Suy Niệm Tin Mừng Thứ 5 Tuần Thánh

print

Suy Niệm Tin Mừng Thứ 5 Tuần Thánh

https://linhmucmen.com/

Thứ 5-1: CHÚA RỬA CHÂN CHO CÁC MÔN ĐỆ. 6

Thứ 5-2: Bí tích Tình yêu – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn. 8

Thứ 5-3: Tiệc ly – SCĐ/147. 13

Thứ 5-4: Thánh Lễ Tiệc Ly – Lm Antôn Trần Thế Phiệt DCCT. 15

Thứ 5-5: Yêu thương. 20

Thứ 5-6: Thánh Thể – 00/257. 21

Thứ 5-7: Yêu thương đến cùng – Lm Damian OFM.. 22

Thứ 5-8: Yêu thương. 25

Thứ 5-9: Điên dại của Tình yêu – STM 91. 27

Thứ 5-10: Rửa chân – SL/325. 28

Thứ 5-11: Rửa chân – Hương Vĩnh. 29

Thứ 5-12: Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT. 33

Thứ 5-13: ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II 35

Thứ 5-14: THÂN ĐÃ SẠCH VẪN CẦN PHẢI RỬA CHÂN.. 37

Thứ 5-15: Đoàn Kết Yêu Thương. 43

Thứ 5-16: Cuộc Vượt Qua mới- Lm. Trần thế Phiệt 45

Thứ 5-17: Bài học phục vụ- Lm. Kiều công Tùng. 48

Thứ 5-18: Giu-đa, thật sự người là ai?. 50

Thứ 5-19: Xin rửa sạch những bất trung, phản bội 54

Thứ 5-20: RỬA CHÂN CHO NHAU.. 56

Thứ 5-21: Bữa tiệc ly. 58

Thứ 5-22: TAM NHẬT VƯỢT QUA.. 62

Thứ 5-23: Lm Nguyễn hưng Lợi 63

Thứ 5-24: Bài Giảng của ĐTC Gioan Phaolô II 66

Thứ 5-25: Đức ái: Hoa trái của Thánh Thể. 69

Thứ 5-26: RỬA CHÂN.. 73

Thứ 5-27: QUYỀN HÀNH LÀ ĐỂ PHỤC VỤ.. 75

Thứ 5-28: RỬA CHÂN.. 78

Thứ 5-29: Người đã yêu thương họ đến cùng. 80

Thứ 5-30: THỨ NĂM TUẦN THÁNH.. 86

Thứ 5-31: TẤM BÁNH BẺ RA – Thiên An. 88

Thứ 5-32: THÁNH THÊ LIÊN TỤC – Lm. Bart. Huỳnh San. 91

Thứ 5-33: THỨ NĂM TUẦN THÁNH.. 94

Thứ 5-34: GIỚI RĂN YÊU MỚI CỦA ĐỨC GIÊSU.. 97

Thứ 5-35: Yêu thương đến cùng. 102

Thứ 5-36: PHỤC VỤ.. 105

Thứ 5-37: THỨ NĂM TUẦN THÁNH.. 107

Thứ 5-38: PHỤC VỤ.. 109

Thứ 5-39: NHỮNG LỜI YÊU THƯƠNG CUỐI CÙNG.. 112

Thứ 5-40: CÂU CHUYỆN RỬA CHÂN.. 116

Thứ 5-41: LÀM GÌ CHO CHÚA? Lm.Jos Tạ Duy Tuyền. 120

Thứ 5-42: NGÀI ĐÃ RỬA CHÂN TÔI – Trần Mỹ Duyệt 122

Thứ 5-43: Bài giảng trong Lễ Dầu 2004 của Đức Cha Mỹ Tho. 124

Thứ 5-44: Thứ năm Tuần thánh  YÊU LÀ TRAO BAN.. 126

Thứ 5-45: Từ bỏ con người và nếp sống cũ để đi vào tinh thần và sự sống mới 132

Thứ 5-46: BỮA TIỆC LY VÀ CỬ CHỈ RỬA CHÂN.. 139

Thứ 5-47: HIỆN DIỆN (THỨ 5 TT.B) 143

Thứ 5-48: Thánh Thể, Thiên Chức Linh Mục Và Giới Luật Yêu Thương. 146

Thứ 5-49: Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc. 149

Thứ 5-50: THẦY MÀ LẠI RỬA CHÂN CHO CON SAO ?. 151

—————————-
 

Thứ 5-1: CHÚA RỬA CHÂN CHO CÁC MÔN ĐỆ

VÀ LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ – Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Ga 13, 1-15

 

Chiều hôm nay chúng ta sống lại biến cố Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ và cho cả nhân: Thứ 5-1

Chiều hôm nay chúng ta sống lại biến cố Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ và cho cả nhân trần cách đây hơn hai nghìn năm. Chúa rửa chân cho các môn đệ và ban thịt máu mình cho nhân loại. Trong bữa ăn vượt qua chiều hôm nay, Tin Mừng nhất lãm không đề cập gì tới việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, nhưng thánh Gioan thì tường thuật lại việc này một cách rất tỉ mỉ, chi tiết. Thánh Gioan đã đưa nhân loại vào khung cảnh, vào câu chuyện:” Trước lễ vượt qua, Chúa Giêsu biết rằng đã đến giờ Ngài ra khỏi thế gian này… Ngài đã yêu mến họ đến cùng. Giờ ở đây có nghĩa là giờ chết, giờ định mệnh của đời Ngài nhưng Ngài đã can đảm đi vào giờ ấy với tất cả lòng quả cảm của mình vì Ngài biết đây là giờ cứu độ. Cái chết của Chúa Giêsu sẽ là sự hoàn thành những lời hứa cho cha ông và đặc biệt là tình yêu đối với các môn đệ. Để diễn tả tình yêu của Ngài, Đức Giêsu đã chỗi dậy, bỏ áo xuống và lấy khăn thắt lưng mình…rửa chân cho các môn đệ, rồi lấy khăn thắt lưng mà lau.

Chúa Giêsu cho thấy cái tương phản giữa sự cao cả của Ngài và sự yếu hèn tầm thường của các môn đệ. Và việc rửa chân đã xẩy ra giữa bữa ăn chứ không phải ngay từ đầu bữa ăn. Do đó, nó cho thấy tính cách ngôn sứ của Ngài. Đức Giêsu đã chỗi dậy ra khỏi bàn ăn. Ở đây nói lên sự vượt qua của Ngài khác nào dân Do Thái khi xưa đi qua biển đỏ. Vượt qua đối với Chúa Giêsu không có nghĩa là trở về cùng Chúa cha nhưng còn có nghĩa trao ban thịt máu, là thí mạng vì đoàn chiên. Chính vì thế, Gioan đã tả lại hành vi của Đức Giêsu: Chúa Giêsu chỗi dậy, cởi áo ra. Đây là hành vi lột bỏ tất cả, trở thành nô lệ để phục vụ như người nô lệ. Hành vi rửa chân của Chúa Giêsu gợi lại hình ảnh Ngài sẽ hư vô hóa đời Ngài trên thập giá. Việc Ngài cầm chậu quỳ gối rửa chân cho các môn đệ cho thấy sự tự hủy của Ngài như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Philip:”…

Người đã lĩnh lấy thân phận tôi đòi”…Chúa Giêsu cũng trở nên nghèo khó để làm cho người khác nên giầu có. Việc rửa chân của Chúa Giêsu còn diễn tả”tình yêu cho đến cùng của Chúa Giêsu”. Chúa là Thầy và là Chúa mà đã nêu gương và dậy các môn đệ và chúng ta cũng làm như vậy. Điều đáng lưu ý trong việc rửa chân cho các môn đệ là thái độ của Chúa Giêsu trước Giuđa Iscariốt kẻ phản bội Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra nhân đạo và tự chủ hết mình trước kẻ phản bội. Ở đây chúng ta nhận ra một điểm sâu xa khác là Ngài hạ mình ngay cả trước kẻ sẽ phản bội Ngài. Cử chỉ này của Đức Giêsu đã tỏ rõ nét Chúa yêu thương môn đệ cho đến cùng.

Hiểu được việc rửa chân của Chúa Giêsu cho các môn đệ chiều nay, chúng ta mới hiểu rõ hơn việc Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong khung cảnh Ngài tự hủy mình.Chúa Giêsu đã chọn khung cảnh lễ vượt qua của người Do Thái để thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Tình Yêu. Trong lễ vượt qua của người Do Thái, người ta ăn bánh không men,rau diếp đắng, nhưng còn sát tế chiên con, lấy máu bôi trên cửa để Chúa không giết các con đầu lòng của người Do Thái, con chiên được người ta nướng mà ăn. Con chiên người Do Thái ăn lễ vượt qua chính là hình bóng của Đức Giêsu chiên vượt qua của chúng ta. Là chiên vượt qua Chúa Giêsu đã trở nên của ăn của uống cho ta và gánh tội cho ta. Ngài đã thực hiện điều đó trong đêm Ngài bị nộp.

Chúa Giêsu là bánh khi Ngài trở nên nghiền nát, chịu treo trên thập giá để gánh tội cho con người. Chúa Giêsu là rượu là máu giao ước. Rượu là chính máu Người đổ ra để tẩy xóa nhân loại và để cho nhân loại được sống trong giao ước vĩnh viễn.

Chiều nay khi nghe đọc các bài sách thánh tự nhiên chúng ta cảm nghiệm được tình yêu thật sâu xa của Chúa Giêsu. Đức Giêsu đã sống tự hạ để nêu gương khiêm nhu và

mời gọi chúng ta sống khiêm tốn, phục vụ mọi người. Chúa là Thầy và là Chúa mà đã trở nên tôi tớ để nêu gương phục vụ tối cao cho mọi người. Khi lập Bí Tích Thánh Thể Chúa đã chết đi để cho con người được sống và sống dồi dào.

Vâng đã hơn hai nghìn năm, Chúa Giêsu đã không để lại cho nhân loại kho tàng châu báu ngọc ngà, nhưng Ngài đã để lại cho nhân loại, cho con người những điều thật quí báu, thật giá trị: Bí Tích Thánh Thể, Chức linh mục thừa tác và tình huynh đệ anh em.

Xin cho mỗi người chúng ta hiểu rõ những hành vi, cử chỉ của Chúa vì Chúa đang thực hiện nơi ta những điều thật kỳ diệu. Mẹ Têrêsa Calcutta nói:” Đừng thỏa mãn với việc cho đi tiền bạc. Tiền bạc mà thôi chưa đủ, còn cần tấm lòng yêu thương nữa”.

————————————-

 

Thứ 5-2: Bí tích Tình yêu – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

VietCatholic News (01/02/2005)

Thứ Năm Tuần Thánh

Thánh lễ Tiệc Ly

Bài đọc 1: Xh 12, 1-8. 11-14

Bài đọc 2: 1 Cr 11, 23-26

Tin mừng: Ga 13, 1-15

Bí tích Tình yêu – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

Kính thưa…

 

Trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay, Phụng vụ Giáo Hội nhắc mỗi người chúng ta nhớ: Thứ 5-2

Trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay, Phụng vụ Giáo Hội nhắc mỗi người chúng ta nhớ đến việc Đức Giêsu thiết lập hai bí tích quan trọng để giúp chúng ta kết hợp mật thiết với Ngài, đó là bí tích Truyền Chức Thánh và bí tích Thánh Thể.

Trong thánh lễ sáng nay, thường gọi là Lễ Truyền Dầu hay làm phép Dầu, phụng vụ nhắc lại việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Truyền Chức Thánh. Nhờ bí tích này, Đức Giêsu đã chọn gọi một số người tham dự cách đặc biệt vào chức tư tế duy nhất của Ngài. Nhờ đó, “sứ mạng Chúa Kitô uỷ thác cho các tông đồ tiếp tục được thực hiện trong Hội Thánh cho đến tận thế” (SGL 1536).

Còn Thánh lễ chiều nay thường gọi là Lễ Tiệc Ly, nhắc chúng ta nhớ đến việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể. Đây là nguồn mạch và chóp đỉnh mọi sinh hoạt của Giáo Hội. Vì thế, bí tích này còn có nhiều tên gọi khác nữa, chẳng hạn như: bí tích Tình yêu, bí tích Hiệp nhất, bí tích Vượt Qua…, mỗi tên gọi nói lên một khía cạnh vô cùng phong phú của bí tích.

Trong các tên gọi đó, thì tên gọi “bí tích Tình yêu” có lẽ diễn tả đầy đủ hơn cả về đặc tính của bí tích này. Vì chỉ có tình yêu mới có thể giải thích được lý do tại sao Đức Giêsu lại hiến cả mạng sống, rồi lại còn lấy Thịt và Máu mình làm lương thực nuôi sống cho từng người chúng ta.

Tình yêu đó của Đức Giêsu đã được thánh sử Gioan diễn tả cách ngắn gọn, nhưng cũng thật súc tích trong lời mở đầu của bài Tin mừng hôm nay: “Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ mình phải bỏ thế gian mà về cùng Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng”. Và hôm nay, tôi muốn chia sẻ với quý ông bà anh chị em cái “đến cùng” trong tình yêu đó của Đức Giêsu.

1. Tình yêu phục vụ:

Thánh sử Gioan viết tiếp: “Sau bữa ăn tối…Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau”. Điều đó cho thấy chính vì yêu thương những kẻ thuộc về mình đến cùng, Đức Giêsu đã không ngần ngại hạ mình làm một công việc của người đầy tớ, đó là rửa chân cho các môn đệ. Theo tục lệ của người Do Thái lúc bấy giờ, rửa chân là công việc của một đầy tớ, hay một người nô lệ làm cho chủ. Thế mà Đức Giêsu là Thầy, là Chủ lại đi rửa chân cho các môn đệ của mình. Quả thật, đây là một hành vi không thể hiểu theo suy nghĩ bình thường. Và chuyện này còn bất bình thường hơn nữa, khi Đức Giêsu không chỉ rửa chân cho một hay hai môn đệ mà Ngài yêu quý, nhưng lại rửa chân cho “các môn đệ”, nghĩa là, Ngài rửa chân cho cả Giuđa, kẻ mà Ngài biết sẽ bán Ngài, và Phêrô, kẻ sẽ chối Ngài.

Một tình yêu thật sự, một tình yêu cho đến cùng đối với người mình yêu là thế đó. Với tình yêu này, con người ta có thể làm được rất nhiều việc mà người không yêu, không thể hiểu nổi. Chúng ta có thể cảm nghiệm được một phần nào tình yêu này qua tình mẫu tử của người mẹ dành cho con. Vì yêu chồng, thương con, người mẹ sẵn sàng sẵn sàng thức khuya, dậy sớm, ăn đói, mặc rách miễn sao chồng con được no đủ.

Như thế, đối với Đức Giêsu, một tình yêu “đến cùng” là tình yêu dẫn đến sự phục vụ cách nhưng không và trọn vẹn cho người mình yêu, cho dù đó là kẻ làm cho mình phải khổ, làm cho mình phải chịu thiệt thòi, oan ức, hiểu lầm…

2. Tình yêu hiến thân:

Tình yêu đến cùng của Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở việc phục vụ, nhưng còn tiến xa hơn với việc Ngài lấy chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn cho chúng ta. Thánh Phaolô thuật lại: “Chúa Giêsu trong đêm bị trao nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con… Chén này là Tân ước trong Máu Ta”. Và Máu của Đức Giêsu không những đã thực sự trở nên của ăn, của uống cho linh hồn chúng ta, nhưng còn là máu của Giao ước mới, đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Giao ước này đã được báo trước qua hình ảnh con chiên bị sát tế lấy máu bôi lên cửa nhà người Do thái mà chúng ta vừa nghe trong bài sách Xuất Hành. Lúc đó, trong đêm Vượt Qua đầu tiên tại đất Ai Cập, lúc thiên thần đi qua để sát hại các con đầu lòng của người Ai Cập, thì nhờ dấu máu bôi lên cửa này, những đứa con đầu lòng của người Do thái đã được cứu sống.

Như thế, vì yêu chúng ta cho đến cùng mà Đức Giêsu không muốn chúng ta phải chết, nhưng muốn chúng ta được sống và sống cách dồi dào (x. Ga 10, 10).

3. Loan truyền tình yêu:

Đứng trước tình yêu của Đức Giêsu, một tình yêu “cho đến cùng”, không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng chính việc phục vụ và trao ban chính mình Ngài làm của ăn cho chúng ta, có lẽ việc đầu tiên mà mỗi người chúng ta có thể làm, là dâng lời tạ ơn như lời tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: “Tôi sẽ hiến dâng lời ca ngợi làm sính lễ… Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa”. Mặt khác, khi trao ban tình yêu đó cho từng người chúng ta, Đức Giêsu cũng muốn chúng ta cũng biết loan truyền tình yêu đó cho mọi người qua đời sống phục vụ, yêu thương cho đến cùng như lời Ngài dạy: “Các con hãy yêu mến nhau, như Ta đã yêu mến các con” (Ga 15, 12). Ngay trong bữa tiệc cuối cùng này, sau khi rửa chân cho các môn đệ, chính Đức Giêsu cũng đã nhắn bảo với các môn đệ và cũng là với từng người chúng ta:“Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”. Đáp lời của Đức Giêsu, thánh Phaolô cũng dặn dò chúng ta: “Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.

Như thế, nhận được tình yêu cho đến cùng của Đức Giêsu, mỗi người chúng ta cũng phải biết đáp lại bằng cách yêu Chúa và yêu anh em cũng cho đến cùng.

Yêu Chúa cho đến cùng, nghĩa là, chúng ta phải chu toàn mọi bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa. Mỗi khi tham dự các giờ phụng vụ, chúng ta cứ bớt đầu, cắt đuôi, than thở dài ngắn, thì thử hỏi chúng ta đã yêu Chúa cho đến cùng chưa? Nếu như chúng ta dễ dàng bỏ ngày lễ Chúa Nhật chỉ vì một chuyến đi chơi với gia đình, với bạn bè, hay chỉ vì một bữa nhậu, một bộ film, một trận bóng đá dang dở, thì đó có phải là chúng ta đã yêu Chúa cho đến cùng không?

Mặt khác, tình yêu Chúa không thể tách khỏi tình yêu đối với anh chị em. Do đó, tham dự Thánh lễ Tiệc Ly chiều nay cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại cách mình cư xử với anh chị em, nhất là những người xúc phạm đến chúng ta. Tình yêu cho đến cùng đòi hỏi chúng ta sẵn sàng tha thứ, và hơn nữa, sẵn sàng làm ơn cho những người gây phiền hà cho chúng ta. Nếu chúng ta chỉ đối xử cách “sòng phẳng” đối với họ, thì chúng ta có khác gì những người không tin (x. Mt 5, 43-47), và như thế, chúng ta cũng chưa thật sự yêu cho đến cùng.

Nếu mỗi người chúng ta luôn sẵn sàng yêu mọi người cho đến cùng, nghĩa là, yêu mọi người với hết khả năng có thể của chúng ta, thì lúc đó, thánh lễ sẽ không dừng ở ngôi thánh đường này, nhưng sẽ được kéo dài trong suốt cuộc sống của chúng ta. Amen.

————————————-

 

Thứ 5-3: Tiệc ly – SCĐ/147

VietCatholic News (01/02/2005)

Tiệc ly – SCĐ/147

 

Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu dạy các môn đệ mình những bài học sâu sắc bằng việc làm và lời: Thứ 5-3

Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu dạy các môn đệ mình những bài học sâu sắc bằng việc làm và lời nói của Ngài :

– Bằng việc làm : Trước khi hiến thân chịu chết trên thập giá và trước khi hiến mình làm của ăn, Chúa Giêsu đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Ba việc làm này liên kết với nhau và đều dạy bài học phục vụ : Phục vụ như Người tôi tớ mà ngày xưa ngôn sứ Isaia đã tiên báo; phục vụ cách khiêm tốn, phục vụ với tình yêu và phục vụ đến nỗi hy sinh bản thân mình.

– Bằng lời nói : Trong bầu khí thân mật của gia đình, Chúa dạy một điều răn mới. Điều răn này mới không phải ở nội dung (“chúng con hãy thương yêu nhau”) mà ở cách thức và mức độ thi hành (hãy yêu thương nhau “như Thầy yêu thương chúng con”; “Thầy đã làm gương để chúng con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho chúng con”).

Cử hành lễ Vượt qua với Chúa Giêsu trước hết là chấp nhận để cho Chúa Giêsu phục vụ chúng ta và yêu thương chúng ta. Có như thế chúng ta mới được thực sự rửa sạch, như lời Chúa Giêsu đã nói với Phêrô xưa.

Cử hành lễ Vượt qua với Chúa Giêsu còn là phải noi gương Ngài để trở thành người tôi tớ yêu thương và phục vụ những người khác theo cách của chính Chúa Giêsu.

Thánh lễ ngày nay là hiện tại hóa bữa tiệc ly đêm thứ năm tuần thánh đầu tiên. Nó có hai ý nghĩa chính :

– Đó là một bữa ăn gia đình : Mọi người cùng ngồi một bàn với nhau, cùng ăn những món chung nhau, cho nên phải đoàn kết yêu thương nhau. Đó là chiều ngang. Nhưng nếu chỉ lưu ý tới chiều ngang này thì thánh lễ hầu như chỉ còn như một bữa giỗ.

– Thánh lễ còn loan báo việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại và hiện tại hóa những ơn sủng dồi dào do việc Chúa Giêsu chết và sống lại ban cho loài người. Đó là chiều đứng.

Khi dâng thánh lễ chúng ta phải để ý đến cả hai chiều kích ấy và phải có đủ cả hai tâm tình ấy : vừa liên kết với Chúa vừa liên kết với anh em. Sai lầm thường mắc phải là chỉ chú ý đến chiều kích này mà quên đi chiều kích kia.

Phêrô không hiểu ý nghĩa việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, nên Chúa Giêsu nói “Việc Thầy làm, bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”.

Về sau, Phêrô đã hiểu gì? Thưa hiểu rằng đó không phải chỉ là một việc làm vệ sinh, mà ý nghĩa còn sâu sắc hơn nhiều. Khi tay chân mình dơ thì mình làm gì? Chặt bỏ đi ư? Không, không ai muốn chặt tay chặt chân mình bao giờ cho dù nó dơ bao nhiêu đi nữa. Nó dơ thì mình rửa cho sạch. Bởi vì nó là một phần của thân thể mình, một phần của sự sống mình.

Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, bởi vì họ là anh em của Ngài (Anh em như thể tay chân). Ngài dạy chúng ta rửa chân cho nhau vì chúng ta cũng là anh em của nhau, tay chân của nhau.

Khi chúng ta chặt bỏ ai thì đó là dấu chúng ta không còn coi người đó là anh em của mình nữa. Chặt bỏ bằng kết án, khai trừ.

Còn nếu chúng ta vẫn còn coi người đó là anh em của mình thì dù người đó dơ bao nhiêu đi nữa, mình sẽ cố gắng rửa cho sạch.

Dòng nước tẩy rửa rất nhẹ nhàng, trong lành, êm ái…

————————————-

 

Thứ 5-4: Thánh Lễ Tiệc Ly – Lm Antôn Trần Thế Phiệt DCCT

VietCatholic News (01/02/2005)

Thánh Lễ Tiệc Ly – Lm Antôn Trần Thế Phiệt DCCT

 

Chiều nay Hội thánh chúng ta tưởng niệm bữa Tiệc ly của Chúa. Trong bữa Tiệc ly này Chúa: Thứ 5-4

Chiều nay Hội thánh chúng ta tưởng niệm bữa Tiệc ly của Chúa. Trong bữa Tiệc ly này Chúa thực hiện bốn việc:

Một là cùng với dân tộc mình, Ngài nhắc nhớ lại cuộc Vượt qua ngày xưa.

Hai là rửa chân cho các tông đồ.

Ba là lập Phép Thánh Thể.

Bốn là nghĩ đến cuộc vượt qua mới mà Ngài sắp thự c hiện.

Dựa vào những hành vi và những tâm tình Chúa ĐG trong bữa Tiệc ly này,

I. Trước hết ta nghĩ đến sự độc ác của Pharaon, vua Ai cập: Sau khi Giuse, con tổ phụ Giacóp qua đời mấy trăm năm, các vua Pharaon mới, nhận thấy dân Do thái ngày một đông và mạnh hơn, đã sợ họ nổi loạn, nên thực hiện ý đồ làm suy yếu họ và tiêu diệt họ, bằng cách bắt người lớn làm việc cực khổ,hành hạ, đánh đập họ, nhất là bắt giết mọi trẻ nam sơ sinh của họ, để dần dần đồng hóa họ. Dân Do thái rơi vào một tình cảnh vô cùng đen tối thảm thương, chỉ còn biết khòm lưng khuất phục và ước mơ một cuộc đổi đời nhiệm lạ. Chính sách hà khắc của Pharaon phơi bày tâm địa độc ác, vô nhân mà một cá nhân, hoặc một tập thể có thể có đối với đồng loại. Tâm địa đó là điều khiến con người xấu ác hơn cả loài vật và là điều đáng xấu hổ.

II. Thế nhưng khi ngồi ăn lần cuối với các tông đồ, Đức Giêsu còn nghĩ đến hai chuyện khác quan trọng hơn: Đó là sự độc ác của vuaPharaon là hình ảnh sự thâm độc của thế gian, và cuộc vượt qua ngày xưa là hình ảnh cuộc vượt qua mà Ngài sắp thực hiện.

1. Tuy vua Pharaon tàn nhẫn, nhưng vua ấy chỉ làm khổ và giết hại được thân xác con người mà thôi, trong khi tội thế gian có thể làm hại tâm hồn và cả linh hồn con người. Bởi vì do những quan niệm, những chủ trương, những tiêu cực của thế gian, của xã hội như ta thấy ở mọi thời.

+ tâm hồn con người có thể trở nên rất hẹp hòi, ích kỷ, chẳng những với đồng loại mà còn với chính Thiên Chúa.

+ đồng thời linh hồn con ngươi có thể bị hư đi đời đời vị ghì giữ, bị tù hãm về mặt siêu nhiên: Khi thế gian tìm cách khai trừ Thiên Chúa, tấn công và làm sụp đổ các giá trị thiêng liêng, tìm cách đưa lối sống và những hấp dẫn của nó để thay thế và đè bẹp những khuynh hướng thanh cao nơi con người. Bằng nhiều thứ mật ngọt chết ruồi, đúng là thế gian đã đồng hoá nhiều linh hồn, đã dụ nhiều linh hồn vào chốn tù đầy và nguy kịch về măt siêu nhiên, và ở mọi thời, thế gian cho thấy tội thế gian luôn luôn tung hoành, lan tràn và tác hại mãnh liệt.

2. Đức Giêsu biết rõ điều đó và tâm trí ngài rạo rực hướng đến thời điểm Ngài thực hiệc cuộc vượt qua mới, để giải thoát nhân loại khỏi tội thế gian và ảnh hưởng độc hại của nó. Chính là qua các hành vi, thái độ của mình trong bữa Tiệc ly, Ngài bắt đầu thực hiệc cuộc vượt qua ấy.

+ trước hết bằng cách đem tinh thần Nước trời đến chống lại và tiêu diệt tinh thần thế gian : Trong khi thế gian tạo ra những con người ích kỷ, độc ác, thì Ngài chứng tỏ một tâm hồn khiêm nhường, bỏ mình, hiến thân một cách đáng ngạc nhiên và quá mọi ngờ tưởng – trong khi con người khép kín vào mình và chỉ lo đề cao mình thì Ngài thực sự mở rộng tâm hồn cho Thiên Chúa và cho tha nhân.

+ rồi Ngài thực hiệc cuộc Vượt qua mới bằng cách nêu gương khiêm nhường và bỏ mình qua việc rửa chân cho các tông đồ – cũng như bằng cách ban sức thiêng qua bí tích Thánh Thể, để chúng ta có khả năng nên giống như Ngài.

Vậy tuy âm thầm diễn ra trong một căn phòng bé nhỏ, bữa tiệc ly của Chúa đã trở thành thời điểm thay đổi kiếp người, đánh dấu lúc khai trương kỷ nguyên mới, với tinh thần sống đối chọi hẳn với tinh thần thế gian. Như đoàn người Do thái trong đất Ai cập vào thời Pharaon, chúng ta đang được mời gọi đi theo Đức Giêsu là Môisê mới và có mặt trong đoàn người ra khỏi thế gian, mỗi người chúng ta có chấp nhận lời mời gọi ấy không, có để cho mình được giải thoát, bằng cách bắt chước tinh thần sống của Đức Giêsu và thể hiện trong đời sống hôm nay của mình những thái độ Ngài chứng tỏ khi lập bí tích Thánh Thể và khi cúi xuống rửa chân cho các tông đồ hay không?

Bài đọc lúc chầu cuối lễ

I. ( Sau khi chủ sự đặt MTC ở bàn thờ tạm, chủ sự hoặc một người đọc ).

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

+ Ngày xưa, cũng vào tối thứ năm như hôm nay, các sự kiện diễn ra ở Giêrusalem theo hai hướng và những người trong cuộc, những người trải qua các sự kiện ấy, chia ra thành hai bên.

– một bên là các đối thủ của Chúa: sau khi cấu kết với Giuđa và bắt được Chúa, họ khoái trá vì mưu đồ đã thành công, họ ngạo mạn trong uy thế vừa được củng cố của mình, họ thẳng tay và hùa tập vùi dập một kẻ mà họ từng coi như cái gai cần phải nhổ, và vào chính hôm nhắc nhớ lại biến cố vượt qua ngày xưa, vào chính hôm toàn dân ý thức tình thương của Giavê và diễm phúc của mình trong tâm tình biết ơn và ca ngợi, họ lại đang hoàn toàn sống ngược với tư cách của những ngừơi thuộc dân riêng của Giavê: Bởi vì họ đang chà đạp tình Người, xúm lại áp bức một cá nhân thất thế cô độc.

– bởi vì họ đang đề cao cái tôi, bất chấp phẩm giá của tha nhân cần được tôn trọng và họ điên cuồng củng cố uy tín, ảnh hưởng quyền lợi của bản thân, không nghĩ gì đến Thiên Chúa và ý nghĩa sâu sắc của ngày lễ.

– Và bên thứ hai là những tông đồ và môn đệ đang thất vọng và run sợ của Chúa, nhất là chính Chúa, đấng đối chọi hẳn với các đối thủ của mình. Bởi vì Chúa đang sống đúng tâm tình của một người thuộc dân được chọn của Giavê: Biết ơn Giavê, đem cố gắng và cả mạng sống mình thể hiện điều Thiên Chúa chờ mong nơi mình. Bởi vì Chúa không ích kỷ mà hoàn toàn hiến thân. Chính trong đêm này ngày xưa, Chúa quyết định thí thân vì nhân loại. Chính nơi bí tích Thánh Thể, Chúa thiết lập trong đêm này ngày xưa, Chúa đã ban Mình Máu Chúa cho con người, đi ngược lại tinh thần kích kỷ, hẹp hòi của thế gian và thay đổi, diệt trừ tinh thần thế gian ấy.

+ Giờ đây, quỳ trước mặt Chúa, tất cả chúng con tôn kính Chúa, biết ơn Chúa và ngợi khen Chúa. Chúng con xin chân thành kết hợp với những tâm tình quảng đại của Chúa trong đêm Chúa bị bắt và đi vào cuộc thương khó.

Đứng hát bài ” Lạy cha, nếu có thể”

II. Một số lời nguyện

1. Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc khổ nạn của Chúa, tội của thế gian lộ rõ với nhiều hình thức ghê tởm của nó – Xin cho Hội thánh và chúng con vừa được che chở khỏi sự lây nhiễm và tác hại của nó, vừa trở nên môi trường sống động giữ gìn và phát huy tinh thần tốt lành thánh thiện của Chúa, để góp phần lành mạnh hoá và thánh hoá thế gian. Xin cho chúng con gắn bó mất thiết với Chúa, qua việc hướng lòng về Chúa, có những giờ phút sốt sắng cầu nguyện và suy niệm lời Chúa, để vừa nhận được sự khôn ngoan và nhiều ơn thiêng giúp mình thắng vượt ảnh hưởng của thế gian, vừa ngày càng hiểu biết và thấm nhuần tinh thần sống của Chúa.

Hát Điệp khúc bài” Thày yêu chúng con” và Tiểu khúc đầu.

2. Lạy Chúa Giêsu, bí tích Thánh Thể thực là Bí tích cao cả và quý báu: vì bí tích này thể hiện mọi mặc khải cao qúy về Chúa, hiện tại hóa sự có mặt của Chúa giữa nhân loại và là Bí tích trung tâm trong Đạo. Chúng con hết lòng cảm tạ và ngợi khen Chúa vì Bí tích này. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh biết quý chuộng Bí tích này, năng đến với Bí tích này, để gặp gỡ Chúa một cách đích thân tuy mắt phàm không trông thấy và để tâm hồn luôn được bình an, sáng soi, nâng đỡ – dù đó là trường hợp của các linh mục dễ phải chạm chán với nhiều cam go thử thách trong sứ mạng mục tử, hoặc đó là trường hợp các tu sĩ hay giáo dân đang phải liên lỉ chống chọi với nhiều chi phối và lôi kéo của tinh thần thế tục.

Hát Tiểu khúc “Này hỡi đoàn con…..và Điệp khúc “Thày yêu chúng con”.

3. Lạy Chúa Giêsu,

Qua hành vi cúi xuống rửa chân cho các tông đồ và qua lời đoc trên tấm bánh và chén rượu trong bữa Tiệc ly, Chúa đã diễn tả sự tự huỷ và thí thân của mình và để lại tấm gương về tình mến tột cùng. Xin cho chúng con hằng nhớ mình đã được cứu chuộc bằng sự thí thân của chính Chúa, mình đã là môn đệ của một vị thày yêu mến đến mức độ tuyệt đối. Xin cho trái tim chúng con đón nhận được tình mến của Chúa và đời sống, thái độ của chúng con chứng minh cho mọi người thấy rằng chúng con thuộc về một nền văn minh mới, nền văn minh của tình mến, và thấy rằng chúng con đang cố gắng vượt lên trên mọi sư ích kỷ, hẹp hỏi, mọi bất công, thù oán khi cư xử với tha nhân.

Hát Tiểu khúc “Yêu nhau chính là giới răn …”và Điệp khúc.

————————————-

 

Thứ 5-5: Yêu thương

Thứ Năm Tuần Thánh

Yêu thương

 

Sellahuk là một cô giáo người Canada tình nguyện làm việc với mẹ Têrêxa Calcutta để giúp: Thứ 5-5

Sellahuk là một cô giáo người Canada tình nguyện làm việc với mẹ Têrêxa Calcutta để giúp những người nghèo tại Ấn độ. Ngày kia cô được yêu cầu tắm cho một người đàn bà ghẻ lở. Cô rùng mình ghê tởm, nhưng rồi cô nhớ lại lời Mẹ Têrêxa đã nói : khi con đụng chạm đến người nghèo là con đụng chạm đến chính Chúa Giêsu. Lúc đó cô nhìn người đàn bà bằng cặp mắt đức tin và không còn thấy khó khăn khi tắm rửa cho người đàn bà ghẻ chốc ấy nữa.

Tôi hiểu câu đó bằng cặp mắt đức tin như thế nào ? làm sao tôi học thấy bằng cặp mắt đức tin ? Xin thưa : Chỉ khi nào chúng ta thấy Đấng vô hình, chúng ta mới học làm những chuyện không có thể được. Như chúng ta đã biết giữa nói và làm đôi khi có một khoảng cách không vượt qua được. Nói rằng mình kính mến Chúa thì dễ, nhưng khi chúng ta thể hiện cụ thể tình yêu đó thì quả thật là khó.

Nở một nụ cười tha thứ cho kẻ vừa mới xúc phạm đến mình, cúi xuống lượm một cọng rác người bạn ném bừa bãi trong lớp học, hay giúp đỡ người bị ghẻ lở đầy mình kia đi tắm, hoặc săn sóc ho một bệnh nhân khó tính…Tất cả đều là những thách thức đối với tình yêu và lòng nhân đạo đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu.

Thánh Giacôbê đã lưu ý chúng ta : nếu ai nói mình có đức tin song không làm việc theo đức tin thì có ích gì ? Giả như anh chị em nào không có quần áo mặc và thiếu những của ăn hằng ngày mà nói với họ rằng : hãy đi về bình an, hãy sưởi cho ấm, hãy ăn cho no. Nhưng chẳng giúp đỡ những sự cần thiết về phần xác thì nào ích chi. Đức tin cũng vậy, đức tin không có việc làm là đức tin chết.

Thánh Giacôbê nhắc đến sự cần thiết của việc làm cụ thể để minh chứng cho đức tin. Lòng tin phải được thể hiện qua việc làm. Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em cũng cần phải được rõ ràng trong việc làm, nhưng để đạt tới mức độ thực hành đức tin đó, thì lòng yêu mến phải khá mạnh thì mới có thể đủ sức thôi thúc chúng ta hành động. Để nhận thấy Chúa hiện diện trong anh chị em, chúng ta rất cần đến ơn Chúa trợ giúp thì mới có thể đạt đến mức độ siêu nhiên này.

Lạy Chúa, chúng con cần sự trợ giúp của ơn Chúa để được thanh luyện và lớn lên trong đức tin và trong tình thương. Đặc biệt hôm nay thứ năm tuần thánh, ngày Chúa thiết lập bí tích Tình yêu. Xin soi sáng và nâng đỡ chúng con thì hành tốt đẹp mệnh lệnh sống yêu thương của Chúa, như lời Chúa đã phán : Thày ban cho chúng con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Và : người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con hãy yêu thương nhau.

————————————-

 

Thứ 5-6: Thánh Thể – 00/257

Theo một tài liệu soạn thảo hồi thế kỷ 17, thì khoảng năm 750, tại tu viện thánh Basiliô, nay nổi: Thứ 5-6

Theo một tài liệu soạn thảo hồi thế kỷ 17, thì khoảng năm 750, tại tu viện thánh Basiliô, nay nổi tiếng thành tu viện thánh Phanxicô, một linh mục nọ mặc dù rất thông thái, nhưng không có lòng tin mạnh mẽ. Càng ngày ông càng lún sâu vào sự nghi ngờ đối với các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Ông nghi ngờ bánh và rược được truyền phép không thực sự là Mình và Máu Chúa Kitô. Tuy vậy, ông vẫn trung thành với việc cầu nguyện và xin Chúa cất đi sự nghi ngờ khỏi tâm hồn mình.

Một buổi sáng nọ, sau khi đọc lời truyền phép, ông dừng lại và chìm đắm trong nghi ngờ. Bỗng chốc, ông thấy bánh và rượu trở thành mình và máu người. Bao nhiêu nghi ngờ tan biến, và trong cơn xúc động, vị linh mục thốt lên : “Anh chị em thật có phúc ! Để đánh tan lòng cứng của tôi, Chúa đã tỏ bày trong bí tích cực thánh này, và một cách nhãn tiền tiền trước mắt anh chị em. Nào ta hãy đến chiêm ngắm Thiên Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta, đây là Mình Máu Chúa Giêsu chí ái của chúng ta”. Từ đó, trải qua mười hai thế kỷ, Thịt Máu Chúa Giêsu đã được cất giữ, mà không hề chịu bất cứ sự hủy hoại nào của thời gian.

Hôm nay, thứ Năm Tuần thánh, chúng ta đặc biệt quì trước Thánh Thể Chúa, đôi mắt chúng ta không thấy gì ngoài tấm bánh và chén rượu. Không phải mọi người đều được chứng kiến phép lạ Thánh Thể như vị linh mục trên đây. Có lẽ chúng ta sẽ chết vì sợ hãi, nếu mỗi ngày phép lạ Thánh Thể được diễn ra trước mắt chúng ta. Thiên Chúa như như muốn dấu ẩn, để chúng ta khám phá ra Ngài với những phương tiện và khả năng của chúng ta. Trong cái mầu nhiệm đức tin cũng thế, Ngài ẩn dấu để nuôi dưỡng lòng tin của chúng ta.

Ta hãy lấy đức tin bù lại. Xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, để dù giác quan không cảm nhận được sự hiện diện và tác động của Chúa, chúng ta vẫn luôn nhận ra phép lạ mà Ngài muốn thực hiện trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.

————————————-

 

Thứ 5-7: Yêu thương đến cùng – Lm Damian OFM

VietCatholic News (01/02/2005)
 
Yêu thương đến cùng – Lm Damian OFM

Ga 13,1-15

 

Thứ năm Tuần Thánh là ngày lễ của các linh mục và cũng là ngày lễ của Tình yêu. Vì thế linh: Thứ 5-7

Thứ năm Tuần Thánh là ngày lễ của các linh mục và cũng là ngày lễ của Tình yêu. Vì thế linh mục phải là người của Tình Yêu. Và người giáo dân cũng tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Giêsu, nên cũng không được phép miễn trừ cho mình bổn phận tình yêu. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su truyền chức cho các linh mục:

“Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy”. Vì thế mỗi ngày, trên khắp hoàn cầu, không có giây phút nào là không có thánh lễ, không có giây phút nào là không có linh mục và giáo dân cử hành bí tích Tình Yêu.

Người đã yêu thương họ đến cùng.

Yêu thương đến cùng Chúa Giêsu đã sống cho tình yêu trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài. Như thế thì người giáo dân và nhất là các linh mục, suốt đời chỉ sống vì tình yêu và cho tình yêu như Chúa Giêsu : Yêu Chúa và yêu anh em mình. Mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta phải cho người ta thấy được điều đó.

Yêu cho đến cùng là chết cho tình yêu như Chúa Kitô: những hy sinh lớn hay nhỏ vì tình yêu trong cuộc sống làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô, Đấng đã chết cho tình yêu.

Vì muốn Yêu cho đến cùng mà Chúa Giêsu đã tự hạ, quì xuống rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly, như một người tôi tớ. Nếu vậy thì tình yêu của người linh mục cũng như của giáo dân phải là một tình yêu khiêm tốn, phục vụ và kín đáo: “Anh em hãy rửa chân cho nhau”.

Vì muốn yêu cho đến cùng, cho đến tận thế, mà Chúa Giêsu đã lập BT Thánh Thể để ở lại với chúng ta cho đến ngày sau cùng. Vì vậy cho đến hơi thở cuối cùng, người linh mục cũng như kitô hữu phải là người của tình yêu.

Vì muốn yêu cho đến cùng mà Chúa Giêsu đã để cho quân lính đâm thâu trái tim, đổ hết giọt máu cuối cùng cho nhân loại.

Vì muốn yêu thương đến cùng mà Chúa hằng kêu gọi và kiên trì không mệt mỏi, chờ đợi chúng ta ăn năn thống hối.

Anh em hãy rửa chân cho nhau.

“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.Một trong hai dấu chỉ của một tình yêu đích thực là khiêm nhường. Vì thế mà các ĐGH. thường xưng mình là tôi tớ của các tôi tớ của Thiên Chúa. ĐGH Phaolô VI đã bán đấu giá cái mũ triều thiên ba tầng, để nói lên rằng :Giáo Hội không phải là quyền lực nhưng là tôi tớ. Mỗi thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta lặp lại cử chỉ rửa chân, để nói với linh mục cũng như giáo dân rằng họ phải sống yêu thương phục vụ mọi người trong khiêm hạ như Chúa Giêsu : “Anh em hãy rửa chân cho nhau.” Trong nghi lễ rửa chân, ngoài nước ra còn có tình yêu, vì chỉ có tình yêu mới rửa được con người, mới đổi mới được con người.

Anh em hãy rửa chân cho nhau;

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em : Đó là tất cả ý nghĩa của Bữa tiệc Ly, và đó cũng là những đòi hỏi của Phúc Âm, lời mời gọi của Chúa Giêsu gởi đến mỗi một chúng ta trong thánh lễ nầy.

Ý nghĩa cuộc đời

Sau một thời gian dài phục vụ sân khấu, anh hề già về hưu và sống cô đơn. Không ai nghĩ đến anh và viếng thăm anh. Anh buồn vì cô đơn thì ít, mà vì thấy cuộc sống bây giờ vô nghĩa thì nhiều. Bỗng anh gặp một vũ nữ cũng hết thời, về già, cũng đang sống cô đơn như anh. Anh dùng hết tài sản, sức lực cũng như trí óc để nâng đỡ người vũ nữ bất hạnh nầy. Rốt cuộc người đàn bà nầy thành công trong xã hội : danh vọng cũng như tiền tài. Nhưng éo le thay,người đàn bà kia một khi đã có danh vọng và tiền tài, lại không mảy may đoái hoài đến anh hề già nầy, vị ân nhân của bà. Anh hề lại phải sống cô đơn nghèo khổ hơn trước; cuối cùng anh chết vì bệnh tật trong cô đơn.

Nhưng trước khi chết, anh nở một nụ cười hài lòng, vì đời anh đã có ý nghĩa, anh đã đem lại được hạnh phúc và niềm vui cho kẻ khác.

————————————-

 

Thứ 5-8: Yêu thương

Trong một ngôi nhà thờ cổ, người ta có tạc một số bức tượng vào tường, vừa sinh động lại vừa: Thứ 5-8

Trong một ngôi nhà thờ cổ, người ta có tạc một số bức tượng vào tường, vừa sinh động lại vừa rấy ý nghĩa. Bức thứ nhất tạc hình một vị Giáo hoàng oai nghiêm với dòng chữ : Ta là người dạy dỗ các ngươi. Bức thứ hai là hình một vị vua uy nghi với dòng chữ : Ta là người cai trị các ngươi. Bức thứ ba là hình một vị tướng với gươm tuốt trần với dòng chữ : Ta là người bảo vệ các ngươi. Bức thứ tư là hình một bác nông dân đang cày ruộng với dòng chữ :Ta là người nuôi sống các ngươi. Sau cùng, người ta tạc hình một thằng quỉ đen đang cười nham nhở và đe dọa với dòng chữ : Chính ta là người lấy mạng sống các ngươi nếu các ngươi không làm tròn bổn phận. Chiều hôm nay, chúng ta được chứng kiến tận mắt không phải như một bức tranh chết cứng, cũng không phải như một bức tượng câm nín, mà là một hoạt cảnh sống động diễn lại những việc làm và lời nói của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly. Không cần phải ghi thành chữ, nhưng diễn tiến của hoạt cảnh này muốn nói với chúng ta rằng : Ngài là Đấng phục vụ chúng ta.

Thực vậy, tinh thần phục vụ không phải chỉ là một bổn phận, mà còn là lòng nhiệt thành tự nguyện xả thân vì những mục đích cao cả. Đây chính là cái tinh túy mà Chúa đã làm gương qua việc rửa chân cho các môn đệ. Vậy để có được một tinh thần phục vụ vô vị lợi này, chúng ta phải sống như thế nào ?

Trước hết là lòng khiêm tốn. Đây chính là yếu tố căn bản của tinh thần phục vụ vì để có thể phục vụ đúng nghĩa, chúng ta phải tự hạ mình xuống mới có khả nặng và cơ hội làm bất cứ việc gì lợi ích cho bất cứ ai mà mình liên đới. Hơn nữa, nhờ lòng khiêm tốn trong lúc phục vụ, chúng ta mới có sự hăng say nhiệt thành, vui tươi và trong sáng để chu toàn bổn phận được. Trái lại, một kẻ hay cạnh khóe, so đo hơn thiệt, tự ái kênh kiệu làm sao có thể yêu mến và nhiệt tâm với Chúa, với tha nhân và với xã hội được. Vì một khi đã không biết nể nang phục tùng thì không thể làm tôi tớ tối.

Thứ đến là sự hy sinh. Đây cùng là một yếu tố quan trọng trong khi phục vụ. Bởi vì để phục vụ thật sự thì không thể không hy sinh thời giờ, sức khỏe, bản thân và những cái khác. Một khi đã hy sinh thì không còn tính chất vụ lợi, tính tóan nhỏ nhen. Hơn nữa để có thể chu toàn trách nhiệm cách tốt đẹp thì đương nhiên đòi hỏi người thi hành phải chịu khó, cố gắng và kiên trì làm việc mới mong phục vụ thành công. Vì thế, không có hy sinh thì cũng chẳng có phục vụ đúng nghĩa.

Sau cùng là lòng yêu mến. Phải nhận rằng đây chính là yếu tố chủ chốt nhất. Thực vậy, làm sao chúng ta có thể hạ mình xuống để chu toàn nhưng bổn phận âm thầm nếu không có lòng mến Chúa và yêu người thiết tha. Làm sao chúng ta dám hy sinh giúp đỡ người khác nếu không có một tình thương cao cả ? Đồng thời chính lòng yêu mến này sẽ biến đổi những công việc nhỏ bé tầm thường của chúng ta trở thành công nghiệp và có giá trị trước mặt Chúa.

————————————-

 

Thứ 5-9: Điên dại của Tình yêu – STM 91

VietCatholic News (01/02/2005)

 

Chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu và đi sâu vào tâm tình của Chúa trong giây phút quan trọng: Thứ 5-9

Chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu và đi sâu vào tâm tình của Chúa trong giây phút quan trọng này. Hai đặc điểm quan trọng được nêu bật nơi đây :

Chúa Giêsu là Vì Thiên Chúa Nhập Thể làm người như chúng ta. Là con người, Chúa Giêsu xúc động mạnh mẽ, tâm hồn xao xuyến sâu xa. Trước cuộc thương khó sắp trải qua, trước sự không hiểu và sắp phản bội của các môn đệ, Giuđa phản bội, Phêrô chối Chúa. Là Vì Thiên Chúa, Chúa Giêsu ý thức rõ ràng điều sắp xảy ra cho Mình mà gọi đó là việc tôn vinh Thiên Chúa. Giờ tử nạn là giờ Thiên Chúa Cha được tôn vinh. Chính Chúa được tôn vinh và con người cũng được tôn vinh, được hòa giải với Thiên Chúa, được lãnh nhận sự sống đời đời. Thiên Chúa Cha được tôn vinh qua cái chết của Chúa Giêsu Kitô, con người được tôn vinh qua thập giá của Chúa Giêsu Kitô.

Chúa ý thức rõ ràng về chương trình của Thiên Chúa Cha muốn thực hiện, Chúa Giêsu muốn thực hiện điều đó một cách hoàn hảo và đồng thời ý thức rõ ràng điều tệ hại mà các môn đệ của Ngài đang liều mình sa vào, đó là Giuđa sắp phản bội và Phêrô sắp chối bỏ Ngài nên Chúa xao xuyến sâu xa. Tuy nhiên, tội lỗi của con người không làm hư chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Đến tận cùng Chúa làm những gì có thể làm được để thức tỉnh người tội lỗi, Chúa hành sử nơi mỗi người một cách khác nhau, ngấm ngầm âm thầm với Giuđa, công khai với Phêrô, nhưng quyết định cuối cùng vẫn là quyết định tự do của con người. Giuđa mở tâm hồn đón nhận Satan và từ bỏ ánh sáng mà bước vào cõi tăm tối, Giuđa tự ý thức bước vào trong tối tăm và càng ngày càng lún sâu vào đó cho đến tuyệt vọng, đến nỗi trong tâm hồn ấy không còn có chút tình yêu nào đối với Chúa nữa. Phêrô cũng sẽ sa ngã, nhưng tình yêu Chúa nơi ông giúp ông ăn năn trở lại.

Lạy Chúa, xin giúp con trở về cùng Chúa, đừng bao giờ để con thất vọng vì những lỗi lầm đã phạm, nhưng biết học sống bài học của sự sa ngã để trở về với Chúa luôn mãi.

————————————-

 

Thứ 5-10: Rửa chân – SL/325

VietCatholic News (01/02/2005)

 

Sellahuk là một giáo sư người Canada; trong một buổi chiều mùa hè, Sellahuk làm việc thiện: Thứ 5-10

Sellahuk là một giáo sư người Canada; trong một buổi chiều mùa hè, Sellahuk làm việc thiện nguyện với mẹ Têrêxa Calcutta để giúp người nghèo ở Ấn độ. Ngày kia cô được nhờ tắm cho một người đàn bà đầy ghẻ lở, cô rùng mình ghê tởm việc đó, nhưng rồi cô nhớ lại lời mẹ Têrêxa nói :”Khi con đụng chạm đến người nghèo là con đụng chạm đến chính Chúa Giêsu”. Lúc đó Sellahuk vực người đàn bà bằng cặp mắt đức tin và nàng không còn thấy khó khăn khi tắm rửa cho người đàn bà ghẻ chốc đó nữa. Tôi hiểu câu đó bằng cặp mắt đức tin như thế nào? Làm thế nào tôi học thấy bằng cặp mắt đức tin? Helgerl có nói :”Chỉ khi chúng ta thấy Đấng vô hình, chúng ta sẽ học làm những chuyện không có thể được”.

Giữa nói và làm đôi khi có một khoảng cách không vượt qua được. Nói rằng mình yêu mến Chúa thì dễ, nhưng khi ta thể hiện cụ thể tình yêu đó thì quả thật là khó. Nở một nụ cười tha thứ cho một người vừa xúc phạm đến mình, cúi mình lượm cọng rác người bạn vừa ném bừa bãi trong lớp học, hay giúp người bị ghẻ lở đầy mình kia đi tắm, hoặc săn sóc cho một bệnh nhân khó tính. Tất cả đều là những thách thức với tình yêu và lòng đạo đức đích thực của người đồ đệ Chúa Giêsu.

Thánh Giacôbê đã lưu ý đến các tín hữu của ngài như sau :”Thưa anh em, nếu ai nói mình có đức tin song không làm việc theo đức tin thì có ích gì không? Giả như có anh chị em nào không có quần áo mặc và thiếu của ăn hàng ngày mà nói với người ấy rằng : Hãy đi về bình an, hãy sưởi cho ấm, hãy ăn cho no nhưng chẳng chịu giúp đỡ những sự cần thiết về phần xác thì nào ích chi. Đức tin cũng vậy, đức tin không có việc làm là đức tin chết”.

Thánh Giacôbê nhắc đến sự cần thiết của việc làm cụ thể để minh chứng cho đức tin. Lòng tin phải được thể hiện qua việc làm. Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em cũng cần phải được rõ ràng trong việc làm, nhưng để đạt đến mức độ thực hành thì đức tin đó, lòng yêu mến đó phải khá mạnh thì mới có thể đủ sức thôi thúc chúng ta hành động. Cần thấy Chúa hiện diện trong anh chị em và chúng ta rất cần đến ơn Chúa trợ giúp để có thể đạt đến mức độ siêu nhiên này.

Lạy Chúa, chúng con cần sự trợ giúp của ân sủng Chúa để được thanh luyện và lớn lên trong đức tin và tình thương, đặc biệt hôm nay, thứ năm Tuần thánh này, ngày Chúa thiết lập Bí tích Tình yêu. Xin soi sáng và nâng đỡ chúng con thi hành tốt đẹp mệnh lệnh sống yêu thương của Chúa. Xin cho mỗi người chúng con biết siêng năng đến với Chúa trong Bí tích Thánh thể để có đủ sức mạnh mà thực hiện những điều đẹp ý Chúa, đó là thực thi giới luật mến Chúa và yêu thương anh em. Không Thầy chúng con không thể làm gì được, không nhờ Chúa trợ giúp chúng con không thể sống giới răn của Chúa như Chúa đã nêu gương cho chúng con.

————————————-

 

Thứ 5-11: Rửa chân – Hương Vĩnh

VietCatholic News (01/02/2005)

Thứ Năm Tuần thánh

 

Nếu ai có dịp hành hương Thánh Địa và thăm viếng căn phòng Tiệc Ly, có thể sẽ rất ngạc nhiên: Thứ 5-11

Nếu ai có dịp hành hương Thánh Địa và thăm viếng căn phòng Tiệc Ly, có thể sẽ rất ngạc nhiên, ngay cả sửng sốt nữa, khi thấy căn phòng đó đơn giản làm sao! Không có gì ở trong căn phòng đó gợi lên chút xíu về điều đã xảy ra ở giữa bốn bức tường khép kín vào tối Thứ Năm Tuần Thánh thứ nhất đó. Không có gì cho thấy điều đã xảy ra hôm đó có thể tồn tại mãi mãi về sau và khiến cho thế giới xưa kia không còn bao giờ như thế nữa. Tôi không tin bất cứ căn phòng nào – vì ý nghĩa lịch sử của nó – đã có thể tầm thường và đơn giản như thế. Tuy nhiên tính chất rất tầm thường và đơn giản đó đã làm vang vọng điều mà Chúa Giêsu đã nói và đã làm vào tối hôm đó và sẽ không bao giờ bị lãng quên được.

Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài qui tụ ở đó để mầng lễ Vượt Qua hằng năm. Đó cũng là bữa cơm tối cuối cùng của họ khi tất cả mọi người họp mặt đông đủ. Quang cảnh rõ thật là một tấn đại bi kịch. Không ngạc nhiên chút nào, Chúa Giêsu đã mở miệng ra và nói từ con tim của mình về những điều mà Ngài ấp ủ trong lòng: thật đúng là một bài diễn văn giả biệt! Ngài nói về tình yêu và những hoài vọng của Ngài đối với họ, về những ưu tư của Ngài là họ sẽ bị tan rã khi Ngài ra đi. Chúa Giêsu tiếp tục nói lâu dài, nói từ trong con tim của mình. Giữa khi Ngài bộc lộ tâm tình như thế thì một sự cải vã nho nhỏ xảy ra giữa họ, cơ hồ làm hỏng hết ý nghĩa của buổi họp mặt hôm đó. Họ muốn biết ai trong đám họ là người lớn nhất. Đó là một cuộc tranh chấp quyền bính. Họ tranh giành địa vị. Họ muốn biết ai là người ở trên chóp bu. Thật là một điều không thích hợp và không thích đáng chút nào. Chẳng khác nào Chúa Giêsu không có mặt ở đó. Chẳng khác nào Ngài đã bị mất họ hết rồi. Họ ở trong một căn phòng với Chúa Giêsu nhưng họ đã xa cách nhau vạn dặm. Họ không cố nghe Chúa Giêsu nói. Họ đã ở trên sàn nhà đó nhiều lần trước kia rồi nhưng vẫn còn một vấn đề nghiêm trọng xảy ra. Họ đang cải nhau ầm ĩ vào giờ nầy đây và khiến Chúa Giêsu bị rơi vào tình trạng sửng sốt bàng hoàng. Tôi không biết Chúa Giêsu có chớp mắt, ngước nhìn lên trời và lắc đầu lia lịa hay không? Hoặc Ngài cảm thấy dở khóc dở cười khi phải chứng kiến cảnh huống lố bịch đó không? Ngài đang đối diện với tử thần và các môn đệ của Ngài đang đấm đá nhau như trẻ con vậy.

Những điều chúng ta phỏng đoán trên đây không thành vấn đề nhưng điều hệ trọng là việc Chúa Giêsu đã làm để kéo lôi họ ra khỏi chính con người của họ hầu trở lại với đường đi nước bước của Ngài. Họ cần một quả đấm ngàn cân, một sự chữa trị bằng một cú điện giựt thật mạnh để đem họ trở về lại trên mặt đất. Vì vậy Ngài đã lấy một bình nước, rót đầy nước vào chậu, quấn một chiếc khăn ngang hông và yêu cầu tất cả họ ngồi xuống. Giờ đây Ngài đã làm cho họ phải chú ý. Khi đến lượt Ngài bắt đầu rửa chân cho họ, họ đã kinh hoàng rúng động cùng tột. Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy của họ, là vị cứu tinh, người lãnh đạo và là tất cả của họ nhưng nầy đây Ngài đã tự hạ mình xuống làm người thấp hèn nhất, bằng cách làm một công việc thuộc về hạng tôi đòi hèn hạ nhất. Khi Ngài đến với Phêrô, ông đã phản đối vì thấy rõ những điều ẩn ý bên trong. Có lẽ Phêrô là người khôn lanh nhất trong nhóm họ. Ông là một người lãnh đạo, là cánh tay mặt của Chúa. Ông đã là người lãnh đạo của nhóm lâu rồi trước khi Chúa Giêsu xuất hiện. Chúa đã nhận ra những đức tính lãnh đạo của Phêrô nên đã chỉ định ông làm người kế vị Ngài. Nhưng điều mà Chúa Giêsu đang làm không nằm trong ý hướng lãnh đạo của ông. Ông đã bàng hoàng. Đó là điều bất xứng. Đó là điều làm hạ phẩm giá của Ngài. Phêrô đã hiểu điều mà một người lãnh đạo phải làm. Ông đã khơi mào và làm chủ tình thế. Chúa Giêsu đang bỏ rơi quyền lực. Phêrô đã mất tự chủ và không biết thế nào là phục vụ, nhưng Chúa Giêsu cố thuyêt phục ông. Chúa đã làm đảo lộn toàn bộ hệ thống giá trị và tốt hơn hết là Phêrô nên tin tưởng điều đó. Chúa Giêsu thẳng thắn nói với Phêrô là trừ khi ông để Ngài rửa chân ông – tức là ông phải quan niệm lại vấn đề lãnh đạo – nếu không ông sẽ không thể nào thông phần với Ngài. Đến lúc đó Phêrô bị ngã gục. Phêrô đành đầu hàng, thua trận.

Cuối cùng khi Chúa Giêsu đã rửa chân xong, Ngài đứng thẳng dậy và hỏi: “Các con có hiểu điều Thầy đã làm không? Các con gọi Ta bằng Thầy bằng Chúa và đúng Ta là thế đó. Vậy nếu Ta là Thầy là Chúa mà đã rửa chân cho các con, các con nên rửa chân cho nhau. Ta đã làm gương cho các con để các con mô phỏng điều Ta đã làm.” Đó là điều chấm dứt ở đoạn Phúc Am Thứ Năm Tuần Thánh. Tại sao điều chấm dứt đó đã làm tôi bàng hoàng, bởi vì câu kế tiếp đã cắt nghĩa toàn bộ ý thức hệ lãnh đạo của Chúa Giêsu: “Ta long trọng nói cho các con biết: không tôi tớ nào lớn hơn chủ mình, không sứ giả nào lớn hơn người sai đi.”

Điều xảy ra trong tối Thứ Năm đó đã tóm gọn toàn bộ sứ mệnh của Chúa Giêsu. Ngài đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Ở trong Nước Trời, phục vụ là cai trị.

Các môn đệ thực ra lúc bấy giờ đã không thấu hiểu ý nghĩa của việc rửa chân. Phải có thời gian để sứ điệp và gương lành của Chúa Giêsu ngấm xuống. Cuối cùng họ sẽ nhận thấy rằng họ được kêu gọi để sống, không phải cho chính họ mà cho kẻ khác. Sau hết khi họ hiểu được sứ điệp và gương lành của Chúa Giêsu lúc bấy giờ họ mới quấn khăn ngang hông, đổ đầy những chậu nước và rửa chân người khác nhằm mục đích phục vụ Tin Mừng, ở trong tiến trình thay đổi thế giới.

Giờ đây đến lượt chúng ta phải bắt tay vào việc và đóng góp vào câu chuyện được kể lại trong Phúc Am. Có thể chúng ta chưa nắm bắt được ý nghĩa của việc rửa chân nhưng hy vọng chúng ta sẽ tham gia mỗi lúc một chút. Cách chắc chắn nhất, chúng ta nên phác họa lại bức tranh đó bằng cách bắt đầu sử dụng bất cứ nền tảng quyền lực nào mà chúng ta có, bất cứ địa vị được tín nhiệm nào mà chúng ta nắm giữ, bất cứ năng khiếu nào mà chúng ta được thiên phú và chúng ta sẽ tổng hợp các thứ đó lại để phục vụ kẻ khác. Rồi thì chúng ta bắt đầu rửa chân một cách can đảm và duyên dáng theo cung cách của Chúa Giêsu.

Đừng hiểu lầm, sứ mệnh rửa chân không bao giở dễ dàng cả. Hãy hỏi Chúa Giêsu đi. Hãy hỏi Phêrô đi. Hãy hỏi bất cứ ai đã cố gắng sống nhãn quan đó đi. Nếu chúng ta khôn khéo như Phêrô, chúng ta sẽ hiểu rõ những điều quan hệ và những điểm nối kết từ đó mà ra. Đặt để nhu cầu người khác trước tiên không bao giờ dễ dàng cả. Điều đó đi ngược lại bản năng tự nhiên của chúng ta. Bản năng tự nhiên chúng ta nhắc nhở chúng ta rằng: “Chính tôi, chính tôi mà thôi, luôn luôn là tôi và không ai khác hết.” Nhãn quan đối với đời sống rửa chân đã khiến cho quan niệm về cuộc sống đảo lộn khi nhắc nhở chúng ta điều ngược lại: “Không, không phải tôi mà là chính bạn, chỉ bạn thôi, luôn luôn là bạn và không ai hết.”

Cách thức mà quí bạn rửa chân và cách thức mà tôi rửa chân có thể sẽ khác nhau và thay đổi tùy theo hoàn cảnh cuộc sống. Mỗi người trong chúng ta phải hành động thế nào để chúng ta rửa chân theo cung cách phù hợp với những năng khiếu tự nhiên và ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Sau cùng, vấn đề không phải là dễ dàng hay khó khăn, mà là có đáng để chúng ta quàng khăn ngang hông, đổ đầy những chậu nước và rửa chân không? Câu trả lời cũng tương tự như câu trả lời cho hết mọi vấn đề quan trọng khác, tất cả đều phải đến từ bên trong chúng ta mà thôi.

Phỏng theo bài suy niệm ” WASHING FEET” (Rửa chân) của Lm. Vincent Travers O.P. trong sách “IN STEP WITH GOD” (Đồng Hành Với Chúa).

————————————-

 

Thứ 5-12: Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ga 13,1-15

 

Cách đây 2003 năm,Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại ba món quà quí giá nhất của Ngài: Thứ 5-12

Cách đây 2003 năm,Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại ba món quà quí giá nhất của Ngài:

1.Bí tích thánh thể để Chúa nuôi dưỡng nhân loại.

2.Bí tích linh mục thừa tác để Chúa tiếp tục nuôi dưỡng nhân loại

3.Giới răn yêu thương để Chúa luôn là sự hiệp nhất của mọi người.

Suy nghĩ về biến cố hôm nay, chúng ta vẫn tự hỏi:”Tại sao Chúa lại làm những công việc ấy và tại sao Chúa lại trối lại những món quà quí giá ấy cho một nhân loại đầy ắp tội lỗi ?” Khi trở về với biến cố ngàn năm có một chúng ta không khỏi miên man suy tưởng:”Chỉ vì yêu “. Chữ YÊU được viết hoa nói lên tình thương vô bờ, vô bến của Chúa Giêsu đối với nhân loại, đối với môn đệ, đối với từng người. Lời nói của Chúa Giêsu năm xưa vẫn như còn rõ nét trong tâm khảm của từng con người :”Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “( Ga 15,13 ). Chúa đã sống tận cùng chữ yêu của Ngài.Ngài đã hiến mạng vì con người, Ngài đã chấp nhận tất cả, kê vai gánh lấy tội lỗi con người dù rằng Ngài hoàn toàn vô tội.

Vào chiều hôm nay cách đây 2003 năm trong bữa tiệc ly, trước khi lìa xa các môn đệ để thực hiện ý định của Cha, cứu độ nhân loại vào tối trước ngày lễ vượt qua (Ga 13,1 ). Đây là lễ vượt qua cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu dưới trần thế này trước ngày Chúa Giêsu từ biệt các môn đệ (Lc 22,5-16). Đang nửa chừng bữa ăn, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ đột ngột,Ngài chỗi dậy khỏi bàn, lấy khăn thắt lưng,đổ nước vào chậu, rồi rửa chân cho các môn đệ(Ga 13,4-15). Cử chỉ rửa chân cho các môn đệ là bài học khiêm nhượng Chúa dậy các môn đệ trước khi Chúa lập phép thánh thể:Bí tích tình yêu. Chính vì yêu Chúa đã hiến thân chịu chết để mỗi người, để nhân loại có thể ăn thịt Của Ngài và uống máu của Ngài.

Bí tích Thánh Thể chỉ ra rằng vì yêu Chúa đã lập bí tích thánh thể, nên mỗi người sống ở trần gian cũng phải hiệp nhất trong yêu thương như thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô 10,16-17 đã viết : “Chén chúc tụng ta cầm mà đội ơn, lại không phải là chung phần Mình Chúa Kitô sao ? vì chưng chỉ có một bánh,nên ta ta tuy là nhiều, ta cũng chỉ là một thân mình,vì hết thảy ta cùng chia phần một bánh”(1Cor 10,16-17 ). Chúa Giêsu đã lập bí tích thánh thể để hiện diện với nhân loại mãi mãi qua thừa tác của các linh mục (1Cor 11,26 ).

Vâng, xét cho cùng, Chúa đã yêu nhân loại quá sức và qua trái tim nồng nàn như rực cháy, Ngài đã trối lại cho nhân loại, cho mọi người một gia tài vĩ đại, một gia tài lớn lao đến nỗi con người không bao giờ có thể dùng tiền của để mua được. Gia tài này là gia tài Tình Yêu. Gia tài phát xuất từ kho tàng là con tim, là cõi lòng đầy lửa mến của Chúa Giêsu. Chúa mời gọi và chia đều phần gia tài ấy cho từng người, mỗi người đều có phần của mình và không một người nào thiếu tên trong con tim của Chúa. Chúa đã gửi gia tài tới từng địa chỉ của từng con người. Chúa âu yếm kêu tên từng con người đến lãnh phần gia tài của mình.

Tuy nhiên,đã có nhiều lần con người khước từ gia tài tình yêu Chúa gửi tặng, đã có nhiều lần con người nhiệt thành nhưng nông nổi chối từ tình yêu của Chúa như Phêrô đã chối Chúa ba lần dù rằng trước đó ông đã cương quyết muốn đi theo Thầy tới cùng, đã có lần chúng ta cũng ngủ say và say bí tỉ như các môn đệ trong vườn cây dầu vì ta chưa tỉnh thức và sẵn sàng lãnh gia tài tình yêu.Chúa đã cứu chuộc chúng ta với tất cả sự say sưa vì tình yêu nồng cháy của Ngài. Chúa muốn đón mời ta, Chúa muốn độ ta bằng con tim đầy máu của của Ngài. Chúa muốn ta đi theo Ngài và họa lại chính Ngài.Chúa muốn ta gọt dũa, cởi mở, khắc đục những gì là sần sùi, là gồ ghề để nên giống Ngài. Giống Chúa ta sẽ sống cuộc sống cuộc đời của Ngài như thánh tông đồ Phaolô đã nói: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Gia tài Chúa để cho nhân loại,cho mỗi người chúng ta là con tim của Chúa: Con tim nhạy cảm,con tim thương xót và con tim rực cháy lửa tình yêu. 2003 năm đã qua,gia tài của Chúa vẫn là kho tàng quí giá nhất Chúa đang chờ đợi chúng ta mỗi người tới lấy.

————————————-

 

Thứ 5-13: ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

Sau khi ngã đau nặng khoảng hai tháng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã về bên Chúa lúc: Thứ 5-13

Sau khi ngã đau nặng khoảng hai tháng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã về bên Chúa lúc 9 giờ 37 phút thứ bảy trong tuần Bát nhật Phục Sinh 2.4.2005, áp Chúa nhật kính lòng thương xót của Chúa. 28 năm trước khi tàn hơi, đức Gioan Phaolô II lên ngôi giáo hoàng, chắc chắn đó là hạnh phúc tuyệt vời của cả Hội Thánh. Nhưng tất cả rồi cứ trôi, trả Gioan Phaolô II lại với đời thường, với trách nhiệm phải mang, phải gánh, với cả niềm vui lẫn sự lo âu, với sự thương, sự ghét, cả đến những lần ám sát mà người đời dành cho trong chuỗi ngày làm giáo hoàng của mình. Niềm vui đâu đó quanh đời chỉ là những ánh chớp, còn đòi hỏi của thập giá trong trách nhiệm, trong đau khổ không bao giờ vắng bóng.

Chúa Kitô, Chúa chúng ta, cả một đời, chỉ làm phúc cho loài người: giảng dạy lời hay lẽ phải, chữa mọi bệnh tật, nâng đỡ người nghèo, người góa bụa, cho kẻ chết sống lại, đến giây phút gần cuối đời, Chúa còn làm một phép lạ lớn không thể tả: biến chính Thịt Máu mình làm của nuôi trần gian, tặng ban cho trần gian không những chính mình, mà còn tặng ban cả một sự hiện diện bền vững đến muôn đời, để từ nay, ai tin tưởng, mở lòng đón nhận ơn tha thứ và Mình Máu Chúa, Chúa sẽ cho họ sống đời đời với mình nơi lòng Chúa Cha vĩnh cửu. Đó chính là hành động mà thánh Phaolô nhắc lại trong bài đọc hai của thánh lễ Tiệc Ly chiều hôm nay, thứ năm tuần Thánh: “Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em; anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”.

Lẽ ra, với tất cả những việc làm vô giá ấy, Chúa phải được người ta biết ơn, vui mừng đón nhận Chúa. Không hề như thế, nhưng hoàn toàn ngược lại, bởi người ta đã trả lại cho Chúa tất cả sự thù ghét đến tận cùng của lòng họ. Họ phải giết Chúa cho bằng được thì mới hả dạ. Bởi vậy, Đức Thánh Cha, hay mỗi người chúng ta, dù có gặp phải những khốn khó, những bội ơn của người đời dành cho mình, có lẽ đó cũng là chuyện bình thường. Chỉ mong rằng chính lòng chúng ta đừng bao giờ vong ân bội nghĩa, trước là đối với Thiên Chúa, sau là đối với tất cả mọi anh chị em quanh mình.

Sống Tuần Thánh, suy niệm về cái chết của Chúa, về biết bao nhiêu sự phản bội của con người dành cho Chúa của mình, chúng ta hãy để lòng mình nhói đau và ân hận mãnh liệt, vì lỗi lầm của chính chúng ta. Từ đó, mỗi một người hãy làm một quyết tâm thật, thật bền, một quyết tâm bằng tất cả con tim yêu thương của mình, để từ nay không bao giờ dễ giải chấp thuận nghiêng chiều về sự tội, chấp thuận để cám dỗ ham thích tội lôi kéo mình, càng không bao giờ chấp thuận tội lỗi và ngã theo nó.

Lạy Chúa Giêsu, tận thâm tâm, chúng con yêu mến Chúa và không bao giờ muốn phản lại tình thương của Chúa. nhưng sức người của chúng con bé nhỏ quá, vì thế, nhiều lần chúng con đã ngã gục cách thảm hại. Xin cho chúng con biết găn bó với Chúa trong bí tích Mình Máu Thánh, để chúng con mạnh mẽ hơn, sáng suốt hơn, nhằm đủ sức chống lại tội lỗi vây bủa chúng con.

————————————-

 

Thứ 5-14: THÂN ĐÃ SẠCH VẪN CẦN PHẢI RỬA CHÂN

– Đỗ Trân Duy

 

Người Do Thái định cư trên vùng đất sỏi đá khô cằn miền sa mạc. Không gian nắng cháy và: Thứ 5-14

Người Do Thái định cư trên vùng đất sỏi đá khô cằn miền sa mạc. Không gian nắng cháy và nguồn nước ngọt hiếm hoi. Mỗi làng hầu như chỉ có một cái giếng, mọi người phải cùng nhau chia sẻ, vì mạch nước khó tìm. Giếng thường nằm biệt lập cách làng khá xa. Tuy tiện cho việc nuôi thú vật ngoài đồng, nhưng lấy nước về nhà là việc vất vả tốn thì giờ. Nước dự trữ trong nhà được sử dụng một cách hạn chế. Nếu có dịp, người ta đến nguồn nước nào đó để tắm thay vì tắm ở nhà. Tuy nhiên dù có tắm ở sông, ở hồ… thân có sạch, nhưng lúc đi bộ về nhà chân vẫn lấm bụi đất. Cũng thế, dù tắm ở nhà nhưng từ ngoài vườn vào nhà, chân cũng dính bụi. Vì vậy, trước khi ngồi lên thảm họp mặt hay ăn cơm, người ta vẫn cần phải rửa chân. Đối với những vị khách quí đến viếng thăm, chủ nhà sai đầy tớ bưng thau chờ sẵn ở cửa lễ phép rửa chân cho khách.

Rửa Chân Còn Là Dấu Chỉ Rửa Sạch Tội

Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu cởi áo choàng, quấn khăn ngang lưng, bưng thau nước, quì gối rửa chân cho các môn đồ. Vì đó là việc làm của hạng tôi tớ nên ông Simôn Phêrô hốt hoảng rút chân lại la lên, “Thưa Thầy, không đời nào Thầy rửa chân cho tôi.” Đức Giêsu đáp, “Nếu Ta không rửa chân ngươi, ngươi sẽ không có chung phần với Ta.” Phêrô chất phác vội thưa, “Nếu vậy xin Thầy không những rửa chân, mà còn rửa tay và đầu tôi nữa.” Đức Giêsu đáp, “Kẻ đã tắm rồi, toàn thân đã sạch, không cần phải rửa lại.” (Ga 13:4-10).

Đức Giêsu hạ mình rửa chân cho thuộc hạ để dậy họ bài học khiêm nhường trong sứ mạng phục vụ tha nhân. Đạo lý này Người đã nói nhiều lần qua khái niệm vô kỉ vô công, hay tự chết cái tôi của mình. Tuy nhiên nghi thức này còn hướng tới một chiều hướng khác. Khi Người nói, “Phải! các ngươi đã sạch, nhưng không phải tất cả đều sạch hết đâu” (Gio 13:11), Người đã hướng chủ đề sạch sẽ thân xác qua chủ đề thanh sạch tâm hồn. Nhân đó Người hàm ý cảnh tỉnh Giuđa là kẻ đang có manh tâm phản bội Thầy. Lời cảnh tỉnh xa xôi nhưng đủ mạnh cho một tâm hồn thánh thiện. Đáng tiếc, lời ấy đã không được Giuđa lãnh hội. Đức Giêsu đau lòng nhìn Giuđa đứng lên bỏ bàn tiệc, lao mình vào đêm đen. Hắn đi tìm một cuộc đổi chác mà bản chất là sự lừa dối vị kỉ. Ngay lúc có ý định ấy, hắn đã bán linh hồn mình với giá 30 đồng. Sau khi Giuđa lìa phòng tiệc, Đức Giêsu nói với những đệ tử còn lại, “Nay các ngươi đã được sạch, nhờ lời Ta giảng dậy các ngươi” (Ga 15:3). Đây là lời kết chan chứa tình cảm trong giờ chia ly. Hiển nhiên và công khai, Đức Giêsu hài lòng xác nhận tâm hồn của mười một môn đệ đã sạch, vì họ đã có đời sống kết hợp với đạo lý do Người truyền dậy.

Đến đây chúng ta có thể hiểu khi chúng ta noi gương Đức Giêsu “rửa chân” cho nhau, chúng ta biểu lộ lòng khiêm nhường trong nghĩa cử phục vụ anh em. Nhưng nếu việc rửa chân do chính Đức Giêsu cử hành, nó là biểu tượng của tẩy uế tội lỗi. Đức Giêsu nói quyết liệt với Simôn Phêrô: nếu không chịu rửa chân sẽ không có kết hợp với Người. Giáo Hoàng Bênêđíc XVI luận rằng cảnh rửa chân cô đọng cuộc đời và cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Thiên Chúa bỏ qua một bên tấm áo choàng vinh quang, tự mặc tấm áo nô lệ, đứng bên cửa chờ đợi để hầu hạ. Thiên Chúa, với tình yêu thương vô điều kiện, cúi xuống rửa sạch những vết ô uế của con người, để con người có thể ngồi chung bàn tiệc với Thiên Chúa. Suy niệm về điểm đặc thù này, thần học nhận ra rằng biến cố rửa chân xảy ra trước khi Đức Giêsu thành lập nhiệm tích Thánh Thể.  Như vậy rửa chân là dấu chỉ cho biết con người phải rửa sạch tội trước khi nhận lãnh Mình và Máu Chúa.

Những Ai Có Thân Sạch Mới Cần Phải Rửa Chân

          Tuy nhiên suy ngẫm về chủ đề thanh sạch tâm hồn, người ta không khỏi vướng mắc trong vài sự kiện khúc mắc nghịch lý. Ngay từ đầu bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã chẳng xác nhận các môn đệ của Người đều đã sạch tội cả rồi hay sao? (Thân đã sạch không cần phải rửa lại). Nếu thế Người cần gì phải tẩy rửa tội (rửa chân) cho họ? Sau này tông đồ Gioan cũng trình bày một ý tưởng phản lý tương tự. Thánh nói, “Nếu chúng ta sống trong sự sáng, như Thiên Chúa ở trong sự sáng, chúng ta [sẽ] kết hợp với nhau, [rồi] máu Đức Giêsu Kitô con Thiên Chúa sẽ rửa sạch mọi tội lỗi chúng ta” (1 Ga1:7). Tại sao đã kết hợp với Thiên Chúa và đi trong ánh sáng của Người, mà chúng ta vẫn còn phải tẩy rửa tội lỗi. Có lẽ nào đã sống trong ánh sáng Thiên Chúa, mà chúng ta vẫn không nhìn ra chân lý hay sao? Nếu vậy đâu có thể gọi là kết hợp với Thiên Chúa. Nếu nhìn sâu vào chi tiết hơn chút nữa, chúng ta thấy thánh Gioan xác nhận ở phần đầu câu nói là: chúng ta đã sống trong ánh sáng, đã có kết hợp với Thiên Chúa, đã nhìn ra chân lý. Nhưng nếu vậy tại sao chúng ta còn phải tẩy rửa tội. Chẳng lẽ chúng ta vẫn ô uế khi đạt tới cảnh giới sống trong ánh sáng của Thiên Chúa?

          Hãy để tâm hồn đối diện với khúc mắc của biểu tượng rửa chân và lời dậy của thánh Gioan. Tâm thức chúng ta sẽ bừng mở về mầu nhiệm của phép giải tội. Trước hết “Kẻ đã tắm rồi, toàn thân đã sạch, không cần phải rửa [thân] lại.” Bởi vì khi đã chịu phép rửa, nguyên tội được sạch, linh hồn được tái sinh trong Thần Khí. Đã chấp nhận Phúc Âm rồi, đời sống tâm linh được rửa sạch, chúng ta không cần rửa thêm một lần nào nữa. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn mang trong người bản chất thiên về sa đọa do tổ phụ Ađam truyền lại. Chúng ta vẫn còn tiềm năng phạm tội. Chúng ta không bao giờ có thể tự hoàn hảo thánh thiện. Đó là điều chúng ta xót xa nhận rõ cái bản chất phàm trần bất toàn của mình. Con người luôn luôn có những bước chân lầm lỡ, dính những hạt giống tội lỗi, chờ dịp thuận tiện là nảy mầm. Thân có sạch nhưng chân vẫn dơ. Vì vậy con người vẫn cần phải rửa chân. Tuy nhiên chỉ những ai giữ được thân thể sạch sẽ mới quan tâm đến vết nhơ, dù nhỏ, dính ở ngón chân. Chỉ những ai đi trong ánh sáng Thiên Chúa mới có con mắt nhìn ra cái đốm đen ô uế bám vào vạt áo của linh hồn. Chỉ những ai có tâm hồn thanh sạch mới biết đau khổ vì tội lỗi. Cho nên những người này cần đến ơn giải tội. Bản chất tội lỗi chính là tình trạng xa cách, đóng của lòng, chống lại sự kết hợp với Thiên Chúa. Cho nên chúng ta cần Đức Giêsu trong ngôi vị Thiên Chúa, rửa chân (rửa tội) để được tha tội, và được kết hợp vì “Nếu Ta không rửa chân ngươi, ngươi sẽ không có chung phần với Ta.”

Hành vi phạm tội không hoàn toàn là một sự việc riêng tư đóng khung trong phạm vi cá nhân. Khi phạm tội, ta không thể nói đó là chuyện riêng tư của tôi. Ta cũng không thể tự mình tha tội cho mình, tự mình kết hợp với người, và kết hợp với Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội để nhờ đó ta mới có thể tái lập sự kết hợp với người và với Thiên Chúa. Vì vậy chỉ có sống trong ánh sáng Thiên Chúa, ta mới thấy sự cần thiết của tình liên hệ, nên mới kết hợp với nhau. Kết hợp bằng cánh “rửa chân” cho nhau, trong ý nghĩa khiêm nhường phục vụ anh chị em có cùng một Cha. Ngoài rửa chân cho nhau, Kitô hữu chúng ta, bất cứ ở chức vị nào, cũng còn cần Đức Giêsu “rửa chân” cho chính mình, để tái lập sự thanh sạch linh hồn và kết hợp với Thiên Chúa. Người ta thường nói nôm na, “Ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng cần phải xưng tội.”

          Bữa tiệc tàn khi chiều xuống, Đức Giêsu ngậm ngùi dẫn để tử lên một ngọn đồi thanh vắng để cầu nguyện. Nhưng an tịnh của đêm thâu bị phá tan khi Giuđa dẫn cơ binh ầm ĩ gươm đao đến bắt Thầy. Các môn đệ kinh hoàng bỏ chạy thoát thân, để Thầy ở lại chịu cuộc khổ nạn một mình. Phêrô là người duy nhất ẩn mình lén đi theo sau lưng Thầy. Có vài người nhận ra Phêrô và định tố cáo ông. Phêrô hoảng sợ quyết liệt phủ nhận sự liên hệ với Thầy. Không phải ông phủ nhận 1 lần, nhưng tới 3 lần. Kể từ lúc ông hăng hái xin rửa chân đến lúc ông mạnh mẽ chối Thầy cách nhau chỉ có 6 giờ đồng hồ. Cho đến giây phút dự tiệc với Thầy, các môn đệ của Đức Giêsu đều là những người thanh sạch, Đức Giêsu đã xác nhận như vậy. Họ đều là những người đi trong ánh sáng Thiên Chúa. Tai họa đột biến xảy ra, chỉ trong vòng vài canh giờ, họ đã biến đổi khác lạ. Họ không là những người không tỳ vết, không hoàn toàn thoát khỏi lỗi lầm. Con người luôn luôn lệ thuộc vào sức ép của những điều kiện và cơ hội, và sẵn sàng vấp ngã. Bao lâu con người còn sống nơi trần thế, con người vẫn phải đi trên những con đường dài đầy bụi bặm. Thân có sạch nhưng chân vẫn lấm dơ.

Nhưng vẫn có một cái gì đầy ý nghĩa đáng nói về sự sa ngã của Phêrô. Tuy phạm tội, nhưng ông vẫn sống trong ánh sáng Thiên Chúa, vì vậy ông đã vô cùng đau khổ bật khóc thảm thiết vì hối hận. Thomas Merton báo động vào thời đại chúng ta có rất nhiều người không biết Thiên Chúa, không còn ý thức về tội lỗi, nên cũng mất luôn lòng ân hận khi phạm tội. Chúng ta cũng vậy, nếu không có liên kết với Thiên Chúa, sẽ không có ý thức về tội lỗi, và sẽ không cảm thấy ân hận khi phạm tội. Chính ý thức tội lỗi hướng đến lòng ân hận, chính lòng ân hận dẫn chúng ta đến Thiên Chúa. Khi đến với Thiên Chúa chúng ta mới thấu hiểu Thiên Chúa là tình yêu, là nguồn ân sủng, và là nguồn tha thứ. Thiên Chúa không phải là Đấng thích xử tội, nhưng là Đấng thích tha tội. Đức Giêsu tha tội cho Phêrô 3 lần trước khi ông chối Người 3 lần. Người cũng rửa tội cho các môn đồ trước khi chân họ dẫm phải bùn đen. Ông Giuđa không đi trong ánh sáng của Chúa, nên chối bỏ Đức Giêsu, tâm hồn ông không sạch. Nếu cả thân mình đã dơ, ai để ý tới vết bụi dính ở chân, vì vậy Giuđa đã thất bại nhận ra tội lỗi của mình.

Vì Giuđa cũng được Đức Giêsu rửa chân, nên diễn trình chỉ đầy đủ khi nói đến nỗi hối hận của Giuđa. Sau khi thấy Đức Giêsu bị hành hạ, Giuđa hối hận trả lại 30 đồng cho các vị thượng tế Do Thái để xin hủy bỏ giao ước. Việc không thành Giuđa thất vọng thắt cổ tự tử (Mt 27:3-5).

Vẫn có điều đáng nói trong nỗi khổ hận của Giuđa. Cả một thời gian dài theo Thầy, Giuđa hằng nghe Thầy giảng đạo và chứng kiến những phép lạ Thầy cứu người. Nhưng tai Giuđa vẫn điếc, mắt vẫn mù, và tâm vẫn đóng. Trước sau Giuđa không nhận chân lý Thầy trao ban. Thường ngày tâm Giuđa là chỗ ở của ngẫu tượng tiền bạc (Ga 12:4-6). Vào lúc Đức Giêsu cảnh tỉnh hắn trong bữa tiệc ly, hắn mở tâm ra để đón Satăng vào (Ga 13:26). Giuđa sống trong não trạng lưu đày, bất mãn, kiêu căng, u uất, thù hận, khủng hoảng, và tuyệt vọng. Lửa dục vọng khiến Giuđa phản bội cả vị Thầy cao cả, Đấng luôn yêu thương hắn. Lỗi phạm của Giuđa tưởng nhỏ, nhưng bùng nổ thành một biến động vĩ đại trong kinh thành. Giuđa mất điểm tựa, hụt hẫng, và hoảng sợ. Với biến cố tày trời như vậy, hắn biết hậu quả khó lường sẽ đến cho cuộc sống sau này. Giuđa muốn chuộc lại lỗi lầm, nhưng đáp ứng của hắn chỉ là cách tính toán của kẻ thuộc hạ lỡ hãm hại vị thủ lãnh vô tội, một phản ứng xúc cảm thuộc xã hội tính bộ lạc. Nỗi khổ hận trong tâm trạng ấy không giúp Giuđa khai tâm ngộ đạo. Cuối cùng không chịu nổi cơn khủng hoảng Giuđa chấm dứt sự căng thẳng bằng cách xóa bỏ hiện hữu của mình. Hành động tự tử của Giuđa không phải là cung cách của lòng hối cải, nhưng là phản ứng mất tự chủ của kẻ bị kích động tâm thần, do sức ép của Satăng. Giuđa tự ái không tạ lỗi để tái kết hợp với Thầy, không liên kết với anh em đồng môn để cải thiện, cho nên Giuđa không có lối thoát. Tôi xin phép nhắc lại: khi ta phạm tội, ta không thể tự giải quyết một mình. Ta cần có Đức Giêsu rửa chân cho. Chỉ khi lỗi phạm được tha, bấy giờ tâm mới có sự bình an.

Nghịch với tấm lòng yêu kính Thầy, trong một thoáng giây yếu đuối và sợ hãi, Phêrô đã buột miệng nói những lời xa cách với Thầy. Phêrô không làm hại Thầy, nhưng đau khổ cho chính con người yếu đức tin của mình. Suy ra đi trong ánh sáng Thiên Chúa vẫn còn phải tranh đấu với yếu đuối của mình trong suốt cuộc đời sống đạo. Nếu chúng ta sống trong sự sáng, như Thiên Chúa ở trong sự sáng, chúng ta kết hợp với nhau,  máu của Đức Giêsu Kitô con Thiên Chúa sẽ rửa sạch mọi tội lỗi chúng ta. Đúng vậy, thánh Gioan kết luận, cuối đường chúng ta đều phải rửa bằng máu của Đức Giêsu mới được sạch hoàn toàn.

————————————-

 

Thứ 5-15: Đoàn Kết Yêu Thương

Những lời dặn dò trước khi chết, bao giờ cũng là những lời tâm huyết nhất, nói tự đáy: Thứ 5-15

Những lời dặn dò trước khi chết, bao giờ cũng là những lời tâm huyết nhất, nói tự đáy lòng, nói để người khác ghi lòng tạc dạ. Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly, trước khi chịu chết, cũng đã có những lời dặn dò rất mực tha thiết. Ngài nhắc đi nhắc lại một điều này là: Hãy đoàn kết yêu thương nhau. Ngài khuyên nhủ đoàn kết yêu thương, bằng những lời trăn trối khẩn thiết. Ngài làm gương sự đoàn kết yêu thương, bằng việc rửa chân và lập phép Thánh Thể. Ngài cầu nguyện cho sự đoàn kết yêu thương, bằng lời nguyện thống thiết: “Xin Cha cho chúng hoàn toàn nên một, như Cha với con là một”.

Hôm nay, tôi xin được cùng anh chị em suy niệm vắn tắt về sự đoàn kết yêu thương. Vì thiết tưởng, vấn đề này rất cần cho tương lai  của Quê Hương, và hạnh phúc cho toàn chúng ta.

Anh chị em thân mến,

Đoàn kết yêu thương là một yếu tố cần thiết, một lý tưởng đẹp. Chấp nhận điều đó không khó lắm. Điều khó nhất là làm sao thực hiện được sự đoàn kết yêu thương trong thực tế. Để giúp giải quyết, chúng ta nên mổ xẻ vấn đề ra nhiều khía cạnh.

1. Khía cạnh thứ nhất của đoàn kết yêu thương, là khía cạnh pháp luật: Có nghĩa là luật pháp là một yếu tố cần, để xây dựng đoàn kết yêu thương

Đã hẳn, đoàn kết yêu thương là vấn đề tình, nhưng trước hết phải là vấn đề lý. Phải có cái lý xác đáng, vạch rõ lý do chung buộc phải đoàn kết yêu thương. Phải có lý mạnh, nhìn nhận và bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ từng người, từng khối trong cộng đồng xã hội. Mà để thực hiện các lý đó, thì phải có những luật pháp công bình, sáng suốt và phải biết áp dụng những luật pháp đó một cách công minh và tế nhị. Có thế mới tránh được những bất công, nghi kỵ, thường gây nên sự chia rẽ và hận thù nhau.

2. Khía cạnh thứ hai của đoàn kết yêu thương, là khía cạnh tâm lý: Có nghĩa là cách đối xử với nhau là một yếu tố cần, để xây xựng đoàn kết yêu thương

Con người không phải là cọng rau, một thanh sắt, cứ lấy luật pháp ra buộc là thành đoàn kết. Nhưng con người có tự do, có tình cảm. Mà tự do tình cảm là những thứ nội tâm không thể ép buộc. Nếu bị ép buộc, thì kết quả chỉ có bề ngoài. Để có kết quả tốt bên trong, thì cách đối xử với nhau, không nên coi thường. Những lời nói nhã nhặn, sự đi lại thân hữu, sự xử sự cởi mở chân thành, nhiều khi gây được thiện cảm để xây dựng đoàn kết yêu thương, hơn là những lời lẽ hão dựa trên pháp luật.

3. Khía cạnh thứ ba của đoàn kết yêu thương, là khía cạnh đạo đức. Có nghĩa là nhân đức là yếu tố cần, để xây dựng đoàn kết yêu thương

Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng: Một ngăn trở lớn hay phá đoàn kết yêu thương, là tính kiêu căng ích kỷ. Muốn người khác yêu thương mình và đoàn kết với mình, còn mình thì không đoàn kết yêu thương ai, thì kết quả thường là bi đát. Yêu thương là biết cho đi. Cho đi sự tha thứ, sự nhịn nhục, sự kính trọng, sự nâng đỡ, sự thông cảm. Mà cho đi như thế, chỉ có người đạo đức, khiêm tốn và quảng đại, mới làm tới nơi tới chốn đoàn kết yêu thương.

4. Khía cạnh thứ tư của đoàn kết yêu thương, là khía cạnh tôn giáo. Có nghĩa là sự tin tưởng và cầu nguyện với Đấng Thượng Đế, là yếu tố rất hữu ích, để xây dựng đoàn kết yêu thương

Khi tôi quan niệm rằng: Mọi người đều là con một Cha chung trên trời, rằng phục vụ người khác là phục vụ Chúa trong họ, thì tự nhiên tôi được thúc đẩy một cách sâu xa hơn, việc xây dựng và thanh luyện tình thương.

Khi tôi cầu nguyện và dâng hy sinh cầu cho kẻ khác, tôi tin rằng Chúa sẽ ban cho họ những ơn lành hồn xác, mà tôi không có khả năng làm, thì một đàng niềm tin đó sẽ khuyến khích tôi yêu thương họ hơn, và một đàng thực sự Chúa sẽ làm cho tình thương của tôi, được quảng đại và hữu hiệu hơn. Ngoài ra, phải nhờ tới những phương tiện siêu nhiên, mới có thể khắc phục được những khó khăn, để có được một sự đoàn kết yêu thương chân thành, sâu xa, và rộng rãi.

Anh chị em thân mến,

Để xây dựng đoàn kết yêu thương, chúng ta nên để ý tới 4 yếu tố vừa kể: Pháp lý, tâm lý, đạo đức và tôn giáo. Hãy dùng những yếu tố đó để xây dựng đoàn kết yêu thương, trong lòng mình và trong lòng người khác.

Yêu thương là một chuyện phải nói với nhau bằng trái tim và hy sinh, hơn là lời nói. Đoàn kết là một chuyện phải tính với nhau bằng hành động cụ thể, gây được niềm tin, hơn là bằng hứa suông.

Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta một trái tim biết hy sinh, một đời sống quên mình, để chúng ta biết yêu thương đoàn kết, một cách chân thành và quảng đại, hầu góp phần tạo hạnh phúc cho mọi đồng bào yêu quí nước ta, và tạo nên một nền hòa bình an ổn, vui tươi, tràn lan trong mọi tâm hồn. Amen.

+ Gm. GB. Bùi Tuần

————————————-

 

Thứ 5-16: Cuộc Vượt Qua mới- Lm. Trần thế Phiệt

Cùng với gia đình, họ hàng và cả dân tộc mình, Đức Giê-su đã nhiều lần mừng Lễ Vượt Qua: Thứ 5-16

Cùng với gia đình, họ hàng và cả dân tộc mình, Đức Giê-su đã nhiều lần mừng Lễ Vượt Qua.

I. TƯỞNG NIỆM CUỘC VƯỢT QUA NGÀY XƯA:

Cũng như nhiều người đồng hương của mình, vào mỗi dịp lễ ấy, Ngài lại được nghe bậc cha anh ôn nhắc hoặc chính mình nhớ đến tình thương đặc biệt của Gia-vê trong biến cố Vuợt qua ngày xưa. Cũng như họ, Ngài sâu xa xúc động trước sự dấn thân tận tình của Gia-vê, trước sự can thiệp bằng quyền năng phi thường và biết bao dấu lạ điềm thiêng của Người. Tất cả mọi thế hệ trong dân tộc Ngài đều say mê, không biết chán, khi nghe kể lại các việc lạ lùng Thiên Chúa thực hiện và các tai ương Gia-vê giáng xuống dân Ai-cập. Quá khứ như sống lại. Sự chào đời của dân tộc họ như vừa mới xảy ra, thậm chí như đang xảy ra. Họ sống lại niềm tin tưởng mãnh liệt đối với Gia-vê. Họ cảm nghiệm lại trong xương trong thịt mình niềm tự hào của một dân tộc được Gia-vê yêu riêng. Họ xác tín mình là dân tộc duy nhất có diễm phúc lớn lao và không một dân tộc nào khác được gần Gia-vê như họ.

II. HƯỚNG ĐẾN CUỘC VƯỢT QUA MỚI

Thế nhưng trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng bên Nhóm Tông Đồ nghĩa thiết, mà chiều nay chúng ta đang tưởng niệm, Đức Giê-su còn mang nặng những tâm tình sâu xa hơn mọi lần trước, sâu xa hơn ngàn trùng. Ngài ý thức dây là thời điểm Đức Chúa Cha thực hiện cuộc Vượt Qua Mới và chính Ngài sẽ là người chính yếu hoàn thành kế hoạch này của Thiên Chúa.

Ngài sắp thực hiện trước mắt các Tông Đồ và thực hiện vì các ông, cho các ông những hành vi mà các ông chưa hiểu hết được: đó là Ngài “trỗi dậy, bỏ áo xống đi, lấy khăn thắt lưng mình, đổ nước vào chậu và rửa chân cho các ông” – đó là Ngài đã “cầm lấy bánh và nói: “Này là Mình Ta”, đã “cầm lấy chén rượu và nói: “Chén này là Giao Ước mới trong Máu Ta”

Phải về sau này các Tông Đồ và Hội Thánh mới ngày càng hiểu thêm những gì đã xảy ra trong bữa Tiệc Ly ấy, và càng hiểu càng kinh ngạc đến rụng rời, càng hiểu càng thấm thía và xúc động.

Bởi vì trong cuộc Vượt Qua xưa kia, như bài đọc một vừa kể lại, tổ tiên họ được lệnh giết một con chiên con, mỗi nhà một con để ăn mà đủ sức lên đường, và để lấy máu nó bôi lên khung cửa nhà mình để được thiên thần vượt qua tha chết cho con đầu lòng. Còn lần này chính Ngài sẽ là con chiên Vượt Qua. chính Ngài vừa là lương thực cho nhân loại, vừa là dấu chỉ và phương cứu sống cho nhân loại.

Lý do thứ hai: bởi vì trong cuộc Vượt Qua xưa kia, Gia-vê đã dấn thân vì Dân và gắn bó với Dân một cách thật đáng cảm kích, nhưng lần này, bằng Mình và Máu Ngài mà con người ăn và uống, chính Con Thiên Chúa còn keo sơn với con người đến mức nên một và không phân lìa với con người nữa. vì Ngài hoà tan trong từng giọt máu của ta, nên một với từng thớ thịt trong ta.

Lý do thứ ba: trong cuộc Vượt Qua xưa kia, có thể nói Gia-vê đã quay cuồng, đã vất vả vì cuộc giải phóng Dân Chúa đã tuyển chọn, đã quên mình vì họ, đã quảng đại một cách lạ lùng, nhưng lần này khi cúi xuống rửa chân cho các Tông Đồ, chính Con Một Thiên Chúa còn chứng tỏ Ngài bỏ mình đến mức nào, Ngài khiêm nhường hầu hạ con người đến tận mức nào nữa.

Đó thật là những điều chúng ta diễn tả cách mấy thì cũng chỉ là mô phỏng lại một cách quá mờ nhạt (như chuyện cha sở làm nghi thức rửa chân cho một số người trong Giáo Xứ…), chúng ta có tìm hiểu đến đâu thì cũng không tài nào hiểu hết được ý nghĩa.

III. VƯỢT QUA MỚI, MỘT BIẾN CỐ VĨ ĐẠI:

Chúng ta chỉ có thể nói rằng: tuy khung cảnh bữa Tiệc Ly của Chúa âm thầm đơn sơ như thế, nhưng với bữa tiệc ấy, nhiều điều vô cùng trọng đại đã xảy đến cho nhân loại, bởi vì:

– Đó chính là lúc Thiên Chúa đã thực hiện cuộc Vượt Qua mới, cần thiết và hữu ích cho đời làm người của ta ngàn vạn lần hơn cuộc Vượt Qua cũ.

– Đó chính là lúc Thiên Chúa thể hiện tình thương tột cùng của Người, tình thương hết mức không sao thêm hơn được nữa đối với con người.

– Đó chính là lúc thân phận con người được nâng cao, được quý trọng quá mọi ngờ tưởng, khiến mỗi khi tưởng niệm lại những gì Chúa đà làm, chúng ta thật không còn có quyền nói đến một kiếp người ô trọc, một cuộc sống đen tối bế tắc, bởi vì đời người đã là một đời được Thiên Chúa yêu thương, và yêu thương đến mức như thế: đến mức khiêm hạ, huỷ mình ra không để hầu hạ con người, đến mức trở thành lương thực và nên một với con người.

Chúng ta hãy mở trí mở lòng chiêm ngắm các hành vi mà Phụng Vụ chiều nay cử hành để mà thán phục, để mà thật lòng ngợi khen và cảm tạ Chúa chúng ta.

————————————-

 

Thứ 5-17: Bài học phục vụ- Lm. Kiều công Tùng

  1. PHỤC VỤ TRONG TỰ HẠ

Trình thuật về việc rửa chân chỉ được ghi lại duy nhất trong Tin Mừng Gio-an. Hình ảnh Đức: Thứ 5-17

Trình thuật về việc rửa chân chỉ được ghi lại duy nhất trong Tin Mừng Gio-an. Hình ảnh Đức Giê-su cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trước hết là một mặc khải rõ ràng về Thiên Chúa tình yêu. Nghiêng mình xuống là cách Cựu Ước dùng để diễn tả lòng nhân hậu thương xót của Thiên Chúa. Giờ đây, Thiên Chúa không những nghiêng mình mà còn quỳ gối, cúi xuống tận chân con người, để rồi phải ngẩng đầu lên trả lời khi Phê-rô phản đối. Thử hỏi còn có sự hạ mình nào hơn thế ? Đấng toàn năng sáng tạo lại quỳ gối để ngước mắt nhìn lên thụ tạo của mình.

Thiên Chúa đã xóa mình đi để bước xuống, đến gần và bày tỏ lòng thương xót cho con người như thế đấy. Cử chỉ đó mãi là một tấm gương để cho tất cả các môn đệ của Đức Giê-su không ngừng học hỏi mà đối xử với nhau: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Một tiêu chuẩn để người môn đệ Chúa Giê-su đến với người khác và phục vụ họ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).

2. PHỤC VỤ BẰNG TỰ HIẾN

Câu chuyện rửa chân không đơn thuần là một tấm gương về bài học khiêm tốn phục vụ nhưng còn mang ý nghĩa biểu tượng, nói lên tất cả sứ mạng của Đức Giê-su đồng thời loan báo về sự chết và phục sinh của Người nữa.

Hình ảnh Đức Giê-su “cởi áo ngoài ra” rồi sau đó lại “mặc áo vào” khiến ta liên tưởng đến lời Người nói trước kia: “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10, 18). Như thế, câu chuyện rửa chân là cách diễn tả tượng trưng cho cái chết tự nguyện của Đức Giê-su và cuộc phục sinh của Người.

Ở giữa hai hành động “cởi ra” và “mặc vào” trong trình thuật rửa chân là một cử chỉ tự hạ thẳm sâu. Còn ở giữa hai hành động “hy sinh” và “lấy lại” lại là sự tự hiến tuyệt vời: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Cái chết của Đức Giê-su ở trên thập giá chính là tuyệt đỉnh của một tình yêu phục vụ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45).

2. PHỤC VỤ CHO ĐẾN CÙNG

Tin mừng Gio-an không nói đến việc Đức Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể, nhưng khung cảnh của bữa tiệc ly được bổ túc bằng đoạn thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô giúp chúng ta hiểu rằng tiếp theo hành động có tính biểu tượng nối kết sự tự hạ với tự hiến là việc Chúa ban chính thịt máu của Người làm lương thực dưỡng nuôi nhân loại cùng với lệnh truyền: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11, 25)

Việc Đức Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể và chức Linh mục trong bữa Tiệc Ly chứng tỏ tình yêu của Người dành cho nhân loại. Yêu đến hiến mạng sống, yêu đến ban thân mình. Qua hai Bí Tích đó, Người muốn thực hiện lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Người yêu thương và yêu cho đến cùng. Dù không còn hiện diện cách hữu hình trên dương gian này, nhưng Người luôn có đó để trợ lực, để đồng hành với nhân loại qua phép Thánh Thể, qua con người linh mục với sứ mạng mục tử.

Như thế, qua Đức Giê-su Ki-tô, mỗi người chúng ta đã dược Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt. Chúng ta có bổn phận làm cho tình yêu đó triển nở và được nhân rộng trong môi trường của mình bằng việc xóa mình đi: xóa đi những thành kiến, ích kỷ, toan tính vụ lợi… Đồng thời, mỗi người cũng phải biết mở ra với những người chung quanh. Có như thế, tình yêu và sự sống mà chúng ta đón nhận được từ nơi Chúa Cha qua Đức Giê-su mới thực sự sinh hoa kết quả dồi dào.

Trong ngày kỷ niệm Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Truyền chức hôm nay, ta bắt gặp một hình ảnh Chúa Ki-tô Linh Mục hoàn toàn trái ngược với hội chứng quyền bính đã được người ta nói đến: một Thiên Chúa hạ mình để phục vụ, một mục tử tự hiến cho đến cùng. Quyền bính được trao cho Giáo Hội, chức vụ tư tế thừa tác được trao cho các linh mục ngày nay không ngoài mục đích để cho tình yêu cứu độ của Đức Ki-tô còn tiếp tục hiện diện giữa thế giới này. Chúng ta cùng cầu xin cho các linh mục của Chúa ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô, vị Linh Mục đời đời.

————————————-

 

Thứ 5-18: Giu-đa, thật sự người là ai?

Xưa kia, cái khung cảnh và căn phòng được Đức Giêsu và các Tông đồ chọn làm nơi ăn bữa: Thứ 5-18

Xưa kia, cái khung cảnh và căn phòng được Ðức Giêsu và các Tông đồ chọn làm nơi ăn bữa tối cuối cùng, thật sự là một nơi của bữa tiệc biệt ly, của sự tang tóc buồn sầu : Bên ngoài màn trời đầy u ám, tối đen và lạnh giá ! Nhưng hôm nay trong ngôi thánh đường này, nơi chúng ta đang cùng nhau cử hành bữa Tiệc Ly, lại sáng rực và ấm cúng. Tuy nhiên, một sự cô quạnh băng giá nào đó đang len lỏi vào trong tâm hồn chúng ta mà sự thô bạo nặng nề của nó đã từng đè lên trái tim cũng như đôi vai của Chúa. Ðó là khi xuất hiện tên tuổi của một người mà trong các kinh nguyện phụng vụ chúng ta đọc khi cử hành việc tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa, cũng như trong bài Tin Mừng. Một tên gọi mà mỗi lần nghe nhắc đến lại gây ra một cảm giác khinh rẽ và tiêu cực : Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ phản bội ! Thật bất hạnh cho Giu-đa !

Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên khi nghe tôi đề cập đến người môn đệ bất hạnh này, người mà trong một lúc nào đó đã không còn có thể giữ lòng trung thành với Sư Phụ mình được nữa. Dĩ nhiên không một ai có thể biết được rõ ràng những gì đã diễn biến trong nội tâm và ý nghĩ của Giu-Ða khi ông ta có toan tính như thế. Và chúng ta cũng không muốn đi tìm một lời cắt nghĩa hay một giải đáp về vấn đề đó ! Nhưng trong buổi chiều hôm nay, tôi có ý nghĩ muốn xin anh chị em một chút thông cảm cho « người anh em Giu-đa » của chúng ta. Trước hết, khi chúng ta gọi Giu-đa là người anh em của chúng ta, chúng ta đã dùng chính ngôn từ của Chúa. Đúng vậy, buổi tối trong vườn Cây Dầu, khi Giu-đa hôn phản bội Thầy mình, thì Ðức Giêsu đã nói với Giu-đa những lời đầy ân tình mà chúng ta không thể quên được : « Bạn ơi, bạn dùng nụ hôn để phản bội Con Người sao ? »

« Bạn ơi ! » Tiếng này nói lên một sự âu yếm và tha thiết của tình yêu, của lòng thương xót và quảng đại của Chúa. Tiếng đó cũng làm cho anh chị em hiểu được tại sao bây giờ và ở đây tôi lại gọi Giu-đa theo như ngôn ngữ của Chúa là người anh em. Chúng ta đã biết rằng trong Bữa Tiệc Ly Ðức Giêsu đã nói : « Thầy không gọi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu ». Các Tông đồ đã trở thành những người bạn thân thiết của Chúa, dù họ tốt hay xấu, quảng đại hay nhỏ nhoi, trung thành hay phản bội, v.v… tất cả họ luôn luôn là những người bạn của Chúa.

Chúng ta có thể phản bội lại tình bạn của Ðức Kitô. Nhưng Người thì không bao giờ phản bội chúng ta, là những người bạn của Người. Kinh thánh đã từng nói : « Dù cho cha mẹ con có bỏ rơi con đi nữa, thì Thiên Chúa cũng không hề bỏ rơi con » (Tv 27,10). Cả khi chúng ta không xứng đáng với sự trung thành của Chúa, cả khi chúng ta phủ nhận Người, chối từ Người, thì trước mắt và trong trái tim Chúa chúng ta vẫn luôn luôn là những bạn hữu của người. Bởi thế, Giu-đa vẫn là người bạn của Chúa cả ngay trong lúc ông ta phản bội Người bằng một nụ hôn !

Tôi đã tự hỏi : Làm sao một vị Tông đồ của Chúa lại có thể kết thúc như một kẻ phản bội ?

Có ai hiểu được những bí ẩn của sự ác không ? Có ai có thể nói cho chúng ta hay là làm thế nào mà chúng ta đã trở thành độc ác ? Chúng ta đừng quên rằng mỗi người trong chúng ta vào một lúc nào đó đã khám phá thấy rằng sự ác từng đồn trú, từng nằm vùng trong trái tim và trong ý nghĩ của ta. Chúng ta đã nhìn thấy sự ác đó triển nở, lớn phồng lên mỗi ngày. Chúng ta không hề biết được tại sao chúng ta lại trao phó mình cho sự ác. Và một lúc nào đó sự dữ sẽ nổ tung lên. Từ đâu phát sinh ra sự ác ? Ai đã sản xuất ra sự ác ? Ai đã cướp mất niềm tin của chúng ta ? Ai đã cướp mất khả năng của chúng ta để tin tưởng vào sự thiện và để yêu mến sự thiện ?

Nhưng hiện tượng « Sự ác trong chúng ta » không còn là một điều bí ẩn nữa, cũng như sự phản bội của Giu-đa không còn là một bí ẩn nữa. Mọi người đều biết điều đó. Bất cứ lúc nào một vị Tông đồ cũng có thể trở thành kẻ phản bội được. Bất cứ lúc nào một Kitô hữu cũng có thể trở thành kẻ chối đạo. Bất cứ lúc nào một tín hữu dù đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy cũng có thể bội hứa với Ðức Tin của mình. Bất cứ lúc nào một người đã được ghi dấu trên mình nhân danh Thiên Chúa ba Ngôi, cũng có thể xúc phạm đến Thánh Danh đó. Vậy đâu là nguyên nhân của những thay đổi mang tính cách phản bội như thế ?

Sự cám dỗ đã được bắt đầu với tiền bạc, với những ngón tay biết đếm tiền. Ðó là một cái vòng luẩn quẩn đáng buồn của loài người, xưa kia cung như ngày nay, mà một khi đã rơi vài trong đó người ta rất khó lòng thoát ra được. Bởi lẽ tiền bạc trong túi những người đó đã trở nên quá toàn năng và độc đoán. « Các ông cho tôi bao nhiêu, nếu tôi nộp Người cho các ông ? Và họ đã chỉ trả cho y 30 đồng bạc » (x. Mt 26,14-16).

Chỉ cần 30 đồng bạc thôi cũng đã vừa giá cho Giu-đa để bán đổi người bạn, vị Sư Phụ của mình, Ðấng đã kén chọn ông ta trong muôn một và đã đặt làm Tông Ðồ; Ðấng ban cho chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, đã cho chúng ta có được nhân phẩm, sự tự do và những sự cao cả của những kẻ làm con Thiên Chúa. Vâng, tiền bạc, địa vị, danh dự, v.v… tất cả đều phát xuất từ Thiên Chúa, đều là ân huệ Thiên Chúa ban, nhưng chúng lại được nhiều người trọng vọng và được đánh giá cao hơn cả niềm tin của họ, hơn cả lòng trông cậy phó thác của họ vào Thiên Chúa.

Tuy nhiên, khi Giu-đa nghe lọt tai tiêng gào thét của đám đông : « Ðóng đinh nó vào thập giá ! Ðóng đinh nó vào thập giá ! » Khi Giu-đa nhìn thấy Thầy mình bị hành hạ và bị lãnh án tử trong dinh Phi-la-tô, bấy giờ tâm hồn ông ta bắt đầu xúc động, lòng một kẻ phản bội bắt đầu đâm ra quá xúc động và ông ta đã ném trả lại 30 đồng bạc giá máu của Ðấng vô tội xuống đất. Những đồng bạc đó giờ đây đối với ông ta không còn giá trị gì nữa. Ông ta vô cùng hối hận. Nhưng tiếc thay, mọi sự đã quá muộn !

Ngày mai, Thứ Sáu Tuần Thánh, khi chúng ta lại có mặt trong nhà thờ để tưởng niệm những khổ hình, những đau đớn của Chúa, và khi tượng Thánh Giá được mở khăn che, chúng ta sẽ được nhìn thấy cùng một lúc hai giảo đài : Thánh Giá Ðức Kitô và một gốc cây nơi Giu-đa treo cổ.

Tội nghiệp cho Giu-đa ! Thật tội nghiệp cho người anh em Giu-đa ! Bởi vì cái tội nặng nhất không phải là hành động phản bội và bán đổi Ðức Kitô của ông ta, nhưng là sự thất vọng, sự nghi ngờ lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa nơi ông ta! Vì chính Phêrô cũng đã chối Chúa và tất cả các Tông đồ cũng đều đã bỏ Chúa, nhưng tất cả đã ăn năn hối cải trở về với Thầy mình và Ðức Kitô đã tha thứ cho tất cả họ và đồng thời đã tiếp nhận họ với tất cả sự tin tưởng.

Sau cùng, tôi lại muốn nhắc qua đến « Giu-đa » trong chính con người tôi, và cả đến « Giu-đa » có lẽ ở nơi các bạn nữa, đồng thời xin các bạn hãy cho tôi được cầu xin Ðức Giêsu ban cho tôi ơn phục sinh : Ðược gọi chính tôi là « bạn » trong chiều nay, sớm mai và trong đêm thứ bảy, đêm Phục Sinh. Bởi vì tiếng đó là ngôn ngữ của Phục Sinh ! Tiếng đó được nói ra cho Giu-đa khốn khổ cũng như cho chính tôi, và cũng rất có thể cho một Giu-đa khốn khổ trong các bạn. Bởi vì đó là cả một niêm vui mừng trọng đại, khi Ðức Giêsu không muốn để chúng ta rơi vào cảnh bối rối lo âu sợ hãi, nhưng đã tha thứ cho chúng ta hết mọi tội lỗi. Chúng ta luôn nhớ rằng, hôm nay cũng như trong lúc chúng ta yếu đuối sa ngã, chúng ta luôn luôn là những người bạn của Chúa, như Giu-đa là người bạn muôn đời của Chúa !

LM Nguyễn Hữu Thy

————————————-

 

Thứ 5-19: Xin rửa sạch những bất trung, phản bội

Sự bất trung và phản bội là những yếu đuối của bản tính con người. Sự bất trung và phản bội: Thứ 5-29

Sự bất trung và phản bội là những yếu đuối của bản tính con người. Sự bất trung và phản bội cũng là cách sống của kẻ “ăn cháo đá bát”, của kẻ thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình. Chúa Giê-su trong thân phận làm người, Ngài cũng nếm cảnh trần trụi của tình người thay trắng đổi đen, của sự vô ơn và phản bội của thế gian. Ngài cũng hiểu nỗi đau của sự bị bỏ rơi, của sự vô ơn của kẻ Ngài đã từng thi ân. Ngài đã từng tiếc nuối cho kẻ vì danh lợi thú mau qua mà bán rẽ nhân phẩm của mình, vì chút bổng lộc mà bán đứng anh em. Ngài đã từng ước mơ: “thà nó đừng sinh ra thì hơn”. Nhưng cuộc đời hôm qua và hôm nay vẫn còn đó những con người lòng chai dạ đá đã bán đứng anh em, đã phản bội gia đình, đã bán rẻ phẩm giá của mình để đạt được danh lợi thú dơ bẩn ở đời. Nước mắt của tình đời thay trắng đổi đen. Nước mắt của sự cô đơn, bị phản bội và bỏ rơi vẫn rơi trong kiếp người vốn dĩ là bể khổ, càng khổ thêm vì những người thân thiết nhất lại phản bội lẫn nhau. Vợ chồng phản bội nhau. Anh em chơi xấu nhau. Đồng loại lừa dối nhau đó là những cách sống đang làm cho thế gian đã gian dối lại càng dối gian thêm. Đó là cách sống đang giết chết tình người, đang gặm nhấm con tim của đồng loại.

Thánh lễ hôm nay vẫn gọi là thánh lễ tiệc ly. Vì nó gợi nhớ lại bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giê-su và các môn sinh. Tiệc chia tay đã buồn lại buồn thêm bởi sự ngăn cách tình người. Một trong anh em sẽ phản bội. Một trong anh em sẽ chối Thầy. Và đêm nay anh em sẽ vấp phạm vì Thầy. Quả thực là buổi chia tay thật buồn. Buồn vì giờ chia tay đã gần. Càng buồn hơn vì sự phản bội, bỏ rơi của các môn sinh. Thế nhưng, tình yêu Chúa vẫn mãi mãi tín trung. Ngài vẫn tiếp tục yêu họ cho đến cùng. Ngài đã thực hiện một dấu chỉ tuyệt vời của tình yêu thẳm sâu và lòng tha thứ bao dung qua hành vi rửa chân cho các môn sinh. Một hành vi mà chẳng ai hiểu được. Một hành vi mà Phê-rô cảm thấy không ổn chút nào! “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con sao?”.

Thế nhưng, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục cúi xuống rửa chân cho các ông. Ngài không nhằm rửa sạch bên ngoài mà là thanh tẩy cõi lòng các ông. Ngài muốn rửa đi những lem lấm bụi đời, những toan tính trần thế. Ngài muốn dùng tình yêu để thanh tẩy tâm hồn các ông mỗi ngày thêm mới, thêm đẹp hơn. Ngài muốn thanh tẩy tâm hồn các ông khỏi những mưu đồ bất chính, những thói đời giả tạo, những kỳ vọng viễn vông. Bao lâu nay các ông theo Chúa nhưng lại nuôi dưỡng tham vọng quyền bính và bổng lộc trần gian. Sự tranh giành vị trí đã xảy ra. Kẻ đòi ngồi bên tả. Kẻ đòi ngồi bên hữu. Một vương quốc mà chia rẽ thì đâu còn tồn tại. Chúa rửa chân để các ông cũng sẽ rửa chân cho nhau. Kẻ làm lớn hãy dùng tình yêu để phục vụ. Hãy dùng tình yêu để hoán cải lòng người. Hãy dùng tình yêu để sửa lỗi cho nhau. Chính Chúa đã làm gương. Dù biết rằng Giu-đa phản bội. Dù biết rằng Phê-rô sẽ chối mình. Dù biết rằng các môn đệ sẽ bỏ Thầy trong lúc gian nguy. Việc Chúa làm lúc này để các ông mãi ghi khắc trong tim về tình yêu của Thầy. Cho dù đôi chân của các ông có bước tới tận bùn sâu của lầm lỗi, Chúa vẫn tha thứ. Chúa vẫn tiếp tục cúi xuống rửa sạch vết nhơ tội lỗi cho các ông. Chúa vẫn cho các ông cơ hội để làm lại cuộc đời, vì tình yêu của Ngài là tình yêu thuỷ chung, sắt son vẹn tuyền.

Như vậy, bài học mà Chúa muốn dạy các môn sinh chính là: “Hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu tha thứ có thể rửa xoá đi những thù hận, có thể làm sạch mọi vết nhơ của hiểu lầm, bất trung và phản bội. Một tình yêu khiêm cung thẳm sâu để có thể cúi xuống phục vụ những con người sẽ bỏ mặc mình trong gian nguy, sẽ chối bỏ mình trong hiểm nguy, sẽ bán đứng mình vì một chút bổng lộc trần gian. Thế mà, Thầy chí Thánh đã làm như vậy! Ngài còn mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài mà “Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy là mặc lấy tâm tình của Thầy để có lòng bao dung, độ lượng với nhau, để có thể tha thứ và tha thứ mãi mãi khôn cùng.

Ước gì những nghĩa cử cao đẹp mà Thầy Chí Thánh Giê-su đã làm luôn tồn tại nơi gia đình ky-tô hữu chúng ta. Gia đình cần có lòng bao dung để tha thứ và đón nhận nhau. Gia đình cần có sự khiêm tốn để có thể cúi xuống phục vụ những con người đang hành hạ mình, đang đầy đoạ mình bởi thiếu trách nhiệm và đạo đức. Gia đình cần có tình yêu phục vụ để rửa sạch những toan tính phản bội, những nhẹ dạ tội lỗi của các thành viên trong gia đình.

Ước gì từng người chúng ta đừng phản bội lẫn nhau chỉ vì những mối tình bất chính, những đam mê tội lỗi. Ước gì mỗi người chúng ta biết sống cao đẹp qua đời sống trung tín, thuỷ chung. Ước gì tình yêu như Thầy Giê-su sẽ làm cho các gia đình luôn ngập tràn niềm vui và hạnh phúc trong tình Chúa, tình người. Amen

————————————-

 

Thứ 5-20: RỬA CHÂN CHO NHAU

 “Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.” (Ga.13: 14)

 

Trong câu kinh thánh này, Chúa Giêsu không những đã hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ: Thứ 5-20

Trong câu Kinh Thánh này, Chúa Giêsu không những đã hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ nhưng Người còn dùng chính gương khiêm nhường ấy mà chỉ dậy và đòi hỏi các tông đồ hãy làm cho nhau như vậy trong yêu thương.

Hôm nay ngày Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hộị muốn nhắc lại việc Chúa và các Tông đồ cùng dự bữa Tiệc Ly. Nhân dịp này trước khi Ngài hy sinh trên Thánh Giá để chuộc tội lỗi gian trần, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Truyền Chức Thánh để Ngài tiếp tục ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế; nhờ Bí Tích Tình Yêu này mà chúng ta trở nên những chi thể trong thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô là Giáo Hội.

Nhờ yêu thương nhau và tuân phục các đấng bản quyền, chúng ta đã trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, và hân hoan loan truyền Tin Mừng của Chúa để là men là muối cho thế gian. Khi Chúa cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, Chúa muốn ta tu luyện các nhân đức của mình, nhất là nhân đức thứ tha và yêu thương từ trong trái tim và được thể hiện qua bàn tay lau sạch những thương tích và những lỗi phạm của nhau.

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa uốn nắn lòng lòng trí và sửa chữa những cao ngạo trong đời sống của chúng con, xin Chúa thay đổi trái tim sắt đá của chúng con bằng chính Trái Tim yêu thương của Chúa, Xin tẩy rửa tâm hồn chúng con, để xứng đáng đón nhận Mình Máu Chúa trong phép Thánh Thể, giúp chúng con biết học cùng Chúa sự hiền lành và khiêm nhường.

Phó Tế Lôrensô NTT

————————————-

 

Thứ 5-21: Bữa tiệc ly

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Bữa tiệc ly (Mt 26, 26-29)

 

Bữa ăn chiều Thứ Năm năm nọ của Chúa Giêsu với các môn đệ là bữa ăn cuối cùng của Ngài: Thứ 5-21

Bữa ăn chiều Thứ Năm năm nọ của Chúa Giêsu với các môn đệ là bữa ăn cuối cùng của Ngài ở trần gian, hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã biết cuộc sống tại thế của Ngài sắp chấm dứt, bữa ăn phần xác kết thúc –tiệc ly, để rồi khai mào cho bữa ăn phần hồn vĩnh viễn và viên mãn –Máu Thịt của Ngài, đó là bí tíchThánh Thể.

Để chuẩn bị cho bữa tiệc được trọn vẹn, viên mãn, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ hai việc quan trọng để được tham dự tiệc Hằng Sống :

1. Phục vụ.

2. Yêu thương.

Phục vụ và yêu thương giống như bánh miến và rượu nho kết hợp với nhau để thành lương thực hằng sống; phục vụ và yêu thương giống như giọt nước pha trong rượu, trộn lẫn vào nhau để hương vị phục vụ vừa với khẩu vị của mỗi người.

A. Suy tư.

1- Phục vụ

“…Nên trong một bữa ăn. Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rữa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau”.

Trước khi ăn người ta thường rữa tay, đây là phép vệ sinh tối thiểu, nhưng rữa chân cho các môn đệ không phải là phép vệ sinh, mà là một hành vi phục vụ, một thái độ khiêm tốn của người mà các môn đệ gọi là Thầy và là Chúa, Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô.

“Anh em gọi gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rữa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rữa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.

Chỉ có bố mẹ mới rữa chân cho con cái khi chúng còn nhỏ, vì đây là tình yêu, thói đời, không một ông chủ nào rữa chân cho đầy tớ, không một ông thầy nào rữa chân cho học trò vì làm như vậy là tự giảm giá trị nhân cách của mình. Nhưng Chúa Giêsu đã làm điều ấy, không phải để biểu diễn, không phải để mị dân, nhưng là vì yêu thương các môn đệ, và dạy cho họ một bài học : phục vụ. Bởi vì phục vụ là dấu chỉ để người ta nhận ra mình là môn đệ của Đức Kitô –Thiên Chúa làm người.

“Một ngày nọ, chim thiên nga hỏi Chúa Tạo Vật (Đấng sáng tạo) :

– Con có thể làm môn đồ của Ngài được chứ ?

Chúa Tạo Vật vui vẻ trả lời : “Được, được”.

Một lúc sau Chúa Tạo Vật nói với chim thiên nga :

– “Con nhìn xem con vịt mẹ đàng kia kìa, nó vừa kiếm ăn từ dưới bùn lầy đi lên đấy, chân nó quá dơ, con đến giúp rữa chân cho nó đi”.

Chim thiên nga lắc đầu không chịu, nói to :

– “Làm môn đồ của Chúa Tạo Vật thì không thể nào đi rữa chân cho người khác”.

Chúa Tạo Vật nói :

– “Này con, nếu con không rữa chân cho người khác, thì ai biết con là môn đồ của Ta chứ ?” (1)

Câu chuyện nhỏ nhưng đạo lí thì lớn.

Phục vụ tha nhân không vì họ là anh em bà con của mình, nhưng vì họ là hình ảnh Chúa Kitô, hình ảnh của Chúa Tạo Vật, vì họ là anh em của mình trong Đức Ái.

Ai cũng thích người khác phục vụ mình, chứ không ai thích mình phục vụ người khác, đó chính là bản chất cốt yếu của căn tính con người: kiêu căng và thích thống trị. không một liều thuốc nào có thể chữa trị được căn bệnh “truyền thống” ấy của con người, cũng như không có ai có đủ bản lãnh để chiến thắng nó.

Chỉ có Chúa Giêsu, Đấng đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là đến để phục vụ mọi người, và cái giá phải trả đó chính là chết trên thập giá. Với cái chết này, Chúa Giêsu đã trị được căn bệnh kiêu căng và thích thống trị của con người, của ma quỷ, và với cái chết này, Chúa Giêsu đã ghi tận trong tim mỗi người môn đệ của Ngài hai chữ Phục Vụ, và Phục Vụ đã trở nên dấu chỉ để cho nhân loại nhận ra ai là người môn đệ của Chúa Ki-tô, Đấng đã phục vụ cho đến chết.

2. Yêu thương

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Yêu thương nhau là chuyện cũ rất xưa của loài người, nhưng vẫn cứ mới cho người mới yêu, được yêu, và càng mới hơn nữa cho những người biết khám ra yêu thương chính là phục vụ Thiên Chúa trong tha nhân.

Có người nói yêu thương là sự rung cảm của hai con tim.

Có người nói yêu thương là sự liên kết giữa hai tâm hồn.

Có người nói yêu thương là xoá bỏ hận thù.

Có người nói yêu thương là sống chết có nhau.

Có người nói yêu thương là trao ban, là cho đi…

Chúa Giêsu nói : “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy : là anh em có lòng yêu thương nhau”

Chúa Giêsu không đợi lúc sắp chết trên thập giá mới nói những câu này, Chúa Giêsu không đợi khi sống lại mới nói câu này, nhưng Ngài đã nói trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ –bữa tiệc ly- bởi vì yêu thương và phục vụ là nhân tố chính để được tham dự tiệc Con Chiên trong Nước Trời. Không yêu thương thì không phục vụ, mà đã phục vụ thì điều cốt lõi là phải có yêu thương, và khi đã vì yêu thương mà phục vụ thì chúng ta mới xứng đáng tham dự tiệc Con Chiên –bí tích Thánh Thể.

Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời của phục vụ, cuộc sống của Chúa Giêsu là cuộc sống của tình yêu, Ngài vì dân chúng mà phục vụ không ngơi nghỉ, Ngài vì dân chúng lầm than mà thi ân giáng phúc cho họ không biết cơ man nào mà kể. Và cuối cùng Ngài bị nghiền nát để trở nên tấm Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng linh hồn người tín hữu không những ngay đời này mà cho đến cả đời sau.

B. Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Hôm nay là ngày Thứ Năm Tuần Thánh, mỗi người trong chúng con đều hiểu rất rõ ý nghĩa của các lễ nghi trong chiều nay, chúng con thuộc lòng từng câu từng chữ mà Chúa đã nói với các môn đệ trong lúc ăn bữa cuối cùng với họ, chúng con đã hiểu và chúng con đã tin. Nhưng cái hiểu biết của chúng con chưa rốt ráo, chưa trọn vẹn, nên chúng con chưa phục vụ tốt tha nhân, nên chúng con chưa thật tình yêu thương mọi người.

Hôm nay quỳ trước Nhà Tạm của Chúa trong nơi yên tĩnh này, tâm hồn của chúng con mới được soi sáng về ý nghĩa của phục vụ và yêu thương, đó chính là hai phương thế giúp chúng con tiến tới bàn tiệc thánh thiên quốc.

Xin Chúa ban cho chúng con biêt phục vụ quên mình, phục vụ mà không đòi điều kiện; biết yêu thương cách chân thành mà không đòi được yêu, để chúng con xứng đáng tham dự bí tích của tình yêu là Mình và Máu Thánh của Chúa. Amen

—————————-

(1) “Chuyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”. http://www.vietcatholic.net/nhantai

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

————————————-

 

Thứ 5-22: TAM NHẬT VƯỢT QUA

Mỗi người Kitô hữu cũng như toàn dân Thiên Chúa cảm thấy có nhu cầu phải lần lượt ôn lại: Thứ 5-22

Mỗi người Kitô hữu cũng như toàn dân Thiên Chúa cảm thấy có nhu cầu phải lần lượt ôn lại, trong kỳ lễ Vượt Qua hàng năm, những gì xảy ra trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu như các sách Tin Mừng thuật lại. Từ bữa tối Người ăn với các môn đệ trước khi đi chịu chết, cho đến lần Người hiện ra với cũng các môn đệ đó ngày Chúa Nhật kế tiếp, tất cả những gì Người đã làm, nhất là việc Người chịu chết và sống lại, đều đem lại ơn cứu độ, tất cả những gì Người đã nói đều là lời cứu độ.

Giáo Hội xưa nay vẫn đặc biệt lưu tâm đến việc cử hành ba ngày trọng đại nhất “ trong đó Chúa Giêsu đã chịu đau khổ, đã an nghỉ và đã phục sinh ” (thánh Amrôxiô). Tam nhật Vượt Qua bắt đầu bằng thánh lễ chiều thứ năm Tuần Thánh và kết thúc chiều ngày Phục Sinh, sau khi đã đạt tới những giờ phút sốt sắng nhất trong buổi canh thức Đêm Thánh, gồm tóm lại tất cả việc cử hành mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.

Tam nhật Vượt Qua liên hệ đến đời sống thâm sâu nhất của mỗi cộng đoàn Kitô hữu, vì toàn thể dân Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô thực hiện cuộc “ Vượt Qua ” đi về với Chúa Cha. Đêm Vượt Qua là đêm Thanh Tẩy long trọng nhất trong năm, và các Tín hữu cầu nguyện cách khẩn thiết hơn trong hai ngày mà các anh chị em dự tòng trực tiếp sửa soạn để được cùng chết và sống lại với Chúa Kitô. Cũng trong chiều hướng ấy, người có tội chuẩn bị bằng hai ngày ăn chay, tức là ngày thứ sáu, và nếu được, cả ngày thứ bảy nữa, để được làm hòa với Thiên Chúa và với anh chị em, nếu chưa lãnh Bí tích Hòa Giải trong những ngày cuối mùa Chay. Ngoài việc liên đới nói trên với các người dự tòng và những người sắp được ngồi lại vào bàn ăn của Chúa, tất cả các Kitô hữu cũng mừng lễ Phục Sinh khi họ lặp lại các lời đã cam kết khi chịu phép Rửa, và khi họ tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Vì thế, ta có thể áp dụng cho cả tam nhật chỉ thị mà một trong những tài liệu cổ nhất về phụng vụ đã ra về Đêm Thánh: “ Toàn dân phải ở trong ánh sáng ” .

————————————-

 

Thứ 5-23: Lm Nguyễn hưng Lợi

Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại ba món quà quí giá nhất của Ngài: – Bí tích Thánh Thể : Thứ 5-23

Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại ba món quà quí giá nhất của Ngài:

– Bí tích Thánh Thể để Chúa nuôi dưỡng nhân loại.

– Bí tích Linh mục thừa tác để Chúa tiếp tục phục vụ nhân loại.

– Giới răn yêu thương để Chúa luôn là sự hiệp nhất cho mọi người.

Suy nghĩ về biến cố hôm nay, chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa lại làm những công việc ấy và tại sao Chúa lại trối lại những món quà quí giá ấy cho nhân loại đầy tội lỗi?

Khi trở về biến cố ngàn năm có một, chúng ta không khỏi miên man suy tưởng: chỉ vì yêu. Chử Yêu được viết hoa nói lên tình thương vô bờ, vô bến của Chúa Giêsu đối với nhân loại, đối với môn đệ, đối với từng người. Lời nói của Chúa Giêsu năm xưa vẫn như còn rõ nét trong tâm khảm của từng con người “không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Chúa đã sống cho tới tận cùng chữ Yêu của Ngài. Ngài đã hiến mạng vì con người, Ngài đã chấp nhận tất cả, kê vai gánh lấy tội lỗi con người dù rằng Ngài vô tội.

Vào chiều hôm ấy cách đây 2002 năm trong bữa tiệc ly, trước khi lìa xa các môn đệ để thực hiện ý định của Cha, cứu độ nhân loại vào tối trước ngày lễ Vượt qua (Ga 13,1). Đây là lễ Vượt qua cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu dưới trần thế này trước ngày Chúa Giêsu từ biệt các môn đệ (Lc 22,5-16).

Đang nửa chừng bữa ăn, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ đột ngột, Ngài chỗi dậy khỏi bàn, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu, rồi rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,4-15).

Cử chỉ rữa chân cho các môn đệ là một bài học hùng hồn Chúa muốn dạy các môn đệ trước khi Ngài lập Bí tích Thánh Thể: Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu. Chính vì Yêu, Chúa đã hiến thân chịu chết để mọi người, để nhân loại có thể ăn Ngài và uống máu của Ngài.

Bí tích Thánh thể chỉ rõ rằng vì Yêu Chúa đã lập Bí tích Thánh thể, nên mỗi người sống ở trần gian cũng phải hiệp nhất trong yêu thương như thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô 10,16-17 đã viết : “Chén chúc tụng ta cầm mà đội ơn, lại không phải là chung phần Mình Chúa Kitô sao? Vì chưng chỉ có một bánh, nên ta tuy nhiều, ta cũng chỉ là một thân mình, vì hết thảy ta cùng chia phần một bánh” (1 Co 10,16-17).

Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể để hiện diện với nhân loại mãi mãi qua thừa tác của các linh mục (1 Co 11,26). Vâng, xét cho cùng Chúa đã yêu nhân loại và qua trái tim nồng nàn như rực cháy, Ngài đã trối lại cho nhân loại, cho mọi người một gia tài vĩ đại, một gia tài lớn lao đến nỗi con người không bao giờ có thể dùng tiền của để mua được. Gia tài này là gia tài Tình yêu. Gia tài phát xuất từ kho tàng là con tim, là cõi lòng đầy lữa mến của Chúa Giêsu.

Chúa mời gọi và chia đều phần gia tài ấy cho từng người, mỗi người đều có phần của mình và không có một người nào thiếu tên trong con tim của Chúa. Chúa đã gửi gia tài tới từng địa chỉ của từng con người. Chúa âu yếm kêu mỗi từng người đến lãnh phần gia tài của mình.

Tuy nhiên, đã có nhiều lần con người khước từ gia tài tình yêu Chúa gửi tặng; đã có nhiều lần con người nhiệt thành, nhưng nông nổi chối từ tình yêu của Chúa như Phêrô đã chối từ Chúa ba lần dù rằng trước đó, ông đã cương quyết muốn đi theo Thầy tới cùng; đã có lần chúng ta cũng ngủ say và say bí tỉ như các môn đệ trong vườn cây dầu vì ta chưa tỉnh thức và sẳn sàng để lãnh gia tài tình yêu.

Chúa đã cứu chuộc chúng ta với tất cả sự say sưa vì tình yêu nồng cháy của Ngài. Chúa muốn đổi mới ta, Chúa muốn ta đi theo Ngài. Chúa muốn ta gọt dũa, cởi mở, khắc đục những gì là sần sụi, là gồ ghề để nên giống Ngài. Giống Chúa, ta sẽ sống cuộc đời của Ngài như thánh tông đồ Phaolô đã nói : “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi.”

Gia tài Chúa để lại cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta là Con Tim của Chúa: con tim nhạy cảm, con tim thương xót và con tim rực cháy lữa tình yêu, 2002 năm đã qua, gia tài của Chúa vẫn là kho tàng quí giá nhất, Chúa đang chờ đợi mỗi người chúng ta tới lấy.

————————————-

 

Thứ 5-24: Bài Giảng của ĐTC Gioan Phaolô II

trong Thánh Lễ Tiệc Ly năm 2002)

(Ga 13, 1-5)

1) “Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).

 

Những lời trong bản văn Tin Mừng vừa được công bố nhấn mạnh rõ ràng bầu khí Ngày Thứ Năm: Thứ 5-24

Những lời trong bản văn Tin Mừng vừa được công bố nhấn mạnh rõ ràng bầu khí Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Những lời này cho chúng ta một cái nhìn thấu suốt bên trong điều Đức Kitô cảm nhận “trong đêm bị phản bội” (1Cor 11,23), và những lời này linh hứng chúng ta tham gia sốt sắng với lòng cảm tạ của mỗi người trong nghi thức long trọng mà chúng ta đang cử hành.

Chiều nay, chúng ta bắt đầu cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, biến cố hình thành nên giây phút bi đát và chung cuộc cho sự hiện diện trần thế được chuẩn bị và mong đợi từ lâu của Ngôi Lời. Đức Giêsu đã đến giữa chúng ta không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ, và Ngài mang trên vai những thăng trầm và hy vọng của nhân sinh trong mọi thời đại. Tiên đoán trước cách nhiệm mầu về lễ hy sinh trên Thánh Giá, tại phòng Trên Gác, Ngài muốn ở lại với chúng ta trong hình bánh và rượu, và ký thác cho các môn đệ cũng như những người tiếp bước các ngài sứ mạng và quyền năng để làm sống mãi kỷ niệm sống động và rõ nét về biến cố đó trong bí tích Thánh Thể.

Việc cử hành này, vì vậy, lôi cuốn cách nhiệm mầu tất cả chúng ta và đưa chúng ta vào Tam Nhật Thánh, thời gian trong đó chúng ta cũng sẽ học từ Đấng “là Thầy và là Chúa” để “giang cánh tay chúng ta ra” và đi ra bất cứ nơi đâu chúng ta được kêu gọi thực thi di chúc của Cha trên trời.

2) “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (1Cor 11,24-25)

Với lệnh truyền thúc giục chúng ta lặp lại cử chỉ của Ngài, Đức Giêsu hoàn tất việc thiết lập Bí Tích của Bàn Thờ. Khi Ngài rửa chân xong cho các môn đệ, một lần nữa, Ngài mời gọi chúng ta hãy bắt chước Ngài: “Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Ngài thiết lập một sự liên kết thân mật giữa bí tích Thánh Thể, bí tích của quà tặng hy sinh của Ngài, và huấn lệnh yêu thương khiến ta chào đón và phục vụ anh chị em mình.

Việc dự phần vào bàn tiệc của Chúa không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị em chung quanh ta. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa. Khi làm như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Đức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em mình, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Đấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ” (Phil 2,7).

Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Đức Kitô để lại cho những ai được Ngài kêu gọi theo Ngài. Chính tình yêu của Ngài, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.

3) “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình” (1Cor 11,29).

Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Đứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.

Truyền thống của Giáo Hội luôn nhấn mạnh đến sự liên kết giữa bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Tôi cũng muốn tái xác nhận điều này trong Thư Gởi Cho Các Linh Mục Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm nay, bằng cách mời gọi các linh mục trên hết hãy tái khám phá vẻ đẹp của Bí Tích Thứ Tha. Chỉ có cách này các ngài mới có thể giúp các tín hữu, những người được phó thác cho sự chăm sóc mục vụ của các ngài, tái khám phá Bí Tích này.

Bí tích Hòa Giải tái tạo lại cho những người đã chịu phép rửa tội ân sủng thánh thiện mà họ đánh mất do những tội trọng, và làm cho họ xứng đáng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Hơn thế nữa, qua cuộc đối thoại trực tiếp xảy ra thông thường khi cữ hành bí tích này, bí tích này còn đáp ứng nhu cầu truyền thông cá nhân, một điều mà ngày nay, càng ngày càng trở nên khó khăn như một hệ quả của bước tiến cuồng nhiệt của xã hội kỹ thuật.

Qua hành động soi sáng và kiên nhẫn của mình, cha giải tội có thể đem hối nhân vào trong sự hiệp thông sâu sắc với Đức Kitô, sự hiệp thông do Bí Tích này phục hồi và Bí Tích Thánh Thể đưa đến mức đầy hoa trái.

Cầu mong sao cho sự tái khám phá Bí Tích Hòa Giải giúp tất cả các tín hữu tiến gần đến bàn tiệc Mình và Máu Thánh Chúa trong niềm kính trọng và với lòng sốt mến.

4) “Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1)

Chúng ta hãy trở lại Phòng Trên Gác trong tinh thần! Nơi đây chúng ta tìm thấy lại chính chúng ta trong đức tin chung quanh Bàn Thờ của Chúa, khi chúng ta cử hành Bữa Tiệc Ly. Lặp lại những cử chỉ của Đức Kitô, chúng ta công bố rằng cái chết của Ngài đã cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và tiếp tục mạc khải niềm hy vọng về một tương lai của ơn cứu độ cho những người nam, người nữ của mọi thời đại và của mọi nơi chốn.

Các linh mục được kêu gọi để tiếp tục nghi thức mà, dưới hình bánh và rượu, thể hiện lễ hy sinh của Đức Kitô, trung thực, thật sự và thiết thực, cho đến ngày sau hết. Tất cả các Kitô hữu được mời gọi để trở nên những đầy tớ khiêm hạ và tế nhị của anh chị em họ, để hợp tác trong ơn cứu độ của họ. Chính là nhiệm vụ của mỗi tín hữu phải công bố qua chính cuộc sống của họ rằng Con Thiên Chúa đã yêu thương chính họ “đến cùng”. Chiều nay, trong sự yên lặng đầy nhiệm mầu, đức tin chúng ta được nuôi dưỡng.

Hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng con công bố cái chết của Ngài: Lạy Chúa, Đầy lòng biết ơn, chúng con đã nếm niềm vui sự phục sinh của Ngài. Đầy lòng tín thác, chúng con cam kết sống trong niềm trông mong Ngài lại đến trong vinh quang. Hôm nay và mãi mãi, Lạy Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng con. Amen!

+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng

————————————-

 

Thứ 5-25: Đức ái: Hoa trái của Thánh Thể

Đức ái, Thánh Thể và Thiên Chức Linh Mục. Đây là 3 chủ đề lớn nhất trong Ngày Thứ Năm:Thứ 5-25

Đức ái, Thánh Thể và Thiên Chức Linh Mục. Đây là 3 chủ đề lớn nhất trong Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, ngày mà Giáo Hội nhắc nhở con cái mình nhớ về những việc mà Chúa Giêsu đã làm trong căn nhà Tiệc Ly, trước khi Ngài chịu khổ nạn.

Nhưng giữa Đức Ái, Thánh Thể và Chức Linh Mục, Đức Ái được cho là quan trọng và cần thiết nhất. Điều này có thể được chứng minh bằng lời mà Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy” (Gioan 13:8).

Không được dự phần với Chúa đối với Phêrô lúc bấy giờ là không được lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Không tham dự Lễ Vượt Qua với Chúa.

Không được dự phần với Chúa, cũng có nghĩa là không được thông phần thiên chức linh mục mà Chúa sắp sửa thiết lập.

Không được dự phần với Chúa, là không được đón nhận Ơn Cứu Chuộc mà Ngài sắp sửa thực hiện qua cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài.

 Và vì thế, không được dự phần với Chúa, là không được thông phần sự sống đời đời với Ngài.

Tóm lại, việc Phêrô không được dự phần với Chúa là việc hệ trọng. Nó có tính cách quyết liệt, và mang ý nghĩa đời đời. Chính vì thế mà ông đã vội vàng thưa với Chúa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa” (Gioan 13: 9).

Như vậy, rửa chân đối với Phêrô là một hành động khiêm tốn đón nhận tình yêu Thiên Chúa dành cho ông. Để cho Chúa Giêsu rửa chân, tức là để Ngài gột rửa linh hồn ông, khiến ông xứng đáng với Thánh Thể của Ngài. Xứng đáng với thiên chức linh mục mà Ngài sắp sửa mời gọi ông tham dự. Và xứng đáng trong việc chia sẻ cuộc khổ nạn, và sự Phục Sinh của Ngài.

Và riêng đối với Phêrô, rửa chân còn là một dấu chỉ thực hành đức bác ái mà chính ông phải có đối với anh em mình: “Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Gioan 13: 15).

Đức ái:  Thánh Thể là một biểu hiện tuyệt vời Tình Yêu Thiên Chúa dành cho con người. Chúa Giêsu biết những gì Ngài sẽ phải làm và những gì sẽ sẩy ra cho Ngài như lời Thánh Ký ghi nhận. Và do đó, Ngài đã thiết lập phép Thánh Thể để duy trì tình yêu của Ngài đối với con cái loài người, và cũng để nuôi dưỡng tình yêu con người bằng chính sức sống đến từ  Thịt và Máu Ngài: “Thịt Ta thật là của ăn. Máu Ta thật là của uống” (Gioan 6:55).

Và đối với những ai có lòng trọng kính thiên chức linh mục, thì Ngày Thứ Năm Tuần Thánh cũng là một dịp để cùng ôn lại một Bí Tích Truyền Chức Thánh mà Chúa Giêsu đã thiết lập, không ngoài việc duy trì và bảo tồn Thánh Thể. Bởi vì không có linh mục, thì không có Thánh Thể. Cũng có thể nói, Bí Tích Truyền Chức Thánh là một thể hiện tuyệt vời tình yêu Thánh Thể đối với nhân loại.
Nhưng nếu nhìn sâu vào hành động rửa chân và những gì mà Chúa Giêsu đã làm trước khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể và Thiên Chức Linh Mục, chúng ta sẽ nhận ra rằng giữa ba việc làm của Chúa Giêsu trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh, việc Ngài thực thi hành động Bác Ái và truyền dậy Đức Ái là điều quan trọng hơn cả.

Quan trọng cả đối với Chúa và cũng cả đối với con người. Đối với Chúa thì nếu không vì yêu thương nhân loại, Ngài đâu phải xuống thế, chịu khổ nhục và chịu chết. Đâu cần Thánh Thể và Thiên Chức Linh Mục.

Đối với con người, thì như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, là nếu không thông hiệp với Đức Ái tức là Tình Yêu của Ngài, và riêng phần ông, nếu không sống đức ái ấy, thì “không được dự phần với Ngài”.

Có thể nói, hoa trái của Thánh Thể chính là Đức Ái trọn hảo. Thật vậy, nếu Thánh Thể là của ăn, của uống nuôi sống linh hồn các tín hữu trên hành trình đức tin và cuộc sống tâm linh, thì cuộc sống ấy để làm gì? Và phải sinh hoạt như thế nào? Trong lãnh vực tâm sinh lý và tâm lý phát triển, khi một người lớn lên, khỏe mạnh thì phải biết dùng lý trí và hành động của mình để làm đẹp và tăng thêm ý nghĩa của cuộc sống. Sống có ý nghĩa. Sống cho xứng đáng con người. 

Cũng giống như cuộc sống thể lý hay cuộc sống tâm lý, cuộc sống tâm linh phải đem lại hoa trái và phải đem lại giá trị thật cho người Kitô hữu.  Trong cái nhìn tâm linh, những hành vi giá trị ấy đều phát xuất do tình yêu tức là đức ái chân thật. Mẹ Têrêsa Calcutta, hay bất cứ một thánh thân nào cũng không làm gì hơn là thực hành đức ái một cách trọn hảo. Hành động chăm sóc, lo lắng cho các người bệnh tật già yếu. Nuôi nấng và săn sóc các em cô nhi, quả phụ, hoặc những kẻ đầu đường xó chợ, chính là một hành động rửa chân mà Chúa Giêsu đã nói đến trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh, mà chính Ngài đã thực hiện, và truyền cho chúng ta phải thực hiện.

Chúa xin không cho, cha xin thì cho:

Câu chuyện mà tôi nhớ mãi mỗi khi suy niệm về hành động đức ái, đó là câu chuyện được kể lại do linh muc Nguyễn Thế Phiên, quản nhiệm Cộng Đoàn Đức Mẹ La Vang, thuộc Giáo Phận Orange, California.

Trong bài giảng hôm đó liên quan đến đức bác ái, linh mục Phiên đã kể về một câu chuyện nhân chuyến hành hương Đất Thánh. Linh mục Phiên kể rằng, hôm đó có một người hành khất đến xin giúp đỡ. Trong đoàn hành hương lúc đó có một bà trông giầu có với dáng vẻ dễ thương, dễ mến. Tuy nhiên, bà không giúp đỡ gì mà còn tỏ ra như khinh bỉ người nghèo khổ đó. Thấy vậy, linh mục Phiên làm như cần tiền và muốn bà giúp đỡ. Và lạ lùng thay, thái độ bà trở nên rất niềm nở, quảng đại. Bà rút trong túi xách tay ra đưa cho linh mục 200 dồng, gọi là để tiêu xài, hay muốn mua gì tùy ý. Kết luận câu chuyện, linh mục Phiên đã làm mọi người suy nghĩ bằng câu nói: “Rõ thật là dại. Chúa xin thì không cho, mà cha xin lại cho.”

Thật ra, đây không phải là mẩu chuyện có tính cách khó hiểu xa rời thực tế. Trong cuộc sống thường ngày rất lần chính chúng ta cũng hành động tương tự. Đối với những ai giầu có, có quyền, có danh, và có khả năng lợi dụng, chúng ta thường rất dễ thân mật, và mong được quen thân với họ. Đối với những người này, không cần phải ngửa tay xin xỏ, nhưng chúng ta cũng tự nguyện dâng cúng, đóng góp, hoặc biếu xén. Tệ nạn tham những, cửa quyền cũng từ đó mà ra. Ngược lại, những người nghèo khổ, đói rách. Những người bệnh tật, đau yếu. Những kẻ sa cơ, lầm đường. Những kẻ bị bỏ rơi đang cần tình thương, và cần sự giúp đỡ cũng từ đó mà càng ngày càng trở nên bần cùng, túng quẫn, và đau khổ thêm. Lý do, vì họ không có khả năng lợi dụng. Vì đức ái của chúng ta mang hình thức trục lợi. Nó không phải là một đức ái hoàn toàn vô vị lợi và vì Chúa.

Đức ái và Thánh Thể:

Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, khi chúng ta suy ngắm về mầu nhiệm Thánh Thể và tưởng niệm sự hy sinh cao cả của Chúa khi ban mình làm của ăn, của uống nuôi dưỡng chúng ta trên hành trình đức tin và trong đời sống tâm linh. Câu hỏi được đặt ra, liệu chúng ta phải sống với sức sống Thánh Thể như thế nào? Đời sống đạo của chúng ta có lột tả được ý nghĩa “rửa chân” mà Chúa Giêsu đã thực hiện và dậy chúng ta không? Chúng ta có để Chúa rửa chân như Phêrô đã để Ngài rửa chân cho không? Và nhất là chúng ta có rửa chân cho nhau không?

Tóm lại, chúng ta có đến với Chúa Giêsu Thánh Thể bằng tâm hồn khiêm tốn, và đón nhận Ngài vào cuộc đời mình.  Nhất là chúng ta có sống với mầu nhiệm Thánh Thể bằng việc rửa chân cho nhau, đó là đón tiếp, giúp đỡ, và tha thứ cho anh chị em mình như Chúa đã yêu thương và tha thứ cho mình không?

Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy” (Gioan 13:8). Và ông đã thưa lại với Chúa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa” (Gioan 13:9). Và đó là sống Mầu Nhiệm Thánh Thể qua việc thực tha đức ái trong cuộc sống hằng ngày của người Kitô hữu.

————————————-

 

Thứ 5-26: RỬA CHÂN

Dấu Chân: Ịể khẳng định việc đã đến một nơi nào, người ta thường hay nói đã đặt chân đến :Thứ 5-26

Dấu Chân: Để khẳng định việc đã đến một nơi nào, người ta thường hay nói đã đặt chân đến nôi ấy, dấu chân, vì thế biểu thị sự hiện diện của một con người đã đến, đã đi. Trong nhiều tôn giáo, nhắc đến nhiều dấu chân, theo truyền thuyết của Đức Phật, ngày đản sinh của Đức Phật, ngài đã bước đi bảy bước trong mỗi chiều của không gian. Theo thần thoại Hy Lạp, thần  Vishnu đã bước đi ba bước, bước thứ nhất tiếp xúc với đất, bước thứ hai là bước trung gian, bước thứ ba là tiếp xúc với trời. theo thần thoại này, người ta nghĩ đó là ba bước cơ bản của ba vị trí mặt trời mọc và lặn, bước trung gian là đỉnh vào giữa ngọ. Ở Đông Phương việc thờ phượng các đôi bàn chân của thần Vishnu, của Đức Phật, hay bàn chân tiên ông trong Đạo Lão, hay bàn chân của Mahomet ở La Mecque là thường xuyên.

Dẫm vào dấu chân thần linh. Trong nhiều thần thoại của các dân tộc ở Việt Nam, việc đản sinh của một con người mang tính vượt trội thường là diễn tả sự thụ thai của bà mẹ bước vào dấu bàn chân của nhân vật huyền thoại nào đó chứ không như thường lệ là do người nam. Dẫm vào dấu chân thần linh để diễn tả con người phi thường ấy được sinh ra có sự can thiệp của thần linh chứ không nguyên do con người. Như vậy, trong thần thoại, người xưa đã tin rằng thần linh có mặt trên trái đất này và là chủ của trái đất này. Việc con người dẫm vào dấu chân thần linh là diễn tả con người thuộc về thần linh ấy, con người được các thần linh có tính chủ quyền của đất đai che chở, can thiệp…

Chân là trụ đứng của con người, cây trụ đứng giữa trời này có liên hệ với trục vũ trụ. Con người với đôi bàn chân đứng là trục và là trung tâm của vũ trụ, là trung gian giữa trời và đất, con người là đỉnh cao trong công trình sáng tạo. Là kỳ công của sáng tạo, nên con người cũng được giao phó trách nhiệm quản lý muôn loài thọ tạo. Chân đứng của con người khi khụy xuống hay bị trượt té thì muôn vật cũng theo đó bị đổ vỡ và té nhào. Trong lịch sử, con người đã ngã, vạn vật, thiên nhiên đang rên siết trong sự té ngã của con người. Con người đã không đứng vững và muôn loài cũng đang đau khổ vì cây trụ yếu ớt, mỏng dòn.

Chân là điểm khởi đầu tiếp xúc với đất đối nghịch lại với đầu là phần cuối cùng của thân thể con người. Chân đạp đất biểu thị một quan niệm rất cơ bản: Siêu nhiên cần dựa trên tự nhiên. Siêu nhiên là phần tiếp xúc với đầu, nhưng đầu nhờ có chân nâng đỡ. Cũng chính vì thế khi tự nhiên bị phá đổ, siêu nhiên cũng không còn chỗ đứng. Điều này thánh Augustin diễn tả trong câu nói: “Để dựng nên con, Thiên Chúa không cần có con, để cứu độ con, Thiên Chúa cần đến con”. Cứu độ là hồng ân siêu nhiên hiện tại hóa trong tự nhiên nơi con người Đức Giêsu Kitô. Con người tự nhiên đã bị tội lỗi đánh gục phải nhờ một con người vô tội đến từ siêu nhiên trong con người tự nhiên để cứu vớt. Như vậy, con người muốn được cứu vớt cần được tháp nhập vào trong con người của Đức Giêsu Kitô, việc tháp nhập là do con người quyết định. Thiên Chúa không thể cứu nếu con người không muốn.  

            Rửa chân trong chiều Thứ Năm Tuần Thánh là một biểu tượng có nhiều liên quan đến việc rửa sạch.

Rửa sạch cái quyền: Quyền của người lãnh đạo đúng như vương quyền Đức Giêsu là cúi xuống rửa chân cho anh em. Thay vì trong vai chủ nhà, theo thông lệ của người Do Thái, Khách đến nhà, chủ gia se lấy nước để khách rửa chân, khi nào là khách quý chính chủ nhà sẽ cúi xuống rửa chân cho vị khách. Chúa Giêsu xem các môn đệ của mình là những người khách quý đến nhà, Ngài đã cúi xuống long trọng rửa chân cho các môn đệ. Hành vi này gây cho Phêrô và các môn đệ thắc mắc: “Sao Thầy lại rửa chân cho con”. Lời thắc mắc này lại mở ra câu trả lời hoàn toàn nghe khác: “Nếu không rửa chân cho con, con se không được tham dự vào Nước của Thầy”. Lãnh vực Nước của Đức Giêsu, cũng bị các môn đệ hiểu sai về một vương quyền trần thế sắp tới. Thực sự, các ông se hiểu rõ hơn: “Nước của Ngài không thuộc thế gian này”. Rửa chân – quyền để phục vụ – Nước Trời,  là ba chủ đề liên quan với nhau. Quyền không để trục lợi nhưng để phục vụ, quyền không để chiếm hữu tư lợi nhưng để cùng nhau tiến vào dự tiệc Nước Trời. Quyền bính nếu không để giúp con người sống dồi dào và phong phú hơn, quyền ấy đang bị lạm quyền và mang lại sự chết chóc, tiêu diệt. Rửa quyền hành là rửa sạch tư lợi để được các anh chị em trong hiệp thông sự sống.

Rửa sạch những chiếm hữu: Trần thế này không phải là tất cả, chiếm hữu càng nhiều đôi chân càng bẩn, rửa chân là rửa những chiếm hữu quá đángcủa con người. Khi con người chiếm hữu cho riêng mình phần lớn sẽ chèn ép và tẩy chay những đôi chân khác dù là bé tý. Phá thai – loại trừ sự sống, là cách thức chiếm hữu của con người càng nhiều càng tẩy chay lẫn nhau: “một đứa con sinh ra sẽ chia bớt phần hưởng thụ của cha mẹ và là một gánh nặng thêm cho các gia đình và xã hội”. Rửa sự chiếm hữu để chia cho nhau sự sống và để đi đến hiệp thông trong sự sống.

Rửa các mối tương quan. Từ khi rửa sạch các mối tương quan, con người mới hiểu được di chúc của Chúa trong bữa tiệc ly: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Đó là nội dung chính của việc rửa chân.

 Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

————————————-

 

Thứ 5-27: QUYỀN HÀNH LÀ ĐỂ PHỤC VỤ

Ý tưởng này được nói đến nhiều sau Công đồng, nhưng thực ra đã có từ lâu trong Tin Mừng :Thứ 5-27

Ý tưởng này được nói đến nhiều sau Công đồng, nhưng thực ra đã có từ lâu trong Tin Mừng, khi Đức Ki-tô nói Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà chính là để “hầu hạ” người ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” . (Mc 10,45) Vì thế, Người mới dạy các Tông đồ rằng ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44)

Từ những ý tưởng trên mới nảy ra cặp từ autorité-service trong tiếng Pháp, nghĩa là quyền hành-phục vụ. Có quyền là để phục vụ hay hành quyền là phục vụ. Cũng vì tinh thần này mà các Đức Giáo Hoàng thường viết tắt hai chữ SS trước khi ký tên. Hai chữ này không phải là bí ngữ của công an xung phong Quốc xã đâu, mà là hai chữ Servus Servorum viết tắt, có nghĩa là tôi tớ của các tôi tớ. Rồi người ta chuyển sang các chữ khác mà viết là Sua Sanctitas trong tiếng La tinh, Sa Sainteté trong tiếng Pháp. Những chữ chuyển dịch này xa với ý nghĩa ban đầu của hai chữ Servus Servorum. Mà thật thế. Gíáo Hoàng tuy ký là “tôi tớ của các tôi tớ” , một kiểu nói khiêm nhường nhưng lại là một nhân vật được tôn kính hơn mọi người có quyền hành trên thế gian này. Người công giáo ở khắp nơi đều kính trọng và yêu mến Đức Giáo Hoàng. Chúng ta chỉ cần nhớ lại đám tang vô tiền khoáng hậu của Đức Cố Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II và lễ đăng quang của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI thì đủ hiểu. Rồi các danh xưng đối với các vị chức sắc trong Hội thánh. Người ta xưng với Hồng Y là Sua Eminentia, Son Eminence, với Giám Mục là Sua Excellentia, Son Excellence, với Bề Trên cao cấp trong các Dòng tu là Reverendissimus, Reverendissime, với linh mục là Reverendus, Révérend.

Tất cả những danh xưng đó từ bao đời nay đã làm lu mờ ý tưởng có quyền là để phục vụ hay hành quyền là phục vụ. Phải đợi mãi đến Công đồng Va-ti-ca-nô II mới có sự thay đổi. Bắt đầu là sự thay đổi trong giáo triều Roma: Đức Phao-lô VI không ngồi trên kiệu khi ra cử hành các lễ nghi tại đền thờ thánh Phê-rô nữa; người bỏ mũ giáo hoàng ba tầng và khi qua đời thì truyền lệnh phải đặt quan tài sát đất v.v…

Nhưng đối với người Việt Nam thì sự đơn sơ giản dị là hơi khó, vì xã hội chúng ta là một xã hội nặng về tôn ty đẳng cấp, và không có một nước nào mà cách xưng hô vừa phong phú lại vừa phức tạp như cách xưng hô của chúng ta. Đàng khác, dân chủ vẫn còn như là một thứ xa xỉ phẩm đối với phần đông đồng bào chúng ta. Người Việt Nam lại vốn thích danh vọng địa vị. Vì thế mới có những câu như “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” . Ngoài ra, thường làm gì tự nhiên ai cũng thích cho người khác biết đến. Như thế mới nở mày nở mặt với thiên hạ. Trước mặt xã hội, phải có danh vọng địa vị gì đó mới được, còn nếu chỉ là bạch đinh thì thường quá. Vì vậy, trước kia trong làng xã phải bỏ tiền ra mua một chức nào dó như ông nhiêu, ông xã và trong họ đạo cũng phải có danh phận gì như ông trùm, bà quản, ông câu, ông biện và ngày nay một chân nào đó trong Hội Đồng giáo xứ. Danh vọng, chức vị đường như đã là một cái gi cố hữu trong huyết quản của người Việt Nam rồi, nên gỡ bỏ đi thật là khó. Xã hội của chúng ta bây giờ bên ngoài vẫn thế. Chẳng may, người nhà đạo chúng ta lại cũng “nhập nhiễm” những thói này. Cứ nhìn vào cách thức thưa gửi trong nhà thờ vào các dịp lễ đặc biệt là đủ thấy ảnh hưởng rõ rệt của lối hành xử theo phần đời. Nhiều người nhà tu cũng không rũ bỏ được những thứ đó. Vì thế, lối hành quyền của chúng ta còn lâu mới là một cách thế phục vụ. Ở Việt Nam phải cố gắng và cảnh giác lắm mới sống theo tinh thần Phúc Âm trong vấn đề này được. Lề lối phong kiến ở ngoài đời cũng như trong đạo còn đè nặng trên vai chúng ta. Vậy phải làm thế nào ?

Trước hết phải ý thức rằng mọi quyền hành là do Chúa ban cho: “Không có quyền bính nào mà không bởi Thỉên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13, 1) Vì là quyền được ban và trao cho, nên người lãnh quyền và hành quyền là do thiên mệnh để lo ích chung và công việc chung cho đoàn thể. Người La tinh có câu tục ngữ “honor onus”, vinh dự gánh nặng, nghĩa là được vinh dự đấy, nhưng cũng phải mang gánh nặng, gánh nặng của trách nhiệm đối với đoàn thể. Nếu không chu toàn trách nhiệm thì không phải là người điều hành tốt. Bởi thế, quyền hành đi đôi với điều hành là vậy. Nếu chỉ nắm quyền mà không biết hành quyền cho phải đạo thì thật là tai hại cho đoàn thể.

Thứ đến là bao lâu còn nắm quyền thì hành quyền, nhưng khi mãn nhiệm, hết quyền rồi thì không lưu luyến, bằng lòng trở về vị trí như những người khác. Trong các chế độ dân cử, hết nhiệm kỳ là thôi không còn cố bám lấy chức vụ và địa vị cũ nữa. Đó là điểm hay của các chế độ dân chủ. Người mãn nhiệm kỳ không đòi hỏi một đặc quyền hay đặc lợi nào, và cũng không làm gì, ra như kể công về những việc mình đã làm trong thời gian tại vị.

Cuối cùng, sau khi đã rời khỏi chức vụ hay hết quyền thì “xóa” mình đi, rút lui vào bóng tối cho người kế nhiệm dễ làm việc. Nếu được mời làm cố vấn hay được bàn hỏi thì giúp ý kiến, còn tự mình thì không tìm cách duy trì ảnh hưởng hay làm khó dễ cách nào đó cho người đến sau. Tốt hơn cả là làm thế nào để người kế nhiệm khỏi cảm thấy ngột ngạt, vì sự có mặt của người tiền nhiệm ở bên cạnh. Thời gian rời khỏi chức vụ có thể là một thời gian nghỉ ngơi yên tĩnh, sau khi đã đầu tư thời giờ, sức lực, họat động tối đa trong thời gian tại chức. Thái độ nên có trong lúc này là thái độ của ông già Si-mê-on trong kinh Nunc dimittis, một thái độ bình an thanh thản sẵn sàng ra đi.

Nói tóm lại, nếu muốn hành quyền theo tinh thần Phúc âm thì phải thay đổi não trạng phong kiến và kiểu cách chung của người Việt Nam trong đạo cũng như ngoài đời, khi nắm giữ quyền hành trong tay. Xin nói lại: Có quyền là để lo cho ích chung. Ích chung phải là kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành động của người nắm quyền.

LM An-rê Đỗ xuân Quế, OP

————————————-

 

Thứ 5-28: RỬA CHÂN

Mỗi năm, vào ngày thứ năm trong tuần thánh, các linh mục rửa chân cho những anh chị em: Thứ 5-28

Mỗi năm, vào ngày thứ năm trong tuần thánh, các linh mục rửa chân cho những anh chị em giáo dân, những người đại diện cho mười hai Tông Đồ của Chúa Giêsu.

Hồi nhỏ, khi còn là chú bé giúp lễ, mỗi lần giúp lễ, bê thau nước giúp cho cha xứ cử hành nghi thức này. Tôi thấy khi quỳ xuống rửa chân, nước mắt của cha xứ rơi lã chã, có lúc rớt vào vạt áo tôi. Tôi thực sự không hiểu. Lớn lên làm linh mục và mỗi lần cử hành nghi thức rửa chân cho anh em, tôi khóc, nhưng chẳng hiểu. Tôi hỏi Chúa Giêsu, Ngài im lặng. Đọc lại đọan Tin mừng theo thánh Gioan tông đồ: “ Trong một bửa ăn, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngòai ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau “ ( Ga 13, 4 – 5 ). Có lẽ Chúa Giêsu cũng khóc, Ngài là Thiên chúa và là Thầy của các môn sinh, thế mà Ngài lại thực hiện việc làm của một người tôi tớ. Không khóc sao được khi mà những người học trò Ngài hết lòng yêu thương lát nữa đây sẽ cao chạy xa bay để bỏ chúa lại một mình. Phêrô môn đệ được chúa ủy thác trách nhiệm trọng đại lại bai bải chối chúa ba lần. Giuđa người quản lý kinh tế, chăm lo cuộc sống cho anh em, Chúa Giêsu chắc cũng hết mực yêu thương lại rắp tâm bội phản và bán Chúa. Hơn thế nữa, những con dân thành Giêrusalem, bao ơn phúc Chúa đã làm cho họ giờ như chẳng còn gì. Chúa Giêsu khóc và Ngài cũng không hiểu tại sao các môn đệ, những người Do thái và cả nhân lọai không thể biết tình yêu của Ngài.

Chúa Giêsu chấp nhận cuộc khổ nạn và Ngài dạy cho chúng ta con đường phục vụ, khiêm hạ để đón nhận anh em mình: “ Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy và là Chúa. Vậy nếu Thầy là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau “ ( Ga 13, 13 – 14 ).

Chúa Giêsu đã để lại trong chúng ta một tình yêu cao vời qua nghĩa cử đầy cảm động, các linh mục khi cúi xuống lặp lại cử chỉ đầy yêu thương này cũng sẽ chia trong sứ vụ của những người tôi trung phục vụ cho Tin Mừng của Thầy chí thánh.

LM. Giacôbê Tạ Chúc

————————————-

 

Thứ 5-29: Người đã yêu thương họ đến cùng

Chiều hôm nay, Thứ năm Tuần Thánh, Khai mạc Tam Nhật Vượt Qua, một thời gian đặc biệt: Thứ 5-29

Chiều hôm nay, Thứ năm Tuần Thánh, Khai mạc Tam Nhật Vượt Qua, một thời gian đặc biệt và cao cả nhất trong Nam Phụng vụ, cộng đoàn chúng ta họp nhau trong một bầu khí thân thương và trìu mến. Bởi vì, với Thánh lễ Chiều hôm nay, chúng ta sống lại Bữa Tiệc Vượt Qua cách nay gần 2000 năm, giữa Chúa Giê-su và các môn sinh của Người. Quả thật, với cử hành chiều hôm nay, những gì Đức Ki-tô đã làm sẽ lần lượt được hiện thực : một lần nữa Ngài hiện diện qua Lời yêu thương của Ngài tâm sự với chúng ta ; Ngài hiện diện như một người phục vụ yêu thương và khiêm tốn khi cúi xuống rửa chân cho loài người chúng ta và khi nhắn gởi chúng ta giới luật yêu thương ; Ngài hiện diện qua Hình Bánh-Rượu sẽ trở nên Máu Thịt nuôi dưỡng chúng ta, và liên kết chúng ta nên một thân thể với Ngài khi thiết lập BTTT ; Ngài hiện diện như người linh mục đời đời được tiếp tục nơi các thừa tác viên thánh chức khi ngài thiết lập bí tích truyền chức thánh.

Giờ đây, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh, xứng đáng làm lại lời trăn trối ngày nào của Đức Ki-tô : “Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy”, chúng ta cùng thú nhận tội lỗi.

 Giảng Lời Chúa

Buổi chiều hôm nay chúng ta hội họp nhau đây để cử hành Giờ của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu sống những giờ phút cuối cùng của Người ở trần gian nầy. Người sẽ làm cho chúng ta  những việc mà từ ngày sinh ra Người đã để dành cho đến hôm nay. Đây là những việc thâm thúy và quan trọng nhất trong cuộc đời trần gian của Người, mà theo ngôn ngữ thi ca của nhà thơ Trăng Thập tự trong bài thơ “Đáp Lễ”, đó chính là “giờ Đức Kitô đập bể bình dầu thơm cuộc đời Ngài để ướp thơm cho toàn thế giới :

Ta cũng mang theo đây chiếc lọ mỏng dòn
Nhốt sẵn chất thơm của ngàn muôn thế kỷ.
Ta sẽ đập vỡ mà không lo uổng phí
Vì ta cần xức dầu thơm ta lên khắp cả vũ hoàn.

 Người đến trần gian để mang tình yêu  của Chúa Cha đến cho loài người. Suốt đời, Chúa Giêsu đã tỏ nhiều thái độ, làm nhiều hành vi nói nhiều lời an ủi để bày tỏ tình thương của Người. Nhưng việc làm của chiều hôm nay như đóng ấn trên toàn bộ công việc của Người, là tột đỉnh của tình yêu thương của Người. Người tỏ ra hết tình hết nghĩa với loài người : “Đức Giêsu đã yêu thương những kẻ thuộc về Người còn ở trần gian nầy, Người đã yêu thương họ cho đến cùng.”  Chính vì hành vi “yêu thương cho đến cùng” nầy đã làm cho Thánh lễ hôm nay mang một sắc thái đặc biệt, Thánh lễ mẹ của mọi thánh lễ.

Qua những chỉ dẫn của Phụng vụ, nhất là các bài đọc Lời Chúa, chúng ta có thể nhận ra “hành vi yêu thương cho đến cùng” của Đức Kitô sẽ gồm 3 việc nầy : -Rửa chân cho các môn đệ và ban Điều răn mới.-Thiết lập BTTT -Trao ban tác vụ Linh mục.

 Rửa chân:   

Mặc dù Tin Mừng theo thánh Gioan mang sắc thái nổi bật là một Tin Mừng về Thánh Thể, nhưng vẫn không đưa ra một trình thuật minh nhiên nào về việc thành lập Bi Tích Thánh Thể. Nhiều học giả Kinh Thánh xem trình thuật về việc rửa chân trong bối cảnh của Bửa Tiệc Ly là một trình thuật tuyệt vời về Thánh Thể. Đó là chìa khoá không thể thiếu để nhận thức sâu xa cả về Thánh Thể lẫn thiên chức linh mục.     

Đang chủ sự bàn tiệc, Đức Giêsu đã làm cho môn đệ sửng sốt : Người đứng lên,cởi áo ngoài ra, thắt lưng lại, bưng chậu nước, rửa chân cho họ. Một việc kỳ dị, lạ lùng, khó hiểu. Người tự do, hàng con cái trong nhà, không bao giờ làm như vậy. Chỉ có người nô lệ – mà là nô lệ ngoại quốc-khi chủ truyền bảo làm,thì mới làm việc ấy. Nay Đức Giêsu là Thầy, là Chúa các môn đệ, đích thân làm việc nầy : «quì xuống, rửa chân».       

Gioan, người môn đệ được Chúa yêu mến và người bạn trung thành của Phê-rô, đã cho thấy rõ rằng Phê-rô phải khó khăn biết bao để cho phép mình đi vào trong trung tâm của mầu nhiệm Đức Kitô nơi hành vi rửa chân nầy : “Thầy mà lại rửa chân cho con sao ?”. Dĩ nhiên, nghi lễ này chẳng có ý nghĩa gì đối với bất cứ ai không thể đón nhận nó như luật nền tảng của đời sống Kitô hữu và nhất là của sứ vụ tông đồ nơi người linh mục : “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ không được đồng bàn với Thầy” (Ga 13,7-8). Phê-rô chỉ đầu hàng khi nhận được “tối hậu thư” đó, cho dù lúc đó có thể ông chưa nhận ra tầm mức đầy đủ ý nghĩa của lời Thầy Chí Thánh đối với mình, nhưng sau đó vài chục năm, khi bị đóng đinh ngược đầu trên đồi Vatican chắc chắn ông sẽ cảm nhận tất cả những lời Thầy đã nói hôm nay.

Chúng ta biết Chúa yêu thương loài người. Chúa muốn nhắc loài người lên đồng phận, chia xẻ sự sống và hạnh phúc đời đời với Chúa. Để hiện thực điều nầy, Ngài đã tự hạ và hạ mình xuống phận tôi đòi-nô lệ :

– «Ngài thắt lưng» : Một anh vi của người tôi tớ. Đấng cao cả siêu việt giờ đây đang quì dưới chân các môn đệ.

– «Đức Giêsu chổi dậy, cởi áo ra». Hành vi diễn tả một sự lột xác, xóa bỏ thân mình, để trở nên người tôi tớ, khom lưng làm công việc của một người nô lệ ngoại quốc – bởi vì một nô lệ Do Thái cũng không buột rửa chân cho chủ mình.       

Như vậy, hành vi rửa chân là biểu tượng của việc Ngài sắp hư vô bản thân mình trên Thập Giá. Hình ảnh Đức Giêsu bưng chậu nước, quì dưới chân các môn đệ là hình ảnh một Thiên Chúa cao sang nhưng «không nghĩ phải dành cho được địa vị ngang hàng cùng Thiên Chúa….song đã hũy mình ra không tức là lĩnh lấy phận tôi đòi.. » (Phi.2,5-7).

Linh mục thi sĩ Trăng Thập tự đã vẽ lại chân dung “tự hạ, khó nghèo đó qua những lời thơ :

kẻ trôi sông lạc chợ,
Kẻ sinh ra cuối phố đầu đường,
Ngày không nhà, đêm ngủ dưới sương,
Suốt đời chẳng một đồng xu dính túi,
Đến trần gian và ra đi trần trụi. (Bài thơ “Đáp Lễ”)

Chưa hết.Tình yêu của Chúa còn muốn chấp nhận cả những cái ít giá trị, nếu không muốn nói là xấu xa, hèn hạ nơi con người, mà biểu tượng là đôi chân đi đất. Chúa đến, Chúa rửa, Chúa lau. Điều đó nói lên rằng không những Chúa yêu mặt, yêu thân con người, mà Chúa còn yêu cả đôi chân của họ. Chúa yêu con người ngay trong cảnh khốn cùng của con người. «Ngài yêu thương họ đến cùng »  để họ-con người-được ngồi ngang hàng với Chúa, và được nghe lời âu yếm của Chúa: «Các con gọi Ta là Thầy là Chúa-thật đúng như vậy ».Nhưng từ nay các con là bạn hữu của Thầy. Thầy san sẻ cho các con hết những gì Thầy có. Thánh Phaolô đã viết : «Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, làm sao giàu có như Ngài, mà vì anh em, Ngài đã nên nghèo khó, ngõ hầu anh em được nên giàu có, nhờ sự nghèo khó của Ngài » (2Cor.8,9). Tình yêu nào mà chẳng mang đặc tính khó nghèo, khiêm hạ, và lệ thuộc.     

Sau cùng, có một ghĩa cử yêu thương thâm thúy khác trong “dấu chỉ Rửa Chân” mà chúng ta không thể bỏ qua :  Đức Giêsu đã không khai trừ Giuđa khỏi hồng ân của tình yêu phục vụ. Đành rằng Giuđa là một người dơ bẩn : «Không phải tất cả các con đều sạch cả đâu ». Có thể việc rửa chân không mang lại lợi ích nào cho cá nhân Giuđa. Nhưng dù vậy, việc nhắc đến Giuđa trong việc rửa chân của Chúa Giêsu, làm nổi bậc lên một ý nghĩa sâu xa, đó là Đức Chúa Giêsu hạ mình ngay cả trước kẻ phản bội Ngài. Cử chỉ đó cho thấy Đức Chúa Giêsu đã yêu cho đến cùng. Ngài yêu cả kẻ phản bội Ngài, kẻ đã chà đạp trên tình yêu –nghĩa sư phụ-tình bạn bè.Ngài không xua đuổi, Ngài không loại trừ. Ngài đã yêu thương họ cho đến cùng. Đến cùng của bản thân Chúa, không còn có thể làm gì hơn được nữa. Đến cùng của các môn đệ. Dù các ông có phản bội, Người vẫn yêu thương. Dù các ông có chối bỏ Người, Người vẫn yêu thương. Dù các ông có bỏ rơi Người, Người vẫn cứ yêu thương.   

Thánh Thể :   

Chắc chắn  chúng ta không thể suy niệm nhiều về mầu nhiệm Thánh Thể. Chính Hội Thánh cũng biết như thế, nên khuyên ta dành thời giờ chầu sau Thánh lễ hôm nay, để suy niệm thêm về ơn Thánh Thể mà Chúa thông ban cho chúng ta. Cũng thế,  sau các tuần lễ Phục Sinh, Hội Thánh sẽ cử hành Lễ Thánh Thể một cách long trọng đặc biệt để bù đắp cho sự thiếu sót nếu có trong thánh lễ tiệc Ly chiều hôm nay.     

Qua câu kết trong bài đọc II “mỗi lần ăn bánh và uống chén nầy, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.”, Phụng vụ chiều nay muốn cho chúng ta nhìn vào  mầu nhiệm Thánh Thể như lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chọn khung cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái để thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Hôm nay Chúa Giêsu cử hành lễ Vượt Qua thật sự khi chấp nhận từ bỏ đời nầy, từ bỏ mạng sống, từ bỏ thân thể hửu hình để vượt qua mọi biên giới trần gian mà vế cùng Chúa Cha. Bàn Tiệc Thánh Thể đượm màu Tiệc Ly. Ngài uống chén rựơu nho lần cuối cùng ở đời nầy để về trời trước, chờ đợi môn đệ mình đến sau. Chúa Giêsu biết rõ con đường Thánh Giá đang chờ đợi Người. Người cầm chén rượu, nhưng đã biến nó thành chén Máu người. Nên cuộc Vượt qua-Lễ Thánh Thể là một cuộc đau thương, một lễ Tử hình : “Máu đổ ra vì anh em”. «Nầy là Mình Thầy, bị nộp vì anh em ». Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh mai đây với cây Thập Giá đã hiện diện đầy đủ trong bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay. Chính hôm nay, Người chấp nhận ra đi chịu chết. Án tử hình của Người vào ngày mai chỉ diễn ra bên ngoài những gì đã xãy ra trong tâm hồn vào chiều hôm nay Thứ Năm. Thánh Thể vì vậy không chỉ là Bàn Tiệc Ly, nhưng đã là Lễ Tế trên Thánh Giá. Khi tuyên bố : «Đây là Chén của Giao Ước Mới – Giao Ước vinh cữu» Chúa Giêsu đã cho chúng ta nhìn thấy hệ quả của Thánh Thể : là đổi mới tất cả chúng ta trong một tương quan mới với Thiên Chúa. Chúng ta được trở thành một tạo vật mới trong lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu. Đó là tột đỉnh của lòng yêu thương Chúa Giêsu dành cho các môn đệ. Người cúi xuống rửa chân cho họ, đưa họ vào mầu nhiệm Thánh Thể hy sinh của Người : đặt họ trong tương quan thắm thiết mới giữa Thiên Chúa và loài Người.

Ôi, thì ta sẽ đem thịt máu mình ra khoản đãi !

Phải rồi, phải rồi, tại sao không ?

Ta sẽ trao chén máu tươi hồng
Và sự sống run trong từng thớ thịt.
Ai nếm thử, sẽ đời đời không chết,
Đúng hơn, nó sẽ sống đời đời. (Bài thơ “Đáp Lễ”)   

Trao ban tác vụ Linh mục   

-Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đếnThầy : Với những lời nầy Chúa Giêsu trao ban thừa tác vụ linh mục.      

Cha thánh Gioan Maria Vianey đã nói :  «Thánh Bênađô quả quyết rằng mọi sự đều được ban cho chúng ta qua Đức Maria”. Ta cũng có thể nói rằng mọi sự đều được ban cho ta qua linh mục : vâng, mọi hạnh phúc, mọi ân sủng, mọi hồng ân thiên quốc. Nếu không có bí tích truyền chức thánh, chúng ta sẽ không có Chúa (Giêsu trong BTTT). Ai đã đặt Người ở đó, trong nhà Tạm ? Linh mục. Ai đã đón nhận linh hồn các con bước vào cuộc sống ? Linh mục. Ai đã nuôi dưỡng nó (linhhồn) để nó có sức thực hiện cuộc lữ hành ? Linh mục. Ai đã chuẩn bị cho nó ra trước mặt Chúa khi rửa sạch nó lần cuối cùng trong Máu Chúa Kitô ? Linh mục, luôn luôn là linh mục. Và nều linh hồn ấy chết (trong tội trọng), ai sẽ phục sinh nó ? Ai sẽ trả lại cho nó sự yên hàn và bình an ? Vẫn là linh  mục. Các con không thể nhớ lại chỉ một ơn nào của Thiên Chúa mà các con không gặp thấy bên cạnh đó hình ảnh của linh mục».

Chiều hôm nay, anh chị em hãy cầu nguyện cho các linh mục trong Hội Thánh, cho ĐTC, cho các GM, để trở thành những mục tử theo như lòng Chúa mong muốn.     

Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau được từ bỏ con người cũ mà “nghi thức Rửa Chân” như là một lời mời gọi tha thiết, để tiến sang việc kết hợp mật thiết mới với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Thánh Thể. Chúng ta quyết tâm sống cuộc đời mới : yêu thương anh chị em trong phục vụ khiêm cung. Sống tự hạ và chết đi : từ đây trở thành qui luật của chúng ta :   

-Đây là điều răn mới của Thầt : là các con hãy yêu thương nhau.   

-Như Thầy đã rửa chân cho các con,các con cũng hãy rửa chân cho nhau.   

-Các con hãy nhận lấy mà ăn vì nấy là Mình Thầy.   

– Các con hãy nhận lấy mà uống. Đây là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước Vĩnh cữu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.   

Nội dung trên cũng chính là ý nghĩa để suy niệm và cầu nguyện trong mầu nhiệm thứ Tư của Mầu Nhiệm Mân Côi “Năm Sự Sáng” : Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể : Ta hãy xin cho đặng siêng tham dự Thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Người.Amen

PM.Tu và Jos. Hiền

————————————-

 

Thứ 5-30: THỨ NĂM TUẦN THÁNH

(Thánh Lễ Tiệc Ly)

Gn 13,1-15   

Anh chị em thân mến.

 

Chúng ta nhìn thấy, tất cả mọi ngôi nhà đều có những cánh cửa. Mọi người chỉ có thể vào nhà: Thứ 5-30

Chúng ta nhìn thấy, tất cả mọi ngôi nhà đều có những cánh cửa. Mọi người chỉ có thể vào nhà được khi cánh cửa đã mở. Nếu có một ai đó, nhất định không chịu bước qua ngưỡng cửa để vào nhà, chúng ta thử nghĩ xem người đó có thể vào được cách an toàn không? Hay là người đó phải đành đứng bên ngoài, vì không chịu bước qua con đường chính thức mà chủ nhà đã mở cho.

“Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy.” Chúa Giêsu đã nói mạnh với Phêrô khi ông không chịu để Thầy rửa chân cho mình. Theo cảm tính và những gì ông suy nghĩ, ông không chấp nhận được việc làm của Thầy. Ong cho như thế là không đúng, không phải, nên ông nhất định cự tuyệt, không để cho Thầy thực hiện điều mà ông cho là không đúng. Nhưng khi nghe câu nói của Thầy, ông cảm thấy như một lệnh truyền, măc dù ông không hiểu hết những gì Thầy nói, nhưng đành vâng phục theo như những gì Thầy dạy bảo.

Chính vì Phêrô đã chịu để cho thầy rửa chân, chính vì Phêrô đã biết vâng phục, nên ông đã được tẩy xóa khỏi những yếu hèn, những nóng nảy, cùng với sự bốc đồng, để ông được tha thứ mà quay trở về. Ong đã biết vâng phục, nên ông đã để cho Thầy rửa chân không phải một lần, nhưng nhiều lần trong đời. Cũng không phải tẩy rửa bàn chân thể chất, nhưng là bàn chân của cuộc sống, của con người thật sự mà Thiên Chúa mong muốn. Thầy Chí Thánh mong muốn ông có những bước chân thảnh thơi không vướn bận, những bước chân trong sạch đã được tẩy rửa.

Phêrô đã để cho Thầy rửa chân, nên ông đã có những bước chân trong sạch để bước theo Thầy. Ong đã đi con đường giống như Thầy. Ong đã bước những bước chân như Thầy đã bước. Nếu Phêrô cương quyết không chịu để cho Thầy rửa chân cho mình, thì thử hỏi cuộc đời ông sẽ ra sao?

Những môn đệ của ngày hôm nay, những Phêrô của thời đại mới, những con người sống trong thời đại văn minh, lại khó chấp nhận được những việc làm của Thầy Chí Thánh. Chúng ta cũng còn thái độ như phêrô thuở xưa, chúng ta cũng cương quyết vì thấy mình bất xứng. Đó là điều rất tốt, nhưng nếu tiếp tục nữa, bước thêm bước nữa. Chúng ta không biết vâng phục như Phêrô. Chúng ta đã quá khô cứng trong sự hiểu biết của mình. Chúng ta cũng quá tự phụ về quyết định của mình. Chúng ta lại quá tự hào về cách sống của mình. Chính vì thế mà chúng ta chưa học được bài học vâng phục trong những điều chúng ta cho là nghịch lý. Chúng ta cũng không nhìn thấy được những yếu đuối của mình, càng không nhìn thấy được những thiếu sót, những sai lỗi. Như thế làm sao chúng ta có thể để cho Chúa rửa chân cho chúng ta được sạch.

“Nếu thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với thầy.”

Chúa Giêsu cũng từng nói với mỗi người chúng ta như thế. Không phải một lần, nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống. Thế mà chúng ta vẫn cứ trốn chạy, chúng ta vẫn cứ cương quyết trong những gì mình muốn, chúng ta vẫn cự tuyệt không để cho mình được thanh tẩy.

Mỗi người trong chúng ta, nhìn lại chính mình. Có những lúc chúng ta ngỡ rằng mình khôn ngoan, suy tính kỷ lưởng, nhưng rồi ý kiến của mình không được chấp nhận, khi đó chúng ta khó chịu, chúng ta tìm cách bảo vệ những gì là của mình, có khi đi đến hành động quá khích. Khi đó chúng ta không còn biết lắng nghe, không biết nhìn lại để chấp nhận được những gì chúng ta cho là nghịch lý. Khi đó chúng ta không học được bài học vâng phục của Phêrô ngày xưa. Cũng vì thế chúng ta không chịu bước qua ngưỡng cửa mà Thiên Chúa mời gọi. Chúng ta thử nghĩ xem mình có được dự phần với Chúa với những cố chấp như thế không?

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh sống, để biết chấp nhận và vâng phục theo Thánh Ý của Ngài.

————————————-

 

Thứ 5-31: TẤM BÁNH BẺ RA – Thiên An

Vì chưng, chính tôi đã chịu lấy nơi Chúa điều tôi truyền lại cho anh em. Là: Chúa Giêsu: Thứ 5-31

“Vì chưng, chính tôi đã chịu lấy nơi Chúa điều tôi truyền lại cho anh em. Là: Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp, Ngài đã cầm lấy Bánh, và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra và nói: Này là Mình Ta, vì các ngươi, hãy làm sự này mà nhớ đến Ta. Cũng vậy về Chén, sau khi đã dùng bữa tối xong, Ngài nói: Chén này là Giao ước mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống, mà nhớ đến ta. Vì mỗi lần anh em ăn Bánh ấy và uống Chén ấy, anh em loan báo sự chết của Chúa, cho tới lúc Ngài đến. Cho nên kẻ ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, tất sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa”.

Trong bữa ăn tối trước ngày từ giã cõi trần để về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể (Cf. 1Cr 11,23b-25a) tự nguyện trở thành tấm bánh bẻ ra để làm lương thực nuôi sống nhân trần; và thiết lập chức linh mục thừa tác (Cf. 1 Cr 11,24b.25b), để tái diễn hy tế đẫm máu trên Núi Sọ, minh chứng tình yêu vô biên của Ngài đối với loài người, vì Ngài đã yêu thương con cái mình cho đến cùng (Cf. Ga 13,1).

Tấm bánh là chính thân mình Đức Giêsu đã phải trải qua nhiều giai đoạn: là hạt lúa miến tinh tuyền đã được gieo cấy trong trần gian, đã lớn lên trong ánh nắng mặt trời cũng như trong băng giá của làng Nazareth, đã vươn lên trên nhân loại tội lỗi tựa cây lúa xanh tươi vươn lên giữa đám cỏ lùng. Rồi đã bị gặt hái, bị nghiền nát, bị nướng trong lò, bị bẻ ra trong nhà Tiệc ly và trên Núi Sọ, và được trao cho mọi người.

Suốt cuộc đời của Chúa Giêsu Linh mục là một cuộc hiến tế không ngừng vì vinh quang của Chúa Cha và để mang ơn cứu độ cho loài người. Hy lễ đó bắt đầu từ giây phút nhập thể, từ tiếng “xin vâng” từ Trời của Ngôi Lời: “Này con đến, để thi hành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa” (Dt 10,7), đạt cao điểm tại Bữa Tối Sau Hết và tột điểm là Núi Sọ.

Linh mục, hiện thân của Chúa Giêsu Linh mục giữa lòng đời, được mời gọi trở thành họa ảnh của Người một cách trung thực. Vì linh mục của mọi thời vẫn là và phải là linh mục sống với, sống trong và sống theo gương Chúa Giêsu Linh Mục Thượng Phẩm.

Trong mỗi giây phút, linh mục là người phục vụ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Bàn tiệc ấy phải gồm những món ăn mà Chúa Cha muốn ban tặng cho con cái Ngài, là lương thực bổ dưỡng và giúp tăng trưởng trong ân sủng, trong tình yêu, chứ không phải những gì “hợp khẩu” với linh mục.

Như Chúa Giêsu Linh mục đã nêu gương trong suốt cuộc sống thế trần, đặc biệt trong bữa tiệc ly, linh mục được mời gọi trở nên tấm bánh bẻ ra cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào. Tấm bánh ấy phải có chất bổ dưỡng, chất sống, kín múc từ Lời Hằng Sống, từ cuộc sống kết hiệp thâm sâu với Chúa, từ những cố gắng thánh hóa trong công tác mục vụ và trong cuộc sống đời thường. Càng dám hy sinh thời giờ, tâm trí, sức lực của mình cho nhiệm thể Chúa Kitô, tấm bánh cuộc đời linh mục càng trở nên ngon miệng và bổ dưỡng cho thực khách cũng như lữ khách trên hành trình Đức Tin. Đời linh mục là một của lễ toàn thiêu dâng lên Cha, đồng thời trao ban chính bản thân mình cho tha nhân, như Cha Thánh Maximilien Kolbe đã dám hiến dâng chính mạng sống mình để cho người anh em được sống trong trại tù Auschwitz: “Tôi là linh mục Công Giáo, không vợ không con, tôi xin chết thay cho người này”, như cha Olivier đã từng cảm nghiệm: “Linh mục là một con người bị người khác ăn”, như Thánh Ignatio đã ao ước “Chớ gì răng thú dữ nghiền nát tôi để trở thành tấm bánh miến tinh tuyền dâng tiến Chúa”.

Để có thể “yêu thương đến cùng” và ở lại với các môn đệ cho đến tận thế, Chúa Giêsu Linh mục đã thiết lập Bí tích Thánh Thể, Bí tích của sự hiện diện yêu thương. Linh mục cũng được mời gọi trở nên dấu chỉ của một sự hiện diện yêu thương đối với đoàn chiên của mình, nhất là đối với các con chiên lạc. Linh mục càng yêu thương một cách trong sáng và dám cho đi tất cả vì Chúa, thì sự hiện diện của Chúa Giêsu càng rõ nét. Như thế, những ai tiếp xúc với linh mục càng dễ gặp gỡ Chúa Giêsu sống trong linh mục, và linh mục trở nên nhịp cầu gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, như lời tuyên thệ của người nông dân xứ Ars trong vụ án phong Thánh cho Cha Thánh Gioan Maria Vianey: “Tôi đã thấy Chúa Giêsu hiện diện trong Cha xứ của tôi”

Mọi Kitô hữu đều được tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Giêsu, khi sống trọn vẹn chức tư tế cộng đồng đã lãnh nhận cùng với bí tích Thánh Tẩy. Cuộc đời của người Kitô hữu cũng trở thành tấm bánh bẻ ra cho anh chị em, qua việc quan tâm chia sẻ của cải, tình yêu thương và những hoa trái thiêng liêng cho những người trong gia đình, nơi làm việc và những đối tượng phục vụ. Mỗi Kitô hữu sẽ là của lễ đẹp lòng Chúa Cha như Chúa Giêsu Linh mục, khi quảng đại hiến dâng ý riêng mình để “ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Trong Năm Thánh 2000, mỗi ngày, nhất là khi cử hành Thánh lễ, các linh mục và mọi Kitô hữu được mời gọi yêu thương nhau, tha thứ cho nhau và trở thành hy lễ yêu thương, như hy lễ của Chúa Giêsu Linh mục được tái diễn hằng ngày trên bàn thờ, để cứu độ thế giới, và như hy lễ vẹn toàn của Mẹ Maria dưới chân Thập Giá.

Lạy Chúa Giêsu Linh mục, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được thông phần vào chức vụ tư tế của Chúa. Xin giúp các linh mục và mỗi người trong chúng con biết noi gương Chúa, tự nguyện trở thành tấm bánh bẻ ra cho anh chị em chúng con được sống và sống dồi dào.

Thiên An

————————————-

 

Thứ 5-32: THÁNH THÊ LIÊN TỤC – Lm. Bart. Huỳnh San

Thánh Gioan cho chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Ngài : Thứ 5-32

Thánh Gioan cho chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Ngài vào thế gian không phải để lến án mà để cứu độ. Với tình yêu nhẫn nhục ấy. Đức Giêsu đã hứa với chúng ta ‘’ thầy sẽ ở với anh chị em cho đến tận thế’’ (Mt 28:20)

Cách đây 2000 năm, Chúa Giêsu hiện diện giữa thế gian trong nhục thể bởi Đức Trinh Nữ Maria, đã chịu chết sống lại và lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha để cầu bàu cho chúng ta. Nhưng trong suốt hai ngàn năm, và bây giờ trong Thần Khí Ngài cũng hiện diện với chúng ta cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang trong nhiều hình thức khác nhau và mỗi hình thức có những phẫm chất đặc trưng của nó. Chúa Giêsu hiện diện trong lời Chúa khi Thánh Kinh được công bố, được đọc và suy niệm. Chúa Giêsu hiện diện trong những linh hồn đang ờ trong tình trạng ơn thánh và đặc biệt trong những nguời nghèo khó, Chúa Giêsu hiện diện giữa hai ba người tụ họp lại nhân danh Chúa. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đem lại cho chúng ta niềm vui và bình an bên trong vẫn theo ta khắp mọi nơi; nhưng Chúa Giêsu cũng hiện diện trong Thánh Thể ở một nơi nhất định, từ một sự hiện diện bất động, không theo ta, nhưng chờ đợi ta, tiếp đón ta, nâng đỡ ta và đưa ta về với công việc bận rộn hàng ngày với một tâm hồn can đảm hơn, thanh thản hơn.

Trước khi nói về sự quan trọng của sự hiện diện Thánh Thể, chúng ta cần phải nhận thức một cách rò ràng sự hiện diện Thánh Thể không thể tách rời khỏi hy tế được. Rất có thể đã xảy ra trong một số cách biểu lộ hoặc giải thích qúa đáng, đã khiến một số người có cảm tưởng việc thờ phượng sự hiện diện Thánh Thể là một việc xa lạ với việc thờ phượng trong thánh lễ, và chẳng có gì liên hệ với hy tế bàn thờ cả. và như thế, việc thờ lạy, chầu hay viếng Thánh Thể có vẻ như che lấp mất hoặc quá coi nhẹ việc dâng hiến là điều quan trọng của Thánh lễ và có vẻ như là chạy đua với việc dâng lễ và rước lễ. Chính vì lý do đó mà đã có những lời chỉ trích cũng như những thái độ dững dưng nếu không nói là bất kính trước sự hiện Thánh Thể như lâu nay nhiều người đã phạm phải.

Nhờ thừa tác vụ của linh mục, việc Chúa Giêsu hiến tế thập giá được hiện tại hóa, việc truyền phép là một việc duy nhất và không chia ra được, nó vừa hoàn tất hy tế vừa ban sự hiện diện. Sự hiện diện Thánh Thể kéo dài như là hoa quả do sự hoàn tất việc dâng lễ vật hy sinh. Sự hiện diện Thánh Thể kéo dài vô hạn ở trên trời của ĐẤng Cứu Thế, tiếp sau hy tế thập giá và làm cho hy tế ấy được hoàn thành vĩnh viễn. Trong nhà Tạm, Đức Giêsu không còn dâng hy lễ cách bí tích như Ngài đã dâng trong Thánh lễ nữa, nhưng sau hành vi dâng lễ vật, Ngài ờ lại trong trạng thái lễ vật, hiện diện như một lễ vật hy sinh để gặt hái cho loài người những ơn lành của Thiên Chúa. Như thế, sự hiện Thánh Thể trong nhà Tạm là chung cuộc của Thánh lễ, một thành quả của việc cử hành phụng vụ làm cho hiệu năng của việc cử hành ấy kéo dài mãi. Do đó, không những sự hiện diện Thánh Thể không gây trở ngại cho Thánh lễ và đứng vào thế cạnh tranh với Thánh lễ, mà giúp cho thánh lễ quang tỏa ra mọi lúc một cách liên tục. Qua Thánh lễ, chúng ta tôn vinh Chúa Cha, qua việc chầu Thánh Thể chúng ta tôn vinh Chúa Con. Tinh thần của bí tích Thánh Thể là hướng thẳng về vinh quang Chúa Cha nhờ Thánh lễ, hướng thẳng về vinh quang Chúa Con nhờ việc thờ lạy Thánh thể và hướng thẳng về vinh quang Chúa Thánh Thần qua việc sống Thánh thể là việc phân phát tình yêu mà Thiên Chúa ban tặng cho tất cả những ai chúng ta gặp gỡ và đưa tình yêu đó hòa nhập với đời sống hằng ngày của chúng ta.

Người Kitô-hữu đích thực là người xác tín rằng hôm nay Chúa Giêsu vẫn sống vẫn hiện diện trong thánh Thể, đang ở đó và mời gọi chúng ta đến với Ngài. Đây là việc thể hiện niềm tin của chúng ta trong hành động. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài ở lại với chúng ta đêm ngày trong Bí Tích thánh Thể. Đến chầu Thánh Thể, viếng Thánh Thể, Sống với Thánh Thể là cách chúng ta đáp trả tình yêu của Ngài, là cách chúng ta tuyên xưng đức tin rằng Chúa Giêsu đang ngự nơi đây, được chúng ta nghênh đón, được yêu mến, được chúng ta thờ lạy trong mọi lúc.

Ngày thứ Sáu Tuần Thánh là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả khi thiết lập Bí Tích Thánh thể trong đêm Thứ Năm Tuần Thánh. Chúa Giêsu trong Thánh Thể là Chiên Con đã bị giết, xứng đáng được chúng ta thờ lạy liên lỉ không ngừng, vì tất cả những gì Ngài đã làm để cứu độ chúng ta.

Đức Thánh Cha Phaolô VI tuyên bố: ‘’Chúa Giêsu được cất giữ trong nhà Tạm để làm trung gian đời sống tinh thần của cộng đoàn, của Hội Thánh toàn cầu cũng như của cả nhân loại’’. Ngài cũng bày tỏ: ‘’Bí tích Thánh Thể là trái tim sống động của mỗi nhà thờ cộng đoàn, và bổn phận rất êm ái của chúng ta là tôn vinh và thờ lạy Ngôi Lời Nhập Thễ không ai thấy được trong hình bánh mà ai cũng có thể thấy nơi Bí Tích Thánh Thể. Vì thế, chầu Thánh Thể liên tục là ý thức đặt Chúa Kitô trên hết, là tìm kiếm nước Thiên Chúa và đường Thánh Thiện của Ngài trước tiên. Không thể có sự canh tân Hội Thánh nếu không làm mới lại lòng nhiệt tình yêu mến Thánh Thể’’.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã hô hào:’’…Mỗi phần tử của Giáo Hội đặc biệt các giám mục và linh mục; phải liệu sao cho Bí Tích tình yêu này trở thành trọng tâm của đời sống Dân Chúa, để qua tất cả các cử chỉ tôn sùng Bí Tích ấy, Chúa Kitô nhận được ‘’tình yêu đáp trả tình yêu’’.

Lm. Bart. Huỳnh San

————————————-

 

Thứ 5-33: THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Trong bầu khí linh thiêng trang trọng của buổi chiều hôm nay, Hội Thánh tưởng niệm hai hành: Thứ 5-33

Trong bầu khí linh thiêng trang trọng của buổi chiều hôm nay, Hội Thánh tưởng niệm hai hành vi cao cả Đức Giêsu đã làm trước khi đi chịu chết: (1) Rửa chân cho các môn đệ; (2) Bữa Tiệc Thánh Thể đầu tiên.

Hôm nay Đức Giêsu đi vào giờ của Người, giờ định mệnh, với tất cả ý thức sáng suốt và quả cảm. Người biết Người sẽ chết, nhưng là một cái chết tự nguyện để tuân hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, và là một cái chết vô tội để cứu chuộc toàn thể loài người. Hai hành vi Đức Giêsu làm (rửa chân; lập Bí Tích Thánh Thể) đều nói lên ý tưởng đó. Nhưng cả hai hành vi ấy đều phát đều được thực hiện “chỉ vì yêu”. Đây là tình thương vô bờ bến của Đức Giêsu đối với nhân loại, đối với các môn đệ, đối với từng con người. Đúng y như câu mở đầu của bài Tin Mừng cho thấy: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1) và lời tuyên bố của Đức Giêsu sau đó: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
 
1. Rửa chân

Trong bầu khí linh thiêng và yêu thương của Bữa tiệc Vượt Qua, Đức Giêsu đã đi rửa chân cho các môn đệ. Đây là hành vi mà ngay người nô lệ Do-thái cũng không phải làm cho ông chủ Do-thái. Chỉ nô lệ ngoại quốc mới phải rửa chân cho một người chủ Do-thái. Các môn đệ không phải là chủ, Đức Giêsu lại không phải là nô lệ ngoại quốc! Ông Phêrô đã thay mặt anh em nêu thắc mắc. Đức Giêsu đã trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13,7). Khi “cởi áo ra” để chuẩn bị rửa chân là Đức Giêsu sống trước cái chết của mình, như người mục tử “bỏ mạng” vì đàn chiên. Khi Người “mắc áo lại” là Người sống trước cuộc Phục Sinh của Người, như Người đã nói: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,18).

Chiều hôm nay, Đức Giêsu ra tay cứu thế; lễ Vượt Qua sắp bắt đầu. Người cần phải thanh tẩy các môn đệ. Không ai tự thanh tẩy mình được. Đức Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, nghĩa là báo trước cái chết và sự sống lại của Người, để mọi việc ăn năn của chúng ta luôn nhận được ơn tha thứ.

Nhưng hành vi này cũng là một hành vi diễn tả tình bác ái huynh đệ. Đức Giêsu đã làm như thế là để cho các môn đệ một tấm gương về cách sống trong Họi Thánh. Chính vì thế hôm nay Họi Thánh muốn người đứng đầu cộng đoàn tự mình thực hiện nghi lễ rửa chân. Xin anh chị em cầu nguyện cho các linh mục, các chủ chăn, những người lãnh đạo cộng đoàn trở thành những người phục vụ chân chính. Xin anh chị em cũng tha thứ cho các vị vì bao lần không có tâm tình và thái độ phục vụ cho đủ: làm linh mục là một ơn nhưng-không Chúa ban để làm người phục vụ, nhưng người ta cũng có thể coi đó là một đặc quyền để khẳng định vị trí trên trốc, mà đòi hỏi được phục vụ. Xin anh chị em cùng chia sẻ trách nhiệm xây dựng cộng đoàn giáo xứ hay các cộng đoàn tu trì thành gia đình hiệp nhất yêu thương, với người lãnh đạo anh chị em, nhờ cùng phục vụ khiêm tốn.

2. Lập Bí Tích Thánh Thể

Đức Giêsu đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong khuôn khổ lễ Vượt Qua, Tiệc Giao Ước. Đây là nghi lễ tưởng niệm nhắc Thiên Chúa nhớ lại lòng Người thương xót để tiếp tục cứu độ. Đây cũng là nghi lễ tưởng niệm nhắc dân nhớ lại các hồng ân đã nhận để cảm tạ, ngợi khen Thiên Chúa và tuân giữ mọi điều lệ của Giao ước cho trung thành. Đây cũng là nghi lễ hiện tại hóa Giao ước tình yêu Thiên Chúa đã ký kết với Dân Người.

Trong bí tích này, khi Đức Giêsu nâng tấm bánh và chén rượi lên mà nói: “Đây là Mình Thầy … Đây là Máu Thầy”, Người thật sự ban Thịt và Máu Người cho chúng ta. Nhưng trong ngôn ngữ Do-thái của Đức Giêsu và của thánh Phaolô thời ấy, “thân thể/mình” không chỉ là một phần của con người, cùng với linh hồn và trí tuệ. “Thần thể/mình” là trọn vẹn cuộc đời của Đức Giêsu với mọi yếu tố vui buồn sướng khổ, thành công thất bại, còn “máu” là một biến cố, là cái chết. Đức Giêsu đã dùng Bí Tích Thánh Thể để làm cho các môn đệ được kết hợp với Người và kết hợp với nhau, Người đã dùng Bí Tích Thánh Thể để làm nên Họi Thánh như thế đó. Thánh Phaolô đã hiểu điều đó khi viết: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,16-17). Tuy nhiên, khi Đức Giêsu bảo các môn đệ “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, là Người muốn các môn đệ, là hình ảnh Họi Thánh, hãy làm ra Bí Tích Thánh Thể liên tục để Đức Giêsu lại tái hiện, giúp mọi người cùng chết để cùng sống lại và về với Chúa Cha. Lý do là vì đã cùng hiệp thông với Đức Giêsu trong lời truyền phép: “Đây là Mình Thầy”, chúng ta cũng phải hiến dâng cuộc sống vì anh chị em, đã hiệp thông với Đức Giêsu mà nói: “Đây là Máu Thầy”, chúng ta cũng phải hiến dâng cả cái chết vì anh chị em mình. Qua hành vi hiến dâng cuộc sống và cái chết ấy, tự nguyện, trong sự hiệp thông với Đức Giêsu, chính Người tháo gỡ ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và cho ta đi vào cuộc sống mới. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhất định chọn đi theo con đường riêng của chúng ta, Đức Giêsu chẳng thể làm gì để ngăn cản chúng ta, như Người đã không ngăn cản Giuđa khi ông rời phòng tiệc để đi vào trong đêm tối (Ga 13,30), “đêm tối” vì không còn hiệp thông với Đức Giêsu là ánh sáng cho trần gian, “đêm tối” vì không còn hiệp thông với anh chị em.

Giờ đây chúng ta sắp cử hành tất cả những công việc trọng đại ấy. Xin Đức Giêsu giúp chúng ta từ bỏ con người cũ trong nghi thức rửa chân này, để tiến sang kết hợp mật thiết hơn với Người trong mầu nhiệmThánh Thể, hầu sau đó, ta sống cuộc đời mới trong tình yêu thương huynh đệ, trong nỗ lực phục vụ khiêm tốn mỗi ngày.

FX Vũ Phan Long, OFM

————————————-

 

Thứ 5-34: GIỚI RĂN YÊU MỚI CỦA ĐỨC GIÊSU

Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH

 

Khi Giuđa đã ra khỏi bàn tiệc để nộp Thầy cho kẻ ác (x Ga 13,30), chỉ còn 11 môn đệ ở lại, Đức: Thứ 5-34

Khi Giuđa đã ra khỏi bàn tiệc để nộp Thầy cho kẻ ác (x Ga 13,30), chỉ còn 11 môn đệ ở lại, Đức Giêsu mới lên tiếng dạy các ông: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em phải yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13,3 ; Tung Hô Tin Mừng).

Giới Răn Yêu Mới này Đức Giêsu ban trong lúc Ngài thiết lập Bí tích Truyền Chức và Bí tích Thánh Thể (Hy Tế Mới). Đây là Giới Răn nhằm diễn tả những điều mới trong chức Linh mục Đức Giêsu thiết lập.

Những việc làm diễn tả tình yêu mới mà Đức Giêsu dạy phải được thể hiện khi phục vụ đồng loại trong chức linh mục Chúa Giêsu thiết lập, khác với chức tư tế thời Cựu Ước:

1/ Chức tư tế thời Cựu Ước trong dân Do Thái chỉ dành riêng cho dòng họ Lêvi (x. Xh 4,14; Ds 3,16).

Trái lại khi Con Thiên Chúa làm người, Ngài thuộc dòng Giuđa, con Vua Đavid, Ngài nhận lấy chức Tư Tế, để làm trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x. 1Tm 2,5-6), và Ngài thông ban chức này cho tất cả những ai thuộc về Ngài khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy.

2/ Tư tế thời Cựu Ước là  người được chọn như Aharon trong dòng Lêvi, tư tế này không phải chết vì sứ vụ, dù ông giữ chức phát ngôn viên của ông Môsê (x Xh 4,14-17), nơi dân Israel (x. Xh 4,27-31).

Trái lại, chức Tư Tế của Đức Giê-su thiết lập nhằm thông chia ơn cứu độ cho muôn dân và phải chết vì sứ mệnh này.

3/ Của lễ người Do Thái dâng là con chiên bị sát tế (x. Xh 12,43).

Trái lại, của lễ Đức Giê-su dâng chính là Ngài tự hiến tế. (x. Dt 10,6-10)

4/ Lễ tế của người Do Thái chỉ là tỏ lòng biết ơn Chúa về biến cố Ngài dạy dân trong đêm Vượt Qua giết chiên ăn thịt, lấy máu bôi lên cửa. Khi thần Chúa đến Ai Cập, nhà nào không có máu chiên bôi lên cửa, thì các con đầu lòng của người cũng như loài vật bị giết. Như vậy, lễ vượt qua của người Do Thái chỉ nhằm giải thoát dân khỏi ách nô lệ Ai Cập về phần xác (x. Xh 12,1-8.11-14 : Bài đọc I).

Thua xa lễ Vượt Qua của Đức Giê-su nhằm giải phóng muôn dân vượt qua tội lỗi, thoát tay tử thần, trở nên Con Thiên Chúa để được sống hạnh phúc và vinh hiển trong Chúa Giê-su Phục Sinh.(x. Ga 8,36; 10,10; Gl 2,20). Vì thế Thánh Tông Đồ nhắc lại mệnh lệnh Đức Giêsu truyền cho Hội Thánh trong lúc Ngài lập Bí Tích Thánh Thể: “Chúng con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x. 1Cr.11,23-26: Bài đọc II). Bởi vì: “ Khi nâng chén chúc tụng, ta được dự phần vào máu Đức Kitô (x. 1Cr.10,16: Đáp ca)

5/ Lễ vật dâng trong lễ tế Do Thái giáo, cuối cùng dành riêng cho hàng tư tế được no bụng (x. Lv 24,9; Gr.31,14).

Trái lại, lễ vật trong Hy Tế Mới của Đức Giêsu ban cho tất cả những ai đã thuộc về Ngài khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy, để được trở nên cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt với Chúa Giêsu. Vì thế, Ngài không hổ thẹn gọi họ là anh em của mình (Dt 2,11-14) .

6/ Ý nghĩa máu con vật đổ ra trong lễ tế của Do Thái giáo chỉ là hình bóng thanh tẩy tội lỗi của dân, chứ thực ra máu con vật bị sát tế không thể tẩy xóa được tội lỗi ai (x. Dt 10,4).

Thua xa Máu của Chúa Ki-tô đổ ra thanh tẩy tội lỗi những người có lòng sám hối, xin lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy; hoặc bí tích giao hòa hoặc bí tích xức dầu, nhất là Bí tích Thánh Thể và còn được lãnh nhận di chúc hưởng gia nghiệp Nước Trời (Dt 9,16 & x. Giáo Lý Roma số 1414 và 1416).

Bởi vậy chỉ khi tham dự Hy Tế là lễ vượt qua của Chúa Giê-su, ta mới được hân hoan cất lời kinh : “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho. Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu Thánh Danh Đức Chúa” (Tv 116/115, 12-13).

7/ Lễ tế trong Do Thái giáo: tư tế, lễ vật và bàn thờ hoàn toàn khác nhau

Trái lại hy tế của Đức Giêsu: vị tư tế, lễ vật và bàn thờ là một (x. Giáo Lý Rôma 1383 & 1410).

Cho nên, tác giả thư Do Thái viết: “Trong khi nói “mới” thì Người đã cho Giao Ước thứ nhất là cũ, mà cũ, hủ, thì đã gần tàn” (Dt 8,13). Bởi vì vị tư tế thời Tân Ước là phải cho người khác ăn kể cả lúc mình còn túng thiếu (x. Mt 14,16). Cũng chính vì vậy mà cha Sơ-vi-ê nói: “Linh mục là tấm bánh cho người khác ăn”. Có nghĩa là phục vụ giống Thầy Giêsu, Ngài chết vì sứ mệnh rao giảng để trở thành Tấm Bánh Hằng Sống nuôi dân Ngài.

Vậy giới răn yêu của Chúa Giêsu dạy vừa biết nhận vừa biết cho. Vì khi Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ, đến lượt ông Phê-rô, ông hoảng hốt la lên: “Không đời nào Thầy rửa chân cho con”, Đức Giê-su đáp lại: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con không có phần nào với Thầy” (Ga 13,8: Tin Mừng). Nói cách khác, ở đâu có tình yêu, ở đó có quà tặng. quà tặng là dấu tình yêu chuyển lưu từ người này đến người khác.

Có một bà mẹ khi dự tiệc, người ta đưa cho bà trái cam để ăn tráng miệng, nhưng vì nghĩ đến đứa con ở nhà, nên bà bỏ trái cam vào túi.

Đứa con thấy mẹ về nên hớn hở chạy ra đón, bà liền trao trái cam cho con. Em bé mừng quýnh cám ơn mẹ, rồi định lấy dao bổ cam ra ăn cho đỡ thèm! Nhưng em chợt nghĩ đến bố đang đạp xích lô nắng nôi thiêu cháy ngoài đường, em thương bố nên cất trái cam đợi bố về để tặng bố.

Khi ông bố vừa về đến nhà, em bé cầm trái cam chạy đến nói:

– Thưa bố, chắc bố mệt lắm, con có trái cam biếu bố ăn cho đỡ mệt nè, để con phụ đem xích lô vào nhà cho.

Ông bố vô cùng cảm động trước cử chỉ của con, ông cám ơn con và định không nhận, nhưng em cứ nằng nặc đòi bố phải lấy ăn cho đỡ mệt!

Cầm trái cam vào nhà, ông định lấy dao bổ ra cho hai cha con ăn. Nhưng ông chợt nghĩ: con mình còn bé mà còn biết cách làm cho cha mẹ vui, sao mình không biết nghĩ đến vợ đang vất vả trong bếp? Vì ở đâu có tình yêu ở đấy có quà tặng! Thế là ông chồng cầm ngay trái cam vào bếp tươi cười chào vợ và nói :

– Anh đi làm về, không có gì để tặng em, chỉ có trái cam này, em dùng cho đỡ mệt.

Như thế cả gia đình vợ chồng con cái đã biết sống lời thánh Gio-an nói: “Đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng yêu bằng việc làm thực sự!” (1 Ga 3,18). chỉ riêng Thiên Chúa cho chúng ta biết bao món quà quý giá, mà Ngài không nhận lại điều gì, vì sự giàu sang vinh quang của Ngài không bao giờ vơi cạn. Loài người không ai có thể cho người khác điều gì tốt nếu không biết nhận từ nơi Thiên Chúa. những ân lộc Chúa ban cho, không chỉ để ta hưởng dùng, mà còn để chia sẻ diễn tả tình yêu chân thật của ta, đó là cách tạ ơn Chúa, vì thế trong kinh Tiền Tụng Tạ Ơn, Hội Thánh cất lời chúc tụng: “Việc tạ ơn của chúng con không thêm gì cho Chúa nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng con”.

Rõ ràng vị Tư Tế thời Tân Ước phục vụ lật ngược bảng giá trị chức vị người đời hành quyền. Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ : “Chúng con không được giống như các vua chúa trần gian bắt người khác phục vụ mình. Trái lại, trong chúng con ai muốn làm thủ lãnh thì phải làm tôi tớ mọi người, cũng như Con Người không đến để được người ta hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Mt 20,25-28). Trong bữa tiệc Vượt Qua, Đức Giêsu đã làm cử chỉ gây kinh ngạc cho các môn đệ: Ngài là Thầy, là Chúa rửa chân cho trò, là phàm nhân, Ngài nói: “Thầy đã rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau, như Thầy đã nêu gương cho anh em, ngõ hầu Thầy đã làm cho anh em thế nào, anh em cũng làm như vậy” (Ga 13,14-15).Việc rửa chân cho đồng loại chỉ làm cho họ được thanh tẩy sạch mọi tội lỗi khi  làm tròn sứ mệnh cầu nguyện và giảng Lời:

* Sứ mệnh cầu nguyện:

Giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Phụng Vụ số 84 và 86 dạy: “Kinh Nhật Tụng được lập ra để thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa. Các Linh mục dù đang miệt mài với công việc mục vụ thánh, càng cần sốt sắng chu toàn các giờ ngợi khen, nếu càng ý thức sống động hơn rằng: Mình phải tuân giữ lời căn dặn của Chúa Giêsu mà thánh Phaolô nhắc lại: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (Lc 18,1 = 1Tx 5,17). Vì chưng chỉ một mình Chúa mới có thể ban hiệu quả và sự tiến triển cho công việc họ làm, bởi Chúa đã phán: “Không có Ta các con không thể làm được việc gì” (Ga 15,5). Vì thế khi thiết lập hàng Phó Tế, các Tông Đồ đã nói : “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên tâm đến việc cầu nguyện và giảng dạy” (Cv 6,4)”.

* Sứ mệnh Giảng Dạy:

Trong Sắc Lệnh Nhiệm Vụ Mục Vụ của Các Giám Mục, Hội Thánh cũng dạy: “Nhiệm vụ chính của Giám mục, của Linh mục là rao giảng toàn thể Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô” (x. số 11,12,15,22,30). Chính vì vậy mà Đức Giêsu vốn dĩ là Đấng toàn năng, nhưng đứng trước nhu cầu thân xác mọi người đang mong đợi Ngài thương giúp, thì Ngài lại lẩn trốn họ đi cầu nguyện và giảng Lời (x. Mc 1,21-39).

Có lần các Tông Đồ mất ý thức sống theo mẫu gương phục vụ của Đức Giê-su, nên xao nhãng việc cầu nguyện và giảng Lời, vì để hết thời giờ vào việc phục vụ nhu cầu thân xác của đồng loại. Kết quả đã gây xáo trộn trong cộng đoàn! Nhưng nhờ các Tông Đồ sớm tỉnh ngộ, trao công việc ấy cho các Phó tế, còn các ông trở về bổn phận chính là cầu nguyện và giảng Lời, từ bấy giờ cộng đoàn được bình an và phát triển (x. Cv 6,1-7).

Cũng chính vì vậy mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Một nỗi nguy hiểm thường xảy ra nơi các giáo sĩ, là họ quá hăng say trong những công việc của Chúa, mà quên mất Chúa là Chủ công việc.”

Làm Tư Tế trong Đức Giêsu, khi phục vụ đồng loại không được chọn đối tượng, mà tất cả mọi người dù bạn hay thù, đều là những đối tượng ta phục vụ cách đồng đều theo khả năng của mình có, để nên giống Cha trên trời “đã làm mưa, làm nắng trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (x. Mt 5,45). Bởi thế, khi Đức Giê-su thiết lập chức Linh mục, Ngài đã tự trở nên như kẻ nô lệ : Trong bữa tiệc Ngài tự thắt lưng và rửa chân cho tất cả các môn đệ, không trừ Giu-đa, kẻ phản bội Ngài (x. Ga 13,2-11: Tin Mừng).

Các Linh mục phải bắt chước Chúa Giêsu, Ngài phục như một nô lệ rửa chân cho các môn đệ, không phải chỉ là tỏ dấu hạ mình phục vụ người khác, mà nhất là trở thành dấu chỉ các ngài đã được Chúa Giêsu thánh hóa. Tình yêu này các Linh mục phải thể hiện bằng việc đến với người anh em đang sống trong lầm lạc, để dìu họ về với Chúa Giêsu hầu cũng được thanh tẩy (x. Ga 13, 4-5).

Vậy những điểm giáo lý nói về chức Linh Mục Chúa Giêsu thiết lập chỉ có thể đạt được, khi một Tiến chức thực hành Giới Răn Yêu mới mà Chúa Giêsu đã sống làm gương và trao ban, như Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13,34: Tung Hô Tin Mừng).

————————————-

 

Thứ 5-35: Yêu thương đến cùng

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

 

Gioan khảng định: giờ đức Giê-su ra đi chịu chết chính là giờ của Con Người. Và đó là lúc ngài: Thứ 5-35

Gioan khảng định: giờ đức Giê-su ra đi chịu chết chính là giờ của Con Người. Và đó là lúc ngài thực hiện tình yêu tới tột cùng của Ngài: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. Tình yêu đó không loại trừ bất cứ ai, kể cả Giu-đa, con ông Simon It-ca-ri-ốt, kẻ đang rắp tâm nộp Ngài. Nhưng vấn đề chính ở đây lại là liệu người ta có sẵn lòng đón nhận tình yêu đó hay không. Một ấn đề về mặt lý thuyết xem ra thật đơn giản, nhưng trong thực tế lại không dễ dàng được chấp nhận.

Và câu chuyện minh họa được Phúc âm ghị lại: đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi chịu chết.

Ở đây, vai diễn của Phê-rô có phần nổi bật, Có thể phản ứng là hoàn toàn của riêng ông; nhưng ông cũng biểu lộ thái độ chung của các môn đệ khác nữa: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao?… Không đời nào con chịu đâu”. Phản ứng của ông là hoàn toàn hợp lý: làm sao người môn đệ có thể để thầy cúi xuống rửa chân cho mình? Nếu đức Giê-su không ép “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”, có lẽ Phê-rô sẽ không bao giờ chịu chấp nhận đâu.

Thế đấy! Tin và chấp nhận một Thiên Chúa khiêm hạ tới độ hủy mình ra không không, chỉ vì yêu thương mình, một con người tội lỗi thấp hèn, là không dễ chút nào. Tôi dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa uy nghiêm đòi hỏi, một Thiên Chúa phán truyền, một Thiên Chúa thưởng phạt công thẳng, nói chung… một Thiên Chúa bề trên. Nhưng tôi lại thấy thật khó chấp nhận một Thiên Chúa đặt mình dưới cả tôi, trở nên thấp hèn hơn cả tôi, và sẵn sàng bị tước đoạt tất cả… một Thiên Chúa bề dưới… chỉ vì yêu thương tôi. Tôi luôn có khuynh hướng tôn thờ, kính sợ Ngài, nhưng lại rất ái ngại đi sâu hơn nữa vào ‘lòng thương xót đến cùng’ của Ngài. Xét cho cùng thì tôi vẫn thấy Cựu ước hay ‘thái độ kính sợ Thiên Chúa’ của các tôn giáo nói chung, vẫn dễ chấp nhận hơn là Tân Ước, như đức Ki-tô Giê-su thể hiện nơi thập giá. Và tôi thiết nghĩ đó là ‘cớ vấp phạm’ lớn nhất của Thập Giá đức Ki-tô, theo cách nói của Phao-lô, đặc biệt đối với các người có đạo.

Thế nhưng đối với đức Ki-tô thì ‘cớ vấp phạm” ấy lại là một điều kiện tiên quyết (sine qua non) “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”, chứ không phải một lời mời gọi (như các lời khuyên Phúc âm). Và chung phần với Thầy là tham gia vào cái thứ tình yêu độc nhất vô nhị mà chỉ một mình Thiên Chúa, trong đức Ki-tô Giê-su, mới có: yêu thương đến cùng, tới độ hủy bỏ mình ra như không, đặt mình thấp nhất thiên hạ để có thể trao ban phục vụ.

Vậy là tôi hiểu vì sao cái thứ bác ái tôi thi hành nó nông cạn tới thế. Bao lâu tôi còn chưa chịu để cho Chúa ‘rửa chân’ cho mình, bấy lâu tôi cũng chỉ thi hành một thứ bác ái trịch thượng của bậc kẻ cả: phục vụ trên thế thượng phong. Chẳng hạn đã có bao giờ tôi ngồi vào tòa giải tội trong tư thế còn thấp hèn hơn cả các tội nhân tới xưng thú?

Và lẽ ra tôi, một linh mục, phải nhận ra Chúa rửa chân mỗi khi cử hành Thánh Lễ. Phải chăng nơi Thánh Thể Ngài đã coi mình như miếng ăn, đồ uống tầm thường để phục vụ sự sống của tôi? Khi cho rước lễ tôi đã chẳng từng thấy Thiên Chúa của tôi đi vào những môi miệng, trao vào những bàn tay mà đôi khi chính tôi cũng cảm thấy ghê ghê. Ấy thế mà tôi chỉ coi trọng việc thờ lậy suy tôn Thánh Thể, còn để cho Ngài rửa chân thì tôi lại né tránh. Có nghĩa là ngay cả khi cử hành Thánh Lễ, rất ít khi tôi đi vào thái độ “Người yêu thương họ đến cùng”, Ngài tự hạ hủy mình ra hư không vì chính tôi, linh mục đang dâng lễ, và vì các tín hữu đang tới với Ngài. Dầu được dâng Thánh Lễ hàng ngày trong suốt 39 năm qua, tôi thấy mình còn quá xa với việc “vào chung phần với Thầy”. Còn khuya tôi mới đáng được gọi là Alter Christus của một Giê-su cúi xuống rửa chân và hiến mình chịu chết.

Lạy Chúa Giê-su khiêm hạ vì yêu thương, xin cho con biết để cho mình được Chúa rửa chân mỗi khi cử hành Thánh Lễ, để con cũng được ‘chung phần với’ tình yêu đến cùng của Thập Giá. Xin cho con được ‘cùng chết với Chúa để được chung phần vinh quang với Ngài’ trong nội dung này. Amen

Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

————————————-

 

Thứ 5-36: PHỤC VỤ 

Gn 13,1-15 

 

Vì yêu nhân loại, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại tội lỗi. Ngài: Thứ 5-36

Vì yêu nhân loại, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại tội lỗi. Ngài rao giảng nước Trời và chuẩn bị cho mọi người đón nhận ơn cứu độ. Khi giờ cứu chuộc đã đến, người đã khởi đầu bằng một bữa tiệc Vượt qua, chấm dứt lễ Vượt Qua Cựu ước và mở đầu lễ Vượt Qua Tân Ước. trong bữa tiệc Vượt Qua này, Người đã lập Bí tích Thánh Thể tiên báo cuộc hiến tế đẫm máu của Người trên đồi Canvê. Từ đây, Hy Tế Thập Giá của Ngài sẽ tiếp tục được tái hiện trên bàn thờ mỗi khi linh mục dâng thánh lễ.

Hôm nay cả thế giới mừng lễ Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và tự nộp mình chịu chết cho loài người chúng con. Chúng con hết lòng cảm tạ và yêu mến Chúa. Chúa chịu nhuốc hổ trên cây Thánh giá và chết cô độc; lúc đó có được mấy ai hiểu rõ lý do vì sao Chúa phải chịu chết. Nhiều người chỉ biết nhìn Chúa Giêsu tử nạn như một tử tội nào đó bị kết án tử hình, không đoái hoài đến lý do Chúa chịu chết! Chúa đã tỏ lòng thương yêu vô bờ bến của Ngài đối với loài người chúng con. Chúa đã chịu khổ đau tột cùng theo khả năng chịu đựng của một con người nhưng Chúa còn muốn chịu khổ hình nhiều hơn nữa để cứu những người chưa quay về với Chúa trong thời gian hiện tại này. Ngài cúi xuống phục vụ nhân loạI thấp hèn mặc dù nhân loại hay bất trung với Chúa. Chắc chắn lúc đó Chúa rất nhớ đến phần rỗi chúng con nên đã chấp nhận chén đắng đau thương trong cuộc thương khó. Lạy Chúa Giêsu, loài người chúng con hôm nay vẫn còn tiếp tục sống bạc bẽo với Chúa, nhiều người vì chưa có dịp nên chưa biết Chúa, nhiều ngườI muốn phớt lờ đi tất cả lời Chúa dạy, không muốn học biết để an tâm sống theo ý mình, để kiếm chút lợi lộc nào đó dù mình có thể hy sinh được. xin Chúa thứ tha, chúng con sẽ cố gắng hy sinh, làm chứng cho tình thương của Chúa giữa trần gian này.

Ngày thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông đồ. Thực ra, trong xã hội Do Thái bấy giờ chỉ có đầy tớ rửa chân cho chủ. Ở đây Thầy lạI rửa chân cho trò. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa rửa chân cho con người, mà lại là những con người còn nhiều khuyết điểm. Chúa Giêsu rửa chân cho Phêrô, kẻ chối Thầy, cho những kẻ bỏ Thầy một mình chạy trốn! Quả là một điều khó làm đối với loài người. Nhưng Thiên Chúa đã làm và kêu gọi mọi người chúng ta cũng hãy làm như vậy. Người ta có thể quỳ trước kẻ quyền thế cao sang để hy vọng được ban bố lợi lộc, ít gì cũng được chút lợi để bù lại cho việc hạ mình. Còn Chúa Giêsu cúi xuống rửa chân cho những người yếu kém, sẽ bỏ Ngài một mình bơ vơ lúc bị sỉ nhục, bị hành khổ và chết trên thánh giá. Tất cả chỉ vì yêu thương con ngừơi và muốn cho con người được sống dồi dào hạnh phúc. Đó là lý do Ngài xuống thế làm người. Ngày nay biết bao tu sĩ nam nữ đang thiết tha đáp trả tình Chúa và noi gương Chúa Giêsu trên con đường bỏ mình tận hiến, tập sống bỏ mình phục vụ vô vị lợi theo gương Ngài. Ước chi càng ngày càng có nhiều người cảm nghiệm được tình yêu Chúa và biết hiến mình làm chứng cho tình yêu Chúa theo gương Chúa Giêsu Kitô và làm mọi việc trong tình mến Chúa yêu người luôn.

Lạy Chúa Giêsu, con phải hổ thẹn biết bao vì đã không biết đáp lại tình thương của Chúa trên cây thập giá, Chúa đã không nệ hạ mình cho đến nỗi làm một người nghèo khó, gác qua mọi quyền lực Ngài đáng phảI có vì yêu chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết luôn suy niệm công khó của Chúa để mà ăn năn, từ bỏ những thói xấu, hết lòng yêu mến Chúa, phục vụ anh em như Chúa đã truyền dạy .

————————————-

 

Thứ 5-37: THỨ NĂM TUẦN THÁNH

 (Tiệc ly)

Anh chị em thân mến.

 

Trong ngày giỗ, để tưởng nhớ đến người đã chết, cũng để nói lên tâm tình của những người còn: Thứ 5-37

Trong ngày giỗ, để tưởng nhớ đến người đã chết, cũng để nói lên tâm tình của những người còn ở lại đối với người đã ra đi. Người ta thường làm những món ăn mà người đó thích, làm những công việc mà người đó thường làm, nhắc lại những lời nói mà cố nhân đã từng khuyên nhủ và chỉ dạy. Đồng thời đây cũng là một dịp để cho con cháu cân đo lại mức độ tình cảm của họ đối với người quá cố. Bằng cách nhìn lại đời sống của họ trong thời gian qua như thế nào, xem họ có sống theo những gì mà người quá cố đã từng tâm quyết. Đặt biệt là những lời trối trăn sau cùng, xem họ đã chu toàn đến mức nào. Nhìn qua cách sống, nhìn qua những việc làm, nhìn qua con người, chúng ta sẽ nhận ra được mức độ tình cảm của người sống đối với người chết như thế nào.

“…Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta.” Trong bữa tiệc trọng đại và sau cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu cũng nói lên những lời tâm quyết với các môn đệ thân yêu của Ngài. Không chỉ nói bằng lời, nhưng bằng hành động. Ngài đã để lại gương phục vụ tuyệt vời. Ngài đã hạ mình làm công việc hèn hạ mà các môn đệ không thể ngờ được, dường như lúc đó Ngài không còn là chính Ngài nữa, Ngài chỉ còn nhìn thấy những người mà Ngài yêu thương. Còn hơn thế nữa Ngài dùng chính thân thể Mình làm lương thực để nuôi dưỡng những người mà Ngài yêu thương. Như thế Ngài còn chưa cho là đủ, Ngài còn quyết định dùng chính mạng sống Mình, chịu treo trên thập giá, để đem lại sức sống mới cho những người Ngài yêu thương. Ngài không lo gì cho chính Mình. Ngài chỉ biết vâng phục, và lo cho những người mà Ngài yêu thương. Ngài yêu thương những người con ngoan hiền, Ngài yêu thương những người trung thành, Ngài cũng yêu thương cả những người phản bội, những người bất trung. Ngài yêu thương tất cả không trừ một ai. “Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta.” Ngài muốn những người mà Ngài yêu thương cũng sống như Ngài, biết yêu thương như Ngài đã từng yêu thương họ. Ngài yêu thương tất cả, Ngài yêu thương chúng ta, những người của thời đại mới. Ngài cũng nói với từng người trong chúng ta: ” Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta.”

Hôm nay , một lần nữa chúng ta lại đến nhà thờ, một lần nữa chúng ta cân đo lại lòng yêu thương của mình đối với Đấng đã từng yêu thương, lo lắng dạy dỗ và dám chết cho chúng ta. Chúng ta cũng đã từng thề hứa từ bỏ tất cả để bước theo Ngài, trung thành với Ngài. Bao nhiêu lần trong đời sống, chúng ta cũng đã từng cảm kích như Phêrô , vì nhìn thấy những gì Thiên Chúa làm cho chúng ta là quá sức, không thể hiểu nổi. Cũng bao nhiêu lần chúng ta quyết tâm: “Dù cho tất cả bỏ Thầy, còn con thì không bao giờ.” Nhưng, Chúa Giêsu nhận được gì nơi chúng ta? Có phải cũng như các môn đồ ngày xưa, Ngài chỉ nhận được nơi chúng ta sự phản bội của Giuda qua những lần chúng ta lén lút làm những chuyện bất chánh, qua những lần chúng ta chỉ biết tìm những lợi ích riêng tư mà hại không biết bao nhiêu người khác phải khốn khổ. Trong những lúc chúng ta sống bê tha tội lỗi, không chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, những lúc chúng ta lười biếng, những lúc chúng ta muốn được yên ổn bản thân nên không thể động lòng trắc ẩn trước bao nhiêu người cần đến sự giúp đở của mình. Như vậy là chúng ta đã trung thành với Chúa, chúng ta đã yêu thương Chúa. Chúng ta đã thực hiện lời: “các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta.” Chúng ta giữ Lời Chúa như thế sao?

Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình xem: chúng ta đã nhớ đến Chúa như thế nào ? Có phải chúng ta chỉ nhớ trong tâm trí, còn trong hành động , trong việc làm thì hoàn toàn khác, vì chúng ta ngở rằng Thiên chúa không nhìn thấy những việc làm của chúng ta. Thiên Chúa cần nơi chúng ta là chính con người thật sự, phải được biểu hiện qua hành động trong cuộc sống, những hành động đó làm sao có thể nói lên được Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, đồng thời cũng nói lên được lòng yêu thương mà chúng ta dùng để đối xử với nhau trong đời sống thường ngày. Có như thế chúng ta mới thực hiện đúng lời nói: “Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta.”

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa thật sự, để chúng ta biết dùng tình yêu thương mà đối xử với nhau, để đời sống chung quanh mình mỗi ngày được thăng tiến tốt đẹp hơn.

————————————-

 

Thứ 5-38: PHỤC VỤ

Ga13, 1-15

 

Tiệc ly hôm nay là một kỷ niệm đáng nhớ và đầy ý nghĩa đối với các môn đệ và Chúa Giêsu: Thứ 5-38

Tiệc ly hôm nay là một kỷ niệm đáng nhớ và đầy ý nghĩa đối với các môn đệ và Chúa Giêsu. Chia tay nào người ta cũng luôn dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất, ấn tượng nhất. Đây cũng là dịp để người ta bày tỏ tình thương yêu của mình danh cho nhau sau những ngày chung sống. Chúa Giêsu hôm nay cũng không dấu được tình thương yêu mà Ngài đã dành cho các môn đệ yêu dấu của Ngài. Mở đầu Tin Mừng, thánh Gioan đã viết: Khi biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.

Yù thức giờ bị sỉ nhục sắp đến, và cũng biết rõ mình sắp được tôn vinh, đáng lẽ Chúa Giêsu sẽ lấy làm tự hào về mình, tự hào vì sắp về với Chúa Cha. Điều thật là kỳ nơi chúa Giêsu là đúng vào lúc đáng lẽ Ngài có thể hãnh diện đến tuyệt đỉnh thì Ngài lại mặc lấy tâm tình khiêm hạ đến tột cùng. Lúc mà đáng lẽ Ngài phân cách với loài người thì Ngài tại tỏ ra gần gũi với họ hơn bao giờ hết. Ngài cúi mình xuống rửa chân cho các ông.

Rửa chân là công việc của đầy tớ đối với chủ mình. Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa mà lại cúi xuống rửa chân cho các đồ đệ. Đường sá xứ Palestine ngày xưa gồ ghề và nhiều bụi cát. Mùa khô, đất bụi phủ đầy mặt đường mùa mưa thì thàn bùn lỏng lầy lội. Giới bình dân ngày xưa mang dép không có đẹp và chất lượng như các loại giầy dép Hàn Quốc bây giờ đâu. Dép ngày ấy chỉ là một miếng đế được cột vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Vì thế chân dễ bị bám bụi đường hay sình lầy trên đường đi. trước mỗi cửa nhà luôn có những chậu nước và có người đầy tớ túc trực đẻ rửa chân cho khách. Hôm nay Chúa Giêsu đã thực hiện công việc như một người đầy tớ.

Trong xã hội Do thái, chỉ có đầy tớ, nô lệ mới rửa chân cho chủ. Ơ# đây Thầy rửa chân cho trò, còn hơn thế nữa, Thiên chúa lại rửa chân cho con người, mà lại là con người tội lỗi. Ngài cúi xuống rửa chân cho Phêrô kẻ chối Thầy; rửa cho tất cả những người còn lại, là những kẻ sẽ bỏ Thầy trốn hết. Chúa Giêsu làm vậy để được cái gì? Thưa, không được gì cả. Lý do duy nhất chỉ minh chứng cho con người biết rằng Thiên Chúa là thế đó. Một Thiên Chúa đến để phục vụ con người và hiến mạng sống để cứu chuộc con người. Một Thiên Chúa thay vì tiêu diệt bọn tội lỗi, xấu xa thì lại quỳ xuống trước mặt họ và rửa chân họ. Một Thiên Chúa thay vì có thể đem thiên binh với những vũ khí tối tân để trả thù những kẻ đóng đinh mình thì trái lại Ngài đã đổ máu ra để minh chứng một tình yêu thương không điều kiện. Một Thiên Chúa thật lạ lùng, một đạo lý ngược đời, một con đường khó bước. Thế nhưng Chúa Giêsu muốn những ai bước theo Ngài cũng phải làm như thế. “Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ. Ai muốn làm lớn thì phải làm tôi tớ mọi người.

Thông thường người ta dễ dàng quỳ xuống trước người quyền quý, giàu sang chỉ vì người ta hy vọng nơi đó một sự ban bố lợi lộc. Người ta cũng dễ dàng quỳ xuống trước một người đẹp” để xin bố thí một chút tình yêu cho cuộc đời phần nào bớt đi trống vắng. Và người ta quỳ xuống trước một người thánh thiện đẻ cầu mong một ân huệ thiêng thiêng nào đó. Nhưng có mấy ai quỳ xuống trước một kẻ thù, quỳ xuống trước mô#t người bệnh tật, ốm đau hay những người tội lỗi.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã không ngại quỳ xuống trước mặt tội nhân. Thử hỏi Ngài được lợi cái gì? Là Thiên Chúa Ngài còn thiếu gì chăng? Ngài là tình yêu, tình yêu nơi Ngài đã trọn hão rồi, không lẽ Ngài thiếu thốn đến độ phải van xin tình yêu con người sao? Không, Ngài không van xin gì cả. Ngài quý xuống trước mặt con người chỉ vì Ngài quý trọng con người. Ngài quỳ xuống rửa chân chỉ vì Ngài yêu thương con người. Ngài muốn con người được sống và sống hạnh phúc. Khi con người biết sống để người khác được hạnh phúc là họ đã theo gương của Chúa Giêsu vì họ đã biết “rửa chân cho nhau”. Sự phục vụ khiêm hạ của Ngài đã chiến thắng những quyền lực của thế gian.

Trong vương quốc của trần gian, tiêu chuẩn về sự cao trọng là quyền thế. Người quyền thế thì dùng quyền để thống trị người khác. Trong vương quốc của Chúa Giêsu tiêu chuẩn lại là sự phục vụ. Sự cao trọng không hệ tại việc bắt người khác phục vụ mình nhưng là đặt chính mình vào việc phục vụ tha nhân. Giá trị của sự cao trọng được kiểm chứng không phải là người khác đã phục vụ mình tới mức nào nhưng là tôi có thể phục vụ người khác tới mức nào.

Nhiều lúc, ta có khuynh hướng nghĩ rằng, điều Chúa Giêsu dạy ở đây chỉ là một tình trạng lý tưởng về cách ở đời. Làm sao mà thực hiện được. Nhưng đây là một lẽ thường, hợp lý, là nguyên tắc đầu tiên của cách sống hằng ngày mà Chúa Giêsu đòi buộc nơi mỗi kitô hưũ. Ngài đòi hỏi chúng ta cũng phải hiến thân phục vụ như Ngài đã phục vụ. Thực tế, cuộc sống con người vẫn còn nhiều rắc rối. Ai cũng muốn làm ít nhất nhưng muốn được hưởng lợi nhiều nhất. Chỉ khi nào người ta muốn đầu tư vào cuộc sống thật nhiều mà chỉ lấy ra thật ít thì cuộc sống mới trở nên phong phú, mang đến hạnh phúc cho mình và cho người khác. Thế giới còn đang rất cần những con người có lý tưởng phục vụ.

Anh chị em thân mến, người đời thường đo đếm, đánh giá cuộc sống qua từng tháng ngày mình sống. Số khác đánh giá thông qua những kết quả do mồ hôi, nước mắt mà mình đỗ ra. Nhưng sự đánh giá chính xác nhất trên đời này chính là những gì bạn đã làm cho người khác trong suốt cuộc đời. Albert Schweizer, người từng đoạt giải Nobel đã phát biểu: “Người duy nhất trong chúng ta cảm thấy thật sự hạnh phúc chính là người đã nghiên cứu và tìm ra những phương thuốc để phục vụ mọi người”.

Chúa Giêsu khi đến trần gian Ngài đã dành cả cuộc đời để phục vụ con người. Ngài đã đưa con người ra khỏi mọi lo âu của bệnh tật, khổ đau. Ngài giải thoát con người khỏi mọi ràng buộc của những luật lệ khắc khe. Ngài phục vụ con người như một đầy tớ chứ không phải như người đứng ở bực trên. Noi gương Chúa Giêsu mỗii kitô hữu cũng hãy phục vụ anh em mình như Chúa Giêsu đã từng phục vu,# hầu cuộc sống trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp hơn. Xin Thiên Chúa chúc lành cho những tâm hồn khát khao sống phục vụ vì lợi ích cộng đồng và vì hạnh phúc của những người chung quanh.

————————————-

 

Thứ 5-39: NHỮNG LỜI YÊU THƯƠNG CUỐI CÙNG

M.Rivas, 29 tuổi, một đầu bếp tại “Cửa sổ ra thế giới”, một nhà hàng tiếng tăm trên đỉnh tòa tháp: Thứ 5-39:

M.Rivas, 29 tuổi, một đầu bếp tại “Cửa sổ ra thế giới”, một nhà hàng tiếng tăm trên đỉnh tòa tháp Bắc, đã lập tức gọi điện ra ngoài ngay sau khi máy bay đâm vào. Con gái của Rivas bắt máy và anh nói rằng đừng lo lắng, anh vẫn không sao, đồng thời nhắn con gái nói với mẹ rằng : “Bố yêu mẹ cho dù có xảy ra bất cứ chuyện gì”. Sau đó, Rivas không bao giờ gọi nữa…

M.Hughes, một nhân viên tư vấn thương mại quốc tế 31 tuổi cũng bị kẹt trong tòa tháp Bắc, đã gọi điện cho cha mình 9 phút sau khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào. Theo lời người cha thì Hughes có phần hơi hoảng loạn và ông đã cố trấn an con gái để cô tìm lối thoát ra. Tuy hoảng sợ, nhưng Hughes không quên nói lời thương cha và nhờ ông báo cho chồng cô biết cô đang ở đâu và rằng cô yêu anh ấy. 12 phút sau, Hughes gọi cú điện thoại thứ hai cho Sean, chồng mới cưới của mình, vẫn còn đang ngủ tại San Francisco và để lại một tin nhắn : “Sean, em đây. Em chỉ muốn cho anh biết rằng : em yêu anh và em đang bị kẹt trong tòa nhà này ở New York. Ở đây có rất nhiều khói và em chỉ muốn nói với anh rằng : em mãi yêu anh”.

B.Olson, 45 tuổi, một hành khách trên chuyến bay American Airlines 77 đâm xuống Lầu Năm Góc đã dùng điện thoại cầm tay gọi cho chồng. Hai vợ chồng an ủi nhau và lời cuối cùng, Olson nói với chồng cũng là : “Em yêu anh”.

Trên chuyến bay 93 của United Airlines, M.Bingham, 31 tuổi, một trong số những hành khách cố khống chế bọn không tặc đã gọi điện cho mẹ nói lời tạm biệt : “Con muốn mẹ biết rằng con yêu mẹ nhiều lắm, và con đang gọi mẹ từ máy bay. Máy bay đã bị cướp. Có 3 người đàn ông nói rằng chúng có một quả bom”. 15 phút sau, máy bay đâm xuống một cánh đồng ở Pennsylvania…

Bạn sẽ làm gì khi chỉ có một cơ hội nói lời tạm biệt lập tức với một người thân trước khi bạn chết ? Bạn sẽ biết nói cái gì không ? Bạn có đủ can đảm để nói những lời cuối cùng ấy không ? Vào ngày 11.9.2001, nhiều người trong số hơn 2.800 người thiệt mạng trong vụ tấn công vào tòa tháp đôi ở new York đã đối mặt với những câu hỏi như vậy. Vụ tấn công xảy ra khi hàng ngàn người chỉ đang mới bắt đầu một ngày làm việc.
Xuân Anh

******

Trong thực tế cuộc sống có những ngừơi chết không kịp ngáp thì hỏi có nói gì được lời cuối đâu. Còn những người chết vì bệnh tật thì thân xác hao mòn dần rồi đi vào cái chết chẳng có gì để nói. Có người chết đang lúc đau đớn khổ sở rên la thét gào ầm ĩ… tắt thở. Có ít người nằm trên giường chờ chết nhưng rất bình tĩnh vui vẻ gặp gỡ con cái cháu chắt và có những lời động viên khuyên nhủ….

Có người nói rằng sinh ra không được chọn (không có ý kiến), chết không được chọn, chỉ có lấy vợ là được chọn nên chọn cho thật kỹ… cho đến chết mà !

Đức Giêsu biết trước cái chết và từ từ bước đến cái chết. Ba lần Ngài tiên báo. Lần thứ nhất Mt 16,21 ; Lần thứ hai Mt 17,22 và lần thứ ba Mt 20,17 nên đã có nhiều lời cuối dành cho những người chung quanh liên đới với Ngài.

Lời cuối với các môn đệ : “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34)

Lời cuối với Mẹ của Ngài : “Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng : “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19,26)

Lời cuối với chú gian phi : “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43)

Lời cuối cho cả nhân loại : “Tôi khát !” (Ga 19,28)

A/ Đức Giêsu tình nguyện bước vào cái chết để thực thi Thánh Ý Cha, chương trình cứu độ nhân loại, Thiên Chúa tỏ bày lòng yêu thương con người “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Ngài hoàn toàn tự do thanh thản, đôi lần cũng xao xuyến bởi Ngài sống trọn vẹn thân phận con người, nhưng tình yêu thương của Cha đã giúp Ngài vượt qua tất cả. Thiên Chúa là Tình Yêu nên Người luôn khát khao tình yêu con người. Con người nhận biết tình yêu của Người và con người chan hòa tình yêu cho nhau.

Còn những lời cuối của ngày 11-9 để bước vào cõi chết là những cái chết chẳng đặng đừng, cái chết chẳng ai muốn bởi những chú khủng bố, những anh không tặc đưa đến cái chết kinh hoàng làm chấn động thế giới loài người. Sự thù oán, sự chà đạp, sự giết hại khủng bố làm suy sụp tinh thần và tan nát mạng sống con người chứ chả có thứ tình yêu nào như vậy. Những “ông to đùng” xử bất công với những “chú nhóc con” nên những “chú nhóc con” bằng những phương thế mưu mô loài người rình chờ cơ hội là ngóc đầu lên tát trộm vào mặt “ông to đầu” làm cho “ông to đầu” giật mình, đau điếng và điên tiết lên. Những chú không tặc bất kể một số mạng sống con người trên những chuyến bay để cảnh báo nước Mỹ và nhân loại trên thế giới về sự bất công, về sự chèn ép, về sự khống chế, về sự cách biệt giàu nghèo… nhưng những cách thức như thế có giải quyết được cho nhân loại tốt đẹp hơn không ? Xin nhân loại nhìn lên Cây Thập Giá (hôm nay 14/9 lễ Suy Tôn Thánh Giá) để học bài học yêu thương đích thực và đúng đắn hơn. Hình như cách thức của Đức Kitô chẳng mấy hấp dẫn, chẳng mấy ăn khách sao ý, nhân loại nhỉ ? Mãi mãi “Tôi khát”.

B/ Đức Kitô không nói những lời tạm biệt dễ thương giống như những người sắp bước vào cái chết của ngày 11/9. Như : các tông đồ ơi, Thầy thương yêu các tông đồ lắm ! Hoặc : Mẹ Maria quý yêu ơi, con thương Mẹ nhiều nhiều vô cùng ! Hoặc : nhân loại đồng bao ơi, tôi yêu thương nhân loại kể sao cho xiết !… Không, vì chính Ngài là Tình Yêu, trước sau như một, từ khởi thủy cho đến tận cùng. Cái chết của Ngài không làm cho Ngài tiêu tùng luôn. Cái chết của Ngài không dập tắt được tình yêu nhưng “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Thầy hiện diện rộng khắp, Thầy yêu thương và khơi nguồn sức sống liên lỉ hằng ngày. Mỗi người trong niềm tin của mình gặp gỡ được Thầy, yêu như Thầy yêu, sống như Thầy sống, khiêm nhường và hiền hòa như Thầy hiền hòa và khiêm nhường trong lòng, tha thứ như Thầy thứ tha… “thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12)

Nếu mỗi phút giây sống trong ngày sống của tôi coi như là giây phút cuối cùng thì tôi sẽ luôn nói những lời yêu thương giống như một lời từ biệt; thì tôi sẽ sống thái độ cung cách phục vụ như một người sắp ra đi…

Thế nhưng “cái tôi” to đùng mạnh hơn cả cái chết, hơn cả chuyện sắp ra đi nên cứ sức tôi thì tôi chẳng có thể sống được như là giây phút cuối cùng. Chỉ khi nào tôi cảm nhận được không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi thì tôi mới có thể nói lời yêu thương từng ngày với mọi người mà không cần phải chờ… cuối cùng trong ngày 11-9.

Mong Manh

————————————-

 

Thứ 5-40: CÂU CHUYỆN RỬA CHÂN

Năm nay, những ngày cuối Mùa Chay và Tuần Thánh, mấy anh em Dòng Chúa Cứu Thế chúng tôi: Thứ 5-40

Năm nay, những ngày cuối Mùa Chay và Tuần Thánh, mấy anh em Dòng Chúa Cứu Thế chúng tôi ở miền Nam được gọi đi giúp Đại Phúc (một tuần ) hoặc Tiểu Phúc ( 3 ngày ) ở các tỉnh miền Bắc. Các anh em ở ngay tại miền Bắc thì đã rong ruổi từ giữa Mùa Chay lên các tỉnh vùng Tây Bắc xa xôi cách trở. Có lúc cụm lại làm việc chung, có lúc tản ra mỗi người lo một xứ, rồi lại hẹn gặp nhau về chung một Giáo Xứ khác tại một Giáo Phận khác. Được gọi được mời đi giúp khắp nơi như thế này anh em chúng tôi mừng lắm, vì được sống đúng với đặc sủng của Nhà Dòng từ Thánh Tổ An Phong truyền lại cho đến ngày nay.

Thế rồi, trong những lúc ngồi trò chuyện với các cha Xứ, chúng tôi nghe được lắm điều hay. Ví như chuyện tại nhiều xứ đạo miền Bắc gốc gác do các cha Dòng Tây Ban Nha khai mở bao đời nay, khó khăn thế nào, o ép ra sao thì vẫn cứ cố mà giữ cho được cái nếp xưa, những thói tục đạo đức bình dân. Tuy nhiên cũng đã đến lúc phải mạnh dạn xem xét lại và đổi mới nhiều chuyện, bình dân đến đâu thì cũng phải lo sao cho sát với Kinh Thánh, đúng với Thần Học, giá trị nghệ thuật cũng phải kha khá và từ đó khơi lên được những tâm tình tôn giáo sâu sắc mà chừng mực, đạt được cả mục tiêu giới thiệu Đạo mình với mọi người chung quanh .

Có cha chép miệng than:

-“Ai đời chúng nó bôi mày vẽ mặt làm quân dữ, chạy rầm rầm đi bắt Chúa, hô hoán quát tháo, xô tượng đứng lên trong Nhà Thờ xong, thành công rồi là kéo nhau đi đánh chén be bét suốt đêm, lễ lạc Tuần Thánh chẳng coi ra gì. Con thì… cấm hết, dẹp hết !”

Nhưng cũng có cha lý luận rằng đó là một truyền thống cổ xưa cần bảo tồn, và ngài đưa ra sáng kiến sẽ canh tân bằng cách làm kịch bản sân khấu hóa đàng hoàng, rà soát lại nội dung, tạo bầu khí cầu nguyện trang nghiêm mà sống động, đưa thêm âm nhạc, thêm Thánh Ca vào, dạng như hoạt cảnh. Và quan trọng nhất là dứt khoát nghiêm cấm cái khâu nhậu nhẹt thịt chó

Lại bàn đến chuyện rửa chân Thứ Năm Tuần Thánh. Các cha mình lâu nay vẫn làm theo thói quen, nay thì đang có khuynh hướng muốn đột phá cách tân. Nghe đâu có một cha bên hải ngoại đặt vấn đề sao không rửa chân cho các bà mà lại chỉ chọn các ông ? Thế là có cha chịu khó tìm đọc lại phần chữ đỏ trong Sách Lễ Rô-ma xem sao, thì thấy có ghi rất rõ về nghi thức Rửa Chân như thế này: “Các người giúp lễ sẽ hướng dẫn những người đàn ông đã được tuyển chọn đến ghế dọn sẵn. Sau đó Linh Mục (cởi áo lễ nếu cần ), với các người giúp lễ, đi đến từng người, đổ nước trên chân họ và lau …”

Trong thực tế, có nhiều nơi không ngờ sinh ra muôn vàn giống tội cũng từ cái chuyện “những người đàn ông đã được tuyển chọn”, lòng dạ con người ta khiếp lắm, giành giựt, gièm pha, đố kỵ, khích bác nhau để “phấn đấu”, “tranh thủ” cho được một chỗ trong hàng ghế các “Tông Đồ” ! Thế là có cha quyết định năm ấy không chọn trước bất cứ người nào nữa. Cả Giáo Xứ đồn đại lao xao xì xào, không khéo có người lại định bụng sẽ đi mách với… Đức Cha. Thế rồi đúng chiều Tiệc Ly, trên cung Thánh quả thật không thấy dọn các ghế ngồi cho các ông “Tông Đồ” như mọi năm, cha Sở cùng một chú giúp lễ bưng một chậu nước, khoác tấm khăn bông trên tay, băng băng đi xuống lối giữa Nhà Thờ, rồi bất ngờ dừng lại ở một người nọ, quỳ xuống rửa chân luôn, mặc cho anh ta cuống quít lọng ngọng. Cứ thế, lại bất ngờ dừng ở một người thứ hai, người thứ ba, cho đến người thứ mười hai, rải rác khắp các nơi trong giáo đường, hầu hết đều là những người đàn ông ngồi ở ngay các đầu ghế. Bất ngờ đến thế thôi chứ cha cũng không dám bất ngờ quay sang các dãy ghế bên kia chọn cả các bà để rửa chân !

Chúng tôi cũng xin tham gia góp chuyện. Tôi kể lại lần mình được dâng Lễ Thứ Năm Tuần Thánh tại một nhà thờ do các chị Dòng Phan-sinh Thừa Sai Đức Mẹ phụ trách. Vừa bước ra đầu Lễ, tôi đã thấy hay hay vui vui, cũng hơi lo lo hồi hộp vì các soeurs “chịu chơi” quá, chọn luôn mười hai tông đồ là sáu cậu bé áo sơ-mi trắng và sáu… cô bé áo đầm đồng phục học sinh. Đến lúc bắt đầu nghi thức rửa chân, tôi lại ngẩn ngơ một lần nữa vì phát hiện ra có một số em bị “thông manh”, nhìn thoáng qua không ai nghĩ các em là người khiếm thị ở Mái Ấm Như Nghĩa. Thú thật, tôi quỳ xuống rửa chân mà lòng bàng hoàng xúc động. Tôi bất giác nâng đôi bàn chân nhỏ nhắn xanh xao gầy gò của từng em để đặt lên đó một nụ hôn trân trọng và trìu mến.

Các soeurs sau Thánh Lễ có bảo tôi:

-“Cha ơi, đâu có ai bắt cha phải hôn chân người ta đâu !”

Tôi liền kể lại cho các chị nghe ấn tượng từ gần bốn mươi năm trước, khi còn là một chú thiếu niên, tôi đã gặp được nơi cha Pacifique Nguyễn Bình An, Dòng Phan-xi-cô. Lần ấy, cũng buổi chiều Tiệc Ly, cha Bình An đã tận tụy ân cần quỳ rửa và sau đó cúi gập người xuống để hôn chân từng người, trán cha lấm tấm những hạt mồ hôi, không phải do nóng bức mùa hè mà do cha đã kiệt sức lắm rồi. Không lâu sau đó, cha qua đời vì căn bệnh ung thư quái ác. Mẹ tôi đi dự đám tang ngài về cứ xót xa tiếc thương:

-“Cha tốt lành quá, ông Thánh sống nên chả trách Chúa cất về sớm !”

Còn bố tôi thì bảo:

-“Cha là người Bình An đến… hai lần đấy !”

Tôi tò mò hỏi tại sao thì mới được bố tôi giải nghĩa cho biết tên thánh của cha cũng là Bình An .

Thế rồi Tam Nhật Thánh năm nay cũng đã đến, tôi xin Đức Cha Bắc Ninh cho hai anh em DCCT chúng tôi được về giúp phụng vụ ở trại phong Quả Cảm thân quen. Cô Xuân và cô Yên, hai chị Tu Hội Thánh Tâm đang phục vụ ở đây mừng lắm, bảo là biến cố lịch sử vì có lẽ phải hơn 50 năm rồi trại phong chưa bao giờ có Thánh Lễ Tam Nhật Thánh. Chúng tôi bàn với nhau rồi ngỏ ý với các bệnh nhân: “Ở đây chỉ có hơn 20 người Công Giáo cả ông lẫn bà, cả anh lẫn chị tham dự thì xin cho rửa chân hết”

Phút chót, dễ thương quá, có thêm hai cụ ông là người bên Lương đến xin dự Lễ nữa, vậy mà cũng chẳng thể gom đủ 12 ông như quy định của Sách Lễ Rô-ma. Vậy là yên tâm lớn, không sợ các đấng các bậc đem luật chữ đỏ ra bắt lỗi !

Năm giờ rưỡi chiều, Thánh Lễ bắt đầu… Đến nghi thức rửa chân thì có một tình huống bất ngờ xảy ra, một cụ ông giơ tay xin phát biểu:

-“Thưa hai cha, con không còn chân để được rửa ạ !”

Tôi buột miệng:

-“Cụ ơi, không sao, chúng con sẽ rửa tay cho cụ vậy !”
Dãy ghế bên này thêm một cụ bà thắc mắc:

-“Nhưng thưa cha, con cũng chẳng còn tay để cho cha rửa đâu !”

Chúng tôi nhìn kỹ, quả thật đôi tay của cụ không còn bàn, cũng chẳng còn ngón nào, nó cụt ngủn ở cổ tay với những mấu mứu đầu xương nhô ra mà thôi. Cha Hoàng Xô Băng nói luôn:

-“Thưa, nếu không còn tay thì ta rửa… mặt vậy !”

Cả ngôi nhà thờ bé nhỏ với mấy chục con người hạnh phúc đã cười vang, không quên kèm theo một tràng pháo tay lụp bụp của những bàn tay không còn bàn và thiếu ngón như thế …

Trời ơi, đối với anh em chúng tôi, có lẽ trong suốt cuộc đời mục vụ sau này, sẽ mãi mãi chẳng bao giờ quên được kỷ niệm xúc động tuyệt vời có một không hai ấy …

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT

( www.chungnhanduckito.net)

————————————-

 

Thứ 5-41: LÀM GÌ CHO CHÚA? Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Một hôm sĩ quan Charles Foucauld say mê kể chuyện cho gia đình nghe về những cuộc chiến: Thứ 5-41

Một hôm sĩ quan Charles Foucauld say mê kể chuyện cho gia đình nghe về những cuộc chiến thắng của anh tại Maroc. Người chăm chú nghe nhất là cô gái nhỏ nhứt nhà. Khi nghe cậu lập được nhiều chiến công vĩ đại, cô bé hỏi:

– Thế cậu đã làm gì được cho Chúa Giêsu chưa?

          Foucauld bất động, ngồi không nhúc nhích, anh lục soát trong lương tâm mình chỉ thấy những chiến thắng hão huyền, phù phiếm, khoác lác, ăn chơi và trụy lạc. Mắt anh bỗng mở ra để thấy rõ cái nghèo hèn của mình. Hôm sau anh tìm đến một Linh Mục Dòng khổ tu, rồi xin đến Nazareth để trọn vẹn theo Chúa Kitô. Một ngày nọ, khi đang cầu nguyện, bỗng anh nghe thấy tiếng than thở của một người đói rét, Charles nhớ lại gương bác ái của Chúa Giêsu và nghĩ mình sao có thể ở nơi thanh vắng này cầu nguyện được, đang khi dân nghèo đang đói khát, mơ ước được miếng cơm.

          Nghĩ thế rồi, anh quyết định đến giúp đỡ họ, trở thành người bạn của họ, chia sẻ với họ cho đến giọt máu cuối cùng. Ngày đầu tháng 12 năm 1916, anh bị kẻ ghen tức giết chết anh giữa lúc đang cầu nguyện.

          Sau bước hy hiến vì người nghèo đó, anh chị em tiểu muội Chúa Giêsu đã vươn lên theo đuổi lý tưởng (sống nghèo và sống giữa xã hội đen tối) của anh. Tất cả đời họ là sự hiện diện âm thầm và cố gắng hoạ lại dung nhan của Chúa Kitô. (Góp Nhặt 5, số 104)

          Thứ năm Tuần Thánh Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn vào cuộc đời tận hiến của Chúa Giê-su như một mẫu gương cho đời sống của chúng ta. Chúa Giê-su đã dùng cả cuộc đời để làm vinh danh Chúa Cha. Ngài đã làm vinh Chúa Chúa Cha qua đời sống thi ân cho kẻ khó nghèo, nâng đỡ kẻ cơ hàn, bảo vệ công lý cho kẻ lầm than, và bảo vệ sự sống cho kẻ thấp hèn. Suốt cuộc đời của Ngài luôn tìm kiếm ý Chúa Cha và thực thi cho đến hơi thở cuối cùng. Cho dù ý Chúa Cha là chén đắng, Ngài vẫn dám uống cạn chén đắng để vâng theo thánh ý Chúa Cha. Ngài đã tôn vinh Chúa Cha qua đời sống yêu thương và phục vụ tha nhân. Suốt cuộc đời của Ngài luôn tìm mọi cách để thể hiện hai chữ yêu thương. Yêu thương không chỉ một lần mà là yêu thương suốt cuộc đời. Yêu thương không chỉ trong giây lát mà Ngài yêu thương họ đến cùng. Yêu thương không chỉ nơi kẻ yêu Ngài mà còn dành tình yêu đó cho kẻ làm hại Ngài. Tình yêu thương khiêm cung thẳm sâu đến nỗi quên cả chính mình là Chúa, là Thầy để nhận lấy thân phận tôi tớ mà cúi xuống rửa chân cho các môn sinh. Tình yêu hiến dâng cho đến cùng để trở nên của ăn của uống cho nhân trần. Tình yêu trọn vẹn dám thí mạng sống cho người mình yêu.

          Hôm nay, khi nhìn vào tình yêu thẳm sâu của Chúa Giê-su, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy hoạ lai chân dung tình yêu đó cho thế giới hôm nay. Một thế giới đề cao cái tôi, luôn đòi người khác phục vụ. Một thế giới hưởng thụ luôn tìm cách chiếm đoạt của chung thành của riêng, chiếm đoạt của người khác thành của mình, chiếm đoạt bằng lừa đảo, dối gian để thoả mãn lòng tham của mình. Điều đó dẫn đến sự chênh lệch giầu nghèo ngày càng gia tăng. Số phận của kẻ thấp cổ bé họng luôn bị dìm xuống tận hố sâu của bể khổ trần gian. Vâng, giữa xã hội đang sống đầy bất công này, người công giáo của chúng ta đã làm gì cho Chúa để mang lại công lý và hoà bình cho anh em? Giữa một thế giới có quá nhiều kẻ nghèo đói, lam lũ, bị bỏ rơi, người công giáo chúng ta đã làm gì cho Chúa để xoa dịu nỗi đau cho anh em? Có lẽ, khi xét lại lương tâm công giáo chúng ta cảm thấy xấu hổ hơn là vinh dự vì là môn đệ của Chúa nhưng không dám sống để làm chứng cho sự thật, để bảo vệ công lý, để xoa dịu nỗi đau thương cho nhân thế. Chúa mời gọi chúng ta mến Chúa hơn hết mọi sự nhưng chúng ta lại để cho danh lợi thú hướng dẫn đời sống chúng ta lao vào vòng xoáy của tiền tài danh vọng. Chúa mời gọi chúng ta yêu mến tha nhân như chính mình nhưng chúng ta lại chỉ lo cho bản thân mà bỏ quên người nghèo khó vẫn đang ngồi bên cạnh mình.

Nguyện xin Chúa Giê-su là Đấng đã hiến dâng mạng sống vì lợi ích đoàn chiên. Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết nhỏ lại cái tôi của mình để Chúa được lớn lên trong ta. Xin cho mỗi người chúng ta biết hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa qua việc dấn thân yêu thương và phục vụ anh em. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

————————————-

 

Thứ 5-42: NGÀI ĐÃ RỬA CHÂN TÔI – Trần Mỹ Duyệt

Biểu tượng rõ ràng nhất của Thứ Năm Tuần Thánh là Bữa Tiệc Ly, Chúa lập. Phép Thánh: Thứ 5-42

Biểu tượng rõ ràng nhất của Thứ Năm Tuần Thánh là Bữa Tiệc Ly, Chúa lập. Phép Thánh Thể, và truyền chức Thánh. Nhưng một chi tiết tuy nhỏ, mà lại sức quan trọng liên quan đến Thánh Thể và chức linh mục, đó là Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ.

“Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy” (Gio 13:8). Đây là cốt lõi của ý nghĩa Vượt Qua, mở đầu cho việc lãnh chức Linh Mục, và đón nhận Mình Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu theo Thánh Gioan, “đã biết giờ mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha” (Gio 13:1), còn phương tiện Ngài dùng để về là cái chết nhục nhã trên thập giá.

Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại chọn hành động rửa chân để chuẩn bị cho các môn đệ hiệp thông với Ngài? Thưa bởi vì nếu không có hành động này, Ngài cũng không biết phải nói sao với các ông về những gì Ngài đã và sẽ làm cho các ông, dĩ nhiên, là cho toàn thể nhân loại.

Nếu Ngài không rửa chân cho các ông, ám chỉ phép thánh tẩy bằng máu của Ngài, hẳn là các ông cũng như nhân loại đều chẳng được hưởng ơn Cứu Độ được dự phần Nước Trời sau này. Do đó, mà Ngài phải bằng mọi giá thuyết phục các ông kể cả răn đe để các ông, nhất là Phêrô chấp nhận để cho Ngài làm việc này.

“Các con gọi ta là Thầy là Chúa thì phải lắm, và đúng thật Thầy như vậy” (Gio 13:13). Hãy tưởng tượng, một bậc thầy cũng là Chúa quì gối trước mỗi môn đệ, nâng từng bàn chân xù xì, đen đủi và bụi bặm lên rửa, lau, và cung kính hôn chúng ta mới thấy hành động ấy mang ý nghĩa cao cả như thế nào.

Hiển nhiên, Chúa không hành động với lý lẽ tầm thường. Bởi vì trong suốt ba năm rao giảng Tin Mừng, Ngài đã có quá nhiều cơ hội để các ông hiểu và chấp nhận lời Ngài, cũng như khiến các ông phải nể phục. Qua những phép lạ Ngài đã làm từ việc cho kẻ mù thấy, điếc nghe, què đi, cấm nói, và chết sống lại, nhưng có lẽ các ông vẫn chưa sẵn sàng tham dự Mầu Nhiệm Đau Khổ và Phục Sinh của Ngài. Chưa hiểu được giáo lý yêu thương của Ngài. Và vì thế, Ngài đành phải hạ mình xuống để rửa chân cho các ông. Luôn tiện, dạy các ông bài học phục vụ, và bác ái.

Một điều nữa cũng không kém phần quan trọng khi suy niệm về hành động rửa chân của Chúa, đó là Ngài đã không rửa mặt, rửa tay, hoặc gội đầu cho các ông như lời Phêrô đã đề nghị. Ngài chỉ chú tâm vào những bàn chân lấm láp bụi đất của các ông.

Ngài không rửa mặt, rửa tay và gọi đầu, vì đó là chuyện của các ông, và dầu sao những việc làm ấy còn có chút dễ dàng, thanh cao. Nhưng Ngài chọn rửa chân, là để hoàn toàn chấp nhận phần khó khăn nhất, vất vả nhất, và một hình thức nào đó tầm thường nhất để minh chứng sự quan tâm và tình yêu Ngài. Và rồi chỉ khi đã được thanh tẩy hoàn toàn, chúng ta mới được kêu mời vào tham dự Mầu Nhiệm Thánh Thể, Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Ngài.

Đến đây chúng ta chắc đã cảm được và hiểu được phần nào thái độ tự hạ và tình yêu thương của Chúa qua hành động rửa chân. Cũng như Phêrô, chúng ta phải để Chúa rửa chân cho mình. Đúng hơn, chúng ta phải kêu cầu để được Ngài rửa chân cho, vì chỉ có thế, chúng ta mới xứng đáng dự phần với Ngài.

Tuy nhiên, quan trọng hơn vẫn là phần đóng góp của mình. Chúa Giêsu đã nói rất rõ điều kiện tham dự này không chỉ là để Ngài rửa chân, mà còn phải rửa chân cho nhau: “Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau” (Gio 13:140). Một điều kiện coi như dễ nhưng lại rất khó thực hiện.

Khó lòng thực hiện vì cái giá của hành động rửa chân của Chúa Giêsu là trận đòn nhừ tử trong dinh Philatô, là những bước đi lảo đảo trên đường đến núi Sọ, và là cái chết treo trên thập giá. Điều này xem như vượt quá sức chịu đựng của con người tự nhiên. Nhưng như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô nếu không chấp nhận được rửa chân, và không rửa chân cho nhau, chúng ta không được dự phần với Chúa.

Vậy anh em tôi là ai? Là người cha, người me, người anh, chị, em. Là những người mà tôi va chạm và tiếp xúc mọi ngày trong cuộc sống. Là những người mà tôi thích, tôi ưa cũng như những người tôi không ưa, không thích. Tất cả họ cần được tôi rửa chân bằng những nụ cười tha thứ, bằng thái độ chấp nhận, bằng của chỉ hòa nhã, bằng những đối xử công bằng, tôn trọng, và yêu kính như tôi yêu mến, và tôn kính chính Thiên Chúa.

Chúa đã rửa chân chúng ta. Đến lượt chúng ta cũng phải rửa chân cho anh chị em mình, nếu như chúng ta muốn tham dự phần với Chúa trong Phục Sinh vinh quang.

Trần Mỹ Duyệt

————————————-

 

Thứ 5-43: Bài giảng trong Lễ Dầu 2004 của Đức Cha Mỹ Tho

Năm nay chúng ta cử hành lễ dầu trong bầu khí Năm thánh Truyền giáo tại Việt Nam, chúng: Thứ 5-43

Năm nay chúng ta cử hành lễ dầu trong bầu khí Năm thánh Truyền giáo tại Việt Nam, chúng ta phấn khởi đặc biệt, vì tất cả giáo phận quy tụ về đây, giám mục, linh mục, phó tế, nam nữ tu sĩ, giáo dân. Hôm nay là lễ của Giáo Hội, lễ của hàng giáo phẩm và của toàn thể Dân Chúa. Chúng ta hãy sốt sắng lắng nghe lời chúa trong sách Isaia, được Chúa Giêsu đọc lại trong hội đường Nazaret, theo như bài tường thuật của Tin Mừng Luca:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức. ( 4, 18 )

Đoạn sách Isaia mà Chúa Giêsu trích dẫn và ứng dụng cho chính mình Ngài nhắc nhở chúng ta trở về nguồn gốc của Giáo Hội, của tất cả và từng người chúng ta. Mọi sự đều bắt đầu từ sứ vụ của Chúa Giêsu. Không có sứ vụ ấy, thì không có Giáo Hội, không có đạo công giáo. Sứ vụ ấy là một sứ vụ thần linh, do Thiên Chúa trao phó, không phải là một sứ mạng có tính cách trần gian, một công việc của trần gian. Ước gì mọi người chúng ta ý thức lại điều đó, để đừng làm hoen ố sứ mạng của Giáo Hội, trần tục hoá sứ mạng của Giáo Hội.

Sứ vụ của Chúa Giêsu còn là sứ vụ thần linh theo một nghĩa khác, quan trọng không kém, là sứ vụ thực hiện trong Thần Khí, trong Chúa Thánh Thần, quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa. Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, không được phép thực hiện sứ mạng ấy với quyền năng và sức mạnh của trần gian. Giáo Hội không có lực lượng và không phô trương lực lượng. Sức mạnh của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần, tượng trưng bằng các thứ dầu mà Giám mục làm phép hôm nay.

Sứ mạng truyền giáo của Giáo hội cũng không hiểu theo nghĩa trần gian, là bành trướng thế lực hay nới rộng ảnh hưởng. Trong quá khứ, một số thành phần trong Giáo Hội đôi khi xử sự theo kiểu trần gian, tạo ra khá nhiều lỗi lầm trong lịch sử, mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thực tâm xin lỗi mọi người. Ước gì chúng ta đừng tái diễn những sai lầm trước đây, nhất là đừng làm mục vụ theo kiểu cai trị của trần gian. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, thực thi sứ mạng trong yêu thương và khiêm tốn phục vụ. Đăc biệt lưu tâm đến những người đau khổ và bị bỏ rơi. Vì không được phép sử dụng sức mạnh hay quyền lực thế gian, nỗ lực và sự dấn thân của chúng ta cần phải tăng gấp bội, nhưng quan trọng hơn cả chính là sức mạnh siêu nhiên của lời cầu nguyện.

Giáo hội không là một tổ chức trần gian, mặc dù phải có cơ chế, vì Giáo hội ở giữa thế gian. Giáo hội chỉ cần một cơ thể vừa đủ để cho linh hồn hiện diện và hoạt động. Điều quan trọng nơi Giáo hội, chính là Mầu nhiệm Hiệp thông. Sự hiệp thông ấy bắt nguồn từ Ba Ngôi Thiên Chúa và theo khuôn mẫu của tình yêu Ba Ngôi. Ngày lễ Dầu nhấn mạnh sự hiệp thông của Giáo hội và trong Giáo Hội. Việc giám mục đồng tế với đông đảo các linh mục của mình, và làm phép Dầu trong thánh lễ Đồng Tế, biểu lộ sự hiệp thông sâu xa nhất trong Giáo hội, đó là hiệp thông nhờ ân sủng Thánh Thần trong bí tích. Giám mục và linh mục hiệp thông mật thiết với nhau trong bí tích truyền chức. Và tất cả chúng tôi hiệp thông với anh chị em trong bí tích rửa tội và bí tích Thánh Thể.

Trong ba thứ dầu mà chúng ta làm phép hôm nay, quan trọng nhất là dầu thánh Chrisma, dùng để hiến thánh người Kitô hữu trong phép rửa và hiến thánh linh mục và giám mục trong bí tích Truyền Chức. Chúng ta được hiến thánh để trở thành con cái của Thiên Chúa, môn đệ của Chúa Giêsu, hãy ghi nhớ và thực hiện lời nói tâm huyết của Chúa với các môn đệ: cứ dấu này người ta sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau.

+ Giám mục Phaolô Bùi văn Đọc

————————————-

 

Thứ 5-44: Thứ năm Tuần thánh  YÊU LÀ TRAO BAN

Thánh Gioan nói :”Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,10), Ngài là nguồn gốc tình yêu nên: Thứ 5-44

          Thánh Gioan nói :”Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,10), Ngài là nguồn gốc tình yêu nên Ngài ban cho ta có tình yêu để yêu Ngài và yêu nhau. Chính vì thế Ngài nhắc lại lời Chúa Giêsu :”Đây là giới răn của Thầy : các con hãy yêu thương nhaunhư Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12).

          Không ai có thể định nghĩa được tình yêu mà chỉ để cho con tim cảm nghiệm được nó.  Hoặc có theo định nghĩa thần học thì yêu là diffusivum sui boni : thông ban sự tốt lành của mình cho người khác ; do đó, ta sẽ dễ hiểu được lời của thánh Gioan tông đồ :”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì : đó là Đức Kitô phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16)

I. TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA.

          Thánh Gioan tông đồ khẳng định rằng Thiên Chúa là tình yêu nên mọi tình yêu phải bắt nguồn từ Ngài và cũng phải qui hướng về Ngài như một nguồn suối duy nhất.  Nếu tình yêu của chúng ta bắt nguồn từ Ngài thì chúng ta cũng phải yêu Ngài. Chính vì thế Ngài nói :”Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi và hãy yêu anh em như chính mình”(Mt 28,37.39). Ngoài ra, Chúa Giêsu còn nhắc nhở tình yêu này cách rõ ràng và mạnh mẽ hơn :”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,24 ; 15,12).

          Trong tuần thánh này và hôm nay chúng ta hãy suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người trong công cuộc cứu chuộc này. Tình yêu ấy đã được thánh Gioan tông đồ ghi lại trong Tin Mừng :”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người xuống trần gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).

II. TÌNH YÊU CỦA ĐỨC KITÔ.

          Nếu đọc đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Philipphê, chúng ta mới thấy Đức Giêsu yêu thương chúng ta đến mức nào :”Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa mà lại trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa, lại còn mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống người phàm như chúng ta. Hơn nữa, Ngài còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và còn muốn nhận lấy cái chết ô nhục trên thập giá” (Pl 2,6-11).

          Ta thử hỏi : vì lý do nào mà Chúa đã xuống thế làm người chịu chết chuộc tội cho chúng ta ?  Có lẽ không có câu trả lời nào khác mà chỉ có thể nói vì yêu thương chúng ta :”Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).

          Ngoài ra, như người ta thường nói :” yêu nhau thì muốn kết hợp với nhau.” Đức Giêsu vì yêu chúng ta, không những Ngài đã hy sinh chết trên thập giá mà còn muốn ở cùng ta mọi ngày cho đến tận thế, cho nên Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể.

III. THÁNH THỂ, BÍ TÍCH CỦA TÌNH YÊU.

          Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi cho tín hữu Corintô nói :”Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán :”Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con : các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,23).  Chúa Giêsu đã biến mình máu Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Ngài chỉ có thể ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế trong bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện trong phép Thánh Thể không phải là sự hiện diện tượng trưng nhưng là sự hiện diện thực sự với mình máu, với cả nhân tính và thần tính của Ngài.

          Động cơ nào đã thúc đẩy Đức Giêsu hành động như vậy ?  Đó là tình yêu ! Đức Giêsu đã yêu chúng ta hết mức, Ngài đã tự vắt cạn kiệt con người của Ngài để phục vụ người khác, không còn gì để mà cho nữa mà chỉ còn cách là biến chính thịt máu mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta.   Đặc tính của tình yêu là muốn cho đi:

                                      Yêu nhau cởi áo cho nhau,
                                    Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.
                                                (ca dao)

          Cho đi là một sự mất mát, mất mát là một hy sinh, mà hy sinh là đau khổ, nhưng đau khổ vì tình yêu lại là một sự sung sướng vì đem lại niềm vui cho người mình yêu.  Có một sự tương quan biện chứng giữa đau khổ và tình yêu, giữa mất và còn : hễ mất cái này thì còn cái khác. Điều kiện ắt có là hễ muốn còn cái này thì phải mất cái kia như hạt lúa phải thối đi để cho những bông lúa vàng nuôi sống con người. Con vật phải chết đi mới đem lại lương thực cho con người. Sự sống của con vật cũng như của thảo mộc phải mất đi để bảo đảm sự sống của con người.

          Hy sinh cho người yêu những gì càng thiết yếu cho mình bao nhiêu thì quà tặng đó càng có giá trị.  Chân phước Têrêsa Calcutta nói :”Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với chúng ta, thì đó mới thật là món quà”.  Đức Giêsu không những đã trao ban mọi vinh quang trên trời ,  lại còn trao ban cả con người của Ngài thì món quà đó quí giá dường nào (x. Mt 26,26-28)

Truyện : Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình.

Trên bước đường lưu vong, trốn ra nước ngoài, Công tử Trùng Nhĩ và bọn bề tôi trải qua rất nhiều cam go, lầm than, đói khổ.

          Không tiền bạc, hết lương thực, bọn người này phải đi ăn xin.
          Một hôm đói quá, đói đến lả người, cả bọn cơ hồ không còn đi được nữa.
          Trùng Nhĩ phải kiếm gốc cây có bóng mát gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm.
          Bọn bề tôi bảo nhau đi bứt rau sam về luộc ăn.
          Trùng Nhĩ nuốt không trôi !
          Bỗng Giới tử Thôi mang một bát thịt nóng hổi đến dâng.
          Trùng Nhĩ ăn ngon lành ! Ăn xong, khỏe khoắn liền hỏi Giới tử Thôi :

          – Nhà ngươi lấy đâu được thịt ngon như thế ?
          Giới tử Thôi chỉ vào đùi mình, thưa :

          – Ấy là thịt đùi của tôi đó. Tôi nghe rằng : nguời hiếu tử bỏ thân thờ cha, người trung thần bỏ thân để thờ vua. Nay Công tử đói không có gì ăn nên tôi phải cắt thịt đùi dâng Công tử.

          Trùng Nhĩ ứa nước mắt, nói :

          – Ân này, biết bao giờ ta đáp được.

                   (Thanh Lan Võ ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324-325)

IV. BÀI HỌC CHO TA.

          Suy niệm về việc Chúa Giêsu lập Bí tich Thánh Thể để làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và muốn ở với chúng ta hằng ngày cho đến tận thế trong phép Thánh Thể, chúng ta có thể rút ra được những bài học cụ thể để áp dụng vào đời sống hằng ngày.

          1. Yêu là trao ban.

          Một trong các  đặc tính của tình yêu là trao ban, là cho đi. Yêu thì không muốn giữ cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu :”Không khi nào người ta yêu như người ta đã được yêu, vì vậy muốn đạt được hạnh phúc trong tình ái, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì cả” (Paul Bourget).

          Nếu tu viện trưởng Saint-Pierre quả quyết rằng :”Yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi chân lý, vương miện của mọi nhân đức căn cứ trên sự CHO và tha thứ” thì thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã thực hiện trong tình yêu đối với Chúa Giêsu trong mấy vần thơ do thánh nữ sáng tác :
                             Sống yêu đương chính là cho tất cả,
                             Trên đời này không đòi hỏi công lao.
                             Không tính toán, không kể cho là bao,
                             Vì đã yêu có khi nào suy tính.
                                      (Têrêsa Hài đồng)

          2. Trao ban là hy sinh.

          Tục ngữ Tây phương nói :”Partir c’est mourir un peu” : ra đi là chết trong lòng một ít. Lìa xa nhau là một sự hy sinh, hy sinh làm ta đau khổ, và đau khổ được coi như là chết trong lòng một ít.  Vậy cho đi là cái gì đó phải lìa xa ta làm cho ta phải hy sinh, hay nói cách khác là chết trong lòng một ít. Tình yêu thật đòi hỏi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng cao như Pierre l’Ermite nói :”Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi. đó là tình yêu thật”.

          3. Trao ban là phục vụ.

          Trao ban là cho đi, cho đi cái mình có và cái đó không còn thuộc về mình nữa mà thuộc về người khác. Như vậy, cho đi là chỉ nhằm phục vụ, phục vụ là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho người khác.  Chúng ta hãy nhìn lên ngọn nến lung linh trên bàn thờ.  Cây nến phải hao mòn đi để trao ban ánh sáng và sức nóng cho con người. Nếu cây nến không chịu hao mòn đi thì không có ánh sáng mà không có ánh sáng thì không phục vụ cho con người được.  Lúc đó cây nến chỉ còn là đồ trang hoàng chứ không cung cấp ánh sáng cho con người được.

          4. Trao ban và cô đơn.

          Yêu nhau thì người ta muốn gần nhau, muốn kết hợp với nhau để không bị cô đơn, nhiều khi phải bỏ tất cả để đi theo nhau. Theo nhau không phải chỉ chấp nhận một chủ thuyết, một chủ trương hay một khuynh hướng mà là muốn nối kết với nhau trong cuộc sống, bước theo nhau, coi người kia như lẽ sống của mình tựa như : thuyền theo lái, gái theo chồng :

                                      Yêu nhau chữ vị là vì,
                             Chữ dục là muốn chữ tùy là theo.
                                               (ca dao)

          Saint-Exupéry nói :”Cho, tức là bắc một nhịp cầu trên sự cô đơn”.  Tự bản thân, con người sống cô độc, khép kín vào bản ngã mình, giới hạn vào những kiến thức, rối ren trong những khó khăn của mình.  Nếu xa cách tha nhân, hoặc không có ai tới nâng đỡ, thì lại càng cô đơn thêm. Cho, tức là bắc cầu, là mở đường giao thông. Cho cái gì ? Không nhất thiết phải cho tiền bạc, của cải vật chất bởi vì ai cũng có cái gì để cho.  Chúng ta có thể cho “đôi mắt” khi thấy một cụ già đang bối rối muốn băng qua đường, ta biết giúp đỡ cụ. Chúng ta có thể cho một lời nói để khích lệ hay chia buồn, một lời cám ơn, một lời khen ngợi . Chúng ta có thể cho nhau một nụ cười thông cảm, một cử chỉ thân thiện… Thử lập một danh sách xem tôi đã cho những gì và đã nhận được nhừng gì nơi người khác.

          Chúa Giêsu đã trao ban cho ta chính con người của Ngài trong phép Thánh Thể,  Ngài không bao giờ cô đơn vì Ngài luôn luôn biết cho đi, cho đi một cách quảng đại, cho đi không có giới hạn, cho đi mãi mãi.  Nhưng chúng ta không đáp lại sự cho đi của Ngài, chúng ta thờ ơ trước sự trao ban vô vị lợi của Ngài, làm cho Ngài phải cô đơn.  Để tránh sự cô đơn của chúng ta đối với Chúa và với tha nhân, ta hãy biết cho đi bằng cách phục vụ Chúa trong tha nhân, càng cho đi thì càng gần Chúa, càng sống thân mật với Ngài vì “cho đi thì có phúc hơn là nhận” và nếu yêu mà chỉ nhận thì tình yêu sẽ chết.

Lm Giuse Đinh lập Liễm Giáo xứ Kim phát Đà lạt

————————————-

 

Thứ 5-45: Từ bỏ con người và nếp sống cũ để đi vào tinh thần và sự sống mới

Lễ Chiều Thứ Năm Tuần Thánh

 (Xh 12,1-8.11-14; 1C 11,23-26; Yn 13,1-15)

 Phúc Âm: Yn 13, 1-15

“Ngài yêu thương họ đến cùng”.

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.

 Suy Niệm:

Lễ Chiều Thứ Năm Tuần Thánh

Xh 12,1-8.11-14; 1C 11,23-26; Yn 13,1-15

 

Thánh lễ hôm nay rất phong phú; chứa nhiều mầu nhiệm. Ít nhất chúng ta phải suy nghĩ về ba đề tài: Thứ 5-45

Thánh lễ hôm nay rất phong phú; chứa nhiều mầu nhiệm. Ít nhất chúng ta phải suy nghĩ về ba đề tài chính trong ba bài đọc. Không thể bỏ rơi bài nào mà không làm thiệt hại cho mầu nhiệm cử hành hôm nay. Bài đọc I nhắc nhở hôm nay là ngày mừng lễ Vượt qua của người Dothái; bài đọc II thuật lại việc Đức Kitô đã lập phép Thánh Thể trong bữa ăn vượt qua này; và bài Tin Mừng thúc giục ta bắt chước gương Chúa thi hành việc rửa chân cho anh em.

Lễ nghi rửa chân này xem ra không cần thiết; nhưng căn cứ vào giọng văn trang trọng của bài Tin Mừng, chúng ta chắc chắn sẽ khám phá được nhiều điều quan trọng, nếu biết tìm hiểu. Và cho được như vậy phải theo gương tác giả Yoan suy nghĩ việc rửa chân trong bối cảnh của lễ Vượt qua của người Dothái và của bữa Tiệc ly mà Đức Kitô đã dùng để lập phép Thánh Thể.
 
A. Lễ Vượt Qua Của Người Do Thái

Bài sách Xuất hành có vẻ dễ hiểu; nhưng thật sự là một bản văn gọt dũa, cân nhắc, có nhiều ám chỉ. Phải là bàn tay tư tế, thông luật sau Lưu đày mới viết nên được một kiệt tác như vậy.

Chúa dạy dân Dothái hằng năm phải long trọng cử hành lễ Vượt qua như là một nhắc nhở, như là một kỷ niệm (c.14). Là vì theo nguồn gốc, đây không phải là một cuộc nhắc nhở kỷ niệm gì cả. Người Dothái trước kia là dân du mục, sống nay đây mai đó với chiên cừu, lạc đà và dê. Vào dịp đầu xuân, dân du mục có thói quen làm lễ lên đường, đưa đàn vật lên miền núi cho chiên cừu gặm có. Họ chọn ngày rằm để làm lễ đó, hầu có thể ra đi ngay ban đêm cho mát mẻ. Họ giết một con vật trong đàn để làm lễ tế, cầu xin cho mùa lên đường năm mới được tốt đẹp. Họ lấy máu tế vật bôi lên cửa lều trại để xua đuổi thần khí ám hại súc vật. Và để lên đường cho mau lẹ, họ nướng tế vật chứ không bung, nấu. Họ dùng bánh không men vì không có giờ ủ và để bánh lâu hư. Họ cũng ăn rau đắng để kháng trùng và trừ tà. Tất cả những yếu tố đó không nhắc nhở gì cả; nhưng chỉ là phong tục của dân du mục. Và là phong tục quan trọng, không thể bỏ qua, vì Vượt qua là xuất hành đầu năm xây dựng đời sống mới.

Thế mà năm ấy hoàng đế Aicập lại cấm người Dothái làm lễ ấy. Ông sợ công trình xây cất đình trệ. Và nhất là ông sợ Môsê dùng cơ hội này để đưa dân đi hẳn. Nhưng cưỡng lại làm sao được chương trình của Chúa! Người đã quyết định giải phóng dân khỏi cảnh nô lệ lầm than. Môsê truyền cho Dân cứ làm lễ Vượt qua, cứ trang bị lên đường. Và chính lúc Dân ăn lễ ấy, thần tiêu diệt của Chúa đã sát hại mọi con đầu lòng người Aicập. Pharaô vội vã giục dân ra đi. Thế là lễ Vượt qua năm ấy trở thành muôn đời đáng ghi nhớ.

Người Dothái ở bất cứ nơi nào và làm nghề gì hàng năm cử hành lễ Vượt qua, không phải để tiếp tục đời sống du mục nữa, nhưng để nhắc nhở, kỷ niệm cuộc giải phóng lạ lùng và tin tưởng Chúa còn giải phóng mình ra khỏi tình trạng hiện tại, vì dù sao đã lý tưởng gì cái kiếp sống hiện nay. Lễ Vượt qua vì thế căn cứ vào quá khứ để tin tưởng ở tương lai. Đó là lễ của dân tín hữu, nên Luật chỉ cho những người cắt bì được dự lễ này. Đó còn là lễ cho mọi người, ban ơn giải phóng mọi người, nên mọi người đều đồng tế. Sở dĩ phải chọn tế vật vào 6 ngày trước lễ, là để đánh dấu con vật đó đã được hiến dâng, không còn phàm tục nữa, nhắc nhở người ta thanh tẩy lòng trí mừng lễ. Việc ăn hết và đốt cháy mọi của còn lại cũng phải hiểu theo nghĩa đó: những gì đã dâng cúng không còn được dùng để chung với những cái phàm tục. Tất cả những yếu tố trên đây rất thuận lợi để Đức Kitô dùng làm lễ Vượt qua của Người, khi Người ăn bữa Tiệc ly với các môn đệ.
 
B. Lập Phép Thánh Thể

Không tác giả nào đã kể lại đầy đủ bữa ăn lịch sử ấy. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay chỉ giữ lại phần tối thiểu và cốt yếu. Nói đúng hơn người như chép lại một lời kinh phụng vụ, giống như các Kinh nguyện Thánh Thể mà chúng ta vẫn đọc. Đối với người, cũng như đối với tất cả Giáo hội, bữa Tiệc ly chỉ còn là bữa ăn Thánh Thể. Mọi nghi lễ cũ đã bị đẩy vào dĩ vãng. Từ nay, lễ Vượt qua chỉ còn nhắc nhở một việc: hôm ấy Đức Kitô đã cầm lấy bánh rượu để ban Thịt Máu Người cho môn đệ.

Nhưng muốn hiểu rõ ý nghĩa của việc trao ban này, phải luôn luôn nhớ khung cảnh của lễ Vượt qua Dothái. Thế mà như trên đã nói, lễ này mang nhiều ý nghĩa. Thoạt đầu dân du mục cử hành vượt qua như một lễ lên đường, từ giã nơi đồn trú trong mùa đông tháng giá, ra đi nhắm tới những vùng cỏ xanh tươi để súc vật được chăm nuôi nhờ thức ăn mới. Rồi Chúa đã dùng dịp lễ này để giải phóng Dân khỏi ách nô lệ và tập họp lại thành Dân được giải phóng. Ý nghĩa giải phóng mạnh mẽ đến nỗi hàng năm khi cử hành lễ Vượt qua, dân Chúa vẫn tin tưởng sẽ còn được giải phóng thêm nữa khỏi những trói buộc của kiếp sống hiện tại. Đức Kitô lập Bí tích Thánh Thể để thay thế hẳn lễ nghi đạo cũ; thì theo cách thức Người vẫn làm: chẳng hủy bỏ cái gì một chỉ thăng hoa mọi sự, Người đã đem mọi ý nghĩa của Lễ Vượt qua đạo cũ vào Bí tích vừa thiết lập để thăng tiến chúng đến chỗ hoàn toàn. Như vậy, Thánh Thể cũng là một nghi lễ Vượt qua, một hành vi giải phóng, một cuộc Vượt qua giải phóng toàn diện và quyết liệt. Thêm vào đó, chúng ta còn phải nhớ, mọi người ăn lễ Vượt qua này đều đồng tế, đến nỗi người chủ tọa không “khác” lắm đối với mọi người.

Trước hết, ý nghĩa Vượt qua nổi bật trong bữa ăn Tiệc ly. Ngay khi bước vào bàn tiệc, Đức Yêsu đã ý thức và đã tuyên bố: Người từng ao ước ăn bữa Vượt qua này với các môn đệ. Rồi lập tức Người làm cho họ hiểu ngay, đây không còn là lễ Vượt qua của dân du mục hay của người Dothái nữa, nhưng là Vượt qua của chính Người. Người sẽ vượt đời này về cùng Chúa Cha; Người cầm lấy bánh và nói: Đây là Mình Ta sẽ bị nộp vì chúng con. Người cầm chén rượu và bảo: Đây là Máu Ta sẽ đổ ra ký Giao ước mới. Chiên Vượt qua hôm nay là chính Người. Thánh Thể mà Người vừa trao là của Vượt qua sang thế giới mới, lương thực mà Người vừa ban cần để sống đời đời.

Và cuộc Vượt qua này giải phóng Người ra khỏi thân phận trần ai, đưa Người về vinh quang Người vẫn có bên Chúa Cha; đồng thời hủy Giao ước cũ, lập Giao ước mới trong Máu Người, giải phóng con người khỏi chế độ luật pháp, đưa họ vào ân sủng tình yêu.

Mọi ngăn cách đã bị hạ, nên mọi người ăn lễ Vượt qua đều đồng tế. Tính cách đồng đẳng giữa mọi người tham dự thật là rõ rệt trong lễ Vượt qua của người du mục và người Dothái. Đó là một gia đình, một dân tộc mà mọi người là chi thể và đồng bào của nhau. Trong lễ Vượt qua của Đức Kitô, tính cách hòa đồng, hiệp nhất còn sâu xa hơn nữa khi chính Người trở nên Thịt Máu cho mọi người dùng. Nhờ vậy công cuộc vượt qua và giải phóng cũng trở nên công việc của mọi người; vì khi Thánh Thể được trao ban cho mọi người trong ý nghĩa vượt qua và giải phóng, thì ai lãnh nhận cũng loan báo sự chết của Đức Kitô cho đến khi Người trở lại, tức cũng tham gia cuộc vượt qua và giải phóng của Người.

Thế nên từ việc bánh rượu trong Thánh lễ trở nên Thịt Máu Chúa để thực hiện việc vượt qua, các yếu tố tự nhiên ấy không còn là lương thực tự nhiên nữa, nhưng nhờ lời thần linh đã vượt qua giới hạn của mình để trở nên Thánh Thể. Và khi đi từ cõi tục đến cõi thánh, tức là khi được hiến thánh, thì không những là vượt qua mà còn là giải phóng thực sự và sâu xa nữa. Người dâng Thánh Thể và nhận lấy Thánh Thể sẽ tham dự vào sự hiến thánh đó; họ cũng thôi là mình để trở nên chi thể Đức Kitô; họ vượt qua giới hạn của mình để được chia sẻ sự sống tự do của Con Thiên Chúa. Họ phải chủ động thật sự khiến hơn bao giờ hết, trong Thánh lễ mỗi người đều thi hành chức vụ phó tế.

Ngày Chúa lập phép Thánh Thể là ngày tất cả con cái Chúa được thi hành chức vụ tư tế để vượt qua và giải phóng mình khỏi thân phận tội lỗi, hầu được tham dự vào sự sống giấu ẩn nơi Thiên Chúa Cha. Và cho được như vậy, hôm nay Phụng vụ muốn chúng ta phải cử hành nghi lễ rửa chân.
 
C. Rửa Chân

Đây là hành vi hi hữu mà Đức Kitô đã làm. Khi nào? Theo thánh Yoan, trong bữa Tiệc ly. Hơn nữa thánh Yoan còn trình bày câu chuyện này như sự việc duy nhất mà người còn nhớ lại về bữa ăn tối ấy. Ít ra người cũng coi việc rửa chân như có khả năng diễn tả con người Đức Kitô hôm trước lễ Vượt qua.

Hôm ấy Đức Kitô biết rõ Yuđa sắp nộp Người. Người còn ý thức Chúa Cha đã trao cho Người mọi sự. Người thấy đã đến Giờ Vượt Qua để về cùng Chúa Cha. Người liền đứng dậy khỏi bàn ăn.

Cử chỉ ấy phải làm cho môn đệ ngạc nhiên. Chúa đứng lên làm gì? Kìa! Người cởi áo, thắt lưng, đổ nước vào chậu và bắt đầu đi rửa chân cho môn đệ. Thật là lạ lùng! Xưa nay có bao giờ Người làm như vậy? Chẳng ai có thể tưởng tượng được một việc như thế. Chủ có đưa nước cho khách rửa chân thì cũng làm vào lúc khách mới đến nhà… nhưng bây giờ thì khách đang ngồi ăn rồi. Không ai hiểu được, nhưng chỉ một mình Phêrô dám cất tiếng hỏi: Thầy mà lại rửa chân cho con sao? – Phải! Bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau này con sẽ hiểu.

Sau này là bao giờ? Lâu quá đối với Phêrô. Ông chỉ biết hiện tại; mà hiện tại thì không thể nào có việc Thầy rửa chân cho môn đệ. Ngược lại thì có. Môn đệ được rửa chân cho Thầy, thì theo giáo dục xưa, giây phút đó sẽ huấn luyện môn đệ thắm thiết ghê! Phêrô cương quyết từ chối. Nhưng này: “Nếu Thầy không rửa cho con, thì con không được có phần với Thầy”. Thế là “không những Thầy cứ rửa chân, mà rửa cả mình con nữa”.

Tất cả ý nghĩa của câu chuyện có lẽ nằm trong mấy câu đối đáp này. Đức Kitô rửa chân cho môn đệ để họ được có phần với Người. Và muốn có phần với Người, họ phải chấp nhận Người cúi mình rửa chân cho họ. Việc Người làm đây thật ý nghĩa và mầu nhiệm. Tác giả Yoan hay diễn tả mầu nhiệm theo kiểu này. Tức là người hay kể một sự việc như dấu hiệu nói lên mầu nhiệm sâu xa. Và vì thế, từ ngữ người dùng mang nặng ý nghĩa mầu nhiệm. Như ở đây, rõ rệt thái độ Đức Kitô đứng lên khỏi bàn ăn sau khi đã biết giờ phải về cùng Chúa Cha, là để làm một hành vi vượt qua. Mà Vượt qua đối với Đức Kitô là ra khỏi đời này, là trao ban Thịt Máu, là thí bỏ mạng sống, nên đứng lên khỏi bàn ăn, Người đã cởi áo ra, tức là lột xác và bỏ mình đi. Người hư vô hóa mình nên người tôi tớ, cúi lưng làm công việc của tên nô lệ ngoại quốc, vì ngay người tôi tớ Dothái cũng không buộc phải rửa chân cho chủ. Người đã hóa thành người Tôi Tớ đau khổ của Đức Yavê, không còn sắc thái gì nữa và đã bị liệt vào số dân ngoại, bị đóng đinh ở ngoài thành. Hành vi rửa chân, như vậy là biểu tượng việc Người sắp hư vô hóa mình cho đến chết và chết trên Thập giá. Thế nên lúc này không ai hiểu được. Phải đợi khi Người đã chết và đã phục sinh, môn đệ mới khám phá ra được ý nghĩa. Thế nên không để cho Người rửa chân, không chấp nhận việc Người chịu chết, không để cuộc tử nạn của Người lan sang mình, Phêrô cũng như bất cứ ai, sẽ không được có phần với Người nghĩa là kết hợp với Người và đồng dự vào gia sản các Lời Hứa của Người.

Như vậy, lời giải thích sau này bảo rằng Đức Kitô đã rửa chân để làm gương cho ta, thật ra không chắc đã được viết ngay từ đầu hay chỉ đã được thêm vào sau này. Ít ra khi muốn cắt nghĩa đến nơi đến chốn, cũng phải nói rằng, như Đức Kitô đã bỏ mạng sống mình vì ta, thì ta cũng phải biết bỏ mạng sống mình vì anh em.

Thế thì lễ nghi rửa chân mà ta làm bây giờ không tầm thường đâu. Đây không phải là một nghi thức làm cho qua. Cũng không phải chỉ là hành vi mỗi năm ta làm cho người khác. Có ý nghĩa đó. Và tôi xin mọi người nhìn nhận hành vi chủ tế rửa chân cho 12 người tiêu biểu đây như là cử chỉ biểu lộ những tâm tình chân thật muốn đền bù những thái độ bất công, bất nhân, bất nghĩa của chúng tôi đối với mọi người. Nhưng chưa đủ! Phụng vụ còn muốn lễ nghi rửa chân này biểu tượng hành vi lột xác, bỏ mình của Đức Kitô để chúng ta cùng chấp nhận, đi vào mầu nhiệm tử nạn của Người, hư vô hóa chính mình chúng ta, để có như vậy, chúng ta mới cởi bỏ được con người cũ và người anh em đối diện với chúng ta bây giờ mới thật sự trở thành người anh em của ta không còn gì ngăn cách nữa.

Có như vậy, chúng ta mới thật sự cử hành nghi lễ rửa chân như Đức Kitô đã làm. Có như vậy, chúng ta mới có tâm tình để tái hiện mầu nhiệm Tiệc ly như Đức Kitô đã thiết lập chiều thứ Năm Tuần Thánh. Có như vậy, buổi chiều hôm nay, chúng ta mới thật sự cùng làm với Người cuộc vượt qua giải phóng, tức là từ bỏ con người và nếp sống cũ để đi vào tinh thần và sự sống mới tự do của con cái Thiên Chúa.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

————————————-

 

Thứ 5-46: BỮA TIỆC LY VÀ CỬ CHỈ RỬA CHÂN

Suy Niệm Thứ 5 Tuần Thánh

(Exo 12: 1-8, 11-14; 1Cor 11: 23-26; Ga 13: 1-15)

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

 

Theo truyền thống Kitô giáo và Do Thái giáo, tiệc tùng ăn uống không đơn giản chỉ để bồi: Thứ 5-46

Theo truyền thống Kitô giáo và Do Thái giáo, tiệc tùng ăn uống không đơn giản chỉ để bồi dưỡng thể xác, hưởng thụ những món ăn cao luơng mỹ vị hoặc mừng một thành công hay kỷ niệm nào đó mà còn là trường hợp gặp gỡ nhau vì những biến cố đặc biệt khác thường, ngay cả trường hợp có liên hệ với Thiên Chúa. Chúa Giêsu, trên bước đường mục vụ ở dương thế đã thường giảng dạy trong những bữa ăn nơi bàn tiệc.

NHỮNG BỮA TIỆC TRONG TIN MỪNG

Xuyên suốt qua 4 Phúc Âm Thư, chúng ta thấy Chúa Giêsu tham dự khá nhiều bữa tiệc, lúc thì với ông Levi và các thương gia bạn bè của ông, khi thì với ngươi Pharisiêu là ông Simon, khi thì với ông Lazaro và các chị em của ông ở Bethany, lúc lại với ông Zacchariô và đám đông ở Jericho, lúc lại với những kẻ đầu đưòng xó chợ, vô gia cư và các sĩ quan đội trưởng, khi thì với đám đông ở sườn đồi miền Galile, lúc với các môn đệ ở tại nhà các ông. Cuối cùng là bữa tiệc ly, chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một tặng vật rất quí giá là Phép Thánh Thể và cử chỉ Rửa Chân.

CỬ CHỈ RỬA CHÂN CỦA CHÚA VÀ CỦA GIÁO HỘI

Những bài đọc Phúc Âm Thứ Năm Tuần Thánh đã đưa chúng ta trở về cội nguồn quá khứ xa xôi của người Do Thái. Mừng Lễ Vượt Qua, bữa tiệc ly lập phép Thánh Thể, Chúa Giêsu rửa chân cho các tông đồ.

Ngày nay, Giáo Hội thay vì trình bày cho chúng ta những câu chuyện về việc Chúa thành lập Phép Thánh Thể ở một trong ba phúc âm nhất lãm, Giáo Hội đã diễn lại một cử chỉ khiêm tốn của Chúa Giêsu để nêu cao tinh thần Phục Vụ bằng cách người lớn nhất trong cộng đồng hay xứ đạo hạ mình, quì gối trước các bạn bè để rửa chân cho họ.

BÀI HỌC RỬA CHÂN VÀ PHÉP THÁNH THỂ

Chúng ta thử tưởng tượng một quang cảnh. Chúa Giêsu cột thắt lưng, xắn tay áo, đi lấy một chậu nước rồi quì gối trước các môn đệ và rửa chân cho từng người một. Cử chỉ đó dạy cho chúng ta thấy vinh quang toàn thắng để có đời sống mới không phải là đứng trên cao, ngồi trên ngai chủ tọa như một ông vua, cũng chẳng phải dâng hiến trên bàn thờ đầy ắp của lễ hy sinh cao quí hay những nhà thờ nguy nga lộng lẫy, nhưng là bước ra ngoài cung cấm, nhà cao cửa rông đầy đủ tiện nghi để hoà nhập cùng những kẻ thấp hèn nghèo đói khốn khổ nhất trong xã hội với mục đích phục vụ, giúp đỡ, che chở họ như Chúa đã làm là rửa chân các thánh tông đồ trong suốt cuộc hành trình mục vụ của Ngài nơi dương thế.

Vào đêm tiệc lập phép thánh thể, chúa Giêsu đã uống chén máu thánh Chúa và quì gối rửa chân các tông đồ, là một cử chỉ mới lạ, đặc biệt và sống động mà Chúa Giêsu đã tạo ra cho các tông đồ lúc bấy giờ và chúng ta mãi mãi sau này. Toàn thể câu chuyện cứu chuộc loài người đã kết thúc đêm hôm đó nhưng cũng bắt đầu từ đó với đôi chân trần của Chúa và tiếng Chúa nói với chúng ta qua Thịt và Máu Thánh Chúa: “Thầy nêu gương cho anh em để anh em cũng làm như thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 15). Câu chuyện Chúa rửa chân cho các môn đệ liên kết khăng khít với bữa tiệc ly sau cùng. Thánh Gioan cũng nói với những người theo Chúa Kitô qua mọi thời đại cùng một phương cách như vậy: “Anh em phải nhớ của hiến tế của Chúa trong thánh lễ, nhưng anh em cũng phải nhớ lời khuyến cáo của Chúa là hãy nhập thế, đem đạo vào đời và phục vụ đời, phục vụ tha nhân…”.

ĐÔI LỜI KẾT

Tại bữa tiệc ly cuối cùng, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy quyền hành thực sự trong Giáo Hội đến từ những vị tự coi mình là đầy tớ phục vụ tha nhân, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình, quyền lợi mình, danh lợi mình, an nhàn của mình…vì bạn bè. Sinh mạng họ chính là bữa tiệc cho những người nghèo khó, lầm than cơ cực và tội lỗi, giống như người nhận Mình và Máu Thánh Chúa vậy. Lúc đó chúng ta trở nên giống như Chúa Giêsu mà chúng ta nhận được trong bữa tiệc để rồi chúng ta noi theo gương Người qua những lời cứu độ, lời an ủi hàn gắn đau thương, và những cử chỉ khiêm tốn, hạ mình phục vụ mọi người của Chúa Kitô. Từ phép Thánh Thể phải tỏa ra một cách sống của cộng đồng xã hội, trong đó phải có tình thương yêu, sự chăm nom, để ý, săn sóc thực tình với nhau giữa những người anh em huynh đệ, bà con lối xóm và cả những người xa lạ.

Sau cùng, tôn vinh Mình Thánh Chúa luôn luôn nhắc nhở chúng ta nhìn về phía trước khi chúng ta tuyên xưng một kỷ niệm sau khi truyền phép Thánh Thể trong thánh lễ: “Khi chúng con ăn Bánh này và uống Chén này, lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa chịu chết cho đến khi Chúa lại đến”.

Trong bữa tiệc ly cuối cùng với các tông đồ, chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta hai quà tặng cao quí vô cùng mà một người bình thường không thể làm được. Sự khiêm nhường hạ mình tận cùng của Thiên Chúa qua hành động tự quì xuống rửa chân cho các môn đệ của ngài; Phép Thánh Thể tức chính Thịt và Máu Chúa làm của nuôi linh hồn cho chúng ta mãi mãi về sau.

Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô đã thực sự và hoàn toàn tận hiến cho chúng ta là người phàm tục, chính thân xác Người và gương phục vụ chúng ta cho đến chết và ở với chúng ta đến muôn đời.

Fleming Island, Florida
March 4, 2012

NTC

————————————-

 

Thứ 5-47: HIỆN DIỆN (THỨ 5 TT.B)

 (Xh 12, 1-8. 11-14; 1Cor 11, 23-26; Ga 13, 1-15).

 

Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu, có nghĩa là hiện hữu đời đời. Với lịch sử ơn cứu độ, Thiên: Thứ 5-47

Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu, có nghĩa là hiện hữu đời đời. Với lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã tỏ hiện ra với loài người qua nhiều hình thức. Thiên Chúa đã xuất hiện với con người qua các sự lạ lùng trong thiên nhiên vũ trụ như sấm, chớp, động đất, cột mây và lửa cháy bụi gai không tàn lụi.

Thiên Chúa đã nuôi dưỡng Dân Do-thái bằng Manna, thịt chim cút và suối nước nguồn. Gia bảo của Dân lữ hành là Hòm Bia Thiên Chúa. Hòm Bia chứa đựng Manna và bia đá khắc ghi Thập Giới luôn hiện diện giữa toàn dân. Dân chúng tin tưởng chính Thiên Chúa đang cùng đồng hành với họ.

Môisen đặt Hòm Bia nơi Lều Tạm để nên dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện với dân Ngài. Khi di chuyển hay khi lâm trận, dân Do-thái đã khiêng Hòm Bia cùng đồng hành chiến đấu. Họ tin tưởng rằng Thiên Chúa đã cùng chiến đấu với họ.

Khi thời gian đã mãn, Chúa Giêsu giáng trần hiện diện giữa lòng Dân tộc. Chúa đã đi vào lòng đời và đã đồng hành với họ, nhưng chẳng mấy ai nhận ra Ngài. Chúa đến nhà các gia nhân mà các gia nhân không nhận ra người. Thánh Gioan đã ghi nhận: Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11).

Sau ba mươi năm sống ẩn dật tại Nazarét, Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng tin mừng cho các dân thành nước Do-thái trong vòng ba năm. Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ để bày tỏ quyền năng của Ngài. Dân chúng nhận lãnh các ân sủng chữa lành, ngắm nhìn sự lạ và lắng nghe tin mừng cứu độ nhưng họ vẫn không nhận biết sự viếng thăm này của Thiên Chúa.

Khi giảng dậy, Chúa Giêsu dùng nhiều dụ ngôn để nói về Nước Trời. Ngài đã mở cửa Nước Trời để đón nhận những ai muốn lắng nghe và thực hành lời Chúa. Chúa Giêsu mời gọi và chọn từng người gia nhập vào đoàn tông đồ và môn đệ. Chúa đi rong ruổi khắp các làng mạc để đưa những con chiên lạc trở về. Chúa thương yêu ấp ủ dân như gà mẹ ấp con dưới cánh (Lc 13,34).

Xưa kia, mỗi khi lâm trận hay gặp khó khăn, dân Do-thái khiêng Hòm Bia đi tiên phong dẫn đường chiến đấu với quân thù. Ngày nay, khi đối diện với muôn nghịch cảnh ở đời, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta có thể múc tận nguồn ân sủng và sự khôn ngoan nơi Thánh Thể Chúa. Chúa luôn hiện diện đó để đón chờ chúng ta đến viếng thăm.

Các Nghi Thức ngày Thứ Năm Tuần Thánh ghi khắc sâu xa về ý nghĩa việc Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể. Trước khi cử hành nghi thức Bẻ Bánh, Chúa đã hạ mình cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Một thái độ bất ngờ và rất ấn tượng làm cho ông Phêrô phải ngại ngùng bối rối và chối từ. Chúa đã nêu gương đời sống phục vụ mà chưa từng có ai đã nghĩ tới.

Chúa Giêsu đã dành phần quan trọng nhất trong dịp Lễ Vượt Qua của người Do-thái để thiết lập một lễ Vượt Qua mới bằng chính máu của Ngài. Đây là giáo ước mới: Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em (Lc 22, 19-20).

Chúa Giêsu muốn các tông đồ hãy cử hành việc này mà tưởng nhớ đến Chúa. Ngay từ thời các tông đồ, mọi nơi mọi lúc Giáo Hội không ngừng thực hiện lời di chúc thánh này. Bí tích Thánh Thể trở thành trung tâm điểm của đời sống người tín hữu. Qua Bí tích tình yêu này, Chúa Giêsu kết hợp nhiệm mầu với con người. Chúa đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha rằng: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con (Ga 17,23).

Tiếp theo nghi thức bẻ bánh là những lời lẽ rất chân tình, Chúa khuyên dạy các tông đồ hãy sống khiêm nhu phục vụ: Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ (Lc 22, 26). Chúa Giêsu đã chuẩn bị tâm hồn các tông đồ để đối diện với tất cả những gì sẽ xảy ra trong cuộc đời nhân chứng.

Chúa Giêsu muốn nối kết mọi người với chính thân mình. Chúa phán: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được (Ga 15,5).Chúa ban nguồn sự sống cho mọi người. Chúa mời gọi mọi người hãy vác thánh giá theo Chúa. Hãy đến học với Chúa, vì Chúa hiền từ và khiêm nhượng trong lòng. Những ai buồn sầu khổ sở, hãy đến, Chúa sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Chúa còn cho chúng ta được đồng bàn cùng ăn một bánh và uống chung một chén.

Chúa muốn hiện diện với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể. Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt Máu của Chúa. Chúa hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để chúng ta có thể tôn thờ, gặp gỡ, tâm sự, cầu nguyện và còn là thần lương bổ dưỡng tâm hồn. Chúa Giêsu đã gói trọn tất cả lề luật trong giới răn yêu thương: Yêu Chúa và yêu người.

Bắt đầu từ chiều nay, tất cả các cộng đoàn dân Chúa trên khắp thế giới sẽ tượng niệm hành trình thương khó của Chúa một cách trọng thể. Ngay sau thánh lễ, nghi thức rước Thánh Thể đến tòa cạnh để mọi người cùng tôn thờ và suy niệm. Khung cảnh trong nhà thờ trống vắng, không hoa nến, không khăn bàn thờ và nhà tạm mở cửa trống. Nhắc nhớ chúng ta về sự nín lặng mà Chúa phải cam chịu do sự thù ghét cáo gian buộc tội của con người. Chúa bị bắt, chịu kết án và chịu khổ hình.

Không phải Chúa chịu hình khổ một lần mà các sự khổ đau vẫn tiếp tục xảy ra nơi nhiệm thể của Chúa Kitô là Giáo Hội của Ngài. Chúa đã chấp nhận thân phận làm người, nên mỗi người đều được mời gọi để chia phần đau khổ và vinh dự của Chúa. Chúa còn đóng vai những người cùng khốn, kẻ xấu số, kẻ bị bỏ rơi, bệnh hoạn tật nguyện, người đói khát và kẻ tù đầy. Những ai ra tay giúp đỡ những kẻ xấu số này sẽ được Chúa thưởng công: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25,40). Khi các Kitô hữu bị bách bớ, Chúa đã rat ay bênh vực: Saulô, Saulô, tại sao người bắt bớ Ta?

Chúng ta hãy dùng thời giờ thinh lặng để ở lại bên Chúa. Cảm nhận tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Ngắm nhìn hình ảnh đau thương của Chúa nơi hiện trường hành xử. Cây gỗ giá đã trở thành giá cứu chuộc. Một thân hình vạm vỡ mạnh khỏe bị đánh gục ngã. Chúa chịu hình khổ như thế để làm gì? Chiêm niệm sâu lắng về mầu nhiệm ơn cứu độ.

Bí Tích Tình Yêu là giao ước mới được ký kết bằng giá máu. Giá máu của Đấng là trung gian vũ trụ, nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành. Con người đã đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá. Người Con đó lại xin Chúa Cha tha thứ cho tất cả những việc hung ác họ đã làm. Chúng ta không thể hiểu được mầu nhiệm tình yêu tha thứ này. Quỳ bên Thánh Thể Chúa, chúng ta hãy cùng khẩn nguyện xin ơn yêu thương và tha thứ.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York.

————————————-

 

Thứ 5-48: Thánh Thể, Thiên Chức Linh Mục Và Giới Luật Yêu Thương

THÁNH LỄ TIỆC LY

(Ga 13, 1-15)

 

Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập: Thứ 5-48

Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước Đêm Hấp Hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự Hiện Diện Thực Sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng hàm ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến khi Chúa Kitô sống lại. Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. “Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta” ( Ca nhập lễ ).

“Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu.  Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của “kiếp người” lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ cho con người, Chúa lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu.

“Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy cầm lấy mà uống, chén này là Tân ước trong Máu Ta” (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Ngài đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.

Sau khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cũng lập luôn bí tích Truyền Chức Thánh  khi Người nói với các Tông Đồ hiện diện : “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19 ;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa tiếp tục yêu thương và tín nhiệm con người. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.

Khi Người rửa chân cho các môn đệ xong, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta : “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa bí tích Thánh Thể, bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.

Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm : Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục – không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó gắn chặt, liên kết với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh, trở nên một thì chúng ta không còn tách biệt được nữa.

Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).

Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.

Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.

Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. “Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.

Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

————————————-

 

Thứ 5-49: Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

 

Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu: Thứ 5-49

Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương. Trong các tai hoạ vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất. Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới toà nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống: Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.. Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ: Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy Chị đáp: Tuy bị chôn vùi dưới toà nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. sau đó, tôi không còn biết gì nữa? Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao? Tôi không hề nghĩ đến cái chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cách nào cho con tôi được sống.

Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy đã yêu chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu. Yêu như Thầy đã yêu chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như bạn hữu thân tình. Yêu như Thầy đã yêu chính là yêu cho đến cùng, yêu cho đến chết và chết trên thập giá. Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu như Thầy đã yêu.

Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi chúng ta dám quên mình, bắt chước Thầy, cúi xuống trước anh em. Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng mức độ như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em. Như vậy, yêu như Thầy đã yêu không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác. Yêu như Thầy đã yêu chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.

Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Lạy Chúa, nếu “đồng phục của người Kitô hữu là yêu thương” thì xin cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.

Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng con, không đọng lại như nước ao tù, nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu. Amen.

————————————-

 

Thứ 5-50: THẦY MÀ LẠI RỬA CHÂN CHO CON SAO ?

Sau khi nhận mũ áo Hồng Y, vào Thứ Năm Tuần Thánh 2001, Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio: Thứ 5-50

Sau khi nhận mũ áo Hồng Y, vào Thứ Năm Tuần Thánh 2001, Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, nay là Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô, cử hành nghi lễ rửa chân cho các Tông Đồ, ngài đã chọn 12 người bị nhiễm HIV AIDS, để rửa chân. Ngài thậm chí còn rửa chân cho cả phụ nữ nghèo mới sanh con. 

Theo tin từ Tòa Thánh Vatican công bố vào Thứ Năm 21.3.2013. Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ cử hành Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh trong nhà tù giam giữ thanh thiếu niên “Casal del Marmo” tại Roma vào chiều Thứ Năm 28.3.2013. Vào lúc 17g30, ngài sẽ rửa chân cho 12 tù nhân trẻ tuổi từ 16 đến 23, để tưởng niệm việc Chúa Giêsu cử hành Bữa Tiệc Ly với 12 Môn Đệ của Ngài và thực hành giới răn tình yêu của Chúa.

Ngày 4.10.2012, nữ ứng cử viên Tổng Thống Hàn Quốc Park Geun-hye đã tham dự buổi lễ Senzoku tại thành phố Ulsan và rửa chân cho một phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc. Trong buổi lễ này, bà Park Geun-hye cùng với các quan chức của đảng rửa chân cho các cử tri thể hiện cho tinh thần phục vụ nhân dân. Sau ngày bầu cử 19.12.2012, Bà Park Geun-hye giành chiến thắng sít sao nhưng mang ý nghĩa lịch sử quan trọng trong cuộc bầu cử Tổng Thống Hàn Quốc, để trở thành người phụ nữ đầu tiên nắm quyền tại nước này. Bà là con gái của một trong những nhân vật gây tranh cãi nhất Hàn Quốc thời hiện đại, cố Tổng Thống Park Chung-hee.
Hôm nay Tin Mừng theo Thánh Gioan tái hiện lại sự kiện Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Chính việc này đã ảnh hưởng và tác động sâu xa đến Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cùng ứng cử viên Tổng Thống Hàn Quốc. Như thế việc rửa chân có biết bao ý nghĩa sâu sắc và quan trọng.

Yêu Thương

Cha mẹ nào mà chẳng rửa chân tay cho con nhỏ. Đó là cử chỉ yêu thương tình phụ tử, mẫu tử. Còn hình ảnh nào đẹp hơn thế ? Đối với các môn đệ, Đức Giêsu vừa là Thầy, vừa là Người Cha Nhân Lành, luôn thương yêu săn sóc, chỉ dạy, nâng đỡ vỗ về, nhất là lúc sắp lìa xa. Cử chỉ thân thương này thường chỉ dành cho người thân, bộc lộ sự quan tâm, quý mến và vô cùng gần gũi. Vì vậy Đức Giêsu muốn biểu lộ Tình Yêu nồng nàn và thiết thực với các môn đệ, không chút ngại ngùng hay xấu hổ.

Trong cuộc sống văn minh hiện đại, người ta lại dè dặt bộc lộ tình cảm công khai, không phải vì bớt yêu thương, nhưng vì tế nhị và lịch sự. Bị bao vây bởi những quan niệm xã hội gò bó, đúc khuôn, người ta đánh mất đi sự tự nhiên và tự do, dần dần tình người phai nhạt theo năm tháng.

Chẳng thế, người ta dễ dàng quay lưng, bịt mắt trước các thống khổ của đồng loại, đang diễn ra nhan nhản chung quanh. Cứu người bị nạn sợ bị dây dưa, hay bị lừa đảo, chuốc thêm phiền phức. Bênh vực kẻ khốn khổ, cô quả thì sợ bị trả thù. Tôi cũng lây nhiễm căn bệnh thời đại Mackeno. Canh cánh lo toan vinh thân phì gia, đâu cần biết những gì xảy ra chung quanh. Chẳng mấy bận tâm đến tha nhân, người ngoài, nói chi đến yêu thương xa vời ?

Khiêm Hạ

Không hiểu ý nghĩa việc rửa chân, ông Phêrô liền xua tay từ chối, vì kinh ngạc trước nghịch lý Thầy rửa chân cho trò. Đức Giêsu muốn nhắn nhủ các môn đệ lòng khiêm nhường của người có chức vụ. Trong khi Satan luôn khích động tánh kiêu ngạo mọi nơi, mọi lúc và mọi người, nhất là những người quyền thế.

Có dám từ bỏ mình, dám thoát ra khỏi cái vỏ ốc vị kỷ, mới có thể hạ mình xuống, có khiêm tốn, mới có thể nghe, có thể thấy, có thể thấu hiểu, hòa đồng, gần gũi, phục vụ thân tình với người khác. Chỉ có thể phục vụ tận tình với lòng khiêm tốn, mới đủ sức thuyết phục và đem lại hiệu quả.

Ông Phêrô quá đỗi bất ngờ, đã không thể chấp nhận cho Thầy rửa chân cho mình: “Thưa Thầy ! Thầy mà lại rửa chân cho con sao ?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” Ông Phêrô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu !” ( Ga 13, 6 – 8 ).

Trong cuộc đời Chúa Giêsu, hình như Chúa yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhượng, và quên hết tội lỗi của họ không bao giờ nhắc lại: Phêrô, Maria thành Magđala, Simon, Giakêu… Chúa tự mời mình đến nhà họ, và đành chịu tiếng: “Bạn của quân thu thuế và người tội lỗi” ( Đường Hy Vọng, 521 ).

Tha thứ

Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” Ông Simôn Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con” ( Ga 13, 8 – 9 ).

Khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Maria Mađalêna từng lấy nước mắt rửa chân Người, lấy tóc lau chân Người, vì sám hối ăn năn chí tình. “Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều.” ( Lc 7, 48 )

Khi rửa chân, Người thương yêu rửa sạch mọi tội lỗi, tha thứ hết lỗi lầm, cũng như muốn nhắn nhủ các môn đệ và mọi người, luôn biết tha thứ, hòa giải với nhau, xóa tan mọi bất hòa, hiềm khích, thù hận. Nhưng tôi nào học theo Người, cứ mãi bằng mặt mà không bằng lòng. Cứ mãi quen thói khẩu Phật tâm xà. “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” ( Truyện Kiều ).

Hiệp nhất

Dù biết ông Giuđa Iscariot sắp sửa phản bội, Chúa Giêsu vẫn thản nhiên rửa chân cho ông. Người chỉ nhẹ nhàng cảnh báo: “Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu.” Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói:“Không phải tất cả anh em đều sạch” ( Lc 13, 10 – 11 ).

Người không đối xử phân biệt kẻ tội lỗi với người ngay lành. Tất cả mọi người đồng đều ân hưởng Tình Yêu vô biên. Trong tinh thần hiệp nhất, Người muốn mọi người đều trở nên sạch sẽ, tốt lành, công chính và nhân hậu. Người còn sẵn sàng bỏ 99 con chiên trong bầy, để tìm một con chiên lạc trở về đoàn tụ.

Trong xã hội, người ta vẫn thường xa lánh, bỏ rơi những người được coi là đối tượng tệ nạn xã hội, cờ bạc, ma túy, sa đọa, trộm cướp. Mặc dù họ đã hoàn lương, cũng rất khó được hội nhập vào cộng đồng. Tính kiêu căng, bất khoan dung, đố kỵ, đã phân hóa cộng đoàn, giáo xứ, giáo họ. 

Tôi cũng nào khác chi người Anh Cả của Luca 15, đã và đang xua đuổi người em ăn năn sám hối trở về. Cũng cứ đào hố phân cách xa vời vợi, mãi đứng trên ngọn Chomolungma chót vót mà xoay lưng lại ánh thái dương, nhìn xuống vực thẳm Mariannes rẻ rúng người em tội lỗi nhỏ bé, gương mặt tối sầm đi… ( Lm. Quang Uy, Ánh Sáng và Bóng Tối ). 

Lạy Chúa, xin khai tâm cho con thấu hiểu được cặn kẽ và thực hiện được chính xác điều Chúa răn dạy: “Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”

Lạy Mẹ, xin dạy con biết yêu thương tha nhân, với tấm lòng khiêm hạ, tha thứ và hiệp nhất, để con xứng đáng trở nên môn đệ trung thành của Chúa Giêsu. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN