Suy niệm Lời Chúa Tuần Bát Nhật Phục Sinh – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu

print

Suy niệm Lời Chúa Tuần Bát Nhật Phục Sinh

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu

Thứ Hai Tuần Bát nhật Phục Sinh.

Thứ Ba trong Tuần Bát nhật Phục Sinh.

Thứ Tư trong Tuần Bát nhật Phục Sinh.

Thứ Năm trong Tuần Bát nhật Phục Sinh.

Thứ Sáu Tuần Bát nhật Phục Sinh.

Thứ Bảy Tuần Bát nhật Phục Sinh.

Chúa nhật 2 Phục Sinh

 

Thứ Hai Tuần Bát nhật Phục Sinh

 

Lời Chúa: Mt 28, 8-15

Khi ấy, các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay. Bỗng Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: “Chào chị em!” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.” Các bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo: “Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự.” Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do thái cho đến ngày nay.

 

Suy niệm

Trong bốn sách Tin Mừng, các phụ nữ luôn được kể là người ra viếng mộ trước tiên.

Trong Tin Mừng Mátthêu, đó là hai bà có cùng tên Maria.

Sau khi được thiên thần giao nhiệm vụ loan báo gấp cho các môn đệ

về sự Phục Sinh và cuộc hẹn gặp của Thầy ở Galilê (28, 7),

các bà đã mau mắn lên đường, vội vã rời bỏ ngôi mộ trống.

Ngôi mộ này là nơi các bà đặt tình cảm thân thương,

vì đây là nơi đặt xác của người Thầy yêu dấu

Bây giờ ngôi mộ không còn xác Thầy nữa, Thầy đã được trỗi dậy rồi,

nên ngôi mộ chẳng phải là nơi các bà dừng lại mà khóc lóc than van.

Nó trở nên một bằng chứng về sự sống lại của Thầỵ

Ngôi mộ trống thực sự đã đem lại một niềm vui vô bờ bến.

Chính những mất mát lại là dấu hiệu cho một sự hiện diện viên mãn hơn.

Vì thế vừa sợ hãi lại vừa hết sức vui mừng,

các bà chạy đi loan báo cho các môn đệ điều mình vừa nghe nói.

Trên con đường hối hả đi gặp các môn đệ,

các bà không ngờ mình lại là người đầu tiên được gặp Chúa Phục Sinh.

Điều mới nghe thiên thần nói, bây giờ được thấy tận mắt.

Thánh Mátthêu chỉ nói một cách đơn sơ: “Đức Giêsu gặp các bà” (c. 9).

Không thấy mô tả Đức Giêsu oai phong rực rỡ như thế nào.

Có vẻ Ngài gặp các bà lần này như Ngài đã từng gặp bao lần trong quá khứ.

Các bà nhận ra ngay vị Thầy được sống lại

cũng là vị Thầy chịu đóng đinh mà mình đã đi theo từ Galilê.

Chính Đức Giêsu ngỏ lời chào trước: “Chị em hãy vui lên.”

Lời chào này cũng là lời chào bình thường hằng ngày vào thời đó.

Vì thế các bà đã bạo dạn tiến lại gần, ôm chân và bái lạy Thầỵ

Như vậy các bà có thể thấy được và đụng chạm được Đấng Phục Sinh.

Các bà còn có thể nghe được lời dặn dò của Ngài.

Lời này giống lời thiên thần, chỉ có điều Ngài gọi các môn đệ là anh em:

“Hãy đi và báo cho anh em của Thầy…” (c. 10).

Các môn đệ vẫn được gọi là anh em ngay cả khi họ đã bỏ rơi Ngài.

Khi gọi họ là anh em, Đức Giêsu đã muốn tha thứ mọi vấp ngã của họ.

Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra cho các phụ nữ trước tiên.

Nhìn thấy ngôi mộ trống chưa đủ, còn cần gặp chính Đấng Phục Sinh.

Khi trở về gặp các môn đệ, các bà sẽ là những người làm chứng tuyệt vời.

Không chỉ là ngôi mộ trống với lời chứng của thiên thần,

mà còn là lời chứng của chính họ, của người đã chứng kiến tận mắt và đụng chạm.

Đức Giêsu Phục Sinh dám nhờ các phụ nữ làm chứng,

dám nhờ các phụ nữ đi loan Tin Mừng cho các môn đệ của mình,

dù thời của Ngài người ta không tin lời chứng của phụ nữ.

Chúng ta không quên những đóng góp của các phụ nữ cho Giáo Hội từ thời đầu.

Mong vai trò ấy vẫn được đề cao và tôn trọng.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh

lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,

xin hãy gọi tên chúng con

như Chúa đã gọi tên

chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,

xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài

như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,

xin hãy đến và đứng giữa chúng con

như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,

xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con

như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm

mà không được gì,

xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,

như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,

xin tỏ mình ra

cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,

để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,

và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

 

TÔI ĐÃ THẤY CHÚA

Thứ Ba trong Tuần Bát nhật Phục Sinh

 

Lời Chúa: Ga 20, 11-18

Khi ấy, bà Maria Mácđala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” Đức Giêsu gọi bà: “Maria!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: “Rápbuni!” (nghĩa là “Lạy Thầy”). Đức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.”. Bà Maria Mácđala đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.

 

Suy niệm

Maria Mácđala là con người yêu mến.

Theo Tin Mừng Gioan, bà đã theo Thầy Giêsu đến tận Đồi Sọ,

đã đứng gần thập giá và chứng kiến cái chết của Thầy (Ga 19, 25).

Hầu chắc bà đã tham dự cuộc mai táng Thầy và biết vị trí của ngôi mộ.

Hơn nữa, bà là nguời ra mộ sớm nhất vào ngày thứ nhất trong tuần.

Rồi bà chạy về báo tin cho các môn đệ về chuyện xác Thầy không còn đó (20, 1-2).

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bà lại có mặt ở ngoài mộ lần nữa (c. 11).

Ngôi mộ như có sức giữ chân bà.

Chỉ tình yêu mới giải thích được điều đó.

Maria là con người tìm kiếm.

Đấng Phục Sinh hỏi bà: “Bà tìm ai?” (c. 15).

Bà chỉ có một mối quan tâm duy nhất, đó là tìm lại được xác Chúa của bà.

Bà đã nói với Phêrô: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ,

và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20, 2).

Bà đã nói với vị thiên thần ngồi trong mộ điệp khúc tương tự:

“Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu” (c. 13).

Khi gặp Thầy Giêsu, bà tưởng là người làm vườn, nên cũng nói:

“Nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết

ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về (c. 15).

Đối với Maria, mất xác Thầy là mất chính Thầy,

nên bà cứ bị ám ảnh bởi chuyện người ta để Người ở đâu.

Maria là con người đau khổ.

Bà đã khóc nhiều từ khi xác Thầy không còn đó.

Cả thiên thần và Đức Giêsu đều hỏi bà cùng một câu hỏi: “Tại sao bà khóc?”

Ai sẽ là người lau khô nước mắt của bà Maria Macđala?

Ai sẽ là người giúp bà tìm thấy điều bà tìm kiếm?

Đức Giêsu Phục Sinh đến gặp bà dưới dạng một người làm vườn.

Thậm chí bà nghi ngờ ông này có dính dáng đến chuyện mất xác Thầy.

“Maria”: Đức Giêsu gọi tên bà với một cung giọng quen thuộc.

Bây giờ bà mới nhận ra Thầy và reo lên: “Rabbouni!”

Có những lời của Đức Giêsu được thực hiện.

“Ai tìm thì sẽ thấy”, “Ai khóc lóc sẽ được vui cười”.

Maria đi tìm xác Thầy, nhưng bà đã gặp được một điều quý hơn nhiều,

đó là chính Thầy đang sống.

Maria đã khóc lóc, nhưng niềm vui bà gặp được lớn hơn nhiều.

Chẳng có giọt nước mắt nào là vô ích trước mặt Thiên Chúa.

Hãy nếm niềm vui bất ngờ của Maria.

Bà được Chúa sai đến với các môn đệ, cũng là anh em của Ngài.

Bà gói ghém kinh nghiệm bà mới trải qua trong một câu đơn giản:

“Tôi đã thấy Chúa!” và Chúa đã nói với tôi (c. 18).

Chúng ta không thể nào làm chứng cho Chúa Giêsu nếu không có kinh nghiệm này.

Thấy Chúa và nghe được Chúa nói: đó là ước mơ của chúng ta trong cầu nguyện.

Nhưng đừng quên Maria đã yêu cách nồng nhiệt và can đảm

và đã đau khổ tìm kiếm Thầy Giêsu.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh

xin ban cho con sự sống của Chúa,

sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa,

bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa,

niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa,

hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,

Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con. Amen.

 

MỜI ÔNG Ở LẠI VỚI CHÚNG TÔI

Thứ Tư trong Tuần Bát nhật Phục Sinh

 

Lời Chúa: Lc 24, 13-35

Chiều ngày Phục Sinh, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Ðang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Ðức Giêsu tiến lại gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. Một trong hai người tên là Clêôpát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Ðức Giêsu hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ thưa: “Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Ðấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn còn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.” Bấy giờ Ðức Giêsu nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Ðấng Kitô chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Ðức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon.” Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

 

Suy niệm

Dưới dáng dấp một người khách lạ,

Chúa Giêsu Phục Sinh đến với hai môn đệ Emmau.

Ngài đến đúng lúc, đúng lúc họ đang bỏ cuộc,

quay quắt và ray rứt vì chuyện đã qua.

Ngài đi cùng với họ, đi gần bên họ,

khiêm tốn trở thành một người bạn đồng hành.

Ngài gợi chuyện, hay đúng hơn,

Ngài muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của họ.

Chúa Giêsu không nản lòng trước câu trả lời lạnh nhạt:

“Chắc chỉ có ông mới không biết chuyện vừa xảy ra…”

Ngài không cắt đứt cuộc đối thoại: “Chuyện gì vậy?”

Ngài giả vờ không biết để họ nói cho vơi nỗi buồn.

Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng nghe lời họ tâm sự.

“Trước đây, chúng tôi hy vọng rằng…”

Như thế niềm hy vọng này chỉ còn là chuyện quá khứ.

Cả niềm tin cũng trở nên chai lì,

họ đâu có tin vào lời của các bà ra thăm mộ.

Khi lắng nghe, Chúa Giêsu nhận ra cái gút của vấn đề,

những câu hỏi mà họ không tìm ra lời giải đáp.

Tại sao một người của Chúa, người mà họ tin là Ðức Kitô

lại bị đóng đinh như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ?

Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ.

Ðau khổ là nhịp cầu mà Ðức Kitô phải vượt qua

để sang bờ bên kia là vinh quang bất diệt.

Ðau khổ không phải là chuyện xui xẻo, rủi ro,

nhưng nó có chỗ đứng trong chương trình cứu độ.

Lời của Chúa Giêsu là Tin Mừng ngọt ngào,

khiến nỗi đau của họ dịu đi, lòng họ như ấm lại.

Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng bữa chiều.

Và chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ

thì họ nhận ra vị khách lạ chính là Thầy Giêsu.

Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau cũng là của chúng ta.

Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên.

Lúc ta nhận ra Ngài ở gần bên, thì Ngài lại biến mất rồi.

Nhưng chính lúc Ngài biến mất,

ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Ngài.

Ngài đến lúc ta không ngờ.

Ngài đi mà ta không giữ lại được.

Ngài ở lại với ta cả khi ta không thấy Ngài nữa.

Ðấng Phục Sinh vẫn đến với ta hôm nay

qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ.

Qua họ, Ngài thổi vào lòng ta niềm hy vọng tin yêu.

Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ.

Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta.

Sống như Chúa Phục Sinh là tập đến với tha nhân,

tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng…

Hôm nay vẫn có nhiều người bạn đang lê gót về Emmau.

Cầu nguyện

Xin ở lại với con, lạy Chúa,

vì con cần có Chúa hiện diện

để con khỏi quên Chúa.

Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.

Xin ở lại với con, lạy Chúa,

vì con yếu đuối,

con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.

Không có Chúa,

con đâu còn nồng nhiệt hăng say.

Xin ở lại với con, lạy Chúa,

vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,

cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.

Con cần được thêm sức mạnh

để khỏi ngừng lại dọc đường.

Xin ở lại với con, lạy Chúa,

vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.

Con không dám xin những ơn siêu phàm,

chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.

Xin ở lại với con

vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa

và không đòi phần thưởng nào khác

ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen.

(Cha Piô)

 

ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN

Thứ Năm trong Tuần Bát nhật Phục Sinh

 

Lời Chúa: Lc 24, 35-48

Hai môn đệ từ Emmau trở về, thuật lại cho Nhóm Mười Một và các bạn hữu những việc đã xảy ra dọc đường và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói, thì chính Ðức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.

 

Suy niệm

Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con.

Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma.

Có lần Ðức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ,

nhưng họ kinh hoàng tưởng Thầy là ma.

Khi Ðức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ,

họ cũng hoảng hốt tưởng là thấy ma.

Ðấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách

để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng.

Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài

để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt.

Ngài còn ăn một miếng cá nướng

để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.

Khi các môn đệ yếu đức tin,

họ coi Ðức Giêsu Phục Sinh chỉ là bóng ma.

Nhưng khi đức tin của họ được củng cố,

họ mới thấy Ngài có thực.

Lắm khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa,

vì Chúa đến gặp ta một cách quá bất ngờ,

giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược,

hay lúc căn nhà lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau.

Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến.

Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài.

Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng.

Ðức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ.

Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù bị thảm bại.

Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời.

Chiến thắng cuối cùng thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.

Bởi thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi

ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế.

Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.

Thế giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết.

Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát, bạo động.

Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người.

Những vụ phá thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ.

Những vụ tự tử chỉ vì những lý do không đâu.

Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt,

và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết.

Họ phải là nguồn sống dồi dào,

sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.

Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui.

Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường học.

Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc.

Bao người nghèo khổ sống trong nỗi muộn phiền.

Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa,

nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi âu lo về mình,

chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục Sinh,

bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.

Chuyện Ðức Giêsu Phục Sinh là chuyện khó tin.

Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ

thì người ta có thể gặp đươc Ðấng đang sống.

Cầu nguyện

Giữa một thế giới

chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,

xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.

Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,

xin cho con đừng thu tích của cải.

Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,

xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.

Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,

xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con cảm được

cơn đói đang giày vò bao người,

xin cho con nghe được lời mời của Chúa:

“Các con hãy cho họ ăn đi.”

Ước gì chúng con dám trao

tất cả những gì chúng con có cho Chúa,

để Chúa trao tất cả những gì Chúa có

cho chúng con và cho cả nhân loại. Amen.

 

CHÚA ĐÓ

Thứ Sáu Tuần Bát nhật Phục Sinh

 

Lời Chúa: Ga 21, 1-14

Khi ấy, Ðức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Ðiđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả. Khi trời đã sáng, Ðức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Ðức Giêsu. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến nói với Phêrô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước. Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Ðức Giêsu bảo các ông: “Ðem ít cá mới bắt được tới đây!” Ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Ðức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Ðức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Ðó là lần thứ ba Ðức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

 

Suy niệm

Bảy môn đệ trở về với nghề xưa,

trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.

Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.

Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo:

“Tôi đi đánh cá đây.”

Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:

“Chúng tôi cùng đi với anh.”

Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.

Ðây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng.

Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm,

và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.

Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.

Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến

thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ.

Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền.

Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,

nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.

Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.

Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.

Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt.

Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.

Ðây không phải là một nhóm bạn khép kín,

nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.

Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài

là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.

Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.

“Không có Thầy anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15,5).

Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.

Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ,

được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.

Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.

Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.

Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.

Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn.

qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài.

Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.

Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.

Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.

Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.

Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông và nói: “Anh em đến mà ăn” (c.12).

Chúa Phục Sinh vẫn đến với chúng ta giữa đời thường,

giữa những vất vả lo âu, giữa những thất bại trống vắng.

Chúa vẫn đứng trên bờ mà ta cứ tưởng người xa lạ.

Ngài vẫn nhẹ nhàng chạm đến nỗi đau của ta: “Các con không có gì ăn ư?”

Ngài vẫn mời ta bắt đầu lại dù mệt nhọc và thất vọng:

“Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền.”

Chúa Phục Sinh quyền năng vẫn phục vụ như xưa.

Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay bây giờ nhen lửa và nướng cá.

Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly

bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.

Hãy nếm bầu khí huynh đệ của buổi sáng hôm ấy bên bờ hồ.

Các môn đệ ngồi vòng tròn quanh Thầy xưa.

Họ hết mệt, hết đói vì có cá và bánh.

Họ được hong ấm nhờ lửa than hồng, và nhất là nhờ được gần Thầy.

Hôm nay tôi cũng được mời sống cho người khác như Đấng Phục Sinh.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh

lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,

xin hãy gọi tên chúng con

như Chúa đã gọi tên

chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,

xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài

như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,

xin hãy đến và đứng giữa chúng con

như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,

xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con

như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm

mà không được gì,

xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,

như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,

xin tỏ mình ra

cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,

để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,

và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

 

VẪN KHÔNG TIN

Thứ Bảy Tuần Bát nhật Phục Sinh

 

Lời Chúa: Mc 16, 9-15

Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin. Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này. Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.

Suy niệm

Theo các nhà chú giải, sách Tin Mừng Máccô kết thúc ở chương 16, câu 8,

với việc các phụ nữ sợ hãi, chạy trốn, không dám nói gì với các môn đệ.

Sách này cũng không nói đến việc Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra gặp các ông.

Kết thúc khác thường này của Máccô làm chúng ta ngày nay chưng hửng.

Cả các Kitô hữu thế kỷ thứ hai cũng bị ngỡ ngàng,

vì vào thời đó họ đã có trong tay các sách Tin Mừng khác.

Các sách này đều kể chuyện các phụ nữ đã đi gặp các môn đệ,

chuyện Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra gặp các bà trước tiên;

rồi sau đó, Ngài đã hiện ra với các môn đệ

và sai các ông đi loan báo Tin Mừng (Mt 28,19-20; Lc 24, 46-48; Ga 20, 21).

Để giải quyết khó khăn do phần kết của sách Tin Mừng Máccô đặt ra,

một tác giả được ơn linh hứng đã viết thêm phần phụ lục (Mc 16, 9-20),

dựa trên các sách Tin Mừng khác và sách Công vụ Tông đồ.

Năm 1546, phần này đã được Công đồng Trentô nhìn nhận là Lời Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thái độ không tin của các môn đệ.

Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra trước tiên cho bà Maria Mácđala.

Bà đi báo tin Thầy sống lại cho những môn đệ đang buồn bã khóc lóc,

nhưng họ không tin (cc. 9-11).

Lần thứ hai, Đức Giêsu tỏ mình cho hai môn đệ khi họ trên đường về quê.

Khi hai ông này báo tin cho những môn đệ khác, thì họ cũng không tin (cc. 12-13).

Lần thứ ba, Đức Giêsu đích thân tỏ mình cho nhóm Mười Một.

Ngài khiển trách họ về tội không tin những kẻ đã thấy Ngài Phục Sinh (c. 14).

Xem ra tin Thầy Giêsu Phục Sinh không phải là chuyện dễ, ngay cả đối với các môn đệ,

dù họ đã được nghe Thầy báo trước nhiều lần khi còn sống bên Thầy,

dù có những người trong nhóm làm chứng mình đã thấy Thầy sống lại.

Ở lại trong nỗi thất vọng, buồn phiền thì dễ hơn sống lạc quan vui tươi.

Các môn đệ không ra khỏi được nỗi đau do cái chết của Thầy.

Có những nỗi đau làm con người khép kín và khoanh tay bất động.

Nhưng Đức Giêsu Phục Sinh vẫn không bỏ rơi các học trò cứng cỏi của mình.

Ngài kiên trì chinh phục họ bằng cách đến với họ và dùng bữa.

Ngài đưa họ ra khỏi thế giới nhỏ bé của họ và giao cho họ một sứ mạng lớn lao.

“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (c. 15).

Tin Đức Giêsu Phục Sinh cũng không dễ đối với chúng ta hôm nay.

Nếu thực sự tin vào sự Phục Sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác.

Thanh thoát hơn, nhẹ nhàng hơn, quảng đại hơn, vui tươi hơn…

Nhiều khi chúng ta vẫn loan báo Tin Mừng với vẻ mặt buồn bã,

vẫn nói về đời sau mà lòng còn quá nặng với vinh hoa đời này.

Chỉ mong chúng ta được thực sự Phục Sinh như Thầy Giêsu,

để làm tròn sứ mạng Thầy trao phó.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Phục Sinh,

vì Chúa đã Phục Sinh

nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.

Vì Chúa đã Phục Sinh

nên con được tự do bay cao,

không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,

sợ thất bại, sợ khổ đau,

sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.

Vì Chúa đã Phục Sinh

nên con hiểu cái liều của người kitô hữu

là cái liều chín chắn và có cơ sở.

Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.

Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.

Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.

Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi

mang một sức thu hút mãnh liệt

khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:

nhìn tất cả từ trên cao

để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.

Sự Phục Sinh của Chúa

giúp con dám sống tận tình hơn

với Chúa và với mọi người.

Và con hiểu mình chẳng mất gì,

nhưng lại được tất cả. Amen.

Suy niệm Lời Chúa | Chúa Nhật II Phục Sinh năm B | Ga 20, 19-31 |

Chúng tôi đã thấy Chúa.

 

Suy Niệm

Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.

Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ. Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.

Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp, khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u. Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26), thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.

Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.

Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”

Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Đức Giêsu phục sinh. Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến. Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn, khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn: “Chúng tôi đã thấy Chua.” Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. “Nếu tôi không thấy… nếu tôi không xỏ ngón tay… nếu tôi không thọc bàn tay… tôi sẽ chẳng tin đâu.” Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.

Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai. Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.

Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến. Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.

Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại.

Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma. Họ đòi “thấy và chạm đến” những thực tại vô hình, như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.

Nếu “thấy và chạm” có nghĩa là “có cảm nghiệm”, thì đòi hỏi trên thật là chính đáng. Đức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.

Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật.

Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao, cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.

Truyền giáo là làm cho người ta tin, làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).

Gợi Ý Chia Sẻ

  1. Bạn nghĩ gì về đức tin của bạn? Có khi nào bạn thấy đức tin đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào Chúa, vào sự phục sinh, bạn có thấy cuộc đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển biến lớn lao không?
  2. Có ai là Tôma trong nhóm của bạn không? Có ai chưa được hưởng niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để nâng đỡ họ?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,

Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.

Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.

Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.

Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.

Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.

Vượt qua những thành kiến con có về người khác…

Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.

Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.