Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Người Nghèo Lần II
“Người nghèo này kêu lên, và Chúa lắng nghe họ” (Tv 33,7)
“Người nghèo này kêu lên, và Chúa lắng nghe họ” (Tv 33,7). Những lời của Vịnh gia trở thành lời của chính chúng ta khi chúng ta đi gặp những hoàn cảnh đau khổ và loại trừ khác nhau mà rất nhiều anh chị em chúng ta đang sống, những người mà chúng ta thường quen gắn nhãn là “người nghèo”. Vịnh gia không phải là người xa lạ với đau khổ; hoàn toàn ngược lại. Ngài có kinh nghiệm trực tiếp về đói nghèo và biến nó thành một bài ca ngợi và tạ ơn Chúa. Đối với chúng ta đang quan tâm đến nhiều hình thức nghèo khổ khác nhau, Thánh vịnh này cho phép chúng ta ngày hôm nay biết ai là những người thực sự nghèo khổ. Nó giúp chúng ta mở mắt để nhìn thấy họ, nghe tiếng than khóc của họ và nhận ra nhu cầu của họ.
Ngay từ đầu chúng ta được nói cho biết rằng Chúa lắng nghe người nghèo đang kêu lên Ngài; Ngài đối xử tốt với những ai tìm nơi trú ẩn trong Ngài, khi trái tim của họ bị vỡ nát bởi buồn phiền, cô đơn và loại trừ. Chúa lắng nghe những con người dù bị khinh dể trong phẩm giá của mình, vẫn tìm thấy sức mạnh để tìm kiếm nơi Ngài ánh sáng và sự ủi an. Ngài lắng nghe những người bị bức hại nhân danh một thứ công lý sai lầm, bị áp bức bởi những chính sách không xứng tầm với tên gọi, và kinh hoàng bởi bạo lực, nhưng biết rằng Thiên Chúa là Đấng Cứu độ của họ. Điều nổi bật nhất từ lời cầu nguyện này là sự buông bỏ và tín thác vào một người Cha có thể lắng nghe và thấu hiểu. Cùng những dòng này, chúng ta có thể đánh giá cao hơn ý nghĩa của lời nói của Chúa Giêsu: “Phúc thay những ai có tinh thần khó nghèo, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3).
Chính kinh nghiệm độc đáo này, và theo nhiều cách, tuy không xứng đáng và không thể diễn đạt hoàn toàn được, mà chúng ta muốn chia sẻ, trước tiên với những người, như Vịnh gia, nghèo khổ, bị từ khước và bị gạt ra bên lề. Không ai lại cảm thấy bị loại trừ khỏi tình yêu của Chúa Cha, đặc biệt là trong một thế giới thường trình bày sự giàu có như là mục tiêu hàng đầu và khép kín vào chính mình.
2. Thánh vịnh 33 sử dụng ba động từ để mô tả người nghèo trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Trước hết, tiếng “kêu”. Nghèo đói không thể tóm tắt trong một từ; nó trở thành tiếng kêu lên trời và thấu tận Thiên Chúa. Tiếng kêu của người nghèo thể hiện điều gì, nếu không phải là nỗi đau khổ và sự cô độc của họ, sự thất vọng và niềm hy vọng của họ? Chúng ta có thể tự hỏi làm sao lời cầu xin của họ, vang lên trước tôn nhan Thiên Chúa, lại có thể không đến được tai của chúng ta, hoặc để mặc chúng ta lạnh lùng và thờ ơ. Vào Ngày Quốc tế hướng về Người nghèo này, chúng ta được kêu gọi thực hiện một cuộc kiểm điểm lương tâm nghiêm túc, để xem liệu chúng ta có thật sự có khả năng nghe tiếng kêu của người nghèo không.
Để nghe tiếng nói của họ, điều chúng ta cần là sự thinh lặng của những người sẵn sàng lắng nghe. Nếu chúng ta nói quá nhiều, chúng ta sẽ không thể nghe thấy chúng. Đôi khi tôi sợ rằng nhiều sáng kiến, đáng phục và tự nó là cần thiết, có nghĩa nhiều hơn là để thoả mãn những người thực hiện chúng hơn là để đáp trả tiếng kêu thực sự của người nghèo. Nếu đây là trường hợp, tiếng kêu của người nghèo vang lên, nhưng phản ứng của chúng ta không phù hợp và chúng ta không thể cảm thông với tình trạng của họ. Chúng ta bị mắc kẹt trong một nền văn hóa khiến chúng ta nhìn vào trong gương và nuông chiều chính mình, khiến chúng ta nghĩ rằng một cử chỉ vị tha là đủ, mà không cần phải trực tiếp tham gia.
3. Động từ thứ hai là “trả lời”. Vịnh gia nói với chúng ta rằng Chúa không chỉ lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, mà còn trả lời. Câu trả lời của Ngài, như được thấy trong toàn bộ lịch sử cứu độ, là âu yếm chia sẻ số phận người nghèo. Điều đó đã xảy ra khi Ápram nói với Thiên Chúa về ước mong có con nối dõi, mặc dù sự thực là ông và Sarah vợ ông, đã già nua và không có con (xem Sáng thế Ký 15,1-6). Điều đó đã xảy ra khi Môisê, đứng trước một bụi cây rực cháy mà không bị tiêu rụi, đã nhận được sự mặc khải về danh Thiên Chúa và sứ vụ giải phóng dân Chúa khỏi Ai Cập (Xh 3,1-15). Đây cũng là trường hợp trong khi Israel lang thang trong sa mạc, bị đói khát (xem Xh 16,1-6; 17,1-7), và rơi vào loại nghèo đói tồi tệ nhất, nghĩa là, bất trung với giao ước và thờ ngẫu tượng (xem Xh 32,1-14).
Lời đáp trả của Thiên Chúa cho người nghèo luôn luôn là một hành động cứu độ để chữa lành vết thương của cơ thể và tâm hồn, phục hồi công lý và giúp sống cuộc sống khác trong nhân phẩm. Lời đáp trả của Thiên Chúa cũng là một lời kêu gọi những người tin vào Ngài cũng hãy làm như vậy, trong giới hạn của những khả năng con người. Ngày Quốc tế hướng về Người nghèo mong muốn là một lời đáp trả nhỏ bé mà Giáo hội trên khắp thế giới trao tặng cho những người nghèo thuộc mọi thể loại và trong mọi miền đất, để họ không còn nghĩ rằng tiếng kêu của họ chưa từng được nghe thấy. Nó cũng có thể giống như một giọt nước trong sa mạc nghèo đói, nhưng nó có thể phục vụ như một dấu hiệu của việc chia sẻ với những người thiếu thốn, và cho phép họ cảm nhận sự hiện diện tích cực của một người anh em hoặc một người chị em. Người nghèo không cần người trung gian, mà cần sự tham gia cá nhân của tất cả những ai nghe tiếng kêu của họ. Mối quan tâm của các tín hữu theo cái nhìn của họ thì không thể chỉ giới hạn trong một thứ trợ giúp – hữu ích và có thể tức thời lúc ban đầu – nhưng đòi hỏi một “sự chú tâm tràn ngập yêu thương” (Evangelii Gaudium, 199), kính trọng họ như họ là và tìm lợi ích tốt nhất cho họ.
4. Động từ thứ ba là “giải phóng”. Trong Kinh Thánh, người nghèo sống trong sự xác tín rằng Thiên Chúa can thiệp cho họ để khôi phục phẩm giá của họ. Nghèo đói không phải là điều gì mà người ta mong muốn, nhưng do sự ích kỉ, kiêu căng, tham lam và bất công gây ra. Đây là những điều dữ, cũ rích như chính loài người, nhưng cũng là những tội lỗi mà trong đó người vô tội bị chộp bắt, với những tác động bi thảm ở bình diện đời sống xã hội. Hành vi giải phóng của Thiên Chúa là một hành vi cứu độ cho những ai dâng lên Ngài nỗi buồn khổ và khốn cùng của họ. Mối giây ràng buộc của nghèo đói bị phá vỡ bởi sức mạnh là sự can thiệp của Thiên Chúa. Nhiều Thánh vịnh kể lại và cử hành lịch sử cứu độ này, được phản ánh trong đời sống cá nhân của người nghèo: “Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu.”(Tv 22,25). Khả năng nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa là dấu hiệu của tình bạn, sự gần gũi và sự cứu rỗi của Ngài. ” Được Ngài thương, con vui mừng hớn hở, vì Ngài đã đoái nhìn phận con cùng khốn. Con lâm cảnh ngặt nghèo, Ngài lo lắng chăm nom… nhưng cho con rộng bước thênh thang.” (Tv 31, 8-9). Cho người nghèo được “rộng bước thênh thang” nghĩa là giải thoát khỏi “lưới kẻ thù giăng” (Tv 91, 3); giải thoát họ khỏi cái bẫy ẩn trên đường đi, để họ có thể tiến lên với sự thanh thản trên con đường sự sống. Sự cứu rỗi của Thiên Chúa là một cánh tay giơ ra cho người nghèo, một cánh tay chào đón, bảo vệ và giúp họ trải nghiệm tình bạn mà họ cần. Từ sự gần gũi cụ thể và hữu hình này, một con đường giải thoát đích thực xuất hiện. “Mỗi cá nhân và mỗi cộng đoàn kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của Thiên Chúa để giải phóng và thăng tiến người nghèo, ngõ hầu họ có thể được hội nhập cách trọn vẹn vào xã hội. Việc này đòi chúng ta phải mở lòng và chăm chú lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và đến cứu giúp họ”(Evangelii gaudium, 187).
5. Tôi cảm động khi biết rằng nhiều người nghèo đồng hoá với người mù ăn xin Batimê mà Tin mừng Máccô nói tới (xem 10, 46-52). Batimê ” đang ngồi ăn xin bên vệ đường” (câu 46); nghe nói Chúa Giêsu đi ngang qua, “anh bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! ” (câu 47). “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng”(câu 48). Con Thiên Chúa nghe tiếng van xin của anh ta và nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh? ” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”” (câu 51). Câu chuyện Phúc Âm này cho thấy những gì Thánh Vịnh loan báo như một lời hứa. Batimê là một người nghèo, thấy mình thiếu những thứ cần thiết như thị lực và khả năng kiếm sống. Hôm nay có bao nhiêu người cảm thấy như vậy! Thiếu những phương tiện cơ bản của tồn tại, bị gạt ra bên lề vì khả năng làm việc hạn chế, nhiều hình thức nô lệ xã hội, mặc dù tất cả tiến bộ của con người. .. Ngày nay có biết bao nhiêu người nghèo như Batimê, ngồi bên lề đường và tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống của họ! Có bao nhiêu người trong số họ tự hỏi tại sao họ đã rơi xuống tận cùng như thế và làm thế nào để có thể trốn thoát! Họ đang chờ ai đó đến với họ và nói: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy”(câu 49).
Đáng buồn thay, điều ngược lại thường xảy ra, và người nghèo nghe thấy những tiếng nói trách mắng họ, bảo họ im lặng và cam chịu. Những tiếng nói này thường nghiêm khắc, thường là do sợ người nghèo, những người được xem là không chỉ thiếu thốn mà còn mang đến bất an và bất ổn, làm thay đổi thói quen và cần phải bị từ chối và tránh xa. Chúng ta có xu hướng tạo ra khoảng cách giữa họ và chúng ta, mà không nhận ra rằng theo cách này, chúng ta đang tách mình khỏi Chúa Giêsu, Đấng không từ chối người nghèo, nhưng gọi họ đến gần và an ủi họ. Những lời của Tiên tri Isaia nói cho các tín hữu biết cách sống là thích hợp nhất trong trường hợp này. Họ phải “mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm… chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ… thấy ai mình trần thì cho áo che thân”(58, 6-7). Những việc như vậy làm cho tội lỗi được tha thứ (xem 1 Pr 4, 8), công lý được sáng tỏ, và khi chúng ta kêu lên với Chúa, Ngài sẽ trả lời và nói: “Này Ta đây!” (Xem Is 58, 9).
6. Người nghèo là người đầu tiên nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và làm chứng cho sự gần gũi của Ngài trong cuộc sống của họ. Thiên Chúa vẫn trung thành với lời hứa của Ngài; và ngay cả trong bóng tối của đêm đen, Ngài vẫn không khước từ sự ấm áp của tình yêu và sự an ủi của Ngài. Tuy nhiên, để người nghèo vượt qua tình trạng nặng nề của họ, họ cần phải cảm nhận sự hiện diện của các anh chị em đang quan tâm đến họ và, bằng cách mở cánh cửa trái tim và cuộc sống, khiến họ cảm thấy như bạn bè và gia đình. Chỉ bằng cách này, người nghèo mới có thể khám phá “quyền năng cứu độ đang hành động trong cuộc sống của họ” và “đặt họ vào trung tâm của cuộc hành hương của Giáo hội” (Evangelii Gaudium, 198).
Vào Ngày Quốc tế này, chúng ta được yêu cầu thực hành những lời của Thánh Vịnh: “Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê” (Tv 22,26). Chúng ta biết rằng trong Đền Thờ Giêrusalem, sau nghi thức hiến tế, một bữa tiệc được bày ra. Chính kinh nghiệm này, trong nhiều giáo phận năm ngoái, làm phong phú thêm việc cử hành Ngày Quốc tế hướng về Người nghèo lần đầu tiên. Nhiều người gặp được sự ấm áp của một ngôi nhà, niềm vui của một bữa tiệc và sự liên đới của những người muốn ngồi bàn cùng nhau cách đơn sơ và huynh đệ. Tôi muốn năm nay, và tất cả các Ngày Quốc tế tương lai, được tổ chức theo tinh thần của niềm vui khi khám phá lại khả năng sống cùng nhau. Cầu nguyện với nhau như một cộng đoàn và chia sẻ một bữa ăn vào ngày Chúa Nhật là một kinh nghiệm đưa chúng ta trở lại cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, được mô tả bởi Luca, tác giả sách Tin mừng, trong tất cả sự đơn sơ nguyên thủy của nó: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. (Cv 2,42.44-45).
7. Vô số các sáng kiến được thực hiện hàng ngày bởi cộng đoàn Kitô giáo để trao ban sự gần gũi và cánh tay giúp đỡ khi đối mặt với nhiều hình thức nghèo đói xung quanh chúng ta. Thông thường, sự hợp tác của chúng ta với các sáng kiến khác được truyền cảm hứng không phải bởi đức tin mà bởi sự liên đới nhân bản, làm cho việc giúp đỡ chúng ta có thể thực hiện được, bằng không chúng ta không thể trao ban. Nhận thức rằng khi đối mặt với biết bao nghèo đói, năng lực hành động của chúng ta bị giới hạn, yếu kém và không đủ, dẫn chúng ta tiếp cận với người khác để thông qua hợp tác lẫn nhau, chúng ta có thể đạt được mục tiêu của mình hiệu quả hơn. Kitô hữu chúng ta được truyền cảm hứng bởi đức tin và luật bác ái, nhưng chúng ta cũng có thể thừa nhận các hình thức hỗ trợ và liên đới khác nhắm phần nào đó đến cùng mục tiêu, miễn là chúng ta không làm giảm vai trò cụ thể của chúng ta, đó là dẫn đưa mọi người đến cùng Thiên Chúa và sự thánh thiện. Đối thoại giữa những trải nghiệm khác nhau và sự khiêm tốn trong việc cộng tác mà không cần tìm kiếm sự vẻ vang, là một câu trả lời phù hợp và hoàn toàn phúc âm mà chúng ta có thể cung cấp.
Trong việc phục vụ người nghèo, không có chỗ cho sự cạnh tranh. Thay vào đó, chúng ta nên khiêm nhường nhận ra rằng Chúa Thánh Thần là nguồn gốc của các hành động của chúng ta để tỏ lộ sự gần gũi của Thiên Chúa và sự đáp trả lời cầu nguyện của chúng ta. Khi chúng ta tìm kiếm những nẻo đường đến gần người nghèo, chúng ta biết rằng vai trò thứ nhất thuộc về Thiên Chúa, Đấng mở mắt và tấm lòng của chúng ta để hoán cải. Người nghèo không cần những người quảng cáo chính mình, mà là một tình yêu biết cách giữ kín và không nghĩ về tất cả những điều tốt đẹp mà nó có thể làm được. Chúa và người nghèo phải luôn luôn ở trung tâm. Bất cứ ai ham muốn phục vụ là một công cụ trong tay của Thiên Chúa, một phương tiện biểu lộ sự hiện diện cứu độ của Ngài. Thánh Phaolô nhắc lại điều này khi ngài viết thư cho các kitô hữu ở Côrinhtô đang cạnh tranh vì các ân huệ lớn lao hơn: “Mắt không có thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày.””(1 Cr 12,21). Phaolô đưa ra một điểm quan trọng khi lưu ý rằng những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất (xem câu 22), và rằng “những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả.”(câu 23-24). Phaolô cung cấp cho cộng đoàn một giáo lý căn bản về ân sủng, nhưng cũng còn về thái độ mà lẽ ra phải có, trong ánh sáng của Tin Mừng, đối với các thành viên yếu đuối hơn và thiếu thốn hơn. Các môn đồ của Chúa Kitô không hề nuôi dưỡng những cảm xúc khinh thường hoặc thương hại đối với người nghèo. Trái lại, chúng ta được kêu gọi tôn trọng người nghèo và dành ưu tiên cho họ, khởi từ xác tín rằng họ là một sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta. “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
8. Ở đây chúng ta có thể thấy lối sống của chúng ta phải khác xa lối sống của trần gian, lối sống đề cao, theo đuổi và bắt chước người giàu và người quyền thế, trong khi bỏ bê người nghèo và coi họ vô dụng và đáng xấu hổ. Những lời của Tông đồ Phaolô mời chúng ta đến một sự liên đới hoàn toàn mang tính Tin mừng với những thành viên yếu đuối hơn và ít tài năng hơn trong thân thể Đức Kitô: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung”(1 Cr 12,26). Trong thư gửi cho người Rôma, thánh Phaolô cũng nói với chúng ta: “Vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn (12,15-16). Đây là ơn gọi của mỗi kitô hữu; lý tưởng mà chúng ta phải liên tục phấn đấu là nên đồng hình đồng dạng hơn nữa với “tâm tình của Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2,5).
9. Đức tin đương nhiên truyền cảm hứng cho một sứ điệp hy vọng. Thường thì chính người nghèo phá vỡ sự thờ ơ của chúng ta, được sinh ra từ một quan điểm sống trần tục và hẹp hòi. Tiếng kêu của người nghèo cũng là tiếng kêu của hy vọng tỏ lộ sự xác tín về sự giải thoát trong tương lai. Niềm hy vọng này đặt nền tảng trên tình yêu của Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi những ai đặt niềm tin vào Ngài (xem Rm 8,31-39). Như thánh Têrêxa Avila viết trong Đường Hoàn Thiện: “Nghèo đói bao gồm nhiều đức hạnh. Đây là một lãnh vực rộng lớn. Tôi nói với bạn rằng ai khinh chê của cải trần thế đều là chủ nhân của mọi sự”(2,5). Chính trong mức độ mà chúng ta có thể phân biệt được sự thiện đích thực, chúng ta trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa và khôn ngoan trong chính mắt của chúng ta và trong con mắt của những người khác. Nó thực sự là như vậy. Trong phạm vi mà chúng ta hiểu được ý nghĩa thực sự của sự giàu có, chúng ta lớn lên trong nhân tính và có khả năng chia sẻ.
10. Tôi mời gọi các giám mục, linh mục và đặc biệt là các phó tế, những người đã nhận được sự đặt tay để phục vụ người nghèo (xem Cv 6,1-7), cũng như các tu sĩ và tất cả tín hữu giáo dân – nam cũng như nữ – đang ở trong giáo xứ, các hiệp hội và các phong trào giáo hội, làm cho nên hữu hình lời đáp trả của Giáo Hội đối với tiếng kêu của người nghèo, để trải nghiệm Ngày Quốc tế này như một thời điểm nổi bật của việc phúc âm hoá mới. Người nghèo phúc âm hoá chúng ta và giúp chúng ta mỗi ngày khám phá ra vẻ đẹp của Tin Mừng. Chúng ta đừng lãng phí cơ hội đầy ân sủng này. Vào ngày này, tất cả chúng ta có thể cảm thấy rằng chúng ta đang mắc nợ người nghèo, bởi vì, trong bàn tay đang dang rộng với nhau, một cuộc gặp gỡ cứu độ có thể diễn ra để củng cố đức tin của chúng ta, truyền cảm hứng cho lòng bác ái của chúng ta và cho phép niềm hy vọng tiến bước cách vững vàng trên con đường hướng tới Chúa là Đấng sẽ đến.
Từ Vatican, ngày 13 tháng 6 năm 2018
Nhân ngày lễ thánh Antôn thành Padua
+Đức Giáo Hoàng Phanxicô