hãy nhìn lên, hãy nhận ra địa vị thật của mình. Là con cái Chúa, Chúa không sinh ra để bỏ chợ đâu. Hãy tin vào bàn tay Chúa quan phòng cho đời mỗi người. Có thể chúng ta thấy ở đời mình chẳng có gì cả. Nhưng nên nhớ địa vị vĩnh cửu không hệ tại ở đời này có tiền rừng bạc biển, có sức khỏe như Samson… chú Vọi!!! Giá trị nằm trong tay Thiên Chúa, Thiên Chúa đang dành phần tốt nhất cho từng đứa con trung thành, trung tín hôm nay.

 

Suy niệm 7: Sinh nhật của Gioan Tẩy giả

Trong phụng vụ có ba lễ sinh nhật: sinh nhật Chúa Giêsu, sinh nhật của Đức Maria và sinh nhật của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan trong khi Thiên Chúa mở đầu thời kỳ cứu chuộc được Tân ước gọi là thời sau hết. Ngài có một tiểu sử khá rõ ràng và được Phúc âm nói đến như một vị tiền hô của Chúa Giêsu, một hình ảnh của Đức Kitô.

Vị tiền hô: Đọc lại tiểu sử của Gioan, chúng ta thấy ngài được sinh ra cho một sứ mệnh: con sẽ là tiên tri của Đấng Tối Cao. Một vị tiên tri can đảm không sợ quan quyền cũng như vua chúa, được mọi người kính nể, đến nỗi người ta lầm tưởng ngài là Đấng Cứu Thế. Tuy can đảm, nhưng ngài rất khiêm tốn: Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dâyï giầy cho Người. Và người đã chết một cách anh hùng vì sứ mệnh của mình.

Hình ảnh Chúa Kitô: như Chúa Giêsu sau nầy, ngài được sinh ra một cách lạ lùng và được thiên thần báo trước như Chúa Giêsu; ngài có một cuộc sống khắc khổ như Chúa Giêsu: ăn châu chấu với mật ong rừng; ngài rao giảng thẳng thắn không vì nể ai; ngài bị bắt và bị giết một cách nhục nhã như Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả rõ ràng là hình ảnh của Chúa Giêsu sau nầy

Người Kitô hữu chúng ta học được những gì nơi Gioan Tẩy giả?

Trước hết là phải sống đức tin, làm chứng cho Chúa cách can đảm bằng cuộc sống. Làm Kitô hữu hôm nay thật không đễ dàng gì. Khủng hoảng gia đình ngày càng tăng; cuộc sống càng ngày càng phức tạp; đạo đức suy dồi; giáo dục con cái trở thành một vấn nạn; xã hội đầy hận thù chia rẽ; đời sống đức tin và đạo đức đang giảm sút cách đáng kể; tất cả đều thay đổi một cách quá mau lẹ.

Trước những khó khăn của cuộc sống như thế, nhiều người Kitô hữu cảm thấy chới với, hoang mang. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Hãy quay về với với những lời rao giảng cũng như gương sống của Gioan Tẩy Giả. Hãy bắt đầu nơi chính mình: quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng. Hãy trở lại với một cuộc sống gương mẫu cho con cái mình cũng như cho xã hội hôm nay. Can đảm sửa mình, can đảm sống gương mẫu, đó là lời mời gọi của Thánh Gioan Tẩy giả hôm nay.

 

Suy Niệm 8: Thiên Chúa can thiệp dẫn đưa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Mỗi người một cách, cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng như mỗi người chúng ta, từ lúc thụ thai tới khi sinh ra và qua mọi chặng đường đời, tất cả đều do bàn tay Thiên Chúa can thiệp dẫn đưa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày Thánh Gioan Tẩy Giả chào đời, mọi người vui mừng ngợi khen cảm tạ Chúa. Sự sinh hạ lạ lùng làm cho mọi người nhận ra bàn tay Chúa phù hộ trẻ này. Con tin rằng cuộc đời mỗi người chúng con, dù trong một hoàn cảnh đặc biệt hay bình thường, cũng đều do bàn tay Chúa can thiệp, do Chúa chuẩn bị và dẫn đưa. Bàn tay Chúa thường nhẹ nhàng, êm ái, âm thầm, con thường không nhận biết, nhưng thực ra, con đang bước theo bàn tay Chúa mở đường. Có những lúc con muốn trốn xa Chúa, nhưng đi đâu cho thoát khỏi bàn tay yêu thương của Chúa. Lạy Chúa, con chỉ biết dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn trìu mến.

Ngày con chào đời, cha mẹ, anh em họ hàng vui mừng vì con. Chắc chắn họ đã để tâm suy nghĩ và tự hỏi: đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây? Họ chờ đợi con sẽ lớn lên và trở thành niềm vui, niềm hy vọng và vinh dự cho họ. Nhưng rồi, lạy Chúa, đời con đã làm cho họ đau khổ, buồn sầu và thất vọng. Bàn tay Chúa vẫn ở với con, nhưng con đã vùng vẫy trốn chạy, con xin Chúa dẫn con trở về làm lại cuộc đời.

Hôm nay, con cầu xin Chúa đặc biệt cho các thiếu nhi bị bỏ rơi. Xin bàn tay Chúa dẫn đưa các em gặp được những tấm lòng quảng đại đầy yêu thương. Con cũng cầu xin Chúa cho nhân loại biết tôn trọng sự sống từ trong bào thai, vì các thai nhi cũng là con người do bàn tay Chúa tác tạo nên. Xin Chúa thương xót chúng con. Amen.

Ghi nhớ: “Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả”.

 

Suy Niệm 9: Chúa thương

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

  1. Trọng tâm của bài tường thuật là việc đặt tên cho con trẻ, một cái tên đặc biệt:

a/ Không theo tên người cha, việc lấy tên cha đặt cho con không phải là tục lệ, nhưng cũng có xảy ra khi người cha đã cao tuổi;

b/ Lấy một cái tên hoàn toàn không có trong họ hàng;

c/ Cả người cha dù câm và người mẹ đều nhất trí với tên này;

d/ Đó là tên chính Thiên Chúa đã chọn (Lc 1,13).

  1. Tên Gioan nghĩa là “Chúa thương”. “Chúa thương” cũng là một ý mà Luca muốn nhấn mạnh trong bài tường thuật này. Bởi thế trong phần nhập đề ngài đã viết: “Nghe biết Chúa quá thương bà như vậy… ” (c. 57). Việc Gioan sinh ra là dấu Thiên Chúa tỏ tình thương: tình thương đối với dân Ngài, đối với vợ chồng Dacaria và đối với bản thân Gioan.
  2. Tất cả những chi tiết đặc biệt ấy cho thấy Gioan là một người đặc biệt do Thiên Chúa chọn để trao cho một sứ mạng đặc biệt.

Suy gẫm

  1. Con người không phải là một con số vô danh giữa đám đông loài người. Khi sinh ra, mỗi người đều được Chúa trao cho một sứ mạng, một ơn gọi, một ý nghĩa cho cuộc đời người đó sẽ sống. Ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa cuộc đời của Gioan là làm tiền hô cho Chúa Cứu thế. Còn ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa đời tôi là gì?
  2. Mặc dù có thể tự mình đến với loài người, nhưng Chúa muốn có người làm tiền hô. Ngày xưa Thiên Chúa dùng Gioan làm tiền hô. Ngày nay Ngài cũng muốn chúng ta làm tiền hô, để Chúa Giêsu đến với tâm hồn từng người trong thế giới hôm nay.
  3. Mỗi người chúng ta đều có thể mang tên Gioan nghĩa là “Chúa thương”, bởi vì mỗi người đều là một tác phẩm của tình thương Chúa. Kinh “Cám ơn” chúng ta thường đọc nhắc ta nhớ đến tình thương đó: Chúa đã chẳng để chúng ta là “không đời đời” mà đã sinh dựng nên ta; lại cho ta sinh ra làm người chứ không là gỗ đá hay súc vật; lại cho ta được làm Kitô hữu; có người còn được làm tu sĩ hay linh mục của Ngài…
  4. “Ngay lúc ấy, miệng Dacaria lại mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 1,64)

Tôi có thói quen: trước khi làm một điều gì tôi luôn cầu nguyện. Tôi cầu xin Chúa cho mình vượt qua mọi chướng ngại và không bao giờ biết đến thất bại. Thành công, tôi hớn hở vui mừng và không ngớt lời tạ ơn Chúa. Lúc ấy, tôi rất hãnh diện với bạn bè. Nhưng khi thất bại, tôi cảm thấy buồn và cô đơn, vì nghĩ rằng Chúa bỏ rơi tôi, và bạn bè cũng xa lánh tôi. Tôi oán trách Chúa và mọi người. Sau này tôi mới hiểu ra đó là con đường tốt Chúa dẫn tôi đi ra khỏi những ảo tưởng về chính mình, về Thiên Chúa cũng như về mọi người.

Lạy Chúa, xin chỉ cho con biết đường lối của Chúa và cho con theo đúng đường lối Người truyền dạy, để không ngừng chúc tụng Chúa Đấng Cứu Chuộc con.

 

Suy Niệm 10: Sinh nhật Gioan Tẩy giả

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Maria vừa mới về được mấy bữa, Elizabeth tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh được một con trai, bà con lối xóm nghe tin thì xúm lại chúc mừng. Và khi con trẻ đã được tám ngày thì làm phép cắt bì và định lấy tên cha là Giacaria mà đặt cho nó, nhưng bà E;izabeth bảo đặt tên nó là “Gioan”. Bà con không ai đồng ý nên hỏi ông Giacaria xem đặt tên nó là gì. Ông xin một tấm bảng và viết “Tên nó là Gioan”. Mọi người đều ngạc nhiên và nghĩ thầm rằng: con trẻ này là hồng ân Chúa ban và chắc nó sẽ làm được nhiều việc lạ. Thiên Chúa giữ đúng lời hứa với ông Giacaria. Ông cũng vâng lời Chúa dạy mà đặt tên Gioan cho con.
  2. Tên Gioan có nghĩa là “Chúa thương”, là một tên gọi thật lạ, vì trong họ hàng ông bà Giacaria  không ai có tên đó (vì theo phong tục phải đặt tên cha hay ít ra một người trong họ). Tên Gioan được chính Thiên Chúa đặt qua lời Sứ thần khi truyền tin cho ông Giacaria khi ông thực hiện sứ mạng tư tế trong Đền thánh (Lc 1,13).

Cái tên Gioan khiến mọi người kinh ngạc, vì khi ông Giacaria viết lên tấm bảng: đặt tên Gioan cho con trẻ, thì miệng lưỡi ông được mở ra, ông hết câm, nói được, và hơn nữa, ông cất tiếng ca tụng Thiên Chúa (Lc 167-79).

Vì thế, ở đây Luca có ý nhấn mạnh: biến cố cắt bì, đặt tên để trình bầy về thân thế và sứ vụ của Gioan, một người được Thiên Chúa thương và tuyển chọn cách kỳ lạ để dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

  1. Gioan là tên không có trong gia tộc ông bà Giacaria, mà là tên Thiên Chúa đã đặt cho, ông bà đã vâng theo ý Chúa mà đặt tên cho con trẻ như vậy.

Mỗi người chúng ta sinh ra đều được cha mẹ đặt tên để phân biệt với người khác, nhưng qua bí tích Rửa tội, chúng ta được Chúa đặt tên là “Kitô hữu”, con cái của Người. Điều này gợi lên cho chúng ta niềm hạnh phúc vì được làm con cái Chúa và ý thức mình thuộc về Thiên Chúa, nên phải sống cho Chúa, vì Chúa và với Chúa cho xứng với phẩm giá của mình.

Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu về sứ vụ tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi các Kitô hữu nhớ lại ngày tái sinh của mình. Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.

  1. Niềm vui cần được chia sẻ cho mọi người.

Viết trình thuật cuộc chào đời của Gioan, Luca hữu ý đề cập đến một lớp nhân vật mà độc giả thường ít chú ý: đó là những người láng giềng của gia đình ông bà Giacaria. Niềm vui không gói kín trong gia đình ông bà. Niềm vui ấy lan tỏa sang những người láng giềng. Khi mô tả những người láng giềng “kinh sợ”, Luca không có ý nói họ bị thất thần vì một tai họa kinh hoàng nào đó. Ở đây thánh Luca dùng kiểu nói trong Cựu Ước diễn tả tâm trạng choáng ngợp trước những “điềm thiêng dấu lạ” là dấu chỉ sự hiện diện và can thiệp của Thiên Chúa. Những người láng giềng “kinh sợ” vì cảm kích trước ân phúc quá lớn lao và rõ ràng mà Thiên Chúa đang thực hiện nơi gia đình này.

Mỗi gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi chuyển trao sứ điệp yêu thương cứu độ của Thiên Chua cho người chung quanh. Chúng ta làm việc này trước hết bằng cách mỗi thành viên trong gia đình dứt khoát chọn lựa trung thành với thánh ý Chúa – như ông bà Giacaria khi đặt tên cho con là Gioan.

  1. Mỗi người chúng ta sinh ra trong cuộc đời cũng có một sứ mạng để hoàn thành theo ý định của Thiên Chúa. Cách chung, sứ mạng đó nằm trong ơn gọi làm người của mình. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, có khả năng hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa. Con người phải sống theo lương tâm ngay thẳng để sống đúng phẩm giá làm người  và hoàn thiện mình mỗi ngày nên tốt hơn. Ngoài ra, Thiên Chúa cũng để cho mỗi người một hoàn cảnh, một địa vị, một khả năng như phương thế để con người sống đúng ơn gọi làm người của mình. Như vậy, giá trị của đời người không hệ tại ở địa vị, hoàn cảnh, hay khả năng mà hệ tại ở việc con người  biết nỗ lực hoàn thiện cuộc đời mình cho xứng với phẩm giá con người và xứng danh là con cái Chúa (R. Veritas).
  2. Truyện: Một ông cụ quảng đại

Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại một câu chuyện một cụ già Ấn Độ như sau: Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc là, rượu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp đỡ chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đỗi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả.

Tuy niên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả… nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư từ với chàng mỗi lúc một nhiều… Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên tới 30 người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế đến giờ Chúa gọi”.

 

Suy Niệm 11: Sứ mạng của Gioan

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Sau những tháng ngày tối tăm trong lòng mẹ, Gioan Tiền Hô đã chào đời giữa niềm vui chào đón của gia đình, của gia tộc và của làng xóm. Có lẽ niềm vui của họ đầu tiên chỉ vỏn vẹn trong việc có được một cậu con trai nối dõi tông đường, một cây gậy để chống lúc tuổi già. Nhưng Thiên Chúa đã ban cho họ những điều còn hơn lòng họ mong ước: không những họ được thoát khỏi những điều sỉ nhục không còn son sẻ mà con của họ còn trở thành “vị Tiền Hô của Đấng Tối Cao”.

Đọc lại tiểu sử của Gioan, chúng ta thấy Ngài đã được sinh ra cho một sứ mệnh đặc biệt: con sẽ là tiên tri của Đấng Tối Cao. Gioan đã hết lòng hết dạ với sứ mệnh của mình. Ông đã sống thật can đảm, không sợ quan quyền, vua chúa, được mọi người kính nể, đến nỗi có người đã lầm tưởng ông chính là Đấng Cứu Thế. Để chu toàn được sứ mệnh cao cả đó, Gioan đã tự nguyện sống một cuộc sống khắc khổ và hy sinh. Ngài sống khó nghèo như Chúa Giêsu. Ngài rao giảng thẳng thắn không vị nể ai; Ngài bị bắt và bị giết một cách nhục nhã như Chúa Giêsu. Gioan Tẩy Giả rõ ràng là hình ảnh của Chúa Giêsu sau này. Người Kitô hữu chúng ta học được những gì nơi Gioan Tẩy Giả?

Con người không phải là một con số vô danh giữa đám đông loài người. Khi sinh ra, mỗi người đều được Chúa trao cho một sứ mạng, một ơn gọi, một ý nghĩa cho cuộc đời. Ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa cuộc đời của Gioan là làm Tiền Hô cho Chúa Cứu Thế. Còn ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa đời tôi là gì? Sứ mạng của mỗi người chúng ta cũng là sứ mạng làm chứng. Làm chứng bằng chính cuộc sống của mình. Làm Kitô hữu hôm nay thật không dễ dàng gì. Khủng hoảng gia đình ngày càng tăng; cuộc sống càng ngày càng phức tạp; đạo đức suy đồi; giáo dục con cái trở thành một thách thức; xã hội đầy hận thù chia rẽ; đời sống đức tin và đạo đức đang giảm sút đáng lo; tất cả đều thay đổi một cách quá mau lẹ. Trước những khó khăn của cuộc sống như thế, nhiều người Kitô hữu cảm thấy chới với, hoang mang. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Hãy quay về với những lời rao giảng cũng như gương sống của Gioan Tẩy Giả. Hãy bắt đầu nơi chính mình: quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng. Hãy trở lại với một cuộc sống gương mẫu cho con cái mình cũng như cho xã hội hôm nay. Can đảm sửa mình, can đảm sống gương mẫu, đó là lời mời gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay.

Thứ đến là phải luôn ý thức về tình thương của Chúa. Mỗi người chúng ta đều có thể mang tên Gioan (nghĩa là “Chúa thương”) bởi vì mỗi người đều là một tác phẩm của tình thương Chúa. Nếu chúng ta biết nhìn, chúng ta sẽ thấy cả cuộc đời của chúng ta là một hồng ân. Tất cả là hồng ân bởi vì:

Chúng ta đã được sinh ra với đôi mắt nằm phía trước để luôn nhìn sự việc đang diễn ra thay vì cứ ngoái nhìn lại những điều đã qua. Chúng ta đã được sinh ra với đôi tai – một bên trái và một bên phải – để có thể nghe cả hai phía, để nghe đủ những lời ca tụng cũng như những lời phê bình, để phân biệt đúng sai. Chúng ta đã được sinh ra với một bộ óc nằm dưới hộp sọ, cho dù có nghèo đi chăng nữa chúng ta vẫn luôn giàu có vì chẳng ai có thể lấy cắp được bộ óc sản sinh ra nhiều suy nghĩ và ý tưởng độc đáo của ta.

Chúng ta đã được sinh ra với đôi vai nối liền đôi tay để gánh vác những nhiệm vụ trọng trách. Hơn nữa, một để giúp đỡ bản thân, một để giúp đỡ người khác. Chúng ta đã được sinh ra với một đôi chân dài và lớn để đi nhiều nơi, để mắt được quan sát, để trí não được mở mang. Nhưng chúng ta chỉ sinh ra với một cái miệng, vì miệng là vũ khí sắc bén. Nó có thể làm tổn thương, đau lòng hay giết chết kẻ khác. Hãy ghi nhớ câu nói: nói ít, nhìn thấy và lắng nghe nhiều. Chúng ta được sinh ra với chỉ một trái tim nằm sâu trong lồng ngực, nhắc nhở ta phải trân trọng và biết yêu vô điều kiện.

Cuối cùng, như Giacaria “khi miệng được mở ra, ông nói được và ngay lập tức ông dâng lời chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 1,64)

Hãy tập cho mình có thói quen: trước khi làm một điều gì phải biết cầu nguyện, cầu xin Chúa cho mình vượt qua mọi chướng ngại và không bao giờ biết đến thất bại. Nếu có thành công, hãy vui mừng và tạ ơn Chúa. Và nhỡ có khi thất bại, chúng ta cũng đừng nản chí buồn lòng hay là nghĩ Chúa đã bỏ rơi mình. Đừng bao giờ oán trách Chúa cũng như mọi người. Hãy tin vào đường lối Chúa dẫn chúng ta đi. Lạy Chúa, xin chỉ cho con biết đường lối của Chúa và cho con theo đúng đường lối Người truyền dạy, để không ngừng chúc tụng Chúa, Đấng cứu chuộc con. (Epphata).

 

 

 

 

 

Sáng Ngày 24 tháng 12

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 67-79

Khi ấy, Giacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:

“Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế? để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.

“Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên.

Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”.

 

Suy Niệm 1: Thiên Chúa viếng thăm

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày,

lời nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng.

Ông chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel

vì Ngài đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).

Mọi việc Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng

được gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.

Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77).

Gioan, con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76).

Dacaria vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông.

Thiên Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một.

Đó là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69).

Do lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa,

Đấng Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78).

Vừng sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết

và đưa dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79).

Bình an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77),

là được tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).

Cả đời sống Đức Giêsu là một cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.

Đây là cuộc viếng thăm độc nhất vô nhị,

vì là cuộc viếng thăm của đích thân Con Thiên Chúa.

Ngài không chỉ thăm như người khách ghé qua.

Ngài đã thăm và ở lại, dựng lều cư ngụ với loài người (Ga 1, 14).

Khi Đức Giêsu hoàn sinh người con của bà góa thành Nain,

đám đông reo lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài (Lc 7, 16).

Nhưng trong thực tế dân Ngài đã khước từ cuộc thăm viếng ấy.

Ngôi Lời đã đến nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11).

Mãi mãi con người có tự do để ở lại trong bóng tối và sự chết,

và cũng có quyền khước từ bình an thật của trời cao (Lc 19, 42).

Giêrusalem đã bị sụp đổ vào năm 70 dưới tay kẻ thù,

vì đã từ khước sự thăm viếng chở che của Thiên Chúa (Lc 19, 44).

Đó là một bi kịch và hơn nữa, là một thảm kịch.

Tiếc thay thảm kịch ấy vẫn tiếp diễn trên thế giới.

Hôm nay Thiên Chúa từ ái, bao dung vẫn đến thăm con người,

và nhiều người trong chúng ta vẫn giữ thái độ chối từ, khép kín.

Ơn cứu độ, ơn giải phóng, ánh sáng, và bình an của trời cao,

là những điều còn xa lạ với bao người, kể cả các Kitô hữu.

Bóng tối của sự chết, của hận thù ghét ghen vẫn thống trị địa cầu.

Mừng lễ Giáng Sinh là mừng cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.

Cách duy nhất để mừng là mở cửa lòng cho Con Thiên Chúa vào.

Hãy tiếp đón Ngài đến với ta dưới những hình thái bất ngờ:

một trẻ thơ nghèo hèn, yếu đuối; một Mêsia không tấc sắt trong tay;

một ông thợ mộc ở vùng quê Nadarét; một tử tội bị đóng đinh thập tự.

Hãy thắp lên một ngọn nến trong đêm Noel để chào mừng Ánh Sáng.

 

Cầu nguyện:

Giữa giá rét của mùa đông,

xin cho con gặp Chúa.

Giữa những long đong

và bấp bênh của phận người,

xin cho con gần Chúa.

Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,

xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.

Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,

xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,

ngay giữa những âu lo hằng ngày.

Xin cho con đón lấy cuộc đời con

với bao điều không như ý.

Và cuối cùng,

xin cho con dám sống như Chúa

vì Chúa đã dám sống như con. Amen.

 

Suy Niệm 2: Kế hoạch yêu thương

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đa-vít, thánh vương, được Chúa sủng ái, được dân yêu mến, muốn xây cho Chúa ngôi nhà xứng đáng. Nhưng Chúa đã cho ông biết không phải ông xây nhà cho Chúa. Chính Chúa xây nhà cho ông. Không phải ngôi nhà vật chất. Nhưng là một dòng tộc. Không phải chỉ cho một đời. Nhưng cho muôn thế hệ. Chúa sẽ cho ông có người con kế vị. Nhờ vị đó triều đại nhà ông sẽ tồn tại muôn đời. Từ một cậu bé chăn chiên tầm thường, Chúa đã nâng Đa-vít lên hàng quân vương. Còn hơn nữa, Chúa có kế hoạch làm cho vương quyền không bao giờ rời khỏi nhà Đa-vít.

Khi truyền tin cho Đức Mẹ, thiên sứ nhắc lại lời hứa của Chúa: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33). Đây chính là thời điểm lời Chúa hứa được thực hiện. Chúa Giê-su vừa thuộc dòng tộc Đa-vít, vừa là Chúa Thượng của Đa-vít. Và một triều đại mới khởi đầu.

Gia-ca-ri-a là người đã sờ thấy triều đại mới với việc hạ sinh kỳ diệu của Gio-an Tẩy giả. Là nhân chứng. Là tội nhân. Là người cha hạnh phúc. Ông cảm nhận được kế hoạch đã đến hồi thực hiện của Thiên Chúa: “Từ dòng dõi trung thần Đa-vít, người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa”.

Trong kế hoạch đó người con của ông được diễm phúc đi mở đường cho Chúa: “Hài Nhi hỡi con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người”.

Vầng Đông xuất hiện. Đêm đen lui bước. Cả một bình minh rạng rỡ cho nhân loại. Bóng tối tử thần bị phá tan. Nhân loại được vị vua mới đón vào sự sống vĩnh cửu. “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”.

Ta hãy vui mừng mạnh dạn bước ra khỏi bóng tối tội lỗi. Ngước mắt đón chào Vầng Đông đến chiếu soi cuộc đời mới của ta. Cuộc đời sống trong ánh sáng, ngay thẳng, minh chính, giữa ban ngày.

 

Suy Niệm 3: Lời Ca Ngợi Thiên Chúa Của Zacharia

Trong bài trích sách Samuel quyển thứ II, chúng ta thấy: “Khi ấy vua David ngự trong đền và khi Thiên Chúa cho ông được bình an tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh thì David nói với tiên tri Nathan rằng: Ông thấy không, ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư? Và xảy ra đêm ấy có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: “Hãy đi nói với David tôi tớ của Ta rằng, có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi đền để ở chăng? Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đàn chiên để trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng ngươi mọi nơi ngươi đi, Ta sẽ làm cho ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Nhà của ngươi và triều đại của người sẽ vững bền đến muôn đời”.

Sau khi đem David ra khỏi nghề chăn chiên để lên làm vua Israel, dẹp yên mọi quân thù thì ý Thiên Chúa muốn David làm một ngôi Ðền Thờ để thờ phượng Thiên Chúa. Vua David cũng muốn thế và ông đã thực hiện. Con người không thể cầu nguyện ở những nơi đông đúc giữa ngã tư đường phố, nơi chợ búa ồn ào được, nhưng cầu nguyện ở nơi yên tĩnh để tâm sự nói chuyện với Chúa. Chúa Giêsu đã nổi cơn thịnh nộ khi thấy dân Do Thái biến nơi tôn nghiêm thành nơi buôn bán đổi chác tiền bạc: “Các ngươi đã biến nhà Ta thành nơi trộm cắp. Nhà Ta là nhà cầu nguyện”.

Thiên Chúa hằng vẫn ở với chúng ta trong Nhà Tạm, Ngài luôn kêu mời mỗi người chúng ta đến với Ngài, đến để tìm nguồn an ủi trong cuộc sống, đến để tim nguồn nghị lực và sức mạnh để lướt thắng mọi trở ngại ngăn lối về nhà Cha. Nhưng mấy ai đã tìm đến với Ngài hay chỉ có ngọn đèn dầu màu đỏ leo lét hẩm hiu vô tri làm bạn với Chúa hằng ngày mà thôi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Zacharia được đầy tràn Chúa Thánh Thần, ông nói tiên tri về Chúa Kitô là Ðấng cứu rỗi sẽ đến. Không phải ai cũng có thể nói tiên tri được, chỉ những người thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa, Chúa mới cho họ quyền nói tiên tri, làm phép lạ, nói được các thứ tiếng loài người như trong ngày lễ ngũ tuần các tông đồ chỉ giảng bằng tiếng của mình mà những người nghe đều hiểu theo tiếng bản xứ của họ.

Nhưng Thiên Chúa yêu thích hơn nếu chúng ta có tâm tình mến Chúa thực sự: “Nếu tôi được ơn nói tiên tri mà tôi không có đức mến Chúa thì cũng chẳng có ích gì. Nếu làm được nhiều phép lạ mà tôi không có lòng mến Chúa thì cũng ích gì cho tôi”. Ðức tin và đức cậy sẽ mất khi con người nhắm mắt, chỉ còn lòng mến Chúa là tồn tại mãi trong Nước Trời. Cho nên Thập Giới của đạo Công Giáo chỉ tóm gọn trong đức “Mến Chúa – Yêu Người”, vì thế mà đạo Công Giáo còn được gọi là đạo của “Yêu Thương”.

Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện”, xin Chúa cho chúng con luôn nhớ điều đó để chúng con luôn tìm đến với Chúa trong những lúc âu lo chán nản, đau khổ và thất vọng để chính lúc đó chúng con biết cầu nguyện cách thật sốt sắng và chỉ biết bám chặt, tin tưởng trọn vẹn vào Ngài.

Lạy Chúa, luật của Chúa thật ngắn gọn và đơn sơ, đó là “Mến Chúa và Yêu Người” nhưng không dễ áp dụng, xin Chúa cho chúng con nhìn thấy Chúa qua mọi người chung quanh để chúng con dễ yêu mến họ hơn.

Lạy Chúa, hôm nay là ngày cuối của Mùa Vọng, xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn và thể xác, bên trong lẫn bên ngoài để chúng con hiệp ý với Giáo Hội hân hoan mừng đón Chúa Giáng Sinh, vì Ngài đến để đem ơn cứu rỗi và sự bình an cho mọi người. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Nhìn cuối mùa vọng

Bấy giờ người cha của em, tức ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:

“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en

đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.

Từ dòng dõi trung thần Đa-vít,

Người đã cho xuất hiện

Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta”. (Lc. 1, 67-69)

Một mùa vọng nữa chấm dứt, mỗi người chúng ta đã thêm được gì? Chúng ta có thể chân thành hát lên bài ca của ông Gia-ca-ri-a, có thể cùng với ông và với mọi người chờ đợi Đấng Cứu thế đến với chúng ta được chưa? Con tim của bạn hướng về đêm Noel thế nào? Có phải là một thửa đất đã được chuẩn bị tốt, phì nhiêu, sẵn sàng không? Bạn đã đổi mới nhờ lời Chúa chưa? Đã tái ký kết giao ước với Chúa chưa? Ông Gia-ca-ri-a đã tóm tắt kinh nghiệm của ông về Thiên Chúa và Đức Kitô như thế này:

“Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót,

Cho vầng đông chốn cao vời viếng thăm ta,

Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm,

Và trong bóng tối tử thần,

Dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”.

Lòng thương xót Chúa vẫn tiếp tục công trình cứu độ cho đến chúng ta. Bạn có lẽ đã biến đổi chút ít rồi nhờ Thiên Chúa đầy lòng yêu dấu, đầy lòng thương xót, đầy lòng quảng đại tha thứ. Hôm nay nhìn lại những việc Chúa làm cho chúng ta để cảm tạ Ngài là rất tốt, rất hữu ích. Công trình lòng thương xót của Chúa vẫn tiếp tục tuôn chảy với sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng xác phàm nhân loại. Với sự gần sát của Thiên Chúa, công trình Ngài đang hoàn thành cho chúng ta.

Ngày mai, chưa cứu độ hết, chưa giải thoát hết, nhưng chúng ta hy vọng một sức mạnh dẫn đưa chúng ta tới sự sống lại.

Ngày mai, vẫn chưa bày tỏ đầy đủ về Đức Kitô. Nhưng bây giờ chúng ta biết chắc rằng con người mới của Đức Kitô chính là con người mới của chúng ta và của mọi người.

Ngày mai, chúng ta cử hành đại lễ mừng hoàng tử hòa bình đến, chúng ta mừng đại lễ với hy vọng hòa bình sẽ chan hòa trên trái đất. Ngày mai, chúng ta được chung sống hòa bình với mọi người chung quanh, với tất cả những ai chúc mừng nhau nhân dịp Noel hân hoan này.

  1. G.

 

Suy Niệm 5: Thiên Chúa viếng thăm

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe được thốt lên từ chính miệng ông Giacaria trong ngày lễ cắt bì cho Gioan Tẩy Giả. Lời kinh này được gợi hứng từ trong thời Cựu Ước, và người ta nhận thấy nó bắt nguồn từ Thánh Vịnh vua Đavít và nơi các tiên tri.

Kinh tạ ơn này được chia làm hai phần:

Phần thứ nhất nói lên lời cầu nguyện trực tiếp của ông với Thiên Chúa là Đấng Cứu độ Israel và cụ thể là gia đình ông qua việc cho Gioan xuất hiện.

Phần thứ hai là những lời tiên tri về trẻ nhỏ Gioan.

Khi cất cao lời kinh tạ ơn như vậy, Giacaria là hiện thân đại diện cho cả dân tộc Israel để ca khen, tán tụng hồng ân, lòng từ bi và thương xót của Thiên Chúa. Ông thấu hiểu nỗi chờ mong của dân tộc mình trong việc mong đợi Đấng Cứu Thế, nay niềm tin đó đã đem lại cho ông và cả dân tộc ông niền hy vọng khi Thiên Chúa đã cho Gioan xuất hiện để đi trước dọn đường.

Sự xuất hiện của Gioan đã xóa đi nỗi niềm chờ mong, và dân không còn phải đi trong tối tăm của đêm dài nữa. Niềm hy vọng này đem lại cho dân một sự đảm bảo vì Thiên Chúa đã chọn Gioan đi trước dọn đường cho Đấng Tối Cao đến để cứu độ dân Ngài.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa vì Người hằng yêu thương chăm sóc chúng ta như xưa Người đã từng chăm sóc dân Israel trong thời Cựu Ước. Chỉ có điều, chúng ta có đủ niềm tin vào Chúa hay không mà thôi!

Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương, chúng con cảm tạ Cha đã gìn giữ, yêu thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin ban cho chúng con sống sứng đáng là con Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Vầng đông tới viếng thăm

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Ông Da-ca-ri-a chúc tụng Thiên Chúa là Đấng trung thành thực hiện lời hứa cứu độ. Thiên Chúa kêu gọi Thánh Gio-an Tẩy Giả ra đời là để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Mỗi người khi chào đời có một sứ mệnh trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày Con Chúa giáng sinh làm người đã trở thành ngày lễ hội lớn cho toàn thể nhân loại. Hôm nay là đích điểm của hơn 2000 năm Chúa âm thầm chuẩn bị.

Vâng, khi con chiêm ngưỡng Hài Nhi bé bỏng trong hang đá Be-lem con thấy được bàn tay uy quyền của Chúa trải ra bao thế hệ. Chúa tuyển chọn Áp-ra-ham, Mô-sen, Đa-vít, Mẹ Maria, Gio-an Tẩy Giả… Tất cả là những chặng đường Chúa thực hiện lời hứa cứu độ. Lịch sử có những lúc thăng trầm, nhân loại có những lúc phản bội, nhưng phần Chúa, Chúa vẫn luôn trung tín với lời hứa. Chúa trung thành với giao ước ngay cả lúc chúng con bất trung. Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa và tin cậy vào lòng trung tín của Chúa. Xin Chúa giúp con đáp lại bằng sự trung thành phụng sự Chúa.

Trong lịch sử cứu độ, mỗi người khi sinh ra đều được Chúa trao cho một sứ mạng. Thánh Gio-an Tẩy Giả được Chúa cho ra đời chính là để làm ngôn sứ đi trước mở lối cho Chúa. Con được làm người cũng là vì Chúa muốn gọi con cộng tác vào chương trình cứu độ. Con cảm tạ Chúa đã cho con nhận lãnh bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, để nhờ đó con trở thành chứng nhân cho Chúa. Sứ mạng ấy vừa cao cả vừa khó khăn. Xin Chúa giúp con trung thành với hồng ân đã lãnh nhận. Amen.

Ghi nhớ: “Vầng đông từ cao thẳm tới viếng thăm chúng ta”.

 

Suy Niệm 7: Bài ca chúc tụng Chúa-Benedictus

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống… )

Những ý lớn trong bài ca của Dacaria:

  1. Thiên Chúa đã thực hiện Lời hứa cứu rỗi mà Ngài đã hứa từ ngàn xưa với các tổ phụ và qua miệng các ngôn sứ.
  2. Hôm nay Con Thiên Chúa là “Vầng Đông” đã xuất hiện, mở màn một kỷ nguyên mới.
  3. Gioan sẽ là vị tiền hô cho Ngài: mở lối cho Ngài đi, và báo tin vui cứu rỗi cho nhân loại.
  4. Suy gẫm (… nẩy mầm)
  5. Bài ca này được Phụng vụ chọn cho chúng ta đọc buổi sáng lúc bắt đầu một ngày mới, nhằm nhắc chúng ta:

Hãy sống một ngày trong ánh sáng của “Vầng đông” Chúa Cứu Thế;

Hãy sống như Gioan: mở lối cho Chúa đến thăm anh chị em mình; loan báo tin vui cứu rỗi cho họ.

  1. Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cà trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quấn áo. Nhờ có ánh sáng, ta mới thấy được sự vật quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại; Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối; Nếu không có ánh sáng, sinh vật không lớn lên được và sẽ chết dần mòn… Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng (Frank Mihalic).

Chúng ta hãy bắt đầu mỗi ngày mới với tâm tình của Dacaria trong bài ca Benedictus “Chúc tụng Thiên Chúa… cho Vầng đông từ chốn cao vời viếng thăm ta”.

 

Suy Niệm 8: Bài thánh ca Benedictus

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Khi Gioan được sinh ra, ông Giacaria rất vui mừng, và nhờ Thánh Thần soi sáng, ông cất tiếng cảm ta ngợi khen Chúa là Đấng từ bi và thành tín. Người đã ban Đấng cứu dân Người, để họ an tâm phụng thờ Người, và sống thánh thiện công chính… Và ông cũng nói trước về vai trò của Gioan là Tiền Hô, được Chúa sai đến dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

Nhờ Gioan Tiền hô dọn đường, Chúa Cứu Thế đã đến cứu chuộc Dân Người và Mùa Vọng là Mùa chúng ta dọn đường cho Chúa đến với chúng ta; đặc biệt đến với những người đã biết Chúa mà bỏ Chúa. Chúng ta nối tiếp sứ mạng của thánh Gioan, dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với dân mới Người là Hội thánh.

  1. Khi ông Giacaria cho biết tên con trẻ là Gioan thì ông hết bị câm, ông đã mở miệng chúc tụng hồng ân Thiên Chúa đối vối ông và toàn dân. Bài thánh ca Benedictus mở đầu bằng lời “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel” là một bài thánh ca tuyệt vời, đầy ắp những hình ảnh Thánh Kinh và lời tiên tri trong Cựu Ước, được đặt vào miệng ông Giacaria, thực sự là một lời tiên tri vừa đúc kết lại cả một lịch sử ơn cứu độ, vừa chuyển tiếp báo tin sự xuất hiện của “Vị Cứu tinh quyền thế” của “Vầng Đông từ chốn cao vời đến viếng thăm”. Bài Thánh ca làm dậy lên niềm vui và hy vọng của những ai cảm nghiệm mình có Chúa, được cứu độ, được tự do và bình an.

Bài Thánh ca Benedictus có những ý lớn này:

– Thiên Chúa đã thực hiện Lời hứa ơn cứu độ mà Ngài đã hứa từ ngàn xưa với các tổ phụ và qua miệng các tiên tri.

– Hôm nay Con Thiên Chúa là “Vầng Đông” đã xuất hiện mở màn một kỷ nguyên mới.

– Gioan sẽ là Tiền Hô cho Ngài: mở lối cho Ngài đi, và báo tin vui cứu độ cho nhân loại.

  1. Hôm nay Con Thiên Chúa là “Vầng Đông” đã xuất hiện, mở màn cho một kỷ nguyên mới.  Ngài là ánh sáng chiếu soi cho trần gian còn ở trong bóng tối của tội lỗi và sự chết.

Nói đến vai trò ánh sáng, Frank Mihalic đã mô tả ánh sáng với những lời thật súc tích như sau: ”Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cả trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo.  Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quần áo. Nhờ có ánh sáng, ta mới thấy được sự vật quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại. Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa,  nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối. Nếu không có ánh sáng, sinh vật không thể lớn lên được và sẽ chết dần chết mòn… Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng”.

  1. Nhờ Đức Giêsu đến, Ngài mới mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa vì trước đây loài người chỉ có vài ý niệm mơ hồ hoặc lệch lạc về Thiên Chúa, thậm chí còn vật chất hóa Thiên Chúa.

Người Hy lạp nghĩ đến một Thiên Chúa không tình cảm, vượt quá mọi nỗi buồn vui, nhìn xuống loài người với vẻ lạnh lùng xa cách, không tìm được một sự trợ giúp nào ở đó.  Còn người Do thái thì nghĩ đến một Thiên Chúa khắt khe chỉ lo ban bố luật pháp, đóng vai quan tòa và chỉ lo gieo rắc các mối đe dọa thôi.  Đức Giêsu đã đến nói rằng:Thiên Chúa là Tình yêu và trong sự kinh ngạc sâu xa, con người chỉ có thể thốt lên rằng: “Chúng tôi chưa hề biết một Thiên Chúa như thế bao giờ”. Một trong những chức năng lớn của mầu nhiệm Nhập Thể là đem loài người đến sự hiểu biết Thiên Chúa (R. Veritas).

  1. Khi Thiên Chúa giáng trần, Ngài sẽ đem lại cho dân ơn tha thứ và bình an. Vậy ơn đầu tiên mà thánh ca Benedictus nói đến là ơn tha thứ mà Thiên Chúa ban cho dân Người: “Người sẽ cứu độ, là tha cho hết mọi tội khiên… ”. Chỉ khi lãnh nhận được ơn tha thứ này chúng ta mới cảm nghiệm được Niềm Vui của Tin Mừng mà Đức Thánh Cha Phanxicô nói đến ngay từ  những câu đầu trong tông huấn của Ngài: “ Những ai chấp nhận quà tặng ơn cứu độ của Đức Giêsu sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, buôn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn (Evangelii gaudium, số 1).
  2. Truyện: Hồng ân tha thứ.

Bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin Người Con đó, thì khỏi chết và được sống đời đời.

Bà đáp: – Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không biết Ngài.

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu:

“Sinh 1825, sinh lại 1925”.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Bài ca của Giacaria gồm những ý lớn sau đây:

* Thiên Chúa đã thực hiện Lời hứa Cứu độ mà Ngài đã hứa từ ngàn xưa với các tổ phụ và qua miệng các ngôn sứ.

* Hôm nay, Con Thiên Chúa là “Vầng Đông” đã xuất hiện, mở màn một kỷ nguyên mới.

* Gioan sẽ là Tiền Hô cho Ngài: mở lối cho Ngài đi, và báo tin vui cứu độ cho nhân loại.

Trong lời kinh trên đây, Giacaria như đại diện gia tộc và dân Israel tán tụng lòng từ bi của Thiên Chúa bắt đầu từ việc cứu rỗi muôn dân. Đối với dân Do Thái đã hơn ngàn năm trông đợi qua các tiên tri, giờ đây họ cảm thấy nỗi khát mong tột độ đã chín mùi. Đối với nhân loại phải trải qua những chuỗi thế kỷ dài đằng đẵng đến tuyệt vọng vì tội lỗi, thì lòng họ như những thửa đất ruộng nứt nẻ hạn hán chờ mùa mưa, họ như bệnh nhân ung thư chờ ngày được giải phẫu. Và đã tới thời gian viên mãn (Ga 14,4), Thiên Chúa đã biểu lộ lòng yêu thương bao la hải hà của Ngài.

  1. Đây là bài ca được Phụng vụ chọn cho chúng ta đọc buổi sáng lúc bắt đầu một ngày mới. Việc chọn lựa này nhằm nhắc chúng ta:

a/ Hãy sống một ngày trong ánh sáng của “Vầng đông” Chúa Cứu Thế.

b/ Hãy sống như Gioan: mở lối cho Chúa đến thăm anh chị em mình và loan báo tin vui cứu độ cho họ.

  1. Bài ca cũng cho chúng ta thấy một bức tranh lớn về những chặng đường mà mỗi người Kitô hữu phải trải qua.
  2. Phải có một sự sửa soạn: cả cuộc sống là một sự chuẩn bị đưa ta đến với Chúa Cứu Thế.

Khi Ignatiô còn trẻ, chàng chỉ mong trở thành một quân nhân, nhưng một tai nạn xảy ra, chàng bị thương phải nằm dưỡng bệnh lâu ngày. Chàng đọc sách, hết sách đời đến sách đạo, cuối cùng, chàng đổi thay và trở nên một bậc thánh. Có người đã nhận định về chàng: “Anh ta đã muốn kiến tạo mình trước thời gian, nhưng chàng không thể hoàn thành chương trình cho đến khi năm tháng đã trôi qua”. Trong cuộc sống, Thiên Chúa vẫn khiến mọi sự hiệp lại để đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu.

  1. Phải có sự hiểu biết: Một sự thật đơn giản là loài người không biết Thiên Chúa ra sao cho đến khi Chúa Giêsu đến. Người Hi-Lạp nghĩ đến một Thiên Chúa không tình cảm, vượt quá mọi nỗi buồn vui, nhìn xuống loài người với vẻ lạnh lùng xa cách, không tìm được một sự trợ giúp nào ở đó. Người Do Thái nghĩ đến một Thiên Chúa khắt khe chỉ lo ban bố luật pháp, đóng vai quan tòa và chỉ lo gieo rắc các mối đe dọa thôi. Chúa Giêsu đã đến nói rằng: Thiên Chúa là tình yêu và trong kinh ngạc sâu xa, con người chỉ có thể thốt lên rằng: “Chúng tôi chưa hề biết một Thiên Chúa như thế bao giờ”. Một trong những chức năng lớn của mầu nhiệm Nhập thể là đem loài người đến sự hiểu biết Thiên Chúa.
  2. Có sự tha thứ: chúng ta cần biết rõ, tha thứ không chỉ là tha hình phạt, mà còn tái lập mối quan hệ. Chúng ta không thể tránh thoát khỏi hậu quả của tội lỗi. Chiếc đồng hồ không thể quay ngược lại, nhưng ơn tha thứ của Thiên Chúa đem chúng ta ra khỏi hậu quả của tội lỗi, khỏi sự thù nghịch và được bước vào mối tương giao thân mật với Ngài. Thiên Chúa không là Đấng khiến chúng ta sợ hãi, nhưng là Đấng yêu thương mọi người.
  3. Có sự bước đi trong bình an. Bình an trong tiếng Do Thái không chỉ là thoát khỏi cảnh rối loạn mà còn bao gồm những gì tạo nên hạnh phúc cao quý nhất cho con người. Nhờ Chúa Cứu Thế, con người mới có khả năng bước đi trong những nẻo đường dẫn đến sự sống và không bao giờ còn đi trên những lối dẫn đến sự chết. Nhờ Chúa Cứu Thế con người tìm lại được sự sống đích thực của mình.
  4. Và cuối cùng, bài ca cũng cho chúng ta thấy vai trò rất quan trọng của ánh sáng.

Frank Mihalic đã mô tả về ánh sáng với những lời thật súc tích như sau: “Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cả trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quần áo. Nhờ có ánh sáng, ta mới thấy được sự vật quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại. Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối. Nếu không có ánh sáng, sinh vật không lớn lên được và sẽ chết dần chết mòn… Bởi thế, người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng”.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con toả lan hương thơm của Chúa nơi con sống. Xin ánh sáng Chúa dọi sáng qua con và ở lại nơi con, để mọi tâm hồn con tiếp xúc sẽ nhận ra Chúa đang hiện diện nơi con. Amen.