SCĐ Chúa Nhật XV TN C

print

SCĐ Chúa Nhật XV TN C

Chủ đề :

Luật trong lòng

Người Samaria nhân hậu (Lc 10,25-37)

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc I (Đnl 30,10-14) : Luật quan trọng nhất của Thiên Chúa là luật ghi khắc trong lòng mỗi người.

– Tin Mừng (Lc 10,25-37) : Người Samaria tốt lành đã hành động theo luật yêu thương xuất phát cách hân thành từ tấm lòng của anh.

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Hôm nay chúng ta sẽ nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu. Qua hình ảnh người Samaria này, Chúa muốn chúng ta hãy quân tâm giúp đỡ chăm sóc người khác. Còn thầy tư tế và thầy lêvi thì xem ra chẳng làm gì nên tội, nhưng thực ra tội của họ chính là tội thiếu sót : họ đã không làm điều lẽ ra họ phải làm.

Trước khi cùng nhau dâng Thánh lễ, chúng ta hãy xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, những tội trong lời nói, việc làm và cả những tội thiếu sót.

II. Gợi ý sám hối

– Chúng ta rất ít quan tâm đến người khác.

– Nhiều việc lành chúng ta có thể làm nhưng chúng ta đã bỏ qua không làm.

– Chúng ta thường thờ ơ dửng dưng trước những người nghèo khổ bệnh tật.

III. Lời Chúa
  1. Bài đọc I (Đnl 30,10-14)

Để khuyến khích dân do thái thực thi những lệnh truyền của Thiên Chúa, ông Môsê lưu ý họ rằng : Những lệnh truyền của Thiên Chúa không quá khó khăn cũng không vượt quá sức con người, nhưng có thể thực hiện được vì chúng không ở trên trời hay ở bên kia biển cả mà ở sát bên con người, nơi miệng con người và trong lòng con người.

  1. Đáp ca (Tv 68)

Tv này là lời kêu xin của người đang gặp cảnh khổ, mong được Thiên Chúa cứu giúp.

Những lời này có thể áp dụng cho nạn nhân trong bài Tin Mừng bị kẻ cướp hành hạ đến nửa sống nửa chết và bỏ nằm trên đường.

  1. Tin Mừng (Lc 10,25-37)
  2. “Ai là người thân cận của tôi ?” Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng suy nghĩ của ông :

– Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Người do thái thời đó hiểu “người thân cận” chỉ là những đồng bào do thái với mình.

– Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.

  1. Dụ ngôn người Samari phản ảnh chiều hướng suy nghĩ của Chúa Giêsu :

– Định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)

– Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm…). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này một người là do thái một người là Samari.

– Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (câu 36)

  1. Bài đọc II (Cl 1,15-20) (Chủ đề phụ)

Tín hữu Côlossê tuy đã tin vào Chúa Giêsu Kitô nhưng chưa an tâm, một mặt họ vẫn giữ lại những tập tục do thái giáo (như cắt bì, giữ luật ngày Sabát…), mặt khác họ tin thêm một số thần khác, làm thêm một số việc mê tín dị đoan. Họ nghĩ rằng như thế thì “chắc ăn” hơn.

Để bài trừ cách sống đạo “thập cẩm” này, thánh Phaolô đề cao vai trò tối thượng duy nhất của Chúa Giêsu :

– Ngài là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình

– Ngài là trưởng tử mọi thọ tạo

– Mọi thọ tạo đều được tạo thành trong Ngài

– Ngài còn là đầu của Hội Thánh

– Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự viên mãn trong Ngài

Tóm lại, Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu độ duy nhất. Bởi vậy, muốn được cứu độ thì chỉ cần tin vào một mình Chúa Giêsu Kitô, không cần nhờ bất cứ tôn giáo hay thần thánh nào khác.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Các vai trong dụ ngôn

Thầy tư tế và thầy Lêvi là những người chỉ quan tâm đến bản thân mình : khi gặp một tình huống đặc biệt, họ nghĩ đến bản thân họ trước (không dừng lại chăm sóc người bị nạn vì sợ trễ giờ, vì sợ ô uế nếu đụng vào xác chết).

Người Samaria là người biết nghĩ đến người khác : khi gặp người bị nạn, anh chỉ biết tìm cách giúp đỡ nạn nhân, không ngại mất giờ, mất công và mất tiền.

Thầy tư tế và thầy lêvi chú ý giữ luật ghi trên sách vở (luật quy định về thanh sạch và ô uế) ; Người Samaria giữ luật trong tim (luật yêu thương)

Thầy tư tế và thấy lêvi không phạm tội nào về lời nói hay việc làm, nhưng phạm tội thiếu sót vì đã bỏ qua không làm điều mình phải làm.

* 2. Người chăm sóc

Người Samaria là một người chăm sóc (carer)

Loại người này rất hiếm thấy trong xã hội, vì trong xã hội ai nấy chỉ biết lo cho mình, ít ai để ý chăm sóc người khác, nhất là chăm sóc những người xa lạ không có quan hệ gì tới mình.

Nhưng loại người này rất hữu ích cho xã hội. Bằng những việc chăm sóc âm thầm, nhỏ bé, họ chính là muối và men làm cho xã hội bớt đau khổ, bớt xấu xa và thêm tốt đẹp.

Khi đề cao người Samaria, Chúa Giêsu muốn chúng ta cũng phải là những người chăm sóc. Con đường Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những người bất hạnh cần được chăm sóc. Mỗi người cũng được Chúa ban có nhiều khả năng chăm sóc : một lời an ủi động viên, một cử chỉ thân ái, một giúp đỡ thiết thực chính là chút rượu và chút dầu xoa dịu những thương đau cho người anh em mình đang gặp đau khổ. (FM)

* 3. Lòng tốt tự phát

Có nhiều người làm một việc tốt cách hết sức tự nhiên và dễ dàng. Đó là những người mà luật yêu thương đã ăn sâu vào con tim mình, đã trở thành máu thịt và hơi thở của mình.

Người Samaria trong dụ ngôn này là một người như thế : khi gặp một nạn nhân trên đường, anh không cần suy nghĩ gì cả mà tự nhiên xuống lừa, cúi xuống lấy dầu và rượu xoa dịu những vết thương của nạn nhân, rồi chở nạn nhân đến quán trọ, bỏ tiền ra nhờ chủ quán tiếp tục lo cho nạn nhân.

Khác hẳn với Thầy tư tế và thầy Lêvi : hai người này cũng thấy cảnh đó, nhưng đắn đo suy tính thiệt hơn. Và sau khi suy tính, họ chọn giải pháp “đi qua”. Họ thuộc luật rất nhiều đấy, nhưng luật chưa ăn sâu vào tim và chưa trở thành máu thịt và hơi thở của họ.

Làm thế nào để có lòng tốt tự phát như người Samaria ? Việc này không phải muốn là được, không phải chỉ cố gắng tập một lần mà có, mà là kết quả của việc thực thi những việc tốt nho nhỏ cách đều đặn và kiên trì. Một hành động tốt cao cả là thành quả của nhiều hành động tốt nho nhỏ đã quen làm trước đó. Phần thưởng đích thực của một hành động tốt là nó giúp ta có thể làm thêm những hành động tốt khác một cách dễ dàng hơn.

* 4. Yêu rồi làm

Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo :

– Thầy không biết yêu sao ?

Vị ẩn sĩ trả lời :

– Chưa đến giờ đó thôi ?

Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị.

Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói :

– Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót !

Người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu : “Ai là người thân cận của tôi ?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samari tốt lành : Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lê vi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samari ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.

Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật : “Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp ?”. Hỏi tức là trả lời. Và người thông luật đáp : “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót”. Chúa Giêsu bảo : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,37).

Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samari nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là “miệng nói tay làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó : “Hãy đi và làm như vậy”. Pascal đã nói : “Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương”.

Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.

Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lê vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.

Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân ! Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi : “Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử ?”. Trái lại, người Samari đã đảo ngược câu hỏi : “Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy ?” Người Samari tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.

Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân : Kahil Gibram có một câu nói chí tình : “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.

Nỗi khát khao hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.

Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thục sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.

Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêsa Calcutta nói : “Ki tô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám đừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.

Lạy Chúa cuộc sống đạo của chúng con sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc.

Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ ; chai đá, dửng dưng trước những khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen (TP)

  1. Chuyện minh họa

a/ Lòng hiếu khách tự nhiên

Alaska là một vùng đất đẹp thu hút nhiều du khách, nhưng cũng là một vùng rộng lớn thưa dân.

Ngày kia, một du khách lái xe đi thăm các thắng cảnh thiên nhiên. Quá mãi mê ngắm cảnh, xe của ông lạc vào một vùng hoang vu. Rủi thay chính lúc đó xe ông bị hư. Sau một hồi lâu tìm kiếm, ông may mắn gặp được một nông trại và xin ông chủ nông trại ấy giúp sửa dùm chiếc xe. Người chủ nông trại nhanh nhẹn lấy đồ nghề ra. Nửa giờ sau xe chạy được. Người du khách móc ví tiền ra, hỏi :

– Tôi phải trả công cho ông bao nhiêu ?

– Thôi, khỏi phải trả chi cả.

– Nhưng tôi thấy có bổn phận trả lại cho ông điều ông đã làm cho tôi.

– Thì ông đã trả rồi đó.

– Xin lỗi, tôi chưa hiểu ông muốn nói gì ?

– Ở nơi hoang vu này, tôi rất cô đơn nên cần có bạn. Ông đã cho tôi có dịp làm bạn với ông suốt một giờ đồng hồ vừa qua.

b/ Bản năng giúp người khác

Larry Skutnik là một người có tính nhút nhát làm việc cho một công sở ở Washington. Chiều ngày 13 tháng giêng năm 1982, một trận bão tuyết rất lớn đổ xuống thành phố này. Xe anh đang trên đường về nhà thì bị kẹt trên cầu bắt qua sông Potomac. Lý do là có một chiếc máy bay chở 79 người đã đâm đầu xuống sông. Anh bước khỏi xe để quan sát và thấy có 3 người đang bám vào đuôi chiếc máy bay đang chìm dần xuống nước. Một chiếc trực thăng đã đến kịp. 3 người ấy leo lên trực thăng. Nhưng chỉ 2 người bám dính, còn người thứ ba, một phụ nữ, vuột tay rơi trở lại xuống nước.

Không chút ngần ngại, Larry Skutnik nhảy tòm xuống sông, lặn xuống dòng nước lạnh cóng để tìm kiếm nạn nhân. Một lúc sau anh đã tìm được và đưa bà này lên bờ.

Tất cả những diễn tiến của cảnh đó đều được thu hình và sau đó được đưa lên truyền hình. Mọi người đều ca ngợi anh là một vị anh hùng. Sáng hôm sau, một phóng viên tới phỏng vấn :

– Do đâu mà anh đã làm được một hành động anh hùng như thế ?

– Quả thực hai chữ “anh hùng” làm tôi xấu hổ quá. Tôi đâu có cố gắng gì đâu, chỉ là phản xạ tự nhiên thôi.

Anh hùng thật là người làm hành động anh hùng một cách tự nhiên như phản xạ. Người tốt thật là người làm việc tốt một cách rất tự nhiên.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế : Anh chị em thân mến, đạo Chúa Kitô là đạo tình thương, chỉ dùng tình thương mà cảm hóa và chinh phục người khác. Với quyết tâm sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :

  1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết luôn chân thành yêu thương / và tôn trọng hết thảy mọi người.
  2. Trên thế giới ngày nay / chiến tranh và khủng bố / hận thù và bạo lực / vẫn còn đang hoành hành ở nhiều nơi / gây ra tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô tác động đến mọi suy nghĩ / lời nói và việc làm của con người hôm nay.
  3. Trong đời sống thường ngày / có một số người ngại phiền phức / sợ cực nhọc khi phải giúp đỡ người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người Kitô hữu biết sống quảng đại / và sẵn sàng trợ giúp những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó.
  4. Sống bác ái là chu toàn cả Lề Luật của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai đói rách bần cùng.

Chủ tế : Lạy Chúa, đức tin đòi buộc chúng con phải sống đức ái. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn niềm tin của mình. Chúng con cầu xin

VI. Trong Thánh Lễ

Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu đã kêu mời chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau như những anh em cùng một Cha. Vậy chúng ta hãy cùng Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh say đây :

Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là lối sống thờ ơ ích kỷ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…

VII. Giải tán

Sau khi kể cho người thông luật nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu đã bảo người đó : “Anh cũng hãy đi và làm như vậy”. Trong Thánh lễ này, Chúa Giêsu cũng kể lại cho chúng ta nghe dụ ngôn ấy. Giờ đây Thánh lễ đã xong, Ngài cũng bảo chúng ta : “Chúng con hãy đi và làm như vậy”. Chúc anh chị em ra về bình an.

 

Bài đọc thêm

THƯ GỞI GIÁO ĐOÀN CÔLÔXÊ

* Được trích đọc trong bài đọc II từ Chúa nhật thứ 15 đến Chúa nhật thứ 18.

A. Giáo đoàn côlôxê

  1. Côlôxê là một thành phố cách Êphêxô khoảng 160 km về phía Đông. Gần đó còn có hai thành Laođixê và Hiêrapolis. 3 thành này có nhiều liên hệ với nhau (x. Cl 4,15-16)
  2. Giáo đoàn Côlôxê không phải do Phaolô thành lập nhưng do một môn đệ của Phaolô tên là Epaphras người gốc Côlôxê (x. Cl 4,12). Cũng như hầu hết các giáo đoàn khác, giáo đoàn Côlôxê gồm phần đông là người lương tòng giáo và một phần nhỏ người do thái tòng giáo.

B. Hoàn cảnh viết thư

Như ta đã biết, giáo đoàn Côlôxê do Epaphras một môn đệ của Phaolô thành lập. Đang khi Phaolô bị cầm tù (lần này ở Rôma) thì trong giáo đoàn có chuyện khó khăn, không phải do tranh chấp nội bộ mà là khó khăn về giáo lý. Epaphras tới Rôma thăm Phaolô và trình bày khó khăn ấy. Dù tín hữu Côlôxê chưa biết mặt Phaolô, cùng lắm chỉ mới nghe tên (x. Cl 2,1 & 1,4.9), nhưng với tâm hồn nhiệt thành của một vị tông đồ, Phaolô ý thức ngay mối nguy hiểm đang đe dọa đức tin tinh tuyền của giáo đoàn nên liền viết thư này. Bởi chưa quen biết với giáo đoàn nên Phaolô không gởi thư suông mà muốn có người tới tận giáo đoàn để giải thích bức thư. Nhưng bản thân Phaolô đang ngồi tù không đi được nên ông phái 2 môn đệ thân tín đi, là Tychique (4,7) và Onésisme (4,9).

Thời điểm và địa điểm viết thư : khoảng 61-63 tại Rôma

C. Mục tiêu : giải quyết khó khăn của Côlôxê

  1. Từ hồi giáo đoàn mới thành lập, tín hữu Côlôxê đã tin vào Đức Kitô như là nguyên nhân cứu độ duy nhất. Nhưng do ảnh hưởng của người do thái và người ngoại, dần dà họ hồ nghi niềm tin của mình : họ nghĩ rằng chỉ tin vào Đức Kitô thì e chưa đủ nên cần phải tin và làm thêm một số điều nữa cho chắc ăn. Những điều thêm vào này họ lấy từ nhiều phía :

– một phần từ đạo do thái : cắt bì, luật Môsê…

– một phần từ tín ngưỡng của dân ngoại : thờ tinh tú, coi lịch xem ngày…

– một phần từ những ý tưởng manh nha mà sau này sẽ thành thuyết Tiền-ngộ-đạo : khinh chê xác thịt, kiêng cữ ăn uống…

Nếu muốn dùng một thuật ngữ để tóm tắt cái khó khăn giáo lý của Côlôxê lúc ấy, ta có thể dùng chữ “Đạo thập cẩm”, tương tự như Đạo Cao Đài bên ta tổng hợp tín ngưỡng của nhiều đạo khác lại thành Đại Đạo.

  1. Niềm tin thập cẩm này đĩ nhiên chứng tỏ thiếu tin vào Đức Kitô. Chính đây là điểm khiến Phaolô lo lắng. Vì vậy trong thư này ông hết sức thuyết phục tín hữu hãy đặt trọn vẹn niềm tin vào Đức Kitô, Đấng là “tất cả trong tất cả”.

D. Nội dung

  1. Địa vị tối thượng của Đức Kitô : 1,13-23

Phaolô trình bày địa vị tối thượng của Đức Kitô bằng 1 thánh thi gồm 2 phần :

a/ Đức Kitô tối thượng trong công trình tạo dựng (cc 15-17)

– Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình : tất cả mọi triết thuyết thời đó đều nhìn nhận có một nguyên lý tối cao là Thượng đế ; Thượng đế tỏ mình ra bằng hình ảnh của ngài. Nhưng vấn đề là hình ảnh đó là gì. Platon bảo đó là vũ trụ, Philon bảo đó là Logos, còn Phaolô quả quyết đó là Đức Giêsu Kitô.

– Ngài là Con Trưởng của mọi loài thụ tạo ie Ngài lớn hơn hết, hiện hữu trước hết và có quyền trên hết mọi thụ tạo.

Do Ngài mà mọi loài đã được dựng nên gồm cả những loài hữu hình và vô hình và cả những “thần”. Phaolô nói “thần” là tạm xử dụng ngôn ngữ của dân ngoại để chứng minh rằng ngay cả những “thần” ấy cũng thấp hơn Đức Giêsu Kitô.

* Tóm lại, Đức Kitô có trước tất cả và ở trên tất cả mọi loài.

            b/ Đức Kitô tối thượng trong công trình cứu độ (cc 18-20)

            – Ngài là cội nguồn mọi ơn.

            – Vì ý của Thiên Chúa đã muốn rằng nơi Ngài chứa toàn viên mãn

            – Nhờ Ngài mà mọi loài được hòa giải với Thiên Chúa.

            – Hơn nữa máu Ngài đổ ra đã tạo nên bình an dưới thế và trên trời.

  1. Bài bác những sai lầm : 1,24-3,4

2,03 :     “Đức Kitô giấu nơi mình mọi kho tàng khôn ngoan thông thái”. Vậy đừng tốn công vô ích tìm kiếm 1 thứ khôn ngoan nào khác (bài bác thuyết Tiền ngộ đạo)

2,08  “Chớ để ai bắt làm mồi ngon cho họ do cái tròng triết lý hư không” : một khi đã được soi sáng bởi Đức Kitô mà còn quay trở lại với các thứ triết lý người phàm khác thì cũng như bị rơi vào tròng nô lệ (bài bác mọi nguồn khôn ngoan thế phàm)

2,11t Cũng chẳng cần phải nhờ tới phép cắt bì do thái, vì tín hữu đã có một phép cắt bì mới hoàn hảo hơn nhiều, tức là cắt bì trong Đức Kitô, nghĩa là Phép Thanh Tẩy (bài bác do thái giáo)

2,14  “Hủy tờ cáo trạng gồm các lệnh truyền” : Phaolô ám chỉ các lề luật do thái. Chúng cũng đã nên vô ích (bài bác do thái giáo)

2,15  Lột chức các “thần” : chẳng có thần thánh nào bằng Đức Kitô (bài bác đa thần)

2,16  Tín hữu chớ nên áy náy rồi lo kiêng ăn uống, xem trăng, xem ngày (bài bác những mê tín của dân ngoại)

2,17  Đừng thờ cúng các tinh tú mà người ta coi là thiên thần (bài bác mê tín)

2,23  Chống lại thuyết Tiền ngô đạo : họ nói là coi khinh xác thịt nhưng thực ra vịn lẽ xác thịt chẳng ăn nhằm gì cho nên cứ sống lăng loàn.

  1. Cuộc sống của kitô hữu

Sau khi trình bày Đức Kitô như là Đấng Tối Thượng trong công trình tạo dựng và công trình cứu chuộc, Phaolô dạy các tín hữu một cách sống : đó là quy chiếu tất cả vào Đức Kitô, không cần cậy dựa vào bất cứ thứ gì khác, bời vì “Đức Kitô là tất cả và nơi tất cả mọi người” (3,11)