Học hỏi Phúc Âm Chúa Nhật V Thường Niên Năm A
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J
Mt 5, 13-16
13“Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
14“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian . Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng , nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. 16Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
Câu Hỏi
- Đức Giêsu nói những lời trong bài Tin Mừng này cho ai ? Ngài so sánh các môn đệ với những điều gì ? Những điều này có gì giống nhau ?
- Theo bạn, đâu là những công dụng quan trọng của muối ?
- Đọc Mt 5,13. Tại sao muối nhạt lại bị quăng đi ?
- Trong Kinh Thánh, ai thường được coi là ánh sáng ? Đọc Tv 18,12; 1 Gioan 1,5; Ga 1,9; 8,12; 9,5; 12,46; Isaia 42,6; Mt 5,14; Phi-líp-phê 2,15. Nhờ đâu mà người môn đệ được coi là ánh sáng ?
- Đức Giêsu đã “định nghĩa” kitô hữu là “muối của trái đất” và là “ánh sáng cho thế giới”. Hai định nghĩa trên có gì đặc biệt ?
- Đọc Mt 5,14. “Một thành phố xây trên núi không tài nào che dấu được”. Theo bạn, thành phố này tượng trưng cho ai ?
- Đọc Mt 5,15. Bạn nghĩ có ai giấu đèn sáng dưới cái thùng không ? Bởi đâu có người Kitô hữu giấu đèn sáng dưới cái thùng ?
- Đọc Mt 5,16. Để cho ánh sáng nơi mình bừng tỏa có phải là kiêu ngạo không ? Tại sao ? So sánh với Mt 6,1.
CÂU HỎI SUY NIỆM: Thế gian có thể làm người môn đệ của Chúa Giêsu nên “nhạt” không ? Một người bị “nhạt” có thể “mặn” lại được không ? Bằng cách nào để “mặn” lại được ?
PHẦN TRẢ LỜI
- Bài Tin Mừng này nằm ngay sau Tám Mối Phúc (Mt 5,1-12). Đức Giêsu nói những lời này chủ yếu với các môn đệ của Ngài, nhưng có thể Ngài cũng muốn nói với cả đám đông tin vào Ngài nữa (Mt 5,1-2). Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu dùng nhiều hình ảnh để diễn tả khuôn mặt của người môn đệ: muối, ánh sáng, một thành phố, một ngọn đèn. Khi coi các môn đệ như “muối của trái đất” và “ánh sáng của thế gian”, Đức Giêsu cho thấy ảnh hưởng của họ phải lan tỏa không những trong phạm vi nước Ítraen, mà còn trên toàn thế giới (Mt 28,19).
- Sách Huấn ca đã coi muối là một trong những điều “cần thiết cho cuộc sống con người” (Hc 39,26). Muối có nhiều chức năng: bảo quản thức ăn (Tôbia 6,6), dùng làm gia vị, hay tẩy sạch (2 Vua 2,19-22). Ngoài ra muối còn được dùng để “bỏ vào mọi lễ phẩm dâng tiến” (Lêvi 2,13).
Khi nói các môn đệ là muối, Đức Giêsu đã dùng một ẩn dụ (metaphor). Ngài muốn các môn đệ có những phẩm chất tốt của muối: “Muối là cái gì tốt…Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em, và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9,50). Thánh Phaolô cũng khuyên lời nói của người tín hữu nên dễ thương và “được nêm bằng muối” (Côlôsê 4,6) cho mặn mà.
- Theo Đức Giêsu, vì một lý do nào đó, muối không còn vị mặn nữa, thì chỉ nên “quăng nó ra ngoài cho người ta chà đạp” (Mt 5,13). Thật ra không nên gọi muối nhạt là muối, vì nó đã đánh mất chính bản chất của mình, đó là vị mặn. Nó chỉ là muối khi còn giữ được vị mặn. Chẳng ai đi mua muối tốt để ướp muối nhạt bao giờ. Muối nhạt hoàn toàn vô dụng, chỉ nên quăng đi.
- Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa được coi là ánh sáng (Tv 18,12; 1 Gioan 1,5). Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu Kitô được coi là ánh sáng soi thế gian (Ga 1,9; 8,12; 9,5; 12,46). Và cả người tín hữu cũng được coi là ánh sáng (Isaia 42,6; Mt 5,14; Philípphê 2,15). Thật ra, người tín hữu không phải là nguồn sáng tự phát. Họ là ánh sáng vì họ được hưởng ánh sáng của Chúa và nhờ đó tỏa sáng cho cả trần gian, cho thế giới loài người.
- Khi định nghĩa kitô hữu bằng hai hình ảnh “muối cho trái đất” và “ánh sáng cho thế giới”, Đức Giêsu cho thấy người kitô hữu không hề tách biệt khỏi trái đất này và thế giới này. Họ được sai đến đó để sống và để phục vụ cho trái đất, cho thế giới. Thế giới “nhạt và tối” này vẫn cần đến người môn đệ Chúa Kitô. Họ là người cho nó vị mặn mà, bảo quản nó khỏi hư hỏng và soi sáng nó trong bóng đêm. Đó là sứ mạng của họ. Để chu toàn sứ mạng được giao, họ không được phép để cho thế gian làm mình thành muối nhạt, để cho đèn tắt ngúm vì hết dầu, hay che giấu căn tính Kitô hữu của mình.
- Đức Giêsu lại dùng một hình ảnh khác để diễn tả ơn gọi của người môn đệ. Đó là hình ảnh một thành phố được xây trên một ngọn núi (Mt 5,14b). Vì núi cao, nên ai cũng thấy thành phố này, nhất là vào ban đêm khi đèn được thắp lên. Không thể nào che giấu một thành phố như thế được. Tương tự như thế, các kitô hữu cũng không thể nào che giấu cuộc sống của họ. Họ được mời gọi để chiếu sáng như một thành phố trên núi, nếu không, họ sẽ đánh mất chính bản chất của họ như muối trở nên nhạt.
- Đức Giêsu còn ví người môn đệ với ngọn đèn dầu được người ta thắp sáng (Mt 5,15). Không ai đặt ngọn đèn sáng dưới cái đấu để đong (dung tích khoảng 9 lít), nhưng đặt trên đế cao để soi sáng mọi người trong nhà. Qua câu này, Đức Giêsu vừa cho thấy các môn đệ là ánh sáng, vừa đòi hỏi họ không được che giấu ánh sáng như đã nói ở câu Mt 5,14-15b. Vẫn có những tín hữu che giấu ánh sáng của mình vì hiểu sai đức khiêm tốn hay vì sợ gặp rắc rối khi dấn thân. Đọc Mt 25,14-30.
- Đức Giêsu đòi các môn đệ phải để cho ánh sáng của họ chiếu tỏa trước mặt thiên hạ (Mt 5,16). Câu này có vẻ trái ngược với một câu khác của Đức Giêsu: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy” (Mt 6,1). Thật ra, không có sự mâu thuẫn giữa hai câu nói của Đức Giêsu. Một đằng là làm điều tốt với chủ đích là phô trương cho người ta thấy, để tìm kiếm tiếng khen cho mình nơi người đời. Một đằng là không che giấu “những công việc tốt đẹp” mình làm, để cho người ta thấy mà “tôn vinh Cha trên trời”. Hữu xạ tự nhiên hương, cuộc sống của người Kitô hữu không cần màu mè giả tạo, nhưng lôi cuốn bằng chính sự mặn mà của mình, bằng chính sự tỏa sáng của cuộc sống tốt lành. Đó là cuộc sống không tìm mình, không quy về mình, nhưng quy về vinh quang Thiên Chúa.