Hiệp Sống Tin Mừng CN 33 TN A & Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam (24/11)

print

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CN 33 TN A – LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM (24/11)

2 Mcb 7,1.20-23.27b-29; Rm 8,31b-39; Ga 12,20-32

Cần Làm Chứng Cho Chúa Như Thế Nào?

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 12,20-32

(20) Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. (21) Họ đến gặp ông Phi-lip-phê, người Bết-xai-đa miền Ga-li-lê và xin rằng: ”Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su”. (22) Ông Phi-lip-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-lip-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất. còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy. (27) Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha”. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ”Ta đã tôn vinh danh Ta. Ta sẽ còn tôn vinh nữa !” (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ”Đó là tiếng sấm !” Người khác lại bảo: ”Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy !” (30) Đức Giê-su đáp: ”Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì Tôi, mà vì các người. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngòai ! (32) Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.  (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ người sẽ phải chết cách nào.

  1. Ý CHÍNH:

Khi mấy người Hy-lạp đang ở Giê-ru-sa-lem yêu cầu các môn đệ cho được gặp Đức Giê-su, thì Người tuyên bố rằng: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !” Sau đó, Người dùng hình ảnh một hạt lúa mì chỉ phát sinh thêm nhiều bông hạt khác nếu nó tự hủy đi. Cũng vậy, Người cũng sẽ phải trải qua sự chết rồi mới được vào trong vinh quang phục sinh. Về phần các môn đệ, các ông cũng cần phải đi con đường của Người: Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, sẵn sàng thí mạng sống mình vì Đức Giê-su, thì sẽ có sự sống vĩnh cửu ở đời sau như Người đã hứa: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1.LỜI CHÚA:  ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. (Ga 12,23-24).

2.CÂU CHUYỆN:

1) LOÀI NGƯỜI AI CŨNG SỢ CHẾT:

Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”

Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác liền sợ hãi run lập cập và trả lời rằng: “Bó củi to và nặng quá! Nhờ ngài giúp đưa nó lên vai tôi với”.

Thế đó, dù có gặp đau khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn tất cả. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được như lời Thánh vịnh: “Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10)

2) THÀY GIẢNG AN-RÊ PHÚ YÊN SẴN SÀNG CHẾT VÌ DANH CHÚA:

Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.

Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để tiếp tục chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Lính gác bao vây để ngăn không cho ai được vào bên trong cả. Tuy nhiên viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được vào đứng bên cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê ngước nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và không ngừng kêu danh thánh Giê-su.

Một tên lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giê-su đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chú nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim nhưng thầy vẫn chưa chết. Thấy thế, một tên lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ thầy nhưng vẫn chưa kết thúc được. Phải thêm một nhát thứ hai đầu thầy mới lìa khỏi cổ, máu tuôn trào lai láng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ liền nhặt lấy đầu thầy gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác thầy thì ngài cho tẩm liệm rồi gởi xuống tàu buôn đưa về Ma-cao chôn cất.

3) THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC CAN ĐẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA:

Trần An Dũng Lạc sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là An-rê. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy An-rê được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi được 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha An-rê được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày giữ chay theo luật định, cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày Thứ Sáu Thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin vào Chúa và xin gia nhập đạo.

Khi đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha An-rê Dũng đã phải trốn lánh ở nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phê-rô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi cha lại bị đám lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phê-rô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.

Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để tỏ ý bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa !”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc cho lính canh.

Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi hai cha bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lê-ô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng chân phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II lại nâng các ngài lên bậc hiển thánh. Hội Thánh cũng chọn làm lễ kính “Thánh An-rê Trần An Dũng Lạc Và Các Bạn Tử Đạo” hay lễ kính “Các Thánh Tử Đạo Tại Việt Nam”.

  1. SUY NIỆM:

1) TỬ ĐẠO LÀ CHỌN CON ĐƯỜNG “QUA ĐAU KHỔ VÀO VINH QUANG”:

Đức Giê-su đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Rồi Người kêu gọi : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,22-23). Người tiên báo : “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Lời tiên báo này đã được ứng nghiệm như sau:

– Ứng nghiệm nơi Đức Giê-su: Vào năm ba mươi tuổi, Đức Giê-su đã thi hành sứ vụ đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Các đầu mục Do thái do không tin Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, nên tìm mọi cách để chống lại Người: Họ tố cáo Người lộng ngôn phạm thượng khi dám gọi Thiên Chúa là Cha “Ab-ba” (Cha ơi), và con xưng mình là Con Thiên Chúa; tố Người đã nhờ tay Quỷ Vương mà trừ quỷ; Tố Người phạm luật “hưu lễ” khi hành nghề chữa bệnh trong ngày Sabat; Tố Người đã xách động quần chúng không nôp thuế cho chính quyền Rô-ma… Cuối cùng họ đã bắt Người và kết án tử hình cho Người trong Thượng Hội Đồng Do Thái, rồi nộp Người cho quan Tổng Trấn Phi-la-tô và làm áp lực để ông này phải kết án tử hình thập giá cho Người.

– Ứng nghiệm nơi các Tông đồ: Sau lễ Ngũ Tuần, Các Tông đồ được đầy ơn Thánh Thần đã bắt đâu chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng thế giới là thủ đô Rô-ma. Các ông đã bị bắt bớ dánh đòn và bị kết án tử hình. Trong số 12 tông đồ thì ngoài Gio-an bị chết già, còn các vị khác đều bị giết chết vì danh Chúa Giê-su. Tông đồ Phê-rô bị đóng đinh ngược và tông đồ Phao-lô bị chém đầu tại thủ đô Rô-ma.

– Ứng nghiệm nơi Hội Thánh Sơ Khai: Giáo Hội Chúa Ki-tô đã trải qua gần 300 năm bị bách hại do người Do Thái và do các hoàng đế Rô-ma. Đến triều hoàng đế Công-tăng-tanh, đạo mới được sắc chỉ tha và sau đó đã trở thành quốc giáo. Trong suốt thời gian ấy, các tín hữu đã phải trốn tránh dưới các hang hố đào trong lòng đất, gọi là các hang toại đạo tại thủ đô Rô-ma. Rất nhiều Tông đồ và giáo dân đã bị bắt bớ, xử tử, nhất là dưới triều hoàng đế Nê-rông.

– Ứng nghiệm nơi Hội Thánh Việt Nam: Ngay từ thế kỷ 16, các vị thừa sai ngoại quốc đã đi theo các đoàn thương thuyền vượt biển từ các nước Âu châu đến Việt Nam giảng đạo theo lệnh Chúa truyền. Nhưng vua quan nước ta thời đó do thiếu khôn ngoan và hiểu biết, đã đồng hóa đạo với đế quốc xâm lược, và ra nhiều sắc chỉ cấm đạo. Phong trào Cần Vương, Văn Thân thời đó đã khích động dân chúng đi phá các làng theo đạo, đốt cháy nhiều nhà thờ và bắt bớ các vị thừa sai, các đạo trưởng và những người có uy tín trong đạo… Rất nhiều tín hữu phải bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn và sản nghiệp để chạy trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc để bảo toàn mạng sống và để giữ vững đức tin. Đã có hàng trăm ngàn tín hữu bị bách hại trong thời kỳ này: Họ bị phân sáp thành vài ba người và phải vào ở giữa làng người lương. Nhiều làng công giáo bị đốt phá, nhiều nhà thờ bị triệt hạ. Trong số các tín hữu bị giết hại ấy, Hội Thánh sau khi điều tra đã tôn phong 117 vị có đầy đủ hồ sơ chứng tích vào hàng ngũ các thánh gọi là Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

2) TỬ ĐẠO LÀ SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ ĐỨC TIN ĐỂ LÀM CHỨNG CHO CHÚA:

– Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa áp dụng là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho các tín hữu bị bắt phải bước qua. Ai bước qua thánh giá để tỏ dấu công khai bỏ đạo thì sẽ được tha. Ai kiên quyết không bước qua thánh giá thì bị coi là ngoan cố nên sẽ bị hành hình đến chết.

– Trong số 117 vị thánh Tử Đạo Việt Nam có 8 Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần xã hội, lứa tuổi, ngành nghề như: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, có một số nhà truyền giáo “ngoại quốc” như người Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt nam truyền đạo và đã được phúc tử vì đạo.

– Các ngài đã phải chịu mọi cực hình như: gông cùm xiềng xích trong cũi, bị voi giầy, bị trảm quyết (chặt đầu), xử giảo (thắt cổ), bị thiêu sinh (bị đốt cháy trong lửa đến chết), bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh), bị bá đao (bị chém bằng trăm nhát đao), bị chết rũ tù (Chết bệnh trong thời gian đang ở tù)… để biểu lộ lòng mến tột đỉnh như lời Chúa phán:Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

3) TRỞ THÀNH NGƯỜI LÀM CHỨNG HAY THÀNH KẺ PHẢN CHỨNG:

a- Chúng ta cần làm chứng cho Chúa bằng sự thực thi giới răn yêu thương:

– Trong gia đình: Vợ chồng sẽ làm chứng cho Chúa bằng cách vun sới tình yêu bằng sự tôn trọng lẫn nhau, cha mẹ quan tâm nuôi dạy con cái nên người, con cái hiếu thảo vâng lời cha mẹ.

– Trong môi trường chung quanh: chúng ta chỉ chiếu sáng đức tin hay làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu bằng lối sống yêu thương, tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Học trò làm chứng cho Chúa bằng việc chăm chỉ học hành, đạt được thành tích cao. Các cầu thủ bóng đá, các vận động viên thi đấu làm chứng cho Chúa bằng cách cố gắng đạt thành tích cao và được tuyên dương thăng thưởng…

b- Trái lại, chúng ta sẽ trở thành kẻ phản chứng:

– Trong gia đình: Khi ta không giữ lời thề chung thủy vợ chồng, chiều theo các đam mê lạc thú bất chính, dẫn đến ly hôn, phá đổ hạnh phúc gia đình. Khi cha mẹ nhẫn tâm giết chết con mình bằng cách áp dụng các phương pháp ngừa thai nhân tạo trái tự nhiên hoặc đi nạo phá thai.

– Trong môi trường chung quanh: Khi ta ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, mà không quảng đại cho đi và khiêm nhường phục vụ. Chỉ lo tìm kiếm tiền bạc và chức quyền bằng bất cứ giá nào, dù phải vi phạm các giới răn của Chúa và của Hội Thánh. Khi ta thụ động trước những bất công và thờ ơ trước những người nghèo đói bất hạnh đang sống ngay gần bên ta. Khi ta nuôi lòng thù hận anh em, không chịu tha thứ và làm hòa theo lời Chúa dạy. Khi ta thoả hiệp với thế gian, cố tình bịt tai nhắm mắt trước những hà hiếp bất công, không dám bênh vực những người thấp cổ bé miệng như Tin Mừng đòi hỏi.

  1. THẢO LUẬN:

1) Tại sao đạo Công Giáo luôn bị người đời thù ghét bách hại ?

2) Tử đạo là sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Mỗi người chúng ta phải làm chứng cho Chúa thế nào trước mặt anh em lương dân ? 

5.NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI. Xưa Chúa đã dạy các môn đệ : “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về trần gian”. Xin cho chúng con hôm nay đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo những cám dỗ của thế gian, ma quỉ và xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh” để chúng con luôn sống xứng đáng là những con cháu của các anh hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Biết nở nụ cười thân ái mỗi khi tiếp xúc với tha nhân; Luôn chủ động đi bước trước để làm quen với những người mới; Động viên an ủi những ai gặp tai ương hoạn nạn; Khiêm nhường phục vụ những người đau yếu bất hạnh… để chúng con nên chứng nhân cho Tình Thương của Chúa và đưa được nhiều người về làm con Chúa trong gia đình Hội Thánh.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

***

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN A

Cn 31,10-13.19-20.30-31; 1 Tx 5,1-6; Mt 25,14-30

Tỉnh Thức Và Sẵn Sàng Đón Chúa Đến

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 25,14-30

(14) Có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tới riêng của mình đến mà giao phó của cải mình cho họ. (15) Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, (16) người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm nén khác. (17) Cũng vậy, người đã lãnh hai nén gây lời được hai nén khác. (18) Còn người đã lãnh một nén thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. (19) Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và thanh tóan sổ sách với họ. (20) Người đã lãnh nhận năm nén tiến lại gần, đưa năm nén khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây”. (21) Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (22) Người đã lãnh hai nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai nén, tôi đã gây lời được hai nén khác đây”. (23) Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !”. (24) Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. (25) Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy !”. (26) Ông chủ đáp: “Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác ! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, (27) thì đáng lý ngươi phải gởi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng, để khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ !”. (28) Vậy các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén. (29) Vì phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. (30) Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: Ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.

  1. Ý CHÍNH:

Tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến trong giờ chết và vào ngày tận thế. Chỉ những ai chu toàn nhiệm vụ làm lợi cho Chúa bằng tất cả khả năng Chúa ban, mới được kể là đầy tớ trung tín và sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời với Chúa.

  1. CHÚ THÍCH:       

– C 15: + Nén bạc: là một đơn vị tiền tệ có giá trị tương đương với 6.000 quan tiền, tương đương 6.000 ngày công lao động. Đây là một số tiền rất lớn, nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa. Người trao các nén bạc tài năng, trình độ học vấn, của cải vật chất và địa vị xã hội… cho mỗi người. Số nén bạc được trao năm nén, hai nén và một nén, ám chỉ các ân huệ và tài năng được ban nhiều ít tùy theo khả năng mỗi người.        

– C 18: + Đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ: Đây là thái độ tiêu cực và vô trách nhiệm của người đầy tớ được trao cho một nén. Những ai không sử dụng các tài năng và của cải Chúa ban để làm sáng danh cho Chúa tức là đã đem chôn giấu nén bạc được trao cho mình.

– C 29: + Phàm ai có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi: Ai tin vào Đức Giê-su và dùng ơn Chúa ban để làm vinh danh cho Chúa và phục vụ phần rỗi tha nhân thì sẽ được Thần Chân Lý giúp hiểu biết sự thật và ngày một nên hoàn thiện hơn. Còn những kẻ không yêu mến Chúa, thể hiện qua việc không làm lợi các nén bạc được trao, thì sẽ không được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau với Chúa.

– C 30: Khóc lóc nghiến răng: Một kiểu nói diễn tả các hình phạt của những kẻ không tin yêu Chúa. Họ sẽ chung số phận với ma quỷ muôn đời trong hỏa ngục, nơi đầy đau khổ và hận thù.

  1. CÂU HỎI: 1) Nén bạc là gì ? Giá trị thế nào ? Ám chỉ điều gì ? 2) Thái độ đào lỗ để chôn giấu số bạc của chủ là hành động của hạng người nào ? 3) Câu “Phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” có ý nghĩa thế nào ? 4) Kiểu nói “Khóc lóc nghiến răng”ám chỉ người bị sa hỏa ngục phải chịu những hình phạt gì ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) HÃY LÀM MỌI VIỆC VỚI HẾT KHẢ NĂNG.

Sau khi đến thăm gia đình của một cô bạn cùng lớp vừa bị tai nạn xe cộ, cô bé Lin-đa trở về nhà. Cha cô đã nổi giận khi biết con gái vừa đến thăm tang gia của bạn. Ông trừng mắt nhìn Lin-đa và hỏi: “Tại sao con lại đến nhà người ta vào lúc này ?” Lin-đa trả lời: “Thưa ba, con đến là để giúp đỡ cho gia đình bạn ấy”. Ông bố lại hỏi: “Nhưng con thì làm được việc gì để giúp đỡ gia đình nhà họ ?” Lin-đa đáp: “Ba ơi, con chẳng giúp gì được cho gia đình bạn ấy cả. Con chỉ biết chạy đến ôm chầm lấy mẹ của bạn ấy mà khóc, và mẹ bạn ấy cũng ôm con vào lòng và cùng khóc với con”. Câu trả lời của Lin-đa đã làm cho cha cô hiểu ra rằng: Tuy Lin-đa không làm được gì nhiều cho tang gia, nhưng em đã làm tất cả những gì trong khả năng và tầm tay của mình để an ủi bà mẹ đang đau khổ vì vừa bị mất đứa con thân yêu.

2) LỜI TRĂN TRỐI CỦA MỘT NGƯỜI LÚC SẮP CHẾT:

Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người thiệt mạng. Một thời gian ngắn trước khi máy bay rơi xuống vách núi nổ tung thì hành khách đã được phi hành đoàn thông báo cho biết máy bay họ đang đi đã bị mất điện và sắp bị rơi. Hành khách có vài phút để viết mấy lời từ biệt người thân.

Khi các nhân viên cấp cứu đến nơi máy bay bị rớt thì họ đã tìm thấy một cuốn lịch bỏ túi của một thương gia người Nhật. Trong đó, người thương gia đã ghi lại mấy hàng chữ run rẩy như sau: “Máy bay sắp bị rơi rồi… tôi buồn quá!”. Trang tiếp viết cho con cái : “Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ cho mẹ các con”. Những hàng chữ run rẩy trong cuốn lich bỏ túi nói trên của một người biết mình sắp chết. Cái chết đã bất chợt đến mà không báo trước như tên trộm lúc đêm tối.

3) HÌNH ẢNH VỀ CUỘC PHÁN XÉT CHUNG:

Vào lễ Giáng sinh 1541, khi mở tấm màn che bức tranh khổng lồ của họa sĩ MICHEL-ANGELO về ngày phán xét chung, nhiều người chiêm ngưỡng đã phải rùng mình khiếp sợ, vì khuôn mặt của Chúa Giê-su không còn mang vẻ hiền lành của một Mục tử nhân lành, mà đã biến thành một vị Thẩm phán oai nghiêm công thẳng. Trong bức tranh, đã có hơn 300 hình ảnh nhỏ ghép lại: nào là hình các thánh Tông đồ, các thánh Tử đạo, các thánh Tiến sĩ, các Đức Giáo hoàng, những người giáo dân… Theo tiếng kèn thiên sứ, hết mọi người chết đều trỗi dậy và ra khỏi mồ để chịu phán xét chung. Có những hình ảnh về cha mẹ đang âu yếm khi gặp lại con cái; Hình bạn bè gặp nhau tay bắt mặt mừng… Thế nhưng, trong ánh mắt của mọi người đều biểu lộ một nỗi sợ hãi vì số phận đời đời của họ sắp được ấn định.

Đức Giê-su đã tiên báo về ngày cùng tận của thành Giê-ru-sa-lem ám chỉ về ngày tận thế. Vào năm 70 sau Công Nguyên, dân Do thái nổi loạn chống lại Đế quốc Rô-ma. Tướng Titus đã mang quân đến vây hãm thành nhiều ngày liền và họ triệt đường nước và lương thưc. Cuối cùng thì thành đã bị thất thủ và bị đốt cháy tàn phá “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”.

Cũng vậy, trong ngày tận thế khi Chúa Ki-tô tái lâm sẽ phán xét chung toàn nhân loại. Khi ấy mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của mỗi người đều bị phơi bày trước nhan Chúa. 

Điều cần là mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức cầu nguyện và làm lợi các tài năng Chúa ban, để được Chúa khen ngợi ban thưởng Nước Trời đời đời như sau : “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).

  1. SUY NIỆM:

1) TỈNH THỨC BẰNG LỐI SỐNG ĐƠN SƠ NHỎ BÉ NHƯ THÁNH NỮ TÊ-RÊ-SA:

– Tuy không làm được những việc lớn lao, nhưng Tê-rê-sa đã sống tinh thần “con thơ phó thác”, yêu mến cậy trông vào Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Thế mà ngày nay chị đã được Hội Thánh tôn lên hàng đại thánh và được hằng triệu con tim ngưỡng mộ học tập.

– Tuy không đi giảng Tin Mừng và không rửa tội được cho ai, nhưng nhờ lời cầu nguyện kèm theo sự hy sinh hãm mình cho việc truyền giáo, mà chị thánh đã được đánh giá như một vị thánh đi truyền giáo hữu hiệu, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.

– Tuy không để lại những tác phẩm lớn lao uyên bác như thánh Tô-ma A-qui-nô, nhưng Tê-rê-sa vẫn được tôn lên hàng tiến sĩ, là thầy dạy của Hội Thánh về đức tin.

Như vậy, không nhất thiết phải giàu sang, có địa vị cao và tài năng vượt trội, chúng ta mới có thể  làm được những việc lớn lao. Vì đối với Thiên Chúa, ai càng nhỏ bé khiêm hạ sẽ được Ngài tôn lên.

2) TỈNH THỨC BẰNG VIỆC QUÊN MÌNH PHỤNG SỰ CHÚA VÀ THA NHÂN:

– Trong cuộc sống, bạn có biết mỉm cười để cảm thông với tha nhân không ? bạn có sẵn sàng làm những việc trong tầm tay của mình như: dọn một tách cà phê vào buổi sáng cho bố, đi chợ nấu cơm dọn dẹp nhà cửa giúp cho mẹ, động viên các em học bài ở nhà, giúp bạn bè vượt khó với hết khả năng của mình… Mỗi buổi tối chúng ta hãy tự hỏi mình: “Trong ngày hôm nay tôi đã sử dụng nén bạc Chúa trao thế nào ?”

– Ngày nay có nhiều người cho rằng Thiên Chúa bất công khi để xảy ra tình trạng: người thì “bát ăn bát để”, đang khi nhiều kẻ khác lại phải bị “khố rách áo ôm”. Người thì cao sang quyền quý “lên xe xuống ngựa”, đang khi nhiều kẻ phải “làm thân trâu ngựa” cho người ta cưỡi. Có những cô gái vừa “đẹp người” lại vừa “đẹp nết” nên được nhiều kẻ đón người đưa, đang khi nhiều cô khác lại “sinh ra nhằm ngôi sao xấu” nên chẳng ai thèm đoái hoài… Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời cho vấn nạn trên qua dụ ngôn “những nén bạc” trong Tin Mừng hôm nay. Điều quan trọng là hãy bằng lòng với những gì mình đang có và biết dùng những tài năng đó để làm lợi cho Chúa.

– Trộm cướp giết người là trọng tội đáng bị trừng phạt đời sau, nhưng tội không sử dụng tài năng của cải Chúa ban để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi các linh hồn cũng là một trọng tội bị loại khỏi hạnh phúc Nước Trời.

– Hôm nay tôi sẽ sử dụng những của cải và tài năng Chúa ban thế nào để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân?

  1. THẢO LUẬN:

Một số khá đông tín hữu nghĩ rằng: “Tôi rất bận với công việc bổn phận lo kiếm tiền nuôi gia đình, nên không có giờ cầu nguyện, dự lễ hằng ngày hoặc làm các việc bác ái truyền giáo như các linh mục tu sĩ được”. Bạn có đồng ý với câu nói chữa mình nói trên không ? Tại sao ?

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xưa khi Mẹ Ma-ri-a khi được khen là “có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói” (x Lc 1,45), thì Mẹ đã dâng lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Rồi từ đó, cuộc đời của Mẹ trở thành một bài ca “Xin vâng” thánh ý Thiên Chúa (x. Lc 1,38), và luôn “ngợi khen cảm tạ tình thương của Người”.(x Lc 1,46.49). Cuộc đời chúng con ở trần gian hôm nay vẫn còn nhiều gian truân đau khổ. Xin Chúa giúp chúng con cũng biết “xin vâng” ý Chúa như Mẹ Ma-ri-a xưa. Xin cho chúng con biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để “làm vinh danh cho Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Xin cho chúng con biết ra tay làm việc hơn là chỉ biết ngồi đó mà kêu trách số phận như người ta thường nói: “Thà thắp lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối !”.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH –  HHTM