Dân Làng Hồ- Chương XII: Cha Arnoux Cùng Cha Dourisboure Ở Kon Trang

CHƯƠNG XII

CHA ARNOUX CÙNG CHA DOURISBOURE Ở KON TRANG – CUỘC KHỞI HÀNH RỜI XỨ DÂN TỘC – CHA FONTAINE VÀ CHA DESGOUTS ĐI VỀ PHÍA NAM

Cha Arnoux quê ở Besançon, một giáo phận rất dồi dào ơn gọi tông đồ truyền giáo, luôn cung cấp một đội ngũ đông đảo các thợ gặt lành nghề cho Hội Thừa Sai Paris. Là người đồng hương với tôi, và tôi nghĩ ngài còn là họ hàng xa với Đức Cha Cuénot nữa. Khi còn học ở Chủng Viện Hội Thừa Sai, ngài đã được chỉ định trước sẽ làm việc cho miền truyền giáo dân tộc. Vì có năng khiếu đặc biệt về toán và sinh học, nên ban giám đốc Chủng viện đã xin cho ngài được theo học tiếp trường hầm mỏ. Người Châu Âu hoàn toàn không biết gì về xứ dân tộc, nơi ngài sẽ đi truyền giáo, nên họ muốn giúp ngài trau dồi kiến thức chuyên môn để sau này phục vụ đắc lực cho khoa học. Các giáo sư đánh giá cao về năng khiếu của ngài, họ muốn ngài hoàn toàn gắn bó với khoa học, lĩnh vực mà họ thấy ngài có thể tiến bộ rất nhanh chóng. Họ đưa ra nhiều lời đề nghị hấp dẫn và cho ngài thấy một tương lai sáng lạn ở đời. Nhưng họ rất kinh ngạc khi thấy nhà thừa sai trẻ này đã không hề bị lung lay trong quyết định của mình. Các nhà khoa học đã không biết được thế nào là hồng ân của Chúa và thế nào là tình yêu vinh thắng của Đấng đã từng kêu gọi các tông đồ của Người: “Hãy theo Thầy”.

Cha Arnoux và tôi là bạn cũ của nhau. Khi còn là giáo dân, cả hai cùng vào Chủng Viện Hội Thừa Sai năm 1846 và đã cùng học chung ở đó ba năm. Ngài đã ở lại Paris thêm một năm để theo học chuyên môn như đã nói trên. Vừa đặt chân đến xứ dân tộc, Cha Bề trên đã ưu ái ban ngài cho tôi để làm bầu bạn, và chỉ có Chúa mới biết tôi đã đưa ngài về Kon Trang với lòng hân hoan vui sướng biết bao! Sau đó, ngài hăng say học tiếng Xê Đăng và nhờ tôi chỉ dẫn đôi chút, ngài đã tiến bộ rất nhanh chóng. Chúng tôi vẫn ở trọ nhà ông Lam, cùng nằm chung một chiếu, đọc kinh chung với nhau trong rừng. Những nỗi buồn khổ khôn nguôi trong hoàn cảnh của chúng tôi bấy giờ dường như được vơi đi vì có cả hai cùng đồng lao cộng khổ.

Tranh thủ những lần dạo chơi trong rừng, tôi tập cho ngài quen với cuộc sống hoang dã, truyền lại cho ngài chút ít kinh nghiệm mà tôi vừa tích luỹ với bao khó nhọc. Tôi chỉ cho ngài các loại lá cây, ngọn cỏ mà lúc cần thiết có thể tạm dùng làm thức ăn. Bài học này hữu ích hàng đầu, vì nếu không tập cho quen thì có thể bị ngộ độc. Còn với những món ăn thuộc nhóm động vật thì không gặp trở ngại như vậy. Quy luật rất đơn giản. Này nhé, một hôm tôi yêu cầu  một người dân tộc kể cho tôi nghe các loại động vật mà chính anh ta và những người dân tộc khác có thể ăn. Anh ta cười và nói với tôi: “Đúng hơn, tôi nên kể cho ông nghe tên những loài vật mà chúng tôi không được ăn”. Và anh kể ra bốn loại. Rồi anh nói thêm: “Ngoài bốn loài vật này, chúng tôi ăn tất cả những gì động đậy, nhúc nhích trong không khí, trên đất và cả dưới nước nữa”. Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa đó là những con vật còn sống khi người ta giết chết làm thịt, bởi vì dù con vật đã chết vì bệnh hoặc vì bị con vật khác giết, thậm chí đã thối rửa thì người dân tộc vẫn cứ ăn như thường. Một ngày kia, tôi đi ngang qua khu rừng. Một người dân làng Dak Rô Ting quen biết tôi, đã gọi tôi từ xa và lịch sự mời tôi dùng bữa tối với anh. Anh muốn thiết đãi tôi một bữa tiệc, theo như lời anh nói. Tôi quay lại và đến gần anh. Anh đang nấu thức ăn trong một ống lồ ô đặt trên đống lửa. Món gì vậy? Anh chàng này đã may mắn vớ được một phần còn lại của một con nai đã thối rữa. Anh cẩn thận lượm từng con giòi đang lúc nhúc trong đống thịt thối, bỏ vào đầy một ống lồ ô để làm một bữa tiệc, mà theo khẩu vị của anh thì đây phải là một bữa yến tiệc dành cho bậc quyền quý.

Tóm lại, người dân tộc ăn thứ gì thì thừa sai chúng tôi cũng ăn thứ ấy, dần dần rồi quen. Vì muốn làm họ vui lòng, vì tình bạn, vì làm gương và nhất là vì hoàn toàn thiếu các món ngon, tất cả những lý do đó đều góp phần vào việc đả phá những thành kiến về cách ăn cũng như cách học. Nếu bạn muốn biết một vài món trong các món lạ đó, thì tôi xin kể: đó là chó, chuột đồng, chuột nhà, khỉ, rắn, đủ loại bò sát, bò cạp, cóc, v.v… Sao, cả cóc nữa ư? – Vâng, tất nhiên rồi! Và tôi xin nói nhỏ, chỉ chúng mình nghe thôi: thịt cóc ngon hảo hạng! Bỏ hết mọi thứ trong bụng đi vì ăn trứng cóc sẽ bị ngộ độc, rồi lột bỏ da có chứa chất độc, sau đó hãy mạnh dạn mà ăn và tôi quả quyết với các bạn: đó là một món đặc sản! Có lẽ bạn đọc sẽ nói: ông nói như thế, đơn giản chỉ vì bây giờ ông đã là người dân tộc như người dân tộc dự tòng của ông rồi. Xét cho cùng, điều đó có thể lắm chứ.

Nhưng những chi tiết gợi thèm về nghệ thuật nấu ăn của anh em dân tộc đã làm tôi xa đề rồi. Xin được trở lại. Những tháng đầu tiên Cha Arnoux ở với người Xê Đăng xem ra không ảnh hưởng gì đến sức khoẻ vững chắc của ngài. Trong những lần chúng tôi đi quanh Kon Trang và xa hơn nữa về hướng Bắc để thăm nhiều làng Xê Đăng khác, ngài đã có thể ganh đua với tôi về việc đi bộ. Được như thế không phải dễ đâu, vì thời đó tôi nổi tiếng về môn cuốc bộ giữa các bạn đồng nghiệp của tôi. Chúng tôi đã nhiều lần đi trong rừng. Ngài là người đã cười nhạo tôi về chuyện lạc đường hôm ngài vừa đến xứ dân tộc, thì giờ đây ngài phải đền tội bằng cách tha hồ hưởng nếm những nỗi mệt nhọc và khốn khổ mà kẻ lạc đường đương nhiên phải gánh chịu.

Tôi xin nhắc lại, thời gian đầu Cha Arnoux đã tỏ ra khá khoẻ mạnh, nhưng cái bao tử của ngài không chống chọi được với các loại thực phẩm mà chúng tôi có rất hạn chế. Ngài ăn không thấy ngon, chẳng bao lâu sau ngài hoàn toàn mất sức. Vừa ăn chút gì, ngài liền thấy khó chịu dữ dội, thường nôn tháo ra ngay. Sau đó, ngài còn bị bệnh kiết lị hành hạ nhiều tháng khiến ngài lâm vào tình trạng thật bi thảm. Tôi thán phục sự can đảm cũng như lòng nhẫn nhục chịu đựng và niềm phó thác mọi sự theo Thánh ý Chúa của ngài. Một hôm, ngài nói với tôi: “Tôi không chịu đựng được lâu đâu, và tôi tin chắc rằng trong vòng mười lăm năm nữa sẽ không một ai trong các bạn đồng nghiệp của chúng ta đang có mặt nơi miền dân tộc này còn sống sót. Tôi cho là mười lăm năm, chỉ vì có một trường hợp duy nhất là Cha quá khoẻ, còn những người khác và nhất là tôi, chúng tôi sẽ chết hết trước vài năm”.

Tội nghiệp Cha Arnoux! Lời tiên đoán của ngài đã được ứng nghiệm. Ngài đã chết. Hai Cha Combes và Desgouts cũng đã qua đời. Năm hoặc sáu vị thừa sai khác mới đến sau này cũng đã chết. Cha Fontaine cảm thấy mình sắp chết, cũng rời bỏ xứ dân tộc. Mười lăm năm cũng đã trôi qua lâu rồi và chỉ còn mình tôi là người sống sót duy nhất. Bệnh tật ngày càng chồng chất, nặng thêm, cảnh báo cho tôi biết rằng tôi cũng sắp kết thúc cuộc lữ hành nơi trần thế của tôi. Phó dâng cho Chúa mọi sự!

Cha Arnoux đã khoẻ lại chút ít sau trận đau đầu tiên này, nhưng từ đó ngài không bao giờ phục hồi hoàn toàn sức khoẻ như xưa. Trong năm ở Kon Trang, ngài liên tục ngã bệnh và cuối cùng tình trạng trở nên tồi tệ đến nỗi buộc lòng Cha phải rời xa tôi. Trước khi trở về An Nam, ngài muốn thử một lần nữa liệu bệnh của ngài có thể được chữa lành ở miền dân tộc này hay không? Vì mục đích đó, Cha đã ở lại vài tháng với Cha Bề trên Combes tại Kon Kơ Xâm. Chỉ sau khi mất hết hy vọng chữa lành, ngài mới lìa bỏ miền đất của những người Ba Na, miền đất mà ngài đã thiết tha yêu mến và nói lời vĩnh biệt chúng tôi. Chúng tôi sẽ không còn dịp gặp lại ngài trên trần gian này nữa!

Lúc đó, Cha Combes có một thầy giúp lễ tên là Bảo ở với ngài. Thầy là người bạn trung thành của ngài từ chuyến đi đầu tiên lên xứ dân tộc. Ngài giao cho thầy Bảo đưa Cha Arnoux về Trung Châu. Có ba bốn anh em người Kinh cùng đi. Thầy này, sau khi thụ phong linh mục, đã chia sẻ với tôi việc mục vụ trong thời gian rất lâu và thường thuật lại cho tôi nghe những chi tiết về hành trình lâu dài và gian khổ này. Không nói đến những nỗi mệt nhọc, thời tiết xấu, những tai nạn đủ loại, mà họ gặp trên núi rừng xứ Ba Na. “Cha Arnoux nửa sống nửa chết, lúc thì được anh em dân tộc cõng, lúc thì hụt hơi lết đi và rên đau, vì thế ngài đã trở thành mối lo âu cho các bạn trong nhiều ngày”. Thật khó tưởng tượng được hoàn cảnh nào nguy hiểm hơn là trường hợp của họ, khi bước chân vào tỉnh Bình Định, lúc mà họ tưởng là đã thoát hiểm.

Anh em đã về đến Trạm Gò, lãnh thổ vương quốc An Nam và như vậy họ không thể di chuyển ban ngày vì cuộc bắt Đạo. Khi trời đã tối, họ mới lên đường đi đến con sông nơi có một chiếc ghe đang chờ sẵn. Nhưng lúc gần đến chiếc ghe, họ bỗng thấy mình bị cả hai đàn voi bao vây cùng một lúc. Ở đó, có một đồng lúa sắp chín, và bầy voi thèm mồi ngon đã hẹn nhau đến đó. Giữa cánh đồng, trên một thân cây lớn, có một cái chòi của những người giữ lúa. Những người này khi thấy thú dữ đến thì nổi trống lên để cố làm cho chúng hoảng sợ. Người của chúng ta cũng đang nấp dưới cây to này, không dám thở vì đoàn người của Cha Arnoux chẳng khác gì món hàng lậu, và trong tình huống này họ phải sợ cả người lẫn thú. Chẳng bao lâu, bầy voi cảm thấy chúng không đơn độc và thế là cả hai bầy sáp lại tiến về phía cây to. Đoàn người nhỏ bé của chúng ta thất kinh hồn vía! Người người cắm đầu chạy và nhảy xuống sông. Người mang gói thư lại đánh rơi mất khi chạy trốn. Cha Arnoux may sao chui vào được trong một bờ giậu gai. Một chú voi dường như đoán biết có người ẩn trốn trong đó, nhưng vòi đụng phải gai, sợ gai chích, nó bỏ con mồi mà đi. Trong khi đó, mấy người giữ lúa đánh trống dồn dập đến nỗi, cuối cùng, đàn voi phải bỏ đi. Nhưng đoàn người của ta còn lâu mới thoát hiểm. Đêm hôm đó trời tối lạ lùng. Anh em tản lạc khắp nơi và không dám lên tiếng gọi nhau vì sợ mấy người giữ lúa nghe thấy. Nhờ trời xui đất khiến, Cha Arnoux và thầy Bảo lần mò thế nào mà đụng vào nhau! Tìm kiếm gói thư gần một giờ, cuối cùng Chúa cũng giúp tìm thấy. Vừa lúc ấy, bình minh bắt đầu ló dạng. Mặt trời xứ An Nam, kẻ thù lớn nhất chống lại các linh mục châu Âu, sắp xuất hiện. Mặt trời vừa qua khỏi rặng núi thì nhà truyền giáo và các bạn đã ẩn nấp trong thuyền bình an vô sự.

Cuối cùng, Cha Arnoux thập tử nhất sinh cũng đã về đến nhà Đức Cha Cuénot. Nhưng bao nhiêu sự chăm sóc ân cần cũng không hoàn trả lại sức khoẻ cho ngài. Vì thế, ngài được gửi đến Singapore để các bác sĩ Tây phương giỏi chữa trị cho ngài. Từ đó, ngài trở về miền Nam và đã thành lập một cô nhi viện lớn, chăm sóc các trẻ em người dân tộc cho địa phận truyền giáo này. Ngài đã dâng hiến đời mình cho công việc bác ái này suốt mười hay mười hai năm, sống mòn mỏi, bệnh tật cho đến ngày suy kiệt và trút hơi thở cuối cùng tại trụ sở của chúng tôi ở Hồng Kông.

Ít lâu trước ngày Cha Arnoux ra đi, Cha Fontaine đã nhận lệnh Đức Cha Cuénot đi đến các xứ truyền giáo mà hai Cha người Kinh đã khởi sự, nằm sâu về hướng Nam, tại xứ sở của người dân tộc Bơ Nông, phía Nam lãnh thổ của bộ tộc Jrai. Người Bơ Nông trở lại rất đông, có triển vọng rất tốt đẹp trong tương lai. Nhưng tình trạng sức khoẻ đáng buồn của Cha Fontaine đã không cho phép ngài ở lại đó. Ngài phải qua Campuchia, rồi sang Thái Lan và cuối cùng bị kiệt quệ vì bệnh kiết lị. Ngài đã phải về Pháp điều trị. Khi trở lại, ngài ở luôn tại miền Nam, bấy giờ Nam Kỳ nằm dưới sự bảo hộ của Pháp. (Rồi căn bệnh của Cha lại tái phát, ngài về Pháp một lần nữa vào năm 1870 và mất tại Laval vào tháng hai năm 1871. Chú thích của nhà xuất bản).

Phần Cha Desgouts, từ lúc Thầy Sáu Do trở về An Nam thì ngài ở một mình trong căn nhà tại làng Rơ Hai, cùng với số đông anh em trong đoàn. Ngài cũng đã xa lìa chúng tôi mà ra đi, sau Cha Fontaine ít lâu. Đức Cha biết các học trò của Cha Desgouts hiền hậu đã phải mất nhiều thời giờ để chữa trị ghẻ lở, sốt rét, và nhiều thứ bệnh khác hơn là để học tiếng Latinh. Mặc khác, tất cả các tin tức liên quan đến công cuộc truyền giáo của các Cha người Kinh thực hiện ở Bơ Nông cho phép tin tưởng rằng trong tương lai gần sẽ thiết lập được một cộng đoàn Kitô hữu phồn thịnh, và một Chủng Viện lập tại đó sẽ có nhiều cơ may thành công hơn. Do đó, Cha Desgouts được lệnh đi đến xứ Bơ Nông và đem theo các học trò của mình. Nhưng sức khoẻ của ngài đã quá suy sụp, không đủ sức chịu đựng một sự thay đổi thuỷ thổ mới, và từ lúc đó cho đến khi chết, cuộc sống của ngài chỉ là một cơn hấp hối kéo dài! Bệnh sốt rét và kiết lị buộc ngài phải đi Singapore để điều trị. Nhưng các bác sĩ Tây phương cũng đành bó tay và chỉ ít lâu sau, người bạn đồng nghiệp yêu quý của chúng tôi cũng đành vĩnh viễn xa lìa chốn lưu đày này mà về quê trời.

Tại miền truyền giáo dân tộc, chỉ còn Cha Combes và tôi. Tôi lại rơi vào tình trạng cô quạnh, nhưng dân làng Kon Trang đã đồng lòng xây cho tôi một ngôi nhà và niềm an ủi lớn cho tôi là thường xuyên được dâng Thánh lễ. Cuộc sống trở nên dễ chịu hơn nhiều. Tôi không còn bạn bè đồng nghiệp nào nữa, nhưng hàng ngày, Chúa Giêsu Kitô đến viếng thăm tôi. Chỉ những ai ở trong hoàn cảnh giống như tôi mới biết được thật là an ủi biết bao cho những tâm hồn khổ não khi chỉ đơn giản nghĩ: “Sáng mai tôi sẽ lên Bàn Thánh và Thiên Chúa sẽ đến ở với tôi”. Cha Combes đã gửi lên Kon Trang một thanh niên người Kinh tên là Lục để giúp tôi lo việc cơm nước hàng ngày và nhiều việc khác nữa theo khả năng của anh. Nhưng, cô đơn vẫn hoàn cô đơn! Ấy thế nhưng, ngay tự bản chất, sự cô quạnh khác xa lúc trước. Trước kia, tôi lẻ loi trong ngôi nhà chứa đầy anh em dân tộc, giữa những tiếng huyên náo, ồn ào không dứt, bây giờ tôi đơn chiếc trong bình an, trong thinh lặng và tôi có thể nghe rõ tiếng Chúa hơn.

(Còn tiếp)

print