Cử hành Thánh Thể: Bài 10 & 11
BÀI 10: KINH VINH DANH
I. VĂN KIỆN
Kinh Vinh danh là một thánh thi rất cổ kính, mà Hội Thánh, được đoàn tụ trong Chúa Thánh Thần, dùng để tôn vinh Chúa Cha và cầu khẩn Chiên Con. Không được thay đổi bản văn của kinh này bằng một bản văn khác. Vị tư tế hay, tùy nghi, một ca viên hay ca đoàn xướng lên, rồi mọi người cùng hát chung, hay luân phiên giữa giáo dân và ca đoàn, hay chỉ ca đoàn. Nếu không hát thì phải đọc, hoặc mọi người đọc chung, hoặc chia hai bè đối đáp. Kinh này được hát hay đọc trong các Chúa nhật ngoài mùa Vọng và mùa Chay, trong các lễ trọng và lễ kính, và trong các dịp lễ khá long trọng (QCSL 53).
II. LỊCH SỬ
Kinh Vinh danh (Gloria) là một trong những bài hát rất cổ xưa nhất của Hội Thánh cùng với các kinh Pros hilarion (Ôi nguồn sáng huy hoàng) và Te Deum (Chúng con chúc tụng Chúa).[1]
Kinh Vinh danh được tìm thấy trước tiên trong nguồn phụng vụ Hy Lạp và Syria của nghi lễ Đông phương, nó không được sử dụng trong Thánh lễ mà là kinh chúc tụng ngợi khen được sử dụng như một bài thánh ca rạng đông Phục sinh và dần dần thuộc thành phần kết thúc của Kinh Sáng.[2] Bên Tây phương cũng vậy, kinh Vinh danh hồi đầu không nằm trong Thánh lễ.[3]
Bài ca này xuất hiện sớm nhất vào thế kỷ thứ IV, nhưng chỉ được đưa vào Thánh lễ Rôma vào đầu thế kỷ thứ V dưới thời của Đức Lêô Cả (400-461). Lúc đó, người ta chỉ hát Gloria trong Thánh lễ nửa đêm Giáng sinh vì là bài ca các thiên thần hát tại Bêlem trong đêm Chúa xuống thế làm người (Lc 2,13-14).[4]
Sau đó, đến đời Đức Giáo hoàng Synmaque (498-514), kinh Vinh danh mới được quyết định cho hát giữa phần kinh nhập lễ (introit) và kinh Kyrie trong tất cả các Thánh lễ Chúa nhật và lễ kính các thánh Tử đạo do Giám mục cử hành.
Sau cùng, kinh Vinh danh được dành cho cả lễ kính các thánh Giáo hoàng, rồi đến lễ các thánh Giám mục.[5]
Cho đến thế kỷ VII, một linh mục thường chỉ được phép hát kinh Vinh danh mỗi năm một lần vào lễ Phục sinh (đêm Canh thức Vượt qua) và trong dịp cử hành Thánh lễ mở tay. Dần dần, khoảng cuối thế kỷ XI, kinh Vinh danh mới trở nên phổ biến được linh mục/giám mục xướng lên trong tất cả những ngày lễ Chúa nhật và lễ kính/trọng.
Thực hành như chúng ta thấy hiện nay, coi như đã thành hình từ thế kỷ XI, nghĩa là kinh Vinh danh được hát vào tất cả những Chúa nhật và những ngày lễ kính, lễ trọng, ngoại trừ những ngày thống hối trong toàn Hội Thánh Tây phương.[6]
III. Ý NGHĨA[7]
Kinh Vinh danh là một thánh thi chúc tụng và khẩn nài hướng lên Chúa Cha và Đức Kitô (QCSL 43). Toàn bản văn chia làm 3 phần: (1) Đoạn mở đầu; (2) Đoạn hướng về Chúa Cha; (3) Đoạn hướng về Đức Kitô.
A. Đoạn mở đầu: Lời ca thiên thần trong đêm Giáng sinh
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (cho người thiện tâm).
Lời này được tổng hợp từ nhiều bản văn Thánh Kinh, đặc biệt từ lời ca ngợi do các thiên thần hát lên trong đêm Chúa Giáng sinh tại Bêlem (x. Lc 2,13-14). Vì vậy, nó còn có tên gọi là Thánh ca Thiên Thần (x. Ga 1,29; Tv 109, 1; Cv 2,34-36).[8] Bình an dưới thế cho “loài người Chúa thương” thì thích hợp hơn là cho “người thiện tâm” vì bình an chính thức và siêu nhiên không thể do tự thiện tâm con người mà có nhưng phải nhờ tình thương Thiên Chúa ban tặng.[9]
B. Đoạn thứ II: Lời tôn vinh Thiên Chúa
Chúng con ca ngợi Chúa, chúng con chúc tụng Chúa (Br 3,6; Tv 145,2),/ chúng con thờ lạy Chúa, chúng con tôn vinh Chúa (Kh 4,11; Rm 11,36; 1Cr 6,20),/ chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa (1Bns 16,24; 2Cr 4,15)./ Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Vua trên trời (Kh 4,8; Tb 13,7; Dn 4,37),/ Là Chúa Cha toàn năng (St 17,1-2; 2Cr 6,18).
diễn tả sự nối kết giữa trời và đất trong những lời ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa qua 5 động từ (ca ngợi – chúc tụng – thờ lạy – tôn vinh – và cảm tạ Chúa) được vang lên như những làn sóng đại dương không ngớt trào dâng.[10] Kiểu tung hô chúc tụng như thế đã tồn tại trong phụng vụ từ rất xa xưa, là một tập tục diễn ra trong buổi phụng tự công cộng dành cho các hoàng đế, nhưng sau đã được tu chỉnh, được “rửa tội” để dùng trong Hội Thánh.[11] Đoạn này cũng nhấn mạnh đến vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ qua ngôn từ Ngài là Thiên Chúa (Deus), là Vua trên trời (Rex caelestis), đặc biệt Ngài là Cha toàn năng (Pater omnipotens). Vì vậy, loài người phải bày tỏ thái độ “chúc tụng, thờ lạy, tôn vinh và cảm tạ” dành cho Ngài.
C. Đoạn thứ III: Lời kêu cầu Đức Giêsu
Lạy Con Một Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô (Ga 1,14. 18),/ Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Chiên Thiên Chúa/ là Con Ðức Chúa Cha (Kh 1,8; Ga 1,29)./ Chúa xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con (Ga 1,29);/ Chúa xóa tội trần gian, xin nhậm lời chúng con cầu khẩn (Ga 14,13)./ Chúa ngự bên hữu Ðức Chúa Cha (Cl 3,1; Dt 8,1), xin thương xót chúng con./ Vì, lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa là Ðấng Thánh (Kh 15,4),/ chỉ có Chúa là Chúa (Is 37,20), chỉ có Chúa là Ðấng Tối Cao (Tv 83,18),/ cùng Ðức Chúa Thánh Thần ( Rm 8,9; 1Pr 3,8) trong vinh quang Ðức Chúa Cha (Lc 9,26; Ga 1,14; Pl 2,11).
Trước hết, đoạn này quy hướng về Chúa Kitô với những danh hiệu chính của Ngài là: Chủ Tể (Dominus); Thiên Chúa (Deus); Chiên Thiên Chúa (Agnus Dei); Con Chúa Cha (Filius Patris). Nghĩa là Chúa Kitô vừa là Thiên Chúa uy quyền, đồng bản thể với Chúa Cha, vừa là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Chính Đức Giêsu, Con Chúa Cha (Filius Patris) mới là phản ánh trung thực vinh quang của Thiên Chúa Cha tại trần gian (Dt 1,3).
Bài ca sau đó chuyển sang ca tụng Chúa Giêsu nhưng dưới dạng khẩn cầu với ba lời van nài như trong các Kinh cầu, trong đó, Hội Thánh không những nhắc nhớ công trình cứu độ Chúa Kitô đã chết trên thập giá để xóa tội trần gian mà còn nhìn ngắm Ngài đang khải hoàn ngự bên hữu Đức Chúa Cha.
Tiếp đó, Hội Thánh xưng tụng Đức Kitô với ba danh hiệu: Đấng Thánh (Sanctus); Chủ Tể (Dominus); Đấng Tối Cao (Altissimus) vốn đã từng nằm trong các công thức tuyên xưng đức tin thời kỳ đầu Kitô giáo nhằm khẳng định các tín hữu chỉ tôn thờ một mình Người, các tà thần chỉ là thọ tạo thuộc trần thế.[12]
Phần cuối, kinh Vinh danh kết thúc với lời tôn vinh Đức Kitô, Chúa Thánh Thần và Chúa Cha vì cả Ba Ngôi đều chung nhau một vinh quang: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa là Ðấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, chỉ có Chúa là Ðấng Tối Cao, cùng Ðức Chúa Thánh Thần trong vinh quang Ðức Chúa Cha”.
IV. MỤC VỤ PHỤNG VỤ
– Kinh Vinh danh được xướng lên bởi linh mục chủ tế [như là người ưu tiên nhất], hay nếu có thể, bởi một lĩnh xướng viên hay bởi ca viên, rồi hoặc tất cả mọi người cùng hát, hoặc cộng đoàn hát luân phiên với ca đoàn, hoặc một mình ca đoàn hát. Nếu không hát thì phải đọc, hoặc mọi người đọc chung, hoặc chia hai bè (x. QCSL 53, 126; NTTL 8; LNGM 135; Ordo Cantus Missae [= OCM], số 3; MVTN 138).[13]
– Kinh Vinh danh được hát trong các Chúa nhật ngoài Mùa Vọng và Mùa Chay, trong các lễ trọng và lễ kính, và trong các dịp cử hành đặc biệt khá long trọng (x. QCSL 53; MVTN 137).[14]
– Không hát kinh Vinh danh vào các Chúa nhật Mùa Vọng và Mùa Chay, nhưng đối với lễ trọng và lễ kính thuộc các mùa này, vẫn hát kinh Vinh danh như thường (x. QCSL 53, 126, 258; MVTN 137).
– Không được thay thế bản văn của thánh thi Gloria bằng bản văn nào khác (QCSL 53; MVTN 137). Cố gắng hát kinh Vinh danh hơn là đọc (Notitiae 14 [1978] 538, n. 14).[15]
– Mọi người cúi đầu khi đọc/hát danh thánh Giêsu (x. QCSL 275a).
V. SUY NIỆM[16]
Lạy Chúa Giêsu, bài thánh ca này gợi lên hình ảnh của thực tại trời cao, nâng tâm hồn chúng con lên ngai tòa ân sủng nơi Chúa Cha hiển trị cùng với Chúa, và trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần. Chúng con ngắm nhìn trong chiêm nghiệm bức linh họa về chốn trời cao này. Chúng con đã thấy ở đây bức chân dung về sự hiệp thông thần linh đã được phác họa bằng những lời lẽ đầy thi ca, nhờ vậy chúng con có thể thoáng thấy hình ảnh về cuộc sống vĩnh cửu mai sau mà chúng con được Chúa mời vào.
Mỗi lần hát bài thánh ca này, trong chúng con lại nổi lên nỗi nhớ về lễ đêm Vọng Phục sinh khi những quả chuông thánh đường đồng loại rung lên một cách tưng bừng như muốn đánh thức thế giới đang còn ngủ mê trong bóng đêm tội lỗi. Cũng như trong đêm Giáng sinh, bài Vinh danh lại được cất lên từ trong cõi thinh lặng của bóng đêm và âm thanh được vận hành băng qua biên giới của vũ trụ để loan đi sứ điệp yêu thương này: Ngôi Hai Thiên Chúa – đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng con.
Kinh Vinh danh thưa lên với Chúa là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa bỏ tội trần gian, đang ngự bên hữu Chúa Cha. Chúa đã bị đem đi giết và máu Chúa rửa sạch muôn vàn tội lỗi chúng con. Chúa đổ máu đào để cứu chuộc chúng con, chỉ một lần cho tất cả. Chúa đã cứu độ chúng con, nhưng chúng con cần tắm gội đi tắm gội lại trong dòng suối máu thánh Chúa để được thanh sạch. Chúng con là những người mà Chúa đã quyết định yêu thương cho đến chết. “Chúa xóa tội trần gian: xin thương xót chúng con”.
“Chúa ngự bên hữu Đức Chúa Cha” để chuyển cầu cho chúng con. “Xin nhận lời chúng con cầu khẩn” và trình bày lời nguyện ấy lên Thiên Chúa tối cao. Chúng con cầu xin Chúa cho những điều bình thường và quan trọng, cho dân chúng và hành tinh này, cho hòa bình và hòa giải, cho tự do và thịnh vượng. Trên tất cả, chúng con cầu xin cho người người khắp chốn, để rồi cuối cùng, họ cũng sẽ nhận biết Chúa, yêu mến Chúa và ôm lấy Chúa là Đấng Cứu Độ họ. Amen.
BÀI 11: LỜI NGUYỆN NHẬP LỄ
I. VĂN KIỆN
– Tiếp đến, linh mục mời cộng đoàn cầu nguyện; và mọi người cùng linh mục thinh lặng trong giây lát, để ý thức mình đang ở trước thánh nhan Thiên Chúa và có thể nói lên trong lòng những nguyện ước của mình. Rồi linh mục đọc lời nguyện, quen gọi là “lời nguyện nhập lễ”, lời nguyện này nói lên đặc tính của việc cử hành. Theo truyền thống ngàn xưa của Hội Thánh, lời nguyện nhập lễ thường hướng về Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, và kết bằng câu kết dài có tính Ba Ngôi…Cộng đoàn kết hợp với lời nguyện và thưa lời tung hô Amen để nhận lời nguyện làm của mình. Trong Thánh lễ, luôn chỉ đọc một lời nguyện nhập lễ duy nhất (Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [QCSL], số 54).
– Trong bất cứ Thánh lễ nào, phải đọc các lời nguyện riêng của Thánh lễ đó, trừ phi qui định cách khác. Trong các lễ nhớ các thánh thì đọc lời nguyện nhập lễ riêng của thánh kính nhớ, nếu không có, thì lấy trong phần Chung các thánh. Vào những ngày trong tuần mùa Thường niên, thì ngoài những lời nguyện của Chúa nhật đầu tuần, còn có thể lấy các lời nguyện của một Chúa nhật khác thuộc mùa Thường niên, hoặc một trong các lời nguyện của các lễ cho các nhu cầu khác nhau, có ghi trong sách lễ. Nhưng luôn chỉ được phép dùng một lời nguyện nhập lễ lấy từ các lễ đó mà thôi. Như thế, chúng ta có nhiều bản văn hơn ngõ hầu giúp nuôi dưỡng kinh nguyện của các Kitô hữu cách dồi dào hơn. Nhưng trong các mùa phụng vụ quan trọng hơn, việc thích ứng này đã được thực hiện nhờ những lời nguyện riêng cho mỗi ngày trong tuần sẵn có trong sách lễ. (QCSL 363).
II. LỊCH SỬ
Lời nguyện nhập lễ có lịch sử lâu đời trước cả hai lời nguyện tiến lễ và lời nguyện hiệp lễ. Vị chủ tế trong những thế kỷ đầu thường bắt đầu cử hành lễ bẻ bánh bằng một lời nguyện vừa để tập họp cộng đoàn vừa để dẫn vào phần công bố Lời Chúa. Từ thế kỷ IV, nhiều Đức Giám mục chủ tế thường ứng khẩu lời nguyện này để diễn tả sự hợp nhất của cộng đoàn, đồng thời hướng dân Chúa đến đặc tính riêng của từng Thánh lễ. Thánh Augustinô chỉ đơn giản khai mở phụng vụ bằng việc tiến vào thánh đường và chào chúc mọi người.[1]
Cho đến giữa thế kỷ V, hầu như Thánh lễ được bắt đầu ngay bằng các Bài đọc Kinh Thánh. Lời nguyện mở đầu Thánh lễ được cho là xuất hiện khoảng giữa thế kỷ VI và là bản văn nằm trong cuốn Sacramentarium Leonianum vì những lời nguyện ứng khẩu thường không ngắn gọn.[2] Sau đó, việc sưu tập những lời nguyện trong Thánh lễ được đưa vào các cuốn Sacramentarium Gelasianum và Sacramentarium Gregorianum với những lời nguyện mở đầu dùng cho các ngày lễ khác nhau.[3]
Tại Gaul, tức trong phụng vụ Gallican của thế kỷ VII -IX, lời nguyện này được biết dưới cái tên là collecta (lời tổng nguyện) do động từ colligere (thu góp), nghĩa là vị tư tế “thu thập hay tổng góp” tất cả những ý nguyện của tín hữu thành một “bó” mà dâng lên Thiên Chúa vì tư tế chủ toạ buổi phụng vụ cầu nguyện thay cho toàn thể cộng đoàn Dân Chúa và hành động nhân danh Đức Kitô. Nói cách khác, sở dĩ gọi là lời tổng nguyện bởi vì lời nguyện này thu góp và hợp nhất những ý nguyện xin khác nhau của các tín hữu tham dự thành một lời nguyện duy nhất, rồi vị chủ tế nhân danh cộng đoàn đang quy tụ mà dâng lên Chúa. Còn trong các tài liệu phụng vụ sau Công đồng Vaticanô II, lời tổng nguyện thường gọi là lời nguyện nhập lễ và mỗi Thánh lễ chỉ có một lời nguyện này mà thôi. Sách lễ 1570 thường có hơn một lời tổng nguyện, số các lời nguyện được thêm vào có thể gia tăng lên tới bày.[4]
Lời tổng nguyện được một số tác giả cho là vết tích của những lời nguyện đọc tại nhà thờ tập họp trong các Thánh lễ Chặng viếng. Vào lúc Đức Giáo hoàng hay vị tư tế tới nhà thờ được chỉ định, ngài sẽ đọc một lời nguyện mở đầu hay lời nguyện “tổng góp”. Khi tập tục cầu 2 lời “tổng nguyện” và rước kiệu đến nhà thờ để dâng lễ mất đi, lời nguyện mở đầu được gọi là lời tổng nguyện.[5]
Trong cuộc cải cách phụng vụ sau Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh đã nỗ lực phục hồi một vài yếu tố thuộc về chức năng độc nhất của lời tổng nguyện xa xưa [vốn là một trong 3 “lời nguyện thuộc chủ tế” trong Thánh lễ] tức là dành một thời gian cho mọi người thinh lặng hầu nêu ra ý nguyện của mình và giới hạn con số lời tổng nguyện, chấm dứt việc có thêm nữa những thỉnh nguyện hay tưởng nhớ các thánh theo sau. [6]
III. DIỄN TIẾN VÀ Ý NGHĨA CỦA TỪNG YẾU TỐ
Lời nguyện nhập lễ là yếu tố dẫn nhập cộng đoàn vào buổi lễ cũng như vào các Bài đọc Sách Thánh. Thật vậy, lời nguyện nhập lễ vừa kết thúc phần nghi thức đầu lễ, vừa khơi dậy tâm tình cầu nguyện của cộng đoàn hợp nhất với nhau trong Đức Kitô nhằm chuẩn bị tinh thần mọi người tham dự Thánh lễ cách xứng đáng. Vì thế, lời nguyện nhập lễ diễn tả đặc tính của buổi lễ (QCSL 54). Không những thế, lời nguyện nhập lễ còn như là mở đầu cho phần Phụng vụ Lời Chúa, vì thế nội dung lời nguyện này thường bao gồm ý chính của các Bài đọc Sách Thánh.
Mỗi lời nguyện nhập lễ gồm 3 yếu tố căn bản sau đây:[7]
1/ Lời mời gọi
Chủ tế mời gọi cộng đoàn hợp ý cầu nguyện bằng cách chắp tay và nói: “Chúng ta dâng lời cầu nguyện”. Câu “Chúng ta dâng lời cầu nguyện” hàm ý: [i] Thứ nhất, linh mục chủ tế, nhờ chức tư tế thừa tác của mình, không những đại diện cho Hội Thánh mời gọi các tín hữu cầu nguyện, mà còn đại diện cho toàn dân để dâng lên Thiên Chúa các lời cầu nguyện cùng những ý nguyện thầm kín của từng người. Lời nguyện ngài sắp tuyên đọc là của cộng đoàn cho dù chỉ được một người là vị chủ tế bày tỏ, và ngài cũng mời gọi mọi người chung lòng hợp ý để dâng lời nguyện xin;[8] [ii] Thứ hai, các tín hữu dùng lời cầu nguyện của mình để thi hành chức tư tế họ đã nhận được trong bí tích Thánh tẩy, tức là cùng với Đức Giêsu Kitô, dâng lên Chúa Cha, và nhờ Đức Giêsu Kitô mà cầu nguyện với Chúa Cha.[9]
2/ Giây phút thinh lặng
Sau câu “Chúng ta dâng lời cầu nguyện” mọi người cùng chủ tế thinh lặng cầu nguyện trong giây lát (Nghi Thức Thánh lễ [NTTL], số 9; QCSL 54). Sự thinh lặng vào lúc này là yếu tố hoàn toàn mới của Thánh lễ theo Vaticanô II. Đây không phải là việc tùy nghi nhưng là một đòi buộc, bởi vì: [i] Mặc dù lời tổng nguyện là lời nguyện thuộc chủ tế, nghĩa là chỉ do một mình chủ tế xướng (đọc), nhưng lại không phải là lời nguyện của riêng chủ tế mà là của cộng đoàn. Bởi thế, nếu bỏ không thinh lặng vào lúc này thì sẽ làm vuột mất sự cân bằng tinh tế giữa thừa tác vụ của tư tế và tác vụ của toàn thể dân chúng;[10] [ii] Sự thinh lặng nhằm mục đích để mỗi người hồi tâm, ý thức rằng mình đang hiện diện trước nhan Chúa, để hướng lòng về Chúa và âm thầm gợi lên trong tâm hồn mình các nguyện ước riêng dưới cái nhìn của Chúa trước khi vị chủ tế gom lại thành một bó duy nhất, thành một lời ‘tổng nguyện’, một lời cầu nguyện ‘tổng hợp’ mà dâng lên Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần (x. QCSL 54).[11] Giây phút này, các tín hữu mang theo mình trọn vẹn cuộc sống cá nhân và gia đình của họ để trình lên Chúa những vui mừng sầu khổ, những hy vọng khát mong của toàn thể Hội Thánh và của cả nhân loại.[12] Nếu mỗi người không cầu nguyện thầm thĩ trong lòng, chủ tế cũng không còn lý do để lớn tiếng cầu nguyện nhân danh họ, thâu kết những ước nguyện của họ. Với sự thinh lặng này, cộng đoàn phụng vụ không phải là một đám đông hỗn loạn, nhưng là cộng đoàn đức tin được Thiên Chúa kêu mời và quy tụ, là Dân Chúa, là gia đình của Thiên Chúa hay Hội Thánh của Chúa đang nên như cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem: “một lòng một ý” với nhau.[13]
3/ Lời nguyện (gồm 3 phần):[14]
– Phần ngỏ lời: Lời nguyện thường được mở đầu bằng kêu cầu Chúa Cha hoặc trực tiếp kêu cầu Chúa Giêsu. Phần ngỏ lời đôi khi cũng thêm vào những lý do để giải thích, nhất là trong những lễ trọng hoặc lễ kính các thánh.
– Phần cầu xin: Lời cầu xin thường rất tổng quát để có thể là bối cảnh ước nguyện cho bất cứ ý muốn nào của các tín hữu, vì trong lúc thinh lặng, mọi người đã âm thầm nói lên những ý nguyện riêng tư, cụ thể rồi. Phần này đặc biệt hướng về ngày lễ, về mùa hoặc về mầu nhiệm mừng kính và xin những ơn ban … Tuy vậy cũng không thiếu những yếu tố tạ ơn, ngợi khen là đặc tính cốt cán của mọi kinh nguyện phụng vụ.
– Phần kết thúc (vinh chúc): Để kết lời nguyện, Giáo Hội thường dâng lời cầu xin lên Chúa Cha, qua trung gian Chúa Con, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần bởi vì chỉ có Chúa Kitô là trung gian duy nhất, là vị Tư Tế hằng sống trung gian chuyển cầu cho chúng ta trước mặt Chúa Cha. Và sở dĩ chúng ta dám chắc về hiệu lực của lời kinh phụng vụ là vì có Chúa Kitô đang cầu nguyện với chúng ta. Câu kết được kéo dài để tuyên xưng thần tính của Chúa Con, chống lại sai lầm của Ario cho rằng Chúa Giêsu chỉ là một trung gian tầm thường, kém Chúa Cha. Vì thế tư tế đọc: Nhờ Đức Giêsu Kitô Con Chúa, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
Kết thúc hoàn toàn lời nguyện nhập lễ, cộng đoàn tung hô Amen (NTTL 9). “Amen” vừa có nghĩa là “ước mong được như vậy” (Gr 28,6), “xin hãy xảy ra như ý Chúa muốn”, vừa có nghĩa là mọi người đồng thanh chấp nhận những lời chủ tế – đại diện cộng đoàn – dâng lên Chúa, xác nhận lời nguyện của tư tế cũng chính là ý nguyện của mình (x. QCSL 54) như chữ ký của họ vào tài liệu cầu nguyện vậy và họ nguyện sẽ trung thành với tất cả lòng yêu mến.[15] Khi đáp lại Amen, những người tham dự thi hành chức năng đã được ủy nhiệm cho họ, đó là chức tư tế cộng đồng của tín hữu.[16]
IV. ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ
1/ Khi linh mục chủ tế mời gọi “chúng ta dâng lời cầu nguyện”, vì không có bất kỳ một chỉ dẫn nào về cử điệu của người tham dự nên mọi người có thể đứng trang nghiêm hướng về cung thánh hay chắp tay/khoanh tay cúi đầu như khi cầu nguyện riêng nhằm nối kết lời nguyện nhập lễ với thói quen đạo đức cá nhân.[17]
2/ Từ lúc chủ tế mời gọi “chúng ta dâng lời cầu nguyện”, ngoại trừ người giúp lễ giữ Sách lễ phía trước chủ tế có thể rút lui ngay khi linh mục chắp tay kết thúc lời tổng nguyện, còn những người khác: không nên nói gì, làm gì và cũng không nên di chuyển [như thể lời tổng nguyện chẳng liên quan gì đến mình] cho tới khi cộng đoàn tung hô Amen nhằm đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa và hướng tâm trí mình lên trời cao.[18] Bởi vậy, độc viên công bố Bài đọc I phải lưu ý những điểm này: [i] nên ở vị trí gần/sát cung thánh; [ii] nếu ở vị trí xa cung thánh thì phải di chuyển rồi tạm đứng ngay trước cung thánh đang khi cộng đoàn hát khúc cuối của kinh thương xót/kinh vinh danh; [iii] chỉ tiến đến giảng đài sau lời đáp Amen của cộng đoàn, tức là sau khi đã kết thúc phần nghi thức đầu lễ (x. NTTL 10; LNGM 137; QCSL 32).[19]
3/ Để cộng đoàn chú ý đến phần vụ của lời nguyện nhập lễ, chủ tế chỉ nên đọc lời nguyện này sau khi toàn thể cộng đoàn thinh lặng trong chốc lát. Sự thinh lặng này rất hữu ích nhằm nhấn mạnh Thánh lễ vừa mang tính cộng đoàn, vừa là hành vi trong đó chúng ta suy niệm và cầu nguyện riêng. Điều này đòi hỏi phải để cho mỗi người tham dự có đủ thời giờ nghĩ tới điều mình kêu xin.[20]
4/ Lời nguyện nhập lễ là “lời nguyện của vị chủ toạ”, nghĩa là chỉ có chủ tế mới được đọc. Vậy không được phép phân chia cho người khác đọc thay hay cùng đọc với vị chủ tế Lời nguyện nhập lễ (QCSL 30).
5/ Lời nguyện nhập lễ mang nét đặc thù và diễn tả đặc tính riêng của từng Thánh lễ, do đó thông thường lễ nào sẽ có lời nguyện nhập lễ riêng của Thánh lễ đó (x. QCSL 54). Tuy nhiên, đối với ngày thường trong mùa Thường niên: có thể chọn một trong 34 bài lễ của các Chúa nhật Thường niên và tùy theo nhu cầu mục vụ của giáo dân đòi hỏi; Còn đối với Thánh lễ dành cho thiếu nhi, chủ tế có thể chọn lựa một lời nguyện nhập lễ khác mà xét thấy liên hệ tốt hơn với chúng, nhưng phải cùng mùa phụng vụ.[21]
6/ Luật phụng vụ xác định rằng mỗi Thánh lễ chỉ đọc một lời nguyện nhập lễ riêng của Thánh lễ đó, nên không được phép phối hợp hay thay đổi lời nguyện đã được Giáo Hội quy định (x. QCSL 54): [i] Nếu có nhiều lễ trùng nhau và được mừng kính trong một ngày, vị chủ tế phải chọn Thánh lễ có vị trí ưu tiên hơn theo Bảng Ghi Ngày Phụng Vụ [xếp theo thứ tự ưu tiên];[22] [ii] Nếu các lễ bằng nhau thì chọn lễ nào liên quan đến cộng đoàn nhiều hơn, còn bỏ các lễ khác.
7/ Nếu lễ sinh/thầy giúp lễ phải giữ Sách lễ cho chủ tế đọc thì một là di chuyển vào vị trí trước khi ngài mời gọi “chúng ta dâng lời cầu nguyện” để đỡ gây chia trí cho người khác, hai là chú ý giữ Sách lễ ở độ cao và chênh góc phù hợp với tầm nhìn của linh mục.[23]
V. SUY NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, chúng con biết rằng lời nguyện nhập lễ là lời nguyện quy tụ tín hữu thành một cộng đoàn phụng tự. Vào những dịp khác nhau, lời nguyện này còn chất chứa chủ đề của buổi cử hành.
Lời nguyện nhập lễ có phần kết thúc thật quan trọng: Hội thánh thưa lên với Chúa Cha qua Chúa, Đấng Trung Gian của chúng con, và trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần.
Vâng, lạy Chúa, chính nhờ Chúa mà chúng con hướng lên Chúa Cha. Chúa là Đấng Trung Gian của chúng con. Khi cây thập giá được dựng trên đồi Canvê, âm phủ tăm tối ngăn cách giữa trời và đất đã bị xua tan để cuối cùng trời đất được bắc một nhịp cầu. Chúa đã từ trời xuống thế để nâng loài người sa ngã lên. Khi Chúa lên ngự bên hữu Chúa Cha, chắc chắn Chúa muốn ôm lấy toàn thể nhân loại chúng con theo Chúa. Chúa đã một mình giáng thế, nhưng khi về lại thiên đàng, Chúa muốn kéo theo Chúa một đoàn người đông đảo từ khắp muôn phương mà vì họ mà Chúa đã sinh xuống trần gian. Giờ đây, mỗi khi Hội Thánh dâng kinh nguyện lên Chúa Cha, Chúa đã ân cần trình bày những lời nguyện này lên ngai ân sủng như chính lời nguyện của Chúa.
Chúng con cầu xin nhờ Chúa là Thiên Chúa. Bị đóng đinh trên thánh giá và đang ngoi ngóp trong hơi thở sắp sinh thì, Chúa vẫn tuyên bố là Chúa của mọi loại thọ tạo. Và hành động đầu tiên của Chúa trong tư cách Thiên Chúa chính là trao ban Thần Khí cho Hội thánh. Khi Hội thánh cầu khẩn với Chúa như vị Thiên Chúa, Hội Thánh xin hồng ân từ Chúa Thánh Thần. Lời nguyện của chúng con sẽ thành vô ích nếu như không đặt để nơi Chúa Thánh Linh. Chúa đã chết và sống lại để cử đến và mang đến cho chúng con quyền năng và sự hiện diện an ủi của Chúa Thánh Thần. Vì thế, khi Hội thánh gợi lại sự chết và sống lại của Chúa, không phải là Hội thánh đang chờ mong ân huệ của Chúa Thánh thần như kết quả của lời nguyện ấy sao?
Lạy Chúa, khi hiệp cùng Hội thánh trong lời nguyện nhập lễ, xin giúp chúng con nhận ra tiếng nói còn ẩn khuất bên dưới ngôn ngữ khiếm khuyết của con người. Xin dạy chúng con luôn biết cầu nguyện nhân danh Chúa, vì không có Chúa chúng con chẳng dám đứng trước nhan Chúa Cha. Khi chúng con khẩn cầu Chúa, Thiên Chúa của chúng con, xin làm cho cuộc sống chúng con thêm sung mãn bằng ân huệ và sự hiện diện của Thần Khí Chúa. Amen.