Suy niệm Lễ Đức Mẹ Dâng con & CN 4 Thưởng Niên A

Suy niệm Lễ Đức Mẹ Dâng con & CN 4 Thưởng Niên A

DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THÁNH

Lời Chúa: Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2, 22-40

 

CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A

Lời Chúa: Xp 2,3 – 3,12-13; 1Cr 1,26-31; Mt 5,1-12a

MỤC LỤC

  1. DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THÁNH.. 4
  2. Tiến dâng cho Chúa. 4
  3. Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. 7
  4. Dâng Chúa trong đền thờ. 12
  5. Đức Giêsu hay Đức Maria: Lễ Dâng Con – J.M… 17
  6. Thắp lên một ngọn nến. 19
  7. Trinh nữ hiến dâng. 22
  8. Chúa Giêsu là Ánh Sáng. 25
  9. Lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ. 29
  10. Suy Niệm Chúa Nhật 4 Thường Niên – Năm A.. 35
  11. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh. 38
  12. Lễ Nến – Lm. Nguyễn Ngọc Long. 42
  13. Dâng Con trong đền thờ. 45
  14. Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa – JKN.. 47
  15. Lễ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ. 53
  16. Mẫu gương của bậc cha mẹ – Lm. Gioan Trần Khả. 58
  17. Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thờ. 61
  18. Dâng Chúa trong đền thờ. 63
  19. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh. 65
  20. Các con là ánh sáng thế gian. 75
  21. Bảo vệ ánh sáng – Lc 2, 22-40. 78
  22. Dâng hiến vào đền thờ: Chúa Giêsu tỏ mình ra. 81
  23. Chú giải của William Barclay. 86
  24. Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh. 91
  25. CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A.. 98
  26. Tám mối Phúc Thật – Lm. Thu Băng, CRM… 98
  27. Chúa tôn người khiêm hạ – Lm. Minh Vận, CRM… 101
  28. Chúa muốn con người hạnh phúc – Mt 5, 1-12a. 105
  29. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 108
  30. Hạnh phúc. 111
  31. Khó nghèo. 113
  32. Chúa Nhật 4 TN A.. 116
  33. Hãy vui mừng. 119
  34. Nẻo về hạnh phúc – Lm. Ignatiô Trần Ngà. 122
  35. Hạnh phúc thật 125
  36. Hạnh phúc khi trao ban – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 128
  37. Mối phúc thật – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 131
  38. Sống cuộc đời thành tựu. 134
  39. Mối phúc thứ nhất. 136
  40. Hạnh Phúc là Tình Yêu và là Sự Sống. 140
  41. Sự khiêm tốn – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 146
  42. Đi tìm hạnh phúc. 151
  43. Hạnh Phúc ơi, Mi là gì?. 154
  44. Nỗi khao khát 158
  45. Chín lần hạnh phúc. 161
  46. Phúc cho người sống những mối phúc. 164
  47. Bàn tay Chúa – Lm Vũ Đình Tường. 167
  48. Đường hẹp – Radio Veritas Asia. 171
  49. Hạnh phúc trong Tin Mừng. 173
  50. Đức Giêsu công bố cẩm nang hạnh phúc. 178
  51. E.T. gọi về nhà. 183
  52. Phúc thay. 186
  53. Tin vui cho muôn người – Lm. Phạm Ngọc Ngôn. 190
  54. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó. 193
  55. Hạnh phúc – Lm. Nguyễn Ngọc Long. 196
  56. Chúa là phúc thật – Lm. Phạm Quốc Hưng. 199
  57. Phúc thật, phúc giả – Lm. Bùi Quang Tuấn. 203
  58. Xây dựng hoà bình. 206
  59. Tám Mối Phúc. 209
  60. Phúc Tám Mối 211
  61. Chú giải của Noel Quession. 215
  62. Chú giải của Fiches Dominicales. 222
  63. Phân tích chi tiết mỗi chân phúc – GHHV. Đàlạt 230
  64. Hạnh phúc – ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt 246

I. DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THÁNH

1. Tiến dâng cho Chúa

Suy Niệm

Sống là chấp nhận thuộc về. Mở mắt chào đời là thuộc về một gia đình, một đất nước. Càng sống con người càng thấy mình thuộc về nhiều hơn. Thuộc về một nhóm, một giáo xứ, một nơi làm việc…

Khi đôi bạn trẻ yêu nhau, họ muốn trái tim của họ thuộc về nhau. Thuộc về nhau là nền tảng của sự chung thủy.

Đối với Do thái giáo, bé trai đầu lòng mới sinh ra thì thuộc về Chúa, được thánh hiến dành riêng cho Chúa. Cha mẹ cậu phải bỏ ra một món tiền tượng trưng để chuộc cậu về cho mình (x. Ds 18,15-16; Xh 13,13)

Bài Tin Mừng hôm nay không nói đến chuyện chuộc con, nhưng lại nói đến việc bà Maria và ông Giuse tiến dâng con trai đầu lòng cho Chúa.

Đức Giêsu đã sống nghiêm túc sự tiến dâng này suốt đời. Ngài thuộc về Thiên Chúa Cha một cách trọn vẹn. Từ khi vào đời làm người, Ngài đã nói: “Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa.” (Dt 10, 9)

Năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã cố ý ở lại Đền Thờ, mà cậu gọi là nhà Cha của cậu (x. Lc 2, 49).

Khi chịu phép rửa ở sông Giođan, Đức Giêsu ý thức rõ hơn mình là Con, thuộc về Cha, được Cha sai vào giữa lòng nhân loại (x. Mc 1,11).

Có biết bao cám dỗ trong những năm rao giảng, cám dỗ từ ma quỷ, từ đám đông, từ môn đệ. Cám dỗ lôi kéo Ngài sống cho mình, và không muốn thuộc về Cha, Đấng sai Ngài đi.

“Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra” (Ga 14,10).

“Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì ngoại trừ điều Con thấy Chúa Cha làm” (Ga 5,19).

Đức Giêsu không tự mình nói, tự mình làm, vì Ngài đã vượt qua được cái tôi, và để cho Cha chiếm hữu toàn bộ cuộc sống.

Nếu chúng ta dám nói và làm theo ý Cha, chúng ta sẽ giống Đức Giêsu: thuộc trọn về Thiên Chúa.

Thuộc về Thiên Chúa phải là nền tảng chi phối mọi tương quan của ta với thụ tạo khác.

Cậu bé Giêsu được đưa lên Đền Thờ lần đầu tiên.

Chúng ta thấy một đôi vợ chồng nghèo với đứa con nhỏ, đứng lẫn trong đám đông, chờ đến phiên mình. Ai có mắt để thấy được sự lớn lao của mầu nhiệm?

Si-mê-on: một người công chính và mộ đạo, một người đầy Thánh Thần và sống trong chờ đợi. An-na: một góa phụ già nua phụng thờ Chúa đêm ngày, trong ăn chay và cầu nguyện.

Để thấy Chúa trong cái đều đặn, bình thường, buồn tẻ, cần có một đời sống đạo đức sâu xa.

Chúa có thể gặp ta như một sự tình cờ, nhưng thật ra lại là kết quả của những năm dài chuẩn bị.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn hãy chia sẻ cho biết hiện nay bạn đang thấy mình “thuộc về” những người nào hay những tập thể nào. Sự thuộc về mạnh nhất của bạn hiện nay đặt ở đâu? Bạn thấy có nguy hiểm gì không?

Thuộc về Thiên Chúa, thuộc về tha nhân: có khi nào bạn cảm nghiệm điều đó một cách mãnh liệt không? Xin chia sẻ.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

 

2. Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh. Theo luật Do Thái, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Do đó, cha mẹ con trẻ phải chuộc lại đứa bé tùy theo khả năng của gia đình mình hoặc một con chiên tinh tuyền hoặc một cặp bồ câu. Những của lễ này được dùng dâng hiến cho Thiên Chúa thay thế các em.

Mẹ Maria vâng theo lề luật:

Như mọi người dân Do Thái, Mẹ Maria cũng hoàn toàn vâng theo lề luật. Vì thế, khi Chúa Giêsu đã đúng ngày luật định, Mẹ Maria và thánh cả Giuse đã đưa Chúa Giêsu lên đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2,23 ). Theo tục lệ, của lễ dâng tiến cho Chúa thay thế con trẻ là một cặp chim gáy hay một cặp bồ câu non (Lc 2,24). Tuy nhiên, đối với Mẹ Maria, Mẹ ý thức rất rõ ràng dâng Chúa là vĩnh viễn vì đó là khởi đầu cho lễ hy sinh mà Chúa Giêsu sẽ hoàn tất trên núi Canvê để cứu chuộc nhân loại.

Thánh lễ hôm nay mang hai ý nghĩa:

Nhìn bề ngoài, chúng ta thấy Chúa vâng phục lề luật và cha mẹ của Người làm theo luật dậy, nhưng thực ra Chúa Giêsu đến gặp dân của Người. Vì thế, ngay tại Giêrusalem, cụ già Simêon, một người công chính và nữ ngôn sứ Anna, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đã tới đền thánh và chính Simêon đã được linh hứng sẽ không chết trước ngày được gặp Đấng Cứu Thế. Do đó, khi thấy Chúa Giêsu, Thánh Thần soi sáng, các Ngài đã nhận ra con trẻ mà các Ngài đang ẵm trên tay, đang thấy ở trước mặt lại chính là Chúa của mình, đồng thời các Ngài rất vui sướng loan báo cho những người khác. Thánh lễ dâng Chúa vào đền thánh còn có một ý nghĩa khác nữa, Chúa được Chúa Thánh Thần công bố là vinh quang của Israen và là ánh sáng soi đường cho muôn dân, muôn nước trên mặt đất này. Chính vì thế, khi người Kitô hữu quy tụ trong nhà thờ do tác động của Chúa Thánh Thần, chắc chắn dân Chúa sẽ gặp Người, sẽ nhận ra Người lúc bẻ bánh, trong khi chờ đợi Người đến trong vinh quang. Qủa thực, Chúa Giêsu là quà tặng cao quí nhất Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Con Một Chúa đã mang kiếp người phàm và hôm nay được tiến dâng trong đền thánh. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tâm hồn chúng con cũng nên trong sạch hầu xứng đáng dâng mình trước thánh nhan.

Suy niệm: Lc 2, 22-40

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Và này đây, tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Ðấng Kitô của Ðức Chúa. Ðược Thần Khí dun dủi, ông lên Ðền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

Muôn lạy Chúa, giờ đây

theo lời Ngài đã hứa,

xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

Ðó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

là vinh quang của Ítraen Dân Ngài.

Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người. Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.”

Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuen, thuộc chi tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Ðền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ gặp ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.

Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là Nadarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

Suy niệm:

“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.” Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh. Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa. Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.

Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế? Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy. Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ. Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng. Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng, chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16). Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.

Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời, dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy. Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39). Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào. Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ. Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ. Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân? Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa. Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25), người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27). Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy, Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay. Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình. Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa. Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.

Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng, cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, và trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng. Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.

(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)

 

3. Dâng Chúa trong đền thờ

(Suy niệm và chú giải của R. Gutzwiller)

Thánh Luca không nói gì cho chúng ta về thời niên thiếu của vị tiền hô, tất cả thời tuổi trẻ của vị này đều chìm trong im lặng và cô đơn. Trái lại, thời niên thiếu của Chúa Giêsu được kể lại trong ba trường hợp. Trường hợp thứ nhất là lễ cắt bì, chỉ được kể lại trong có một câu. Sự cốt yếu của lễ này là đặt tên Giêsu, tên đã được Thiên thần nói trước, tên này nêu rõ bản tính của Hài nhi trong những ngày sắp tới. Chính do danh hiệu đó mà Giáo Hội mừng kính bằng một lễ đặc biệt, cũng chính danh hiệu đó mà biết bao người không ngớt chiêm niệm và đã là nguồn hân hoan vui sướng cho các nhà Thần bí: danh hiệu mà theo kiểu nói của Thánh Phaolô, mọi gối phải quỳ lạy ở trên trời, lẫn dưới thế và cả dưới hoả ngục.

Đang khi đó thì Thánh Luca lại viết lại cho chúng ta về lễ dâng Chúa trong đền thờ với nhiều chi tiết hơn và khiến ta phải lưu ý tới hai điều sau:

  1. Những biến cố.

Nhìn bên ngoài, chẳng thấy có gì đáng lưu tâm. Hàng năm có cả trăm đôi cha mẹ trẻ bước lên Đền thờ tiến vào cửa trước dành cho các phụ nữ để được thanh tẩy theo nghi lễ và chuộc lại đứa con mới sinh. Luật buộc thanh tẩy vì sự thụ thai và sinh con đã liên kết chặt chẽ với tội lỗi và với đam mê hỗn độn. Theo chương trình của Thiên Chúa, cả hai việc đó, phải là cái gì mang tính chất bí tích vì đã chuyển đời sống siêu nhiên đồng thời với đời sống tự nhiên. Nhưng tội đã làm nào loạn nguồn mạch và như vậy, tội lẫn vào việc lành, nhân loại đầy trần tục với thần thiêng. Lễ tế được đặt ra đối với người mẹ là bà cần phải thanh tẩy để có thể bước vào đền thờ. Đức Maria không có tiền để mua một con chiên làm lễ tế và phải đành lòng như bao người mẹ nghèo nàn khác, dâng một ccặp chim câu để làm lễ vật. Việc chuộc lại đứa trẻ trai được đặt ra vì tất cả những của đầu mùa, nơi ruộng nương, nơi đoàn vật và nhất là nơi con người đều đặc biệt thuộc về Giavê. Như vậy cậu con trai phải chuộc lại để có thể sống đời sống của mình. Tất cả những điểm đó chẳng có chi đặc biệt và đáng lưu tâm.

Tuy nhiên, nội dung của sự việc mới có khác biệt. Đức Maria rõ ràng là người Mẹ chẳng có dính bén chút gì để phải thanh tẩy. Mẹ đâu thụ thai bởi phàm nhân, mà do phép Chúa Thánh Thần. Mẹ cũng chẳng có một ước muốn xấu xa gì, vì Mẹ không biết đến người nam. Vì thế, việc chuộc lại Hài nhi chỉ mang hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu xét là con đầu lòng của Chúa Cha, thì thuộc quyền sở hữu của Người. Nhưng Ngài sẽ chuộc lại những người khác và giá Ngài phải trả là giá máu của tim Ngài, chứ không phải bằng tiền bạc.

Như Đức Kitô tuân phục Lề luật Môisen hay sắc lệnh của Xêsarê, người Kitô hữu cũng phải phục tùng các quyền hành bên ngoài điều khiển nhân loại bằng ý muốn hay với phép của Thiên Chúa và tuân hành các quy luật như những người khác trong lãnh vực luật pháp. Bên ngoài chẳng có gì lạ kỳ đánh dấu sự hiện hữu và đời sống của người Kitô hữu. Vì không nhất thiết là sự biến đổi nội tâm trước nhan Chúa phải kéo theo sự cách mạng môi trường mình sống.

  1. Những lời nói

Những biến cố này có thể qua đi mà ít được biết tới nếu không có một người đến gặp đôi vợ chồng trẻ để chào thăm Hài nhi với những ngôn từ lạ lùng. Ông này không phải là tư tế, mà chỉ là một người dân thường, một người thực công chính, đang chờ đợi niềm an ủi của Israel, chờ đợi Đấng Messia. Đầy Thần linh Thiên Chúa và nhờ ơn soi sáng, ông đã nhận ra Đấng Messia nơi Hài nhi do người Mẹ khiêm hạ này bồng trên tay.

Lời đầu tiên của ông là lời thân thưa với Thiên Chúa. Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Thiên Chúa là Chủ Tể, ai muốn phục vụ Ngài, là tôi tờ của Ngài. Đời sống của cụ già Simêon là một sự hiện hữu và là một công việc phục vụ Thiên Chúa, được kể như một cuộc phục dịch, nhưng bây giờ đã tới lúc nghỉ ngơi sau chuỗi ngày dài lao động. Sự chết là một cuộc nghỉ việc, một sự giải phóng trong an bình và về với an bình.

Hy vọng và ơn cứu độ là phần thưởng lúc trời chiều ngả bóng, đã nâng đỡ ông suốt thời gian thi hành nhiệm vụ khó khăn. Đấng Cứu độ đã đến, công việc đã có được ý nghĩa và đời sống dấn thân trên con đường cứu độ lời kinh muôn lạy Chúa (Nunc dimittis) là lời kinh tối của Giáo Hội.

Mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ. Cụ Simêon, con người ưu tư, suy nghĩ, hẳn phải đau khổ vì những cảnh vô đạo chung quanh. Chính đôi mắt này đã từng chứng kiến những cảnh tội lỗi và phản giáo, nay thấy Đấng mang lại ơn cứu độ và sự thánh thiện. Đức Kitô là thày thuốc sẽ chữa trị tất cả và là Đấng Thánh sẽ thánh hoá tất cả.

Chúa dọn ra trước mặt người trần. Những chướng ngại hạn hẹp của Israel đã bị phá đổ, chiều kích của Giáo Hội phổ quát tỏ hiện. Israel ra đi mở rộng chân trời của Simêon và làm cho người ta nghĩ đến những khuôn khổ mới mẻ của tinh thần và con tim.

Ánh sáng rạng soi dân ngoại. Những lời tiên tri của Isaia (đoạn 42 và 29) đã được nhắc lại ở đây. Dân ngoại không còn là người bị khinh khi, xua đuổi; không còn bị cái nhìn trịch thượng của những người đã được chọn ném xuống. Vì ánh sáng của Đức Kitô sẽ đâm thấu đêm đen, đuổi đi tất cả những bóng tối và đem đến một ngày mới không có chiều tà.

Còn Israel dân Chúa được vinh quang. Nhờ Chúa Giêsu, cái cây của dân này sẽ triển nở sinh hoa kết quả. Israel xấu sẽ trở nên đối tượng của vấp phạm và tên nó sẽ bị nhiều người nhạo báng và ghét bỏ. Còn Israel chân thật sẽ là cánh đồng nơi các hoa mầu quý giá mọc lên, sẽ là núi đá vọt ra những dòng suối, sẽ là nền trời nơi mặt trời toả sáng; nên các tín hữu sẽ nhắc đến tên nó với lòng kính trọng và biết ơn.

Theo lời của Simêon, Israel đặt sự cao cả đã nhận được từ nơi Chúa, dưới chân Chúa nhập thể. Bài tang ca của Israel là một bài thánh thi cho Đức Kitô; Israel đã tàn lụi trong những tia sáng của luồng ánh sáng rạng rỡ hơn; Israel chết đi để được đưa vào một đời sống mới nhờ Đức Giêsu Đấng Thiên Sai.

Lời thứ hai của Simêon là lời nói với Đức Maria: Hài nhi con bà sẽ được đặt lên để nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay chỗi dậy và làm dấu gợi lên chống đối. Kitô giáo không cưỡng chế và cũng chẳng dùng sức mạnh để bắt buộc ai, trái lại chỉ là lời mời mọc và kêu gọi. Con người phải quyết định. Họ có thể nói nhận hay không. Nhờ lời nhận họ sẽ đứng thẳng lên như người bị tê liệt được chữa khỏi, vì họ sẽ bước đi trên con đường của Thiên Chúa. Với tiếng không họ tự mình chỗi dậy và tin rằng mình đã hoàn hảo: sự suy sụp của họ đã đến. Tất sẽ kết thúc bằng đổ vỡ và đồi bại.

Giữ một chỗ đối với Đức Kitô là quyết định số phận con người và nhân loại trước nhan Thiên Chúa. Đức Kitô đưa ra hai nẻo đường lớn dẫn tới cứu độ và sa ngã, dòng nước đôi ngả, sự nhận thức giữa chân và giả. Đối với Mẹ Ngài, việc biết được Đức Kitô, Đức Kitô đích thực, sẽ gặp chống đối và phản kháng hẳn phải là nỗi đau đớn ghê gớm trong đời Mẹ: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim chị. Vì tiếng nhận và không sẽ làm lộ nhiều tâm hồn trong Israel. Cái bị che dấu sẽ đưa ra ánh sáng. Cứng lòng, ý tưởng bất chính, ích kỷ cá nhân, kiêu ngạo và ghen tương… tất cả những gì là xấu xa, kẻ thù của Thiên Chúa, đều tỏ lộ ra. Tất cả những gì là bỉ ổi, suy đồi và hôi thối đều bị thấy rõ. Nhìn thấy các tư tưởng con người hệ ở chỗ vạch trần những giả dối và mở toang những nấm mồ quét vôi trắng. Nhưng trên hết phải là sự dửng dưng không tiếp nhận tình yêu Nhập thể, đó mới chính là mũi gươm đâm sâu vào trái tim người mẹ giầu tình thương này. Như vậy, ngay từ đầu đời Chúa Giêsu, người ta đã nhìn thấy  Bà mẹ đau khổ là chính Người đứng dưới chân thánh giá, vào những giây phút cuối cùng với con bị đâm thấu tim, hoàn tất lễ hiến tế mạnh mẽ hơn lòng ghét ghen của nhân loại.

Khi Tin mừng nói rằng, Cha và Mẹ Ngài ngạc nhiên về những gì nói về Ngài đã chứng tỏ cho ta thấy chính các vị cũng phải lần bước trong ánh sáng đức tin, đang khi luôn nhận thức và xác quyết những chân lý mới.

Hợp với ông già Simêon, có bà già khả kính Anna, đại diện cho cả dân tộc, nam cũng như nữ, ca tụng Thiên Chúa và mang tới một sứ điệp cho những người đang trông đợi phúc cứu chuộc Israel.

Người ta không thấy nhắc gì tới cái chết của ông già bà cả này. Các cụ đã làm tròn sứ mạng của mình và đã sang thế giới bên kia với tâm hồn bình an và vui sướng trong cũng một cảm nghĩ rằng Israel chân chính mới mẻ là người luôn cởi mở trong Đấng Messia.

 

4. Đức Giêsu hay Đức Maria: Lễ Dâng Con – J.M

Cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem để dâng Hài Nhi Giê-su trong đền thờ là tục lệ sau này, thời Abraham và Môisê chưa có đền thờ ! nhưng lễ dâng con thực sự có từ thời cắt bì, đó là lúc dâng con trẻ và lễ hy sinh đền tội và lễ tạ ơn.

Của lễ Đức Ma-ri-a dâng hoàn toàn hợp luật Môisê. Đức Ma-ri-a dâng mình trong đền thờ, Ngài vào đền thánh xin tư tế dâng lễ hy sinh lên trước Giavê Thiên Chúa để đền tội và thanh tẩy.

Điều đó dạy tôi gì? tôi phải hiểu sứ điệp đó thế nào? vì luôn luôn Tin Mừng nói với tôi một sứ điệp qua những câu kinh thánh. Tôi phải suy niệm, mới giúp tôi hài lòng về những đợt sóng lời Chúa, xem ra bên ngoài có vẻ vô dụng, nhưng đó là những tiếng nói linh ứng cho ai biết tự cầu nguyện tự phát.

Sứ điệp đó là sứ điệp sống dịu hiền, vui mừng trung thành theo luật dạy một cách đơn sơ chân thành. Bài ca của cụ già Simêon rất đẹp, lời tiên tri của bà Anna gợi lên một hình ảnh huyền diệu tô điểm thêm cho ngày dâng con.

Hai chứng nhân này nói với chúng ta rằng những kẻ nhỏ bé, khiêm tốn, nghèo khó cầu nguyện Thánh Thần trong con tim của họ. Chúa Thánh Thần mặc khải rằng Thiên Chúa ở đó với họ, và khi Chúa tự tỏ mình ra, thì chẳng còn gì bên ngoài thế giới lay chuyển được họ. Vinh quang của Thiên Chúa tỏ ra trong sự thấp hèn và tối tăm như Hài Nhi tỏ vinh quang nơi hang lừa máng cỏ.

“Cháu còn là dấu hiệu gây chia rẽ…”. Lời tiên tri này là tiếng vang của lời Chúa sau này nghe như xé nát tâm can: Ai yêu mến cha mẹ mình… hơn tôi, không đáng làm môn đệ tôi”. “Ai không thuận với tôi, là chống lại tôi”. “Ai muốn theo tôi, phải tự bỏ mình, vác thập giá mình mà theo tôi”.

Môn đệ không trọng hơn Thầy. Không thể cứu mình khi còn nắm lấy những chuỗi xích khoái lạc và những tư tưởng riêng tư của mình.

Cần hoàn toàn đơn sơ chân thành yêu mến Đấng ban ơn hơn là xin ơn.

 

5. Thắp lên một ngọn nến

Thế giới hôm nay có những kẻ thù địch với Kitô giáo. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và tìm mọi cách để thu hút, lôi cuốn đám đông đi theo đường hướng của họ.

Trước sự kiện này, một số các tín hữu nhiệt thành đã thiết lập phong trào thánh Christôphôrô. Những người gia nhập phong trào này không cần phải ghi tên hay đóng góp chi cả, miễn là cố gắng làm thế nào chứng minh cho kẻ khác biết được rằng: tất cả chúng ta đều được Chúa yêu thương và chăm sóc. Chính vì thế mà phải sống một cuộc sống chan hòa tình người, tôn trọng những quyền lợi của nhau, cũng như sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Điều mà phong trào này tâm niệm đó là:

– Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.

Đọc lại Phúc âm, chúng ta ghi nhận điều này: Đức Kitô là ánh sáng muôn dân.

Thực vậy, hôm nay trước cửa đền thờ, ông già Simêon đã nói tiên tri về Hài nhi Giêsu như sau:

– Lạy Chúa, xin để tôi tớ này được ra đi bình an, vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ, Chúa dọn ra trước mặt nhân trần, làm ánh sáng rạng soi dân ngoại, còn Israen dân Chúa được vinh quang.

Rồi trong cuộc sống công khai, chính Đức Kitô cũng đã từng công bố:

– Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn ngồi trong đêm tối.

Hay như thánh Gioan đã xác quyết:

– Nơi Ngài có sự sống. Và sự sống là ánh sáng cho muôn dân. Anh sáng đã chiếu soi trong u tối.

Một khi Đức Kitô đã là ánh sáng, thì Mẹ Maria chính là chiếc đèn, bởi vì Mẹ mang trong mình ánh sáng và từ đó tỏa lan khắp nơi. Hôm nay nơi đền thờ Giêrusalem, Mẹ bồng ẵm trong vòng tay của mình Hài nhi Giêsu, ánh sáng muôn dân. Không phải Mẹ chỉ bồng ẵm Chúa trên đôi tay của mình, mà hơn thế nữa, tâm hồn Mẹ hoàn toàn được ánh sáng Chúa chiếu soi và biến đổi. Mẹ chính là tấm gương trung thực nhất phản ảnh mọi nhân đức của Chúa.

Trên trời cũng như dưới đất, không một tạo vật nào giống Chúa cho bằng Mẹ. Mẹ chính là người môn đệ đầu tiên đã đi trên dấu chân của Chúa, qua đau khổ và thập giá để tiến đến vinh quang. Mẹ hoàn toàn tin tưởng và phó thác để được trọn vẹn trung thành với thánh ý của Chúa.

Còn chúng ta thì sao?

Tôi xin thưa:

– Chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên đèn cháy như Mẹ. Thực vậy, thánh Phaolô đã khuyên nhủ:

– Trước kia anh em là tối tăm, nhưng hiện nay anh em là ánh sáng trong Đức Kitô.

Phải chăng đây cũng chính là điều Đức Kitô mong ước nơi mỗi người chúng ta, khi Ngài phán:

– Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi, không thể giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới gậm giường, nhưng sẽ đặt trên giá, để nó chiếu sáng cho mọi người trong nhà.

Là người Kitô hữu, chúng ta phải mang Đức Kitô, hay nói cách khác, phải mang ánh sáng của Ngài trong tâm hồn, rồi từ đó chiếu tỏa ánh sáng ấy cho những người chung quanh.

Là người tín hữu, chúng ta phải trở thành ngọn đèn cháy sáng, để những người còn ngồi trong tối tăm lầm lạc, nhờ chúng ta, sẽ tìm thấy đường ngay nẻo chính. Muốn được như thế, thì tâm hồn và cuộc đời chúng ta phải trong suốt như pha lê, cho ánh sáng Chúa chiếu qua.

Thế nhưng có kẻ lại nghĩ rằng:

– Ánh sáng của tôi còn quá yếu ớt, làm sao có thể chọc thủng được đêm đen?

Trong một buổi thuyết trình, vị linh mục được mời nói chuyện, đã bắt đầu bằng cách tắt hết các bóng điện, khiến cho tăm tối phủ kín khắp phòng. Rồi ngài đánh một que diêm và thắp lên một ngọn nến. Ánh sáng của ngọn nến tuy yếu ớt, nhưng cũng đủ để họ nhìn thấy được khuôn mặt của người bên cạnh. Và nếu người nào cũng thắp lên một ngọn nến như thế, thì hẳn căn phòng sẽ rực rỡ, sẽ chan hòa ánh sáng.

Đừng nói rằng:

– Mình chẳng làm gì được.

Trái lại, thay vì ngồi phê bình và chỉ trích, thở dài và bi quan, chúng ta hãy góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc đẩy lui ảnh hưởng của đêm tối, của tội ác.

Nếu hoạt động của đêm tối là âm mưu, là thù oán, là tham vọng bất chính, thì hoạt động của ánh sáng phải là nhân hậu, phải là tha thứ, phải là khiêm cung.

Nếu một con én không làm nổi mùa xuân thì ít nữa nó cũng góp phần báo tin mùa xuân đang đến.

Chúng ta cũng vậy, thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.

 

6. Trinh nữ hiến dâng

Mừng kính biến cố Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, chúng ta cùng nhau chia sẻ về tâm tình dâng hiến của Mẹ. Thực vậy, trong tông huấn “Marialis Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng Virgo offerans”. Chỉ cần nhìn vào cuộc đời của Mẹ, chúng ta sẽ thấy ngay được sự dâng hiến ấy.

Trước hết, theo truyền thuyết thì năm lên ba, Mẹ đã theo cha mẹ lên đền thờ, rồi  ở lại đó một thời gian. Trong thời gian này, Mẹ đã học hỏi Kinh thánh, tập luyện các nhân đức và khấn giữ mình đồng trinh, một nhân đức rất hiếm người Do thái hiểu và giữ lúc bấy giờ. Mẹ đã dâng hiến trọn vẹn tâm hồn và thể xác cho Thiên Chúa.

Tiếp đến trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã dâng hiến cõi lòng của Mẹ, làm thành như một chiếc nôi hồng cho Ngôi Lời giáng thế. Và hôm nay, Mẹ đã dâng hiến người con yêu dấu của Mẹ cho Thiên Chúa theo như lề luật qui định, để rồi sự dâng hiến này đạt tới cao điểm  của nó trên đỉnh đồi Canvê, khi Mẹ đứng dưới chân cây thập giá nhìn Chúa chịu sát tế làm của lễ đền tội cho nhân loại.

Nhìn vào mẫu gương của Mẹ, chúng ta rút ra được một kết luận như sau: Dâng hiến và đau khổ luôn đi liền với nhau. Thực vậy, không một sự dâng hiến nào mà lại không có khổ đau. Và hơn thế nữa, chính những khổ đau này sẽ làm cho việc dâng hiến trở nên cao cả và có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tại sao thế?

Tôi xin thưa vì dâng hiến là gì nếu không phải là lấy đi phần cao quí nhất để trao cho người mình thương mến. Mà đã cho đi thì phải mất mát. Mà mất mát thì phải tiếc xót. Chính vì thế, sự dâng hiến nào cũng đòi buộc phải chấp nhận hy sinh và khổ đau.

Nhìn vào Mẹ, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy.  Một khi đã cúi đầu xin vâng, Mẹ cũng sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau sẽ xảy đến.

Chúng ta hãy nghĩ tới bàu khí ngột ngạt và căng thẳng trong gia đình, khi thánh Giuse nhận ra Mẹ đã mang thai không bởi hành động của mình. Mẹ đã âm thầm chịu đựng, mặc cho Thiên Chúa hành động và làm sáng tỏ vấn đề.

Chúng ta hãy nghĩ tới việc Mẹ lên đường trở về Bêlem để đăng ký hộ khẩu giữa lúc bụng mang dạ chửa, việc sinh Chúa trong cảnh nghèo túng của máng cỏ giữa nơi đồng vắng, việc trốn chạy giữa đêm khuya và những cực nhọc nơi đất khách quê người bên Ai Cập cũng như những lao động vất vả tại Nagiarét.

Rồi trong ngày hôm nay, Mẹ đã phải đón nhận lời tiên báo đầy cay đắng của ông già Simêon:

– Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà…

Lời tiên báo này đã được thực hiện qua từng biến cố cuộc đời và đã trở nên trọn vẹn trên đỉnh đồi Canvê. Tại đây, sự dâng hiến trở nên tuyệt hảo nhất, thì hy sinh và đau khổ cũng đáng cay và chua xót nhất. Mẹ đã kết hiệp với Đức Kitô trong máu và nước mắt, để dâng hiến cho Thiên Chúa một của lễ cao cả nhất.

Nhìn vào Chúa, chúng ta lại càng thấy rõ sự thật này hơn nữa.

Thực vậy, mục đích của việc xuống thế làm người là gì nếu không phải là để cứu chuộc nhân loại. Nhưng đâu là giây phút quan trọng nhất trong chương trình cứu độ, nếu không phải là giây phút Ngài hiến dâng trên bàn thờ thập giá. Tất cả cuộc đời của Ngài chỉ là một sự chuẩn bị cho giây phút trọng đại này. Mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của Ngài đều hướng tới đỉnh cao thập giá, chính tại đây Ngài đã chấp nhận những đớn đau và tủi nhục. Ngài đã sinh ra trong khó nghèo, lớn lên trong vất vả và chết đi trong nhục nhã. Thế nhưng, chính nhờ việc tự hạ này, mà Thiên Chúa đã nâng Ngài lên và tôn vinh Ngài.

Còn chúng ta thì sao?

Nếu muốn sống tâm tình dâng hiến như Chúa và Mẹ, chúng ta cũng phải chấp nhận hy sinh và khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Đúng thế, chúng ta vốn thường ngại hy sinh và chạy trốn đau khổ, nhưng làm sao có thể lẩn tránh vì chúng được chất đầy trong cuộc sống chúng ta, chi bằng hãy can đảm chấp nhận.

Hy sinh va khổ đau không phải là một cái gì làm cho chúng ta sợ hãi, những là một phần của đời sống chúng ta. Nếu biết đón nhận, nó sẽ thanh tẩy và làm cho chúng ta trở nên tinh ròng, như tục ngữ cũng đã nói: lửa thử vàng, gian nan thử đức.

Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, thì những hy sinh và khổ đau ấy sẽ trở nên công phúc cho chúng ta, bởi vì lòng yêu mến là như chiếc đũa thần biến những hy sinh và khổ đau trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời chúng ta thực sự có giá trị trước mặt Thiên Chúa.

Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Anh em hãy hiến dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì Ngài yêu thích những ai trao ban một cách vui vẻ.

 

7. Chúa Giêsu là Ánh Sáng

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8). Ông Symêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là ” Ánh Sáng muôn dân ” (Lc 2, 32).

Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người “(x. Phụng vụ Byzantine).

Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?

Theo thánh Dimitri de Rostov: “Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả: Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ”.

Thánh Phaolô nói: “Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ” (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: ” Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham…Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,16-17).

Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.

Hy Tế Cứu Chuộc

Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 01 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là “cặp bồ câu non”! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là “bản lề”chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để (Cứu chuộc) chúng ta.

Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?

Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.

Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.

Lời của cụ già Symêon nói: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.

Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.

 

8. Lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ

(Suy niệm của Linh Tiến Khải)

Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ trong lịch phụng vụ cũ gọi là lễ ”Thanh tẩy của Đức Maria”, hay theo thói quen bình dân gọi là ”Lễ nến”, cử hành 40 ngày sau lễ Giáng Sinh.

Thật ra đây là lễ của Chúa Kitô chứ không phải lễ của Đức Mẹ. Biến cố này đã được thánh sử Luca thuật lại trong chương 2 như sau: ”Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môshê, Bà Maria và Ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: ”Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (Lc 2,22-24).

Là những người trung thành tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse thực thi điều Luật Thiên Chúa đã truyền cho ông Môshê như ghi trong chương 13 sách Xuất Hành: ”Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”; ”Vậy khi Giavê đã đưa ngươi vào đất Canaan như Người đã thề với ngươi và cha ông của ngươi, và khi Người đã ban đất ấy cho ngươi, thì ngươi phải nhượng lại cho Giavê mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Giavê. Mọi con đầu lòng của giống lừa ngươi sẽ lấy con chiên mà chuộc lại; nếu ngươi không chuộc lại, thì đánh gãy ót nó đi. Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. Vậy mai ngày con của ngươi có hỏi: Điều đó nghĩa là gì? Thì ngươi sẽ nói với nó: ”Giavê đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ. Bởi vì Pharaô làm khó dễ khi phải thả chúng ta ra, nên Giavê đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai Cập, từ con đầu lòng của loài người cho đến con đầu lòng của loài vật, vì thế mà cha tế dâng Giavê mọi con so giống đực; còn con đầu lòng trong số con cái cha, thì cha chuộc lại” (Xh 13,11-15).

Cũng trong dịp này người mẹ làm lễ thanh tẩy cho chính mình như ghi trong chương 12 sách Lêvi: ”Khi một người đàn bà có thai và sinh con trai, thì sẽ ra ô uế trong vòng bảy ngày, nó sẽ ra ô uế như những ngày bị khó ở vì kinh nguyệt. Đến ngày thứ tám, đứa trẻ sẽ được cắt bì nơi da quy đầu. Rồi người đàn bà phải đợi ba mươi ba ngày cho máu được thanh tẩy; nó không được đụng đến vật thánh nào và không được vào thánh điện, cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của mình. Nếu sinh con gái, thì người đàn bà sẽ ra ô uế trong vòng hai tuần, như khi có kinh; rồi nó phải đợi sáu mươi sáu ngày cho máu được thanh tẩy.

Khi mãn thời gian thanh tẩy, dù sinh con trai hay con gái, nó phải đem đến cho tư tế ở cửa Lều Hội Ngộ, một chiên con một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một bồ câu non hay một con chim gáy làm lễ tạ ơn. Tư tế sẽ tiến dâng chúng trước nhan Giavê và cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ được thanh tẩy sau khi đã xuất huyết. Đó là luật về người đàn bà sinh con trai hay con gái. Nếu không có phương tiện kiếm được chiên, thì nó sẽ bắt một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non, một con để làm lễ toàn thiêu, một con để làm lễ tạ tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ ra thanh sạch” (Lv 13,6-8).

Việc dâng con trai đầu lòng trước Nhà tạm có ý nghĩa chuộc con, vì nó thuộc Thiên Chúa như viết trong chương 18 sách Dân Số: Đức Chúa phán với ông Aharon: ”ngươi phải cho chuộc lại con đầu lòng của người ta, và con đầu lòng của súc vật không sạch, ngươi cũng cho chuộc lại. Ngươi sẽ cho chuộc khi nó được một tháng; tiền chuộc ngươi sẽ ấn định là mười lăm chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. Nhưng bò, chiên và dê đầu lòng, ngươi sẽ không cho chuộc lại. Chúng là vật thánh, nên máu chúng, ngươi sẽ đổ trên bàn thờ, còn mỡ thì sẽ đốt làm hỏa tế thành hương thơm làm đẹp lòng Đức Chúa, và thịt thì để cho ngươi dùng, cũng như thịt sườn đã được tiến dâng theo nghi thức và thịt đùi bên phải đều thuộc về ngươi.” (Ds 18,15-18).

Chúng ta có tin liên quan tới lễ Dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thánh tại Giêrusalem từ bà Eteria, một tín hữu hành hương nổi tiếng nhất của thời cổ Kitô. Bà đã viếng thăm các nơi thánh bên Palestina vào giữa thế kỷ thứ VI. Nhưng lễ này đã được cử hành một thế kỷ trước đó, chẳng hạn tại Alessandria bên Ai Cập, nơi thánh Cirillo cũng làm chứng cho cuộc rước với ánh sáng và đuốc. Tại Constantinopoli vào năm 534 lễ này được hoàng đế Giustiniano dời từ ngày 14 sang ngày mùng 2 tháng Hai, trong khi nó được Đức Giáo Hoàng Sergio người Siri du nhập vào Giáo Hội Roma vào cuối thế thỷ thứ VII.

Đề tài Chúa Kitô Ánh Sáng định tính cho toàn chu kỳ các ngày lễ Giáng Sinh và đạt tột đỉnh với lễ Hiển Linh, tức biến cố Chúa tỏ mình cho ba nhà đạo sĩ đại diện cho các dân tộc không do thái, được kéo dài cho tới ngày lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Cử chỉ của Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse chu toàn Lề Luật trong kiểu dấu ẩn khiêm tốn định tính việc Nhập thể của Con Thiên Chúa, nhận được sự tiếp đón từ cụ già Simeon và nữ ngôn sứ Anna. Được Thiên Chúa linh hứng, họ vào Đền Thờ và nhận biết Đấng Cứu Thế nơi Hài Nhi Giêsu. Trong cuộc gặp gỡ giữa cụ già Simeon và Đức Maria người mẹ trẻ, Cựu Ước và Tân Ước nối kết với nhau một cách tuyệt vời trong việc tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban Đức Giêsu Kitô Hài Nhi Cứu Thế là Ánh Sáng chiếu soi toàn nhân loại và là vinh quang của Israel.

Thánh sử Luca miêu tả lại cảnh này như sau: ”Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simeon. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm vui của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc Mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: ”Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là Ánh Sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài”. Cha và Mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simeon nói về Người. Ông Simeon chúc phúc cho hai Ông Bà và nói với Bà Maria, Mẹ của Hài Nhi: ”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Chúa còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà”.

Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Penuel thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá bà đã sống với chồng được bẩy năm, rồi ở góa, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa và nói về Hài Nhi cho hết mọi người mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2,25-38).

Trình thuật Dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa Cha trong Đền Thờ Giêrusalem là hình ảnh hiến dâng chính mạng sống mình cho Thiên Chúa và cho chương trình tình yêu cứu rỗi của Chúa. Này con đến để làm theo thánh ý Cha. Ý nghĩa hiến dâng toàn cuộc sống cho Thiên Chúa đã khiến cho Đức Gioan Phaolô II trực giác được mục đích của những người sống đời thánh hiến và năm 1997 cử hành Ngày cho đời thánh hiến lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội. Nó bao gồm nhiều mục đích. Trước hết là chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa vì ơn gọi đời thánh hiến, thuộc sự thánh thiện của Giáo Hội. Trong ngày này toàn cộng đoàn dân Chúa khắp năm châu hiệp nhau cảm tạ Thiên Chúa Cha vì ơn gọi đời thánh hiến và cầu nguyện cho những người sống đời thánh hiến. Tiếp đến ngày này nhằm mục đích ngày càng đánh giá cao chứng tá của những người chọn theo Chúa Kitô qua việc sống các lời khuyên phúc âm, bằng cách thăng tiến sự hiểu biết và lòng qúy chuộng cuộc sống thánh hiến trong lòng Dân Chúa. Sau cùng Ngày cho đời thánh hiến là dịp qúy báu để những người sống đời thánh hiến lập lại và canh tân các thề hứa dấn thân của mình và làm sống dậy các tâm tình đã và đang linh hứng cho họ tận hiến cuộc đời cho Chúa.

Đó là lý do giải thích tại sao trong ngày lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh lại có nghi thức rước nến, và nghi thức các tu sĩ nam nữ lập lại các lời khấn sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Tại Roma chính Đức Giáo Hoàng hay Đức Hồng Y Tổng Trưởng bộ Tu Sĩ và các Hiệp hội tông đồ chủ sự Thánh Lễ trong đền thờ thánh Phêrô với sự tham dự của hàng ngàn tu sĩ nam nữ thuộc các dòng và hiệp hội tông đồ khác nhau.

Tuy nhiên, ý nghĩa của lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh cũng liên quan tới mọi Kitô hữu. Trong ngày lãnh bí tích Rửa Tội linh mục đã xức dầu thánh hiến họ cho Thiên Chúa để họ trở thành thành phần của Giáo Hội, chi thể mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Cùng với áo trắng biểu tượng cho linh hồn trong sạch khỏi tội tổ tông và cuộc sống mới trong ơn thánh, Linh mục cũng trao cho họ nến sáng thắp từ Cây Nến Phục Sinh, biểu tượng cho Chúa Giêsu Kitô, ánh sáng cứu độ chiếu soi nhân loại và toàn thế giới, chiếu soi cuộc sống của tín hữu mọi ngày. Và đến phiên họ, Kitô hữu cũng phải sống thế nào để chứng tá cuộc sống của họ chiếu soi cho mọi người, đặc biệt cho các anh chị em chưa biết Chúa Kitô và Tin Mừng yêu thương cứu độ, giúp họ nhận biết Chúa và đưa họ đến với Chúa để được ơn cứu độ. Năm Đức Tin sắp khai mở vào tháng 10 tới đây là dịp rất tốt để Kitô hữu là ánh sáng và muối men của trần gian.

(Thánh Mẫu Học bài 328)

 

9. Suy Niệm Chúa Nhật 4 Thường Niên – Năm A

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Là con người, ai trong chúng ta cũng mong muốn được hạnh phúc, nhưng quan niệm về hạnh phúc thì khác nhau: Có người cho rằng hạnh phúc là có nhiều tiền bạc của cải; có người cho rằng hạnh phúc là có vợ đẹp con khôn; có người cho rằng hạnh phúc là có quyền cao chức trọng; có người cho rằng hạnh phúc là được sống lâu…

Chính vì quan niệm như thế, cho nên có những người đang dùng những mánh khóe lừa gạt để kiếm cho được nhiều tiền, bất chấp luân thường đạo lý, lẽ công bằng. Họ đang tích trữ kho tàng vật chất để sống hưởng thụ mà quên đi tình bác ái với anh chị em đồng loại; có những người đang tự hào về sắc đẹp của mình, thậm chí dùng sắc đẹp để thỏa mãn dục vọng, phỉnh gạt người khác nên đã gieo biết bao đau khổ cho tha nhân; có những người đang cố gắng dùng quyền lực để cai trị, để kiếm chác nên đã làm khổ dân nước…

Tôi có một người bạn, thi trường Đại Chủng viện 3 lần đều rớt, nên anh tìm đến dòng tu. Ở được một năm thấy không hợp, anh ta trở về cưới vợ. Sau một thời gian gặp lại, anh ta kể cho tôi nghe về vợ con, nhà cửa, nghề nghiệp và mọi thứ. Anh ta rất bằng lòng với cuộc sống của mình. Tôi nhận thấy anh ta rất hạnh phúc. Nhưng sau đó, tôi lại nghe tin vợ anh ta dính líu vào vụ làm ăn gian lận sao đó, nợ nần chồng chất. Người ta thay nhau đến đòi nợ. Nhà cửa, tài sản, đất đai của gia đình anh ta không cánh mà bay. Cuối cùng, vợ anh ta bỏ trốn. Anh ta trở thành cái bia để cho người ta xỉ vả, chửi bới.

Hóa ra, những thứ hạnh phúc ở đời này quá mong manh: vợ đẹp con khôn, chức quyền danh vọng, của cải… có thể nay còn mai mất. Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng: “Đặt niềm tin nơi ta, hay nơi của cải, tiền bạc, quyền lực, rất có thể chúng sẽ mang đến cho ta “một cảm giác sung sướng nhất thời, một ảo tưởng hạnh phúc” và cuối cùng, “chúng sẽ chiếm hữu ta, khiến ta luôn muốn có nhiều hơn, không bao giờ được thoả mãn.”  Pic de la Mirandole cũng đã nói: “Tìm hạnh phúc nơi tạo vật là một điên khùng. Hạnh phúc thật chỉ có thể gặp thấy trong Thiên Chúa.”

Thật vậy, chỉ có Chúa và những gì thuộc về Chúa mới là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói: “Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.” Thánh Augustinô sau một thời gian đi tìm khoái lạc, hạnh phúc ở đời này, cuối cùng cũng đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn còn vẫn còn khắc khoải lo âu cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa.”

Nhưng để có hạnh phúc vĩnh cửu nơi Chúa, chúng ta phải thực hành những gì Chúa dạy, phải đi con đường Chúa đã đi. Con đường đó, các Thánh cũng đã từng đi qua. Đó không phải là con đường rộng rãi thênh thang, con đường của êm ái mà là con đường của hy sinh, từ bỏ, con đường của thập giá. Con đường đó là con đường của Tám Mối Phúc Thật mà chúng ta vừa nghe qua đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 5,1-12a): Đó là biết sống tinh thần nghèo khó, biết sử dụng tốt những của cải Chúa ban, biết sẻ chia cho những người đói khát, nghèo nàn; đó là biết sống hiền lành, cư xử nhẹ nhàng, mềm dẻo với những người xung quanh; đó là biết khóc lóc, sầu buồn, hối hận vì những lỗi lầm mình đã gây nên, giống như thánh Phêrô đã ăn năn khóc lóc mỗi khi gà gáy vì nhớ đến tội chối Chúa của mình; đó là biết khao khát điều công chính, mong muốn mình trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn; đó là biết thương xót người, nhất là những người cô thế cô thân, những người sống bên lề của xã hội, giống như gương của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta: “Hạnh phúc có nghĩa là  yêu như Chúa đã yêu, giúp đỡ như Người đã giúp đỡ, hy sinh như Người đã hy sinh, phục vụ như Người đã phục vụ…”; đó là biết sống trong sạch trong tư tưởng, lời nói, việc làm; đó là biết xây dựng sự hòa bình, hòa thuận, không gây gỗ, chia rẽ, bất hòa với ai. Nếu lỡ bất hòa với ai thì biết làm hòa trước khi mặt trời lặn hoặc trước khi lên dâng của lễ trên bàn thờ; đó là biết bênh vực cho công lý và sự thật dầu có phải chịu đựng sự bách hại vì lẽ công chính: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Lời kinh hòa bình của Thánh Phanxicô Assisi).

Vậy, chúng ta đang đi tìm thứ hạnh phúc nào? Hạnh phúc nơi Chúa hay hạnh phúc nơi của cải, tiền bạc, quyền lực? Xin cho chúng ta không đặt tin tưởng nơi của cải, tiền bạc, quyền lực và những thứ ở đời này nhưng hãy tìm kiếm hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc của Tám mối phúc thật, đó là hạnh phúc của Nước Thiên Đàng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc thật đó là hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc trên Thiên Đàng. Amen.

 

10. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh

Ý NGHĨA CỦA NGÀY LỄ

Bốn mươi ngày trước đây, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Theo luật Mô-sê, Sau khi sinh con trai đầu lòng được bốn mươi ngày, người mẹ phải đến Đền Thờ Giêrusalem để làm lễ thanh tẩy cho mình và hiến dâng con trẻ cho Thiên Chúa, rồi chuộc lại bằng lễ vật một con chiên hay một cặp bồ câu: vì mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Ý nghĩa này nhắc cho dân Do Thái cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã tha không giết các con trai đầu lòng của họ, đang khi các con trai đầu lòng của dân Ai Cập đều bị giết chết, trong đêm Thiên Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập đưa về Đất Hứa (x. Xh 13,l-3a.11-16).

Đức Maria và thánh Giuse cũng tuân giữ diều luật này. Hai ông bà đem Hài nhi Giêsu lên đền Thờ hiến dâng cho Thiên Chúa và gặp ở đây hai vị tiên tri già lão: Simêon và Anna. Hai vị được Thánh Thần linh ứng dã nhận ra Chúa Cứu Thế. ông Simêon đã mãn nguyện vì được tận mắt chiêm ngưỡng Đấng muôn dân trông đợi. Ong đã lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và nói tiên tri về Hài nhi Giêsu: Hài nhi này sẽ là ánh sáng của muôn dân nhưng lại là đối tượng cho người ta chống đối.

Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho thấy Người là con đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ông Simêon và bà Anna tượng trưng cho tất cả sự trông đợi của It-ra-en, họ đã tới gặp Cứu Chúa của mình. Đức Giêsu được nhìn nhặn là Đấng Mê-si-a người ta trông đợi từ lâu, là ánh sáng của muôn dân và là vinh quang của Ít-ra-en, nhưng Người cũng là dấu hiệu của sự chống đối. Thanh gươm của đau khổ được báo cho Mẹ Maria đã loan báo một sự hiến dâng toàn hảo và độc nhất của thập giá. Sự hiến dâng sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị trước mặt tất cả mọi dân tộc

LỄ CỦA ÁNH SÁNG

Lễ hôm nay còn được gọi là Lễ Nến, vì có cuộc rước nến vào Nhà thờ như cuộc đón rước Chúa GIÊSU là ánh sáng của muôn dân. Thánh Xốp-rô-ni-ô, Giám Mục Giêrusalem dã nói: “Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy toả sáng” (x. Kinh Sách, các bài đọc ngày 2/2). .

Công đồng Vaticanô II đã lấy lại lời tiên tri của ông Simêon để mời gọi mọi người Ki tô hữu ý thức sứ mạng và ơn gọi của mình là phải làm cho mọi người được nhận biết Chúa Ki tô, phải đem ánh sáng Tin Mừng của Ngài chiếu soi hướng dẫn mọi người trên thế giới. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố. “Thầy là ánh sáng trần gian. Ai đi theo Thầy sẽ không bước đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống” (x.Ga 12, 34-50). Bao lâu con người chưa nhận biết Chúa Ki tô và ánh sáng Tin Mừng của Ngài, thì bấy lâu con người còn dò dẫm trong tăm tối và dễ bị lầm lạc.

Tuy nhiên, Chúa Ki tô đã trở nên đối tượng chống đối của con người. Có những người biết Chúa để sống theo Ngài. Có những người khác lại chống đối Ngài. Chúng ta lấy làm đau xót với thánh Giuse và Mẹ Maria khi nghe tiên tri Simêon tiên báo điều đó ngay trong ngày vui của Chúa Giêbu: “Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính Bà (Đức Ma ria) thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. Lời tiên tri dó đã ứng nghiệm ngay từ lúc Chúa Giêsu mới sinh ra cho đến khi bắt dấu cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Cuộc chống dối đó ngày càng lan rộng và quyết liệt cho đến khi giết được Ngài treo lên Thập giá. Nhưng Ngài dã Phục Sinh và đã trở thành ánh sáng của muôn dán, nguồn sống cho nhân loại.

HÃY SỐNG TRONG ÁNH SÁNG

Từ nay, ai đã tin Chúa Giêsu Kitô và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều đón nhận sự sống của Thiên Chúa và được ánh sáng của đức Kitô chiếu soi, hướng dẫn cuộc sống. Thật vậy, nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thánh hiến cho Thiên Chúa và được trở nên con của Ngài trong Đức Giêsu Ki tô. Thiên Chúa đã thương gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài. Xưa kia, chúng ta là tối tăm, nhưng nay trong Chúa Ki tô, chúng ta là “con cái của sự sáng là ánh sáng của trần gian” (x. Ga 12,85-36). Do đó chúng ta phải sống như con cái của sự sáng, phải chiếu sáng trước mặt mọi người, để “người ta nhận thấy việc tốt chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta trên trời” (Mt 5.14-16).

Thánh Phao lô nhắn nhủ những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy: Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa, Hãy vật bỏ những việc tối tăm, Hãy mang khí giới ánh sáng,Hãy hành động đàng hoàng như giữa ban ngày, nể luôn được hiệp thông với Chúa Ki tô tà ánh sáng muôn dân” (x. Ep 6,8-14).

Chúa Giêsu hôm nay đang tiến vào Đền Thờ của Ngài. Chúng ta hãy tiếp dón Ngài vào tâm hồn, vào cuộc sống của ta, để ánh sáng của Ngài biến đổi chúng ta thành những ngọn nến chiếu sáng như những vì sao trong đêm tăm tối của trán gian, hầu dẫn đưa những ai còn ngồi nơi tăm tối đến gặp gỡ Đức Giêsu Ki tô, “Đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn trước mặt muôn dân” và dã bày tỏ cho mọi người.

 

11. Lễ Nến – Lm. Nguyễn Ngọc Long.

  1. Lịch sử

Lịch sử Ngày này trong Hội thánh công giáo là ngày lễ mừng, vẫn quen gọi là lễ Nến hay lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ. Tại sao lại có lễ này và gọi như vậy? Theo luật Maisen trong kinh thánh cựu ước ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6) ghi chép:

  1. Trẻ em sơ sinh trong thời han luật định phải mang đến đền thờ dâng hiến cho Thiên Chúa.
  2. Một người phụ nữ sau khi sinh con được 40 ngày phải mang vào đền thờ Thiên Chúa lễ vật, để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta hiểu là sau khi sinh con, người phụ nữ không còn được thanh sạch. Thanh sạch về thể xác hay tâm hồn? Trong sách luật không nói rõ.
  3. Người con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc.

Sau khi hạ sinh Chúa Giêsu được 40 ngày Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép trong đạo thời đó. Nhưng lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ: Hai người đạo đức Ông gìa Simeon và Bà Hanna được hạnh phúc bồng bế haì nhi Giêsu trên tay mình. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là “ánh sáng cho mọi dân tộc” ( Lc 2,22-40).

Bên Hội thánh Đông phương lễ này gọi là Lễ gặp Đấng Cứu Thế: Chúa Giêsu, vị Cứu thế vào đền thờ và gặp hai vị đại diện cho thời đạo cũ: Simeon và Hanna. Tục lệ này trở thành lễ mừng kính trong hội thánh bên Giêrusalem từ đầu thế kỷ thứ tư: 40 ngày sau khi Đức Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu.

Bên Hội thánh tây phương lễ này là lễ kính Đức Mẹ: Đức Mẹ Maria cũng như bao người phụ nữ khác, sau khi sinh hạ con, mang lễ vật vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Bên Roma mừng kính ngày lễ này cũng vào thế kỷ thứ tư trong các thánh đường. Sau này, vào ngày lễ này nến được làm phép và mọi người rước nến cháy sáng trong nhà thờ. Vì thế lễ có tên là Lễ Nến.

Từ năm 1969 lễ ngày mùng Hai tháng Hai không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Mẹ Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, 40 ngày sau khi Chúa mở mắt chào đời trong hang đá Belem. Nếu lễ Chúa giáng sinh được mừng kính ngày 25. 12., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ, sẽ là ngày 02 tháng hai. Nếu lễ giáng sinh được mừng kính vào ngày 06.01., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ sẽ vào ngày 14. tháng Hai.

  1. Ý nghĩa ngày lễ mừng.

Tục lệ đạo đức lễ Nến ăn sâu trong cuộc sống người tín hữu. Ỡ nhiều nơi, giáo dân tín hữu mang nến đến nhà thờ để được làm phép trong ngày này. Họ mang nến đã làm phép về thắp lên mỗi khi đọc kinh gia đình, khấn nguyện khi có người ốm đau hoặc trẩy đi xa, trong những dịp vui mừng cưới hỏi hay tang chế.

Lễ mừng này nói lên ý nghĩa cuộc gặp gỡ: Chúa Giêsu con Thiên Chúa được đưa vào đền thờ, một biểu hiêu trong công trình thiên nhiên. Ngài đi vào thiên nhiên gặp gỡ đời sống con người: tôn giáo và đời sông gặp gỡ nhau.

Vì thế, sau này trong bước đường rao giảng nước Thiên Chúa, Ngài hay dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống để cắt nghĩa về nước đó: ơn kêu gọi là con Thiên Chúa và nước Thiên Chúa là quê hưong của mọi người.

Hai thế hệ con người gặp gỡ nhau. Gìa trẻ gặp gỡ nhau. Hai vị trưởng lão Simeon và Hanna gặp gỡ trẻ Giêsu. Cuộc gặp gỡ tình người này là cuộc trao đổi. Thế hệ lớn tuổi trao lại cho thế hệ trẻ kinh nghiệm sống đã thu lượm được, những gía trị đời sống, niềm hy vọng cùng lời chúc lành mong chờ trông đợi của mình. Thế hệ trẻ đón nhận những trối trăn của lớp trưởng thượng trao lại.

Thế hệ lớn tuổi qua lời ông Simeon: Giờ đây lạy Chúa, xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. Vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu chuộc cho muôn dân, biểu lộ lối sống biết nhận lãnh và cũng sẵn sàng cho đi trối lại. Cung cách chuyển giao này gây niềm phấn khởi cho thế trẻ đang lên sẵn sàng nhận lãnh lời trối trăn như bảo vật làm nền tảng cho tương lai đời sống cùng niềm tin đạo giáo.

Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng từ trời cao, được đưa vào đền thờ như lời mời gọi mọi người cùng đến gặp gỡ nhau trong tình khoan dung tha thứ cho nhau và mang đến cho nhau niềm hy vọng.

Lễ dâng Chúa vào đền thờ ngày mùng hai tháng hai hằng năm như lời mời gọi mỗi người đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng cho tâm hồn mình. Anh sáng Chúa Giêsu chiếu soi vào đền thờ tâm hồn con người và mang đến niềm vui cùng sự an ủi trong những giờ phút đen tối của cuộc đời.

 

12. Dâng Con trong đền thờ

(Suy niệm của Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long)

Lần chuỗi kinh mân côi chục thứ bốn có lời ngắm nguyện: “Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh”.

Tập tục đạo đức dâng con cho Thiên Chúa có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin?

Đức tin nói với chúng ta:

Con cái là hoa qủa phúc lộc Trời cao ban cho cha mẹ. Tuy cha mẹ là người sinh thành nuôi dưỡng con mình.

Con cái không là sản phẩm do cha mẹ chế biến tạo thành. Nhưng sự sống, tính tình cùng hình hài thân xác của con cái là do Thiên Chúa sáng tạo thành.

Con cái tuy là giọt máu tình yêu thương của cha mẹ. Nhưng mầm sự sống trong dòng máu tình yêu thương của cha mẹ lại là hình ảnh giọt máu tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống của con người.

Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse ngày xưa đã không nhìn Chúa Giêsu là con riêng do mình tạo ra. Nên đã đem con mình vào đền thờ khấn nguyện tạ ơn dâng cho Thiên Chúa. Cử chỉ đạo đức này của Đức Mẹ nói lên lòng tin tưởng phó thác vào bàn tay Thiên Chúa. Vì đã nhận được ân đức qùa tặng từ nơi Thiên Chúa, cùng coi làm việc đạo đức này là bổn phận tất yếu của người đã lãnh nhận được ân phúc.

Lần thứ nhất, Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Đức Mẹ: Chúa Giêsu xuống thế làm người trong cung lòng Đức Mẹ. Và nói cùng Đức Mẹ: người con trong cung lòng bà sinh ra là Đấng thánh cao cả.

Lúc đem con vào đền thờ dâng cho Thiên Chúa, Đức Mẹ lại nghe lời truyền tin thứ hai của Tiên Tri Simeon: Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được vực dậy đứng lên. Cháu là dấu hiệu cho người đời chống báng. Còn chính bà một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà!

Lòng vui mừng vì người con đã chào đời. Nhưng cũng có nhiều lo âu bối rối, nhất là khi nghe những lời truyền tin thứ hai về con mình và về đời mình.

Tuy vậy Đức Mẹ qua tập tục đạo đức đem dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ, thầm nói lên tâm tình phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa không chỉ riêng cho đời con mình, mà cho cả chính mình nữa.

Là cha mẹ, người Công giáo chúng ta, ai cũng vui mừng khi hay tin có con. Và mừng rỡ hơn nữa khi người con mở mắt chào đời mạnh khoẻ. Nhưng ngay từ khi hay tin sự sống hình hài thân xác người con bắt đầu thành hình trong cung lòng mẹ cha, ai cũng đọc kinh khấn nguyện xin ơn phù hộ cho người con tương lai. Đến khi người con ra đời, cha mẹ nào cũng hằng dâng lời tạ ơn cùng kêu xin khấn nguyện cho con mình trong suốt cả đời sống.

Ngày xưa khi còn thơ bé, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm vào thánh đường xin cho được nhận lãnh Bí tích rửa tội, ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa là hướng đi cho đời sống.

Ngày nay lớn lên trưởng thành lập gia đình, cha mẹ trẻ có con, họ cũng làm việc nối lửa đức tin cho con mình như thế.

Nếp sống đức tin này gói ghém tâm tình tạ ơn cùng phó thác vào bàn tay quan phòng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống gia đình.

Tâm tình tạ ơn dâng hiến hòa lẫn trong làn khói ánh nến lung linh và lời cầu xin thoát ra tự đáy tâm hồn niềm tin: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.”

 

13. Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa – JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Gia đình của Đức Giê-su tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
  2. Các kinh sư Do Thái là những người giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc giữ luật của bạn?
  3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh thiện?

Suy tư gợi ý:

  1. Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tôn trọng lề luật

Bài Tin Mừng cho thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se đã chu toàn những tập tục của luật Mô-sê liên quan đến việc hạ sinh Đức Giê-su. Luật Mô-sê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1 tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng – dù là người hay là thú vật – đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13,2.12-13; Ds 18,15-16). Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên con, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Ma-ri-a đã làm (x. Lv 5,7; 12,8). – Mặc dù biết Đức Giê-su, con của mình, là Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vẫn tuân thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.

  1. Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh sư Do Thái không?

Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pharisêu, nổi tiếng là giữ luật một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Đức Giê-su chê trách rằng họ chẳng hề tuân giữ lề luật. Thật vậy, Đức Giê-su đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái rằng: «Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19). Stê-pha-nô cũng nói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: «Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ» (Cv 7,53). – Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?

  1. Cần phân biệt luật tổng quát và luật chi tiết

Trong tôn giáo, lề luật là những điều mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần phân biệt:

Phần tinh thần, mang tính tổng quát, phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này – tương tự như hiến pháp trong một quốc gia – là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo. Trong Ki-tô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (Lc 10,27); «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).

Hai nguyên tắc này đã được thánh Phao-lô và Gia-cô-bê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật (…) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô» (Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Chính Đức Giê-su cũng tuyên bố rất rõ ràng: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,35).

Phần cụ thể, mang tính chi tiết, thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống con người. Phần này – tương tự như luật pháp trong một quốc gia – gồm những điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát (trong quốc gia là hiến pháp). Ki-tô giáo có vô số điều luật – trong giáo luật cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo – nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai nguyên tắc tổng quát «mến Chúa, yêu người» nói trên. Mọi Ki-tô hữu đều phải cố gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.

  1. Giá trị của hai thứ luật trên

Những điều luật căn bản, mang tính tổng quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống nào, và không hề có luật trừ. Đó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.

Những điều luật mang tính chi tiết đều phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc tổng quát trên và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc phải tuân theo. Chính Đức Giê-su đã sẵn sàng lỗi luật ngày sa-bát khi mà nếu giữ luật chi tiết này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.

Trong hiến pháp của một quốc gia thường có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực hiện hiến pháp mà thôi. Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực hiện điều luật tổng quát của Ki-tô giáo là «mến Chúa, yêu người», mà tóm gọn hơn nữa là «yêu người», hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi tiết, vì theo Đức Giê-su thì: «Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23b).

  1. Một cám dỗ thường xảy ra đối với việc thực hiện lề luật

Người tín hữu không được giáo dục đức tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ, được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường khác.

Điều chúng ta phải lấy làm lạ và phải suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy, thế mà Đức Giê-su lại đánh giá rằng «không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19), tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản của tôn giáo, nhưng họ lại «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành » (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng «chỉ là giới luật của phàm nhân» (Mt 15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành «sôi hỏng bỏng không», hay như «công dã tràng»!

Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý tới cái «xác của lề luật», là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới cái «hồn của lề luật», tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào hàng ngũ «quân bị nguyền rủa » (Mt 25,41), chỉ vì “xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống, v.v…» (25,42tt). Tội nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ chỉ toàn lo giữ «luật của phàm nhân»!

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con biết tôn trọng Luật Cha là luật yêu thương. Xin ban cho con tinh thần của thánh Âu-Tinh: «Cứ yêu đi, rồi làm gì thì làm!» Con nhận ra rằng con chỉ chu toàn được Luật của Cha khi con thật sự yêu thương mà thôi. Vì thế, xin Cha cho con biết yêu thương!

 

14. Lễ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ

(Suy niệm của Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy)

Mẹ Maria và thánh cả Giuse biết rằng mọi sự đều từ Chúa mà đến và mọi sự đều phải trở về với Chúa. Trẻ Giêsu là một quà tặng bởi Chúa mà đến, và do đó hai ngài lên Giêrusalem để dâng lại cho Chúa. Các gia đình, nhất là các bà mẹ, hôm nay cũng mang con đến nhà thờ dâng cho Chúa, cảm tạ Chúa, vì sự sống Chúa đã ban cho nơi con cái.

Chúng ta hết lòng quí trọng quà tặng sự sống này. Không bao giờ đối xử với sự sống như một sở hữu hay như một cái gì chúng ta chế tạo ra, để rồi tưởng mình có quyền muốn giữ thì giữ, muốn bỏ thì bỏ. Chúa là Đấng Tạo Hóa đã ban sự sống cho chúng ta và đang nâng đỡ cho mọi sự được tồn tại. Ngài ban quà tặng sự sống ấy cho chúng ta, chúng ta phải làm cho nó được phát triển và kiện toàn. Trẻ Giêsu mà Mẹ Maria ẳm trong lòng và Simêon bồng trên đôi cánh tay già nua, tuy bé bỏng nhưng là Đấng Cứu độ muôn loài.

Như Mẹ Maria ẳm trẻ Giêsu trong lòng, và như Simêon bồng Người trong đôi cánh tay già nua, là Chúa cả trời đất. Chúng ta cũng hãy trân trọng và chăm lo cho những đứa con bé bỏng của chúng ta. Biết đâu những đứa trẻ bé bỏng hôm nay mai kia sẽ thành những người lãnh đạo Giáo Hội và đất nước.

Ngoài ra, chúng ta phải làm hết sức mình có thể để Chúa Kitô trở nên sự sống của chúng ta, và qua chúng ta, Chúa cũng trở nên sự sống cho mọi người chung quanh chúng ta, nhờ các hoạt động từ thiện truyền giáo của chúng ta.

Chúng ta nghe ông Simêon nói với Đức Mẹ rằng Chúa Kitô là dấu hiệu cho người ta chống đối: có những người nhờ Ngài mà đứng lên, có những kẻ vì Ngài mà phải ngã xuống, có những người hân hoan đón nhận sự sống Chúa mang lại, có những người lại tìm cách tiêu diệt sự sống ấy từ trong trứng nước.

Trẻ Giêsu được dâng trong đền thờ khiến chúng ta nghĩ đến bao nhiêu em bé sinh ra đời. Chúng ta nức lòng nghĩ đến những em bé được chờ đợi và chào đón, nhưng cũng đau lòng nghĩ đến những trẻ sơ sinh không được đón nhận, những trẻ em bị bỏ rơi không thể sống sót vì thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ và người thân. Nhìn thánh gia thất, chúng ta nôn nao nghĩ đến những gia đình sum vầy cha mẹ con cái đầm ấm hạnh phúc, nhưng cũng nặng lòng nghĩ đến những đôi vợ chồng khao khát niềm vui có con cái mà hy vọng ấy dường như mỗi lúc một vô vọng và chúng ta thành tâm cầu nguyện cho họ.

Nhìn Chúa Hài Đồng được dâng lên, chúng ta cũng nghĩ đến bao nhiêu thai nhi không được phép đón nhận ngày sinh, cuộc sống và ánh sáng mà Thiên Chúa làm người mang đến cho mọi người, vì sự yếu đuối của con người, vì những toan tính và kế hoạch ích kỷ của những con người khác, cũng như của các cơ cấu xã hội, ngay cả bởi những cha mẹ vô trách nhiệm và gia đình của các thai nhi ấy.

Nghĩ đến những trẻ em bị giết chết ngay trong lòng mẹ không được sống đến lúc mở mắt chào đời, chúng ta cũng nghĩ đến những bà mẹ phải bị ám ảnh dằn vặt vì phá thai, dưới bất cứ lý do gì (vì yếu đuối, bị lừa gạt, bị lạm dụng hay vì khó khăn kinh tế, vì công ăn việc làm). Ý nghĩ phá thai là giết người, và giết chính con mình sẽ làm cho những người mẹ ấy phải đau khổ tâm lý trong suốt cả cuộc sống. Quả thế, một số các mẹ và các chị đã ấm ức khóc hay nước mắt lưng tròng khi liên tưởng đến nỗi khổ tâm của mình hay con cái của mình vì hoàn cảnh đã phá thai. Nhiều nghiên cứu tâm lý và xã hội kết luận rằng đa số người phá thai có nguy cơ mắc bệnh tâm thần và ung thư cao vì những nỗi ân hận ray rứt kéo dài triền miên trong cuộc sống.

Chúng ta cũng đau thương nghĩ đến nhiều trẻ nít và vị thành niên bị lạm dụng tình dục và hãm hiếp, hay sống thử phóng túng buông thả luân lý để rồi phải phá thai hay phải làm mẹ khi tuổi đời còn quá non nớt, không đủ khả năng hay không thể nuôi con, đành phải bỏ rơi con trong thùng rác, trên vỉa hè bệnh viện hay xó chợ, cho ruồi bâu, kiến rúc… Một số em được may mắn sống sót và lớn lên trong các cô nhi viện, một số khác gặp hoàn cảnh tệ hơn sống lây lất bụi đời, gánh chịu không biết bao nhiêu cơ cực cay đắng trên tâm hồn và trên thân xác, vì không có được một mái ấm gia đình, không biết cha mình là ai, mẹ mình là ai và đang ở nơi đâu!

Nghĩ tới những em bé bất hạnh bị bỏ rơi vô thừa nhận ấy, chúng ta tuy thông cảm và tôn trọng, nhưng cũng bất bình chua xót nghĩ đến những đôi vợ chồng ích kỷ chỉ nghĩ đến tự ái, đau khổ hay vui sướng của bản thân mà không nghĩ đến những hậu quả đau thương cho con cái, làm cho gia đình đổ vỡ, ly dị khiến các em trở nên mồ côi cha mẹ, dù cha mẹ các em đang còn sống cả đó, và nhiều em bị đẩy ra đường tự kiếm sống, làm cho bao nhiêu em bị hành hạ và giết chết hằng ngày trên khắp nẻo đường đời, dưới đủ mọi hình thức nghèo đói, bệnh tật, mại dâm, ma túy, HIV. Các em không chỉ bị giết chết về thân xác, mà còn bị giết chết dần mòn về tâm hồn và đức tin: những lạm dụng và tội lỗi đã giết chết lòng trong trắng của các em, đã đánh mất tình thương, niềm tin và hy vọng của các em vào con người, vào cuộc đời, lắm khi cả vào Thiên Chúa nữa.

Ngôi Lời nhập thể và được tiến dâng hôm nay nâng đỡ chúng ta. Ngài là Thiên Chúa đã mặc lấy thịt xương máu huyết để trở nên con người và để ở với chúng ta, chia sẻ thân phận con người chúng ta, đau khổ với chúng ta, đau khổ vì chúng ta và đau khổ cho chúng ta, cho đến chết và chết tất tưởi trên thập giá. Ngài hiến ban mạng sống của Ngài để cho chúng ta được sống, được cứu độ. Đó là sứ điệp thúc đẩy chúng ta tìm lại những giá trị của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người. Chúa không đến cất đi đau khổ. Ngài cũng không đến để giải thích đau khổ. Ngài đến để chia sẻ đau khổ với con người, nâng đỡ con người và mời gọi con người chia sẻ phận người với những con người khác, vốn là đồng bào, đồng loại và anh chị em của mình.

Chúng ta nghiêng mình cảm phục và ca ngợi những tấm lòng từ thiện, những đôi vợ chồng son sẻ đã mở rộng lòng nhân ái đón nhận các trẻ em mồ côi hay bị bỏ rơi, tàn tật để cho các em có cha có mẹ và một mái ấm gia đình. Nhưng chúng ta cũng nghiêm khắc thức tỉnh lương tâm và kêu gọi những con người đã gây ra những mảnh đời đau khổ cho đồng loại qua việc lạm dụng tình dục, sở khanh, cưỡng hiếp…, hãy thôi đi các việc thất đức đó, hãy kính trọng Thiên Chúa, tự trọng, tôn trọng phẩm giá và tình yêu con người. Chúng ta hãy cùng nhau kiến tạo cộng đồng xã hội và gia đình thành thiên đường mà hưởng, đừng biến chúng thành địa ngục mà phải chịu đựng.

Lễ dâng Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta những cái nhìn mới, những con đường mới để suy tư và hành động, để cảm nghĩ và nói năng, để sống và yêu thương, để trao ban và lãnh nhận. Chúng ta tin, chúng ta hy vọng và chúng ta quyết tâm làm một cái gì cho những người kém may mắn hơn chúng ta: cô nhi, quả phụ, khuyết tật, nghiện ngập, HIV… Chúng ta cố gắng hết sức mình để mang hy vọng và tình thương cho kẻ khác, để làm cho Chúa Giêsu được sinh ra trong tâm hồn và cuộc đời của những người chưa biết Chúa, cũng như để làm cho Chúa Giêsu được sinh ra lại và lớn lên trong tâm hồn và cuộc đời của những ai đã từ khước Chúa vì tội lỗi của họ.

Nhưng thưa quí ông bà và anh chị em, Mình Máu Thánh Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy, quyền năng của Chúa đã biến thể từ bánh rượu là lương thực hằng ngày của con người chúng ta. Vậy nếu chúng ta dâng lên Ngài bản thân chúng ta, cuộc đời đời chúng ta, giáo xứ chúng ta, gia đình chúng ta, mọi người chúng ta thương mến, công việc làm ăn, học hành, kinh nguyện của chúng ta, những niềm vui và hạnh phúc, những nỗi buồn phiền và gánh nặng vất vả của chúng ta; cả những kẻ thù nghịch, những người chúng ta không thương hoặc những người ghét bỏ chúng ta, cả những tính xấu và tội lỗi của chúng ta… thì quyền năng của Chúa cũng sẽ biến đổi thành cái gì tốt đẹp hơn cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng điều đó, vì tình yêu của Chúa thì lớn hơn tất cả.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn luôn dùng gương sáng hướng dẫn chúng con, và hôm nay Chúa được dâng lên cho Chúa Cha. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn chân thành dâng chính mình chúng con cho Chúa mỗi ngày. Mỗi buổi mai khi vừa thức dậy, chúng con sẽ dâng mình lại cho Chúa. Chúng con nài xin Chúa ơn luôn có Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng con, luôn lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần dạy bảo, thúc giục, để tất cả chúng con sống hiệp nhất yêu thương hầu làm chứng tá cho Nước Chúa ở giữa trần gian. Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được Chúa yêu thương chúng ta và giúp chúng ta làm cho người khác cũng cảm nhận được Chúa yêu thương họ, ban bình an và niềm vui cho họ, bất chấp tất cả những gì có thể xảy ra. Amen.

 

15. Mẫu gương của bậc cha mẹ – Lm. Gioan Trần Khả

Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông: “Tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?”

Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, “Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống” (Trích trong Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, Tr. 27-28).

Vai trò của cha mẹ

Làm cha mẹ, khi thấy con cái treo những bức hình của những ca sĩ, những tài tử, diễn viên kịch ảnh, những anh hùng thể thao… và khi thấy chúng lúc nào cũng mê man nghe nhạc, nghe khi vừa thức dậy, khi ăn, khi đi học, khi ngồi làm bài, khi làm việc vặt trong nhà, thì chúng ta e ngại là con cái chúng ta sẽ bị ảnh hưởng qúa nhiều bởi những mẫu người đó. Tuy nhiên, khảo cứu tâm lý cho chúng ta biết, khi tuổi trẻ truởng thành hơn thì chúng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những mô phạm nhất thời đó. Người có ảnh hưởng nhiều nhất nơi con cái là cha mẹ. Cha mẹ cần dạy và sống những gía trị đạo đức và luân lý để con cái noi theo khi chúng còn sống chung dưới mái ấm gia đình. Một bà mẹ nhận xét, “Cái quan trọng trong đời sống của gia đình không phải là những món ăn sang trọng, cái bếp sạch sẽ ngăn nắp, hay biết sắp xếp liệt kê những việc phải làm trong nhà. Không gì có thể thay thế việc cho con cái chúng ta nhìn thấy tình thương và sự tận tụy hy sinh của chúng ta đối với chúng. Đồ chơi, quần áo mới, dĩa nhạc, đồ trang sức sẽ không thể thay thế tấm lòng hy sinh và tình thương của cha mẹ tỏ ra đối với con cái.”

Những tấm gương

Khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, phúc âm thánh Luca giới thiệu cho chúng ta hình ảnh những con nguời tôi trung của Thiên Chúa: Giuse, Maria, Simeon và Anna. Là bậc cha mẹ gương mẫu, là đôi vợ chồng đạo đức, đầy lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Khi vừa đủ ngày, Giuse và Maria đem con lên đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Hành động Hiến Dâng của các ngài biểu lộ một đức tin sâu đậm, và lòng xác tín yêu mến lề luật của Chúa. Các ngài dâng Con không phải chỉ bằng môi miệng hay lời kinh suông, nhưng còn kèm với của lễ tuy đơn sơ nhưng gói gọn cả tấm lòng đối với Thiên Chúa trong khả năng của các ngài. Hơn nữa, cho dù được tiên báo là con mình sẽ như một Luỡi Gươm Đâm Thấu Tâm Hồn, các Ngài vẫn can đảm lãnh nhận và chu toàn trách nhiệm dậy dỗ con. Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Được như thế là do bởi cha mẹ Ngài là những nguời công chính và đạo hạnh.

Hầu hết những nguời làm cha mẹ đều có tình thương yêu đối với con cái. Tuy nhiên không phải ai cũng biết cách tỏ tình thưong yêu và phương cách dậy dỗ giáo dục con cái cho đúng. Việt Nam chúng ta có câu, “Cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh.” Câu này chỉ trúng một phần nhỏ. Để chu toàn trọng trách làm cha mẹ, bậc cha mẹ còn có bổn phận tìm hiểu và học hỏi đào sâu về đức tin, về tâm lý và luân lý để huấn luyện dậy dỗ con mình lớn lên trong đường lối của Thiên Chúa.

Nhận ra Đấng Cứu Thế

Khi đến đền thờ, các ngài gặp hai Nhân Vật cao niên Simeon và Anna. Con trẻ Giêsu mới chỉ được có 40 ngày. Ông Simeon và bà Anna chưa hề gặp con trẻ và cha mẹ của con trẻ. Nhưng tại sao họ đã nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế? Sở dĩ họ nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế bởi vì Simeon là Người công chính biết kính sợ Thiên Chúa, cho nên lòng trí của ông luôn tỉnh thức. Ông đã nghe và nhận ra tiếng thúc đẩy của Thần Khí và ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi ông đã được nhìn thấy Chúa Giêsu và ẵm bồng Ngài thì ông mãn nguyện sung sướng. Ông Simeon đã nhìn ra giá trị đích thực và không còn luyến tiếc sự đời. Do đó, ông xin bằng lòng xuôi thác, “Lạy chúa bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt tôi đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn cho muôn dân.” Cũng thế, bà Anna, sau khi chồng chết, đã thủ tiết và dành cuộc đời của bà sống ăn chay cầu nguyện trong đền thờ trông chờ Đấng Cứu Thế. Vì có tấm lòng thành kính và sống trong tinh thần chuẩn bị và mong chờ Đấng Cứu Thế cho nên bà cũng đã được diễm phúc gặp Ngài và nhận ra Ngài để công bố và xác nhận cho những nguời khác về Đấng Cứu Thế.

Tuy nghèo túng nhưng Giuse và Maria vẫn có thể tìm được của lễ để dâng cho Thiên Chúa và chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ. Phần chúng ta, chúng ta có thể liệu được những gì để dâng cho Thiên Chúa và làm những gì để nói lên tinh thần của bậc làm cha làm mẹ đối với con cái? Trong tuổi già lưng còng mắt kém, nhưng ông Simeon và và Anna vẫn có thể nhìn và nhận ra Đấng Cứu Thế. Phần chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa Giêsu trong hoàn cảnh sống hàng ngày không?

 

16. Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thờ

Bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe là một trong những bài Tin Mừng có những hình ảnh đẹp nhất trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Có thể nói cuộc gặp gỡ của những người được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là cuộc gặp gỡ của những người đại diện cho dến ba thế hệ.

Tiên tri Simêon và Anna thuộc thế hệ cao niên. Đức Mẹ và thánh Giuse thuộc thế hệ đương thời và Chúa Giêsu thuộc thế hệ mai sau. Cả ba thế hệ hội tụ lại trong khung cảnh của đền để thực hiện cho Lễ Đức Mẹ Dâng Con

NHỮNG LƯỠI GƯƠM SẦU KHỔ.

Đang khi thăm viếng bệnh viện, một cha sở dừng lại nhìn một giáo dân trẻ, có đứa con đầu lòng mới được 4 ngày. Mặc dầu vẻ bề ngoài thật dễ thương, nhưng người mẹ trẻ đó lại đầm đìa nước mắt. Cha sở hỏi: “Sao con lại khóc vậy hở Rosie?”. Để đáp lại, Rosie chỉ ngước nhìn lên Đức Mẹ bồng ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng mà mắt đẫm lệ. Đó là một bức họa của một phần bài Tin Mừng hôm nay: “Khi ông già Simeon được Chúa Thánh Thần linh hứng, đã nói với Đức Mẹ rằng: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Rosie đã nhỏ lệ vì chị cảm thương Đức Mẹ, vì Mẹ biết rằng: Chúa Kitô Con Mẹ sẽ phải đau khổ, và cũng vì chị cảm thấy nỗi lo âu của người mẹ sợ rằng con nhỏ của mình sẽ phải đau khổ, cha sở giải thích cho chị rằng Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sức mạnh phi thường để đón lấy lời báo tin đắng cay ấy, để nhận lấy lưỡi gươm sầu khổ ấy.

Các bà mẹ ngày nay cũng có thể nhìn thấy vô vàn những nguy hiểm đe dọa con mình. Những đe dọa thể xác: như bệnh tật đủ loại, tai nạn mất sự sống và tàn tật, những kẻ hung ác, ngược đãi trẻ nhỏ, những thứ ma túy hủy hoại thể xác và cả tâm hồn, ăn uống say sưa quá độ, lái xe ẩu. Và còn biết bao tệ hại làm tan nát thể xác giới trẻ. Rồi những nguy hiểm cho linh hồn đứa trẻ lại càng tệ hại: những bạn bè xấu làm mất cả đức tin, mất phán đoán về sự chân thực và sự sai lầm, những bạn bè say sưa, những bạn bè nghiện ngập, những phim ảnh và tạp chí khêu gợi dục vọng, những sách vở và thầy dạy làm sai lạc điều chân thật, và tinh thần của ma quỉ ngày nay gào thét lên rằng: mọi sư đều tốt, bao lâu bạn có thể chiếm được chúng. Thực vậy, các bà mẹ có nhiều điều lo lắng, nhưng tình trạng vẫn còn hy vọng. Một người có ảnh hưởng giúp đỡ. Một người mẹ gương mẫu, hoàn toàn vô tội, rất mực tinh tuyền, biết chắc rằng: con trẻ bà bồng ẵm trong tay rồi một ngày kia sẽ được đặt lại vào tay bà. Mà lúc ấy con bà đã bị thương tích, đầy máu me và hết sống. Người mẹ trên trời này nóng lòng giúp đỡ người mẹ ngày nay.

Như Đức Maria, các bà mẹ có những niềm vui và nỗi sầu. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về niềm vui, như Đức Maria đã làm. Sự lo sợ của Đức Mẹ về tương lai, thay vì làm cho Người lìa xa Thiên Chúa, hay là làm cho Người quên Thiên Chúa, thì lại làm cho Người hứơng mắt về Cha trên trời đầy thông suốt và quyền năng.

Như thánh Phaolô viết cho tín hữu Do thái: “Chúa Giêsu đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành Vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong mọi việc phụng thờ Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân (B. đ.2; Dt 2,17).

Hôm nay Thánh lễ này thể hiện điều đó cho chúng ta. Lễ hiến tế làm sống lại những biến cố vui buồn trong cuộc đời Đấng cứu thế, Ngài sinh lại; chết và lại phục sinh. Từ sự làm mới lại cuộc thương khó và tử nạn của Ngài, mọi bà mẹ, mọi Kitô hữu, có thể lấy lại được sức mạnh để mang lấy sự lo lắng về tương lai, và đón nhận đau khổ khi nó xảy đến.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

 

17. Dâng Chúa trong đền thờ

(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến)

Một bà lão gặp vị linh mục và nói: “Thưa cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần là đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời”.

Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn niềm hy vọng của người Kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn với Chúa. (x. Phút Lắng Đọng Mỗi Ngày – tháng 12).

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc ông già Simêon được diễm phúc gặp Chúa Hài Đồng, được bồng ẵm Chúa khi Chúa được Mẹ Maria và Thánh Giuse dâng tiến trong đền thờ.

Việc Chúa Giêsu được dâng tiến trong đền thờ và thái độ của cụ già Simêon cho chúng ta nhiều bài học:

– Đức Giêsu được dâng tiến trong đền thờ: Nghi thức dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là nghi thức Do thái nhắc nhở rằng mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Đức Giêsu -Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể- là Con Chúa Cha từ thuở đời đời. Tuy nhiên, đi vào lịch sử nhân loại trong văn hóa Dothái giáo, Ngài được cha mẹ dâng tiến cho Thiên Chúa theo như luật định. Qua đó, Ngài nêu gương cho chúng ta về việc tuân giữ lề luật và dâng mình cho Thiên Chúa.

Mỗi người Kitô hữu chúng ta, từ khi còn tấm bé, đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa trong ngày chịu phép rửa. Nhờ phép rửa, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta hãy ý thức và sống xứng đáng với hồng ân này.

– Tiếp theo là thái độ của cụ Simêon: Sau cả một đời chờ mong, giờ đây, cụ sung sướng thỏa mãn; bởi vì cụ đã thấy, đã được bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay mình.

Ông cụ Simêon mới được thấy Chúa, được ẵm Chúa trên tay mà đã sung sướng và tạ ơn Thiên Chúa như vậy, huống cho chúng ta được rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mỗi ngày! Chúng ta có nhận ra hồng ân cao trọng này mà ca tụng Chúa hay không?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, ông già Simeon -được Thánh Thần thúc đẩy- đã lên đền thờ và gặp được Chúa -Đấng Cứu độ- mà lâu nay ông hằng mong ước. Ước gì chúng con năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày; để nhờ vậy, chúng con không chỉ gặp được Chúa mà còn được rước Chúa ngự trong tâm hồn. Amen.

 

18. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh

(Suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Chương 1-2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9-10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca “Chúc tụng” (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm “sự hoàn tất các ngày” (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.

Lc 1,5-2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):

– 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày

– 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày

– 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày

Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày

Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).

2.- Bố cục

Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:

1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):

– cắt bì và đặt tên (c. 21),

– thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).

2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):

– tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),

– tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).

3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).

3.- Vài ghi chú về chú giải

– Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): “Các ngài” là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, “các ngài” phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ “đem [con] lên”. Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.

– theo Luật Môsê (22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, “cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà” (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.

– để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là “con trai đầu lòng” ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: “Đức Chúa phán với ông Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”. Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.

– để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.

– công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.

– niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).

– ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.

– một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng “thanh gươm” đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek…). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi “thanh gươm” này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.

(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh “thanh gươm” là biểu tượng của sự “chia rẽ” và “mâu thuẫn” (x. Ed 12; 14;…). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một “lưỡi gươm sắc bén”. Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là “Lời của Thiên Chúa” và “từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén” (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng muôn dân”, tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.

Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt…) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi “dấu hiệu gây chống báng” được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.

Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.

(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết “thanh gươm” với “đâm thâu (= xuyên qua)”. Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).

4.- Ý nghĩa bản văn

* Hai khúc dạo đầu (21-24)

Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.

Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.

* Hai cuộc tỏ mình (25-38)

Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1-2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca “Chúc tụng”, nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.

Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.

* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)

Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.

+ Kết luận

Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.

5.- Bài học

  1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
  2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
  3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
  4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng “ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu” (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
  5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. “Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm…: sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết … Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người… Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày” (Hông Y John Henry Newman, 1801-1890).

 

19. Các con là ánh sáng thế gian

Anh chị em thân mến!

Tối hôm thứ bảy 30.1.1993 là tối đánh dấu 65 năm ngày Hitler lên cầm quyền tại Đức, đã gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đau thương cho cả nhân loại. Tại khắp nơi trên nước Đức đã có hàng trăm ngàn người xuống đường tuần hành, nhiều ánh sáng rực rỡ nhóm lên, nhiều nến cháy trên tay của mỗi người tham dự cuộc tuần hành. Ánh nến ấy là biểu trưng của một chút ánh sáng mà nhiều người dân Đức muốn thắp lên để xoá tan màn đêm dày đặc của hận thù, ích kỷ, bại hoại do những người theo tân Đức Quốc Xã.

Hôm nay, tại nhiều nhà thờ trên khắp thế giới, người tín hữu Kitô cũng cầm nến cháy sáng trong tay để tưởng niệm một biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. đó là việc Ngài được cha mẹ dâng vào đền thờ Giêrusalem. Cũng như mọi bé trai đầu lòng Do Thái khác, Chúa Giêsu cũng được cha mẹ mang đến đền thờ Giêrusalem để dâng hiến cho Thiên Chúa theo đúng quy định của luật Môisê. Nhưng theo chương trình của Thiên Chúa, đây không chỉ là một lề luật có sẵn, nhưng điều chính yếu là việc tỏ mình của Con Thiên Chúa như ánh sáng của muôn dân.

Thật thế, như chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng hôm nay, lời chúc tụng của cụ già Simêon là một kỷ niệm về lời tiên báo của tiên tri Isaia: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để mở mắt những người mù loà, để đưa tù nhân ra khỏi lao tù, để đưa dân riêng ra khỏi bóng tối” (Is 42,6). Và chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian”.

Thật vậy, qua cuộc sống và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã chiếu giãi ánh sáng cho những bí ẩn của cuộc sống con người. Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta biết được mình bởi đâu mà ra và mình sẽ đi về đâu. Đồng thời ánh sáng của Ngài cũng xoá tan mọi tăm tối tội lỗi của thế gian. Nơi đâu ánh sáng của Chúa Giêsu được chiếu toả, nơi đó bóng đêm của tội lỗi, của ích kỷ, của hận thù sẽ tan biến đi. Chúa Giêsu đã mang ánh sáng đến trên trần gian và Ngài muốn ánh sáng đó được chiếu toả trong mọi hang cùng ngõ hẻm của trần gian.

Nhiệm vụ mang ánh sáng của Ngài đi khắp nơi đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho Giáo Hội, Ngài đã nói với các môn đệ: “Các con là ánh sáng thế gian”. Giáo Hội và một cách cụ thể là mỗi người Kitô hữu đều là ánh sáng của Chúa Kitô được thắp lên để soi sáng cho trần gian.

Theo một truyền thống đã có từ lâu trong Giáo Hội, ngày hôm nay các tu sĩ cầm nến cháy trên tay để cùng với Chúa Kitô tự hiến cho Chúa Cha và cùng với Ngài trở thành ánh sáng cho mọi người. Nhưng ngày lễ nến hôm nay không chỉ là ngày lặp lại lời tuyên khấn của các tu sĩ, mà còn là lễ của mỗi người Kitô hữu.

Ngày hôm nay mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để đốt lên ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Họ được mời gọi để cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại những lời cam kết chống lại sức mạnh của tăm tối trong cuộc sống của họ. Những ngọn nến đã được đốt lên trên toàn nước Đức biểu hiện của một ý chí muốn xoá tan những bóng tối riêng tư của hận thù, ích kỷ, bạo động… và đồng thời khơi dậy nguồn ánh sáng của sự tha thứ, yêu thương, quảng đại và cảm thông.

Ngày hôm nay, những ngọn nến mà mỗi người Kitô hữu thắp sáng lên cũng nhắc nhở cho họ về sứ mệnh cao cả là trở thành ánh sáng cho mọi người. Trong đêm tối của một xã hội dầy đặc những hận thù, ích kỷ, lừa lọc… mỗi người tín hữu Kitô đều có thể nói: “Thà đốt lên một ánh nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Một cuộc sống tin tưởng, hân hoan, phó thác và yêu thương, phục vụ quên mình, đó là một chút ánh sáng mà mỗi người tín hữu Kitô đều có thể đốt lên để soi sáng cho một góc trời nào đó, để từ đó người khác có thể nhận ra ánh sáng đích thực của Chúa Kitô.

 

20. Bảo vệ ánh sáng – Lc 2, 22-40

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ để Đức Mẹ săm sóc dưỡng nuôi. Đức Mẹ dâng Đức Giê-su trong đền thờ không chỉ nhằm chu toàn lề luật, nhưng là công nhận quyền của Thiên chúa và cũng là để cầu xin Chúa chúc phúc cho Hài Nhi Giê-su.

Lễ Đức Mẹ dâng Con cũng được gọi là lễ Nến. Việc làm phép nến nói lên Đức Giê-su là ánh sáng soi trần gian.

Cụ Si-mê-on đã nhận biết Đức Giêsu là ánh sáng. Nhưng ánh sáng khởi đầu còn non nớt. Mà chung quanh thì bóng đêm và cuồng phong đang thét gào, hằm hè huỷ diệt làn ánh sáng run rẩy yếu ớt vừa ló dạng.

Có bóng tối cám dỗ của loài ma quỉ thâm độc lúc nào cũng rình chờ phá hoại chương trình của Thiên chúa. Có bóng tối độc ác của Vua Hêrôđê ghen ghét vì sợ mất quyền hành. Có bóng tối chán nản do những thất bại trong công cuộc rao giảng. Có bóng tối u mê của đám đông không hiểu những mầu nhiệm Nước Trời. Có bóng tối nhút nhát của các môn đồ mau chóng bỏ cuộc. Có cuồng phong ganh ghét của các thượng tế, luật sĩ. Có bóng tối vô tình của quân lính hành hình. Có bóng tối của cái chết đau đớn tủi nhục.

Đức Mẹ đã là người che chở làn ánh sáng, chống lại mọi bóng tối vây bọc. Đức Mẹ đã ấp ủ làn ánh sáng chống lại bão gió cuồng phong. Vì thế Đức Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn.

Hôm nay các bà mẹ trong xứ noi gương Đức Mẹ, đến nhà thờ dâng con cho Chúa. Khi dâng con các bà công nhận con cái là hồng ân Chúa ban tặng. Khi dâng con các bà cũng cầu mong Chúa chúc phúc cho tương lai của con cái.

Nhìn những đôi má, những bàn tay trắng hồng của các em nhỏ đang vây quanh bàn thờ, tôi tưởng như đang thấy những mầm cây non mơn mởn vừa mới lú lên khỏi mặt đất.

Nhìn những đôi mắt long lanh, trong sáng, tôi thấy hiển hiện những làn ánh sáng xinh tươi vừa hé.

Đó là ánh sáng đức tin mà các em đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Đó là ánh sáng trí tuệ trinh nguyên như một tờ giấy trắng. Đó là ánh sáng nhân đức của một linh hồn chưa vương tội lỗi.

Thế nhưng chung quanh các em có biết bao hiểm nguy rình rập. Những cơn nắng cháy khô hạn tình người rình chực thiêu rụi mầm cây vừa hé. Những lớp bóng tối vật chất đang tìm vây bủa ánh sáng đức tin. Những cơn gió lười biếng đang kéo màn mây ngu muội dập tắt ánh sáng trí tuệ. Những cơn cuồng phong sự dữ đang huy động lực lượng dập tắt ánh sáng nhân đức của linh hồn.

Các bà mẹ đang dâng con cho Chúa. Các bà hãy bảo vệ kho tàng quý giá Chúa trao cho các bà gìn giữ chắc chắn. Khi đương đầu với sự dữ để bảo vệ ánh sáng nơi con cái, các bà sẽ phải chịu những thương tích như Đức Mẹ. Hãy học nơi Đức Mẹ nghệ thuật nuôi dạy con cái, để các cháu bé hôm nay được Chúa chúc phúc sẽ “càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, càng được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.

Lạy Đức Ki-tô là ánh sáng soi trần gian, xin chiếu ánh sáng ân sủng vào các em nhỏ đang chờ được Chúa chúc phúc, để làn ánh sáng đức tin, ánh sáng nhân đức và ánh sáng trí tuệ Chúa đã nhóm lên trong các em ngày càng vươn cao và lan rộng.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp các bà mẹ can đảm bảo vệ ánh sáng của con cái, để ánh sáng của chúng vẫn còn sáng mãi cho đến ngày ra đón rước Chúa.

 

21. Dâng hiến vào đền thờ: Chúa Giêsu tỏ mình ra

(Chú giải của Hugues Cousin)

Trong bảng đối chiếu ở trang 38-40 # chúng tôi đã đặt cảnh này trong việc trình bày song song giữa Gioan và Chúa Giêsu. Hai em bé sơ sinh đã thực sự tỏ mình ra; bài thánh ca của ông Simêon (cc. 29-32), rồi lời sấm của ông (cc. 34-35) giữ một vai trò tương tự như Thánh vịnh tiên tri của ông Giacaria về Gioan. Nhưng Chúa Giêsu lại chiếm ưu thế trong cả hai giai đọan: việc sinh ra trong máng cỏ, là dấu chỉ cho các mục tử, đã đi trước việc mặc khải sẽ được diễn ra giữa cuộc sống Do Thái giáo. Sự song song về hình thức gặp ở đoạn trước lại hoàn toàn không thấy có ở đây, khoảng cách biệt giữa Đấng Mêsia và vị tiền hô của Ngài không được đặt lên hàng đầu nữa, dù rằng nó vẫn còn vết tích đây đó trong bản văn.

Việc Gioan đi vào lịch sử cứu độ được diễn ra trong Đền thờ, lúc cử hành việc phụng tự – nhưng chính Gioan lại không bao giờ đặt chân tới Đền thờ. Còn Chúa Giêsu, tuy được thụ thai một cách âm thầm lại sắp tỏ mình ra ở Đền thờ (cc. 22-24). Một biến cố kép đã được tiên liệu bởi luật Môsê là dịp cho sự tỏ mình này: việc thanh tẩy Đức Maria (cc. 22a.24) và việc chuộc lại con trai đầu lòng (cc. 22b-23). Điều đáng chú ý là chỉ duy có hai lần trong “Tin Mừng thời niên thiếu” Luca quy chiếu rõ ràng tới Thánh Kinh. Khi là người nghèo, một phụ nữ vừa sinh con “bắt hai con chim gáy hay hai con bồ câu, một để dùng sát tế một để dâng làm hy lễ đền tội; khi vị tư tế làm nghi thức thanh tẩy trên bà, bà sẽ được thanh tẩy” (Lv 12,8). Về việc chuộc lại con đầu lòng thì hợp với luật của Xh 13,12: “Mọi kẻ sinh ra…, tất cả những con cái của ngươi, là giống đực, ngươi hãy dâng hiến cho Chúa”. Nhưng không vì thế mà điều đó ngăn cản việc Thánh Thần có những ám chỉ tới Kinh Thánh: khuôn mẫu của các câu này được lấy từ 1Sm 1,22-24: bà Anna tiến lên dâng cho Thiên Chúa cậu bé Samuel vừa mới dứt sữa và cậu ở lại như người phục vụ trong nhà của Thiên Chúa.

Một cách trang trọng, công thức “những ngày (thời gian) đã hoàn tất” được nói lên lần thứ năm và cũng là lần cuối cùng trong Lc 1 và 2. Ngoài ra, sự chú ý của chúng ta đã được hướng tới những ghi chú về thứ tự thời gian nối kết các hoạt cảnh lại với nhau; cảnh này được nối với cảnh trước bởi quy luật của Lv 12,1-4 ấn định thời gian bốn mươi ngày từ khi sinh tới lễ thanh tẩy. Như vậy bảy mươi tuần trôi qua, đã hoàn tất, từ khi sứ thần Gabriel loan báo việc đản sinh của Gioan: việc giải phóng Giêrusalem trở thành một thực tại.

Cha mẹ là những người đạo đức và tuân phục luật Môsê (được nhắc tới ba lần trong các câu 22-24. Các Ngài thực hiện ngay cả những điều không bắt buộc: đích thân dâng em bé mới sinh theo gương bà Anna mà lời Kinh ca ngợi của bà đã gợi hứng cho Đức Maria.

Không có thành viên nào thuộc hàng tư tế được nêu lên trong các câu dẫn nhập này, vả lại những câu này không mô tả hai nghi thức đã được Luật ấn định. Nhưng có một người không phục vụ trong đền thờ lại đến vì được Thánh Thần thúc giục (cc. 25-35), ông không chỉ là người công chính và đạo đức. Như những người khác (c. 38) ông mong chờ việc thực hiện lời sấm về bảy mươi tuần lễ, ông đợi giờ cuối cùng khi Thiên Chúa sẽ đến cứu thoát dân Người một cách dứt khoát; đó là niềm hy vọng mà Sách An ủi đã tuyên bố (Is 40-55). Nhưng Simêon được thụ hưởng một ân huệ duy nhất: ông biết việc can thiệp này đã gần, ông sẽ thấy khoảnh khắc mà, cùng với việc Đấng Mêsia đến, lịch sử sẽ dứt khoát lật qua một trang mới. Sự biến chuyển xảy ra trong một cuộc gặp gỡ của con người; như trong cảnh thăm viếng (1,39-55) và trong câu chuyện về Cornay (Cv 10), tất cả đã được thực hiện khi hai con người được Thần Khí thúc đẩy, gặp gỡ và thông truyền cho nhau, cách này hay cách khác, những gì họ đã nhận được từ Thiên Chúa.

Là người lính canh cuối cùng của giao ước vũ trông đợi bình minh của thời Đấng Mêsia, ông ẵm trong tay Người Con đầu lòng của thế giới mới mà ông đã nhận ra. Ông lần lượt công bố một bài ca ngợi (cc. 29-32) rồi một sấm ngôn (cc. 34-35). Khác với Đức Maria và ông Giacaria nói về Chúa ở ngôi thứ ba trong các thánh ca của họ, Simêon nói trực tiếp với Chúa. Tước vị chủ tể đã giữ lời hứa, ông nhận biết rằng nhiệm vụ canh thức của ông đã chấm dứt: như tổ phụ Abraham, ông có thể ra đi bình an về với cha ông mình để được chôn cất (St 15,15); vị tổ phụ đã nhận lời hứa, còn ông, ông thấy lời hứa ấy được thực hiện. Hơn nữa, Thần Khí tiên tri ban cho ông một ánh sáng lạ lùng về vai trò của em bé – một sứ điệp mà thiên thần Gabriel đã không mặc khải cho Đức Maria: Đức Giêsu sẽ là Người Tôi Tớ mà Chúa đã ấn định cho trở nên ánh sáng của muôn dân, để ơn cứu độ của Người đạt tới tận cùng trái đất (Is 49,6). Các người lương sẽ không chỉ là chứng nhân mà còn là những người thụ hưởng ơn cứu độ vĩnh viễn, ngang hàng với Israel. Điều đó được nói đến sớm một cách kỳ lạ, bởi vì đấy là chương trình mà sau này Đấng Phục Sinh sẽ tuyên bố ở Lc 24,47 và sẽ thực hiện nhờ Phaolô, người sẽ nhân danh Chúa của mình mà hoàn tất, lời sấm ngôn ở Is 49,6 (Cv 14,46-47).

Như những người khác trước mình (x. 1,63; 2,18), cha mẹ Ngài ngạc nhiên, sửng sốt, như vậy con của họ, đã là Đấng Mêsia của Israel, cũng sẽ là Đấng Cứu Tinh của toàn thế giới! Nhưng mà tiếp theo bài ca ngợi hân hoan là một sấm ngôn có tính cách đe dọa (cc. 34-35), người con của Đức Maria sẽ trở nên nguồn gốc chia rẽ trong Israel – lời sấm ngôn mà Chúa Giêsu sẽ nói lại: “Ta không đến để đem bình an, nhưng đem chia rẽ. Bởi vì, từ nay trong một nhà năm người sẽ có chia rẽ, ba chống lại hai và hai chống lại ba” (Lc 12,51-53). Việc Israel loại trừ Chúa Giêsu và lời của Người sẽ chạy xuyên suốt như một sợi chỉ đỏ trong tác phẩm của Luca cho tới đọan kết cuộc đáng sợ của sách Công vụ: nói với những người Do Thái bị phân tán ở Rôma, Phaolô sẽ quả quyết rằng chính là cho dân ngoại mà ơn cứu độ của Thiên Chúa đã được gửi đến, bởi vì họ sẽ nghe lời (Cv 28,24-29). Thực vậy, phải xảy ra việc tuyên bố ủng hộ hoặc chống lại Đấng Thiên Chúa sai phái, và điều đó nhất thiết sẽ bày tỏ tư tưởng thầm kín của nhiều người, nghĩa là sự cứng lòng của họ. Một lời tiên tri như thế là thể hiện một xác tín của Thánh Kinh: cùng những hồng ân của Thiên Chúa sẽ là nguồn phát sinh sự sống hoặc sự chết tùy theo thái độ của những kẻ đón nhận. Simêon vắn tắt cho thấy rằng một sự chia rẽ như thế sẽ làm Đức Maria đau đớn một cách sâu xa. Ta đừng coi đây như lời loan báo những đau khổ của Đức Maria ở dưới chân thập giá – Luca sẽ không nói tới sự kiện này. Nhưng là mẹ Đấng Mêsia, Đức Maria sẽ đau khổ hơn mọi người Israel khác để cho thời Đấng Mêsia sẽ được thể hiện. Lần đầu tiên ta thấy thảm kịch đã thấp thoáng.

Trình thuật có thể kết thúc ở đây. Bà cụ tiên tri Anna tiến vào không mang một mặc khải nào mới (cc, 36-38); bằng cách tiên báo, bà nói theo thể văn gián tiếp, nhưng chính nơi bà cụ này, mẫu gương cho góa phụ Do Thái hay Kitô giáo, mà Luca làm vang dội lại bài thánh ca ông Simêon – điều đó cho phép Luca kết thúc cảnh mặc khải này với một sắc thái hân hoan.

Phần kết luận (cc. 39-40) nhắc nhở một lần nữa lòng trung thành của hai cha mẹ đối với lề luật. Rồi sau đó là việc trở về Galilê trái với Gioan ở trong hoang địa. Chúa Giêsu sống ở Nagiaret. Điệp khúc về việc tăng trưởng song song với 1,80; nhưng Chúa Giesu nên mạnh mẽ, đầy khôn ngoan trong khi thần khí của Gioan nên mạnh mẽ. Những tương quan giữa Chúa Giêsu và Thần Khí lại mang một bản chất khác…

 

22. Chú giải của William Barclay

Các nghi lễ được tuân giữ: 2,21-24

Ở đây, chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu đã tuân thủ ba nghi lễ cổ mà người Do Thái phải giữ.

  1. Cắt bì. Mỗi con trai Do Thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám, sau khi sinh. Nghi lễ này quan trọng đến nỗi có thể làm vào ngày Sabát, là ngày mà luật cấm làm hầu hết các công việc không tuyệt đối cần thiết, và như chúng ta đã biết, trong ngày đó đứa trẻ được đặt tên.
  2. Chuộc con đầu lòng. Theo luật (Xh 13,2) thì mọi con đầu lòng dù người hay súc vật, đều biệt riêng ra cho Chúa. Luật này có thể là sự tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban cho loài người sự sống hay cũng có thể là dấu tích của thời kỳ trẻ con còn được dâng cho các thần. Dĩ nhiên nếu tục đó được tuân thủ sít sao thì sự sống không còn trên mặt đất. Vì thế mới có nghi lễ chuộc con đầu lòng (Ds 15,16). Người ta quy định rằng: dâng một số tiền năm shekel-chừng 15 shillings- cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa. Số tiền đó phải cho các tư tế và không thể nộp trước 31 ngày sau khi sinh đứa trẻ và cũng không trì hoãn lâu.
  3. Lễ Tẩy sạch sau khi sinh nở. Khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu con gái thì mẹ phải chịu ô uế trong 80 ngày. Người mẹ có thể đi lại trong nhà, làm công việc hằng ngày, nhưng không thể vào Đền Thờ hoặc tham dự các nghi lễ tôn giáo (Lv 12). Khi thời hạn đó chấm dứt, người mẹ phải vào Đền Thờ, đem theo một con chiên làm của lễ và một bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Đó là một của lễ khá tốn kém, vì thế luật cũng định (Lv 12,8), nếu người mẹ không thể mua một con chiên thì có thể đem đến một con bồ câu thứ hai. Của lễ bằng hai bồ câu thay vì một con chiên và một con bồ câu gọi là “Của Lễ của Người nghèo”. Maria đã dâng của lễ đó. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình nghèo, không chút sang trọng, ở đó mỗi đồng xu của phải được tính kỹ, ở đó các phần tử trong gia đình biết rõ những khó khăn của cuộc sống và những gian nan của kiếp người. Khi nào đời sống trở nên bế tắc cho chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng Chúa Giêsu đã nếm trải đủ mọi mùi cay đắng đó rồi.

Ba nghi lễ này là nghi lễ cũ và lạ, nhưng cả ba cũng nói lên một niềm tin: con cái là phúc lộc Chúa ban. Nhưng người khắc kỷ nói con cái không phải được ban cho cha mẹ mà là cho mượn. Trong các ơn phúc Chúa đưa đến, không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái.

Giấc mơ thành tựu: 2,25-35

Không có người Do Thái nào không coi dân tộc mình là dân tộc được ưu tuyển. Những họ biết rõ bằng phương tiện tự nhiên, đất nước của họ không thể đạt được tầm cỡ tuyệt với trên thế giới mà họ chỉ tin đó là phần phúc cho họ. Đa số họ tin rằng vì Do Thái là tuyển dân nên một ngày kia họ sẽ có một vĩ nhân, một anh hùng từ trời giáng trần, nhiều người khác tin rằng sẽ có một vị vua bởi dòng dõi Đavít và mọi vinh hiển xa xưa sẽ trở lại, nhiều người khác tin chính Thiên Chúa sẽ trực tiếp bước vào lịch sử bằng những cách siêu nhiên! Nhưng ngược lại, cũng có một số ít người được gọi là “những kẻ yên lặng trong xứ”. Họ không mơ tưởng gì về sức mạnh và quyền thế, về quân đội với cờ bay trống giục, họ tin cậy vào một đời sống kiên trì cầu nguyện và lẳng lặng đợi chờ cho đến khi Thiên Chúa ngự đến. Suốt đời sống, họ trông đợi Chúa cách lặng lẽ và nhẫn nại. Simêon là một trong số những người đó, bằng đời sống cầu nguyện và thờ phượng, cứ khiêm nhường trung tín đợi chờ, ông trông mong được thấy người Thiên Chúa an ủi dân Ngài. Thiên Chúa đã hứa với ông qua Thánh Thần là ông sẽ không qua đời trước khi được xem thấy Đấng Xức Dầu của Ngài. Ông nhận biết vị Vua đó nơi hài nhi Giêsu và ông mừng rỡ. Bấy giờ ông sẵn sàng ra đi bình an và những lời của ông đã trở thành bài ca “Bây Giờ Xin Chết” (Nunc Dimittis), cũng là bài ca tuyệt tác của Hội Thánh.

Trong câu 34, Simêon cho một bản tóm lược về công việc và số phận của Chúa Giêsu.

  1. Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người vấp ngã. Câu đó nghe lại tai và khó chịu, nhưng đó là sự thật. Không phải Thiên Chúa đoán xét người ta cho bằng người ta tự đoán xét mình, và đoán xét của mỗi người là do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu. Nếu khi đối diện với lòng nhân từ, thương yêu của Chúa Giêsu, họ mở lòng ra tiếp nhận tình yêu đó thì họ được ở trong vương quốc của Ngài. Nhưng nếu lòng họ cứ lạnh lùng cứng cỏi hoặc thù nghịch thì họ bị kết án. Có nhiều người chối bỏ Ngài, đồng thời không thiếu những người sẵn sàng nhận Ngài làm Chủ đời sống họ.
  2. Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người được chỗi dậy. Triết gia Seneca nói rằng nhu cầu lớn nhất của loài người được một bàn tay đưa xuống để nâng họ lên. Chính bàn tay Chúa Giêsu đã nâng vực con người lên khỏi đời sống cũ và đem vào đời sống mới, đem tội nhân khỏi vũng bùn tội lỗi và bước vào đời sống thánh thiện, ra khỏi những nhục nhã và bước vào chốn vinh quang.
  3. Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều sự chống đối. Đối với Chúa không có sự trùng lập. Hoặc chúng ta tuân phục Ngài, hoặc đối nghịch với Ngài. Thảm kịch của đời sống là tính kiêu ngạo đã ngăn cản chúng ta thực hiện sự tuân phục dẫn đến chiến thắng.

Tuổi già đáng yêu: 2,36-40

Anna cũng là một trong số những người lặng lẽ trong xứ. Chúng ta không biết nhiều về bà, ngoài mấy câu Kinh Thánh này, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta có một bức hoạ về tâm tính bà.

  1. Anna là một quả phụ. Bà đã từng nếm trải đau buồn nhưng lòng bà không hề cay đắng. Sự buồn rầu có thể đem đến cho cta một trong hai điều: nó có thể làm cho chúng ta cứng lòng, cay đắng, uất hận, phản nghịch lại Chúa, hoặc làm cho chúng ta mềm mại hơn, dịu dàng hơn, nhân từ hơn. Nó có thể cướp mất lòng tin tưởng của chúng ta hoặc có thể giúp đức tin chúng ta đâm rễ sâu hơn, và trở nên bất khuất. Tất cả tuỳ thuộc cách chúng ta suy hiểu về Thiên Chúa. Nếu chúng ta nghĩ về Thiên Chúa như một loại bạo chúa thì chúng ta sẽ oán hận Ngài. Nếu nghĩ về Ngài như một người cha nhân từ thì chúng ta tin chắc rằng: tay của một người cha sẽ không làm cho con mình phải đổ một giọt nước mắt vô ích nào cả.
  2. Bà đã già (84 tuổi) và không hề thôi hy vọng. Tuổi già cướp mất màu tươi thắm và vẻ cường tráng của thân thể chúng ta, nhưng còn tệ hại hơn, là năm tháng có thể giết chết sự sống trong tâm hồn chúng ta, đến nỗi bao hy vọng từng ôm ấp cũng chết lịm và chúng ta trở nên ảm đạm, ê chề, an phận thủ thường, không còn thiết tha điều gì nữa. Và điều đó cũng tuỳ thuộc vào cách chúng ta nhìn về Chúa: nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa là một Đấng xa cách, không hề quan tâm đến chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ tuyệt vọng. Ngược lại, chúng ta tin Thiên Chúa có liên hệ mật thiết với cuộc sống chúng ta, Ngài điều khiển mỗi bước của chúng ta trên đường đời thì chúng ta sẽ thấy tương lai thật tốt đẹp. Tuổi tác, thời gian, sẽ không thể giết được hy vọng của chúng ta. Nhưng bà Anna làm sao để giữ vững niềm hy vọng đó?
  3. Bà không hề ngưng nghỉ trong việc thờ phượng. Bà dâng đời sống mình trong nhà Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Hội Thánh của Ngài để làm mẹ chúng ta trong đức tin. Chúng ta đánh mất một kho tàng vô giá khi chúng ta không muốn thông công trong việc thờ phượng với dân Chúa.
  4. Bà hằng cầu nguyện không ngừng. Việc thờ phượng công cộng là quan trọng, nhưng việc thờ phượng riêng cũng quan trọng. Có người đã nói rất đúng: “Người nào biết cầu nguyện riêng tốt sẽ biết cầu nguyện chung tốt”. Năm tháng đã không đem cay đắng vào lòng Anna, không làm tan hy vọng của bà vì mỗi ngày bà biết kết hợp với Đấng vốn là Nguồn sức mạnh, và trong sức mạnh của Ngài, sự yếu đuối của chúng ta trở nên mạnh mẽ.

 

23. Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh

(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. LỊCH SỬ NGÀY LỄ.

Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được “mừng một cách trọng thể như lễ Phục Sinh vậy” (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria). Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma. Nội dung Thánh lễ được triển khai theo đoạn Phúc âm thánh Luca 2,22-40.

Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si bước vào Đền thờ và gặp dân Thiên Chúa của Cựu ước qua ông Simêon và bà tiên tri Anna; Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do thái (Lv 12).

Khi du nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế, từ thế kỷ thứ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria khi lên Giêrusalem; khi đoàn đồng tế đến đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.

Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, ngay cả trong phụng vụ Rôma, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.

Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng Sinh.

(Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh, tập 1, tr 68).

  1. Ý NGHĨA NGÀY LỄ
  2. Theo tập tục của luật Maisen.

Bài Tin mừng cho thấy Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn những tập tục của luật Maisen liên quan đến việc hạ sinh Đức Giêsu. Luật Maisen qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21).

Khi được một tháng tuổi, trẻ phải được đưa tới Đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng – dù là người hay là thú vật – đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Người, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13, 2.12-13; Ds 18,15-16).

Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Maria đã làm (x. Lv 5,7; 12,8).

Mặc dù biết Đức Giêsu con của mình, là Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.

Sách Xuất hành qui định: “Giavê phán cùng Maisen rằng: Hãy hiến thánh cho Ta mọi con đầu lòng: vật gì bất cứ, khi thông dạ mẹ, thì thuộc về Ta”. Điều luật này tưởng nhớ sự kiện Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Vì thế, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa và phải dành riêng cho Người. Tuy nhiên, sau khi việc phụng tự được dành riêng cho chi tộc Lêvi, thì con trai đầu lòng thuộc các chi tộc khác không phải lo việc phụng tự nữa.

Nhưng để tỏ ra chúng vẫn thuộc sở hữu của Thiên Chúa, nên người ta thực hiện một nghi thức chuộc lại. Sách luật qui định con dân Israel phải hiến dâng một lễ vật tượng trưng để chuộc lại con trai.

  1. Đức Maria dâng con theo lề luật.

Theo luật Maisen cũng là tục lệ của người Do thái, những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày bà mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình làm lễ tẩy uế.

Vậy sau khi Chúa Giêsu sinh ra được 40 ngày, Đức Maria đem con lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa theo luật Do thái. Mẹ Ngài hoàn toàn thanh sạch, không cần phải giữ luật ấy, nhưng Mẹ cũng thi hành đầy đủ lễ nghi, trước là vâng theo ý Chúa, sau là để người ta khỏi sai lầm mắc phải.

Hôm ấy, ông già Simêon là người hằng mong đợi được trông thấy Đấng Cứu Thế, lên Đền thờ cũng là ngày cha mẹ dâng Hài Nhi Giêsu trong Đền thờ. Vừa trông thấy Hài Nhi, được ơn trên soi sáng chỉ dẫn, ông rất vui mừng, vội đưa tay ẵm kính Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa:”Lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,29-32).

Hai Ông Bà thấy và nghe như thế thì lấy làm lạ, chưa kịp hỏi han gì thì cụ già Simêon nhìn lên Đức Mẹ mà thưa:”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người ta chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà”(Lc 2,34-35).

Đồng thời, nữ tiên tri Anna trông thấy Chúa Hài Nhi, bà cũng nói lên lời chúc tụng Thiên Chúa và nói lại cho người ta biết rằng chính Ngài là Vị Cứu Thế muôn dân đang chờ đợi.

Mặc dầu biết Đức Giêsu, con mình, là Con Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi buộc. Và sau cùng, để chuộc lại con mình, hai Ông Bà vì nghèo nàn chỉ dâng lên Thiên Chúa một đôi chim gáy với tất cả tấm lòng thành.

  1. Lễ hôm nay cũng là Lễ Nến

Khi lễ này được du nhập vào phụng vụ Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I lại thêm vào nghi thức rước nến, vì vậy lễ dâng Chúa Giêsu vào Dền thờ hôm nay cũng được gọi là Lễ Nến, vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân.

Chính cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Thánh Xôprôniô, Giám mục Giêrusalem đã nói:”Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là Ánh Sáng thật đã đến, Ánh Sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy tỏa sáng” (Kinh Sách, các bài đọc ngày 02.02).

Cuộc rước trong phụng vụ hôm nay nói lên đời sống của mỗi tín hữu phải giãi chiếu ánh sáng cho người khác. Chúa Kitô là ánh sáng cho trần gian. “Ánh Sáng” là một từ thường được dùng để chỉ về sự sống và chân lý. Thiếu ánh sáng là cô đơn, nghi nan và lầm lạc. Chúa Kitô là Sự Sống cho thế gian và cho mọi người, Là Ánh Sáng chiếu soi, là Chân Lý giải thoát, Là tình Yêu viên mãn… Mỗi khi cầm nên đi trong đoàn kiệu, chúng ta thông phần vào ánh sáng của Chúa Kitô.

III. BƯỚC THEO MẸ MARIA.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết theo gương Mẹ để biết khiêm nhường phục vụ Chúa và tha nhân trong mọi công việc của cuộc sống.

Trước hết, Lễ này dạy chúng ta bài học khiêm nhường vâng giữ luật Chúa và Hội thánh. Thật ra luật Cựu ước không buộc Đức Maria và Chúa Giêsu, vì Đức Maria không thụ thai cách bình thường như người đời. Ngài mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, nên Ngài không bị ô uế theo luật Maisen và không buộc phải thanh tẩy.

Đức Giêsu cũng không buộc phải được hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật dạy, vì rồi đây chính Ngài sẽ bị sát tế và dâng hiến lên Chúa Cha trên thánh giá để làm của lễ chuộc tội loài người. Việc hiến dâng các trẻ em Do thái theo luật Maisen chỉ là hình bóng việc tự hiến của Ngài mà thôi. Thế nhưng chỉ vì khiêm tốn vâng phục mà Đức Maria và thánh Giuse đã chu toàn luật Cựu ước cho Chúa Giêsu để nêu gương cho chúng ta.

Thứ đến, Đức Maria sẵn lòng dâng hiến Con mình cho Thiên Chúa. Qua đó, Mẹ lặp lại lời Fiat, và một lần nữa, trao phó trọn đời mình cho Thiên Chúa an bài sử dụng. Chúa Giêsu được hiến dâng lên Chúa Cha trên tay của Mẹ Maria. Đây là cuộc hiến dâng đặc biệt nhất tại Đền thờ, và không bao giờ được lặp lại. Hơn ba mươi năm sau, Chúa Giêsu đã dâng chính thân Người, nhưng ngoài thành, ở trên đồi Calvê.

Mẹ Maria đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời để Chúa sử dụng trong cuộc việc cứu chuộc loài người. Mẹ không từ chối Chúa một sự gì. Tiếng Fiat luôn chiếm hữu tâm trí Mẹ để mọi việc được diễn tiến theo thánh ý Chúa, cho dù thân xác Ngài phải bị hao mòn.

Truyện: Ngụ ngôn về cây bút chì.

Người thợ làm bút chì nâng niu sản phẩm của mình trước khi cho nó vào hộp. Ông nói với bút chì: “Có 5 điều mày cần phải nhớ trước khi tao để mày bước vào thế giới hỗn độn ngoài kia. Lúc nào mày cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều ấy, khi đó, mày mới trở nên một cây bút chì đẹp nhất, hiểu không?

Thứ nhất, mày luôn có thể tạo ra những thứ rất vĩ đại, nhưng chỉ khi nào mày nằm trong tay một ai đó.

Thứ hai, mày phải liên tục chịu đựng những sự gọt giũa rất đau đớn, nhưng hãy nhớ, tất cả đau đớn ấy chẳng qua để làm cho mày đẹp hơn mà thôi.

Tiếp theo, mày phải nhớ lúc nào mày cũng có thể sửa chữa những lỗi mà mày ghi ra.

Và một điều nữa, hãy biết phần quan trọng nhất trên cơ thể của mày chính là phần ruột, phần bên trong chứ không phải là lớp vỏ ngoài.

Cuối cùng,, mày, bút chì, phải để lại vết chì của mày trên bất cứ bề mặt nào mà mày được sử dụng để viết, và phải liên tục viết, bất kể chuyện khó khăn gì, được không?

Cây bút chì hiểu rõ những lời người thợ nói và nó tự hứa sẽ nhớ tất cả những điều ấy, và rồi, nó vào nằm trong hộp để bước ra thế giới với những mục đích riêng mà nó đã định.

Qua câu truyện ngụ nôn về cây bút chì, bạn hãy thử đặt chính bạn vào vị trí cây bút chì xem. Lúc nào bạn cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều này, khi đó, bạn sẽ trở thành một con người vĩ đại cho mà xem.

Bạn hãy cố thực hành:

Thứ nhất, bạn có thể làm nên những chuyện vĩ đại, nhưng chỉ khi nào bạn biết đặt mình vào trong vòng tay của Thiên Chúa, hãy để cho mọi người được sử dụng những món quà mà Thiên Chúa ban cho bạn.

Thứ hai, bạn sẽ phải liên tục nếm trải những đau đớn và thất bại trong cuộc sống, nhưng có trải qua ngần ấy đau khổ, bạn mới có thể mạnh mẽ hơn được.

Cũng cần phải nhớ lúc nào bạn cũng có thể khắc phục những sai lầm trong quá khứ.

Tiếp theo đó, bạn phải biết phần quan trọng nhất của cơ thể bạn không phải là ngoại hình mà là tấm lòng bên trong của bạn

Còn điều cuối cùng, trên mọi nẻo đường mà bạn đi qua, bạn hãy để lại những dấu ấn riêng của bạn và trong bất cứ trường hợp nào, bạn cũng phải hoàn thành nhiệm vụ của minh.

Hãy làm theo ngụ ngôn về bút chì, nó sẽ giúp cho bạn cảm thấy bạn đúng là một con người đặc biệt và chỉ có bạn mới có thể hoàn thành được những trách nhiệm mà ngay từ khi sinh ra, bạn đã được giao phó.

Đừng bao giờ để mình bi quan và cũng đừng bao giờ cho rằng cuộc đời bạn thật tầm thường và rằng bạn không thể thay đổi bất cứ thứ già cả.

Trong Thánh Lễ hôm nay, cùng với lễ dâng trọn hảo là chính Chúa Giêsu, được Đức Maria và thánh Giuse tiến dâng trong Đền thờ, chúng ta cũng xin hiến dâng tuổi xuân và cả cuộc sống của chúng ta làm lễ dâng lên Thiên Chúa. Xin Ngài chúc phúc và hướng dẫn đường đời chúng ta trong thánh ý Ngài, hầu cả cuộc sống chúng ta trở nên lễ dâng tình yêu trong Tình Yêu Thiên Chúa.

 

II. CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A

1. Tám mối Phúc Thật – Lm. Thu Băng, CRM

  1. Hạnh phúc theo ý nghĩ loài người:

Loài người tượng hình cho việc mất hạnh phúc bằng trái tim có mũi tên xuyên qua. Và tượng hình cho hạnh phúc bằng trái tim có đôi cánh bay bổng lên cao. Trong thần thoại Việt Nam tượng trưng cho niềm hạnh phúc bằng 3 vị thần: phúc lộc thọ gọi là tam đa.

Thần thọ: râu tóc bạc phơ, tay phải chống gậy cong queo, tay trái cầm trái đào tiên thường đi với con rùa, một con vật sống dai nhất tượng trưng cho đường trường thọ.

Thần lộc: Cưỡi nai, tượng trưng cho niêm an vui thư thái, quan cách.

Thần phúc: Đi đâu cũng có mấy chú giơi theo hầu, tượng trưng cho giầu sang, phú quý. Ai muốn được hạnh phúc thì cố gắng đạp thằng bần ra khỏi cửa, giang tay mời ông phúc bước vào nhà.

Người Lamã thời Chúa Giêsu cũng không khác thời nay, họ đo lường hạnh phúc bằng giầu có vật chất, bằng khoái lạ, quyền thế, bằng thảnh thơi an nhàn, cơm bưng nước rót.

  1. Hạnh phúc theo Phúc Âm:

Nhưng giờ đây theo quan niệm mới, Chúa cho chúng ta một mực thuớc mới để đo giá trị qua bản hiến chương nước trời:

Ai có tinh thần nghèo khó mới chiếm được nước trời.

Ai hiền lành không hách dịch mới được người đời mến chuộng.

Ai đầy lòng trắc ẩn, cảm thương mới được an ủi.

Ai khát sống công chính mới được no thỏa.

Ai nhân từ, xót thương người ta mới được thương lại.

Ai trinh tâm mới được thấy Chúa.

Ai thuận hòa mới được làm con Chúa.

Ai vui chịu sự khó mới được nước trời.

Chúa chọn những cái người đời cho là đê hèn: nghèo là thằng bần. Thương người là ngu. Hiền là cù lần. Trinh tâm là lạc hậu. Chịu khó là ham… Để làm cho người nhận là lớn phải hổ thẹn. Điều đó đã trở thành sự thật.

Nhà triệu phú Paul Getty chết năm 1976 đã nói trước khi chết: “Cả đời tôi chẳng được hạnh phúc.” Trái lại Lazarô, người hành khất được lĩnh hạnh phúc nước trời. Ông Diogènô được mệnh danh là người hạnh phúc trên đời. Ông sống trong một cái thùng lớn, nằm đọc sách triết, vua Hy Lạp nghe danh đến thăm ông và muốn ban cho cái ông cần thiết. Hỏi tới lần thứ hai ông không thèm trả lời, vua tưởng ông không nghe thấy, vua ghé sát vào lỗ thủng hỏi lại, ông trả lời “Hạ thần muốn xin bệ hạ một điều là bệ hạ tránh ra để hạ thần có ánh sáng mà đọc sách.” Ông đã đuổi khéo nhà vua vì vua đã sa vào vòng danh lợi để mất niềm vui thảnh thơi của cuộc sống.

Cái hạnh phúc của ông là từ bỏ, gác ngoài tai danh lợi và quyền thế.

Một hôm hoàn tử Ba Tư đi săn trong rừng cho khuây khỏa nỗi buồn vỉ mất người yêu. Hoàng Tử nghe thấy tiếng hát thánh thót nơi rừng thẳm, hoàng Tử tiến lại xem thì một người cùi đang nằm hát trong đống bầy ngầy thối rữa. Hạnh phúc của người này là chấp nhận thánh ý an bài của Chúa, dù gặp lúc vui hay lúc buồn.

Cha Daniêng tông đồ người hủi. Đức cha Cassege từ bỏ ngôi vị giám mục đi sống phục vụ người miền thượng Di Linh. Trước khi chết ngài nói: “Đời tôi không được dài để phục vụ nữa”. Hạnh phúc của ngài là hy sinh, thương xót, vui chịu sự khó, thực hiện lòng trắc ẩn.

Chức phận của ông tổng thống, của ông bộ trưởng, tỉnh trưởng chưa chắc vui bằng mấy ông bà già ngày ngày cầu kinh, hy sinh với nếp sống cứu các linh hồn.

  1. Chúng ta có thực hiện được bản hiến chương nước trời hay không trong chức vụ hiện tại của mình?

Đây là phần trả lời của mỗi người chúng ta. Chúa không buộc chúng ta bỏ, nhưng Chúa đòi chúng ta cố gắng quan tâm. Giầu có nhưng có lòng quảng tâm. Có địa vị nhưng thực hành hiền lành không hống hách.. Sống giữa đam mê nhưng lòng trinh tâm, không tranh dành, chớp cơ hội để sống hiền hòa.

Tám mối phúc thật là đường lối mới Chúa ban để hướng dẫn chúng ta hướng lên cao. Hãy cố gắng thực hiện trong mọi lãnh vực sống.

 

2. Chúa tôn người khiêm hạ – Lm. Minh Vận, CRM

Đang lúc thi hành việc mục vụ, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích ngài về mọi mặt, do tay một Linh Mục bất mãn viết. Đọc xong bức thư, Đức Cha Roncalli không nói một lời, bình tĩnh, thản nhiên và vẫn yêu thương Linh Mục ấy.

Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Sứ Thần Tòa Thánh tại Paris, rồi Hồng Y Giáo Chủ tại Venezia và sau cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu Gioan XXIII năm 1958.

Năm ấy, vị Linh Mục viết bức thư bất mãn kia hãy còn sống. Một hôm gặp dịp Giáo Dân vùng đó tổ chức cuộc hành hương Roma để triều yết Đức Tân Giáo Hoàng, cũng là vị nguyên Tổng Giám Mục yêu kính của họ, Linh Mục ấy cũng ghi tên theo phái đoàn. Đến Roma, ngài lại xin đặc ân được tiếp kiến riêng Đức Thánh Cha. Lời thỉnh cầu được Đức Thánh Cha chấp thuận. Sau đây là câu truyện do chính Linh Mục ấy thuật lại:

“Trong lúc ở phòng đợi đến phiên được triều yết Đức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi thầm nghĩ đã mấy chục năm qua, chắc Đức Thánh Cha cũng đã quên rồi. Nhưng rủi mà ngài còn nhớ thì sao? Mà thôi, đã lỡ xin gặp riêng, bây giờ rút lại cũng không được nữa. Lòng tôi cảm thấy xao xuyến hồi hộp. Hy vọng ngài nhân hậu sẽ bỏ qua và tha thứ cho tôi.

Đang lúc miên man suy nghĩ thì cánh cửa mở, Đức Ông phụ trách dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha niềm nở đưa tay bắt và mời tôi ngồi. Ngài ân cần thăm hỏi công việc mục vụ của tôi, của Giáo Phận và bùi ngùi nhắc đến những bạn cũ năm xưa. Ngài thương nhớ tất cả, không trừ ai, như thể xứ sở tôi là chính quê hương của Ngài vậy.

Lúc ấy tôi đang khấp khởi, vì tưởng Đức Thánh Cha đã quên hẳn bức thư hỗn láo năm nào. Câu truyện vẫn tiếp tục trong bầu khí vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn Thánh Kinh và từ từ mở ra. Ngài để trước mặt tôi bức thư khốn nạn. Hồn phách lạc xiêu, tôi xấu hổ và sợ hãi quá đỗi, ước chi được độn thổ cho khuất. Có ngờ đâu mấy chục năm qua mà bức thư vẫn còn nguyên. Tôi đang lúng túng với muôn ngàn âu lo, thì Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng sợ, Cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con, Cha cũng là con người, cũng có những yếu đuối, Cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày đọc vào đó mà hồi tâm kiểm điểm, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỗi có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.

Nghe xong, linh hồn tôi chu du phương xa lúc ấy mới trở về. Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng. Ngài còn chúc lành cho tôi, ôm hôn từ giã tôi. Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung vị Giáo Hoàng nhân hậu khiêm nhu đến thế”.

  1. CHÚA TUYỂN CHỌN NGƯỜI KHIÊM HẠ

Qua bài sách tiên tri Sophonia và bài thánh thư của Thánh Phaolô gởi Giáo Đoàn Corintho hôm nay, chúng ta nhận thấy cái diễm phúc của chúng ta được Chúa tuyển chọn làm con cái Chúa, làm Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, không phải vì chúng ta tốt lành xứng đáng, nhưng chính là vì chúng ta hèn mọn bất xứng. Theo giáo huấn Thánh Phaolô thì, không phải chúng ta là người khôn ngoan, quyền thế, sang trọng mà Chúa đã tuyển chọn; nhưng trái lại, chỉ vì chúng ta hèn hạ, đáng khinh chê trước mắt trần gian mà chúng ta đã được Chúa đoái thương; để không ai trong chúng ta có thể tự hào được, rồi Thánh Nhân đã kết luận: “Nếu ai muốn tự phụ, thì hãy tự phụ trong Chúa” (xem 1 Cor 1:26-31).

Tìm hiểu Tin Mừng là cuốn lịch sử tình yêu thương của Chúa, chúng ta thấy Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria, một thôn nữ khiêm hạ thành Nazareth để làm Mẹ sinh ra Con Một Chúa và thỉnh mời Mẹ cộng tác với Ngài trong sứ mạng Cứu Thế. Rồi thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sứ mạng Cứu Thế của Chúa, Chúa đã chọn một nhóm ngư phủ vô danh tiểu tốt, chất phác quê mùa. Cũng nhờ nhóm dân thuyền chài quê mùa đó, mà Chúa đã thi thố biết bao việc lạ lùng trên trần gian: Một Giáo Hội vĩ đại lan rộng khắp thế giới, đến nỗi không một ai, kể cả những kẻ thù nghịch, những người chống đối, thù ghét bách hại cũng phải kính nể, phải đầu hàng, như chính lời Chúa đã tiên báo cho Thánh Phêrô: “Con là Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, dù các quyền lực của hỏa ngục cũng không thể phá hủy được”.

Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng còn thấy, biết bao việc vĩ đại Chúa đã dùng các tôi trung con thảo khiêm nhu của Chúa thực hiện. Biết bao kẻ chống đối, phi bác, nhưng Giáo Hội vốn đứng vững. Biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ Chúa thực hiện qua những dụng cụ đơn sơ chất phác khiêm hạ, như Gioan Vianney Cha sở xứ Ars, Bernadetta thôn nữ chăn chiên, Labourée Chị Dòng khiêm tốn, ba trẻ Fatima đơn sơ bé mọn.

  1. CHÚA BAN ƠN CHO NGƯỜI KHIÊM HẠ

Quả thật, theo lời Thánh Pherô và Giacobê Tông Đồ: “Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm hạ”, và theo lời Đức Mẹ trong kinh Ngợi Khen: “Chúa truất phế khỏi ngai vàng những người quyền thế; và tôn vinh những kẻ hèn mọn khiêm nhu”. Chính Chúa Kitô cũng đã trịnh trọng tuyên bố: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Thánh Phaolô đã dám quả quyết minh bạch giáo huấn chân thật của Chúa Kitô: “Những điều mà thế gian cho là điên dại thì Chúa đã tuyển chọn, để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; những điều mà thế gian cho là hèn hạ, thì Thiên Chúa đã kén chọn để làm cho những người mạnh mẽ phải hổ ngươi; hầu cho không ai còn có thể huyênh hoang được” (xem 1 Cor. 1:26).

Do đó, theo lời tiên tri Sophonia khuyên nhủ chúng ta: “Hãy tìm Chúa, hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhu, nếu chúng ta muốn được đẹp lòng Thiên Chúa, được Chúa cứu độ và đạt tới Đích Thánh Thiện như Chúa mong muốn” (xem Soph 2:3;3:12-13).

Kết Luận

Các Thánh là những sinh viên ưu tú và thành tâm thiện chí đã tốt nghiệp nơi trường đại học của Thầy Chí Thánh, các ngài đã đạt tới bậc tối ưu trong môn học thần diệu Chúa dạy: “Các con hãy học theo gương Thầy, vì Thầy hiền dịu và khiêm nhu thật lòng” (Mt 11:29). Chính vì thế mà các Thánh tới Đích Thánh Thiện, đã làm vinh danh Chúa, đã chu toàn được sứ mạng chinh phục các linh hồn về với Chúa, đã nêu cho nhân loại những tấm gương đáng khâm phục và noi theo bắt chước.

Xin Chúa cho chúng ta được thấu hiểu giá trị đích thực bài học khiêm tốn của Chúa, được thấm nhuần tình thần cao cả này và can đảm đem ra thực hiện trong đời sống hằng ngày, để chúng ta cũng được Chúa hài lòng như Chúa đã hài lòng với Mẹ Maria và các Thánh.

 

3. Chúa muốn con người hạnh phúc – Mt 5, 1-12a

(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ – Suy niệm Chúa nhật 4 – Năm A: Mt 5, 1-12a)

Chúa nhật thứ IV thường niên A năm nay trùng vào ngày Mùng Hai Tết Nguyên Đán năm 2017, thật là ý nghĩa khi chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng (Mt 5, 1-12a) đọc trong Thánh lễ Giao thừa, chúng ta có thể khẳng định rằng : Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc. Suy diễn này không có quá ảo tưởng, vì vào khởi đầu của Kitô giáo, các thành phần của Giáo hội cũng được gọi là “những người diễm phúc”. Thiên Chúa là Hạnh Phúc, Ngài luôn muốn chúng ta hạnh phúc, nên Ngài thi ân giáng phúc cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta không chỉ hạnh phúc tạm thời, mà còn hạnh phúc luôn mãi cả đời này và đời sau. Quả thực, người kitô nhờ Bí tích Rửa tội, được kết hiệp với Chúa Giêsu là Quả Phúc nơi cung lòng Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc, nên chúng ta hạnh phúc là lẽ đương nhiên. 

Ngày đâu năm, chúng ta đã đi chúc tết nhau, ngoài bánh chưng, bánh tét, hoa đào, hoa mai… có lẽ không gì nhiều bằng “lời chúc”. Ai cũng muốn dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho gia đình, người thân, bạn bè trong những ngày này và ngược lại, ai cũng muốn mình được nhận nhiều những lời chúc. Về phương diện con người, điều đầu tiên trong năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau là bình an, hạnh phúc, vui vẻ, may mắn… người có đạo còn chúc nhau được đầy niềm vui và phúc lành của Thiên Chúa.

Về phía Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch mọi ân phúc, Ngài yêu thương con người và hằng mong muốn con người được hạnh phúc, Ngài sẵn sàng chúc phúc cho chúng ta. Ngài vui khi nhìn thấy chúng ta mạnh khoẻ, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cha mẹ nào mà không vui khi thấy con cái mình lớn lên, khôn ngoan, khoẻ mạnh, huống chi là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta, không để chúng ta hư không đời, mà lại sinh ra ta cho ta được làm người…lại cho Ngôi Hai Xuống thế làm người để cứu độ, giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi và sự dữ, cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời. Đoạn Tin Mừng đọc trong Thánh lễ hôm nay minh chứng rõ ràng rằng, Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc (x. Mt 5, 1-10).

Hạnh phúc thật theo Chúa Giêsu phán trong Tin Mừng (Mt 5:1-12) nghe xong nhiều người không khỏi ngạc nhiên và sửng sốt, bởi vì những người mà người đời coi là khờ dại, bất hạnh và đáng thương hại theo Chúa Giêsu lại là những người có phúc. Lý do là vì họ sống tinh thần nghèo khó, mặc dù họ giàu sang, có tiền của. Sống tinh thần nghèo khó, không cậy dựa vào tiền của, nhưng phó thác vào quyền năng của Chúa. Họ còn là những người hiền lành, những người đau khổ, những người đói khát sự công chính, những người có lòng trong sạch, những người ăn ở thuận hoà và những người bị bách hại vì lẽ công chính. Đó là những người được Thiên Chúa chúc phúc.

Chúa Giêsu là hiện thận của Chúa Cha là Hạnh Phúc, Người cũng muốn chúng ta có được hạnh phúc, nên đã vạch ra cho chúng ta con đường Tám Mối Phúc Thật để tất cả chúng ta đi theo mà trở thành phúc nhân. Con đường Chúa đã đi khi còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta : Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10).

Trước thềm năm mới, chúng ta hãy khẩn cầu các thánh là những người đã được xem là phúc nhân, đặc biệt xin Mẹ Maria, là ‘Đấng đầy ơn phúc’, giúp con cái Mẹ trở thành những phúc nhân trong năm mới, nhất là trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ đến muôn thủa muôn đời! Amen.

 

4. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Là con người, ai trong chúng ta cũng mong muốn được hạnh phúc, nhưng quan niệm về hạnh phúc thì khác nhau: Có người cho rằng hạnh phúc là có nhiều tiền bạc của cải; có người cho rằng hạnh phúc là có vợ đẹp con khôn; có người cho rằng hạnh phúc là có quyền cao chức trọng; có người cho rằng hạnh phúc là được sống lâu…

Chính vì quan niệm như thế, cho nên có những người đang dùng những mánh khóe lừa gạt để kiếm cho được nhiều tiền, bất chấp luân thường đạo lý, lẽ công bằng. Họ đang tích trữ kho tàng vật chất để sống hưởng thụ mà quên đi tình bác ái với anh chị em đồng loại; có những người đang tự hào về sắc đẹp của mình, thậm chí dùng sắc đẹp để thỏa mãn dục vọng, phỉnh gạt người khác nên đã gieo biết bao đau khổ cho tha nhân; có những người đang cố gắng dùng quyền lực để cai trị, để kiếm chác nên đã làm khổ dân nước…

Tôi có một người bạn, thi trường Đại Chủng viện 3 lần đều rớt, nên anh tìm đến dòng tu. Ở được một năm thấy không hợp, anh ta trở về cưới vợ. Sau một thời gian gặp lại, anh ta kể cho tôi nghe về vợ con, nhà cửa, nghề nghiệp và mọi thứ. Anh ta rất bằng lòng với cuộc sống của mình. Tôi nhận thấy anh ta rất hạnh phúc. Nhưng sau đó, tôi lại nghe tin vợ anh ta dính líu vào vụ làm ăn gian lận sao đó, nợ nần chồng chất. Người ta thay nhau đến đòi nợ. Nhà cửa, tài sản, đất đai của gia đình anh ta không cánh mà bay. Cuối cùng, vợ anh ta bỏ trốn. Anh ta trở thành cái bia để cho người ta xỉ vả, chửi bới.

Hóa ra, những thứ hạnh phúc ở đời này quá mong manh: vợ đẹp con khôn, chức quyền danh vọng, của cải… có thể nay còn mai mất. Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng: “Đặt niềm tin nơi ta, hay nơi của cải, tiền bạc, quyền lực, rất có thể chúng sẽ mang đến cho ta “một cảm giác sung sướng nhất thời, một ảo tưởng hạnh phúc” và cuối cùng, “chúng sẽ chiếm hữu ta, khiến ta luôn muốn có nhiều hơn, không bao giờ được thoả mãn.”  Pic de la Mirandole cũng đã nói: “Tìm hạnh phúc nơi tạo vật là một điên khùng. Hạnh phúc thật chỉ có thể gặp thấy trong Thiên Chúa.” 

Thật vậy, chỉ có Chúa và những gì thuộc về Chúa mới là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói: “Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.” Thánh Augustinô sau một thời gian đi tìm khoái lạc, hạnh phúc ở đời này, cuối cùng cũng đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn còn vẫn còn khắc khoải lo âu cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa.”

Nhưng để có hạnh phúc vĩnh cửu nơi Chúa, chúng ta phải thực hành những gì Chúa dạy, phải đi con đường Chúa đã đi. Con đường đó, các Thánh cũng đã từng đi qua. Đó không phải là con đường rộng rãi thênh thang, con đường của êm ái mà là con đường của hy sinh, từ bỏ, con đường của thập giá. Con đường đó là con đường của Tám Mối Phúc Thật mà chúng ta vừa nghe qua đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 5,1-12a): Đó là biết sống tinh thần nghèo khó, biết sử dụng tốt những của cải Chúa ban, biết sẻ chia cho những người đói khát, nghèo nàn; đó là biết sống hiền lành, cư xử nhẹ nhàng, mềm dẻo với những người xung quanh; đó là biết khóc lóc, sầu buồn, hối hận vì những lỗi lầm mình đã gây nên, giống như thánh Phêrô đã ăn năn khóc lóc mỗi khi gà gáy vì nhớ đến tội chối Chúa của mình; đó là biết khao khát điều công chính, mong muốn mình trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn; đó là biết thương xót người, nhất là những người cô thế cô thân, những người sống bên lề của xã hội, giống như gương của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta: “Hạnh phúc có nghĩa là  yêu như Chúa đã yêu, giúp đỡ như Người đã giúp đỡ, hy sinh như Người đã hy sinh, phục vụ như Người đã phục vụ…”; đó là biết sống trong sạch trong tư tưởng, lời nói, việc làm; đó là biết xây dựng sự hòa bình, hòa thuận, không gây gỗ, chia rẽ, bất hòa với ai. Nếu lỡ bất hòa với ai thì biết làm hòa trước khi mặt trời lặn hoặc trước khi lên dâng của lễ trên bàn thờ; đó là biết bênh vực cho công lý và sự thật dầu có phải chịu đựng sự bách hại vì lẽ công chính: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Lời kinh hòa bình của Thánh Phanxicô Assisi).

Vậy, chúng ta đang đi tìm thứ hạnh phúc nào? Hạnh phúc nơi Chúa hay hạnh phúc nơi của cải, tiền bạc, quyền lực? Xin cho chúng ta không đặt tin tưởng nơi của cải, tiền bạc, quyền lực và những thứ ở đời này nhưng hãy tìm kiếm hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc của Tám mối phúc thật, đó là hạnh phúc của Nước Thiên Đàng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc thật đó là hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc trên Thiên Đàng. Amen.

 

5. Hạnh phúc

Có thể một lần nào đó, chúng ta đã buột miệng khen là hạnh phúc những kẻ di chuyển trong những chiếc xe bóng loáng, những kẻ ở trong những ngôi biệt thự nguy nga, những người quyền cao chức trọng. Và quả là bất hạnh cho những người nghèo khổ, thiếu thốn mọi sự, những người cô thế bị trù dập.

Thế nhưng những lời tuyên bố của Chúa Giêsu hôm nay, hẳn phải làm chúng ta sửng sốt. Bởi vì những người được Người chúc phúc lại là những người nghèo khổ hiền lành, đau buồn, đói khát và bị bách hại. Phải chăng Chúa Giêsu chỉ là một kẻ mị dân hay là một người lập dị?

Thánh Phaolô trong bài đọc II đã suy nghĩ về thái độ của Chúa Giêsu và đã thốt lên: Những gì người đời cho là điên dại, hèn yếu lại chính là những gì Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Xa xưa trong quá khứ, tiên tri Sophonia đã loan báo về sự chở che của Thiên Chúa đối với người hiền lành và khiêm tốn. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu không thể được coi như những lời chúc phúc bình thường theo kiểu chúng ta cầu chúc cho nhau thoát khỏi cơn hoạn nạn. Lời cầu chúc có thể là thành tâm nhưng lại bất lực trong việc biến đổi hoàn cảnh của kẻ khác. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu là những lời tuyên bố, những lời hứa thực hiện, tỏ bày sự chọn lựa của Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia: Thiên Chúa đã xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.

Nghèo khó phải chăng là một thứ công nghiệp đáng được khen thưởng? Không phải vậy, có thể trong ngôn ngữ tôn giáo, chúng ta đã nói nhiều đến thưởng phạt, nhưng Chúa Giêsu lại muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa chọn người nghèo khổ vì chính hoàn cảnh thua thiệt đó đối với Chúa lại là hoàn cảnh thuận lợi để Ngài  thi thố lòng yêu thương quảng đại của Ngài.

Điều Thiên Chúa muốn nhắm tới chính là mối liên hệ tình nghĩa giữa Ngài và con người. Ngài muốn cho chúng ta nhận ra rằng chính Ngài là nền tảng hạnh phúc đích thực và bền chắc của con người. Chúa Giêsu không phải chỉ dạy chúng ta một lối sống luân lý để rồi Thiên Chúa sẽ dựa vào việc người ta có sống hay không sống theo mẫu mực luân lý ấy mà thưởng hay phạt. Chúa Giêsu là Đấng trước hết thực hiện chương trình cứu chuộc, công trình giải phóng, đem lại hạnh phúc đích thực cho con người, và con người được mời gọi sống xứng đáng ơn huệ đã được ban cho.

Chúng ta hãy thực thi tinh thần của Chúa để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh nhận niềm hạnh phúc Chúa đã hứa ban.

 

6. Khó nghèo.

Phật Thích Ca đã xác quyết trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: Vạn sự vô thường, vạn sự khổ. Nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ đau. Sinh, bệnh, lão, tử. Con người sinh ra để rồi ốm yếu, già lão và cuối cùng là chết chóc. Rõ thật đời là bể khổ mà mỗi người là một cánh bèo trôi dạt trên đó.

Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện trên đất Palestin, đã tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: Phúc cho ai có tâm hồn khó nghèo, vì Nước Trời là của họ.

Một người bị mang tiếng là bi quan yếm thế, còn người kia thì lại bị coi là không tưởng, lạc quan thái quá. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn. Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ cũng như sức lực để nghiên cứu, suy tư và bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Chúa Giêsu. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh về hai bài giảng đó. Tuy nhiên, chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách tiên tri ấy. Vì thật ra, cả Đức Phật lẫn Chúa Giêsu, đều không chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình.

Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân nhu, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Chúa Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất và sự sống trong cái chết. Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Ngài không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Chúa Giêsu cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, thánh Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ “có tâm hồn” vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người. Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ cũng như trong thời ở khách sạn năm sao, vẫn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy và ngược đời: nhiều người có đủ điều kiện để hạnh phúc mà thực tế lại đau khổ khôn lường. Còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.

Thực ra, ai cũng biết rằng nghèo không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh nhân, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Đó chính là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận đau hkổ, yêu thích sự chính trực, thương xót anh em đồng loại, trong sạch và xây dựng hoà bình.

Thực vậy, những đức tính trên đây là những đức tính người nghèo của Thiên Chúa, theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa, biết sống cho Ngài và cho anh em đồng loại. Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn sống trong tình liên đới với anh em. Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.

Nói theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hoà điệu giữa lòng mình với lòng trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống cho hợp lòng người và lấy lòng trăm họ làm lòng mình.

Trong tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.

 

7. Chúa Nhật 4 TN A

Phụng vụ hôm nay đọc lại cho chúng ta nghe bài giảng đầu tiên của Chúa Giêsu mà người ta quen gọi là bài giảng trên núi hay bài giảng về tám mối phúc thật. Đây là bản tổng hợp xúc tích nhất của Tin mừng Đức Kitô. Và “Tám Mối Phút Thật” chính là nền tảng căn bản nhất của “Bài Giảng Trên Núi” đó.

Hiến chương Nước Trời là một trong năm loạt bài diễn văn được Chúa Giêsu long trọng tuyên bố trên núi. Ở trên núi chứ không phải ở đồng bằng như trong Tin mừng Luca, điều đó cho thấy dụng ý thần học của thánh sử Mátthêu. Thật vậy, hình ảnh này giống như Môsê ngày xưa trên núi Sinai lãnh nhận lời Giavê Thiên Chúa để ban lại cho dân Israel. Chúa Giêsu là Môsê mới. Ngày hôm nay,  Chúa Giêsu – Lời của Thiên Chúa, truyền lại cho dân Israel mới, mà các môn đệ là những đại diện, những mối phúc làm kim chỉ nam cho hết những ai mưu tìm Nước Thiên Chúa.

Thánh sử Mátthêu nhấn mạnh đến sự khó nghèo về tinh thần hơn là sự thiếu thốn về tiền bạc, vật chất. Người khó nghèo về tinh thần không cho phép mình sinh ra kiêu căng, ỷ lại vào tiền của, nhưng luôn hướng mình đến kẻ khác và nhất là trông cậy vào Thiên Chúa. Mátthêu dùng từ ngữ “nghèo khó” mang chiều kích tôn giáo như được nói đến trong Cựu ước để nói đến những người nghèo khổ khiêm tốn biết chạy đến Chúa, chỉ trông cậy vào Chúa mà thôi.

Hai mối phúc về “hiền hoà” và “ưu phiền” được nhắc đến không phải do bản tính mà là do hoàn cảnh của xã hội hoặc tôn giáo tạo nên. Chúa Kitô là Đấng “hiền lành và khiêm nhường”, chính vì thế Người cũng muốn chúng ta noi gương của Người, sống khiêm nhường. Cũng vậy, người ưu phiền lo lắng được khuyên hãy trở nên như những người nghèo sống trong tình trạng không có niềm vui. Người nghèo lo lắng cho tình trạng sống còn của mình như thế nào thì “người nghèo của Tin mừng” cũng lo cho tội lỗi và những hậu quả của nó gây ra cho mình và cho nhân loại như vậy để chỉ biết chạy đến nguồn an ủi duy nhất nơi Thiên Chúa.

Ba mối phúc tiếp theo nói đến sự chính trực, lòng xót thương và tâm hồn trong sạch được xem như những người vâng theo thánh ý Chúa, thực thi công bình bác ái, chu toàn mọi giới luật của Thiên Chúa và với tha nhân. Lòng ngay thẳng và đời sống nhân đức đưa con người đến việc thực thi lòng bác ái yêu thương cách vô vị lợi nhằm kiến tạo hoà bình cho nhân loại.

Những mối phúc kể trên chính là những giá trị Nước Thiên Chúa dành cho những ai hết lòng tuân giữ và đem ra thực hành. Tuy nhiên, những giá trị đó luôn gặp phải những chướng ngại, những đối nghịch và bách hại. Chính vì thế Chúa Giêsu muốn đưa hai mối phúc sau cùng về sự bách hại như là hiệu quả tất yếu của những con người trung thành và bước theo đường chân lý. Chấp nhận những giá trị nước Thiên Chúa nghĩa là chấp nhận việc đi ngược lại với những giá trị thông thường vốn được xem là chuẩn mực cho cuộc sống mà con người đặt ra.

Bước theo Chúa Giêsu, người Kitô sẽ bị bách hại vì sống công chính, sống ngay thẳng và thực thi công bình bác ái chính là những người hoạ lại hình ảnh của mối phúc thứ nhất, họ phải gánh chịu sự đau khổ… Như thế, người chịu bách hại vì danh Chúa Kitô cũng chính là người nghèo thật sự và phần thưởng cho họ chính là Nước Trời mai sau.

Hiến chương Nước Thiên Chúa thực chất là những tin vui mà Thiên Chúa muốn dành cho những ai sống tinh thần nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, công chính, biết xót thương, trong sạch, mưu tìm hoà bình và chịu bách hại vì danh Chúa Kitô. Ai tiếp nhận mối phúc này, chắc chắn Nước Trời sẽ là phần thưởng cho họ ngay tại thế này.

 

8. Hãy vui mừng.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Nim

Đời sống mỗi người đều có những chỗ khuyết, chỗ hụt, những mất mát, yếu kém không thể bù đắp, nên ở đời có vẻ chẳng ai được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc hạnh phúc nhất, cũng có điều làm bận lòng.

Trong bài giảng đầu tiên trên một ngọn núi, Đức Giêsu đã chỉ cho ta bí quyết để có hạnh phúc.

Hạnh phúc thực sự là quà tặng của Thiên Chúa, nhưng con người cần sống tích cực để đón nhận.

Được Nước Trời, được Đất Hứa, được thấy Thiên Chúa, được Ngài ủi an, thương xót, và làm cho no thỏa: những điều đó có nghĩa là sống thân tình với Ngài, được vui hưởng hạnh phúc viên mãn của chính Thiên Chúa.

Chỉ nơi Ngài mới có hạnh phúc trọn vẹn, vững bền.

Con người chỉ có hạnh phúc khi gắn bó với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả.

Nói cho cùng, người hạnh phúc là người biết mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha nhân.

Người có tâm hồn nghèo khó là người thật sự nghèo, chẳng có nhiều của cải hay chỗ đứng trong xã hội. Khi cảm nghiệm nỗi bất lực của mình, họ khiêm tốn mở ra và phó thác cho duy Thiên Chúa. Chính lúc đó họ thấy mình bình an, vững vàng.

Người khao khát trở nên công chính là người mong nên thánh. Nên thánh là sống theo tinh thần của cả Bài Giảng trên Núi. Nỗi khao khát không nguôi làm cho con người lớn lên. Nỗi khao khát đào sâu, để con người chứa được nhiều.

Người sầu khổ về mọi mặt sẽ được hạnh phúc, khi trong cơn đau, họ biết quay về với Thiên Chúa. Phúc cho ai thấy đau khổ của mình có ý nghĩa: đau khổ để đền tội, để phục vụ, để triển nở thiêng liêng. Ngay cả đau khổ vô lý cũng làm ta gần Đấng trên thập giá.

Người bị bách hại, lăng nhục, vu khống là người có phúc. Ngay giữa ngặt nghèo họ vẫn cảm được niềm vui (Cv 5,41), vì họ dám sống và dám chết cho Thầy Giêsu.

Người hiền lành là người có lòng nhân đối với người khác. Họ học gương hiền lành của Thầy Giêsu (Mt 11,29), không lấy oán báo oán khi mình bị xúc phạm (Mt 21,5).

Người có lòng thương xót là người biết mở ra để cảm thông, đau nỗi đau người khác và chia sẻ những gì mình có.

Người có tâm hồn trong sạch là người ngay thẳng, thật thà, không giả hình, nhưng làm với ý hướng trong sáng. Chính sự trong sáng của thân xác và tâm hồn sẽ làm người ấy dễ gặp được khuôn mặt Thiên Chúa.

Người xây dựng hoà bình là người gieo an hoà khắp nơi, trong gia đình, ngoài xã hội và giữa các dân tộc. Họ giải toả những bất đồng, tháo gỡ những tranh chấp. Họ coi mọi người là anh em, con cùng một Cha.

Thời nào con người cũng lao đao đi tìm hạnh phúc.

Phúc cho ai không khép lại để tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết mở ra để sống cho Chúa và tha nhân.

Gi Ý Chia S

Có lần bạn đã sống một trong những mối phúc, và bạn đã có một kinh nghiệm không quên. Xin chia sẻ kinh nghiệm đó.

Bạn nghĩ gì về bạn? Nói chung bạn có phải là một người hạnh phúc không? Điều gì làm bạn đau khổ?

Cu Nguyn

Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi. Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người – cũng như con – đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.

Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.

Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.

Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng.

Và con về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

 

9. Nẻo về hạnh phúc – Lm. Ignatiô Trần Ngà

(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

Thi đàn Trung Quc t c chí kim ni lên mt tên tui ln, đó là nhà thơ Lý Bch, thi Thnh Đường (701 – 762). Ông t xem mình như tiên ông b lưu đày xung thế. Ông ưa sng kiếp lãng du, say mê v đẹp đất tri, v đẹp sông núi, trăng sao…

Theo truyn tng nhân gian, vào mt đêm trăng t, Lý Bch buông thuyn xuôi theo giòng sông Thái Trch lp lánh ánh trăng đêm. Ông đàn hát ngâm vnh và ung rượu thưởng thc trăng.

Càng v khuya, men rượu nng bc lên càng làm ngây ngt lòng thi sĩ. Sông nước, cnh vt lúc y càng huyn o nên thơ. Thi nhân cm thy mình như đang lc vào bng lai tiên cnh. Mnh trăng diu huyn in hình dưới làn nước lung linh như đang gi mi ông tao ng.

Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài mình qua mn thuyn, cúi tht sâu xung nước để ôm ly vng trăng mà ông say đắm lâu nay.

Than ôi! Ông đã b hình bt bóng và giòng sông oan nghit đã kết liu đời ông.

Trên cao, vng trăng tht như đang mm cười chế giu ông.

Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta. Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là Cội Nguồn của hạnh phúc.

Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ bóng trăng trên các ao hồ khe suối.

Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa) toả xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.

Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những tạo vật chóng tàn.

Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất… rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.

Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.

Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.

Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng. Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.

Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian… nhưng Anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới là ‘Vầng Trăng’ thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi. Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài”.

Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh Phúc đích thật.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:

* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban…

* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người…

* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác…

* Khao khát trở nên người công chính,

* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người…

* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công…

* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau…

* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm…

Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.

Bí quyết vào Nước Trời đã được giải bày.

Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không.

 

10. Hạnh phúc thật

Khi đứa trẻ vừa được sinh ra thì việc làm đầu tiên là khóc. Nên người ta gọi là cất tiếng khóc chào đời. Tiếng khóc là báo hiệu cho cuộc đời sẽ gặp khó khăn và gian khổ. Vì thế mà Phật giáo nói “đời là bể khổ”. Cho nên trong cuộc sống con người luôn đi tìm hạnh phúc để tránh đau khổ. Thế nhưng họ vẫn không có được hạnh phúc thực sự mà vẫn gặp đau khổ.

Vậy hạnh phúc thật là gì? Đó là chủ đề mà tôi muốn chia sẻ hôm nay.

Người ta thường nghĩ hạnh phúc là: giàu có, thành đạt, mạnh khoẻ… Đối với mỗi người thiếu nhi đó là: quần áo đẹp, đồ chơi, bánh ăn, chơi games, được khen ngợi… Nhưng trong thực tế những điều trên chưa chắc đã mang lại hạnh phúc cho con người, bởi người ta nói người giàu cũng khóc là thế.

Theo định nghĩa: Hạnh phúc là sống đúng bản chất của mình. Chẳng hạn như: Con chim chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim, dù nó có được sống trong lồng vàng đi nữa vẫn không hạnh phúc; hay con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội tự do như cá. Như thế còn con người thì sao? Bản chất của con người là được Thiên Chúa tạo dựng, nên con người chỉ hạnh phúc khi được trở về với cội nguồn của mình là chính Thiên Chúa. Có nghĩa là được thông phần bản tính với Thiên Chúa (2 Pr 1,4) và sự sống đời đời (x. Ga 17,3). Để có hạnh phúc thật thì mỗi người chúng ta phải sống 8 mối phúc này hay còn gọi là bản hiến chương Nước Trời.

Có thể nói mối phúc thứ nhất là ý chính của bản hiến chương này. Đó là “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.

Câu hỏi đặt ra là tại sao Chúa Giêsu lại nói nghèo là phúc? Đúng ra nghèo là điều vô phúc hay bất hạnh mới phải chứ! Thưa ý Chúa Giêsu nói tinh thần nghèo khó đây được hiểu theo 2 nghĩa:

Thứ nhất khi có tâm hồn nghèo khó thì ta không bám víu vào vật chất hay không bị ảnh hưởng bởi cuộc sống ở trần gian này. Như tiền tài, danh vọng hay lạc thú… Như trong câu chuyện “Người thanh niên có nhiều của cải” trong Tin Mừng theo thánh Matthêu kể lại: sau khi anh ta đã thực hành đầy đủ những gì Chúa Giêsu yêu cầu đó là yêu Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình là điều rất tuyệt vời, thế nhưng khi Chúa Giêsu yêu cầu anh ta đi thêm một bước nữa là bán hết tài sản để cho người nghèo thì anh ta liền quay mặt bỏ đi (x. Mt 16, 19-22). Rõ ràng anh ta còn bám víu vào vật chất mà chưa có chọn Chúa.

Đối với mỗi người chúng ta thì sao? Khi không bám víu vào những gì ở trần gian đó là sống đơn sơ, giản dị và khiêm tốn. Như khi ở trong gia đình giàu có hay giỏi giang hơn các bạn thì cũng không kiêu căng, tự mãn, đua đòi, hơn thua hay coi thường các bạn nghèo khổ và dở hơn mình; ngược lại dù phải ở trong gia đình nghèo khổ hay kem cỏi hơn các bạn thì cũng không mặc cảm, tủi thân, đòi hỏi và trách móc cha mẹ. Đó là những biểu hiện ta đang sống tinh thần nghèo khó.

Thứ hai khi ý thức sống tinh thần nghèo khó là như thế thì ta sẽ đi tìm Chúa, thực hành Lời Chúa và luôn phó thác vào Chúa. Như trong đoạn Phúc Âm theo thánh Luca nói về “hạnh phúc thật sự” kể lại: khi Chúa Giêsu đang rao giảng thì có người phụ nữ thưa rằng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Vì bà nghĩ rằng một người mẹ có người con tài giỏi như vậy thì thật là có phúc. Nhưng Chúa Giêsu đã sửa ngay: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11, 28).

Tóm lại: để có hạnh phúc thật mỗi người luôn biết lắng nghe và thực hành lời Chúa. Nhất là không làm điều gì tội lỗi mất lòng Chúa. Có như thế chúng ta mới có được hạnh phúc thật như lời Chúa hứa trong bài Tin Mừng hôm nay: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Amen.

 

11. Hạnh phúc khi trao ban – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Khi nhìn về kiếp nhân sinh, với những thăng trầm nổi trôi của đời người, đầy những đau khổ, bất hạnh lầm than, đại văn hào Nguyễn Du đã nói rằng:

“Trăm năm trong cõi người ta

Ch tài ch mnh khéo là ghét nhau

Tri qua mt cuc b dâu

Nhng điu trông thy mà đau đớn lòng”

Có người còn bi quan bo rng:

Đời vui sao chng thy cười –

Sinh ra chng cười li khóc oe oe”.

Phần nhiều trong văn học, thơ ca hay kịch nghệ, người ta đã thành công khi khai thác chủ đề bất hạnh của đời người: cái đói, cái nghèo, cái khổ đau của bệnh tật, cái khổ đau của bất công và áp bức đã gây nên biết bao nỗi oan khiên, bất trắc cho thân phận con người. Những bất hạnh mà ta thường gặp không chỉ đổ xuống trên những thân phận nghèo đói, túng thiếu mà còn đổ xuống trên những kẻ có tiền, có của, có địa vị nhưng lại không tìm được hạnh phúc ở trong cuộc sống của mình. Dang vọng, tiền tài xem ra cũng không quý bằng hạnh phúc ở trong đời sống hằng ngày. Cuộc đời không có hạnh phúc là cuộc đời bất hạnh tựa như cây xanh thiếu lá nên trơ trụi và cằn khô. Vì “Cây xanh thiếu lá nó cũng trơ trơ – Biết mình thế này thà đừng sinh ra”. Vì sống là đi tìm hạnh phúc. Sống mà không có hạnh phúc thì cuộc đời như đã mất. Hạnh phúc là nỗi khao khát, là niềm ước mơ của mọi người. Từ những em bé bán vé số, đánh giầy, thu lượm ve chai cho đến những em sinh ra trong một gia đình giầu sang vẫn mang trong mình một khao khát được hạnh phúc. Từ những người quyền thế, giầu có lắm kẻ đón người đưa đến những con người xấu số bị bỏ rơi, khinh bỉ bên lề đường vẫn ao ước một khung trời hạnh phúc cho riêng mình.

Tựa như cuộc đời có nhiều nẻo đường khác nhau thì hạnh phúc cũng có nhiều cách khác nhau. Có hạnh phúc của người mẹ vừa sinh con, dù rằng bà phải chịu nhiều đau đớn thể xác. Có hạnh phúc của những người làm cha làm mẹ khi nhìn thấy những đứa con lớn khôn từng ngày, dù phải cơ cực lầm than, hay mưa nắng dãi dầu nơi nương rẫy, phố chợ. Có hạnh phúc của những con người đang quên mình vì tha nhân, vì bạn bè, dù rằng phải mang tiếng nợ đời “Ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng”. Có hạnh phúc của những đôi vợ chồng trẻ đang yêu nhau nơi túp lều tranh, dù rằng phải chịu cảnh đói khổ cơ hàn nhưng vẫn tha thiết yêu nhau: “Tay bưng bát muối chấm gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng xa nhau”. Thực vậy, có nhiều người vẫn chủ trương rằng: sống có ích cho tha nhân mới là cuộc đời đáng yêu, đáng sống. Có lẽ ở đời, chẳng ai thích đau khổ nhưng nhiều người vẫn chấp nhận bước vào khổ đau, vì đó chính là phương thế để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu.

Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một phương thức để đạt được hạnh phúc. Con đường hạnh phúc của người môn đệ Chúa không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp của sự hy sinh, của quảng đại dấn thân vì lợi ích của tha nhân. Vì phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình.

Như vậy, hạnh phúc của người môn đệ không hệ tại ở những cái mình có mà ở những cái mình dám từ bỏ vì Chúa và vì tha nhân. Vì Chúa mà ta từ bỏ mọi thứ tham lam, ích kỷ và bất chính để ta sống thanh thoát khỏi những đam mê của cải và lạc thú. Vì Chúa mà ta bỏ đi cái tôi ghen tương, nóng giận, để gìn giữ sự hoà thuận với những người mà chúng ta đang sống. Vì Chúa mà chúng ta dấn thân cho công lý được triển nở, cho hoa bác ái được toả hương, cho an bình được ngự trị. Vì Chúa mà chúng ta xả thân giúp người giúp đời mà không cần so đo tính toán thiệt hơn. Từ bỏ chính mình để ta hướng tới tha nhân. Có từ bỏ chính mình thì ta mới nghĩ tới thiện ích của tha nhân. Từ bỏ những quyền lợi, những nhu cầu của bản thân để chúng ta trao hiến những điều tốt đẹp nhất cho tha nhân.

Người ta bảo rằng ở bên Palestina có hai biển hồ là Biển Chết và biển hồ Galilêa, cả hai biển hồ này đều đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Thế nhưng, nơi Biển Chết thì không có một sự sống nào có thể tồn tại. Vì Biển chết đón nhận nhưng không trao ban, nó giữ lại cho riêng mình, nên nguồn nước trở thành mặn chát và độc hại. Ngược lại, tại biển hồ Galilêa cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muôn thú và con người.

Đời người cũng tựa như biển hồ, nếu chỉ biết giữ riêng cho mình tất cả mọi sự nhận được từ Thiên Chúa. Sự sống trong họ rồi cũng chết dần chết mòn như nước trong lòng Biển chết. Thật hạnh phúc cho ai biết trao ban. Cuộc sống sẽ mãi lan toả và dồi dào sức sống như biển hồ Galilêa. Vì ai có thì được cho thêm, và vì chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.

 

12. Mối phúc thật – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Khi nghe bài “Phúc Thật Tám Mối” trên đây, nhiều người ngạc nhiên sửng sốt. Những hạnh phúc Chúa hứa ban sao quá khác với những quan niệm về hạnh phúc mà ta thường có. Người ta ai cũng mong có nhiều của cải, làm ăn phát tài. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người nghèo”. Người ta ai cũng mong được khôn ngoan, được có uy quyền, được người khác nể phục. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người hiền lành”. Người ta ai cũng mong được an bình, sống thoải mái, vô lo. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho các con khi các con bị bắt bớ”.

Chúng ta ngạc nhiên, không hiểu Lời Chúa, vì chúng ta có quan niệm sai lầm về hạnh phúc và về đạo.

1) V hnh phúc, chúng ta thường tưởng lầm rằng cứ có tiền bạc, có địa vị, có tình yêu là có hạnh phúc. Nhưng không phải như vậy. Không thiếu những người giàu tiền bạc, có địa vị cao, nhưng luôn bất hạnh.

Marilyn Monroe, nữ minh tinh thần thoại của thế giới phim ảnh là người có sắc đẹp mê hồn, được mọi người tôn thờ, và chắc chắn không thiếu tiền bạc. Thế mà nàng phải sống cuộc đời cô đơn buồn thảm. Sau cùng phải tự kết liễu đời mình trong buồn tủi, lo âu. Giờ nhắm mắt không có một người yêu bên cạnh.

Ngày nay xuất hiện nhiều “Tây ba lô”, những người nước ngoài ăn mặc thô sơ, vai đeo ba lô, đi gặp gì cũng ăn, ngủ bờ ngủ bụi. Tại sao họ không chọn ăn mặc chải chuốt, ngủ nghỉ trên chăn êm nệm ấm trong những khách sạn sang trọng? Thưa vì họ thích đơn sơ, thích khổ cực, thích phấn đấu, thích sống với thiên nhiên. Đó là hạnh phúc của họ.

Tiền bạc, tiện nghi, danh vọng, địa vị, tình yêu chắc chắn làm cho đời sống dễ chịu hơn. Nhưng vẫn chưa phải là hạnh phúc đích thực.

2) V đạo, chúng ta lầm tưởng rằng điều cốt yếu của đạo là giáo lý. Thưa không phải như thế. Đi đạo không phải là đi theo một giáo lý. Đi đạo là đi theo mt người. Điều cốt yếu của đạo là gặp được Chúa. Giáo lý chỉ là phương tiện giúp ta gặp được Chúa. Chúa mới là đích của đời ta. Chúa chính là hạnh phúc đích thực. Gặp được Chúa rồi, linh hồn ta sẽ toại nguyện, không còn mơ ước điều gì khác.

Thánh Augustinô khi còn tuổi trẻ đã chạy theo dục vọng, đi tìm lạc thú trong những buổi ăn chơi trác táng, những cuộc tình đắm mê. Ngài đã bỏ đạo, đi theo bè rối, nhưng chẳng thấy mãn nguyện. Một hôm nghe thánh Ambrôsiô giảng, Ngài đã được ơn thống hối ăn năn. Ngài trở về với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa rồi, ngài đã thốt lên một lời bất hủ: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

Hiểu như thế rồi ta sẽ thấy Tám Mối Phúc Thật không có gì bí ẩn. Đó chính là tám nét vẽ nên chân dung Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng giàu sang đã tự nguyện sống cuộc sống của một người nghèo. Sinh ra không nhà. Sống không nhà. Chết cũng không nhà.

Chúa Giêsu đầy quyền năng. Người đã chế ngự được sóng gió, xua đuổi ma quỷ, lại sống rất hiền lành khiêm nhường. Bị kết án oan ức, bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị giết chết, Người vẫn im lặng chấp nhận.

Chúa Giêsu có một trái tim xót thương, sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi, sẵn sàng giúp đỡ người hoạn nạn, cứu chữa người tật nguyền.

Chúa Giêsu đem đến cho ta niềm bình an, hoà giải ta với Thiên Chúa và với nhau.

Chúa Giêsu đã bị bắt bớ, giết chết vì rao giảng Tin Mừng.

Tám mối phúc chính là con đường Chúa đã đi qua. Là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu. Đi vào con đường ấy, ta chắc chắn gặp được Người. Sống theo con đường ấy, ta trở nên giống như Người. Hoà tan mình vào con đường ấy, ta sẽ trở nên một với Người. Khi ta từ bỏ hoàn toàn ý riêng, để Người hoàn toàn chiếm đoạt, ta sẽ đạt tới hạnh phúc, hạnh phúc đích thực, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc vĩnh cửu.

Ly Chúa Giêsu, xin hướng dn con theo đường li ca Chúa. Amen.

KIM ĐIM ĐỜI SNG

1) Đối với bạn, hạnh phúc là gì?

2) Có bao giờ bạn cảm được niềm vui khi sống trong những mối phúc mà Chúa Giêsu loan báo chưa? Nếu có, xin chia sẻ với anh chị em.

3) Những đau khổ của bạn thường do những nguyên nhân nào?

 

13. Sống cuộc đời thành tựu.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Danh từ “hạnh phúc” (dùng trong Phúc Âm hôm nay) phải hiểu là sự thành công cuối cùng của con người khi nó được đặt trong tình nghĩa với Chúa. Nói thành công, không những là nói về bình diện những khát vọng tự nhiên của trí khôn và cõi lòng, song còn về bình diện những khả năng mới mẻ mà con người nhận được khi được nâng lên trạng thái siêu nhiên. Sống bất diệt là một ước vọng tự nhiên; thấy Thiên Chúa là một ân huệ siêu nhiên. Đừng quên cái viễn tượng hạnh phúc cuối cùng trong Chúa, khi đọc Bài Giảng Trên Núi, bài Tám Mối Phúc Thật. Nếu các ‘mối phúc’ bị giản lược vào bình diện tự nhiên (chiều ngang ta sẽ không thể hiểu nổi nữa).

Nếu hướng về Nước Tri, chúng trở thành tuyệt diệu. Trong các bản văn của Cựu Ước nói về Đấng Cứu Thế, những kẻ xấu số đều được ưu ái, vì nỗi nghèo khổ và hèn mọn của họ khiến họ cởi mở đón nhận Thiên Chúa. Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu mô tả một thái độ nội tâm và một hoàn cảnh bên ngoài, tự nó đã làm cho Chúa thương tình, ta hãy ghi lại một vài nhận xét về tuyệt tác này.

1) Các ‘mối phúc’ bắt nguồn từ Thiên Chúa song chúng không bao hàm sự thiếu tin tưởng ở con người, mà là vượt khỏi con người. Có nghĩa là Chúa xem con người có khả năng sống tốt lành, công chính, trong sạch và an hòa. Người chỉ vẽ cho biết phải dùng phương tiện nào và đâu là chỗ chúng được hoàn thành. Phương tiện nằm ở điểm này là người môn đệ Đức Kitô sống trong mối liên lạc với Chúa mình. Đó là ý nghĩa của mấy tiếng ‘vì Ta’. Sự thành tựu được thực hiện đầy đủ ‘trên trời’. Vậy các mối phúc là một niềm hạnh phúc bắt đầu dưới trần gian trong nỗ lực đau đớn và hoàn thành trên trời trong sự chiếm hữu trọn vẹn. Ngay trên thế gian này trong mối liên lạc với Đức Kitô, con người phải khởi sự dùng các phương tiện để xây dựng niềm vui bất diệt của mình.

2) Trong các mối phúc, thì sứ điệp nào đang cần thiết nhất cho thời đại ta? Các mối phúc làm thành một toàn thể, không thể coi thường một mối nào mà không làm hại đến tất cả. Ngược lại, tha thiết với một mối là tha thiết với tất cả.

Có lẽ trước não trạng hiện đại, ta có quyền lưu tâm cách riêng đến lòng trong sạch. Đây không phải là sự ‘vắng mặt’ của tội lỗi mà thôi nhưng còn là một phẩm chất của trí tuệ, linh hồn và con tim. Đây nói đến sự ngay thẳng, sự thành thực ở trình độ trí tuệ. Trí khôn trong trắng thì không tự xây dựng nên một hệ thống tư tưởng nào để rồi đặt nó vào giữa mình và thực tại. Các hệ thống duy tâm đều không tinh ròng. Ví dụ thuyết duy khoa học, thuyết mác-xít.

Tấm lòng trong sạch chỉ sự trong sáng của cái nhìn nội tâm, cái nhìn làm cho ta khám phá ra Thiên Chúa trong mình và trong các tạo vật. Muốn thế, phải nỗ lực xây dựng sự trong trắng luân lý và nhất là phải có ý chí hiến thân mình cho Chúa trong sự đơn sơ của đức tin và tình yêu. Cõi lòng trong trắng gặp thấy khắp nơi và trong mọi sự chính Đấng mà tình yêu nó tìm kiếm. Ta nên biết nhìn Chúa khắp nơi, trong các biến cố và ngay trong một thế giới mà ta tuyên bố là hư hỏng, nhưng được Thiên Chúa cứu vớt.

 

14. Mối phúc thứ nhất.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Người đàn ông chán đời đứng nhìn xuống giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông ta đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời bất hạnh không còn lối thoát nào nữa. Ông ta đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường. Ông đã đi đây đi đó, đã tìm lạc thú trong những cuộc vui chơi, đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng nỗi chán chường càng thêm chất ngất.

Ông ta thử thời vận lần cuối bằng một cuộc hôn nhân. Nhưng không có người đàn bà nào ở với ông được vài tháng. Ông ta đòi hỏi quá nhiều, mà lại chẳng biết nghĩ đến ai cả. Ông ta nhận ra rằng ông đã chán chường và chẳng ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có giòng sông may ra mới đem lại cho ông sự thanh thoát.

Ông ta chưa kịp hút xong điếu thuốc thì thấy có người hành khất đi qua cầu. Con người rách rưới đó đứng nhìn ông và đưa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán đời không ngần ngại rút cả ví tiền trao cho người hành khất và bảo:

– Thôi, ông cầm lấy cả đi. Tôi đâu cần tiền làm chi nữa.

Người hành khất cầm lấy chiếc ví, nhìn thẳng vào mắt kẻ chán đời và nói với giọng vừa ôn tồn vừa nghiêm nghị:

– Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế này. Tuy là một người đi xin ăn, nhưng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Tôi cũng không muốn nhận tiền của một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ ví tiền mà đem qua thế giới bên kia với ông.

Nói xong, người hành khất ném cái ví xuống giòng nước rồi lặng lẽ bỏ đi, để mặc kẻ chán đời với nỗi đắng cay chua xót đang gặm nhấm cõi lòng.

Đã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn chưa muốn kết liễu đời mình. Ông ta nhìn theo người hành khất đang từ từ mất dạng. Tự nhiên, ông ta không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt ví tiền trao tặng lại cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông ta biết trao tặng cho ai bất cứ điều gì. Giờ phút này, ông ta muốn mở rộng tâm hồn, giang rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống.

Anh chị em thân mến,

Không gì buồn chán cho cho bằng một cuộc đời không định hướng. Không gì bất hạnh cho bằng một tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lo lắng tích góp cho riêng mình. Niềm vui sống chỉ có được khi ta hướng đời mình tới một cùng đích cao cả: Nước Trời hay Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đến để đem lại cho con người hạnh phúc và hạnh phúc ngay ở trên đời này. Dĩ nhiên, hạnh phúc không có nghĩa là không có đau khổ. Cho dẫu có đau khổ, nhưng cuộc sống vẫn có ý nghĩa và đáng sống nhờ niềm tin của con người vào tình yêu Thiên Chúa. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã trải qua rất nhiều đau khổ. Ngài bị chống đố, bị khước từ, và cuối cùng bị treo trên thập giá. Thế nhưng, Ngài hẳn là một con người hạnh phúc thực sự mới có thể tuyên bố: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó… Phúc cho những ai đau khổ, bị ngược đãi…”.

Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời khách sạn năm sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tối tăm, lại tràn trề hạnh phúc.

Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ. Đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái tâm, ở tâm hồn. Bởi vậy, mối phúc thứ nhất, theo Thánh Matthêu, bao gồm các mối phúc khác là “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó”. Các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Chính đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền lành, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sực chính trực, thương xót người đồng loại, trong sạch và biết xây dựng hoà bình. Thật ra tất cả những đức tính đó là đức tính của “người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê), của một “Anawim” theo truyền thống Kinh Thánh. “Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người.

Như thế, Chúa Giêsu xác nhận “Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) như ngôn sứ Sôphônia rao giảng (Bđ. 1) mới thật là người có phúc, là người may mắn, vì chính (Giavê) Thiên Chúa sẽ là hạnh phúc của họ. Nói chung, tám mối phúc thật xét theo nội dung cũng chỉ là mối phúc duy nhất: “Phúc cho những người sống tinh thần nghèo khó”.

Thưa anh chị em,

Ai trong chúng ta cũng khao khát tiền của, danh vọng, quyền thế. Chúng ta chạy theo những thứ ấy như một chiếc bóng, vì chúng không bao giờ thoả mãn được nỗi khao khát hạnh phúc vô biên trong tâm hồn chúng ta. Chúa Giêsu đến cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người giàu sang, tỷ phủ, siêu sao nổi tiếng, những nhà lãnh tụ chinh phục thế giới, những đại thiên tài… Nhưng là các kẻ nghèo khó, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hoà bình và chịu bách hại vì đức tin. Tiêu chuẩn của người đời. Nói cho cùng, tám mối phúc thật đều quy về một mối: Phúc cho ai sống như Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người trước tiên đã sống tám mối phúc này trong cuộc đời của Ngài: chẳng ai từ bỏ bản thân bằng Ngài, hiểu rõ nỗi khốn cùng của loài người, rộng lòng thương xót, thực thi thánh ý Thiên Chúa, ngay thẳng và đơn sơ, xây dựng hoà bình và cam chịu bách hại cho bằng Ngài. Vì thế, Ngài có thể nói vào lúc cuối đời: “Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui của chúng nên trọn vẹn” (Ga 17,13). Và kết thúc bài giảng tám mối phúc, Ngài nói: “Anh em hãy hân hoan vui mừng, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn lao”.

Vậy, anh chị em thân mến,

Ngay từ cuộc sống này, người tín hữu chúng ta phải tự nhận mình là những người hạnh phúc nhất. Mặc dù đang phải vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, đang cố gắng để tha thức cho những người bách hại mình, chúng ta hãy vui sướng để nhận ra mình là người có phúc, chúng ta hãy vui mừng, vì chúng ta đang đi lại từng bước của Chúa Giêsu Kitô. Và như thế thì chắc chắn “Nước Trời sẽ thuộc về chúng ta”.

 

 

15. Hạnh Phúc là Tình Yêu và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Là con người, ai cũng mong muốn hạnh phúc và nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của mỗi người. Khi con người chiều theo cơn cám dỗ của loài rắn, đó chính là lúc hạt mầm hạnh phúc không còn đủ “thiên thời địa lợi” để đơm hoa kết trái. Bất hạnh và gian dối theo về, ùa vào cuộc đời, chảy xuôi dòng lịch sử. Con người bắt đầu dệt những ước mơ, chắt chiu từng kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ, một quá khứ in đầy dấu chân hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì giữa đa đoan và trắc trở, giữa bền vững và mong manh, giữa ích kỷ và bao dung?

  1. Quan nim v hnh phúc.

Có người cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền của, nhiều vàng bạc, lúa thóc đầy kho; hạnh phúc là quyền lực, địa vị danh vọng. Có người nghĩ hạnh phúc là có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con thơ, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Có người lại quan niệm hạnh phúc là sức khoẻ, là sự bình an thư thái của tâm hồn; hạnh phúc là sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, giữa cái tôi và vũ trụ bao la.

Theo truyền thống Ấn Giáo, hạnh phúc là Sukha, đó là trạng thái giống như một bánh xe mà trong đó mọi sự đều ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hoà hợp với các thành phần khác do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là Dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.

Tần Thuỷ Hoàng cho xây vạn lý trường thành, sai người đi tìm thuốc trường sinh bất tử để mong thoả ước mơ được hạnh phúc, được sống bất tử. Với Nhà văn Philippe Delerm, hạnh phúc là điều thật đơn giản, là tổng cộng các niềm vui nhỏ gộp lại. Năm phút nằm dài trên bãi cỏ xanh nhìn mây trời lãng đãng trôi, hớp ngụm bia ngon, thưởng thức một bản nhạc hay…đều có thể làm hưng phấn, tạo được niềm vui hạnh phúc. Kim Thánh Thán, nhà phê bình Trung Hoa đã từng có 33 phút vui tinh thần mà ông cho đó là phút giây thực sung sướng trong đời. Thú vui đó là thưởng thức thiên nhiên, dưới ánh trăng non, tay bầu rượu túi thơ, cùng bạn hữu trao đổi kinh sử văn thơ, cùng uống trà để quên đi sự huyên náo của phồn hoa, lòng thấy thanh thản (x. Quan niệm về hạnh phúc, Nội san chia sẻ, số 23).

Theo Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc: Hạnh phúc là niềm vui, khi người ta vui thì hạnh phúc, khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ, rất dễ hiểu. Niềm vui là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng. Niềm vui chỉ thực sự có khi có tình yêu. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự. Và đặc biệt khi có tình yêu không ngừng được tình yêu của Thiên Chúa tiếp sức thì con ngươì ta lúc nào cũng có thể rạng rỡ tươi cười, mặc dù có khó khăn mặc dù có đau khổ, gương mặt luôn biểu lộ hạnh phúc bởi vì lúc nào trái tim cũng dào dạt yêu thương. (x.Bài giảng tại Nhà thờ Hạnh Thông Tây, Lễ Thánh Gia, 125 gia đình mừng kỷ niệm hôn phối, mp3, http://tgpsaigon.org).

Đối với nhạc sĩ Trần Tiến: “Hạnh phúc quá đơn sơ, đời tôi đâu có ngờ” (Lời bài ca: Mặt trời bé con). Hạnh phúc quá đơn sơ. Chỉ có con người phức tạp hóa hạnh phúc khi mơ tưởng đứng vào hàng ngũ những kẻ giàu sang phú qúy và danh giá nhất. Cuộc chạy đua tranh dành tiền tài, danh lợi, lạc thú làm người ta bất hạnh. Tham sân si chẳng bao giờ để người ta có được một giây phút hạnh phúc thật sự.

Có muôn lối nhìn về hạnh phúc tuỳ theo quan niệm mỗi người.

  1. Đi tìm v hnh phúc.

Hạnh phúc không như bông hoa có thể dễ dàng hái được ở bên đường, không giống như chiếc áo, chiếc xe đạp hay cái nhà có thể vẽ ra thành hình hài màu sắc có thể mua bán. Hạnh phúc là điều cảm thấy được trong tâm hồn, nó thuộc chiều sâu cõi lòng tuỳ thuộc thái độ sống đối với cuộc đời. Con người phải ra công chăm sóc vun trồng thì cây hạnh phúc mới đơm hoa kết trái.

Hạnh phúc chính là khát khao được sống, được hiện diện, được yêu thương. Đi tìm hạnh phúc cũng là đi tìm sự sống. Sống là tồn tại, có tồn tại mới có yêu thương, có tương quan, có sinh trưởng. Đi tìm hạnh phúc cũng như đi tìm tình yêu. Khi người ta yêu nhau, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp: “yêu nhau yêu cả đường đi; yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; yêu nhau mấy núi cũng trèo mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Hạnh phúc là tình yêu. Tình yêu nối dài những ước mơ, ước mơ thường hướng con người về hạnh phúc.

Hạnh phúc chính là sự sống và là tình yêu. Tình yêu và sự sống như đôi cánh đưa con người bay vào khung trời hạnh phúc.

  1. Tám mi phúc tht.

Đức Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarêch bằng câu: “Vạn sự vô thường vạn sự thường”, nghĩa là mọi sự thay đổi không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh lão bệnh tử, con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật và cuối cùng là phải chết. Đời là bể khổ, muốn có hạnh phúc, ra khỏi bể khổ, cần diệt lòng tham sân si. Khổ diệt lòng tham muốn mới thoát khỏi bến mê, khỏi u minh chốn hồng trần.

Đức Kitô trên “Núi Bát Phúc” đã thuyết giảng điệp ca hạnh phúc “Tám mối phúc thật”: Phúc cho ai… (Mt 5, 1-12).

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Đức Phật coi đời là bể khổ. Đức Giêsu nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch của tâm hồn nghèo khó .

Lm Thiện Cẩm đã nhận định rằng: Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời gian, sức lực để nghiên cứu suy tư bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Tuy nhiên, có lẽ chẳng mấy ai hiểu chính xác nội dung ý nghĩa hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra cả Đức Phật và Đức Giêsu đều không chú ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Đức Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được cái tồn tại trong cái mất mát, thấy được sự sống trong cái chết.

Điệp ca trên núi của Chúa Giêsu đã trở thành Hiến Chương Nước Trời: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành. Phúc cho ai… điệp ca vang vọng mãi ở trên núi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các môn đệ và cho nhân loại qua muôn thế hệ.

Tất cả Tám Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả;vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình;vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức. Chẳng hạn, mối phúc thứ nhất là nghèo vì người khác, sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật, còn sống nghèo để dành dụm tiền của ngày càng nhiều thì đó là trọc phú, là hà tiện chứ không phải là sống nghèo theo Tin mừng. Cái nghèo mà Đức Giêsu nói đến là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là Đức Khó Nghèo. Vì thế giữa Đức Khó Nghèo và Đức Bác Ai có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái, khó nghèo mà không bác ái thì trở thành hà tiện, hà tiện là một trong bảy mối tội đầu. Vì thế tâm hồn nghèo khó của Tin Mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp nhận mất mát thời giờ, vật chất, sức lực, của cải, tài năng vì yêu thương tha nhân, vì mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Một người có tinh thần phục vụ cao, dám hy sinh cho người khác, chắc chắn người đó sẽ được mọi người quý trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao những trọng trách. Một người như vậy thì Nước Trời trong lòng họ, tinh thần họ luôn bình an, hạnh phúc, tràn đầy niềm vui vì sống cho hạnh phúc của người khác.

Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy, những người ích kỷ suốt ngày chỉ nghỉ tới mình, tới hạnh phúc hay nổi đau của mình đều là những người đau khổ nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, không còn thời giờ để nghĩ đến mình thì những người ấy luôn luôn hạnh phúc thoải mái trong tâm hồn và thành công trong cuộc đời.

Người Kitô hữu chúng ta cần tập thói quen sống vì Chúa, vì tha nhân và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người xung quanh mình được hạnh phúc. Sống như thế không những được hạnh phúc ở đời này mà còn đời sau nữa. Đường lên thiên đàng thì nhỏ và chật hẹp,vất vả hơn đường xuống hoả ngục đầy thênh thang bóng mát. Chọn lựa theo Chúa Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.

Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người để giúp con người sống hạnh phúc. Sau khi sống lại, Người mở đường dẫn lối cho chúng ta đi về hạnh phúc viên mãn trong Thiên Chúa Tình Yêu và Sự Sống.Tin và yêu mến Chúa Giêsu là được sống hạnh phúc mỗi ngày trong niềm vui.

 

16. Sự khiêm tốn – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Truyn k: Mt hôm, vào ngày l thánh Têrêxa, mt nhà Dòng kín m ca cho bà con thân thích vào thăm. Các tín hu xóm làng cũng li dng cơ hi để vào xem nếp sng ca các n tu chuyên hãm mình cu nguyn. Mt trong s nhng người hiếu k không th hiu được lý do ca cuc đời tu trì khc kh. Có ông nghĩ bng rng: Hn đây là nhng người nghèo kh không có đủ cơm ăn áo mc. Ch có hng người xu s mi có can đảm hiến thân sng khó khăn như vy. Ri ông lân la nói truyn vi mt ch n tu đang tui xuân thì. Ch vào mt tòa nhà đồ s nm phía bên kia nhà dòng, ông nói: Này ch, giá chđược mt tòa nhà giu sang như vy, vi nhng lc thú người ta đang vui hưởng trong nhà y, ch có th hy sinh để chôn mình vào bn bc tường nhà kín này được không? Ch n tu kia giơ tay vut chiếc lúp trên đầu, nhìn ra và tr li vi mt n cười đơn sơ chân thành: Thưa ông, đó chính là nhà ca tôi.

Của cải trần gian không là cùng đích của cuộc sống nhưng chỉ là phương tiện. Sự giầu có của cải chưa chắc đã mang lại sự hạnh phúc và niềm vui an lạc cho cuộc đời. Có một điều gì đó cao quí hơn gấp bội những danh vọng, tiền bạc và thú vui trần đời. Tiên tri Sôphônia đã mở cửa dẫn chúng ta vào con đường hạnh phúc: Hãy tìm Chúa, hỡi tất cả những người hiền lành trong nước, là những kẻ tuân giữ luật Chúa; hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường, nếu các ngươi muốn được che chở trong ngày thịnh nộ của Thiên Chúa (Soph 2,3). Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và mọi sự Ngài sẽ ban cho. Tìm kiếm Chúa là nguồn sự khôn ngoan. Thiên Chúa là chủ tể của toàn thể vũ trụ bao la vô tận. Trong khi con người chỉ sở hữu một mảnh không gian nhỏ nhỏ và bị lệ thuộc hoàn toàn vào sự vận chuyển tự nhiên của không gian và thời gian. Thế mà có nhiều người dám tự đắc kiêu ngạo khoe khoang chối bỏ sự hiện hữu của Đấng Tạo Hóa.

Thiên Chúa tao dựng con người có xác hồn, có ý chí và tự do. Con người biết suy tưởng những sự cao siêu nhưng rất giới hạn. Càng suy, tâm trí con người càng chìm sâu vào biển cả mầu nhiệm cao siêu. Sự hiểu biết của tâm trí con người thật bé nhỏ và giới hạn trong mọi lãnh vực. Chỉ có những tâm hồn khiêm nhường biết nhận ra sự yếu đuối và mỏng dòn của mình mới có thể đào sâu ý nghĩa đích thực của sự sống. Sôphônia đã nhận biết giá trị của đức khiêm nhường. Thiên Chúa không ưa thích kẻ kiêu căng, Ngài lật đổ những người quyền thế: Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi, một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn, biết tin tưởng vào danh Chúa (Soph 3, 12). Sự khiêm tốn không phải là sự hèn nhát và yếu đuối, nhưng là một nhân đức. Khiêm tốn là một năng lực kỳ diệu thắng mình và thắng người. Kẻ khiêm nhu có thể đối diện được với tất cả mọi trạng huống của cuộc sống. Người biết sống khiêm hạ sẽ dễ dàng thuyết phục tâm tư của người đời.

Thiên Chúa đứng về bên những người nghèo khổ, cô đơn, khiêm hạ và chân thành. Đường lối của Chúa đi ngược lại với những tham vọng của con người. Chúa Giêsu xuống thế làm người đã chọn đi con đường nghéo khó và khiêm nhượng. Thiên Chúa cao cả hạ thân xuống cùng tận của sự khó nghèo và từ đó, Thiên Chúa đưa dẫn loài người lên chức bậc làm con Chúa. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho giáo đoàn Corintô đã diễn tả: Những điều thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi (1Cor 1, 27). Sự khôn ngoan của thế gian là tìm thỏa mãn những ước mơ, đòi hỏi và tham vọng của tâm trí để đặt con người lên làm chủ mọi loài. Đã qua bao nhiêu thế hệ, sự hiểu biết về vũ trụ và sự sống cũng chỉ như giọt sương mai.

Thánh Phaolô mời gọi như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa (1Cor 1, 31). Tự hào trong Chúa có nghĩa là tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa. Qua mạc khải, chúng ta học biết lẽ sống và cùng đích của con người và vạn vật. Câu truyện về Kinh Thánh: Một vị tuyên úy trên bãi chiến trường đã đến gặp một người lính trẻ bị thương đang ẩn núp dưới hầm. Vị tuyên úy hỏi: Anh muốn tôi đọc vài đoạn trong cuốn sách Kinh Thánh này không? Người thương binh nói: Tôi đang qúa khát. Tốt hơn hãy cho tôi một chút nước. Vội vàng, vị tuyên úy mang cho anh chút nước. Anh thương binh nói: Cha có thể đặt cái gì đó dưới đầu của tôi không? Tuyên úy cởi áo choàng, cuộn lại và nhẹ nhàng đặt dưới đầu của anh ta như chiếc gối. Bây giờ, cha có thể phủ trùm thân tôi vì tôi đang lạnh run. Tuyên úy cởi cả áo ngoài và đắp cho anh ta để giữ ấm. Anh thương binh nhìn thẳng vào mắt vị tuyên úy và nói: Nếu có bất cứ điều gì mà cuốn sách đó đã thúc đẩy một người thi hành giúp người khác những điều mà cha đã làm cho tôi, vậy làm ơn đọc lời Kinh Thánh, bởi vì tôi mong muốn được nghe lời đó. Kinh Thánh là lời của sự khôn ngoan. Nghe, đọc Lời Chúa và đem ra thực hành thì như người xây nhà trên đá tảng vững chắc.

Bài giảng trên núi nói về Tám Mối Phúc Thật là một lời mời gọi lội ngược dòng. Những điều Chúa Giêsu giảng dạy qua tâm từ bi phản ánh một sự khiêm nhu thật sự. Chúa chúc phúc cho nhưng tâm hồn nghèo khó, hiền lành, đau buồn, đói khát điều công chính, thương xót người, lòng trong sạch, ăn ở thuận hòa và chịu sự bách hại vì lẽ công chính, họ sẽ được no hưởng niềm vui của Nước Trời. Tám Mối phúc thật là Kim Chỉ Nam sống đạo và là các nhân đức cao qúy cần thực hành. Đường dẫn vào Nước Trời có rất nhiều nẻo. Mỗi nẻo đường đều cần có đức khiêm nhượng làm căn bản. Trong sự phấn đấu để nên trọn lành, tâm hồn chúng ta cần có sự kiên tâm, nhịn nhục và hạ mình. Chịu mất mát thua thiệt để chiến thắng. Người ta thường nói: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân.

Càng ở chức vụ cao, càng phải khiêm hạ phục vụ. Sự giầu có trong của cải, danh vọng và địa vị là dấu chỉ được chúc phúc. Người giầu có cần chia sẻ cho những người túng thiếu. Người giầu có của cải vật chất vẫn có thể sống tinh thần nghèo khó. Họ biết dùng của cải đời tạm này như phương tiện phục vụ. Tiền cho đi là đồng tiền có giá trị cả lượng lẫn phẩm. Chúa Giêsu phán dạy: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ (Mt 5, 3). Người nghèo dễ có tâm tình khiêm nhượng hơn, vì họ không cậy dựa vào chính họ. Người nghèo là người thấp cổ bé miệng dễ bị đàn áp và bóc lột, nên họ cần được sự bao vệ chở che và giúp đỡ. Chúa Giêsu cũng đã trải nghiệm đời sống trong cảnh nghèo. Sống khó nghèo là một nhân đức. Một trong ba lời khấn quan trọng của các tu sĩ dòng là lời khấn sống khó nghèo. Chúng ta biết khi buông bỏ được sự tham lam tiền của và danh vọng, cuộc sống sẽ thanh thản hơn. Các tu sĩ không giữ tiền bạc làm của riêng, nhưng chia sẻ đời sống cộng đoàn để cùng nâng đỡ lẫn nhau.

Sống nhân đức khiêm nhượng cũng đòi hỏi sự từ bỏ ý riêng của mình. Hãm bớt cái ‘tôi’ kiêu căng, tham lam và độc tài. Khi biết bước xuống là chúng ta đang tiến lên một bước. Hạ mình xuống, chúng ta không đánh mất mình, nhưng là cơ hội để nhận diện chỗ đứng của mình rõ ràng hơn. Kinh nghiệm thực tế, chẳng khi nào chúng ta sống khiêm tốn cho đủ. Đôi khi chúng ta nhận định để tự an ủi rằng: Nhìn lên tôi chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống tôi cũng còn hơn nhiều người. Biết rằng mỗi người đều có cá tính riêng biệt. Chúng ta không thể so sánh hay xếp loại vị thế. Sự khiêm nhường không cần thứ bậc trong phục vụ, nếu làm được việc gì giúp ích cho đồng loại, chúng ta cố gắng sẵn sàng.

Ly Chúa, đôi khi chúng con mun đến để đựơc phc v thay vì phc v tha nhân. Chúng con mun ăn trên ngi trc và ra lnh điu khin hơn là b công sc phc v. Xin cho chúng con hc biết thái độ khiêm tn để phc v tt cho anh ch em.

 

17. Đi tìm hạnh phúc

Trong dịp đầu năm, chúng ta thường cầu chúc cho nhau 365 ngày hạnh phúc. Trong những bức thư, chúng ta thường nguyện ước cho nhau gặp nhiều may mắn, thế nhưng trái chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm tay của chúng ta, vì cả chúng ta lẫn những người chung quanh không ai có đủ yêu thương và đủ quyền phép để thực hiện những điều mong ước. Bởi đó đau khổ vẫn chồng chất trong cuộc sống, đau khổ vì nghèo đói, vì bệnh tật, vì chết chóc. Đau khổ vì thất bại, vì chia ly, vì những cám dỗ đè nặng. Và hạnh phúc mãi mãi vẫn là một khát vọng chưa một lần nguôi ngoai.

Tôi còn nhớ trong cuốn giới luật yêu thương, Đức cha Bùi Tuần đã viết: Cuộc đời chúng ta là một chuyến đi, đi từ khát vọng này sang khát vọng khác. Chẳng lúc nào mà chúng ta không ước mơ, nhưng cũng chẳng có sự gì làm cho chúng ta được no thỏa. Trong mọi ước muốn to nhỏ, hình như chúng ta vẫn tìm hoài một hạnh phúc vô biên. Niềm hạnh phúc vô biên ấy là gì để rồi chúng ta lên đường tìm kiếm và đầu tư cuộc đời chúng ta vào đó?

Có người cho rng: hạnh phúc trong cuộc sống đó là sắc đẹp và vẻ quyến rũ, để rồi suốt ngày họ lo trau chuốt cho thân xác của họ. Nhưng sắc đẹp ấy tồn tại được bao lâu? Mười hay mười lăm năm là cùng, để rồi chúng ta cũng phải già nua với tuổi đời chồng chất.

Có người cho rng: Tiền bạc sẽ đem lại hạnh phúc. Nhưng thực sự có phải là như vậy hay không? Paul Getty là chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Tài sản của ông lên tới hàng tỷ mỹ kim. Tuy nhiên cũng vì thế mà hàng ngay ông nhận được cả trăm bức thư tống tiền và hăm dọa sẽ ám sát ông, để rồi ông đã phải sống trong cảnh cô đơn, như chính ông đã thú nhận: Tôi chưa bao giờ được hạnh phúc. Tôi là một kẻ bất hạnh nhất.

Có người cho rng: Địa vị và danh tiếng chính là mục đích của cuộc đời. Vậy thử hỏi những người đã có một thời vàng son, nắn giữ uy quyền tuyệt đối, như các vua chúa thời xưa, vậy bây giờ họ ở đâu? Hay thân xác họ cũng đã phải trở về với bụi đất và chìm vào quên lãng, như Nguyễn Du đã từng than thở:

– Bất tri tam bách dư niên hậu.

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

– Biết rồi ba trăm năm sau,

Nào ai còn khóc một câu thương mình.

Và sau cùng, có người đi tìm hạnh phúc trong tình yêu, thế nhưng liệu họ có được thỏa lòng ước mơ hay lại như kinh nghiệm đã diễn tả: Yêu nhau trong ba ngày, ghét nhau trong ba tháng và chịu đựng nhau suốt ba mươi ba năm…Hạnh phúc của tình yêu thì chỉ thoáng qua, những đau khổ của nó lại kéo dài trong suốt cả cuộc đời.

Vậy đối với chúng ta, niềm hạnh phúc đích thực là gì? Tôi xin thưa niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta là chính Thiên Chúa và được sống với Ngài mãi mãi trên quê trời, vì chỉ mình Ngài mới có đủ tình yêu và khả năng thực hiện mọi điều chúng ta mơ ước mà thôi. Đối với chúng ta, chỉ có một sự cần thiết, đó là tìm kiếm Chúa và cứu rồi linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.

Bởi đó đời sống chúng ta phải là một cuộc phiêu lưu đi tìm kiếm Chúa, phải là một hànhtrình đi về với Chúa. Đã là một cuộc hành trình thì phải có một hướng đi, một con đường nhất định. Con đường ấy chính là cái đạo mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta, bởi vì đạo chính là đường. Cái đạo ấy, con đường ấy được gồm tóm trong giới luật yêu thương, và cụ thể hơn được diễn tả qua tám mối phúc thật mà chúng ta vừa nghe.

Chúa Giêsu đã thổi vào tâm hồn chúng ta một luồng gió mới, đã gieo vào cõi lòng chúng ta một tinh thần mới, hoàn toàn khác biệt với tinh thần thế gian. Phúc thật tám mối là như bản hiến chương Nước Trời, gồm tóm những điều căn bản và cần thiết nhất, phải được coi như là những tiêu chuẩn hướng dẫn cho đời sống chúng ta.

Hãy thực thi tinh thần của bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, để chúng ta tìm thấy cho mình niềm hạnh phúc đích thực ở đời này và nhất là ở đời sau.

 

18. Hạnh Phúc ơi, Mi là gì?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Cái tựa đề bài viết có vẻ như là tựa đề một khúc ca, một bản tình ca. Hẳn nhiên không phải vô tình nhưng xin thú thực là có chủ ý. Kitô hữu chúng ta, nếu là người trưởng thành và được “xem là ngoan đạo” thì chắc chắn thuộc nằm lòng kinh “phúc thật tám mối”. Mẹ Giáo hội đã minh nhiên khẳng định rằng “tám mối phúc” chính là bản Hiến Chương Nước Trời”. Dưới một góc độ nào đó thì bản Hiến Chương cũng gần tương tự với bản Hiến Pháp của một quốc gia. Chúng ta dễ dàng đồng thuận với nhau về tầm quan trọng cũng như vị trí, vai trò tối thượng của bản Hiến Pháp trong việc định chế các luật lệ để điều hành các tổ chức, sinh hoạt của một đất nước. Vị trí, vai trò của bản Hiến Chương trong các tổ chức xã hội lớn bé cũng có tầm quan trọng không thể phủ nhận, cho dù trong thực tế, có thế lúc này, lúc kia, nơi này nơi nọ, việc tuân thủ không được chặt chẽ và nghiêm túc.

Một ngộ nhận thường thấy khi đề cập đến các mối phúc của Tin mừng đó là người ta dễ bị cám dỗ tìm cách giải thích, biện luận và minh chứng vì sao khó nghèo là có phúc, vì sao sầu khổ là có phúc… Trong khi đó hạnh phúc thật mà Chúa Kitô loan báo không ở cái vế đầu của câu nói mà ở vế sau. Để hiểu rõ điều này xin đan cử câu chuyện đã từng xảy ra về một ông lão nghèo hành nghề bán vé số kiếm kế sinh nhai bỗng nhiên thành tỉ phú. Một ngày kia, vé số bán không hết, ông lão mệt quá nên không đem số vé dư trả lại đại lý. Ai ngờ có trong số vé dư ấy có một cặp mười lại trúng giải độc đắc. Người ta bèn nói rằng ông lão bán vé số có phúc vì trúng số độc đắc bạc tỉ. Như thế cái được gọi là có phúc không phải ở vế “làm nghề bán vé số” hay ở vế “không trả lại số vé không bán được” mà ở nơi vế “trúng giải độc đắc bạc tỉ” kiểu như trên trời rơi xuống.

Vậy chúng ta cần khẳng định rằng hạnh phúc thật chính tình trạng được ở trong Nước Trời, được có Nước Trời làm gia nghiệp, được Thiên Chúa ủi an, thương xót, được nhìn thấy Thiên Chúa, được gọi là con Thiên Chúa, được Thiên Chúa ân thưởng trên trời, nghĩa là các vế thứ hai của các mối phúc. Các vế thứ nhất của các mối phúc không phải là những điều kiện để có hạnh phúc, nhưng chỉ là những tình trạng được ban phúc, những tình trạng đã đón nhận hạnh phúc được ban.

Để hiểu điều này chúng ta cần đối chiếu với Tin Mừng thánh Luca. Các nhà nghiên cứu Tin Mừng đồng thuận với nhau rằng thánh sử Luca tường thuật các dữ kiện liên quan đến các mối phúc thì sát thực tiển hơn so với Tin mừng thánh Matthêu. “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: ‘Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng…”(Lc 6,20-23).

Hạnh phúc thật là Nước Trời, là chính Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã đoái thương ban hạnh phúc ấy cho tất cả mọi người, cho cả những người mà dưới con mắt thế gian hay theo nếp nghĩ của con người là bất hạnh là kém cõi là ngu dại, là kém phận… Thực tế cho thấy khi Chúa Kitô đi rao giảng tin mừng, thì rất nhiều người vốn bị xem như là bé phận, hèn mọn đã biết mở rộng tâm hồn đón nhận ân phúc Người ban. Trái lại, có nhiều người mà thế gian cho là may mắn thì không nhận được ân phúc ấy, nói đúng hơn là họ đã chối từ hạnh phúc được ban. Thánh sử Luca sau khi tường thuật những lời chúc phúc của Chúa Kitô thì tường thật tiếp liền những lời cảnh báo về các mối họa với những người giàu có, những người đang được no nê, vui cười, đang được mọi người ca tụng (x.Lc 6,24-26).

Những hạng người này bị chúc dữ hay nói đúng hơn là cảnh báo về tại họa không phải vì họ giàu, đang được no nê hay vui cười…nhưng vì họ đã đặt hạnh phúc thật sai chỗ, sai đối tượng. Họ đã lầm tưởng rằng của cải, các hoàn cảnh thuận lợi, danh phận đời này là hạnh phúc thật. Chính vì thế họ đã khước từ Chúa Kitô, khước từ Nước Trời mà Thiên Chúa ban tặng.

Các mối phúc thật hay Bản Hiến Chương Nước Trời không chủ ý nói đến những điều kiện để có hạnh phúc nhưng là trình bày nội dung của hạnh phúc đích thật. Đó là Thiên Chúa, là Nước Trời mà Người ban tặng cho nhân loại. Hạnh phúc đích thật chính là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, một quà tặng vượt quá mọi khả năng chiếm hữu của con người. Con người chỉ có thể đón nhận ân phúc ấy bằng lòng tin. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng nhấn mạnh chân lý này trong thư gửi tín hữu giáo đoàn Galata và giáo đoàn Rôma (x.Gl 2,16.19-21; Rm 3,28-30).

Có thể nói rằng tám mối phúc như khó nghèo, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người…là những cách thế biểu lộ niềm tin, những con đường sống đức tin. Và chúng ta cũng có thể nói rằng ngoài những con đường, những cách thế rõ nét ấy thì vẫn có đó muôn vàn con đường sống đức tin, muôn muôn vàn cách thế biểu lộ niềm tin. Có thể xem đây là sự giao thoa giữa tám mối phúc đã được kể. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !”(Lc23,42). Không biết người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã đi con đường nào của bát phúc, nhưng anh ta đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu. Và anh đã được trao ban hạnh phúc đích thực là Nước Trời ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,43).

Cũng như Bản Hiến Pháp của một quốc gia vừa có tính hướng dẫn, vừa có tính quy định những thể chế, tổ chức, luật lệ của quốc gia ấy, thì Bản Hiến Chương Nước Trời khi cho biết đâu là hạnh phúc thật và con đường để có hạnh phúc thật sẽ có tính hướng dẫn và quy định các tổ chức, sinh hoạt…của đoàn tín hữu Kitô không chỉ trong tư cách cá nhân mà cả trong tư cách là đoàn dân của Thiên Chúa. Mong sao mọi tổ chức sinh hoạt của Giáo hội, mọi nghi tiết Phụng vụ, mọi luật lệ được ban hành… biết lấy Bản Hiến Chương Nước trời làm tiêu chuẩn quy chiếu. Và ước gì được một lần trong đời chúng ta không chỉ cất tiếng hát mà còn thực sự cảm nhận và xác tín lời một bài thánh ca khá quen thuộc: “vì ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc…?”

 

19. Nỗi khao khát

Bill Gates, nhà t phú tr tui người M, chuyên kinh doanh v máy đin toán, nhiu năm liên tiếp đạt danh hiu “người giàu nht thế gii”. Theo tp chí Forbes bình chn mi năm, tài sn cá nhân ca Gates hin đã lên đến 36,4 t USD (1997) và đang sinh sôi ny n rt nhanh. Mi ngày, ông ch công ty Microsoft này thu nhp 42,5 triu USD.

Nhiu người ao ước được giàu có và danh tiếng như ông vua phn mm máy tính này, thm chí ch xin được bng cái s l ca ông thì đã vô cùng hnh phúc. Bi vì “Có tin mua tiên cũng được!” Hay như thi nay người ta thường nói:

       “Đồng tin là Tiên là Pht

       Là sc bt ca tui tr,

       Là sc khe ca tui già,

       Là cái đà ca danh vng,

       Là cái lng che thân,

       Là cán cân công lý,

       Đồng tin là hết ý”.

Nhưng Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại tuyên bố: “Hạnh phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3). Hơn nữa, Người còn cho là hạnh phúc những ai hiền lành, sầu khổ, bị bách hại…

Giáo Hội gọi đó là Hiến Chương Nước Trời, nghĩa là chỉ những ai sống và thực thi những điều ấy mới được làm công dân của Nước Trời.

Với người không có niềm tin thì đó là một điều hết sức nghịch lý. Nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, bị bách hại… không thể mang lại hạnh phúc mà chỉ đem đến những bất hạnh thiệt thòi, khinh bỉ mà thôi.

Như vậy phải chăng Đức Giêsu ngăn cản nền văn minh tiến bộ của nhân loại đang vươn tới hùng cường, thịnh vượng sao? Phải chăng Người ủng hộ cho hành động bóc lột và đàn áp? Hoàn toàn trái lại. Người đã nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Vì thế, làm môn đệ Đức Giêsu là phải xua đuổi nghèo nàn và lạc hậu khỏi thế giới này, là phải đẩy lui đau khổ và bất công xa rời con người. Đó là những vị khách không mời mà đến, và chúng ta phải có nhiệm vụ tống khứ chúng ra khỏi mái nhà của nhân loại. Đây là mục tiêu giải quyết của Kitô giáo, và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.

Đức Hồng Y Tonini tuyên bố: “Giáo Hội trở nên nghèo bởi vì Giáo hội tràn đầy Thiên Chúa. Giáo Hội nghèo bởi vì Giáo Hội có nhiều thứ vĩ đại hơn”. Nếu Chúa đã nói: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó”, “Phúc cho những ai hiền lành”, “Phúc cho những ai sầu khổ”, “Phúc cho những ai bị bách hại”, là bởi vì họ đã khiêm tốn nhận mình thiếu thốn, bất lực, nên đặt trọn niềm tin cậy và phó thác nơi Người.

Nếu Chúa đã dạy: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch” “Phúc cho những ai khao khát công chính, “Phúc cho những ai xây dựng hòa bình”, Phúc cho những ai xót thương người”, là bởi vì họ đã quyết tâm sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và nhiệt tâm phục vụ anh em.

Tận thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng có nỗi khao khát cháy bỏng được sống hạnh phúc, ai cũng muốn người khác đem lại phúc lộc cho mình. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người biết đem lại hạnh phúc cho kẻ khác, và hết lòng quảng đại với tha nhân. Đức Giêsu đã dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Nhà truyền giáo Albert Schweiltzer quả quyết: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.

Hạnh phúc đích thực không đo bằng của cải con người thu tích được, không tùy thuộc nơi những thành đạt mà họ có, cũng không đến từ danh vọng mà con người chiếm hữu, nhưng chính là do nơi họ biết hoàn toàn tín thác vào Chúa mà thôi. Sự giàu có đích thực là sự giàu có ở trái tim, không phải ở túi tiền.

 

20. Chín lần hạnh phúc

Người ta có thể làm cho lễ Các thánh trở nên lễ của hạnh phúc hay không? Dầu sao Tin Mừng ngày hôm nay cũng nói lên điều đó! Chín lần “hạnh phúc”. Và đầu tiên là: “Các ngươi hãy vui mừng hoan hỉ, phần thưởng của các ngươi sẽ lớn lao ở trên Trời”.

Đám mây đầu tiên trên ngày lễ này đó là thì tương lai “Các ngươi sẽ là…Các ngươi sẽ được… Các ngươi sẽ thấy…”. Chính với những thì tương lai kiểu này mà người ta đã giễu cợt những người bất hạnh. Người ta dễ dàng tìm thấy trên đó những bài thuyết giáo khó chịu và những bản văn hoang tưởng của Nã phá Luân!: Khi một người chết đói bên cạnh một người khác no đầy, không thể nào làm cho người đó chấp nhận sự khác biệt này nếu không có một người có uy tín nói với họ: Thiên Chúa muốn như thế, phải có người nghèo và người giàu trên thế gian này, nhưng sau đó và trong vĩnh cửu sự chia sẻ sẽ được thực hiện theo cách khác”.

Các mối phúc chính là hạnh phúc trong tương lai và những sự đảo ngược đầy ấn tượng, những người đầu tiên sẽ là những người cuối cùng. Nhưng không như Nã phá Luân nghĩ, theo nghĩa đó đơn giản là một sự phân phối lại và chỉ có trong tương lai mà thôi. Hạnh phúc được ban tặng ngay từ bây giờ cho tất cả mọi người dười hai hình thức một cuộc hành trình tiến về niềm vui hoàn toàn và một cuộc hành trình đã có hạnh phúc. Giá như mỗi năm họ làm cho lễ Các thánh trở nên một ngày suy niệm về sự hy vọng.

Chúng ta là những người của hy vọng, những người của Tin Mừng. Một ngày kia, tại Palextin, một người đã cất tiếng nói: “Nước Trời kia rồi! Nước Trời đây là ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Từ đây bất cứ người nào cũng có thể hướng tới hạnh phúc được mô tả nơi trang cuối cùng của Thánh Kinh: “Tôi thấy trời mới và đất mới. Tôi nghe có tiếng nói: Kìa nhà tạm Chúa ở giữa nhân loại. Họ sẽ là dân tộc của Ngài và Ngài sẽ là Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ, sẽ không còn chết nữa, hết tang chế, hết kêu than, đau đớn, vì những cái trước kia qua đi rồi” (Kh 21, 1-4).

Chính điều này mà chúng ta mừng vào lễ Các thánh: tất cả chúng ta được mời gọi đi vào trong thế giới mới của sự vui mừng lớn lao. Nhưng phải nói đi nói lại rằng ngay từ bây giờ chúng ta là những người của cái tương lai này. Sự liên tục giữa đất và trời không phải luôn luôn được nhận thức một cách rõ ràng. Chúng ta sẽ không nhận lãnh một phần bánh Trời được đo lường và trả giá bằng cuộc sống mà chúng ta đang sống, khó nhọc, lo âu và đau khổ. Chúng ta sẽ mãi mãi là khả năng của niềm vui mà chúng ta tìm kiếm nơi chúng ta trên thế gian này. Chúng ta sẽ là con người của niềm vui mà chúng ta đang tạo nên. Người ta không chinh phục nước trời mà là trở thành nước trời.

Với những mối phúc. Những mối phúc này là một tinh thần và là một hình ảnh. Tinh thần của Nước trời, bầu không khí và những tập tục của Nước trời. Còn hình ảnh là hình ảnh của vị sáng lập, vị vua mẫu mực: đó là Chúa Giêsu, Hgaì đã là người nghèo hèn, khiêm nhu, ôn hoà, trong trắng và bị bách hại. Khi nói “Phúc cho”, Ngài biết Ngài nói về điều gì, về sự trộn lẫn giữa hiện tại và tương lai. Điều này làm cho chúng ta hạnh phúc như Ngài đã từng hạnh phúc. Chúa Giêsu hạnh phúc vì đã là một con người. Điều kỳ lạ là người ta rất ít nói về điều này.

Chúng ta có thể ngay lập tức trở thành một “chân phước” khi chúng ta sống trong niềm hy vọng, nếu tôi dám nói như thế. Niềm hy vọng dặc biệt này được gọi là “vì Chúa” bởi vì nó nối kết chúng ta với Chúa trong khi đảm bảo rằng Chúa muốn cho chúng ta hoan hỉ và sẽ làm tất cả để cho chúng ta hạnh phúc: “Thầy nói cùng các con những điều này để các con được vui mừng và sự vui mừng đó được đầy đủ” (Ga 15,11). Cho nên trước hết các mối phúc này khẳng định với chúng ta rằng Chúa ở với chúng ta. Nhưng chúng cũng cho chúng ta biết những sở thích của Ngài và ở đây lọt vào một điêù phiền nhiễu: Thiên Chúa có thích sự đau khổ hay không? Tại sao Ngài ưa thích người nghèo, người khiêm hạ, người bị bách hại?

Tôi tin rằng câu trả lơì nằm ở phía tấm lòng của những kẻ đáng thương này. Thiên Chúa tìm kiếm những người con và đặc biệt là Ngài tìm ra họ trong các hoàn cảnh khó khăn đó. Đây không phải là lý thuyết mà là thực tế. Khi lặp đi lặp lại chín lần “Phúc thay”, Chúa Giêsu nói đến kinh nghiệm riêng của Ngài. Rất muốn làm vui lòng Cha Ngài, Chúa Giêsu đã kinh nghiệm rằng con người chỉ thực sự là con của Chúa khi ở trong một tình trạng nghèo khổ đáng thương nào đó.

Đến lượt chúng ta hãy thử kinh nghiệm về các mối phúc này. Chúng chỉ làm cho người ta mỉm cười hoặc nghiến răng nếu nhìn từ xa. Nhưng những người cố gắng thử nghiệm thì nhận thấy kinh nghiệm và nói lên kinh nghiệm đó: họ cảm thấy hạnh phúc… vì được hạnh phúc như Chúa Kitô.

 

21. Phúc cho người sống những mối phúc.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)

Tự nhiên ai cũng muốn hạnh phúc, nhưng hạnh phúc rất khó tìm thấy. Nó thường trượt khỏi tay chúng ta giống như bánh xà phòng ướt nơi phòng tắm. Tất cả chúng ta đều cố gắng để được hạnh phúc, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đồng ý với những gì mà sự hạnh phúc có. Điều đó giống như những cảm hưởng khác nhau trong âm nhạc và thực phẩm vậy. Chúng ta khác nhau cho dù bây giờ chúng ta có phung phí tiền bạc vào những gì sẽ làm cho chúng ta được hạnh phúc, hoặc chúng ta sẽ để dành cho “những ngày mưa gió” trong tương lai.

Tất cả những gì mà người ta nghĩ là hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại không nghĩ vậy, giáo huấn của Người hoàn toàn biệt lập về sự hạnh phúc là gì, làm thế nào và khi nào chúng ta đạt được hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều đã nghe lời giáo huấn của Người nhưng có lẽ chúng ta hoàn toàn thất bại trong việc nắm bắt cho dù là một đặc tính duy nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố.

Chúng ta gọi giáo huấn này của Người là những mối phúc, từ “beatus” theo nghĩa Latinh có nghĩa là hạnh phúc. Đầu tiên chúng ta nhận thấy rằng những mối phúc không phải là những điều luật, cũng không phải là những lời khuyên. Chúng là những lời tuyên bố. Chỉ một điều duy nhất mà hôm nay Chúa Giêsu đã nói chúng ta phải làm, đó là “hãy sung sướng và vui mừng”. Những điều khác, Người muốn trình bày những gì mà hạnh phúc phải gồm có, Người nói thẳng những người hạnh phúc là những người nghèo, người khóc lóc, người đau buồn và người đói khát. Ngài cũng nhấn mạnh những người hạnh phúc là những người bày tỏ sự thương xót, người kiến tạo hoà bình và người chịu đau khổ, bắt bớ. Đó không phải là danh sách mà chúng ta sẽ chọn lựa cho chính mình. Nếu chúng ta phải nhận lấy sự nghèo khổ, khóc lóc, đói khát như những món quà Giáng sinh, chúng ta sẽ nghĩ rằng ông già Noel phải trở thành ông già keo kiệt mới đúng.

Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông già keo kiệt dù người nói những điều mà nhiều người nghĩ là “bịp bợm” chứ làm sao hạnh phúc với những thứ ấy được, chìa khoá bài giáo huấn của Chúa Giêsu được tìm thấy trong mối phúc thứ sáu. Mối phúc ấy nói: “Phúc cho ai có lòng trong sch, vì h s xem thy Thiên Chúa”.

Người có lòng trong sạch là những người giống như những vị thánh, trung tâm toàn bộ đời sống của họ là Thiên Chúa. Trong sự nghèo khổ, họ nhận ra sự giàu có thật chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa. Nơi sự đau buồn của họ, họ khám phá ra rằng niềm vui thật chỉ cảm nghiệm được ở nơi Thiên Chúa. Nơi sự thấp hèn, họ hiểu rằng chỉ có Thiên Chúa mới có thể nâng họ lên sống xứng đáng một con người. Trong sự đói khát, họ thấy giá trị của Thánh Thể, bởi Mình và Máu Chúa sẽ dẫn chúng ta tới bữa tiệc vĩnh cửu trên quê trời. Họ bày tỏ lòng thương xót mà không báo thù, họ đem đến sự an bình chứ không oán ghét, bởi vì họ biết rằng Thiên Chúa là nguồn mạch sự thương xót và bình an. Họ sẵn lòng chịu bắt bớ, bách hại bởi vì họ cảm thấy đặc ân được đau khổ và ngay cả cái chết chỉ là làm chứng cho sự thật.

Vì người có lòng trong sạch đặt trọng tâm vào Thiên Chúa nên họ nhận biết Chúa Giêsu đã thực hiện những gì Người đã rao giảng. Chúa Giêsu là người nghèo, người phải chịu nhiều đau buồn trong cuộc thương khó của Người. Người đã trở nên thấp hèn, bị khinh khi như là một tội nhân trên thập giá. Họ thấy Chúa Giêsu đã trải qua đói khát trong hoang địa để chuẩn bị cho sứ vụ của Người, Người đã chuyển giao sự trống rỗng của người đến cạn kiệt để rồi làm sung mãn chúng ta bằng sự sống và tình yêu của Người. Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót đối với những người tội lỗi và Người đã hiến dâng mọi sự như là đặc ân sự bình an của Người.

Mặc dù không có mối phúc nào là một lề luật, chúng ta tự mình cũng phải thực hiện cho tốt: “Hãy trở nên giống Chúa Giêsu. Hãy có lòng trong sạch. Hãy tập trung toàn bộ đời sống của bạn ở nơi Thiên Chúa”. Đó sẽ là lời khuyên tốt cho chính chúng ta. Trong việc thực hành, chúng ta có thể làm trọn vẹn một điều mà Chúa Giêsu hôm nay bảo chúng ta làm: “Hãy sung sướng và vui mừng vì phần thưởng của các con ở trên trời thì rất lớn lao”.

 

22. Bàn tay Chúa – Lm Vũ Đình Tường

Nhắc đến bàn tay Chúa ta liên tưởng đến bàn tay ra oai thần lực, sức mạnh vô song, làm lay chuyển sao trời, rẽ nước khiến lòng biển khô cạn hoặc ngay cả lấp biển, dời non. Hình ảnh oai hùng đó dường như vắng bóng trong cuộc đời rao giảng công khai của Đấng Cứu Thế. Nơi Ngài chúng ta gặp bàn tay thi ân, giáng phúc. Bàn tay ban ân sủng, bình an. Bàn tay mở sách thánh trong hội đường. Bàn tay vỗ về con người đau bệnh. Bàn tay vác về con chiên lạc. Bàn tay mở mắt người mù. Bàn tay dìu người què đứng dậy bước đi. Bàn tay mở tai người điếc nghe được. Bàn tay sờ nắp quan cho kẻ chết sống lại. Bàn tay tha tội cho người bắt quả tang tội ngoại tình. Bàn tay giang ra kéo Phêrô khỏi chìm dưới làn sóng biển. Bàn tay cầm bánh và cá trong tay dâng lời tạ ơn Chúa Cha trước khi phân phát thực phẩm cho đám đông. Bàn tay chắp trước ngực cầu nguyện cùng Chúa Cha sau bài giảng hay sau khi làm phép lạ. Bàn tay rẽ đám đông lên núi một mình cầu nguyện trước tiếng hoan hô, ca tụng Ngài là vua, giải thoát họ khỏi ách đô hộ. Bàn tay dâng bánh chúc tụng. Bàn tay dâng rượu thiết lập Giao Ước mới trong bữa tiệc li. Bàn tay rửa chân cho các môn đệ. Bàn tay trải dài trên thập tự mong đón nhận toàn thể nhân loại vào con tim nồng ấm.

Bàn tay xây dng

Bàn tay Đấng Cứu thế gắn liền với việc xây dựng nước trời. Để làm gì? Để đón nhận những ai sống theo tinh thần Tám Mối Phúc Thật: sống nghèo khó, hiền lành, sầu khổ vì lẽ công chính, hay xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì làm chứng nhân nước trời.

Tám Mối Phúc Thật nhấn mạnh đến đức nghèo khó. Nghèo khó bao gồm cả nghèo vật chất lẫn nghèo đức tin. Nhận biết mình nghèo khó nên sống phó thác, đặt trọn tin tưởng vào Chúa. Tự bản thân không có gì, thông minh, tài trí, sức khoẻ, tiền của và chức tước. Ta không làm chủ cả sự sống. Nghèo khó trong Chúa luôn sống tâm tình cảm tạ vì Chúa làm chủ mọi sự; ta chỉ là quản lí, coi sóc những gì Chúa giao phó.

Đời này từ bỏ mọi sự, giầu sang, tiền bạc lẫn chức tước bước theo Đức Kitô. Nếu Đức Kitô lại ban cho những gì trước đây họ đã từ bỏ thì giải thích sao cho thoả đáng việc từ bỏ lúc đầu để nhận lại nhiều hơn của cải vật chất sau này. Khó nghèo trong Chúa phải hiểu là có Đức Kitô là có tất cả vì nơi Ngài là nguồn sung mãn, là sức mạnh, là nguồn sống đời này và đời sau. Khó nghèo trong Chúa giúp sống đời sống khiêm nhường, hiền lành, xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình. Tất cả đều bắt nguồn từ ơn Chúa. Chúa đặt vào lòng người Tám Mối Phúc Thật để hướng dẫn con người sống theo đường lối Chúa. Trung thành sống Tám Mối Phúc Thật nhiều, ít, hay bất trung, phản nghịch do từng cá nhân tự quyết và chịu trách nhiệm về chọn lựa của riêng mình.

Phúc cho ai

Trong tám lần chúc phúc Đức Kitô luôn bắt đầu bằng câu: Phúc thay ai. Lời chúc phúc dành cho những ai sống Tám Mối Phúc Thật. Lời chúc thứ chín Đức Kitô nhắm đến các tông đồ, những người ngồi kề bên Chúa, từ bỏ mọi sự bước theo Đức Kitô. Lời chúc nhấn mạnh đến phần thưởng đời sau. Đời này họ bỏ mọi sự bước theo, đã thế họ còn bị bách hại, sỉ vả, vu khống đủ điều xấu xa không phải vì họ gây nên mà vì trung thành với Đức Kitô mà gặp sự khó, nên được Chúa ban ơn đặc biệt.

Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấy xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao Mt 5,12

Các tông đồ hiểu lầm đời sống khó nghèo Đức Kitô rao giảng. Vì thế có lần các ông thắc mắc. Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy để được gì? Đức Kitô đáp:

…. Chng h có ai b nhà ca, anh em, ch em, m cha hay rung đất, vì Thy và vì Tin Mng, mà bây gi ngay đời này, li không nhn được nhà ca anh em, ch em, m con hay rung đất gp trăm, cùng vi s ngược đãi và s sng đời đời đời sau. (Mc 10, 29tt).

Câu trả lời trên cho thấy ai trung thành sống Tin Mừng và chân thành theo Đức Kitô sẽ chia sẻ cuộc sống của Ngài. Cuộc đời của Ngài là cho đi tình thương, sống thể hiện ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống của Đức Kitô bao gồm cả vinh quang lẫn thập giá mà Đức Kitô tự nguyện vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống cho anh chị em khác chính là thương mến mọi người như anh em cùng cha Giêsu, trong đại gia đình Chúa, trong Giáo Hội. Giầu có không phải là lắm bạc, nhiều tiền mà chính là tự do, không bị đồng tiền chi phối lối sống, cách suy nghĩ. Nghèo tiền của, giầu tình người chính là đời sống bác ái, yêu thương Đức Kitô chọn sống trong cuộc đời rao giảng công khai của Ngài. Một khi giầu bác ái, yêu thương sẽ không còn cảm thấy tiền bạc, địa vị, tiếng tăm là quan trọng nữa.

Li chúc phúc

Khi Đức Kitô chúc phúc cho ai, Ngài không phải chỉ ban cho người đó ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm mà còn lên tiếng ca ngợi đồng thời ban ơn thiêng như phần thưởng dành riêng cho tâm hồn ngay chính. Sống công chính nhận phần thưởng hai lần.

Lần thứ nhất Chúa ban ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm – ngay tại đời này – để người đó tiếp tục tiến bước trên con đường phục vụ, hy sinh làm chứng nhân cho Đức Kitô.

Lần thứ hai Chúa ban ơn cao trọng hơn đó là sự sống trường sinh. Phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Lời chúc phúc được thể hiện trong tương lai, trong ngày gặp lại Đức Kitô trên thiên quốc.

Hạnh phúc thay ai học sống nghèo khó vì Chúa và vì Tin Mừng.

 

23. Đường hẹp – Radio Veritas Asia

(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)

Khi M Têrêsa thành Calcutta còn sng, người ta k li rng, mt ln M đang ra nhng vết gh l ca người b bnh cùi thì có mt thương gia giàu có đến thăm nhà, thy M đang làm vic y, ông phát biu ý kiến như sau: – Nếu có ai cho tôi mt triu bc để làm công vic như M đang làm thì tôi cũng không dám làm.

M Têrêsa vui v tr li: – Tôi cũng vy, nếu có ai cho tôi mt triu bc tôi cũng không th làm điu ông làm.

Tin ca vt cht không phi là yếu t chính và chúng ta cũng không th nào đo lường giá tr tinh thn ca hành động con người bng tin ca vt cht, nhưng đây là điu mà thường tình mi người chúng ta cũng d b cám d suy nghĩ và hành động như vy, đó là hành động theo s khôn ngoan ca xác tht, theo như bài đọc hai ca thánh Phaolô Tông đồ nhc li cho chúng ta.

Bài Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta một căn bản, một hiến chương cho đời sống đức tin của mình, đời sống đức tin của người môn đệ Chúa qua mọi thế hệ, trong mọi hoàn cảnh và chúng ta không thể nào hiểu được, cũng như không thể nào sống thực hành những điều phúc.

Tám mối phúc thật được ghi lại trong Phúc Âm hôm nay, trong một kiểu nói phàm trần với tâm thức tự nhiên con người, với lẽ khôn ngoan xác thịt như cách nói của thánh Phaolô Tông đồ. Chìa khoá để hiểu và sống những điều Phúc âm mà chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta là chính Ngài là Chúa. Chúa đã sống trọn vẹn những điều phúc này, nhất là trên núi Sọ khi để mình bị treo trên thập giá trong một hành động dâng hiến tuyệt đỉnh chính mình cho Thiên Chúa Cha, và chỉ khi nào chúng ta như Chúa Giêsu trên thập giá, bắt chước Chúa Giêsu trên thập giá chúng ta mới hiểu và mới sống như Chúa đã sống.

Không phải vì tiền của, vì danh vọng mà Mẹ Têrêsa có thể thực hiện những gì Mẹ đã làm cho những anh chị em thấp cùng nhất trong xã hội, nhưng chính là tình yêu Chúa tràn đầy nơi Mẹ, không phải nhờ tiền của mà con người có thể sống thánh thiện, sống thương xót, sống hòa bình, sống công bằng, sống mối phúc thật như Chúa Giêsu đã dạy, nhưng chính là tình yêu Chúa, nhờ Chúa biến đổi, nhờ sống kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm để sống những gì Chúa mời gọi chúng ta sống: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, phúc cho những ai hiền lành, phúc cho những ai đau buồn, phúc cho những ai đói khát điều công chính, phúc cho những ai hay thương xót, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính”.

Xin Chúa giúp mi người chúng ta được sng như Chúa, được sng kết hip vi Chúa mi ngày mt hơn để chúng ta có th hiu và sng tám mi phúc tht như Chúa đã sng. Xin Chúa giúp mi người chúng ta được trung thành vi đức tin. Amen.

 

24. Hạnh phúc trong Tin Mừng

(Trích Radio Veritas Asia)

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Ðức Giêsu không chỉ dạy ta về các mối phúc.

Chính Ngài nêu gương sống hạnh phúc.

Bài Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của Bài Giảng Trên Núi. Qua đó tác giả Matthêu cho thấy Ðức Giêsu quả thật là vị tân lãnh đạo của dân mới của Thiên Chúa. Như xưa ông Môsê từ núi Sinai mang mười giới răn của Thiên Chúa công bố cho dân Ít-ra-en như thế nào, thì nay Ðức Giêsu cũng công bố luật mới của Thiên Chúa như được kiện toàn nơi bản thân Người như vậy. Dân mới của Thiên Chúa bao gồm tất cả những người được Ðức Giêsu mời gọi trở nên môn đệ của Người. Lời mời gọi ấy không loại trừ một ai như thấy rõ qua mệnh lệnh cuối cùng của Ðức Giêsu trước khi về trời, là: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,18-20).

Ngay với bài giảng đầu tiên này đối tượng đã là quảng đại quần chúng, tuy gần gụi nhất bên cạnh Ðức Giêsu là các môn đệ (c.1), trong đó có bốn người đầu tiên là các ông Anrê, Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, được Ðức Giêsu gọi trong khi hành nghề đánh cá nơi biển hồ Galilê (Mt 4,18-22). Vậy Ðức Giêsu không đòi hỏi người nghe phải là những người có trình độ nào về học thức tuy ơn đức tin đối với Giavê Thiên Chúa phải được hiểu ngầm. Ơn ấy nay phải được nới rộng để qui về Ðức Kitô bởi lẽ Chúa Cha đã trao phó mọi sự nơi Ðức Giêsu. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho. (x.Mt 11,27).

Ðức Giêsu cho biết hoàn cảnh thực sự của loài người dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Vậy dựa vào thẩm quyền từ trời cao, Ðức Giêsu đến cho biết hoàn cảnh thực sự của loài người dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,16). Ngài không đứng trung lập nhưng nghiêng hẳn về những kẻ bé nhỏ; Ngài không loại bỏ người giầu, nhưng buộc người giầu phải được hoán cải để tham dự vào Tình Yêu Thiên Chúa là đặt mình phục vụ người nghèo. Chính Ðức Giêsu nêu gương phục vụ suốt đời mà cử chỉ quì xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-17) chỉ nói lên được phần nào mà thôi.

+ Thực ra, chính cuộc đời hy sinh và tự hạ cho tới cái chết nhục nhã của Ðức Giêsu biểu lộ tình yêu Thiên Chúa, làm nên Nước của Thiên Chúa. Ai đón nhận cái nghèo đó của Ðức Giêsu thực sự là đón nhận chính Tình Yêu từ trời cao nên sở hữu được Nước Thiên Chúa.(c.3).

+ Ai chấp nhận gương hiền hậu và khiêm nhường của Ðức Giêsu (x.Mt 11,28-29) sẽ được đất hứa làm gia nghiệp (c.4).

+ Ai chấp nhận nỗi sầu khổ của Ðức Giêsu tại vườn Ghết-sê-ma-ni (x.Mt 26,36-46) là nỗi sầu khổ cứu mình khỏi tội, người đó sẽ được chính Thiên Chúa ủi an (c.5)

+ Ai ước ao giữ trọn đức công chính theo gương Ðức Giêsu (x.Mt 3,15), người đó sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng (c.6).

+ Ai biết noi gương Ðức Giêsu, Ðấng đã xin với Thiên Chúa Cha tha cho những kẻ đóng đinh mình trên thập tự, người đó đã được Thiên Chúa xót thương vì được Ngài cho nên giống Con của Ngài (c.7).

+ Mối phúc được nhìn thấy Thiên Chúa phải là mối phúc do chính Ðức Giêsu thông ban theo lời Người tuyên bố rằng: “Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (c.8; x.Mt 11,27).

+ Mối phúc làm con Thiên Chúa (c.9) nhất thiết cũng phải do chính Ðức Giêsu là “con yêu dấu của Thiên Chúa” (Mt 3,17); chính nhờ tham dự vào sự sống, sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu, ta xây dựng bình an đích thực và dự phần vào tư cách làm Con Thiên Chúa của Ðức Giêsu.

+ Mối phúc cuối cùng (cc.10-12) chỉ là việc ta kết hiệp mật thiết với chính Ðấng thiết lập nên Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài là Ðức Giêsu Kitô: “Nào Ðức Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang ư?” (Lc 24,25).

Vậy bài giảng về các mối phúc thật ra cũng chỉ qui về một mối phúc chính là tình yêu Thiên Chúa hiện thân nơi Ðức Giêsu làng Nadarét. Tình yêu ấy khi xuất hiện trong bối cảnh văn hoá xã hội Do thái đã chọn đứng về phiá người nghèo.

Ðức Giêsu đứng về phía người nghèo

Luca cho thấy Ðức Giêsu nhắm thẳng đám người nghèo đó khi nói với họ: Phúc cho anh em là những kẻ khó nghèo, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em, những người đang đói khát, vì anh em sẽ được no lòng. Phúc cho anh em, những người đang phải than khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em, những người đang bị ghét bỏ, hất hủi, sỉ nhục (x.Lc 6,20-22).

Liền sau đó, Luca đưa ra những lời báo dữ đối với những người giầu có, no phỉ, những kẻ đang vui sướng cười cợt, đang được thiên hạ tán dương (x.Lc 6,24-26).

Nhưng Ðức Giêsu đã không dừng lại ở lối nói suông. Người minh chứng bằng hành động cụ thể về nội dung Nước Thiên Chúa dành cho người nghèo, bằng cách bày tỏ lòng ưu ái đặc biệt hai thành phần thời đó đang bị gạt ra bên lề xã hội, đó là những người bệnh tật và những người không có quyền công dân.

Các sách Tin Mừng nêu hai loại người bệnh, đó là kẻ tàn tật và kẻ bị quỉ ám. Tàn tật gồm những chứng bệnh có thể quan sát được như mù, què và những thứ bệnh da liễu, nhất là phong hủi. Ðó là những người hết còn lao động được, nên xã hội kể là thành phần “ăn hại” vì sống dựa vào người khác.

Còn “bị quỉ ám” chủ yếu là những người mắc bệnh tâm thần, động kinh, dễ té xỉu và được kể là bị quỉ vật. Người câm và điếc cũng được kể là bị quỉ ám. Người phụ nữ còng lưng thì được kể là bị “quỉ còng” ám (x.Lc 13,10-15). Chẩn bệnh kiểu đó khiến ta nực cười nhưng nó cho thấy não trạng của người thời ấy kể bệnh nhân nằm dưới quyền lực của ma quỉ nên thường xuyên bị coi là ô uế nên không được tham gia việc thờ phượng nơi Ðền Thờ.

Khi chữa bệnh Ðức Giêsu phục hồi lại phẩm giá của bệnh nhân, cho họ được tham gia Nước Thiên Chúa. Họ không còn bị gạt ra bên lề nữa, nhưng ở ngay tâm điểm của Tình Yêu Thiên Chúa.

Ngoài hạng người bệnh tật, nhiều thành phần khác cũng bị gạt sang một bên, thời Ðức Giêsu.

– Thứ nhất là đàn bà, con trẻ : Hoàn cảnh phụ nữ tại Áp-ga-nit-tăng ngày nay chỉ là hình ảnh nối dài của phụ nữ vùng Trung Ðông xưa. Họ phải nhốt mình trong nhà. Khi ra đường, họ phải lấy khăn che mặt và không được mở miệng nói với đàn ông. Vợ lệ thuộc chồng tới mức có thể bị chồng sa thải vì bất cứ lý do nhỏ bé nào, chẳng hạn như nấu cơm khê.

Sự kiện Ðức Giêsu cho một số phụ nữ tháp tùng Người trên đường đi rao giảng Tin Mừng cùng với nhóm Mười Hai, quả là điều mới mẻ về Nước Thiên Chúa. Cũng là điều gây ấn tượng không nhỏ khi Ðức Giêsu đòi các môn đệ phải hoán cải để trở nên như trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Thiên Chúa (Mt 18,9).

– Thứ hai là những người làm nghề bất lương: Hạng người này bao gồm không những người thu thuế như Lêvi (Mc 2,14), mà cả những người chép mướn, những người thợ dệt (hai loại này bị ngờ là “bất hảo” vì tiếp cận với phụ nữ), người đổi tiền, cầm đồ, đánh cờ, chăn súc vật (mang tiếng cho súc vật ăn lấn sang đất kẻ khác).

Vậy để hưởng các mối phúc thật như Ðức Giêsu dạy ta hôm nay, ta cần nhìn thẳng bản thân Ngài như chính Ngài thể hiện các mối phúc đó. Không có điều gì Ngài dạy ta mà Ngài lại không làm gương cho ta. Không có giá trị nào về Nước Thiên Chúa được Ngài nêu lên, mà chính Ngài không trả giá bằng việc hy sinh chính mạng sống mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).

Một số câu hỏi gợi ý

  1. Bạn đọc Mt 5,1-12 và Lc 6,20-26 về các mối phúc thật thì nhận thấy những khác biệt nào? Tại sao?
  2. Ðức Giêsu không dạy ta về bất cứ mối phúc nào mà chính Ngài lại không nêu gương cho ta. Bạn thấy tấm gương nào của Chúa Giêsu về các mối phúc giúp bạn hơn cả?
  3. Khi Ðức Giêsu nói “Phúc cho anh em là những người nghèo” (Lc 6,20), Người có ý nói về: Bệnh nhân? Người tàn tật? Kẻ bị quỉ ám? Ðàn bà và trẻ con? Người thu thuế? Người chép mướn? Người thợ dệt? Người đổi tiền? v.v. Tại sao?

 

25. Đức Giêsu công bố cẩm nang hạnh phúc.

Người ta khao khát hạnh phúc, chúc nhau trăm năm hạnh phúc, tam đa, tam phước… nhưng không biết làm sao để được hạnh phúc thật nên không thấy bóng dáng hạnh phúc ở đâu, vùi đầu chạy tìm ảo ảnh mà họ tưởng là hạnh phúc. Họ như những con thiêu thân  “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt”,  mà để lại “buồn da diết đến nghìn thu”. Họ tìm ba T “tài-tiền-tình” Nhưng thực tế đó lại là những thứ vũ khí giết người, và gây đau khổ mà thôi. Nước mắt nhiều hơn nụ cười. Không biết cười hay mếu!

Trước thềm năm mới – tống cựu nghin tân – Đức Giêsu trao cho chúng ta “CẨM NANG HẠNH PHÚC”: NƯỚC TRỜI (THIÊN CHÚA) LÀ CỦA HỌ. Thiên Chúa là hạnh phúc. Vấn đề là tin hay không!

Tìm kiếm những gì dẫn đến Thiên Chúa là có hạnh phúc. Từ bỏ những gì làm xa cách Thiên Chúa. Gọi là các mối phúc thật. Phải là chín mới trọn vẹn.

Trước khi giải thích bản văn chúng ta nên lưu ý: Phúc Âm là các thánh sử giải thích “biến cố” Đức Giêsu mỗi người theo một sơ đồ riêng để minh họa một ý tưởng thần học về chương trình cứu độ đã được tiên báo trong Cựu Ước và được thực hiện qua biến cố Đức Giêsu. Không phải là những bài tường thuật hay trình thuật như thường hiểu. Các mối phúc thật cũng vậy, là những “dàn dựng” của Mt hoặc Lc lấy từ biến cố Đức Giêsu và được linh ứng để viết ra cho chúng ta là những đọc giả về sau.

1/ Phúc thật ai có tâm hồn nghèo khó vì nước trời là của họ: Tâm hồn nghèo khó. Bất kể giàu  nghèo, có tâm hồn nghèo khó là phúc thật. Tâm hồn là tấm lòng, trong lòng không đầy ứ sự tham lam của cải thế gian. Không có mà không ham, không tham. Không “bần cùng sinh đạo tặc”, không ” bụng đói thì gối phải bò” đi trộm cắp, cướp của giết người. Nghèo mà vẫn công chính. Giàu có mà lòng không ỉ lại tiền của, biết coi như không có mà đem làm việc yêu thương thay cho Thiên Chúa để xoa dịu những kẻ đau khổ vì túng thiếu. Đem hết cho Chuá ăn, cho Chúa uống…..

Người nghèo khó trong Cựu Ước cũng như Tân Ước là đối tượng chính được Thiên Chúa quan tâm. Đời nầy không có gì thì (trên trời) Thiên Chúa sẽ thưởng gắp bội vì phần thưởng sẽ lớn lao trên trời: là Nước Trời, là chinh Thiên Chúa. Đáng lẽ phải đi liền theo mối phúc của người nghèo là hai mối phúc của kẻ ưu phiền (Lc: khóc lóc) và đói khát.  Nghèo thì khổ. Nghèo khổ.

2/ Phúc thật ai “Ưu phiền” (khóc lóc) vì họ sẽ được an ủi: nghèo thì gặp  trăm ngàn sự khó vì trăm tội đổ trên đầu  thằng khó. Cơm ăn là suối lệ chứa chan. Khổ! Đức Giêsu đến để an ủi những kẻ ưu phiền. Người đang đến, đang hiện diện. Người công bố. Được Thiên Chúa an ủi thí chắc chắn hết ưu sầu.

3/ Phúc thật những ai đói khát sự công chính vì họ sẽ được thỏa lòng. Mt muốn xác định rõ: đói khát mà công chính thì Thiên Chúa mới chúc phúc (chứ không phải mọi kẻ đói khát). Nghèo thì lắm phen đói khát. Nhưng không phải “bụng đói thì gối phải bò”, “bần cùng sinh đạo tặc” mà là “bần tiện bất năng di”  (dù bần cùng cách mấy vẫn giữ mình là quân tử).

Phần thưởng lớn lao trên trời:  vì Nuớc Trời là của họ. Thiên Chúa là phần gia nghiệp: không còn khổ “ưu phiền hoặc khó lóc”

Ba phúc thật nầy là khía cạnh tiêu cực: thực tế là vậy. Chỉ mới nói “chịu đựng”.

Các phúc thật còn lại đề cập đến khía cạnh tích cực “làm”.

4/ Phúc thật ai hiền lành vì sẽ đuợc đất hứa làm gia nghiệp: Hiền như củ khoai. Lành là vô hại, không độc. Hiền lành như bồ câu. Kẻ hiền phải chịu nhiều thiệt thòi có khi xem ra quá sức chịu đựng nữa. Lành thì không lúc nào có chút ác ý. Là một nhân đức ít có. Thiên Chúa hứa đền bù những gì họ chịu mất mát, thiệt thòi: họ sẽ được Nước trời.

5/ Phúc thật ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương: là biết động lòng trước dù là một bất hạnh nhỏ của nguời khác và ra tay cứu giúp ngay. Thuơng xót là biết hành động trợ giúp không thờ ơ, vô tình, bỏ qua trước hoàn cảnh khó khăn của kẻ khác. Đức Giêsu đến để tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa.

6/ Phúc thật ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa: là giữ mình khỏi mọi cám dỗ của thế gian làm ô uế tâm hồn. Hạnh phúc thật được thần học gọi là visio beatifica “thấy Thiên Chúa” sẽ làm thỏa mãn mọi ước muốn của con người. Muốn thấy được Thiên Chúa thì phải giữ mắt không bị vật gì che  chắn. Sạch tội. Tội là vật cản giữa con người và Thiên Chúa. Tội ở trong tâm hồn nên nói tâm hồn trong sạch được xem thấy Thiên Chúa.

7/ Phúc thật ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa: Nói hòa bình là chuyện lớn còn với mợi người trong đời sống hằng ngày là sống hòa thuận, thông cảm, chia ngọt xẻ bùi với nhau cho vui vẻ cả làng. Có nhiều người như vậy thì  có hòa bình lớn. Còn nếu trong lòng còn những tham lam, tranh giành, lấn cấn… thì đừng nói chuyện hòa bình. Nếu tất cả là anh em, là con Thiên Chúa thì có hòa bình. Là con Thiên Chúa mới sống hòa thuận thương yêu nhau. Là con Thiên Chúa thì ở gần và thấy Thiên Chúa: Hạnh phúc thật.

8/ Phúc thật ai bị bách hại vì sự công chính vì nước trời là của họ: Chỉ người công chính mới được phúc của Thiên Chúa. Như Đức Giêsu thà chết chứ không thỏa hiệp để yên thân theo kiểu khôn ngoan thế gian, không đánh mất sự công chính vì bất cứ lý do nào vì công chính mới được thưởng. Phần thưởng Nước Thiên Chúa đóng khung các mối phúc từ 1 đến 8 nói lên phần thuởng duy nhất là Thiên Chúa. Thiên Chúa là phúc thật. Hãy tìm Thiên Chúa bằng 8 cách kể trên. Tám mối phúc thật là 8 “bí quyết” của cẩm nang hạnh phúc do Đức Giêsu công bố (cũng là Thiên Chúa công bố).

9/ Phúc thật cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Mối phúc nầy phân biệt với  8 mối phúc trên, đặc biệt hơn  là “vì thầy”. Số 8 nói bách hại vì sự công chính. Số 9 là vì Thầy, là tử đạo. Vì Thầy, vì Phúc Âm thì giá trị lớn vô cùng, một bát nước lả cũng không mất phần thưởng đâu. Là điều kiện tốt nhất, bảo đảm nhất để được phúc thật là Nước Trời, là Thiên Chúa. Mất mát, thiệt thòi của 8 phúc trên là ít nhiều, là từng phần. Còn số 9 là tất cả ví liều mạng sống vì Thầy và vì Phúc Âm thì sẽ giữ được mạng sống mình cho tới đời đời “trên trời”. Là con đường thẳng, ngắn nhất “lên thiên đàng ngay” tức khắc. Là phúc thật tử vì đạo.

Số chín là hoàn hảo. Mt muốn cho đủ chín. Nhưng mỗi mối phúc đều có nội dung riêng rõ ràng.

Anh em hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho anh em trên trời sẽ lớn lao. Chính Đức Giêsu là Phúc thật cho những ngưới anh em của mình. Những người không là anh em của Đức Giêsu thì không tin không theo không làm như Người day thì khống thể có phúc. Không có ban nhưng không như nguời ta thường thích nói để khỏi phải làm (thực tế thì không có).

Hạnh phúc trên trời không phải đợi dời sau mà trên trời có nghĩa là chính Thiên Chúa, là được chính Thiên Chúa hay như thần học định nghĩa hạnhphúc  là “visio beatifica”, là thấy Thiên Chúa hay như khi Phêrô thấy Đức Giêsu biến hình vinh quang thì đã thốt lên trong cơn hốt hoảng “Lạy Thầy ở đây thì tốt lắm.”

Cuối năm, tống cựu nghinh tân, chúng ta hãy đổi mới cách nhìn và hiểu biết nhất là với Lời Chúa, cụ thể là các mối phuc đề biết hạnh phúc là gì, tìm ở đâu. Đức Giêsu đã đến, đã trao cho chúng ta cẩm nang hạnh phúc thật. Lời Chúa là chân thật. Chúng ta cố gắng hiểu để tin và làm theo thì sẽ được hạnh phúc thật là ở với Chúa, thấy Chúa ngay trong đời sống nầy.

 

26. E.T. gọi về nhà

Phim “E.T.” nói về một người hành tinh khác đến trái đất và bị lọt lại một mình. E.T. làm bạn với cậu bé Elliot cùng những anh chị em của Elliot và nhiều người khác nữa. Họ đã vượt qua nhiều cuộc phiêu lưu thử thách và cuối cùng E.T. đã gọi về nhà và được phi thuyền của dân tộc E.T. trở lại đón. E.T. có nghĩa là “Extra Terrestrial”. Mặc dù người làm phim không chủ ý luồn Phúc Âm vào cuốn phim nhưng nó lại hiện diện trong toàn cuốn phim.

Trước hết, the Extra Terrestrial đến trái đất như là biểu tượng Nhập Thế. Hơn nữa, trong cuộc phiêu lưu của E.T. nó gần như song song với câu truyện Thánh Kinh về Chúa Giêsu. E.T. chọn một số bạn thương mến và đi theo E.T. Hầu hết mọi người đều chống đối bọn họ, đặc biệt là các khoa học gia chỉ muốn giết E.T. để khảo nghiệm. E.T. cũng làm những phép lạ như làm cho cây khô sống lại, chữa lành bệnh nhân bằng cách sờ vào người bệnh. E.T. đi đâu cũng tạo nên cảnh thương yêu. Cuối cùng E.T. bị chết vì những người chống đối và rồi E.T tự phục sinh. Rồi phi thuyền trở lại và đón E.T. về, trong cảnh đi về ấy, Elliot nhìn lên bầu trời tựa như cảnh các môn đệ nhìn Chúa Giêsu lên trời vậy. Trước khi trở về quê hương của mình, E.T. đã nói lời cuối là: “Tôi sẽ ở với các bạn luôn mãi” (Mt 28,20).

Nếu chúng ta mở rộng lòng ra thì cuốn phim đó cũng gợi lại cho chúng ta một sự trong sáng, mủi lòng, tìm thấy một sự biết ơn mới đối với Chúa Giêsu vì khi Ngài xuống thế, vì Ngài đã chọn trái đất này làm quê hương của Ngài. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ làm cái việc gọi về quê hương hay tìm cách trở về. Thánh Gioan tông đồ đã viết: “Ngài đến và ở giữa chúng ta… Ngài đến nơi nhà Ngài”. Chúa Giêsu đã yêu nhân loại quá mức nên Ngài không đến như một người xa lạ và chỉ chực chờ có cơ hội là bỏ ra đi ngay. Đúng hơn, Ngài đến và hòa nhập vào sự cô đơn, lo lắng, và tan nát của cả nhân loại.

Có sự trái ngược đó là Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta, đồng thời Ngài nói rằng thế gian này không phải là nhà của chúng ta. Ngài cho biết nhà chúng ta không phải ở thế giới này hay ở một thế giới kế cận nào. Nhà thật sự của chúng ta chính là sự quan hệ giữa nhân loại chứ không phải là nơi chốn. Và nhà thật sự của chúng ta là ở trong Chúa. Như Thánh Augustinh nói, chúng ta được dựng nên “với một tâm hồn không bao giờ nghỉ cho tới khi nào tìm thấy sự nghỉ yên trong Chúa”.

Vấn đề chính đối với một số người trong chúng ta ngày nay đó là nhớ nhà. Chúng ta có thể không nhận ra, hay chối từ điều ấy, nhưng sự thổn thức luôn luôn hiện diện ở đó– và sẽ chẳng bao giờ nó yên lặng cho tới khi chúng ta tìm thấy căn nhà thật sự của chúng ta là ở trong Thiên Chúa.

Điều ấy chẳng lạ lùng gì khi các ngụ ngôn của Chúa Giêsu thường nói về sự trở về nhà. Người con hoang đàng trở về trong vòng tay mở rộng đón mừng của người cha với đầy sự hoan lạc. Chúng ta cần phải có cảm nghiệm sự trở về này. Chúng ta phải trở về cùng Chúa, nếu như chúng ta muốn được chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài. “Sự sống vĩnh cửu” đối với một số người cho rằng nó ở tương lai. nhưng Chúa Giêsu nói sự sống ấy chính là một tính chất thực tại của cuộc sống này chứ không phải một sự sống của chiều kích khác.

Sự sống vĩnh cửu là chính mối dây liên kết hiện tại, là cảm nhận sự Hiện Hữu của Tình Yêu Thiên Chúa trong toàn thể con người ta. “Phúc thay cho người có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ” Chúa Giêsu đã dạy thế trong bài Tin Mừng hôm nay (Mt 5:3). Nghèo trong nghĩa Thánh Kinh chính là sự nhận biết rằng toàn thể con người, sự sống mình lệ thuộc vào Chúa; nhận biết xa rời Ngài là chúng ta chẳng có gì hay sức mạnh để trở nên con người theo như chủ đích khi chúng ta được dựng nên; nhận biết sự thao thức băn khoăn tìm kiếm điều gì đó cao cả hơn của tâm hồn cho tới khi chúng ta tìm thấy nghỉ an trong Chúa.

“Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương”; “Phúc cho ai ăn ở thuận hòa vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,7-9). Những điều ấy có nghĩa là sự toàn hảo của con người chúng ta lệ thuộc trên sự trở về của ta với Thiên Chúa và tha nhân. Trong và qua mối cảm nghiệm sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta trở nên liên kết với hết mọi người qua tình yêu. Yêu Chúa và tha nhân không thể chia cách tách rời được.

Hãy để Ngài chỉ lối và hướng dẫn chúng ta; rồi chúng ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Ngài ở ngay trong chúng ta. Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì họ sẽ tìm thấy bình an và chính họ sẽ xây dựng an bình.

 

27. Phúc thay

Trong Kinh Thánh, “Hạnh phúc” là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét.”(Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr.58)

  1. Bn mi phúc đầu ca Matthêu: ca tng người biết hướng v Thiên Chúa và t chi bo lc.

* “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Sự nghèo khó mà mối phúc này nhắm tới không phải là sự nghèo khó về vật chất; nhưng là thái độ của một người nghèo tự nhận mình không có quyền đòi hỏi gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của Thiên Chúa.

  1. Potel chú giải: “Người Kitô hữu phải nhìn nhận mình đã lãnh nhận sự sống nơi Thiên Chúa; mà Đức Giêsu dạy rằng phải nhận ra và yêu mến Ngài như một người Cha. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm sâu lòng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Sự khiêm nhường triệt để này tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thật vậy, phẩm giá này không dựa trên sự giàu có cũng như những đức tính nhân bản, nhưng dựa trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người, nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu”.

* “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp”. Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc trên từ một câu Thánh Vịnh 36: “Những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn”. J. Potel nói tiếp: “Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có phương tiện thể lý hay pháp lý bảo vệ mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta gọi nó là kết quả của sự không dùng bạo lực”.

* “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”. Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một niềm hy vọng: “Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách”.

* “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng”. Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh, Sự công chính ở mối phúc thứ bốn được hiểu là “tự điều chỉnh” tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã làm. Thiên Chúa ở đây là Đấng đã đến để gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Như vậy ‘trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện “sự công chính” đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại’.

  1. Bn mi phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng ca người môn đệ Đức Kitô

* “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân từ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Kitô học biết tha thứ những xúc phạm và trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.

* “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Sự trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chính trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.

* “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Jean Potel giải thích: “Đối với Đức Giêsu, sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hòa hợp và an lành không đủ, Ngài đòi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia đình, nơi cộng đoàn Kitô hữu. Hòa bình sẽ được gọi không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Những người xây dựng hoà bình là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiệm vụ của con là tiếp tục công việc của Cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hoà bình đến cho con người”.

* “Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ”. Trung thành tuân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong các mối phúc không phải là không có những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại, vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của Ngài là những người nghèo thật sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.

Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean Potel kết luận: “Đức Giêsu hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của Ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha”.

 

28. Tin vui cho muôn người – Lm. Phạm Ngọc Ngôn

Hiến chương Nước Trời là một trong năm loạt bài diễn văn được Chúa Giêsu long trọng tuyên bố trên núi. Ở trên núi chứ không phải ở đồng bằng như trong Tin mừng Luca, điều đó cho thấy dụng ý thần học của thánh sử Matthêu. Thật vậy, hình ảnh này giống như Môsê ngày xưa trên núi Sinai lãnh nhận lời Giavê Thiên Chúa để ban lại cho dân Israel. Vâng, Chúa Giêsu chính là Môsê mới. Ngày hôm nay, cũng trên núi, chính Chúa Giêsu – Lời của Thiên Chúa, truyền lại cho dân Israel mới, mà các môn đệ là những đại diện, những mối phúc làm kim chỉ nam cho hết những ai mưu tìm Nước Thiên Chúa.

Nếu Tin mừng Luca nhấn mạnh đến những người nghèo thật sự, thì Thánh sử Matthêu lại nhấn mạnh đến sự khó nghèo về tinh thần hơn là sự thiếu thốn về tiền bạc, vật chất. Người khó nghèo về tinh thần không cho phép mình sinh ra kiêu căng, ỷ lại vào tiền của, nhưng luôn hướng mình đến kẻ khác và nhất là trông cậy vào Thiên Chúa. Matthêu dùng từ ngữ “nghèo khó” (to pnêumati) mang chiều kích tôn giáo như được nói đến trong Cựu ước để nói đến những người nghèo khổ khiêm cung biết chạy đến Chúa, chỉ trông cậy vào Chúa như những kẻ hành khất mà thôi.

Hai mối phúc về “hiền hoà” và “ưu phiền” được nhắc đến không phải do bản tính mà là do hoàn cảnh của xã hội hoặc tôn giáo tạo nên. Chúa Kytô là Đấng “hiền hậu và khiêm nhường”, chính vì thế Người cũng muốn chúng ta hãy noi gương của Người, sống như những người bần cùng trong xã hội để không thể “lên mặt, vênh váo” được với ai. Cũng vậy, người ưu phiền lo lắng được khuyên hãy trở nên như những người nghèo sống trong tình trạng không có niềm vui. Người nghèo lo lắng cho tình trạng sống còn của mình như thế nào thì “người nghèo của Tin mừng” cũng hãy ưu phiền lo lắng về tội lỗi và những hậu quả của nó gây ra cho mình và cho nhân loại như vậy để chỉ biết chạy đến nguồn an ủi duy nhất nơi Thiên Chúa.

Ba mối phúc tiếp theo nói đến sự chính trực, lòng xót thương và tâm hồn trong sạch được xem như những người vâng theo thánh ý Chúa, thực thi công bình bác ái trong sự đơn sơ thanh sạch. Chính trực trong sự chu toàn mọi giới luật của Thiên Chúa. Chính trực trong đời sống. Chính trực với chính mình, với tha nhân. Lòng ngay thẳng và đời sống nhân đức đưa con người đến việc thực thi lòng bác ái yêu thương cách vô vị lợi nhằm kiến tạo hoà bình cho nhân loại.

Những mối phúc kể trên chính là những giá trị Nước Thiên Chúa dành cho những ai hết lòng tuân giữ và đem ra thực hành. Tuy nhiên, những giá trị đó luôn gặp phải những chướng ngại, những đối nghịch và bách hại. Chính vì thế Chúa Giêsu muốn đưa hai mối phúc sau cùng về sự bách hại như là hiệu quả tất yếu của những con người trung thành và bước theo đường chân lý. Chấp nhận những giá trị nước Thiên Chúa nghĩa là chấp nhận việc đi ngược lại với những giá trị thông thường vốn được xem là chuẩn mực cho cuộc sống mà con người đặt ra.

Với Chúa Giêsu, việc người Kytô bị bách hại vì sống công chính, sống ngay thẳng và thực thi công bình bác ái chính là những người hoạ lại hình ảnh của mối phúc thứ nhất. Lý do là, vì muốn kiếm tìm của cải không hề hư nát cho phần rỗi mai sau mà giờ đây, họ phải gánh chịu sự đau khổ và bách hại. Như thế, người chịu bách hại vì danh Chúa Kytô cũng chính là người nghèo thật sự và phần thưởng cho họ chính là Nước Trời mai sau.

Hiến chương Nước Thiên Chúa thực chất là những tin vui mà Thiên Chúa muốn dành cho những ai sống tinh thần nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, công chính, biết xót thương, trong sạch, mưu tìm hoà bình và chịu bách hại vì danh Chúa Kytô. Ai tiếp nhận mối phúc này, chắc chắn Nước Trời sẽ là phần thưởng cho họ ngay tại thế này.

 

29. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó

(Suy niệm của Lm. Thiện Cẩm)

Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bê-na-rét bằng câu: “Vạn sự sự vô thường, vạn sự khổ”, nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh, lão, bệnh, tử: Con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật, và cuối phải chết. Rõ thật cuộc đời chỉ là bể khổ!

Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện bên đất Pa-lét-tin, dõng dạc tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!” (Mt 5,3)

Một người mang tiếng là bi quan yếm thế, người kia lại bị coi như không tưởng, lạc quan quá cỡ. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn.

Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ sức lực để nghiên cứu, suy tư, bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu.. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh hai bài giảng đó. Tuy nhiên có lẽ chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra, cả Đức Phật lẫn Đức Kitô, đều không có chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới Chân Như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng; còn kinh nghiệm của Đức Kitô, là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất (x. Mt 10,39), và sự sống trong cái chết (x. Ga 12,24-25)

Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Người không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Đức Kitô cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ “có tâm hồn” vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo hèn nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người.

Trong cuộc đời, xưa cũng như ngày nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời ở khách sạn 5 sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.

Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái TÂM. Bởi thế các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh.

Chính đó là lý do tại sao Đức Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình. Thực ra tất cả những đức tính trên đây là những đức tính của “người nghèo của Thiên Chúa”, của một anawim, theo truyền thống Kinh thánh. Người nghèo của Thiên Chúa, không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Người và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu Người.

Nói theo Đông phương chúng ta, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hòa điệu giữa lòng mình với lòng Trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống sao cho hợp lòng Trời và lấy lòng của trăm họ làm lòng mình, “dĩ bách tánh tâm vi tâm” (ĐĐK XLIX,1).

Theo truyền thống Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng, hạnh phúc là sukha, đó là tình trạng giống như tình trạng của một bánh xe, mà trong đó mọi sự ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc, vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.

Nói tóm lại, không ai sướng khổ một mình hay chỉ tại mình, mà tất cả chúng ta liên đới và chịu trách nhiệm về hạnh phúc cũng như đau khổ của nhau. Vì thế mà trong Tám mối phúc thật, Đức Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.

 

30. Hạnh phúc – Lm. Nguyễn Ngọc Long

Hạnh phúc cần thiết cho đời sống mỗi người từ khi mở mắt chào đời cho tới khi nhắm mắt từ giã cuộc sống trần thế, ai củng mong muốn có hạnh phúc và ra công gắng sức để tìm hạnh phúc. Nhưng nếu hỏi hạnh phúc là gì, và làm thế nào để có được hạnh phúc? Có lẽ không mấy ai có thể cắt nghĩa cho rõ ràng được! Vì hạnh phúc không là điều đơn giản có thể thu tóm trong một định nghĩa hay một công thức, hay một bài viết. Hạnh phúc cũng không giống như chiếc áo, chiếc xe, hay cái nhà mà có thể vẽ ra thành hình hài có màu sắc, hay có thể mua sắm làm ra được.

Hạnh phúc là điều cảm thấy trong tâm hồn, trong cuộc sống, khi một biến cố, một lời nói cử chỉ mang lại niềm vui, mà họ chờ đợi từ lâu. Thí dụ, khi thi đỗ hay lam ăn phát đạt gặp dịp may, con cháu khỏe mạnh mau lớn, học hành giỏi giang, cước được người hằng mong ước, sang đoàn tụ với gia đình, được khen tặng tán thưởng, được khích lệ an ủi, thoát khỏi tai bay vạ gió, bình phục khỏe mạnh trở lại sau cơn bạo bệnh…

Trong Phúc âm, những người được Chúa chúc phúc, những người được gọi là hạnh phúc, lại có đời sống trái ngược. Họ phải gánh chịu cuộc sống đâu có gì sáng sủa mang lại hạnh phúc như chúng ta hiểu. Trái lại họ phải chịu phần thiệt thòi, sống hy sinh chịu đựng nhiều hơn là đàng khác! Tại sao Chúa lại gọi họ là những người có hạnh phúc? Phải chăng đó chỉ là những lời an ủi để họ bằng lòng với số phận “chịu vậy” cho xong?

“Phúc thay cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ” (Mt 5,3). Tất cả mọi người ai cũng cần có cuộc sống no đủ cơm ăn áo mặc, nhà ở, việc làm, cơ hội học hành thăng tiến cuộc sống cho xứng đáng nhân vị đời sống con người. Nhưng đời sống con người đâu chỉ gói trọn trong phạm vi bốn bức tường nhà ở của mình. Nó còn liên đới lan rộng và tùy thuộc với môi trường, với mọi người xung quanh nữa. Và đời sống con người đâu phải chỉ có nhu cầu cho thể xác, cho bao tử, cho sức khỏe, nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng tinh thần nữa: Lòng tin tưởng biết ơn Đấng Tạo Hóa.

Người nghèo khó trong tâm hồn là người nhìn nhận Chúa là Cha đời mình và sống bác ái, chia sẻ với người xung quanh mình. Chính tình liên đới đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa, có hạnh phúc.

Dưới con mắt của mọi người, những ai lâm cảnh hoạn nạn buồn sầu tủi khổ, họ là những người bất hạnh – Thử lòng trong đời đã có ai chưa một lần nào lâm cảnh này? – Nhưng đức tin dạy chúng ta: Thiên Chúa không bỏ họ một mình trong lúc sầu khổ, như Ngài đã hứa: “Con đừng sợ, trong cơn sầu khổ, Ta sẽ cứu độ con” (Is 43,1). Và trong hoàn cảnh bước đường cùng vẫn có những người anh chị em đồng loại sẵn sàng an ủi, giúp đỡ nhau. Điều này rất cần cho con người. Và chính điều này mang lại hạnh phúc cho cuộc sống.

Trong lúc gặp bước đường cùng khổ gian nan, mà biết có người cùng chia sẻ, cùng đồng hành với, sẽ cảm thấy được an ủi. Đời sống được an ủi, là đời sống có hạnh phúc.

Chúa chúc phúc cho những người có lòng nhân từ, lòng thông cảm với người khác (Mt 3,7-8). Có thể họ bị người đời cho là khờ dại hay “ăn cơm nhà, vác ngà voi hàng xóm”. Nhưng đâu phải như thế. Họ là những người kiến tạo hoà bình. Vì họ không lợi dụng người anh chị em mình lúc yếu thế sa cơ để kiếm lợi cho riêng mình như cảnh “dậu đổ bìm bịp leo!”, nhưng tìm cách tương trợ lẫn nhau “chị ngã em nâng”.

Họ là những người không tìm cách, tìm dịp xa gần nhục mạ bôi nhọ danh dự người khác. Lòng đạo đức nhân bản là nền tảng đời sống đức tin của họ, như lời Chúa dạy: Yêu thương, tha thứ cả kẻ bách hại các con (Mt 5,44).

Và trong đời sống, thiết tưởng ai cũng đã có kinh nghiệm quý báu này: Ngày hôm nay người này có thể là người thù địch, hay người không đồng ý kiến, tư tưởng với ta, nhưng ngày mai họ có thể sẽ trở thành bạn, người làm ơn cho ta! Nhà chí sĩ Nguyễn Trãi thuở xưa trên bình diện quốc gia dân tộc trong hịch Bình Ngô Đại Cáo đã kêu gọi: “Lấy chí nhân thay cường bạo!” làm nền móng xây dựng hòa bình cho xã hội, kiến tạo tình người, bắc chiếc cầu thông cảm tha thứ làm hoà với nhau.

Những người được Chúa chúc phúc, được Chúa hứa cho đời sống hạnh phúc là những ai? Họ là những người tin theo Chúa, sống rao giảng tình yêu Chúa, tình yêu bác ái tha thứ, thắp sáng niềm hy vọng cho mọi người bằng chính đời sống mình trong môi trường họ sinh sống.

Qua đời sống như thế “Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa trị đến”. Và người khác tìm thấy niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn khi nhận ra tình yêu thương, tương trợ nhau.

 

31. Chúa là phúc thật – Lm. Phạm Quốc Hưng

“Hãy vui sướng và hân hoan, vì phần thưởng các ngươi lớn thật ở trên trời”.

Người Ái Nhĩ Lan có một câu nói diễn tả lòng tự hào dân tộc của họ như sau: “Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Ái Nhĩ Lan và những người muốn trở thành người Ái Nhĩ Lan”. Là người Việt Nam và cảm thấy tự hào về truyền thống anh hùng của Việt tộc, dĩ nhiên tôi không chấp nhận câu nói trên. Nhưng tôi cũng không dám sửa câu đó thành: “Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Việt Nam và những người muốn trở thành người Việt Nam.” Vì tôi biết có những người không muốn nhận mình là người Việt Nam dù đã sinh ra trên quê hương Việt Nam và mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.

Dù vậy, tôi không sợ lầm khi sửa câu trên thành: “Trên thế giới chỉ có hai loại người: những con người hạnh phúc và những con người không được hay chưa được hạnh phúc”. Vì không có một người bình thường nào mà không mong mỏi khát khao hạnh phúc. Hạnh phúc viên mãn hay hạnh phúc đích thực bao giờ cũng là đối tượng tìm kiếm của trái tim nhân loại.

Nhưng làm thế nào để đạt được hạnh phúc?

Ai cũng mong muốn hạnh phúc, nhưng những quan niệm của con người về hạnh phúc, về cách thức để đạt được hạnh phúc thì thật khác nhau. Có người quan niệm hạnh phúc là có sức khỏe, nhan sắc, bạc tiền, tài năng, của cải, địa vị, học thức, và gia đình êm ấm thuận hoà. Người khác lại cho rằng hạnh phúc là được nhiều người ái mộ, làm được nhiều điều hữu ích cho xã hội, được đi vào lịch sử như những người hùng của nhân loại. Người khác nữa lại quan niệm hạnh phúc là phải từ bỏ mọi sự phiền toái của cuộc sống xã hội, sống ẩn dật như một loài thú đi hoang.

Trong Tin mừng hôm nya, Chúa Giêsu đã đưa ra những quy luật bất biến – chứ không phải một quan niệm vu vơ – để đạt đến hạnh phúc thực như con người hằng mong ước. Theo Ngài, những người hạnh phúc là

những người có tinh thần nghèo khó,

những người hiền lành,

những người ưu phiền,

những người đói khác sự công chính,

những người biết thương xót,

nhưng người tinh sạch trong lòng,

những người tác tạo hòa bình,

và những người bị bách bớ vì sự công chính.

Là Thiên Chúa và là Đấng tạo dựng nên chúng ta, Chúa Giêsu hiểu biết ta hơn là ta hiểu biết về chính mình. Ngài biết ta phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thực, nên Ngài đã chỉ cho ta biết những quy luật hạnh phúc trên. Nhưng điều này xem ra nghịch hẳn với quan niệm thông thường của con người về hạnh phúc. Nhưng đó là những chân lý không thể sai lầm.

Làm sao chúng ta biết được đây là những quy luật hạnh phúc chân thực nhất xưa nay? Vì những quy luật này đã được thể hiện nơi chính con người của Chúa Giêsu. Ngài đã sống trước khi giảng dạy chúng ta những điều ấy.

Thật vậy, nơi Chúa Giêsu chúng ta gặp thấy hiện thân của chính đức khó nghèo, chính sự hiền lành, chính sự ưu phiền, chính cơn đói khát công chính, chính lòng xót thương, chính lòng tinh sạch, chính sự hòa bình, và chính sự công chính đang bị bách bớ. Ngài là mẫu mực của tất cả những ai mà Ngài nhìn nhận là có phúc.

Nói cách khác, những quy luật trên sở dĩ gọi là những quy luật hạnh phúc bất biến vì chúng giúp người ta nên giống Chúa Giêsu và nên một với Ngài là Thiên Chúa làm người. Theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, chúng là những phương thức giúp ta “mặc lấy Chúa Kitô” và trở nên nên “đồng hình đồng dạng” với Người. Những quy luật này giúp chúng ta noi gương Chúa Giêsu, cắm sâu chôn chặt vào Thiên Chúa như nguồn hạnh phúc duy nhất của mình và sẵn sàng thoát ly tất cả những gì không phải là Chúa. Chúng sẽ giúp chúng ta thưa cùng Chúa những lời của Thánh vịnh gia:

“Tôi thưa cùng Yavê: Chính Người là Chúa của tôi, hạnh phúc của tôi, có đâu ngoài Người…

Yavê là phần cơ nghiệp, là chén của tôi,

chính Người là Đấng nắm giữ cơ đồ cho tôi!

Giây đo phần tôi rơi nhằm nơi tuyệt mỹ,

cơ nghiệp ấy làm cho tôi sung sướng!”

(Tv 16:2 & 5-6)

Điều quan trọng ở đây là chúng ta có dám dấn thân sống theo những quy luật hạnh phúc này hay không?

Sở dĩ cuộc đời chúng ta còn buồn tẻ chán chường, còn “sà sà mặt đất”, còn chưa được thăng hoa là vì chúng ta chưa dám thực hành những điều mà miệng ta nhìn nhận là chân là thiện. Cũng chính vì thế mà ta chưa cảm nếm được sự ngọt ngào và sức mạnh của Lời Chúa. Đúng như tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận xét: “Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của Lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa” (GCG Q.1 Ch. 1).

Trong quá trình phong thánh của Giáo hội, các vị á thánh là những người bắt đầu được dân chúng tôn kính nơi công cộng còn được gọi là những “chân phúc”, những con người được phúc thật, được phần thưởng thiên đàng, được sống đời đời. Lý do Giáo hội tôn phong các ngài là vì Giáo hội nhận thấy nơi các ngài là hình ảnh của chính Chúa Giêsu là Nguồn mọi sự thánh, thấy sự hiện diện của chính Chúa nơi cuộc đời các ngài. Phần phúc của các ngài cũng là phần phúc được Chúa hứa ban cho mỗi tín hữu chúng ta.

Cuối cùng rồi thì nhân loại vẫn được chia thành hai loại như những con chiên lạc được tách khỏi đám dê trong bài giảng về ngày phán xét cùng tận (Mt 25:31-46): những người được phúc thật là những người mang hình ảnh Chúa Giêsu vì đã nổ lực sống thánh thiện noi gương Người và nhưng người đã tự khước từ phúc thật đời đời vì đã chối bỏ lời mời gọi sống thánh theo gương Chúa Giêsu khi còn ở trần gian và đã đánh mất hình ảnh Thiên Chúa nơi mình bằng lối sống đắm chìm trong tội.

Với lời mời gọi của Chúa Kitô, với sự trợ giúp của Ơn Chúa, với sự thúc bách của Chúa Thánh Thần, với gương sáng và lời chuyển cầu của Mẹ Maria và chư thánh, chúng ta còn ngần ngại gì mà chưa nỗ lực sống thánh để đạt được phúc thật?

 

32. Phúc thật, phúc giả – Lm. Bùi Quang Tuấn

“Bài Giảng Trên Núi” hay “Hiến Chương Nước Trời” là bản tổng hợp xúc tích nhất của Tin mừng Đức Kitô. Và “Tám Mối Phút Thật” chính là nền tảng căn bản nhất của “Bài Giảng Trên Núi” đó.

Thế nhưng không tránh khỏi một câu hỏi đầy tính hiện sinh: làm sao nghèo hèn, hiền từ, ưu phiền, đói khát, bị bắt bớ…mà lại có phúc được? Phải chăng Đức Giêsu đang ru ngủ hạng bần cùng khốn khó, như Marx có lần tuyên bố: Kitô giáo biện chứng cho sự nghèo đói của nhân loại và làm lụn bại tinh thần đấu tranh vượt thoát áp bức. Phải chăng là như thế?

Dựa vào đâu để khẳng định nghèo khó, ưu phiền, đau khổ là có phúc, đang khi thực tế lại như những “vô phúc” đáng loại trừ?

Một nhà tư tưởng đã có lý khi nhận định: ấy là dựa vào con người của Đức Giêsu, vì Ngài chính là hiện thân của khó nghèo, hiền lành, lắng lo, khát khao, thương xót, tinh tuyền, hoà bình, và khốn khổ vì công chính.

Không phải bởi lâm vào tình cảnh bế tắc nên Ngài phải chịu vậy, song đây là một sự tự nguyện chọn lựa để làm nên mẫu gương ân phúc cho con người. Ví dụ, có lần ma quỉ đến nói với Đức Giêsu: “Nếu ông cúi mình bái lạy tôi thì tất cả vinh quang giàu sang của thế gian sẽ thuộc về ông”. Như vậy Chúa Giêsu có khả năng để nên giàu có, và giàu có lắm, vì được cả thế gian chứ không phải thường. Nhưng Ngài từ chối bái lạy “cha của bọn dối trá”.

Hay sau khi hóa bánh cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu được người ta tôn vinh làm vua. Khi làm vua, chắc là sẽ sung sướng và cao sang hơn người. Ấy thế mà Kinh thánh lại nói: “Ngài trốn lên núi”. Tại sao trốn? Phải chăng Đức Giêsu muốn khẳng định một điều: giá trị cao quí và cần thiết vô cùng không ở nơi của cải, cao sang, sức mạnh, chức quyền nhưng là nơi Thiên Chúa. Ai chọn lựa Thiên Chúa, ai đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài chính là người có phúc nhất. Thánh vịnh đã xác nhận điều đó khi nói: “Phúc thay người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa”. Vì sao? Vì khi đặt niềm tin tưởng như thế:

“Họ như cây trồng bên suối nước,

Trổ sinh hoa trái đúng mùa

Lá cây không bao giờ tàn úa

Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt”.

Thịnh đạt trong mọi công việc chính là phần phúc dành cho những ai chọn Thiên Chúa làm lẽ sống và con đường ngay thẳng của Tin mừng để bước đi, dù rằng nẻo đường đó không thiếu chật hẹp, gian nan, đau khổ và rướm máu. Thế nhưng có bước theo Chúa và gắng nên giống Ngài mới là phúc thật, còn ngược lại, thì dù được xem như thành công, giàu có, hạnh phúc, an lành, người ta vẫn là những kẻ vô phúc trong thiên hạ.

Mới đây, làng điện ảnh Hollywood thường đề cập đến nữ minh tinh Demi Moore, người rất được khán giả Hoa kỳ ái mộ, và cũng từng là vợ của Bruce Willis, một tài tử danh tiếng khác.

Nổi tiếng và giàu có, nhưng Demi lại đang sống trong tình trạnh mặc cảm, lo sợ, hối hận dày vò. Số là trước khi bước chân vào nghề điện ảnh, Demi đã làm một nghề tồi bại: cho chụp hình playboy thân xác của mình.

Mặc dầu đã tốn khá nhiều tiền mua lại các phim gốc, hầu xóa bỏ dấu tích của một thời thiếu đoan trang, Demi vẫn mang trong mình nỗi bất an lo sợ. Vì hiện nay đang có dấu hiệu xuất hiện các hình ảnh xấu xa của cô trên Internet.

Demi lo cho danh dự của mình một phần, nhưng nguy hiểm hơn, cô đang sợ một ngày kia, ba đức con gái bé bỏng của cô là Rumer, Scout, và Talluah sẽ nhìn thấy các hình ảnh “không nết na” của mẹ chúng trên Internet, hoặc bị bạn bè bắt gặp và đem ra trêu chọc. Demi không muốn chứng kiến cảnh các con ngây thơ vô tội phải xấu hổ đau khổ vì mình. Cô tâm sự: “Giấc mơ lớn lao nhất của tôi là tìm mọi cách thu hồi những tấm ảnh playboy đó và ném vào một đống lửa cho cháy tiêu tan”. Demi cũng cho hay cô không kiêu hãnh chút nào khi có người khen cô đẹp vẹn toàn, bởi vì cô đã phạm một lỗi lầm rất lớn là để cho người ta chụp hình khỏa thân hầu sớm nổi danh và giàu có.

Thế đó, cứ tưởng vừa giàu sang có sang trọng, vừa xinh đẹp và được mến mộ thì hạnh phúc lắm. Nhưng sung sướng gì khi thâm tâm cứ bị dày xéo cắn rứt không nguôi.

Thử hỏi sống như thế là có phúc hay vô phúc? Thành ra có nhiều điều người ta tưởng “sướng lắm” hay “phúc lắm”, nhưng khi đạt được rồi mới thấy bức rức, hụt hẫng, dày vò, dơ nhớp… bởi vì nỗi khát khao háo hức không phải là công chính và thẳng ngay.

Như vậy, con người chỉ có phúc thật khi khao khát Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Con người chỉ có bình an và thoả lòng thật sự khi bước đi trên nẻo đường thập giá của Phúc âm. Và con người chỉ có thể vui cười chiến thắng khi can đảm chiến đấu và chiến thắng bao dục vọng đam mê thế trần.

Đường lên thiên đàng khi nào cũng nhỏ hẹp và vất vả hơn đường xuống hỏa ngục đầy bóng mát thênh thang. Nhưng can đảm chọn lựa bước theo Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.

 

33. Xây dựng hoà bình

“Kể từ ngày 11/9/2001, ngày toà tháp đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở thành phố New York, Mỹ bị bọn khủng bố tấn công khiến cho khoảng 3000 chết cho đến nay, thế giới đã không có một phút nào yên. Thật vậy, trong suốt ba năm qua, mặc cho những cố gắng của các chính phủ, nạn khủng bố vẫn không ngừng gia tăng trên một diện rộng chưa từng thấy. Đó là vụ đánh bom đảo du lịch Bali (Inđônêxia) làm 202 người chết hồi tháng 2/2002, vụ đánh bon nhà ga xe lửa ở Madrid (Tây Ban Nha) hồi tháng 3/2004 làm 191 người chết, rồi hàng loạt vụ đánh bom chung cư ở Nga khiến 300 người thiệt mạng. Và gần đây nhất là vụ bắt cóc con tin tại một trường học ở Beslan (Nga) hồi đầu tháng 9/2004 gây ra cái chết cho 326 người, và làm bị thương 727 con tin, và vụ đánh bom toà đại sứ Úc ở Jakarta (Inđônêxia) hồi thượng tuần tháng 9/2004 vừa qua đã khiến cho 9 người chết và 170 người bị thương…”

Giữa lúc nền hòa bình thế giới đang bị đe dọa nặng nề, thì qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe vang vọng lời Chúa:

– Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Đúng thế, cho đến ngày hôm nay, hòa bình mãi mãi vần là một ước vọng sâu xa nhất của con người. Thế nhưng, chúng ta không thể ngồi yên để đón nhận hòa bình như đón nhận một quà tặng từ trời rơi xuống. Trái lại, chúng ta phải ra sức kiến tạo, phải tích cực góp phần xây dựng hòa bình.

Thế nhưng, việc kiến tạo và xây dựng hòa bình không phải được bắt đầu bằng những hội nghị bàn tròn hay bàn vuông, mà phải được bắt đầu ngay từ cõi lòng mỗi người. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy trong đêm Giáng sinh, các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:

– Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Giờ đây trong thinh lặng và bình tĩnh, nhìn vào tận đáy tâm hồn, chúng ta sẽ nhận ra kẻ nội thù phá hoại sự bình an của bản thân và của người khác chính là sự ghen tức.

Thực vậy, sách “Cổ học tinh hoa” đã kể lại một mẩu chuyện như sau:

Có một vị tướng, trước khi xuất quân, đã khao tất cả các binh sĩ một bữa tiệc thịnh soạn bằng thịt dê. Không hiểu vì quên lãng hay vì nghĩ rằng là chỗ thân tình, nên đã không báo cho anh đánh xe. Thế là anh đánh xe nổi giận đùng đùng, cho rằng mình đã bị đối xử tệ bạc.

Sáng hôm sau khi ra trận, anh ta đã đánh xe và chở thẳng vị tướng và giao nộp cho quân địch.

Chỉ vì một miếng thịt dê và do lòng ghen tức mà anh đánh xe đã phản bội, đã phá đổ mọi tình nghĩa mà vị tướng đã dành cho anh trong suốt bao nhiêu năm trời.

Với chúng ta cũng vậy, nhiều khi chỉ vì một miếng thịt dê, nghĩa là chỉ vì những quyền lợi nhỏ mọn, nhưng được lòng ghen tức thúc đãy và thổi phồng, chúng ta sẵn sàng coi những người thân cận ruột thịt là kẻ thù của mình. Chúng ta quên đi mọi tình nghĩa cũ để rồi tìm mọi cách triệt hạ cho bằng được những kẻ chúng ta ghen tức.

Thế nhưng, chính sự ghen tức này đã làm cho tâm hồn chúng ta trở nên bất ổn và nhiều lúc còn dày vò cắn rứt vì những lời nói chì chiết và những hành động thô bạo của chúng ta.

Và hơn thế nữa, sự ghen tức còn hủy diệt sự bình an giữa chúng ta và người khác. Bởi vì một khi đã nhìn nhau bằng cặp mắt không mấy thiện cảm, làm sao chúng ta có thể tạo được sự hài hòa và cảm thông.

Chình vì thế, để góp phần xây dựng sự bình an giữa chúng ta và những người chung quanh, thì việc đầu tiên cần phải làm ngay, đó là hãy trục xuất kẻ nội thù nguy hiểm này ra khỏi cõi lòng chúng ta, đó là sự ghen tức. Bởi vì có đánh bật tận gốc rễ sự ghen tức, thì bấy giờ chúng ta mới có thể nhìn nhau bằng cặp mắt trong sáng và từ đó mới dễ dàng đi tới chỗ hiểu biết và cảm thông với nhau hơn. Đó phải là yếu tố căn bản cho một sự bình an chân chính.

 

34. Tám Mối Phúc

Khi còn bé tôi nghĩ rằng nếu đào một cái lỗ xuống đất và cứ tiếp tục đào, đào mãi, tôi có thể làm thành một con đường hầm từ Việt Nam xuyên qua trái đất sang đến Hoa Kỳ. Tất cả mọi người Mỹ, nhà cửa, ruộng vườn… là thế giới lộn ngược!

Đó là lý luận của trẻ con. Nhưng một thế giới lộn ngược đối với Chúa Giêsu không phải là một tư tưởng quá điên rồ. Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi hôm nay, thánh Matthêu đã đưa ra Tám Mối Phúc làm đảo lộn những giá trị và sự khôn ngoan của con người. Những phúc lành của Chúa Giêsu là những giá trị bị lộn ngược.

Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai giàu có” thì Đức Giêsu lại nói “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai lanh lợi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hiền lành”. Đang khi người ta chúc phúc “Phúc cho những ai vui vẻ” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đau buồn”. Người ta chúc “Phúc cho những ai tiệc tùng linh đình”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đói khát điều công chính”. Người ta ước ao “Phúc cho những ai có quyền hành”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hay thương xót người”. Người ta muốn “Phúc cho những ai có thân hình đẹp đẽ thon thả”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai có lòng trong sạch”. Người ta muốn “Phúc cho những ai gây tin giật gân”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa”. Đang khi người ta muốn “Phúc cho những ai có đủ tiền mướn luật sư giỏi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính”. Lý do của sự đảo ngược giá trị này vì Chúa Giêsu rao giảng với tiêu chuẩn và uy quyền của thần linh. Chúa tập trung vào việc yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân, còn người trần gian lại tập trung vào sự hưởng thụ ích kỷ và thỏa mãn khoái lạc.

Triết gia Aristốt xưa kia đã nói: “Hạnh phúc (happiness) là cái mà tất cả mọi người tìm kiếm”. Đó là điều tự nhiên của con người. Sự ao ước này có nguồn gốc thần linh: Thiên Chúa đã đặt nó trong trái tim con người để lôi kéo con người lại với Người. Do đó những điều con người nghĩ là hạnh phúc, nhưng không đưa họ về với Thiên Chúa, đều là hạnh phúc giả tạo, khoái cảm mau qua, và không phải là phúc lành thực sự.

Người nghiện rượu tin rằng hạnh phúc nằm trong chai bia, chai rượu. Một chai chưa đủ, rồi hai, ba chai. Sau đó lái xe về nhà, vượt đèn đỏ, gây tai nạn. Sáng sớm tỉnh dậy thấy mình mẩy băng bó đầy những thương tích. Từ đó anh học biết rằng hạnh phúc hứa ban bởi rượu là giả tạo, hoàn toàn không phải là phúc lành tí nào!

Thế gian có thể tìm kiếm được khoái cảm mà họ muốn, nhưng cũng có thể mất. Một sự thay đổi về tài sản của cải, một sự suy sụp về sức khỏe, một kế hoạch bị thất bại, một tham vọng không đạt được, và ngay cả một sự thay đổi của thời tiết… cũng có thể lấy đi cái hạnh phúc mong manh do thế gian mang lại.

Phúc lành của người Kitô hữu hoàn toàn khác biệt. Không một yếu tố ngoại giới nào có thể ảnh hưởng đến, hay hủy diệt nó được. “Và niềm vui của các con”, Đức Giêsu đã nói “không ai lấy mất được”. “Các mối phúc thật cho thấy một trật tự của hạnh phúc và ân sủng, của vẻ đẹp và bình an”.

 

35. Phúc Tám Mối

Vào năm 258, hoàng đế Valerian ban lệnh bắt tất cả các giám mục, linh mục và thầy sáu vào tù. Đức Giáo Hoàng Sixtus II là người bị bắt đầu tiên. Ngài liền tin tưởng trao lại tài sản của Giáo Hội cho thầy sáu Laurensô với những lời hướng dẫn phải phân phát cho các bà góa và trẻ mồ côi. Thầy sáu Laurensô đã làm đúng như lời dặn của Đức Giáo Hoàng Sixtus II.

Khi Đức Giáo Hoàng Sixtus II bị đem đi hành quyết, Laurensô đã đi theo ngài khóc lóc thảm thiết: “Thưa Đức Thánh Cha, ngài vội vàng đi đâu vậy? Và con phải làm gì đây? Tại sao ngài lại đi đến nơi hiến tế mà không có thầy sáu, người phụ giúp bàn thờ của ngài? Con đã thi hành lệnh truyền của ngài về tài sản của Giáo Hội”. Đức Giáo Hoàng đáp: “Con yêu dấu, ta sẽ không bỏ rơi con đâu. Con sẽ theo ta trong ba ngày nữa”.

Ngay sau đó, Laurensô đã bị bắt. Ông quận trưởng đã yêu cầu Laurensô phải trao nộp tài sản của Giáo Hội. “Giáo Hội thực sự rất giàu có”, Laurensô trả lời “Tôi sẽ chỉ cho ông thấy những tài sản đó, nhưng hãy cho tôi một thời gian ngắn để gom góp lại. Thời gian đã được ban, và Laurensô đã đi đến với các bà góa, trẻ mồ côi, những người què quặt, và già yếu mà Giáo Hội đã giúp đỡ. Ngài đã qui tụ họ lại xếp thành hàng dài đứng trước cửa nhà thờ, rồi mời ông quận trưởng đến và nói: “Thưa ông, đây là những tài sản của Giáo Hội!” Viên quận trưởng nổi giận và hứa sẽ ban cho Laurensô một cái chết đặc biệt: từ từ và đau đớn.

Sau đó Laurensô đã bị xích vào vỉ sắt nướng thịt, nằm trên ngọn lửa cháy riu riu. Tuy chịu cực hình, nhưng lòng khát khao của ngài hướng về Thiên Chúa quá lớn lao đến độ ngài không còn cảm thấy đau đớn. Nằm trên vỉ sắt một lúc, ngài nói với ông quận trưởng: “Xin ông hãy lật sang mặt bên kia, bên này đã chín đủ rồi”. Quân lính đã làm y như vậy. Sau đó ngài lại nói: “Bây giờ cả hai bên đã chín, tất cả đã sẵn sàng, hãy đem ra phục vụ!” Rồi ngài cầu nguyện cho tòa thánh Rôma, để nhờ đó, thế giới có thể đón nhận được đức tin. Đang khi ngước mắt hướng lên trời, ngài đã tắt hơi thở cuối cùng trong niềm vui hân hoan được trở về với Thiên Chúa hằng sống.

Nơi Thiên Chúa, người nghèo khổ đặt tất cả sự phó tác tin cậy, người đau buồn tìm sự ủi an, người tội lỗi xin ơn tha thứ, người ốm đau được ơn chữa lành, kẻ bị bách hại có sức mạnh và lòng can đảm phi thường… Họ hoàn toàn tùy thuộc nơi Ngài. Vì thế tất cả phúc lành được trao ban cho họ.

Mẹ Têrêsa Calcutta là một người phụ nữ sống cho tha nhân. Suốt đời của mẹ sống với Phúc Tám Mối của Chúa Giêsu. Mẹ phục vụ những người nghèo khó nhất trần gian là để bắt chước lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Ngay cả những người không phải là Kitô hữu đã nhìn vào mẹ Têrêsa và thấy mẹ có một điều gì đó giống như Thiên Chúa và có thể nối kết với Ngài. Một người ăn xin đang hấp hối bên vệ đường thành phố Calcutta, sau khi được cứu sống đã hỏi mẹ Têrêsa: “Trên trần gian này, có điều gì giống với Thiên Chúa không?” Mẹ trả lời: “Không, tôi đang cố gắng là một cái gì đó giống như Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”.

Cha Henri Nouwen, tác giả nổi danh của nhiều tác phẩm tu đức, khi ngài còn sống đã gặp mẹ Têrêsa ở Rôma. Ngài nói rằng điều đáng chú ý nhất nơi mẹ Têrêsa, là mẹ thường xuyên tập trung vào Đức Giêsu. Dân chúng bu quanh lấy mẹ và đặt biết bao nhiêu câu hỏi. Mẹ đã trả lời với một nguyên tắc duy nhất: tập trung tất cả nơi Đức Giêsu. Những câu trả lời của mẹ, mới nghe có vẻ “đỏ mặt” vì đơn sơ và ngây thơ, phản ảnh những thói quen của một người sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa. Chính cha Nouwen cũng đã cảm nhận được một sức mạnh dịu dàng và êm đềm phát ra từ những câu trả lời đó.

Phúc Tám Mối là những con đường dẫn ta về Nước Trời theo gương Chúa Giêsu đã đi. Đó không phải là tám con người khác nhau, nhưng là tám bức hình chụp từ những góc cạnh khác nhau của cùng một người, người đặt hoàn toàn tin tưởng và tùy thuộc vào Chúa Giêsu Kitô, người sống theo giảng thuyết và trở nên giống như Ngài.

Ở Hoa Kỳ hằng năm những hãng xăng dầu thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi tờ báo “Chicago Times Herald” vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới Waukegan cho các độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu đòi hỏi những bản đồ chỉ đường giữa các thành phố. Những tấm bản đồ vẽ ra những con đường tốt nhất, những chỗ phải đi đường vòng, những điều kiện của xa lộ, những chỗ nghỉ ngơi, đổ xăng và những điểm cần phải chú ý dọc theo bên đường…

Sách Giáo lý Công giáo giải thích rằng: “Trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngài luôn tỏ mình là “khuôn mẫu của chúng ta”. Ngài là “Con người hoàn hảo” và Ngài mời gọi chúng ta đến làm môn đệ Ngài, bước theo Ngài: trong sự hạ mình của Ngài. Ngài đã để lại cho ta một gương để noi theo; bằng lời cầu nguyện của Ngài, Ngài thu hút ta vào việc cầu nguyện; bằng sự khó nghèo của Ngài, Ngài kêu gọi chúng ta hãy tự ý chấp nhận cảnh thiếu thốn và những cuộc bách hại”.

Phúc Tám Mối là tất cả những gì Chúa Kitô đã sống, Ngài muốn chúng ta sống những điều đó trong Ngài, để Ngài sống trong chúng ta như Công đồng Vatican II đã nói: “Do sự Nhập Thể của Ngài, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã kết hiệp với mỗi người chúng ta”.

 

36. Chú giải của Noel Quession

Thy đám đông, Đức Giêsu lên núi…

Phải suy nghĩ về những lời dẫn nhập đầu tiên này của bài giảng trên Núi Thánh Matthêu giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu lúc bắt đầu sứ vụ của Người, có một đám đông đi theo Người. Và những câu trước đó mô tả đám đông ấy gồm, những người bệnh hoạn, tật nguyền, những kẻ kinh phong, bại liệt… (Mt 4,23). Đức Giêsu là Đấng nhìn thấy đám đông lầm than vất vưởng mà chạnh lòng thương… như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngày hôm nay… tôi nhìn thấy ánh mắt của Đức Giêsu đẫm lệ xót thương những ai bị đè bẹp: bệnh hoạn, tật nguyền, những người không việc làm, những phụ nữ bị nhạo báng, những người nghèo thuộc mọi thành phần, “những người thu thuế và tội lỗi” cả một nhân loại ấy bên bờ tuyệt vọng.

Khi Đức Giêsu nhìn thấy tất cả nhữngđiều đó… Người làm gì? Người nói gì?

Đức Giêsu lên núi. Người ngi xung các môn đệ đến gn bên. Người m ming dy h rng:

Phong cảnh này được cố ý dựng lên vĩ đại và long trọng. Đức Giêsu rất con người nhưng theo Tin Mừng của Matthêu cũng là “Đức Chúa Vinh quang”, uy nghi như một tranh thánh của phương Đông. Phong cảnh núi non là “bài giảng” Đây không phải là một phác họa cho diễm lệ, đó chính là khung cảnh vĩ đại của việc công bố luật mới là núi Xi-nai mới, đỉnh núi bốc khói nơi Thiên Chúa nói với dân. Và Đức Giêsu là Môsê mới, nhà làm luật, nhà giải phóng chân chính cho tất cả những ai đang sống trong nô lệ.

Vâng, bạn đang bị đè bẹp bởi một hoàn cảnh mà con người không thể chịu đựng nỗi, bạn hãy lắng nghe! Thiên Chúa muốn nói với bạn môt điều. Bạn đang khốn khổ bởi vì bạn cảm thấy bị tổn thương trong những khát vọng sâu nhất bạn hãy lắng nghe! Nếu bạn có cơ may “‘hiểu được, điều Người sắp nói với bạn, thì cuộc đời bạn sẽ được thay đổi. Hãy lắng nghe… Bạn hãy lắng nghe Thầy. Bạn hãy lắng nghe Đức Giêsu.

“Phúc thay… Phúc thay… Phúc thay…

Đó là chữ đầu tiên của tất cả các câu trong “bài giảng trên núi”.

“Phúc thay”!, “makarioi” trong tiếng Hy-lạp.

“Phúc thay”!, “asherei” trong tiếng Do Thái…

Vâng chủ đề của bài thuyết giáo đầu tiên của Đức Giêsu chính là hạnh phúc. Các mối phúc thật là một sự loan báo về hạnh phúc, một “tin mừng tóm lược toàn bộ Tin Mừng. Các bạn là những người nghèo khó, bị khinh miệt những người chán nản, thất vọng, các bạn có thể được hạnh phúc. Các bạn hãy hạnh phúc. Bởi vì hạnh phúc thật trước tiên không phải là công việc của sự giàu sang, của sự thành công, của lạc thú. Bạn đã tưởng rằng hạnh phúc không dành cho bạn… Đức Giêsu nói với bạn rằng bạn có thể được hạnh Phúc. Đức Giêsu muốn làm cho các môn đệ của người trở thành những người hạnh phúc. Bạn là Kitô hữu! bạn có biết rằng bạn đang hạnh phúc không? Nếu bạn không hạnh phúc, bạn không hỏi tại sao ư?

Nhưng vấn đề là hạnh phúc nào? Có nhiều loại hạnh phúc.Và hạnh phúc khi nào? Cho cuộc đời hiện tại hay cuộc sống mai sau?

Phúc thay ai có tâm hn nghèo khó…

Phúc thay ai hin lành…

Phúc thay ai su kh

Phúc thay ai khao khát nên người công chính…

Phúc thay ai xót thương người…

Phúc thay ai có tâm hn trong sch…

Phúc thay ai xây dng hòa bình…

Phúc thay ai b bách hi vì sng công chính…

Hạnh phúc mà Đức Giêsu nói đến không loại trừ những nghịch cảnh và sự đau khổ. Chúng ta đã thấy điều đó qua tất cả bản văn, một cách chính xác Đức Giêsu nhắm đến những người mà người ta coi như những người bất hạnh. Các mối phúc thật không nhắm đến “những”hạng người khác Những từ ngữ thay đổi ở đó chỉ để làm dôi lại một tư tưởng duy nhất: “Anh em hãy đến cùng tôi. tất cả những ai đang vất vả và nặng nhọc, và tôi, tôi sẽ cho anh em sự nghỉ ngơi. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học vôi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mátthêu 11,28-30).

Vâng, Đức Giêsu đúng là Đấng mà người ta chờ đợi “Đấng đã được loan báo”, “Đấng phải mang lại Tin Mừng “cứu độ” Người ta hay quên rằng chữ “Tin Mừng” đã được chính Đức Giêsu lấy lại từ phần thứ hai của sách I-sai-a: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu (oint = chnstoa) tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức…” (I-sai-a 61, 1.6 – Lc 4, 18)

Phúc thay… vì Nước Tri là ca h

Tám mối phúc thật đầu tiên được đóng khung bằng sự bao gồm này, được lặp lại hai lần ở đầu và ở cuối (Mt 4,3 và 4,10). Bởi công thức này, Đức Giêsu trả lời hai câu hỏi của chúng ta: hạnh phúc nào? khi nào? Vấn đề là một hạnh phúc “từ bây giờ”. Nước trời đang ở trong anh em: Không phải chỉ là một hạnh phúc được hứa cho mai sau, cho đời sau. Phải hiểu rõ sự tế nhị trong tư tưởng của Đức Giêsu.

Sẽ là một sự hiểu sai khi biến nó thành một thứ “thuốc phiện của quần chúng để người ta hút và ngủ thiếp đi với lại hứa sẽ được hạnh phúc sau này, bên kia thế giới sau khi chết! Đức Giêsu nói rằng những ai bị đè bẹp bởi thế giới này thì được hoặc có thể được hạnh phúc một cách thiết thực ngay trong lúc mà Đức Giêsu nói điều đó với họ. Nhưng điều này không hiển nhiên. Phải ý thức về nó. Và điều ấy dĩ nhiên không loại bỏ viễn cảnh của một “thế giới

phải đến”, “Nước Thiên Chúa” nhưng niềm hy vọng ấy đã chuyển biến hiện tại. Tương lai hạnh phúc mà Đức Giêsu hứa ban cho tất cả những ai bị hoàn cảnh nhọc nhằn hiện tại đè bẹp…. tương lai ấy đã trở thành một thực tại hiện diện trong ngôi vị và tình bạn hữu của Đức Giêsu

Bởi vì hạnh phúc ấy, chúng cuộc, chính là Triều đại của Thiên Chúa”, chính là “Tinh yêu Thiên Chúa” ngay từ Hôm Nay nếu bạn muốn thật sự soi sáng hoàn cảnh đau khổ của bạn. Đức Giêsu không bao giờ định nghĩa “Nước Thiên Chúa (những chữ Nước, Triều đại, Vương quyền đều giống nhau trong tiếng Do Thái), nhưng nó gợi lên ý tưởng và người ta có về Đấng Quân Vương, Đấng Thiên Sai lý tưởng trong toàn bộ Phương Đông Cổ đại: chức năng đầu tiên của vua (Đấng quân Vương) là bảo đảm sự giải phóng khỏi mọi sức mạnh ngoại bang đang đe dọa… bảo đảm công lý và bảo vệ những người nghèo, trẻ nhỏ chống lại những người giàu sang và quyền thế là những người luôn luôn có khuynh hướng bóc lôt những người yếu đuối. Khi Đức Giêsu khẳng định rằng những người nghèo là những người được Thiên Chúa ban đặc ân, rằng triều đại của Thiên Chúa thuộc về họ, rằng công lý vương đế đứng về phía những người phận nhỏ….Đức Giêsu không nói rằng những người nghèo là những tốt nhất, đạo đức hơn những người khác. Vấn đề ở đây không phải là tâm lý hoặc đạo đức của những người nghèo. Trong. Những công bố này về các mối phúc thật, có một sự mạc khải một ý tưởng nào đó về Thiên Chúa: Thiên Chúa tự nhận mình có bổn phận là một ông vua tốt. Thiên Chúa đặt niềm vinh dự của Người trong việc đem lại “hạnh ‘phúc”, một cách mầu nhiệm, cho những người bị tước đoạt hết mọi hạnh phúc của con người. Cho cả bạn nữa, nếu bạn muốn! Hạnh phúc nghịch lý và không thể hiểu được đối với người nào đã không cảm nghiệm nó.

Vậy bạn hãy thử xem. Hãy bước vào hạnh phúc đó của Thiên Chúa. Ngay NGÀY HÔM NAY.

Nếu bạn đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa toàn diện” của các mối phúc thật, lúc đó bạn hãy lắng nghe cách thể hiện mà Matthêu đem lại. Sự công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa trình bày một chương trình sống cho người Kitô hữu: nếu bạn muốn hạnh phúc thì đó là cách mà bạn phải làm.

Phúc thay ai có tâm hn nghèo khó, vì Nước Tri là ca h.

Phúc thay ai hin lành vì h s được Đất Ha làm gia nghip.

Cùng một chữ Do Thái “anawim’: có thể được dịch là “nghèo khó” hay là “hiền lành”. Đó là hai khía cạnh của cùng một thực tại. Chữ “anawim” gợi lên hình ảnh của một người “bị uốn cong”, thái độ của kẻ yếu không còn khả năng tự vệ bắt buộc phải nhường bước trước những người là nạmh nhất. Là người bị hạ nhục, bị làm cho thấp kém, người đó dù là nam hay nữ không làm sao để cho người ta tôn trọng các quyền của mình…. Người “hiền lành” chính là người không bực tức trước sự thịnh vượng của những vô đạo và họ không đánh mất lòng nhẫn nại. Đức Giêsu nói về người “Thầy hiền lành và khiêm nhường ở trong lòng (Mt 11,29-12, 18-21). Bị các kẻ thù công kích, Người tha thứ cho họ. Đức Giêsu đã sống mối phúc thật thứ nhất:

Phúc ai su kh, vì h s được Thiên Chúa i an.

Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì h s được Thiên Chúa cho tha lòng.

Phúc thay ai xót thương người vì h s được Thiên Chúa xót thương.

Phúc thay ai có tâm hn trong sch, vì h s được nhìn thy Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã khóc với Mát-ta và Ma-ri-a. Đức Giêsu hoàn toàn “tương ứng” với ý muốn của Chúa Cha: Người là Đấng Công chính. Người là lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Người đã tha thứ tha thứ và tha thứ… Tâm hồn Người “thanh khiết” vô song, không chút sai lầm, không chút quanh co: hành động và ý định của Người hoàn toàn thống nhất.

Phúc thay ai xây dng ha bình, vì h s được gi là con Thiên Chúa.

Phúc thay ai b bách hi vì sng công chính, vì Nước Tri là ca h.

Đức Giêsu đến để đem lại hòa bình. Ồ, những ai xây dựng hòa bình thật hạnh phúc, họ hòa giải những cặp vợ chồng gây gỗ, cãi vã nhau, họ nối lại những tình bạn bất hoà? họ làm dịu bớt những xung đột giữa cha mẹ và con cái trong gia đình, họ tạo ra sự lắng nghe và hiểu biết lẫn nhau. Không có sự phục vụ nào lớn hơn là phục vụ anh em mình. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không như thế gian ban tặng”. (Ga 14,27). Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng” hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

 

37. Chú giải của Fiches Dominicales

CÁC MI PHÚC

VÀI ĐIM CHÚ GII:

  1. Tin vui

Hai trong bốn tác giả Phúc âm tường thuật các mối phúc trong phần mở đầu cho bài đại diễn từ cương lĩnh của Đức Giêsu. Theo thánh Luca, bài diễn từ quan trọng này diễn ra “ở đồng áng”, vào lúc quan trọng nhắt của sứ vụ Đức Giêsu ở Galilê, trái lại theo thánh Mátthêu, nó diễn ra vào buổi đầu của sứ vụ Chúa Giêsu ở Galllê, và ở trên núi tượng trưng núi Sinai nơi Môsê mới sẽ công bố Lề Luật của Giao ước mới. Bốn mối phúc tương ứng với bốn lời chúc dữ theo trình bày của Luca chắc chắn gần với chính lời của Chúa Giêsu hơn tám mối phúc của Mátthêu vì Mátthêu nhằm áp dụng giáo huấn đích thực của Chúa Giêsu vào thực tại đời sống Kitô hữu nơi các cộng đoàn của ngài. Hạnh phúc mà các mối phúc công bố cũng như hạnh phúc cho những người sống các mối phúc này trong những hoàn cánh cụ thể của cuộc đời: “Phúc cho ai có lòng khó nghèo!…Phúc cho ai hiền lành!… không phải do chinh phục mà được, nhưng là ơn huệ Thiên Chúa ban qua con Ngài là Đức Giêsu Kitô. Họ được ban tặng hạnh phúc này ngay rừ bây giờ: “Nước Trời là của họ”. Hạnh phúc ấy sẽ triển nở dưới ánh sáng của đời sau: “Phần thưởng của các con sẽ lớn lao trên trời”. Cl. Tassin chú giải: “hạnh phúc” trong Kinh thành là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét. (Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr. 58).

  1. ca mt hin ti nhào nn tương lai.

Bốn mối phúc đầu của Mátthêu tương tự nhau: ca ngợi người biết hướng về Thiên Chúa và từ chối mọi bạo lực.

+ Phúc cho ai có lòng khó nghèo: vì Nước Trời là của họ. “Sự khó nghèo” mối phúc này nhắm tới không phải là sự khó nghèo về vật chất ; nhưng là thái độ tinh thần của một người nghèo rự nhận mình không có quyền hành gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của người cha. Potel chú giải: “Người Kitô hữu trước hết nhìn nhận rằng mình đã mãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa mà Đức Giêsu dạy phải nhận ra và yêu mến Ngài như người. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm lặng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Một điều nghịch lý là sự khiêm nhường triệt để này lại tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thực vậy, phẩm giá này còn dựa trên sự giầu có cũng như nhận đức tính nhân bản nhưng trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu! (Đức Giêsu, lịch sử đích thực, Centuion. 1994, tr. 146-147).

+ Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp. Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc trên từ một câu thánh vịnh 36: “những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn”.

  1. Potel nói tiếp: “Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có một phương tiện thể lý hoặc pháp lý nào được bảo vệ vụ kiện của mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta nói nó là kết quả của sự không dùng bạo lực (sách đã dẫn, tr.147) + Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được an ủi dĩ nhiên phải hiểu là: họ sẽ được Thiên Chúa an ủi bởi vì các nhà chuyên môn gọi thì thụ động ở đây là thì phụ động thần học. Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một tia hy vọng: Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách. (Sách đã dẫn).

+ Phúc thay ai khát khao nên người công chmh, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng. Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh. Sự công chính có mối phúc thứ bốn được hiểu là tự điều chỉnh tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã lành Thiên Chúa ở đây là đấng đã đến gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện sự công chính”. Đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại (Sách đã dẫn).

Họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng Người Kitô hữu hiểu rằng cuối đời họ sẽ nhận được sư sống sung mãn từ Thiên Chúa giao ước. Và theo họ, nếu đời sống đạo đức bắt nguồn từ Thiên Chúa thì nó cũng sẽ hoàn tất nơi Ngài. Bốn mối phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô.

+ Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân rừ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Giêsu học biết tha thứ những xúc phạm, trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.

+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa. Sự trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chinh trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm, giữa hành vi và động cơ sâu xa của nó. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.

+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa! Jean Potel giải thích: Đối với cuộc sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hoà hợp và an lành không đủ. Ngài đòi hỏi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia đình, một công đoàn Kitô hữu, giữa các nhóm xã hội cũng như các dân tộc. Hòa bình không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Nhưng người đời sống hòa bình sẽ được gọi là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiện vụ của con là tiếp tục công việc của cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hòa bình đến cho con người. (Sách đã dẫn. tr. 148 ).

+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ!”. Trung thành thân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong Các Mối Phúc không phải là không có những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của ngài là những người nghèo thực sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.

Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean Potel kết luận ngài hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình ; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều Đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha”. (sách đã dẫn, tr. 149).

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. “Lng nghe li Đức Giêsu trong tương quan sng động vi con người ca Ngài”.

(Đức Cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần”, Desclée de Brouwer, 1994, tr.43-44).

Mấy lời dẫn nhập và “diễn từ” của Đức Giêsu được tập hợp lại trong bài “diễn từ”: “Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng”. Ta đừng khinh thường bỏ qua những hàng này. Nhờ chúng, toàn bộ diễn từ theo sau mới có ý nghĩa, bởi vì bài diễn từ này không chỉ đơn giản là một chuỗi những câu trống không nói lên những qui tắc về một lối sống đạo đức. Nó là lời của Đức Giêsu: Người mở miệng dạy họ rằng. Đừng quên con người Đức Giêsu. Ngài nói với đám đông và đám đông phản ứng: ở cuối bài giảng trên núi, tác giả Tin Mừng nói với chúng ta: “Khi Đức Giêsu Giảng dạy những điều ấy xong, đám đông sửng sốt về lời giảng dạy của Ngườ, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ.” (7,28-29) Điều đánh động đám đông không phải là giáo thuyết nhưng là con người của Đức Giêsu và thẩm quyền nơi lời của Ngài.

Chúng ta cũng vậy, hãy nghe lời Đức Giêsu không như những chân lý ngàn đời, nhưng trong mối tương quan sống động, với bản thân Ngài. Chính con người của Ngài làm cho giáo huấn của Ngài có thẩm quyền. Chiêm niệm những gì mình đọc là điều cần thiết, đừng chỉ suy tư về vẻ đẹp và về những đòi hỏi trong lời Đức Giêsu nói. Thẩm quyền lời Đức Giêsu biến thành một bảng xét mình cũng không đúng. Vì như vậy, lời Chúa sẽ trở thành một đối tượng chiếm hữu, một phương tiện sử dụng… để tạo dựng một đời sống tốt lành, một sự hoàn thiện cho chúng ta, như những người Biệt phái. Trái lại, chúng ta phải đón nhận lời từ miệng Đức Giêsu, phải chăm chú điều Ngài muốn nói với chúng ta… chứ không phải vào điều mà những lời này nói với chúng ta, vì làm như vậy có nguy cơ là những lời này chúng nói gì với chúng ta! Một nguy hiểm nghiêm trọng là ta thường đọc Tin Mừng chỉ như một bản văn đơn thuần, như một đối tượng để biến thành phương tiện sử dụng. Tin Mừng là nơi gặp gở, nơi lắng nghe. Khi ta không hiểu rõ lời Ngài nói chúng ta có thể xin Ngài giải thích để ta hiểu. Khi ta không thể thực hiện được điều Ngài đòi hỏi, ta xin Ngài giúp đỡ gặp gỡ Đức Giêsu, nghe Ngài, cầu xin Ngài cho ta có tai để biết nghe, cho ta sức mạnh để thực hiện, đó là cách ta đọc Tin Mừng. Ta hãy lắng nghe những gì Đức Giêsu nói trong bài diễn từ trên núi này. Cầu xin Ngài cho chúng ta hiểu lời Ngài dạy và đem ra thực hành.

  1. “Các mi phúc: li ha và món quà hnh phúc”.

(J. Guillet, trong ‘Đức Giêsu trong đức tin của những môn đệ đầu tiên’ Dédée de Brouwer, 1995, tr. 96-97).

“Khi mở đầu sứ điệp của Ngài bằng các mối phúc, Đức Giêsu không muốn phác họa một còn đường đưa đến hạnh phúc, một lộ trình buộc ta phải theo, nhưng Ngài hứa: một quà tặng mà chỉ có Ngài mới có thể ban. Ngài không bảo ta đi tìm hạnh phúc hay chờ đợi nó. Đây chỉ là sư mơ ước theo tính toán của ta, niềm hy vọng phát sinh từ những ước muốn của ta. Ngay trước khi công bố các mối phúc, Đức Giêsu đã kêu gọi dân chúng sám hối và tin tưởng, anh em hãy sám hối là tin vào Tin Mừng! Khi mời gọi sám hối và công bố Tin Mừng trọng đại, Đức Giêsu xuất hiện như một tiên tri cao cả nhất từ trước tới nay. Khi tung ra các mối phúc, Ngài tỏ ra mình là người khôn ngoan và giới thiệu một kinh nghiệm. Tin Mừng vừa là lời tiên tri của một biến cố vĩ đại vừa là sự chuyển thông đức khôn ngoan.

Tin Mừng không phai là đi tìm hạnh phúc nhưng là lời hứa và quà tặng hạnh phúc vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người để họ được hạnh phúc. Nhưng đó không phải là thứ hạnh phúc mà họ ước mơ và hăng say chinh phục: Hạnh phúc đây chính là sự sống cua Thiên Chúa ban cho con người là trong hạnh phúc đó, ngài qui tụ tất cả con cái Ngài lại. Ta có thể làm sai lạc ý nghĩa của các mối phúc cũng như làm méo mó hình ảnh của Đấng Thiên Sai đến nỗi không còn nối kết hình ảnh ấy với Đức Kitô được nữa Ngài không nói: anh em nghèo khổ nên anh em sẽ được hạnh phúc ; Ngài cũng không nói: anh em hãy nghèo khổ để được hạnh phúc. Ngài chỉ nói: anh em nghèo khổ, hạnh phúc đến với anh em. Ngài có thể nói điều đó bởi lời Ngài đem đến hạnh phúc này, bởi vì chính bản thân Ngài là niềm vui là hạnh phúc của Thiên Chúa. Nhưng để cảm nhận được điều này, phải tin và ưng thuận theo Ngài. Hạnh phúc này không thuộc về một thế giới khác với thế giới ta đang sống Nó cũng không được cất giấu ở một nơi bí mật. Nhưng ngay từ bây giờ nó đã được ban tặng cho tất cả mọi người, là trước hết là những người đau khổ. Những phép lạ Đức Giêsu đã gieo trên đường rao giảng là dấu chỉ cho thấy Ngài chính là cội nguồn hạnh phúc. Đây chỉ là những dấu chỉ, chúng không biến đổi hoàn cảnh ta đang sống, nhưng chỉ ra một lối thoát là cho ta nghe được lời mời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi”. (Mt. 1l,28-30) Đó là phong cách và ngôn ngữ của một tôn sư về sự khôn ngoan của một người đã sống một kinh nghiệm và tự biết anh có thể truyền đạt nó. Đó cũng chính là người cộng tác mối phúc và ngôn ngứ vẫn là một: Phúc cho những ai hiền lành-Ta là Đấng hiền lành ; nghỉ ngơi hòa bình. Từ dùng có thể thay đổi, nhưng vẫn là kinh nghiệm ấy, tiếng nói ấy, tấm lòng ấy. Chỉ có Ngài mới biết hạnh phúc là gì ; chỉ có Ngài mới có thể ban hạnh phúc vì hạnh phúc là quà tặng của Thiên Chúa.”

 

38. Phân tích chi tiết mỗi chân phúc – GHHV. Đàlạt

A- Chân phúc th nht: nhng k nghèo khó trong tinh thn (5, 3)

  1. Ni tâm hóa mi phúc: ý nghĩa đại cương của tiều tiết tôi pneumati, “trong tinh thần” (riêng Matthêu) thật rõ ràng: Matthêu chú trọng vào một thái độ tâm hồn hơn là vào giai cấp khó nghèo trong xã hội. Tin Mừng cũng cống hiến nhiều thành ngữ tương tự Trong 1 Cr 7,34, người trinh nữ được gọi là “thánh trong thân xác và thần hồn” (kai tôi somati kai tôi pneumati), vì bên cạnh việc thánh hiến thân xác, thành ngữ còn gợi lên một thái độ tâm hồn, thái độ nhờ đó người trinh nữ chú tâm làm đẹp, một mình Chúa. Xem Cv 18,25 (Apollô có tâm hồn nhiệt nồng); 20,22 (Phaolô bị xiềng trong tinh thần; Ng-Thế-Thuấn: bị xiềng bởi Thần khí). Trong bản 70, người ta cũng nêu ra được rất nhiều thành ngữ tương tự: “tinh sạch trong lòng”, “thẳng thắn trong lòng”, “tan nát tâm hồn”, “không cắt bì trong tiệm”… Hết thảy các công thức đó đều nói lên mối ưu tư muốn nội tâm hóa một tính cách, bằng cách xác định trung khu của nó là trong tinh thần; đấy là một thái độ tinh thần vậy.
  2. Các li gii thích khác nhau v chân phúc này. Phải loại bỏ mọi cách giải thích cho rằng tinh thần là đối tượng, chứ không phải là trung khu của sự khó nghèo, cho rằng những ai có tinh thần nghèo khó là những kẻ nghèo nàn về tinh thần, những kẻ thiếu ơn Thần khí và đang cảm thấy nhu cầu, những kẻ mà sự bần cùng là ở chỗ không hiểu biết những điểm tinh tế trong các nố pháp luật (đối nghịch với các tiến sĩ Luật).

Còn lại hai lối giải thích xem tinh thần như là trụ sở của sự nghèo khó. Theo lối giải thích đầu, đấy là một thái độ từ bỏ và siêu thoát bên trong đối với của cải. Sự nghèo khó trong tinh thần ấy không tất nhiên mâu thuẫn với việc chiếm hữu của cải nhưng với lòng dính bén chúng từ bên trong. Tuy nhiên có một vấn đề được đặt ra: đâu là tương quan giữa đức siêu thoát nội tâm này với sự khó nghèo đích thực bên ngoài? Khi nhấn mạnh tới thái độ bên trong, phải chăng Matthêu muốn ngầm bảo rằng ta có thể thỏa mãn về thái độ ấy mà không cần cho sự nghèo khó tinh thần phải được một tình trạng cụ thể bên ngoài tương ứng? Matthêu minh định rằng sự khó nghèo nội tâm làm nên cái cốt yếu; ông không mấy để ý tới nỗi túng thiếu bên ngoài, vì nó chỉ có ý nghĩa trong tương quan với sự nghèo khó bên trong. Nhưng theo vặn mạch chung của các Tin Mừng, phải nhận trong khó quan niệm được một kẻ giàu có biết siêu thoát tài sản của mình.

Lối giải thích thứ hai coi người nghèo là những tâm hồn không chỉ dứt bỏ của cải, song còn biết từ khước chính mình và phó thác cho Thiên Chúa. Sự nghèo khó này chẳng những liên hệ đến tài sản vật chất, mà còn lan rộng tới các loại của cải khác như -tiếng tăm, khả năng, công nghiệp thiêng liêng tinh thần nghèo khó bấy giờ tương đương với khiêm hạ. “Nghèo khó trong tinh thần là những kẻ có ý thức đầy đủ và đau đớn về sự nghèo nàn thiêng liêng của mình, về tính cách bất toàn của tâm hồn mình, về sự thiện ít ỏi mình đang mang, về sự bần cùng luân lý mà phần lớn nhân loại sa phải. Chỉ có những kẻ nghèo biết mình nghèo mới đau khổ về sự túng cực của mình cùng cố gắng thoát ra khỏi đó. Và họ khác xa biết bao với các người giàu giả tạo, những kẻ tưởng mình kiện toàn, không thể cải thiện hơn, đúng phép với hết thảy, đẹp lòng Thiên Chúa và đẹp lòng mọi người; những kẻ này thiếu niềm ao ước và lòng hăng say leo lên tới một chóp đỉnh mà họ tưởng đã đạt, và họ sẽ chẳng bao giờ giàu sang, vì không biết được nỗi khốn khổ khôn dò của mình” (Papini).

Khó mà dứt khoát chọn lấy một trong hai cách giải thích trên. Lối giải thích sau có cái lợi là phù hợp với văn mạch Cựu Ước: sau lưu đày, các kẻ nghèo quả là những người có thân phận khiêm tốn, nhưng người ta vẫn nhấn mạnh hơn tới lòng trung thành với đạo và sự phó thác tin tưởng vào Thiên Chúa của họ. Khi xác định “trong tinh thần”, Matthêu có lẽ muốn đặt nặng khía cạnh tôn giáo của sự khó nghèo, cùng liên kết kẻ nghèo của mối phúc thứ nhất với các “khách hàng của Giavê” mà Cựu Ước đã nói tới, Ngược lại, lối giải thích thứ nhất rõ ràng muốn lưu ý nhiều đến tình trạng xã hội, là khởi điểm của ý niệm nghèo khó thiêng liêng. Tuy nhiên, theo cả hai, rõ ràng Matthêu từ chối gán giá trị nguyên cho sự nghèo túng vật chất. Điều đáng kể đối với ông chính là thái độ tinh thần, cái duy nhất mang giá trị luân lý và đáng ân thưởng.

B- Chân phúc th hai: nhng người hin lành (5, 4).

  1. Xut x ca chân phúc này: Có hai lập trường đối nghịch: một: cho rằng chân phúc nằm trong tài liệu nguyên thủy, hai: lại bảo nó đã được một sao lục viên về sau thêm vào nguyên bản Matthêu. Lập trường đầu không mấy chắc chắn. Lập trường sau, trái lại, dựa trên nhiều bằng chứng đáng tin cậy như các thủ sao do dự về vị trí của mối chân phúc, có khi đặt nó nằm hàng nhì (trước mối phúc các kẻ ưu phiền); lúc lại hàng thứ ba; nếu coi nó như là một sự thoán nhập, thì các chân phúc lui lại còn 7, một con số Matthêu ưa thích; rồi việc đăng chèn nó có thể cắt nghĩa như một lời giải thích mượn từ Tv 37,11; sau cùng chân phúc này sẽ không khác chân phúc đầu tiên, nếu ta nại vào tiếng hy bá là tiếng hầu như đồng hóa chữ “hiền lành” với chữ “khó nghèo”. Dầu sao mấy lập luận trên chẳng có tính cách quyết định. Nên phần lớn các tác giả vẫn duy trì xác thực tính của mối phúc này. Mọi thủ sao thảy đều ghị lại nó, dầu một vài bản đặt vào hàng thứ ba.
  2. Điu ha: Trong Tv 37,11 là Thánh vịnh gợi hứng cho mối chân phúc, có bân đến “Hứa địa”, đất Canaan. Chủ đề này bất nguồn từ lời Thiên Chúa hứa cho Abraham (St 15,7; 28,4), rồi được khai triển rộng rãi trong Đệ nhị luật (1, 8.39; 4,1.5.14) và mặc một sắc thái cánh chung trong Isaia đệ nhị (57,13; 60,21; 65,9). Nơi Matthêu, lời hứa chỉ muốn nhắm tới việc vui hưởng Nước Trời, như trong các mối chân phúc khác. “Đất” là gia sản được lời hứa thần linh bảo đảm (1Pr 1, 4-5). Chủ đề gia sản này thường gặp luôn trong Tân ước, nhưng thay vì thành ngữ “thừa hưởng đất”, người ta thích thành ngữ “thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Mt 25,34; 1Cr 6, 9-10…), “thừa ‘hường sự sống vĩnh cửu” hơn (Mt 19,29; Mc 10,27; Lc 10,25…). Vì gia sản thuộc về con cái là điều hợp lý, nên thừa hưởng gia sản, nói cách cụ thể, là nhận được tước hiệu con cái Thiên Chúa, như lời hứa nơi chân phúc thứ bảy, mối chân phúc của các kẻ xây dựng hòa bình (c.9), x.Kh 21, 6-7.
  3. Nhng người hin lành: Vì chân phúc này phát xuất do tay một soạn giả Hy lạp (hoặc có thể là một sao lục viên nào đó) nên ông ta chắc đã muốn nói lên một cái gì khác hơn là nội dung chữ “khó nghèo” theo Cựu Ước, nếu không thì mối phúc thứ hai này trùng với mối phúc đầu tiên. Ta có thể xác định ý niệm “hiền lành” bằng cách đối chiếu mối phúc với Mt 21,5 và 11, 28-30. Trong đoạn nhất, Chúa Giêsu, quy việc vào thành Giêrusalem, tỏ ra khác biệt hoàn toàn với các vua chúa lương dân là những kẻ thống trị bằng bạo lực. Trong đoạn 2 (xin lưu ý: thành ngữ “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” chỉ một thái độ nội tâm), Chúa Giêsu chống lại sự nghiêm khắc khó tính của ông thầy như các Biệt phái. Theo văn mạch ấy được củng cố nhờ các thư Tân Ước (nhân đức hiền lành xuất hiện trong đó hơn 12 lần), “hiền lành” thiết yếu là nhân từ, có quan hệ một đàng với sự khiêm tốn, đàng khác với lòng thương xót tha nhân… Thế nên, các kẻ “hiền lành” gần với các kẻ “thương xót” vậy!
  4. Chân phúc th ba: các k ưu phin (5, 5).

Văn mạch chung của các chân phúc nơi như đã xác định trên kia, buộc ta phải coi nỗi ưu phiền này là một thái độ của tâm hồn. Có thể xác định đối tượng của nó không? Khó mà trả lời dứt khoát được. Động từ Hy lạp pentlleô nói lên sự đau đớn biểu lộ ra bên ngoài qua những tiếng rên rỉ kêu la. Như trong Tân ước, pentheô thường đi kèm theo các động từ “kêu la, than thở”. Ngoài Bát phúc, chỉ dùng động từ này một lần nữa thôi, khi nói các môn đồ sẽ than khóc như bị tang chế sau ngày chia lìa Tân lang (9,15).

Có thể giả thiết rằng mối chân phúc thứ ba đề cập đến nỗi ưu phiền tương tự nỗi ưu phiền tang chế, đề cập đến các Kitô hữu than khóc vì cảm thấy phải chia lìa Thiên Chúa do tội lỗi mình. Họ ý thức một cách đau đớn tội mình đã phạm và nỗi khổ tinh thần do chúng gây nên (so sánh với 1 Cr 5,2; 2 Cr 12, 21; Gc 4, 9).

Niềm “an ủi” hứa ban cho họ bấy giờ hệ tại chỗ thứ tha tội lỗi. Do văn mạch cánh chung của những lời hứa khác, trước tiên phải đặt việc tha thứ này vào lúc phán xét sau cùng.

D- Chân phúc th tư: nhng k đói khát công chính (5, 6).

  1. Ý nim “công chính” trong Thánh Kinh: Trong Thánh Kinh, ý niệm “công chính” cổ truyền ám chỉ điều gì phù hợp với ý muốn Thiên Chúa và luôn luôn hiểu như là một đời sống cụ thể của con người trong lịch sử được Thiên Chúa, là vua và quan án nhân loại, chấp nhận chuẩn y. Trong Matthêu, ý niệm “công chính” được dùng lại theo nghĩa cổ truyền, hợp với Thánh Kinh. Nó chỉ cách ăn nết ở của Kitô hữu, rập khuôn theo thánh ý Thiên Chúa mà Chúa Kitô đã công bố. Cho nên sự “công chính” cần thiết để tham dự vào nước Trời này chẳng phải là một lý tưởng luân lý trừu tượng nhưng chính là thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ ra bên ngoài qua các việc thiện Kitô hữu làm.
  2. S công chính người ta đói khát (Mt 5, 6): Trước hết phải loại trừ hai lời giải thích không phù hợp với văn mạch thần học của Matthêu: Tách biệt ra, chân phúc thứ tư có thể nói đến sự công bình đối lập với bất công xã hội dưới mọi hình thức. Nhưng lối cắt nghĩa này thích hợp với văn mạch lạc chứ không với Matthêu. Nơi Matthêu, chữ “công chính” có một nghĩa rộng hơn và sâu hơn là chữ công bình xã hội: sự công chính diễn tả toàn thể thái độ Kitô hữu được Thiên Chúa chuẩn y.

Ta cũng có thể nghĩ đến sự công chính siêu việt của Thiên Chúa, sự công chính sẽ tỏ hiện ra vào ngày chung thẩm để trừng phạt quân vô đạo và ban thưởng Nước Trời cho người công chính. “Đói khát công chính” bấy giờ có nghĩa là “nao nức mong chờ sự can thiệp dứt khoát của Thiên Chúa vào lúc cứu rỗi cánh chung”. Tuy nhiên văn mạch Matthêu không quy hướng chúng ta về sự công chính mà Thiên Chúa sẽ thực thi, nhưng về sự công chính mà con người phải nỗ lực đạt cho được trước mặt Thiên Chúa, bằng cách thi hành thánh ý Ngài.

Vậy thì đâu là văn mạch của Matthêu cho phép xác định chân phúc thứ tư này? Nơi 21,32 chữ “công chính” (“Gioan đã đến với các ông theo đàng công chính”) chỉ sự khắc khổ của Gioan Tẩy giả. Nơi 3,15 và 5,17, Matthêu lại viết Chúa Giêsu đến hoàn thành Lề luật và các Ngôn sứ: như thế nghĩa là sự “công chính” của Chúa Giêsu, hoàn hảo hơn sự công chính của Lề luật nằm trong đường hướng sự công chính phải được thực thi. Việc thêm chữ “và sự công chính của nó” trong 6,33 (“Trước tiên hãy tìm ‘Nước’ và sự công chính của nó”) hình như nhằm nhấn mạnh rằng người ta không chỉ nên cầu mong cho Nước Thiên Chúa đến để hưởng được mọi của cải của thế giới bên kia, nhưng phải cố công đạt cho được sự hoàn thiện Kitô giáo bằng cách làm việc lành: Luca nhấn mạnh tới ý hướng, còn Matthêu minh định ý hướng phải diễn ra hành động. Sự “công chính” của các môn đồ Chúa Giêsu phải vượt quá sự công chính của Ký lục và Biệt phái (Mt 5,20): vượt quá, nhưng vẫn cùng một loại. Sự “công chính” này sẽ đáp lại những đòi hỏi sâu xa hơn các đòi hỏi của Lề luật và lời giải thích chính thức về Lề luật, nhưng đó vẫn là sự công chính người ta thực thi bằng cách ăn ở phù hợp với Luật ấy. Phải giữ mình đừng thực thi nó một cách phô trương (Mt 6,1): các đòi hỏi của sự “công chính mới” chẳng những liên hệ tới các hành vi bên ngoài, mà còn lan rộng đến các ý hướng. Ở đây vẫn vậy, cũng chỉ là sự nối dài đường hướng xưa nay.

Thành ra kẻ đói khát sự công chính là các Kitô hữu nhiệt thành ao ước sống theo ý Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. “Sự công chính” họ mong muốn là một sự công chính luân lý, do toàn thể những công việc có tính chất Kitô giáo xây nên. Sự công chính luận lý này là lý tưởng của sự hoàn thiện Kitô hữu, lý tưởng được quan niệm như một sự vượt quá hay đào sâu lý tưởng luân lý mà Lề luật đã đề ra cho người Do thái. Hạnh phúc của Nước Trời dành cho những ai hết sức ao ước thực thi sự hoàn thiện đó trong cuộc đời họ.

E- Chân phúc th năm: nhng k biết thương xót (5, 7).

  1. Điu ha: lòng thương xót của Thiên Chúa: Văn mạch các chân phúc của Matthêu cho thấy lời hứa này trước tiên nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót sẽ biểu lộ vào ngày cánh chung, lúc phán xét, khi Chúa Kitô đem các kẻ “biết xót thương” vào Nước Người so sánh với Gd 21; 2 Tm 1,18).
  2. Điu kin: bổn phận xót thương: ý niệm sau đây rất quen thuộc với Do thái giáo và Kitô giáo: để chắc chắn được Thiên Chúa thương xót ngày chung thẩm, phải biết tỏ lòng nhân ái với tha nhân. Có nhiều bản văn nói về hậu quả này trong ngụy thư Do thái và sách giáo sĩ, chẳng hạn câu: “Ai biết thương người, sẽ được thương xót trên trời; ai không thương người, trên trời sẽ chẳng xót thương họ”. Cũng vậy trong Tân Ước (Gc 2, 13: “án xử sẽ tàn nhẫn cho người bất nhân”) và nơi các Tông phụ (1 Clêm. 13, 2; Polycarpô 2, 3).

Matthêu nhấn mạnh bổn phận nhân ái này. Chỉ mình ông trích lại, và trích đến hai lần, bản văn Hs 6,6: “Ta muốn lòng nhân chứ không muốn hy lễ” (9,13; 12,7). Trong cả hai trường hợp, đó là một bài học cho Biệt phái, những kẻ đòi phải tuân giữ lề luật phụng tự mà bỏ quên lòng nhân ái (so sánh với Mt 23, 23). Nơi lời cầu xin thứ 5 của kinh Lạy Cha, chỉ mình Matthêu chú giải thế này: “Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ xúc phạm, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha cho các người…” (6,14-15). Sau cùng dụ ngôn người tôi tớ bất nhân (Mt 18, 23-35) soi sáng một cách cụ thể cái bổn phận xót thương bằng cách tha thứ cho anh em mình.

  1. Chân phúc th sáu: nhng k tinh sch trong lòng
  2. Đim tương t vi chân phúc đầu tiên: Như chân phúc các kẻ nghèo, chân phúc của những người trong sạch chuyển một tính cách thể lý sang bình diện tinh thần. Đầu tiên, sự “tinh sạch” gợi lên sự sạch sẽ của thân xác. Tiếp đó nó mặc một ý nghĩa tế tự, chỉ định tính cách của kẻ phải có đầy đủ các điều kiện cần thiết để trình diện trước bàn thờ Thiên Chúa. Sau cùng, hạn định từ “trong lòng”, tương đương với “trong tinh thần” của chân phúc thứ nhất, đặt tính cách này vào nội tâm.
  3. Mch văn Kinh Thánh: Chân phúc thứ 6 là âm vang của Thánh vịnh 24, 3-6 (so sánh với Tv 15, 1-3). St 20,5 đặt đối lập sự trong sạch ý hướng với sự nhơ bẩn chiếu theo lề luật (Abimélek đã vô tình lấy vợ của Abraham). “Tinh sạch trong lòng”; như các thành ngữ tương tự: “thẳng thắn trong lòng”, “đơn sơ trong lòng”, bao giờ cũng chỉ sự ngay thẳng của lương tâm. Thành ra nó “không có nghĩa tinh sạch như hiện thời” (I. Fransen), nhưng nói lên sự vắng bóng lòng tráo trở, dạ bất lương. Người tinh sạch trong lòng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân “hết tâm hồn”, không tính toán tư lợi hay giả bộ đạo đức. Việc chuyển dịch từ bình diện nghi lễ sang bình điện luân lý cũng gặp lại trong Tân Ước. Nhưng khi được thiêng liêng hóa, ý niệm tinh sạch vẫn không mất đi âm hưởng phụng tự (ví dụ 2 Tm 1,3; 2,22; Gc 4,8).
  4. Quan đim luân lý ca Matthêu: Chữ “thấy Thiên Chúa” gợi lại bối cảnh phụng tự nguyên thủy của sự tinh sạch: trong Tv 24, 6 và 17, 15, “thấy Thiên Chúa “có nghĩa là “trình diện trước nhan Ngài”, tại Đền thờ Ngài ở Giêrusalem; trong Matthêu, thành ngữ chỉ hạnh phúc Nước Trời, được gợi lên dưới hình ảnh một sự tham dự vào phụng tự diễn ra trước mặt Thiên Chúa (Kh 22, 3-4; Dt 12,14).

Tóm lại, để được nhận vào trước nhan Thiên Chúa, cần phải tinh sạch. Sự tinh sạch này không chỉ có tính cách nghi lễ; nó còn nằm nơi sự hoàn toàn ngay thẳng bên trong. Đây không phải là những hành vi, song là một thái độ tâm hồn, thái độ làm căn nguyên cho mọi hành vi của ta và ban cho chúng ý nghĩa luân lý đích thực.

G- Chân phúc th by: nhng k tác to hòa bình (5, 9).

  1. Điu ha: “Họ sẽ được gọi” tương đương với “họ sẽ là” Thường thường, trong ngôn ngữ Kinh Thánh, người ta không nhấn mạnh đến sự kiện được nhận một tên cho bằng đến hiệu quả tương ứng với tên đó nơi người nhận. Do đấy thể thụ động “được gọi ” hầu như có nghĩa là “trở nên”.

Họ sẽ được gọi như thế do ai và khi nào? Nhiều tác giả, với nhiều cách giải thích khác nhau, cho rằng đó là lòng kính trọng mà người đời dành cho những kẻ xây dựng hòa bình. Nhưng động từ ở thể thụ động, như nơi các câu 4.6.7, diễn tả hành động của Thiên Chúa. Thể thụ động này được gọi là “thể thụ động thần linh” (passif divin), là một đặc ngữ sêmita dùng để gán một hành động cho Thiên Chúa mà khỏi phải nhắc tên Ngài. Hơn nữa, mọi lời hứa của các chân phúc trong Matthêu đều có tính cách cánh chung: hết thảy chúng liên hệ tới hạnh phúc Nước Trời. Các kiểu nói khác nhau chỉ có mục đích gợi lên những khía cạnh dị biệt của cùng một thực tại. Thành ra phải kết luận rằng chính Thiên Chúa, vào ngày sau hết, sẽ công bố các kẻ xây dựng bình an là con cái Ngài (x. Kh 21, 7) và thiết đặt họ trong vinh hạnh ấy.

  1. Các k tác to hòa bình: Nếu lấy văn mạch Tân Ước minh giải ý tưởng “kiến tạo hòa bình” của chân phúc thứ bảy (Cl 1, 20; Ep 2, 15-16; Gc 3, 14-18) ta sẽ phải kết luận rằng trên thực tế nó đồng hóa vơi ý tướng giải hòa. Vì hoà bình là cái nối tiếp tình trạng thù nghịch hay tranh chấp. Đó không trực tiếp là thứ bình an nội tâm hay tôn giáo mà mọi cá nhân thủ đắc được, song là những tương quan tốt đẹp giữa các cá nhân, hoặc giữa kẻ “hiếu hòa” và người lân cận (Mt 5, 23-24), hoặc giữa những kẻ mà người “hiếu hòa” giải hòa lại với nhau (Cv 7, 26). Thành ra trọng tâm nằm trên sự đoàn kết giữa con người, và điều đó mặc nhiên giả thiết một thái độ trước của tâm hồn. Trái ngược với các chân phúc khác, chân phúc này thoạt tiên không nhắm tới một thái độ nội tâm, song là một hành vi bên ngoài. Làm một con người hiền hòa, yêu mến bình an không đủ mà còn phải ra công xây đắp bình an bất cứ nơi nào có bất hòa ngự trị.

H- Chân phúc th tám: nhng k b bt b vì s công chính (5, 10).

Chân phúc sau cùng này nằm trong hai trào lưu tư tưởng: một gồm loạt bản văn đưa ra những lời quở trách đối với hạng người Do thái bách hại, hai gồm loạt bản văn song hành chứa đựng nhiều lời khuyên bảo các môn đồ phải cơn bắt bớ.

  1. Li chúc d k bách hi: Chủ đề này vẫn thường gặp trong Do thái giáo (1V 19, 10. 14; 2Sk 36, 15- 16; Nh 9,26). Trong Kitô giáo, nó được khai triển bắt đầu từ Tin Mừng (Mt 23, 29-36; Lc 11, 47-51) cũng đã được Stêphanô (Cv 7, 51-52) và Phaolô (1Tx 2, 15-16) nối tiếp âm vang. Justinô, khoảng năm 160, đã trùng hợp các yếu tố chính của chủ đề như sau: các ông đã giết Đấng Công chính, và trước đó đã giết các ngôn sứ của Người: bây giờ các ông lại khai trừ những kẻ hy vọng vào Người, cùng khai trừ Đấng đã sai người đến là Thiên Chúa toàn năng và tác giả vũ trụ. Vì Ngài ở trong các ông, nên khi chửi rủa họ trong hội đường, các ông làm nhục những kẻ tin vào Chúa Kitô ” (Dial, 16, 4).

Hành động của những người bắt bớ và hình khổ họ sẽ chịu đặc biệt có tính cách cánh chung. Họ “đổ đầy lường” của tổ tiên họ (Mt 23, 32); hành động của họ làm nên một sự kết liễu, hoàn thành; vì thế nó chuẩn bị cho họ một tai ương thảm khốc, tai ương này sẽ là hình phạt mọi tội mà tổ tiên họ đã phạm. “Cơn nghĩa nộ đã giáng xuống trên họ cho đến cùng” (1Tx 2, 16): lời phán quyết này, vào ngày chung thẩm, sẽ kết án họ phải chịu khổ hình hỏa ngục muôn đời.

Đặc điểm thiên sai -“vì cớ Con Người” (Lc 6, 22), “vì cớ Ta” (Mt 5,11)- liên kết với khía cạnh cánh chung. Tai họa của những kẻ bách hại không những xuất phát từ sự kiện họ đàn áp con người, nhưng trước hết từ sự kiện họ truy lùng những ai có liên hệ với Chúa Kitô. Xét cho cùng, họ bách hại chính “Con Người”, Đấng rồi đây sẽ xuất hiện trên mây trời để hoàn thành cuộc chung thẩm kẻ sống và kẻ chết.

  1. Li khuyên nh nhng người b bt b. Trong mọi bản văn sau đây, màu sắc thiên sai đều hiện lên rõ ràng đậm nét:

Trước hết là những lời Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn-đệ về vấn đề bách hại. Các đoạn chính nằm trong “Khải huyền Nhất lãm” (Mc 13, 9-13; Mt 24, 9-14, 10, 17-21; Lc 21, 12-19). Đặc điểm Kitô luận, “vì cớ Ta”, “vì danh Ta” gặp thấy khắp đó đây. Hạnh phúc của kẻ bị bách hại xuất phát từ chỗ họ phải đau đớn vì đã nên một với Đấng Xét xử của mình. Thành ra chân phúc trước tiên xuất hiện như một lời khẳng định có tính cách thiên sai từ phía Chúa Giêsu.Và lời khẳng định này không tách rời với bối cảnh cánh chung.

Tiếp đến là các đoạn đặt nổi mối tương quan chặt chẽ giữa số phận đời đời của con người và thái độ họ đã chọn lựa trước Chúa Kitô.

– Những bản văn liên kết với viễn tượng cuộc bắt bớ: “Ai mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại ” (Mt 10, 19; x. 16, 25; Mc 8, 35; Lc 9, 24) — Kẻ nào hổ thẹn chí Ta và các lời Ta trước mặt thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó khi Người đến trong vinh quang Cha Người với các thiên thần” (Mc 8, 38; x. Lc 9, 26; Mt 10, 32- 33, Lc 12, 8-9).

– Những bản văn liên hệ tai các sự thiếu thốn tự do chấp nhận và các hành vi bác ái tự do thực thi vì Chúa Kitô: “Không ai bỏ nhà cửa hay anh chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng…” (Mc 10, 29-30; x. Mt 19, 29-30). -“Kẻ nào tiếp đón một trẻ nhỏ thế này vì danh Ta, tức là tiếp đón Ta” (Mc 9,37; x. Mt 18,5; Lc 9,48; Mt 10,40; Lc 10,16). -Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước vì danh nghĩa là các ngươi thuộc về Chúa Kitô…” (Mc 9,41; x. Mt 10,42). So sánh với Mt 25, 31-46: cái định đoạt số phận đời đời của còn người, đó là cách thức họ đối xử với các kẻ nhỏ và người cùng khốn, vì có một sự liên đới nhiệm mầu nối kết những hạng này với Chúa Kitô.

  1. S công chính mà vì đó người ta cam chu bt b (Mt 5, 10). Thiết tưởng nên hiểu việc bắt bớ vì sự công chính này như một việc bắt bớ phải chịu cách bất công. Như thế ta mới đối chiếu được mối chân phúc với 1Pr 3,14: “Nếu anh em phải khổ vì sự công chính thì phúc cho anh em”. Bối cảnh của 1 Pr 3, 14 quá rõ ràng: đó là những đau khổ mà Kitô hữu phải cam chịu dầu chẳng đáng. Thế mà chân phúc thứ 9, vế nhì của chân phúc thứ 8, có bao hàm chi tiết “sỉ mạ”.

Tuy nhiên, khó mà nghĩ rằng tiếng “công chính” ở đây khác nghĩa với tiếng công chính của chân phúc thứ 4 và của nhiều đoạn Tin Mừng Matthêu khác. Vì vậy, đây là vấn đề những đau khổ các môn đồ Chúa Kitô phải chịu vì sống phù hợp với lý tưởng Kitô giáo của mình. Người ta không còn nhấn mạnh như trước đến sự thiếu lý do xác đáng để gây nên bắt bớ, nhưng tích cực hơn, đến sự kiện phải đau khổ vì là Kitô hữu, một Kitô hữu biết tỏ ra lý tưởng của mình qua thái độ sống. Do đó phải liên kết thành ngữ “vì sự công chính” (chân phúc thứ 8) với chi tiết “vì Ta” trong chân phúc tiếp theo: “sự công chính” vì vậy xuất hiện như dấu ấn của Chúa Kitô trên lý tưởng và thái độ của môn đồ người. Ta cũng có thể đối chiếu Mt 5,10 với Mt 13, 21, nơi nói rằng sự bách hại được chịu dựng: “vì Lời” nghĩa là vì lý tưởng được Tin Mừng đề ra. Lời giải thích này không xa lời giải thích trước: 1 Pr 4, 14-19 cổ võ các tín hữu hãy đau khổ chỉ vì là Kitô hữu, để người ta không thể tìm trong họ bất cứ hành vi sai trái nào biện minh cho việc bắt bớ.

I- Chân phúc th chín: nhng k b bách hi vì Chúa Kitô. (5, 11)

Chân phúc thứ 9 xem ra chỉ lặp lại chân phúc thứ 8, những nơi Mt nó đóng vai trò hiện tại hóa; thực vậy, nó nói lên việc chuyển từ lý thuyết được đề ra sang thực tại cụ thể được cảm nhận và sống đồng thời với việc hành văn gián tiếp chuyển qua hành văn trực tiếp, thành ngữ “vì sự công chính” của câu 10 trở thành “vì Ta”. Đối với ai đã khám phá ra tính cách thời sự của Chúa Kitô hiện diện trong đời mình, thì không còn nghi ngờ gì nữa; và vào thời Mt viết Tin mừng của ông, cộng đoàn Kitô hữu đă nắm được ý nghĩa của mối chân phúc giữa lòng cơn bắt bớ mà họ đang chịu từ phía người Do thái.

“Hãy vui sướng và hân hoan”: Hai động từ này, mà Mt chỉ dùng ở dây, thường được Cựu Ước sử dụng để suy tôn, ca mừng những hành vi cứu rỗi của Thiên Chúa (x. Hb 3, 18) với một âm điệu cánh chung; chúng trở lại trong thư lPr để diễn tả, như ở đây, niềm vui của các Kitô hữu bị bắt bớ ( 1Pr 1, 8; 4, 13-14). Lúc mà người môn đồ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử nạn của Chúa Kitô, thì họ nhận ra rằng Nước Trời thực sự đã đến.

KT LUN

Matthêu đã trình bày các chân phúc trong một bài giáo lý Kitô giáo ngắn gọn, theo cách thức khắc vào tâm trí những nguyên tắc và việc thực thi lý tưởng sống riêng biệt của Kitô giáo. Ông dạy rằng Nước Trời là phần thưởng cho những ai biết làm cho mình trở nên xứng đáng với Nước ấy nhờ thái độ nội tâm và nhờ cách thức sống sứ điệp Tin Mừng. Như vậy; các mối phúc thật của Matthêu có một ý nghĩa khuyến thiện: chúng chẳng những công bố song còn kêu mời. Lối giải thích này của Matthêu liên kết chặt chẽ vào giáo huấn Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã rao giảng một nền luân lý bên ngoài của Biệt phái. Các mối phúc, như phần tiếp của diễn từ, đưa ra những điều kiện phải chu toàn để được thông phần vào sự sống, những điều kiện của một nền luân lý hoàn toàn nội tâm.

Ý HƯỚNG BÀI GING

  1. Mi người đều ao ước hnh phúc. Chúa Giêsu đã đến để thỏa mãn cái khát vọng hạnh phúc đang dày vò tâm hồn nhân loại ấy. Người đến bảo cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người giàu sang, nổi tiếng, những nhà đại chinh phục, đại thiên tài, song là các kẻ nghèo hèn, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hòa bình và chịu bách hại vì đức tin… Tiêu chuẩn hạnh phúc của Chúa Giêsu quả khác xa với các tiêu chuẩn của người đời vậy.
  2. Các thánh, hng người đã sng Bát phúc, là nhng k hnh phúc đích thc ca thế gii này. Dù gặp đau khổ, họ vẫn có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi tràn ngập hân hoan giữa những cơn bắt bớ”. Vì đối với Kitô hữu, nỗi đau khổ không xung khắc với niềm vui, vì nó được chịu “vì” Chúa Giêsu, vì nó trở nên cơ hội cho ta liên kết mật thiết hơn và giống hơn với Bạn Tình.
  3. Nói cho cùng, tám chân phúc đều quy v mt mi: Phúc cho ai giống Chúa Giêsu. Vì nếu Chúa Giêsu đã tuyên bố Bát phúc trong diễn từ trên núi thì trước tiên Người đã sống chúng trong cuộc đời Người: chẳng ai từ bỏ bản thân, hiểu rõ nỗi khốn cùng nhân thế, rộng lòng xót thương, ao ước thi hành thiên ý, thẳng thắn và đơn sơ, xây dựng hòa bình và cam chịu bắt bớ bằng Người. Và chính vì thế Người đã có thể nói vào lúc cuối đời: “Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui chúng nên trọn vẹn” (Ga 17, 13).

 

39. Hạnh phúc – ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt

Trong những ngày đầu xuân, chúng ta thường mơ ước hạnh phúc và chúc nhau hạnh phúc. Tìm hạnh phúc ở đâu? Ai chỉ cho biết con đường dẫn đến hạnh phúc? Đó là hai câu hỏi của mọi người. Điều ít ai ngờ là đó chính là hai câu hỏi do hai thánh vịnh đã đặt ra từ lâu lắm rồi.

Trong thâm tâm, ai cũng đi tìm hạnh phúc. Người nông dân vất vả cày cấy cũng như người học sinh cặm cụi học hành, tất cả đều đang đi tìm hạnh phúc. Nhiều người vướng vào ma túy cũng vì nghĩ rằng ma túy sẽ mang lại hạnh phúc. Ngay cả người đi ăn cướp cũng đi tìm hạnh phúc: người ấy nghĩ rằng những gì cướp được sẽ mang lại cho mình hạnh phúc. Có người làm đơn xin vào tù: người ấy nghĩ rằng vào tù ít là cũng hạnh phúc hơn cuộc sống đang có. Thậm chí có người tìm đến cái chết để thoát cuộc sống bất hạnh: người ấy không tìm được hạnh phúc nên không còn thiết sống nữa.

Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? (Tv 15,2). Tác giả thánh vịnh 15 hẳn là sống giữa những người chưa biết Thiên Chúa. Họ thờ các ngẫu tượng, mong các vị thần đem lại cho họ hạnh phúc. Nhưng tác giả ghi nhận: bản thân từng “sùng mộ” những ngẫu tượng; “thiên hạ tới tấp chạy theo” các ngẫu tượng; trong khi ấy, các ngẫu tượng “vẫn gia tăng tàn phá”. Giờ đây, tác giả nghiệm ra chỉ một mình Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc thật cho con người: Chúa s dy con biết đường v cõi sng; trước thánh nhan, ôi vui sướng tràn tr; bên Ngài, hoan lc chng h vơi. Con người thời nay không chạy theo các tượng bằng gỗ đá, nhưng vẫn tôn thờ các thần tượng thể thao, ca nhạc, điện ảnh, tiền bạc, danh vọng, quyền lực… Nhưng càng ngày những người biết thức tỉnh càng ý thức con người không chỉ có nhu cầu vật chất, mà còn có nhu cầu văn hóa và nhu cầu tâm linh nữa. Các thứ thần tượng ấy chỉ đem lại thỏa mãn hời hợt và mau qua. Thánh Âutinh viết: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên con khắc khoải cho tới khi tìm được an nghĩ trong Chúa.” Câu hỏi đặt ra cho tôi hôm nay là tôi có tìm được hạnh phúc nơi Thiên Chúa chưa. Có thể tôi vẫn “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt?” Sau những loanh quanh và mỏi mệt, xin cho tôi chia sẻ xác tín của tác giả thánh vịnh: Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?

Biết bao kẻ nói rằng: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4,7). Chúa Giêsu là một con người hạnh phúc và Chúa chỉ cho ta những con đường để đạt tới hạnh phúc. Điều khó là chúng ta thường muốn tìm những thứ hạnh phúc dễ dãi, trong khi Chúa chỉ cho chúng ta đâu là hạnh phúc sâu xa và bền vững. Khi sống những mối phúc thật, trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, chúng ta sẽ nghiệm ra thế nào là hạnh phúc thật và ai là người chỉ cho chúng ta thấy hạnh phúc. Và qua chính cuộc sống hạnh phúc của mình, chúng ta trả lời cho thắc mắc của biết bao người về hạnh phúc.

Ly Chúa Giêsu, Chúa đã ch cho chúng con thy đâu là hnh phúc, và Chúa đã theo con đường y đến cùng. Xin gii thoát chúng con khi nhng thn tượng thi nay và bước theo Chúa để tìm được hnh phúc tht cho bn thân cũng như cho bao anh ch em khác.

 

print