Suy Niệm Lời Chúa Tuần IV Mùa Chay

Suy Niệm Lời Chúa Tuần IV Mùa Chay

Lm Seoka

CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY, NĂM A..

Thứ hai: Ga 4, 43-54.

Thứ ba: Ga 5, 1-3.5-16.

Thứ tư: Ga 5, 17-30. 7

25/ 03: Lễ Truyền Tin.

Thứ năm: Ga 5, 31-47.

Thứ sáu: Ga 7, 1-2.10.25-30.

Thứ bảy: Ga 7, 40-53.

 

CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY, NĂM A

1Sm 16, 1b.6-7. 10-13a; Ep 5, 8-14; Ga 9, 1-41

Ánh sáng là chủ đề nổi bật trong Tin mừng của thánh Gioan. Ngay những trang đầu của Tin mừng, thánh Gioan cho biết Chúa Giêsu chính là “ánh sáng thậtánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người(Ga 1,9). Qua phép lạ chữa lành cho người mù được sáng mắt hôm nay, minh chứng Đức Giêsu chính là ánh sáng đã đến trần gian, xua tan bóng tối và mang lại sự sống cho con người. “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12).

Xin cho chúng ta biết mở lòng tiếp nhận ánh sáng của Chúa và tích cực bước theo ánh sáng chân lý của Ngài, ngỏ hầu xứng đáng trở nên con Thiên Chúa. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (Ga 1, 11-12). 

 

Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho thấy có những cái nhìn khác nhau trước một con người và sự kiện, khởi đi từ những quan điểm khác biệt nơi mỗi người.

  1. Với tiên tri Samuel thì nhìn con người qua diện mạo bên ngoài nên khi ông được Chúa sai đến Belem tìm Đavit (con út của ông Isai (Giétsê), chi tộc Giuđa) để xức dầu tấn phong đứa út này lên làm vua thay cho Saolê (1S 16,13).

Ông Giétsê có tất cả 8 con trai. Thoạt đầu Samuel đã muốn xức dầu cho Êliab một người cao lớn khoẻ mạnh. Nhưng Chúa bảo: “Không phải người phàm nhìn sao, Thiên Chúa cũng nhìn thế, bởi người phàm chỉ trông thấy điều lộ trước mắt, còn Giavê trông thấy điều ẩn đáy lòng”. Cuối cùng, theo sự soi sáng của Chúa, Samuel đã chọn xức dầu cho Đavít, đứa nhỏ nhất, đứa mà Giétsê coi thường nên ban đầu không đưa ra.

Câu chuyện cho thấy cái nhìn của Thiên Chúa không giống cái nhìn của loài người, vì loài người quen nhìn vẻ bề ngoài, còn Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng.

  1. Với những người Biệt Phái thì nhìn Đức Giêsu với cái nhìn định kiến, vì thế họ không thể nhận ra thiên tính nơi Người.

Tin mừng cho biết vì muốn phủ nhận uy quyền TC nơi Đức Giêsu nên những người Biệt phái đã tìm đủ mọi cách để phủ nhận phép lạ mà Chúa Giêsu đã làm cho người mù từ lúc mới sinh được sáng mắt.

– Trước hết họ mở cuộc điều tra rộng rãi và cặn kẽ, từ đương sự đến những người láng giềng và cả cha mẹ của đương sự nữa. Họ hạch hỏi, đe dọa những người này đủ điều, với mục đích làm áp lực để người mù và cha mẹ anh ta sợ hãi mà chối bỏ phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Nhưng vì phép lạ quá hiển nhiên nên không thể nào họ phủ nhận được.

– Biết xử dụng quyền lực không được, nên họ dùng đến lý lẽ để thuyết phục mọi người. Họ lý luận rằng: “ông Giêsu đã chữa mắt cho người mù trong ngày hưu lễ vì luật trong hưu lễ là cấm làm việc. Ai vi phạm là kẻ có tội. Mà kẻ tội lỗi thì không thể là người bởi Thiên Chúa và không thể làm được phép lạ”. Nhưng cho dù họ có cố tình bẻ cong sự thật, thì sự thật vẫn hiển nhiên, bởi chính đương sự đã xác quyết: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”.

– Thấy không thể đối chất lại lý lẽ đầy thuyết phục của người mù: Xưa nay chưa từng nghe nói có ai mở mắt một người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì không làm được gì”. Nên cuối cùng họ phải dùng đến thủ đoạn nham hiểm bằng cách khơi lên tình trạng quá khứ mù lòa của người mù, rồi vịnh vào đó mà cho rằng anh ta là người tội lỗi, để nhằm hạ thấp nhân phẩm của anh: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư? Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài”. Nhưng tất cả những mưu hèn kế bẩn ấy cũng không thay đổi được xác quyết của người mù, một khi anh đã tin tưởng vào uy quyền TC nơi Đức Giêsu. Vì thế anh liền“sấp mình thờ lạy Người”.

Trong khi đó, những người Biệt Phái lại trở nên mù lòa nên đã không nhận ra Chúa Giêsu là TC làm người. Trong mắt họ bị ngăn cản bởi những định kiến có sẵn về Giêsu khi cho rằng Người không tuân thủ lề luật, dám làm việc ngày hưu lễ cho dù họ biết rõ đó là những việc tốt lành, vì thế họ đáng bị Chúa lên án: “Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói ‘Chúng tôi xem thấy’, nên tội các ngươi vẫn còn”.

Trước đại dịch Covid-19 đang hoành hành khắp nơi trên thế giới như hiện nay, có thể mỗi người chúng ta có những cái nhìn khác nhau tùy theo quan điểm tự do của mình. Nhưng với cái nhìn của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Ephêsô trong bài đọc 2 hôm nay, thì ngài khuyên chúng ta nên khiêm tốn nhận ra quyền năng của TC qua biến cố này mà chân thành sám hối từ bỏ nếp sống cũ là giả dối và tội lỗi mà nỗ lực thực thi giáo huấn của Đức Kitô qua đời sống lương thiện, công chính và chân thật, với ước mong làm mọi điều sao cho đẹp lòng Chúa. Được như vậy, tâm hồn chúng ta mới có được bình an mỗi khi đối diện với những thử thách trong đời sống.

 

Thứ hai: Ga 4, 43-54

Đức tin chính là thần dược chữa lành mọi bệnh tật cho con người. Chính đức tin, viên sĩ quan đã đặt trọn vẹn lòng cậy trông và hy vọng vào Chúa. Nhờ đức tin mà phép lạ Chúa được thực hiện và con ông được cứu chữa. Xin Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng ta.

Ông viên sĩ quan trong bài tin mừng hôm nay vì tin tưởng vào Chúa Giêsu nên ông đã đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa:

Hy vọng vào Chúa, nên ông đã ra đi tìm đến Chúa Giêsu. 

Hy vọng nơi Chúa, ông đã không ngại kêu xin và kiên nhẫn nài nỉ Chúa đến nhà cứu sống con ông. 

Hy vọng ở Chúa, ông đã khiêm tốn đón nhận mọi thử thách: “Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu”. Dẫu bị mỉa mai, nhưng ông vẫn khiêm tốn kiên nhẫn kêu xin.

Cũng chính vì hy vọng rất nhiều vào Chúa, ông tin nhận Lời Chúa: “Cứ về đi, con ông sống”, ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình và ông đã an tâm ra về.

Nhờ lòng tin mạnh mẽ của viên sĩ quan ngoại giáo mà con ông đã được Chúa cứu khỏi chết và cả gia đình ông được ơn đức tin.

Tin chính là đặt hết niềm hy vọng vào Chúa. Trao cho Chúa mọi lắng lo, khốn khó. Con cái là món quà quý giá và là kho báu vô tận. Đau đớn, bệnh tật con cái là nỗi đau vô cùng của cha mẹ. Nhưng chính lúc đau khổ ấy, viên sĩ quan ngoại giáo đã có được niềm tin. Gặp gỡ Chúa niềm tin của ông lại vững mạnh hơn. Niềm tin của ông đã trở nên niềm tin cứu rỗi cho cả gia đình ông.

Chúng ta cũng vậy, niềm tin của chúng ta cần được trui rèn, để sau những thử thách đau thương, đức tin chúng ta được vững mạnh hơn. Không nhất thiết phải đón nhận ơn phúc qua phép lạ như người cha trong bài tin mừng hôm nay. Điều quan trọng là trong mọi biến cố, chúng ta cần nhìn về phía bên kia điều Chúa muốn, để vững tin hơn vào tình thương và uy quyền của Chúa. Nhờ thế mà những người chung quanh và trong gia đình ta mới được củng cố lòng tin, gia tăng lòng cậy trông nơi Chúa hơn qua niềm xác tín mạnh mẽ của chính ta.

Trong cuộc sống, chúng ta xin ơn Chúa rất nhiều nhưng lại quên xin ơn rất quan trọng là ơn Đức Tin. Chắc chắn đức tin chúng ta vẫn còn yếu kém. Mùa chay này, chúng ta hãy tha thiết xin Chúa gia tăng Đức Tin cho chúng ta.

Thứ ba: Ga 5, 1-3.5-16

Thiếu bác ái yêu thương, việc thực thi lề luật chỉ còn là cái xác không hồn và là những hành động của ta trở nên mù quáng. Tin mừng hôm nay kêu gọi chúng ta ý thức trách nhiệm đối với nhau trong cuộc sống, bằng việc thực thi tình bác ái, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ và bất hạnh. Đó là cách thức ta thể hiện tâm tình tôn vinh Chúa.

Người bị bại liệt suốt 38 năm dài được Tin mừng hôm nay nói đến. Chắc hẳn đã-đang và sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ trong đời sống.

Khó khăn trong việc tự chăm sóc bản thân; khó khăn trong việc đi lại; khó khăn mỗi khi tiếp xúc với những người chung quanh.

Đau khổ vì bệnh tật hành hạ; đau khổ vì bị mọi người bỏ rơi, ngay cả những người thân “không có người đem xuống hồ…”. Đau khổ vì bị mọi người khinh ghét, bị xã hội xem thường. Anh bị liệt vào thành phần “mang kiếp cầm ca”, ăn bám xã hội. Nhưng có lẽ đau khổ nhất vẫn là nỗi đau mặc cảm vì bị mọi người xem là người tội lỗi.

Nỗi khát khao lớn nhất của anh là được làm người bình thường như bao người. Được xã hội tôn trọng; được mọi người quan tâm, yêu mến; được tự do đi lại; nhất là được khẳng định giá trị và phẩm giá làm người của mình.

Hôm nay Chúa Giêsu đã trao ban cho anh món quà vô giá mà anh hằng khao khát đêm ngày, đó là chữa anh khỏi căn bệnh bại liệt. Quả là niềm vui lớn lao, niềm vui chính đáng. Ấy vậy mà niềm vui ấy lại bị sự chống đối bởi những giới chức Do Thái giáo: “Hôm nay là ngày Sabát không được phép vác chõng”. Không những họ chống đối quyền đi lại và làm người của anh, mà họ còn chống đối cả Chúa Giêsu vì đã vi phạm ngày Sabát.

Lòng ích kỷ và luật lệ vô hồn, quả là một gánh nặng, một rào cản đáng sợ, đẩy con người đến chổ vô cảm và cư xử bất nhân với nhau, khiến người khác không thể vươn lên sống xứng đáng là con người được. Họ lại không hiểu rằng: “vinh quang Thiên Chúa là con người được sống”. Bất cứ nơi nào phẩm giá con người được nhìn nhận, bất cứ một con người nào được tôn trọng, thì nơi đó Thiên Chúa được tôn vinh.

Xin cho chúng ta ý thức rằng: khi chối bỏ và khước từ thể hiện lòng nhân ái đối với người khác là chúng ta đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Yêu thương và thực thi bác ái đối với người khác cũng là cách chúng ta đền bù tội lỗi trong mùa chay thánh này.

Thứ tư: Ga 5, 17-30

Người kitô hữu, là người có Chúa Kitô. Nghĩa là từng suy nghĩ, lời nói và hành vi của ta phải là của Chúa như chính Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha: “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng phản ánh trung thực dung mạo của Chúa Giêsu hơn, để qua ta, mà mọi người nhận biết Đức Giêsu.

Định luật tình yêu dạy chúng ta rằng: “Yêu ai thì ở gần người ấy. Yêu ai thì nên giống người ấy. Yêu ai thì muốn ở trong người ấy, và yêu ai thì sẵn sàng sống chết vì người ấy”. Chính vì yêu mến Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã trở nên giống Cha mọi đàng.

Mối bận tâm lớn nhất của Chúa Giêsu là thể hiện thánh ý Cha Ngài: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”. Chúa Giêsu khẳng định, suốt cuộc đời, Ngài làm việc như Cha Ngài: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Chúa Giêsu cũng xác định cho chúng ta biết, Ngài chính là hình ảnh của Thiên Chúa, vì “Ta và Cha là một”, và “Ai thấy Ta là thấy cha”.

Như vậy, lẽ sống của Chúa Giêsu là sống như Cha. Trong mọi sự, Ngài đều lấy Cha làm mẫu mực. Và Ngài muốn chúng ta cũng phải lấy Cha làm mẫu mực cho đời sống mình: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Do đó muốn nên giống Chúa Cha ta chỉ cần nên giống Chúa Giêsu, bởi chính Người là dung mạo đích thực của Chúa Cha.

Giống Chúa Giêsu trong mối bận tâm duy nhất là cứu độ nhân loại. Giống Chúa Giêsu ở thái độ khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa Cha. Giống Chúa Giêsu bằng cách sống thành thật: “Ta là đường là sự thật và là sự sống”. Sự thật trong lời nói, trong việc làm, trong yêu thương. Như trái tim không bao giờ ngừng đập, tình thương cũng không bao giờ ngơi nghỉ. Chúa Giêsu vẫn liên lỉ làm những việc tình thương. Bất chấp là ngày Sa-bát, vì ngày Sa-bát dù nghỉ ngơi, nhưng Chúa vẫn quang phòng vũ trụ và con nguời do chính Ngài yêu thương dựng nên.

Xin Chúa cho chúng ta mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn, để tâm hồn, trái tim, suy nghĩ vá cách sống của chúng ta ngày càng phản ánh trung thực dung mạo của Chúa. Nhờ đó mà mọi người nhận ra chúng ta là mộn đệ thật của Chúa. Và qua cách sống của ta mà danh Chúa được cả sáng và được mọi người yêu mến ngợi khen.

 

25/ 03: Lễ Truyền Tin

Lc 1, 26-38

Suy niệm 1:

Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng Lễ Truyền Tin. Kỷ niệm biến cố Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”.

Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Đức Maria khiêm tốn và ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, để chương trình cứu độ của Chúa nơi ta được hoàn thành tốt đẹp.

Mỗi khi đọc kinh Kính mừng là chúng ta nhắc lại lời truyền tin của sứ thần Gabriel cho Đức Maria năm xưa: “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ…”; cũng đồng nghĩa với lời Thiên Thần chào Đức Maria: “Mừng vui lên, Đấng đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà…”.

Lời truyền tin này là một lời chào chúc trân quý, mang giá trị hết sức cao trọng mà TC dành tặng cho Đức Maria. Bởi lẽ có ơn phúc nào cao lớn cho bằng ơn phúc được Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa là nguồn mọi ơn phúc và Đấng ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn phúc nơi mình rồi). Và có hạnh phúc nào lớn lao cho bằng hạnh phúc được Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ Thiên Chúa. (Được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc trọng đại rồi huống chi là Mẹ Vua Trời).

Ý thức sứ mạng cao quý ấy trong vui mừng khôn tả vượt trí hiểu, Đức Maria đã bối rối và tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế nào? Sau khi được nghe Thiên Thần giải thích, Đức Maria biết đó là ý định Thiên Chúa, cho dù không hiểu hết nhưng Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng phục.

Có nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt ngoài trí hiểu và khả năng chúng ta, chúng ta thấy không thể thực hiện được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi chuyện đều có thể. Nhìn vào công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật ta nhận ra điều ấy. Từ không Thiên Chúa đã tạo thành vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời phán truyền. Chỉ cần bùn đất Thiên Chúa đã tác tạo nên con người giống hình ảnh Người. Và với quyền năng TC thì bà chị họ Isave dẫu son sẻ cũng đã mang thai được 6 tháng và sẽ  sinh con trai trong lúc tuổi già. Như thế thì việc Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế mà vẫn đồng trinh là chuyện rất đổi bình thường với quyền năng của TC. Điều quan trọng là chúng ta sẵn sàng để cho Chúa hành động nơi chúng ta như Đức Maria không?.

Tuy Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích con người cộng tác với Thiên Chúa:

Để chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa. Thế là một dân riêng của Chúa đã hình thành.

Để cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Môsê cộng tác, dù sợ hãi về sự kém cỏi của mình, Môsê vẫn vâng phục ý muốn của Chúa. Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất.

Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức Maria, một người thiếu nữ bình thường, nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã ngoan ngoãn tin tưởng vâng nghe. Thế là chương trình cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa được thực hiện.

Để cứu độ mỗi chúng ta, Chúa cũng mời gọi chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con Chúa cần con cộng tác”. 

Xin cho chúng ta tích cự cộng tác với ơn cứu độ của Chúa để cứu chính mình và tha nhân.

Suy niệm 2:

Trước ơn phúc lớn lao, Đức Maria đã bối rối và muốn tìm hiểu xem sự việc sẽ xảy đến như thế nào? Một khi nhận biết là ý định của Thiên Chúa, Đức Maria sẵn sàng vâng theo chứ không hề nghi ngờ, hay kém tin.

Trước những thử thách, thất bại, đau buồn trong cuộc sống, nhiều lúc đức tin chúng ta cũng bị lung lay nên sinh ra nghi ngờ và than trách Chúa, ít khi chúng ta bắt chước Đức Maria tìm hiểu xem Chúa muốn gì qua những biến cố vui buồn, thành công thất bại, hạnh phúc hay bất hạnh ấy trong cuộc sống.

Ta hãy tin rằng mỗi biến cố đều có sứ điệp rất quan trọng Chúa muốn gởi đến ta và mong ta đọc ra thánh ý của Chúa để rồi chấn chỉnh lại đời sống của mình. Chúa luôn đi ngang qua cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta lại không gặp Ngài. Chúa luôn đồng hành với ta, nhưng ta lại không nhận ra Ngài. Chúa hằng gõ cửa nhà chúng ta, nhưng ta lại không nhận ra tiếng Ngài.

Xin cho chúng ta biết để tâm suy niệm các biến cố trong đời mà nhạy bén nhận ra lòng thuơng xót của Thiên Chúa theo tinh thần của Mẹ Maria. Amen 

(Viết theo ý tưởng của cha Carôlô Hồ Bặc Xái, tổng đại diện Gp Cần Thơ)

Thứ năm: Ga 5, 31-47

Tin hay không tin là chấp nhận hay từ chối. Dù những  người Do Thái, nhất là nhóm Biệt Phái đã chứng kiến biết bao điều lạ Chúa Giêsu đã làm, nhưng họ vẫn không tin nhận Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu kiên nhẫn đưa ra những bằng chứng xác thực để minh chứng về Ngài. Nhưng vì thiếu lòng yêu mến Chúa và cứng lòng, họ vẫn không tin.

Xin cho chúng ta biết nhận ra lời dạy của Chúa qua các dấu chỉ của thời đại, nhất là qua lời Chúa dạy nơi Thánh Kinh mà khiêm tốn thi hành với niềm tin tưởng vào ơn cứu độ Chúa ban.

Để ứng cử và thi hành nhiệm vụ HĐND hay Đại Biểu Quốc Hội, người  ta cần được sự giới thiệu của địa phương và được cử tri tín nhiệm cao.

Để làm Linh Mục và thi hành sứ vụ tông đồ, cần có người giới thiệu, được đấng bản quyền chuẩn nhận, cho phép.

Còn Chúa Giêsu trái lại, khi thi hành sứ mạng Chúa Cha giao phó là cứu độ nhân loại, thì chẳng có sự chuẩn nhận nào của Giáo quyền cũng như Chính quyền. Nên không lạ gì Ngài luôn bị khước từ và chống đối. Nếu ta ở vào trường hợp của họ lúc ấy, chúng ta cũng khó lòng chấp nhận Đấng Cứu Thế là ông Giêsu đến từ Nazarét. Một Đấng Cứu thế xem ra không phù hợp với quan niệm, suy nghĩ của con người.

Thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu xem ra không hợp pháp theo quan niệm con người, nhưng đó lại phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì Đức Giêsu là Thiên Chúa nên Ngài vượt lên trên và không phụ thuộc vào những ràn buộc của thế quyền. Nhưng để cho thế quyền chấp nhận, Chúa Giêsu sẵn sàng đưa ra những bằng chứng xác thực để minh chứng về thân thế và sứ mạng của Ngài qua bài tin mừng hôm nay.

Thứ nhất: Bằng chứng của Gioan Tẩy Giả: “Đấng đến sau tôi, nhưng quyền thế hơn tôi. Tôi rửa anh em bằng nước, nhưng Đấng ấy sẽ rửa anh em trong Thánh Thần”.

Thứ hai: Chính lời Tôi nói và những việc Tôi làm: Có ai làm cho người mù mới sinh được khỏi như Chúa Giêsu. Có ai làm cho một người phong cùi được sạch. Có ai làm cho một đứa bé đã chết được sống lại. Có ai làm cho đứa con trai của bà goá thành Naim bị cột chặt trong vải liệm và đang khiêng đem chôn được hồi sinh. Có ai làm cho ông Lazarô chết 4 ngày được chỗi dậy. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền làm những điều ấy.

Thứ ba: Chúa Cha làm chứng về Ngài: “Này là Con Chí Ái của Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”.

Thứ tưBằng chứng của Thánh Kinh và Môsê đã loan báo về Ngài chính là Đấng Messia.

Tuy Chúa đã đưa ra những bằng chứng xác thực như vậy, nhưng người Do Thái không nhìn nhận Ngài.

Lý do:  Vì họ không có lòng yêu mến Thiên Chúa và vì tính ích kỉ, hám danh. Vì thế họ đã không còn khả năng mở lòng đón nhận Ngài.

Dù họ có tin hay không tin, thì sự thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người. với tất cả nhân tính và Thiên tính nơi Ngài. Suốt hơn hai ngàn năm qua, không ai có thể để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử như Chúa Giêsu.

Không nhà cách mạng tài ba nào có thể biến đổi thế giới được như Ngài. Không có vị tôn sư nào có` một dòng dõi môn đệ đông đảo như Ngài. Không có tên ai được nhắc một cách cực trong như tên Ngài. Không có một ân nhân nào được yêu mến say mê như Ngài. Thế mới rõ Đấng vĩ đại ấy chính là một người, nhưng là người Chúa, vì Ngài là Con Thiên Chúa.

Xin cho chúng con và hết mọi người biết khiêm tốn tin nhận Đức Kitô là Chúa lòng mình và nổ lực hết lòng hết sức sống theo lời Người chỉ dạy với tình yêu mến. Amen.

Thứ sáu: Ga 7, 1-2.10.25-30

Tự mãn về sự hiểu biết của mình, dân Do Thái nói chung, cách riêng những người Biệt Phái đã trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Do đó họ đã không tin nhận Ngài và ra sức chống đối quyết liệt. Dù ngày nay chúng ta dễ dàng tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, nhưng nhiều lúc đức tin chúng ta cũng bị chao đảo.

Xin Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng ta. Và cho nhiều người chưa tin Chúa cũng đón nhận ơn đức tin như chúng ta.

Càng ngày cuộc tranh luận về nguồn gốc và những phép lạ của Chúa Giêsu với người Do Thái, cách riêng với nhóm Biệt Phái càng trở nên gây gắt. Khiến họ đưa đến quyết định bắt và giết Ngài.

Bằng lời giảng dạy khôn ngoan đầy thuyết phục, dân chúng rất ngạc nhiên về Người. Những lời lẽ về đạo lý khôn ngoan ấy phải đến từ Thiên Chúa.

Bằng những bằng chứng cụ thể về ông Môsê đã truyền phải làm phép cắt bì và họ vẫn chịu cắt bì trong ngày Sabát. Vậy có người đã chịu phép cắt bì trong ngày Sabát để khỏi phạm luật Môsê, thì tại sao Chúa Giêsu cứu chữa người bệnh tật trong ngày Sabát lại phạm luật.

Chữa một phần cơ thể bị bất thường là việc bác ái đáng làm trong ngày Sabát. Tại sao với tình yêu thương cứu chữa toàn thân thể cho người bị bệnh tật trong ngày Sabát lại không được làm? Và Chúa Giêsu khẳng định: sở dĩ họ không tin nhận Ngài là do họ chỉ xét đoán theo bề ngoài.

Họ cho rằng họ biết quá rõ về lý lịch Đức Giêsu. Biết nơi sinh, chổ ở và còn biết cả cha mẹ, bà con họ hàng của Người nữa. Một người xuất thân từ một nơi chốn, một hoàn cảnh và một gia đình nghèo khó, tầm thường, nhỏ bé thì làm sao là Đấng Cứu Thế được. Còn những người có chức quyền thì ghen tức vì thấy Ngài được dân chúng ái mộ. Nhất là họ không thể chịu nổi những lời tuyên bố về nguồn gốc xuất thân từ Thiên Chúa của Ngài. Nên đã quyết tâm trừ khử Ngài.

Thế đã rõ: Vì kiêu căng-tự mãn, không muốn đón nhận lời chân lý Chúa dạy nên đã có cái nhìn lầm lạc về Chúa. Và vì tự ái-tự phụ, không muốn người khác hơn mình, họ đã ghen ghét và tìm cách giết hại Chúa.

Xin Chúa giúp chúng con hết lòng tin kính Chúa là Đấng Cứu Độ Chúa Cha gởi đến cho chúng con. Và cho chúng con biết khiêm tốn ăn năn sám hối quay về với Chúa, để đón nhận tình thương ơn chữa lành những bệnh tật tâm hồn trong mùa chay thánh này.

 

Thứ bảy: Ga 7, 40-53

Sống theo cảm tính và nhận định chủ quan, khiến cho con người có cái nhìn sai lạc, dễ dàng đưa đến cách hành xử tàn bạo, độc ác. Đó là điều mà Tin mừng hôn nay muốn đề cập đến.

Trước những phép lạ và lời giảng dạy của Chúa Giêsu, người Do Thái có những phản ứng khác nhau: Người bình dân, đơn sơ thì tin Ngài là một ngôn sứ cao cả được Môsê báo trước. Một số người hiểu biết thì cho rằng: Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Còn những người thuộc giới lãnh đạo tôn giáo thì phủ nhận hoàn toàn, cho rằng: Ngài không phải là ngôn sứ, cũng không phải là Đấng Cứu Thế.

Có nhiều lý do:

  1. Không hội đủ những điều kiện về địa dư và dòng tộc. 
  2. Sứ điệp lời Chúa có nguy cơ làm cho dân chúng sao lãng lý tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc. 
  3. Lời giảng dạy và phép lạ Chúa Giêsu làm lu mờ hình ảnh và uy thế của họ. Vì thế họ quyết định nhổ “cái gai Giêsu” ra khỏi mắt họ.

Nhưng đối với những người am tường luật lệ và yêu mến sự thật thì có cái nhìn trong sáng và cách hành xử công minh. Ông Nicôđêmô là một điển hình. Ông là thành viên của hội đồng lập pháp, là tiến sĩ luật có thế giá và là người can đảm đứng ra biện hộ cho Chúa Giêsu, ông nói: “muốn bắt người ta, tức là Chúa Giêsu, thì trước hết phải đối diện thẩm vấn, phải có nhân chứng và xét xử theo luật lệ”. Nhưng lời đề nghị của ông chẳng ăn nhằm gì với số đông chỉ biết xử dụng luật rừng.

Thời nay cũng vậy. Chân lý thuộc về số đông và vận mạng con người nằm trong tay những kẻ có quyền. Công lý thường bị bẻ cong và hậu quả là những người sống theo sự thật, chân lý và tình thương bị xem là người khờ dại. Có nguy cơ đẩy toàn bộ thế hệ đi vào hướng nhìn lệch lạc, nhầm lẫn. Không còn phân biệt đâu là thật, đâu là giả; đâu là chính, đâu là phụ; đâu là điều ưu tiên phải thực hiện và đâu là điều cần bỏ qua nếu cần.

Xin cho chúng ta biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Biết làm theo ý Chúa hơn ý mình. Biết ưu tiên làm việc của Chúa, cho Chúa và vì Chúa. Nhất là biết chọn Chúa làm lẽ sống và là con đường để ta dấn bước. Xin đừng để ta sống theo cảm tính nhẹ dạ, cả tin vào những luồng tư tưởng, thông tin bên ngoài áp đặt, nhưng biết khôn ngoan lấy Lời Chúa và Giáo Huấn Giáo làm lẽ sống. Hy vọng chúng ta không phải đi vào vết xe đổ của người Do Thái khi xưa.

print