TÔNG HUẤN CHRISTUS VIVIT

print

TÔNG HUẤN CHRISTUS VIVIT

 

Lời người dịch

Trong cố gắng phiên dịch thật sát ý những gì Đức Giáo Hoàng muốn nói, phần lớn bản dịch này đã dùng bản tiếng Ý của website Vatican.  Nhưng cũng có một số câu được dịch theo bản tiếng Pháp hoặc tiếng Anh vì chúng dễ hiểu hơn. Một số câu khác được Việt hoá bằng cách thay thế những thành ngữ xa lạ của Tây Phương với những thành ngữ quen thuộc với người Việt Nam.

Sở dĩ người dịch đã không hoàn toàn dùng bản tiếng Anh vì có một số chỗ bản này dịch không chỉnh lắm nên có thể gây ra hiểu lầm như:

  • trong câu 29, bản Tiếng Anh dịch là “Jesus did not grow up in a narrow and stifling relationship with Mary and Joseph, but…”. – Nếu dịch ra tiếng Việt sẽ là “Chúa Giêsu không đã lớn lên trong mối liên hệ chật hẹp và ngột ngạt với Mẹ Maria và Thánh Giuse…. Trong khi Tiếng Ý viết là: “neppure Gesù crebbe in una relazione chiusa ed esclusiva con Maria e Giuseppe, ma …”, nghĩa là: “Chúa Giêsu không lớn lên trong mối liên hệ đóng kín và riêng biệt với Đức Mẹ và Thánh Giuse, nhưng….”  Gia đình Thánh Gia là Gia đình Thánh làm sao sống với nhau trong bầu khí ngột ngạt được?
  • trong câu 210, Đức Thánh Cha bàn về Kerygma, nhưng ngài không sử dụng từ Kerygma cho đến câu 211. Bản tiếng Pháp dịch là “la première annonce”, và tiếng Ý dịch là “Il primo annuncio” tức là “Lời Công Bố Ban Đầu” hay “Lời Rao Giảng Ban Đầu”, bản tiếng Anh dịch là “When the message is first brought up”, cụm từ này đáng lẽ phải dịch ra tiếng Anh là “the First Proclamation” hay ”the First Announcement” thì mới đúng nghĩa là Kerygma.

Phần lớn những câu Thánh Kinh được trích dẫn từ bản dịch “Lời Chúa Cho Mọi Người”.  Tuy nhiên ở đôi chỗ những đại danh từ được đổi từ “anh” thành “con” cho hợp với mạch văn. Ở những chỗ khác người dịch dịch lại cho hợp với lời Đức Thánh Cha vì có ít câu Đức Thánh Cha dùng bản tiếng Ý với văn từ hơi khác những bản Thánh Kinh mới.

Ngoài những chú thích chính của bản văn được đánh số 1, 2, 3 ở cuối bài, còn có chú thích của người dịch đánh chữ a, b, c ở cuối trang để làm sáng tỏ ý nghĩa của một số câu cho các độc giả Việt Nam, nhất là người trẻ.

Phaolô Phạm Xuân Khôi

Houston, TX ngày 23 tháng 4, năm 2019.

 

MỤC LỤC

TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC.. 1

CHƯƠNG MỘT..

Lời Chúa nói gì về những người trẻ?. 2

Trong Cựu Ước. 2

Trong Tân Ước. 3

CHƯƠNG HAI

Chúa Giêsu, luôn luôn trẻ trung. 5

Tuổi trẻ của Chúa Giêsu. 5

Tuổi trẻ của Người soi sáng chúng ta. 7

Tuổi trẻ của Hội Thánh. 8

Một Hội Thánh sẵn sàng đổi mới 8

Một Hội Thánh chú ý đến các dấu chỉ của thời đại. 9

Đức Mẹ Maria, người phụ nữ trẻ của Nazareth. 11

Các Thánh Trẻ. 12

CHƯƠNG BA..

Các con là hiện tại của Thiên Chúa. 14

Trong tích cực. 14

Nhiều cách làm người trẻ. 15

Một số cảm nghiệm về giới trẻ. 15

Giới trẻ trong một thế giới khủng hoảng. 16

Ước muốn, các vết thương và nghiên cứu. 18

Môi trường kỹ thuật số. 19

Những người di cư như một mô hình của thời đại chúng ta. 20

Hãy chấm dứt mọi hình thức lạm dụng. 22

Có một lối thoát 24

CHƯƠNG BỐN..

Một Sứ Điệp Cao Cả cho tất cả Người Trẻ. 25

Một Thiên Chúa là tình yêu. 26

Đức Kitô cứu các con. 27

Người đang sống!. 29

Thần Khí ban sự sống. 30

CHƯƠNG NĂM…

Những con đường của tuổi trẻ. 31

Một thời gian cho những giấc mơ và những chọn lựa. 31

Khát khao sống và kinh nghiệm.. 33

Trong tình bằng hữu với Đức Kitô. 35

Lớn lên trong trưởng thành. 36

Con đường huynh đệ. 38

Tuổi trẻ và sự tham gia. 39

Những nhà truyền giáo can đảm.. 41

CHƯƠNG SÁU..

Người Trẻ với cội rễ. 42

Đừng để cho mình bị mất gốc. 43

Mối liên hệ của các con với người già. 44

Ước mơ và những viễn cảnh. 45

Cùng nhau mạo hiểm.. 46

CHƯƠNG BẢY..

Mục vụ giới trẻ. 48

Một chăm sóc mục vụ cách hội đồng. 48

Những cách hành động chính. 49

Những môi trường thích hợp. 51

Chăm sóc mục vụ của các tổ chức giáo dục. 52

Các lĩnh vực khác nhau của việc phát triển mục vụ. 54

Một mục vụ giới trẻ phổ thông. 55

Luôn luôn truyền giáo. 58

Đồng hành bởi người lớn. 58

CHƯƠNG TÁM…

Ơn Gọi 60

Lời mời gọi làm bạn hữu của Chúa. 60

Sống cho tha nhân. 61

Tình yêu và gia đình. 62

Công ăn việc làm.. 64

Các ơn gọi thánh hiến đặc biệt 66

CHƯƠNG CHÍN..

Sự phân định. 67

Làm sao để phân định ơn gọi của mình. 67

Lắng nghe và đồng hành. 69

Và để kết thúc … một ước mong. 71

                                        

TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

CHRISTUS VIVIT

CỦA ĐỨC THÁNH CHA

PHANXICÔ

CHO GIỚI TRẺ VÀ TOÀN THỂ DÂN THIÊN CHÚA

  1. Đức Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và bằng một cách tuyệt vời, Người mang tuổi trẻ đến cho thế giới của chúng ta, và mọi sự Người chạm đến đều trở nên trẻ trung, mới mẻ và tràn đầy sức sống. Vậy, những lời đầu tiên mà Cha muốn nói với mọi Kitô hữu trẻ là: Đức Kitô đang sống và Người muốn các con được sống!
  2. Người ở trong các con, Người ở với các con và Người không bao giờ bỏ rơi các con. Dù các con có lạc xa đến đâu đi nữa, Người, Đấng Phục Sinh, vẫn luôn ở đó. Người gọi các con và Người chờ đợi các con quay về với Người và làm lại từ đầu. Khi các con cảm thấy mình già đi vì đau khổ, giận hờn hay sợ hãi, nghi ngờ hay thất bại, Người sẽ luôn ở đó để phục hồi sức mạnh và niềm hy vọng của các con.
  3. Với lòng ưu ái, Cha viết Tông Huấn này cho tất cả các Kitô hữu trẻ. Nó có ý nhắc nhở các con về những xác tín chắc chắn được phát sinh từ đức tin của chúng ta, đồng thời để khuyến khích các con lớn lên trong sự thánh thiện và cam kết dấn thân với ơn gọi cá nhân của các con. Nhưng vì nó cũng là một phần của tiến trình Thượng Hội Đồng Giám Mục, tôi cũng gửi sứ điệp này đến toàn thể Dân Chúa, các mục tử và cũng như các tín hữu, vì tất cả chúng ta đều được thách đố và thúc giục suy tư cả về những người trẻ lẫn cho những người trẻ. Do đó, tôi sẽ nói chuyện trực tiếp với những người trẻ ở một số nơi, trong khi ở những nơi khác, tôi sẽ đề ra một số suy nghĩ tổng quát hơn về việc phân định của Hội Thánh.[a]
  4. Tôi đã để cho sự phong phú của các suy nghĩ và các cuộc đối thoại nảy sinh từ Thượng Hội Đồng Giám Mục năm ngoái gây hứng khởi cho mình. Tôi không thể bao gồm tất cả các đóng góp ở đây, nhưng mọi người có thể đọc chúng trong Tài Liệu Kết Thúc. Tuy nhiên, khi viết thư này, tôi đã cố gắng tóm tắt những đề nghị mà tôi cho là quan trọng nhất. Bằng cách này, những lời của tôi sẽ vang vọng vô số tiếng nói của các tín hữu khắp nơi trên toàn thế giới, là những người đã góp ý kiến ​​của họ cho Thượng Hội Đồng. Những người trẻ không phải là tín hữu, nhưng muốn chia sẻ suy nghĩ của các em, cũng đã đưa ra những vấn đề khiến tôi phải đặt ra những câu hỏi mới.

 

CHƯƠNG MỘT

Lời Chúa nói gì về những người trẻ?

  1. Chúng ta hãy rút ra một số sự kho tàng của Sách Thánh, vì chúng thường nói về những người trẻ và về cách Chúa đến gần để gặp gỡ các em.

Trong Cựu Ước

  1. Trong thời đại mà những người trẻ không được coi trọng, một số văn bản cho thấy rằng Thiên Chúa nhìn các em một cách khác hẳn. Chẳng hạn như Giuse là một người trẻ nhất trong gia đình ông (x. St 37: 2-3), nhưng Thiên Chúa đã cho ông thấy những điều cao cả trong các giấc mơ và khi khoảng hai mươi tuổi, ông đã trổi vượt trên tất cả các anh em của ông trong những vấn đề quan trọng (x. St 37-47).
  2. Chúng ta thấy ở ông Giđeon, sự thẳng thắn của những người trẻ, là những người không quen đánh bóng thực tại. Khi được nói rằng Chúa ở với ông, ông đã trả lời: “Nhưng nếu Chúa ở cùng chúng tôi, vậy tại sao tất cả những điều này lại xảy ra cho chúng tôi?” (Tl 6:13). Thiên Chúa không bị xúc phạm bởi lời trách móc đó, nhưng tiếp tục ra lệnh cho ông: “Hãy đi với sức mạnh ngươi đang có mà cứu dân Israel!” (Tl 6:14).
  3. Samuel vẫn còn là một cậu bé, nhưng Chúa đã nói với cậu. Nhờ lời khuyên của một người lớn, cậu đã mở lòng khi nghe Chúa gọi: “Lạy Chúa, xin hãy nói vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe” (1 Sam 3: 9-10). Kết quả là cậu đã trở thành một ngôn sứ vĩ đại, người đã can thiệp vào những thời điểm quan trọng trong lịch sử của quốc gia mình. Vua Saulê cũng còn trẻ khi Chúa gọi ông thì hành sứ mệnh của ông (x. 1 Sam 9: 2).
  4. Vua Đavid đã được chọn lúc còn là một cậu bé. Khi ngôn sứ Samuel tìm kiếm vị vua tương lai của Israel, một người đã đề nghị những người con lớn tuổi và nhiều kinh nghiệm hơn của mình làm ứng viên. Tuy nhiên, ngôn sứ đã nói rằng người được chọn là người trẻ Đavid, lúc ấy đang chăn chiên (x. 1 Sam 16: 6-13), vì “loài người nhìn vẻ bề ngoài, còn Chúa thì nhìn thấu tận đáy lòng” (c. 7). Vinh quang của tuổi trẻ là ở con tim, hơn cả sức mạnh thể chất hay ấn tượng gây ra cho người khác.
  5. Solomon, khi ông phải kế vị cha mình, đã cảm thấy bối rối và đã thưa cùng Thiên Chúa: “Con chỉ là một thiếu niên quá trẻ, không biết phải làm gì cả!” (1 V 3: 7). Tuy nhiên, sự táo bạo của tuổi trẻ đã khiến ông cầu xin Thiên Chúa ban cho ơn khôn ngoan và ông đã tận tụy với sứ vụ của mình. Một điều tương tự đã xảy ra cho ngôn sứ Giêrêmia, đã được gọi, bất chấp tuổi trẻ của ông để đánh thức dân mình. Trong sợ hãi, ông đã nói: “Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa! Thật sự con không biết nói sao, vì con chỉ là một đứa trẻ” (Gr 1: 6). Nhưng Chúa bảo ông đừng nói thế (x. Gr 1: 7), và thêm rằng: “Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” (Gr 1: 8). Lòng tận tuỵ của ngôn sứ Giêrêmia với sứ vụ của mình cho thấy những gì có thể xảy ra khi tính bạo dạn của tuổi trẻ được kết hợp với quyền năng của Thiên Chúa.
  6. Một nữ tỳ Do Thái của một tướng ngoại quốc Naaman đã can thiệp bằng đức tin và giúp ông được chữa lành bệnh (x. 2 V 5: 2-6). Cô Rút là mẫu gương của lòng quảng đại khi đã ở lại với mẹ chồng, trong lúc bà gặp khó khăn (x. Rt 1:1-18), nhưng cô cũng đã cho thấy sự táo bạo trong việc tiếp tục vươn lên trong cuộc sống (x. Rt 4:1-17).

Trong Tân Ước

  1. Một trong những dụ ngôn của Chúa Giêsu (x. Lc 15:11-32) liên quan đến việc một người con “thứ” muốn rời nhà cha mình để đến một vùng đất xa xăm (x. cc 12-13). Tuy nhiên, những ý tường về độc lập của cậu đã tan biến và lãng phí (x. c 13), và cậu đã cảm nghiệm được nỗi cay đắng của sự cô đơn và nghèo đói (x. cc 14-16). Tuy nhiên, cậu đã tìm được sức mạnh để làm lại từ đầu (x. cc 17-19) cùng quyết tâm đứng dậy và trở về nhà (x. c 20). Theo lẽ tự nhiên thì các tâm hồn trẻ sẵn sàng thay đổi, để quay trờ về, đứng dậy và học từ cuộc sống. Làm sao lại có người có thể không hỗ trợ người con ấy trong quyết tâm mới này? Tuy nhiên, người anh của cậu đã có một quả tim bị lão hoá; Anh để mình bị lòng tham lam, tính ích kỷ và đố kị chiếm hữu (Lc 15:28-30). Chúa Giêsu khen tội nhân trẻ là người đã trở lại con đường ngay thẳng hơn người anh tự cho mình là trung tín, nhưng thiếu tinh thần yêu thương và nhân từ.
  2. Chúa Giêsu, Đấng trẻ trung mãi mãi, muốn ban cho chúng ta những quả tim trẻ mãi. Lời Chúa yêu cầu chúng ta “hãy loại bỏ men cũ để trở nên bột mới” (1 Cor 5:7). Thánh Phaolô mời chúng ta tự cởi bỏ “con người cũ” của mình và để mặc con người “trẻ” [mới] (Col 3: 9-10).[1] Khi giải thích ý nghĩa của việc mặc lấy sự trẻ trung ấy, “là được đổi mới”, (c. 10), ngài nói đến “lòng trắc ấn, tử tế, khiêm tốn, hiền lành và nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau” (Col 3: 12-13). Nói cách khác, tuổi trẻ thật sự có nghĩa là có một quả tim có khả năng yêu thương; ngược lại điều gì chia cách chúng ta với người khác làm cho linh hồn chúng ta già đi. Và như thế ngài kết luận: “trên hết mọi sự, anh em hãy mặc lấy đức ái, là mối dây ràng buộc mọi sự lại với nhau trong sự trọn lành. (Col 3:14).
  3. Chúng ta cũng hãy nhớ rằng Chúa Giêsu không có ích gì cho những người lớn coi thường người trẻ hoặc thống trị các em. Ngược lại, Người khăng khăng rằng, “người lớn nhất trong các con phải trở nên giống như người trẻ nhất” (Lc 22:26). Đối với Người, tuổi tác không đem lại đặc quyền, và còn trẻ không có nghĩa là có giá trị thấp hoặc phẩm giá thấp hơn.
  4. Lời Chúa nói rằng những người trẻ nên được đối xử như những người “anh em” (1 Tim 5:1), và cảnh báo các bậc cha mẹ không được khích động con cái mình, kẻo chúng trở nên mất can đảm” (Col 3:21). Người trẻ không được định để trở nên mất can đảm; các em được định để mơ ước những điều cả thể, để tìm kiếm những chân trời rộng lớn, để nhắm đến điều cao hơn, để gánh vác thế giới, để chấp nhận thử thách và cống hiến những gì tốt nhất của chính mình hầu xây dựng một điều gì đó tốt hơn. Đó là lý do tại sao tôi không ngừng thúc giục các người trẻ đừng để mình bị cướp mất hy vọng; với mỗi em, tôi nhắc lại: “Đừng để ai coi thường tuổi trẻ của con” (1 Tim 4:12).
  5. Tuy nhiên, những người trẻ cũng được thúc giục “để vâng phục quyền bính của những người lớn tuổi hơn” (1 Phr 5: 5). Thánh Kinh không bao giờ ngừng khẳng định rằng phải tỏ ra tôn trọng những bậc lão thành một cách sâu xa, vì họ có nhiều kinh nghiệm; họ đã trải qua những thành công và những thất bại, những niềm vui và những đau khổ của cuộc đời, những giấc mơ và những thất vọng của nó. Trong thinh lặng của con tim họ, họ có một kho kinh nghiệm có thể dạy chúng ta để chúng ta không phạm sai lầm hoặc bị lừa dối bởi những lời gian trá. Một hiền nhân cổ xưa yêu cầu chúng ta tôn trọng một số giới hạn nào đó và làm chủ những bốc đồng của mình: “Hãy thúc giục các thanh niên phải biết tự chủ.” (Tit 2:6). Thật vô ích khi chấp nhận việc sùng bái giới trẻ hoặc dại dột gạt bỏ người khác ra ngoài chỉ vì họ lớn tuổi hoặc thuộc thế hệ khác. Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng những người khôn ngoan có thể đem ra từ kho lẫm của họ cả những đồ mới lẫn đồ cũ (x. Mt 13:52). Một người trẻ khôn ngoan mở lòng ra cho tương lai, nhưng vẫn có khả năng học được điều gì đó từ kinh nghiệm của những người khác.
  6. Trong Tin mừng Thánh Marcô, chúng ta thấy một người, khi nghe Chúa Giêsu nói về các giới răn, thì thưa rằng, “Tất cả những điều ấy con đã giữ từ thời trai trẻ” (10:20). Tác Giả Thánh Vịnh đã nói cùng một điều: “Lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân, Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài” (Tv 71:5:17). Chúng ta đừng bao giờ hối hận về việc dành tuổi trẻ của mình để sống tốt, mở lòng ra với Chúa, và sống một cách khác. Không điều nào trong những điều ấy lấy đi tuổi trẻ của chúng ta mà thay vào đó củng cố và canh tân nó: “tuổi xuân của ngươi được đổi mới tựa chim bằng (Tv 103:5). Vì lý do này, Thánh Augustinô có thể than thở: “Muộn màng ta đã yêu ngươi, vẻ đẹp luôn cổ xưa và luôn luôn mới! Muộn màng ta đã yêu ngươi![2] Tuy nhiên, người giàu, là người đã trung thành với Chúa khi còn trẻ, đã để cho những năm tháng trôi qua cướp mất giấc mơ của mình; ông thích gắn bó với sự giàu sang của mình hơn (x. Mc 10:22).
  7. Mặt khác, trong Tin Mừng Thánh Matthêu, chúng ta tìm thấy một thanh niên (x. 19:20-22) đến gần Chúa Giêsu và hỏi xem anh ta có thể làm điều gì hơn nữa (c. 20); trong điều này, anh chứng minh rằng tinh thần cởi mở trẻ trung là tinh thần tìm kiếm những chân trời mới và những thách đố lớn. Tuy nhiên, tinh thần của anh không thật sự trẻ trung như thế, vì anh đã trở nên gắn bó với sự giàu sang và tiện nghi. Anh ta nói rằng anh muốn một điều gì đó nhiều hơn, nhưng khi Chúa Giêsu yêu cầu anh đại lượng và phân phát của cải của mình, anh nhận ra rằng mình không thể bỏ mọi sự mình có. Cuối cùng, “khi nghe những lời này, người thanh niên đã buồn rầu bỏ đi” (c. 22). Anh ta đã từ bỏ tuổi trẻ của mình.
  8. Tin Mừng cũng nói về một nhóm thiếu nữ trẻ khôn ngoan, sẵn sàng và chờ đợi, trong khi những thiếu nữ khác thì đãng trí và thiếp ngủ (x. Mt 25: 1-13). Thật ra, chúng ta có thể dành tuổi trẻ của mình để lơ là, sống hời hợt, nửa tỉnh nửa mê, không có khả năng nuôi dưỡng những mối liên hệ có ý nghĩa hoặc cảm nghiệm những điều sâu sắc hơn trong cuộc sống. Bằng cách này, chúng ta có thể tàng trữ một tương lai bé nhỏ và không đáng kể. Hoặc chúng ta có thể dành tuổi trẻ của mình để khao khát những điều đẹp đẽ và cao cả, và do đó tàng trữ một tương lai đầy sức sống và sự phong phú nội tâm.
  9. Nếu các con mất sức sống nội tâm, các giấc mơ, lòng nhiệt thành, tính lạc quan và lòng quảng đại của các con, thì Chúa Giêsu đang đứng trước các con như đã có lần Người đứng trước người con trai đã chết của bà goá, với tất cả quyền năng của sự Phục Sinh của Người, Người thúc giục các con : “Hỡi chàng thanh niên, Ta truyền cho ngươi, hãy chỗi dậy” (Lc 7:14).
  10. Để chắc chắn, nhiều đoạn khác của lời Chúa có thể soi sáng giai đoạn này của cuộc đời các con. Chúng ta sẽ dùng một số trong số trong các đoạn ấy ở các chương sau.

 

CHƯƠNG HAI

Chúa Giêsu, luôn luôn trẻ trung

  1. Chúa Giêsu là “người trẻ giữa những người trẻ để làm gương cho giới trẻ và thánh hiến các em cho Chúa”.[3] Vì lý do này mà Thượng Hội Đồng Giám Mục nói rằng “Tuổi trẻ là thời kỳ nguyên thủy và kích động của cuộc đời, là cuộc sống mà chính Chúa Giêsu đã sống, trong khi thánh hóa nó.”[4]

Tuổi trẻ của Chúa Giêsu

  1. Chúa đã “đã trút linh hồn” (x. Mt 27:50) trên thập giá khi Người mới trên ba mươi tuổi (x. Lc 3:23). Điều quan trọng là nhận ra rằng Chúa Giêsu là một người trẻ. Người đã hiến mạng sống của mình khi Người, theo ngôn từ thởi đại, còn là một thanh niên. Người đã bắt đầu sứ vụ công khai của Người ở tuổi thanh xuân, và như thế, một ánh sáng bừng lên (Mt 4:16) tỏa sáng rực rỡ nhất khi Người hiến cuộc đời của mình cho đến cùng. Sự kết thúc ấy không phải là điều gì đơn thuần đã xảy ra; nhưng đúng hơn, toàn thể tuổi trẻ của Người, ở mọi thời điểm, đã là một sự chuẩn bị quý giá cho sự kết thúc này. Tất cả mọi sự trong cuộc đời của Chúa Giêsu đều là một dấu chỉ về mầu nhiệm của Người;[5] thật ra, toàn thể cuộc đời của Đức Kitô là một mầu nhiệm cứu chuộc.[6]
  2. Tin Mừng không cho chúng ta biết gì về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, nhưng kể lại một số biến cố thời niên thiếu và tuổi trẻ của Người. Thánh Matthêu đặt thời tuổi trẻ của Chúa giữa hai biến cố: gia đình của Người trở về Nazareth sau khi cuộc lưu đày và phép rửa của Chúa Giêsu ở sông Giôđăng, là lúc khởi đầu sứ vụ công khai của Người. Những hình ảnh cuối cùng chúng ta có về Chúa Giêsu khi còn thơ bé là những hình ảnh của một người tị nạn tí hon ở Ai Cập (x. Mt 2:14-15) và hồi hương ở Nazareth (x. Mt 2:19-23). Hình ảnh đầu tiên của chúng ta về Chúa Giêsu khi còn là một thanh niên cho thấy Người đứng giữa đám đông bên bờ sông Giođăng để được người anh họ là Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, giống như bất kỳ phần tử nào khác trong dân của Người (x. Mt 3:13-17) .
  3. Phép Rửa của Chúa Giêsu không giống như phép rửa của chúng ta, là phép rửa đưa vào đời sống ân sủng, nhưng là một sự thánh hiến trước khi bắt tay vào sứ vụ cao cả của đời Người. Tin Mừng nói rằng trong phép rửa của Người, Chúa Cha đã vui mừng và rất hài lòng: “Con là con yêu dấu của Cha” (Lc 3:22). Chúa Giêsu ngay lập tức có vẻ đầy Thánh Thần, và được Ngài dẫn vào hoang địa. Ở đó, Người chuẩn bị đi ra để rao giảng và làm các phép lạ, để đem lại tự do và chữa lành (x. Lc 4:1-14). Mỗi người trẻ cảm thấy được mời gọi tham gia một sứ vụ trong thế giới này đều được mời nghe Chúa Cha nói những lời tương tự trong lòng mình: “Con là con yêu dấu của Cha”.
  4. Giữa hai tường thuật này, chúng ta tìm thấy một tường thuật khác, cho thấy Chúa Giêsu là một thiếu niên, khi Người cùng cha mẹ trở về Nazareth, sau khi bị lạc và được tìm thấy trong Đền Thờ (x. Lc 2: 41-51). Ở đó, chúng ta đọc rằng, “Người đã vâng phục các ngài” (x. Lc 2:51); Người đã không từ chối gia đình. Rồi Thánh Luca cho biết thêm, “Chúa Giêsu càng ngày càng lớn càng thêm khôn ngoan, và đẹp lòng Thiên Chúa cùng người ta” (x. Lc 2:52). Nói cách khác, đây là thời điểm chuẩn bị, khi Chúa Giêsu lớn lên trong mối liên hệ với Chúa Cha và với những người khác. Thánh Gioan Phaolô II giải thích rằng Người không chỉ lớn lên về mặt thể lý, mà còn có sự “lớn lên về mặt tâm linh trong Chúa Giêsu”, bởi vì “việc đầy ân sủng trong Chúa Giêsu tương xứng với tuổi của Người: luôn luôn có sự viên mãn, nhưng là sự viên mãn tăng lên khi Người lớn lên theo tuổi.[7]
  5. Từ những gì Tin Mừng cho chúng ta biết, chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu, trong những năm còn trẻ, đã được “đào tạo”, được chuẩn bị để thực hiện kế hoạch của Chúa Cha. Thời niên thiếu và tuổi trẻ của Người đã đặt Người vào con đường dẫn đến sứ vụ siêu phàm ấy.
  6. Trong tuổi thiếu niên và tuổi trẻ, mối liên hệ của Chúa Giêsu với Chúa Cha là của Người Con yêu dấu. Được kéo đến cùng Chúa Cha, Người lớn lên trong sự lo lắng cho các công việc của Ngài: “Cha mẹ có biết rằng con phải lo cho công việc của Cha Con sao?” (Lc 2:49). Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng Chúa Giêsu là một thiếu niên thu mình hoặc một người trẻ chỉ biết nghĩ đến mình. Các mối liên hệ của Người là các mối liên hệ của một người trẻ, đã chia sẻ đầy đủ trong cuộc sống của gia đình và của dân Người. Người đã học nghề của cha mình và sau đó thay ông làm thợ mộc. Có khi trong Tin Mừng, Người được gọi là “con bác thợ mộc” (Mt 13:55) và khi khác thì chỉ đơn thuần là “bác thợ mộc” (Mc 6: 3). Chi tiết này cho thấy Người đã chỉ là một người trẻ khác trong thị trấn của Người, có liên quan bình thường với những người khác. Không ai coi Người là phi thường hay tách biệt với những người khác. Chính lý vì do này mà khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng thì mọi người không thể hiểu được rằng Người có sự khôn ngoan này ở đâu: “Đây không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4:22).
  7. Thật ra, Chúa Giêsu không lớn lên trong mối liên hệ đóng kín và riêng biệt[b] với Đức Mẹ và Thánh Giuse, nhưng sẵn sàng tương tác với đại gia đình, là họ hàng của cha mẹ Người và bạn bè của các ngài.[8] Do đó, chúng ta có thể hiểu tại sao, khi trở về từ chuyến hành hương Giêrusalem, cha mẹ Người dễ dàng nghĩ rằng, như một cậu bé mười hai tuổi (x. Lc 2,42), Người đã tự do đi lại giữa những người khác, mặc dù cả ngày các ngài đã không gặp Người: “Ông bà nghĩ rằng Người đi chung với đoàn lữ hành, sau một ngày đường” (Lc 2:44). Chắc chắn các ngài đã cho rằng Chúa Giêsu đã ở đó, hòa nhập với những người khác, đùa giỡn với những người trẻ khác cùng lứa tuổi, lắng nghe những người lớn kể chuyện và chia sẻ những niềm vui và nỗi buồn của nhóm. Thật vậy, từ Hy Lạp mà Thánh Luca sử dụng để mô tả nhóm hành hương – synodía – gợi lên rõ ràng một cộng đồng lớn hơn trên một cuộc hành trình mà trong đó Thánh Gia là một thành phần. Nhờ sự tin tưởng của cha mẹ, Chúa Giêsu có thể tự do di chuyển và học cách hành trình với những người khác.

Tuổi trẻ của Người soi sáng chúng ta

  1. Những khía cạnh này trong cuộc sống của Chúa Giêsu có thể gây cảm hứng cho tất cả những người trẻ đang lớn lên và đang chuẩn bị để hoàn thành sứ vụ của mình. Điều này liên quan đến việc trưởng thành trong mối liên hệ với Chúa Cha, trong ý thức trở thành một phần của gia đình và dân tộc, cùng mở lòng ra để được đổ đầy Thánh Thần và dẫn đến việc thực hiện sứ vụ mà Thiên Chúa trao cho các em, ơn gọi cá nhân của các em. Không nên bỏ qua điều này trong việc mục vụ giới trẻ, vì chúng ta sẽ tạo ra các dự án tách những người trẻ ra khỏi gia đình và cộng đồng lớn hơn của các em, hoặc biến các em thành một thiểu số ưu tuyển, được bảo vệ khỏi mọi ô nhiễm. Thay vào đó, chúng ta cần các dự án có thể củng cố các em, đồng hành với các em và thúc đẩy các em gặp gỡ những người khác, tham gia vào việc phục vụ quảng đại, vào sứ vụ.
  2. Còn các con, những người trẻ, Chúa Giêsu không dạy các con từ xa hay từ bên ngoài, nhưng từ trong chính tuổi trẻ của các con, một tuổi trẻ mà Người chia sẻ với các con. Điều rất quan trọng đối với các con là chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trẻ như được trình bày trong các sách Tin Mừng, vì Người thật sự là một người trong các con, và chia sẻ nhiều đặc điểm của những quả tim trẻ của các con. Chúng ta thấy điều này chẳng hạn như qua những đặc tính sau: “Chúa Giêsu đã có niềm tin tưởng vô điều kiện vào Chúa Cha; Người đã duy trì tình bằng hữu với các môn đệ, và ngay cả trong những lúc khủng hoảng, Người vẫn trung thành với các ông. Người đã tỏ lòng trắc ẩn sâu xa với những người yếu đuối nhất, đặc biệt là những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi và những người bị xã hội khai trừ. Người đã can đảm đối đầu với những người có quyền về tôn giáo và chính trị thời ấy; Người đã biết cảm giác bị hiểu lầm và bị chối từ là gì; Người đã trải qua cảm giác sợ đau khổ và Người đã nhận thức được sự yếu đuối của Cuộc Khổ Nạn. Người đã hướng cái nhìn về tương lai, phó mình trong bàn tay an toàn của Chúa Cha trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong Chúa Giêsu, tất cả những người trẻ có thể nhìn thấy chính mình.[9]
  3. Đàng khác, Chúa Giêsu đã sống lại và Người muốn biến chúng ta thành những người chia sẻ sự sống mới của việc phục sinh. Người là sự trẻ trung thật sự của một thế giới đang già đi, sự trẻ trung của một vũ trụ đang chờ đợi trong cơn “chuyển bụng đau đớn” (Rm 8:22) để được mặc lấy ánh sáng và sống sự sống của Người. Với Người ở kề bên, chúng ta có thể uống nước từ suối nguồn thật sự, là nước làm cho tất cả mọi ước mơ, dự án, lý tưởng cao thượng của chúng ta được sống, trong khi thúc đẩy chúng ta công bố điều làm cho cuộc sống thật sự đáng giá. Hai chi tiết gây tò mò trong Tin Mừng Thánh Marcô cho thấy những người được sống lại với Đức Kitô được mời gọi đến tuổi trẻ đích thực như thế nào. Trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa, chúng ta thấy một người trẻ muốn theo Chúa Giêsu, nhưng trong khi sợ hãi đã bỏ chạy mình trần (x. 14: 51-52); anh ta thiếu sức mạnh để liều mình mà theo Chúa. Tuy nhiên, ở ngôi mộ trống, chúng ta thấy một người trẻ khác, mặc một chiếc áo dài trắng (16:5), nói với các phụ nữ rằng đừng sợ và công bố niềm vui Phục Sinh (x. 16:6-7).
  4. Chúa đang mời gọi chúng ta thắp lên những ngôi sao trong đêm tối của những người trẻ khác. Người mời chúng ta nhìn lên những ngôi sao thật sự, tất cả những dấu chỉ khác nhau này mà Người ban cho chúng ta để hướng dẫn chúng ta, và bắt chước người nông dân quan sát chúng trước khi ra ngoài làm ruộng. Thiên Chúa thắp sáng những ngôi sao để giúp chúng ta tiếp tục bước đi: “Các tinh tú, mỗi ngôi ở vị trí mình, tưng bừng chiếu sáng. Người gọi chúng, chúng thưa: Có mặt” (Bar 3:34-35). Chính Đức Kitô là ánh sáng hy vọng vĩ đại và là hướng đạo của chúng ta trong đêm tối, vì Người là “Sao Mai sáng ngời” (Kh 22:16).

Tuổi trẻ của Hội Thánh

  1. Còn hơn chỉ là một khoảng thời gian, Tuổi trẻ là một trạng thái của tâm hồn. Đó là lý do tại sao một tổ chức cổ xưa như Hội Thánh có thể kinh nghiệm sự đổi mới và trở lại tuổi trẻ ở những thời điểm khác nhau trong lịch sử lâu đời của mình. Thật vậy, vào những lúc bi thảm nhất trong lịch sử của mình, Hội Thánh cảm thấy được mời gọi trở lại tình yêu ban đầu với tất cả con tim của mình. Nhắc lại sự thật này, Công đồng Vaticanô II đã ghi nhận rằng, “Được phong phú hoá bởi một lịch sử lâu dài và sống động, cùng tiến đến sự hoàn thiện của con người trong thời gian và những vận mệnh cuối cùng của lịch sử và cuộc sống, Hội Thánh là tuổi trẻ thật sự của thế giới”. Nơi Hội Thánh, người ta luôn có thể gặp gỡ Đức Kitô, “người đồng hành và người bạn của những người trẻ.”[10]

Một Hội Thánh sẵn sàng đổi mới

  1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giải thoát Hội Thánh khỏi những kẻ làm cho Hội Thánh già đi, giam cầm Hội Thánh trong quá khứ, giữ Hội Thánh lại hoặc giữ cho Hội Thánh ngừng lại. Nhưng chúng ta cũng xin Người giải thoát Hội Thánh khỏi một cám dỗ khác: đó là nghĩ rằng mình trẻ trung bởi vì chấp nhận mọi sự mà thế gian cung cấp, nghĩ rằng mình được đổi mới nhờ gạt sứ điệp của mình sang một bên và hành động như mọi người khác. Không! Hội Thánh còn trẻ khi là chính mình, khi một lần nữa nhận được sức mạnh phát sinh từ Lời Chúa, bí tích Thánh Thể, và sự hiện diện hàng ngày của Đức Kitô cùng quyền năng của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hội Thánh trẻ trung khi cho thấy rằng mình có khả năng liên tục trở về suối nguồn của mình.
  2. Chắc chắn rằng là các phần tử của Hội Thánh, chúng ta không được trở nên loại người lập dị. Mọi người phải cảm thấy chúng ta như bạn bè và hàng xóm, như các Tông Đồ, được “sự ưu ái của tất cả mọi người” (Cv 2:47; x. 4: 21, 33; 5:13). Tuy nhiên, đồng thời chúng ta phải dám khác biệt, nói lên những lý tưởng khác với những lý tưởng của thế gian này, làm chứng cho vẻ đẹp của lòng quảng đại, phục vụ, trong sạch, kiên trì, tha thứ, trung thành với ơn gọi cá nhân, cầu nguyện, theo đuổi công lý và công ích, tình yêu dành cho người nghèo và tình bằng hữu xã hội.
  3. Hội Thánh của Đức Kitô luôn luôn có thể đầu hàng cám dỗ để mất nhiệt tình vì không còn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi mình vào cuộc mạo hiểm của đức tin, cho đi tất cả mà không kể đến những hiểm nguy; và có thể bị cám dỗ trở lại tìm kiếm một hình thức an toàn giả tạo và thế tục. Những người trẻ có thể giúp giữ cho Hội Thánh trẻ trung. Các em có thể ngăn ngừa Hội Thánh khỏi rơi vào thối nát; các em có thể giữ cho Hội Thánh tiến về phía trước, ngăn cản Hội Thánh khỏi kiêu căng và bè phái, giúp cho Hội Thánh nghèo hơn và làm chứng tốt hơn, đứng về phía những người nghèo và những người bị ruồng bỏ, đấu tranh cho công lý và khiêm tốn để cho mình được thử thách. Những người trẻ có thể mang đến cho Hội Thánh vẻ đẹp của tuổi trẻ khi các em kích thích khả năng của Hội Thánh để “vui mừng với những khởi đầu mới, để hiến thân mà không quay đầu trở lại, để canh tân và bắt đầu những cuộc chinh phục mới”.[11]
  4. Những người trong chúng ta không còn trẻ cần có cơ hội để gần gũi với tiếng nói và sự hăng say của các em. “Sự gần gũi tạo điều kiện cho Hội Thánh trở thành không gian đối thoại và làm chứng cho tình huynh đệ hấp dẫn”.[12] Chúng ta cần tạo thêm nhiều không gian để tiếng nói của những người trẻ được vang lên: “Lắng nghe làm cho việc trao đổi quà tặng trong bối cảnh đồng cảm được khả thi. Đồng thời, nó đặt ra các điều kiện để rao giảng Tin Mừng thật sự có thể chạm đến con tim một cách sắc bén và hiệu quả.[13]

Một Hội Thánh chú ý đến các dấu chỉ của thời đại.

  1. “Nếu đối với nhiều người trẻ, Thiên Chúa, tôn giáo và Hội Thánh dường như là những từ trống rỗng, thì các em lại rất nhạy cảm với khuôn mặt Chúa Giêsu khi được trình bày một cách hấp dẫn và hiệu quả.[14] Đó là lý do tại sao Hội Thánh không nên quá tập trung vào chính mình, nhưng trên hết, phản ánh Chúa Giêsu Kitô. Điều này có nghĩa là khiêm tốn thừa nhận rằng có một số điều cần phải được thay đổi một cách cụ thể, và vì mục đích này, Hội Thánh cần phải thu thập quan điểm, và thậm chí những lời chỉ trích của giới trẻ.
  2. Tại Thượng Hội Đồng, các Nghi Phụ đã công nhận rằng, một số đáng kể những người trẻ, vì đủ mọi thứ lý do, đã không yêu cầu Hội Thánh bất cứ điều gì vì các em không thấy Hội Thánh quan trọng với cuộc sống của các em. Một số em thậm chí còn yêu cầu một cách rõ ràng là để cho các em được yên, vì các em thấy sự hiện diện của Hội Thánh là một sự phiền hà, thậm chí khó chịu. Yêu cầu này thường không xuất phát từ sự khinh miệt thô lỗ hoặc bốc đồng, nhưng cũng có thể bắt nguồn từ những lý do nghiêm trọng và dễ hiểu: những gương xấu về tình dục và tài chính; việc thiếu chuẩn bị của các thừa tác viên có chức thánh, là những vị không biết cách tham gia có hiệu quả với sự nhạy cảm của người trẻ; thiếu quan tâm trong việc soạn bài giảng và trình bày lời Chúa; vai trò thụ động được trao cho giới trẻ trong cộng đồng Kitô hữu; Những khó khăn của Hội Thánh trong việc giải thích các quan điểm về giáo lý và luân lý của mình cho xã hội đương thời.[15]
  3. Mặc dù nhiều người trẻ rất vui khi thấy một Hội Thánh khiêm tốn, nhưng tin tưởng vào những hồng ân của mình và có khả năng đưa ra những lời phê bình công bằng và huynh đệ, những người trẻ khác lại muốn một Hội Thánh lắng nghe nhiều hơn, tức là một Hội Thánh không chỉ đơn thuần lên án thế gian. Các em không muốn thấy một Hội Thánh im lặng và nhút nhát, nhưng không phải lúc nào cũng chiến đấu vì hai hoặc ba vấn đề luôn ám ảnh mỉnh. Để đáng tin cậy với những người trẻ, có những lúc Hội Thánh cần lấy lại sự khiêm nhường của mình và chỉ cần lắng nghe, nhận ra rằng những gì người khác nói có thể cung cấp một số ánh sáng để giúp mình hiểu rõ hơn về Tin Mừng. Một Hội Thánh luôn luôn phòng thủ, quên đi sự khiêm nhường của mình và ngừng lắng nghe những người khác, không cho phép người ta chất vấn mình, sẽ mất đi tuổi trẻ và biến thành một viện bảo tàng. Làm sao Hội Thánh có thể đáp ứng những giấc mơ của người trẻ? Ngay cả khi Hội Thánh sở hữu chân lý của Tin Mừng, điều đó không có nghĩa là Hội Thánh đã hoàn toàn hiểu nó; đúng hơn, Hội Thánh được mời gọi tiếp tục phát triển trong sự hiểu biết kho báu vô tận đó.[16]
  4. Chẳng hạn như một Hội Thánh quá sợ hãi và quá cấu trúc có thể luôn luôn chỉ trích những nỗ lực bảo vệ nữ quyền, và liên tục nêu lên những rủi ro và sai lầm tiềm tàng trong các yêu sách đó. Trái lại, một Hội Thánh sống động có thể phản ứng bằng cách chú ý đến những yêu sách chính đáng của những phụ nữ tìm kiếm một sự công bằng và bình đẳng hơn. Một Hội Thánh sống động có thể nhìn lại lịch sử và thừa nhận rằng đã có khá nhiều cách cai trị độc đoán và thống trị, nhiều hình thức nô lệ, lạm dụng và bạo lực tình dục của nam giới. Với cái nhìn này, Hội Thánh có thể ủng hộ lời kêu gọi tôn trọng nữ quyền và đưa ra sự nâng đỡ có sức thuyết phục cho sự tương tác lớn lao hơn giữa nam giới và nữ giới, trong khi không cần phải đồng ý với tất cả mọi đề nghị của một số nhóm nữ quyền. Theo đường lối này, Thượng Hội Đồng đã tìm cách canh tân cam kết của Hội Thánh, “chống lại mọi sự kỳ thị và bạo lực dựa trên phái tính”.[17] Đó là câu trả lời của một Hội Thánh vẫn còn trẻ trung và để cho chính mình được thách đố và thúc đẩy bởi sự nhạy cảm của những người trẻ.

Đức Mẹ Maria, người phụ nữ trẻ của Nazareth

  1. Ở trung tâm của Hội Thánh, Đức Mẹ Maria tỏa sáng. Mẹ là mẫu mực tối cao cho một Hội Thánh trẻ trung đang tìm cách theo Đức Kitô với sự tươi mới và ngoan ngoãn. Khi còn rất trẻ, Mẹ đã chấp nhận sứ điệp của thiên sứ, nhưng Mẹ đã không ngại đặt câu hỏi (x. Lc 1:34). Với quả tim và linh hồn rộng mở, Mẹ đã trả lời, “Này, tôi là tôi tớ Chúa” (Lc 1:38).
  2. “Sức mạnh của lời ‘Xin Vâng’ của người trẻ Maria luôn luôn ấn tượng, sức mạnh của những lời, ‘xin cứ làm cho tôi’ mà Mẹ thưa cùng sứ thần. Đây không chỉ là sự chấp nhận thụ động hay cam chịu, hay một lời ‘Xin Vâng’ yếu ớt, như thể muốn nói, ‘Chà, hãy thử xem điều gì sẽ xảy ra’. Đức Mẹ không biết cụm từ ‘Hãy thử xem điều gì sẽ xảy ra’. Mẹ đã quyết tâm; Mẹ biết rõ điều gì sẽ đến và Mẹ thưa ‘Xin Vâng’ mà không do dự. Lời của Mẹ là lời ‘Xin Vâng’ của một người đã chuẩn bị cam kết dấn thân, một người sẵn sàng chấp nhận rủi ro, sẵn sàng đánh đổi mọi sự mình có, mà không có bất kỳ sự đảm bảo nào khác ngoài sự chắc chắn khi biết rằng Mẹ là người mang lời hứa. Vì vậy, Cha hỏi mỗi người trong các con: các con có thấy mình là người mang lời hứa không? Lời hứa nào hiện diện trong tâm hồn tôi mà tôi có thể nhận lấy? Sứ vụ của Đức Mẹ chắc chắn là sẽ khó khăn, nhưng những khó khăn không phải là lý do gì để thưa ‘Không’. Đương nhiên mọi sự sẽ trở nên phức tạp, nhưng không giống như cách xảy ra khi sự hèn nhát khiến chúng ta tê liệt vì mọi sự không rõ ràng hoặc không chắc chắn từ trước. Đức Mẹ đã không mua một bảo hiểm nào! Mẹ đã mạo hiểm, và vì lý do này, Mẹ mạnh mẽ, Mẹ là một người có ảnh hưởng, người có ảnh hưởng của Thiên Chúa. Lời “Xin Vâng” và ước muốn phục vụ của Mẹ mạnh hơn bất cứ nghi ngờ hay khó khăn nào.”[18]
  3. Không chịu khuất phục trước sự lẩn tránh hay ảo tưởng, “Mẹ đã đồng hành với sự đau khổ của Con Mẹ; Mẹ đã nâng đỡ Chúa bằng ánh mắt và bảo vệ Người bằng con tim. Mẹ đã chia sẻ nỗi khổ của Người, nhưng không bị nó áp đảo. Mẹ là người phụ nữ mạnh mẽ đã thốt ra lời ‘Xin Vâng’, người nâng đỡ và đồng hành, bảo vệ và ôm ấp. Mẹ là người bảo vệ cao cả của niềm hy vọng…. Từ Mẹ, chúng ta học cách thưa ‘Xin Vâng’ với lòng kiên nhẫn bền bỉ và sáng tạo của những người, không bị khuất phục, sẵn sàng làm lại một từ đầu.”[19]
  4. ​​Đức Mẹ là một thiếu nữ có tâm hồn cao thượng tràn ngập niềm vui (x. Lc 1:47), có đôi mắt phản chiếu ánh sáng của Chúa Thánh Thần, nhìn vào đời sống bằng đức tin và giữ tất cả mọi sự trong tâm hồn trẻ trung của Mẹ (x. Lc 2:19,51). Mẹ là người năng động, sẵn sàng lên đường ngay lập tức khi biết rằng người chị họ cần mình. Mẹ đã không nghĩ về kế hoạch của riêng mình, nhưng đã “vội vã ra đi đến vùng đồi núi” (Lc 1:39).
  5. Khi cần phải bảo vệ người con bé nhỏ, Mẹ đã cùng Thánh Giuse lên đường đến một vùng đất xa xôi (x. Mt 2:13-14). Mẹ cũng đã cùng các môn đệ chờ đợi sự tuôn đổ Thánh Thần (x. Cv 1:14). Trong sự hiện diện của Mẹ, một Hội Thánh trẻ đã ra đời, cùng với các Tông Đồ đi ra để hạ sinh một thế giới mới (x. Cv 2: 4-11).
  6. Ngày nay, Đức Maria là Người Mẹ luôn trông chừng con cái, là chúng ta, những đứa con của Mẹ, đang bước đi trong cuộc đời, thường mệt mỏi và thiếu thốn, nhưng ước mong rằng ánh sáng hy vọng sẽ không bị tắt. Đó là điều chúng ta mong ước: rằng ánh sáng hy vọng sẽ không bao giờ tắt. Đức Maria, Mẹ chúng ta nhìn đến dân hành hương này: một dân của những người trẻ mà Mẹ yêu thương, một dân đang tìm Mẹ trong thinh lặng của con tim giữa mọi ồn ào, huyên náo và sao lãng của cuộc hành trình. Nhưng dưới cái nhìn của Mẹ chúng ta, chỉ có chỗ cho sự im lặng của hy vọng. Vì thế, Đức Mẹ một lần nữa chiếu sáng tuổi trẻ của chúng ta.

Các Thánh Trẻ

  1. Lòng Hội Thánh cũng đầy những vị thánh trẻ đã hiến mạng sống mình cho Đức Kitô, nhiều vị trong các ngài thậm chí đã chết một cái chết tử vì đạo. Các ngài là những phản ảnh quý giá của Đức Kitô trẻ; chứng từ rạng rỡ của các ngài khuyến khích chúng ta và đánh thức chúng ta khỏi tình trạng ngủ gật của mình. Thượng Hội Đồng vạch ra rằng, “nhiều vị thánh trẻ đã để cho các đặc điểm của tuổi trẻ tỏa sáng trong tất cả vẻ đẹp của chúng, và vào thời các ngài, các ngài đã là những ngôn sứ thật của sự thay đổi. Gương sáng của các ngài cho thấy những gì người trẻ có thể làm, khi mở long ra để gặp gỡ Đức Kitô.[20]
  2. “Nhờ sự thánh thiện của những người trẻ, Hội Thánh có thể đổi mới tinh thần hăng say và sức sống tông đồ của mình. Hương thơm thánh thiện được tạo ra bởi cuộc sống tốt đẹp của rất nhiều người trẻ có thể chữa lành vết thương của Hội Thánh và thế giới, bằng cách đưa chúng ta trở lại với tình yêu trọn vẹn mà chúng ta luôn được mời gọi đến: những vị thánh trẻ gợi hứng cho chúng ta để trở lại với tình yêu ban đầu (x. Kh 2:4).[21] Một số vị thánh chưa bao giờ đạt đến tuổi trưởng thành, nhưng các ngài đã cho chúng ta thấy rằng có một cách khác để sống tuổi trẻ của mình. Chúng ta hãy nhớ lại ít nhất một vài vị trong các ngài, mỗi vị theo cách riêng của mình, và ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, đã sống cuộc sống thánh thiện.
  3. Vào thế kỷ thứ ba, Thánh Sebastianô là một đội trưởng trẻ của đội cận vệ Praetorian. Người ta nói rằng ngài đã nói về Đức Kitô khắp nơi và cố gắng hoán cải các đồng đội của mình, đến nỗi ngài được lệnh phải chối bỏ đức tin của ngài. Vì ngài đã từ chối, nên đã bị xử bắn bằng cung tên, nhưng ngài vẫn sống sót và tiếp tục rao giảng Đức Kitô một cách không sợ hãi. Cuối cùng, Sebastianô bị đánh chết.
  4. Thánh Phanxicô thành Assisi, khi còn rất trẻ và đầy những giấc mơ. Ngài đã nghe Chúa Giêsu mời gọi trở nên nghèo như Người và xây dựng lại Hội Thánh bằng chứng từ ​​của mình. Ngài đã vui mừng từ bỏ tất cả những gì mình có và giờ đây là vị thánh của tình huynh đệ phổ quát, anh em của tất cả mọi người. Ngài đã chúc tụng Chúa vì những thụ tạo của Người. Thánh Phanxicô qua đời năm 1226.
  5. Thánh Gianđa (Jeanne d’Arc) sinh năm 1412. Chị là một cô gái nông dân trẻ tuổi, mặc dù có những năm tháng dịu dàng, đã chiến đấu để bảo vệ nước Pháp khỏi quân xâm lược. Bị hiểu lầm vì thái độ, hành động và cách sống đức tin của chị, Gianđa đã bị hoả thiêu.
  6. Chân phước Anrê Phû Yên là một chàng thanh niên người Việt Nam ở thế kỷ XVII. Anh là một giáo lý viên và hỗ trợ các nhà truyền giáo. Anh bị cầm tù vì đức tin, và vì đã không chịu chối bỏ đức tin, nên anh đã bị giết. Anrê đã chết trong khi kêu tên Chúa Giêsu.
  7. Cũng trong thế kỷ ấy, Thánh Kateri Tekakwitha, một thổ dân trẻ ở Bắc Mỹ, đã bị bách hại vì đức tin của mình và để trốn thoát, cô đã đi bộ hơn ba trăm cây số trong rừng hoang. Kateri đã tận hiến cho Thiên Chúa và đả chết trong khi nói: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa!”
  8. Thánh Đôminicô Saviô đã dâng tất cả những đau khổ của mình cho Đức Mẹ. Khi Thánh Gioan Bosco dạy cậu rằng sự thánh thiện liên quan đến việc luôn vui vẻ, cậu đã mở lòng ra với một niềm vui hay lây. Cậu muốn gần gũi những người trẻ bị bỏ rơi và tàn tật nhất trong các bạn trẻ của cậu. Đôminicô qua đời năm 1857 lúc mười bốn tuổi, trong khi nói rằng: “Kỳ diệu thay điều tôi đang chiêm ngưỡng!”
  9. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu sinh năm 1873. Năm mười lăm tuổi, vượt qua nhiều khó khăn, chị đã thành công trong việc gia nhập tu viện Carmelô. Têrêxa đã sống con đường bé nhỏ để hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu của Chúa và quyết tâm thổi bùng lên ngọn lửa tình yêu đang cháy trong lòng Hội Thánh với lời cầu nguyện của chị.
  10. Chân phước Ceferino Namuncurá là một thiếu niên người Á Căn Đình, con trai của tù trưởng một bộ lạc bản xứ ở một vùng hẻo lành. Cậu đã trở thành một chủng sinh dòng Salêdiên, tràn đầy ao ước trở về bộ lạc của mình để đem Chúa Giêsu Kitô đến cho họ. Ceferino đã từ trần năm 1905.
  11. Chân phước Isidore Bakanja là một giáo dân từ Congo, người làm chứng cho đức tin của mình. Anh đã bị tra tấn một thời gian dài vì đã giới thiệu Kitô giáo cho những người trẻ khác. Isidore đã từ trần năm 1909 trong khi tha thứ cho kẻ giết mình,
  12. Chân phước Giorgio Frassati, qua đời năm 1925, “là một thanh niên tràn đầy niềm vui hay lây, một niềm vui vượt qua nhiều khó khăn trong đời sống của anh”.[22] Pier Giorgio nói rằng anh muốn đáp trả tình yêu của Chúa Giêsu mà anh đã nhận được trong việc Rước Lễ bằng cách thăm viếng và giúp đỡ những người nghèo.
  13. Chân phước Marcel Callo là một thanh niên người Pháp đã mất năm 1945. Marcel bị giam cầm trong một trại tập trung ở Áo, nơi anh củng cố các bạn tù của mình trong đức tin giữa những việc lao động khắc nghiệt.
  14. Chân phước trẻ Chiara Badano, tạ thế năm 1990, “đã cảm nghiệm sự đau đớn có thể được tình yêu biến đổi như thế nào…. Chìa khóa cho sự bình an và niềm vui của cô là niềm tín thác hoàn toàn vào Chúa và sự chấp nhận bệnh tật của mình như một cách diễn tả mầu nhiệm Thánh Ý của Chúa vì lợi ích của cô và của những người khác”.[23]
  15. Chớ gì những người trẻ này, cùng với rất nhiều người trẻ khác, là những người có lẽ đã sống Tin Mừng cách trọn vẹn trong thinh lặng và thầm kín, chuyển cầu cho Hội Thánh, để Hội Thánh có thể đầy những người trẻ vui vẻ, can đảm và dấn thân, có thể cung cấp cho thế giới những chứng từ mới về sự thánh thiện.

 

CHƯƠNG BA

Các con là hiện tại của Thiên Chúa

  1. Sau khi đọc Lời Chúa, chúng ta không thể chỉ nói một cách hạn chế rằng những người trẻ là tương lai của thế giới: các em là hiện tại, các em đang phong phú hoá thế giới bằng sự đóng góp của các em. Những người trẻ không còn là những đứa trẻ, Các em đang ở một giai đoạn của cuộc đời mà trong đó các em bắt đầu đảm nhận các trách nhiệm khác nhau, tham gia cùng với người lớn vào sự phát triển gia đình, xã hội và Hội Thánh. Nhưng thời thế thay đổi, khiến người ta lại hỏi: những người trẻ ngày nay thế nào, điều gì xảy ra cho những người trẻ bây giờ?

Trong tích cực

  1. Thượng Hội Đồng đã nhìn nhận rằng các tín hữu của Hội Thánh không phải lúc nào cũng có thái độ của Chúa Giêsu. Thay vì chăm chú lắng nghe các em “khuynh hướng thông thường là cung cấp các câu trả lời tủ và đưa ra các công thức có sẵn, mà không biết rõ các câu hỏi của những người trẻ trong sự mới mẻ của chúng, hoặc hiểu những điều làm các em khó chịu”.[24] Mặt khác, khi Hội Thánh từ bỏ các khuôn mẫu cứng nhắc và mở lòng chăm chú và sẵn sàng lắng nghe giới trẻ, sự đồng cảm này phong phú hoá chính Hội Thánh, bởi vì “nó cho phép những người trẻ đóng góp một điều gì đó cho cộng đồng, giúp các em nhận thức được những sự nhạy cảm mới và đặt ra những câu hỏi mới.”[25]
  2. Ngày nay, người lớn chúng ta có nguy cơ lập ra một danh sách những tai hoạ và những thiếu sót của tuổi trẻ trong thời đại mình. Một số người có thể ca tụng chúng ta bởi vì chúng ta hầu như là chuyên gia trong việc tìm ra những điều tiêu cực và nguy hiểm. Nhưng thái độ ấy sẽ đưa đến hậu quả gì? Nó sẽ tạo ra một khoảng cách lớn hơn, ít gần gũi hơn và ít giúp đỡ lẫn nhau hơn.
  3. Cái nhìn xa của những người được mời gọi làm cha mẹ, mục tử và người hướng dẫn của giới trẻ phải bao gồm việc tìm ra ngọn lửa leo lắt đang tiếp tục cháy, cây sậy hầu như bị dập nhưng chưa gẫy hoàn toàn (x. Is 42: 3). Đó là khả năng tìm ra những đường mòn mà ở đó những người khác chỉ thấy các bức tường, đó là biết cách nhận ra những tiềm năng mà những người khác chỉ thấy những nguy hiểm. Cái nhìn của Thiên Chúa Cha cũng như thế, nó có khả năng ấp ủ và nuôi dưỡng những hạt giống tốt đã được gieo vào lòng người trẻ. Do đó, tâm hồn của mỗi người trẻ phải được coi là “vùng đất thánh thiêng”, nơi mang hạt giống của đời sống thiêng liêng, và trước nơi ấy chúng ta phải “cởi dép” để có thể đến gần và đi sâu vào Mầu Nhiệm.

Nhiều cách làm người trẻ

  1. Chúng ta có thể cố mô tả những đặc điểm của giới trẻ ngày nay, nhưng trước hết tôi muốn nhắc lại một quan sát của các Nghị Phụ: “Chính thành phần của Thượng Hội Đồng đã cho thấy sự hiện diện và đóng góp của các khu vực khác nhau trên thế giới, làm nổi bật vẻ đẹp của việc trở thành một Hội Thánh hoàn vũ. Mặc dù bối cảnh toàn cầu hóa càng ngày càng gia tăng, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng yêu cầu nhấn mạnh đến nhiều sự khác biệt giữa các bối cảnh và nền văn hóa khác nhau, cũng như trong một quốc gia. Có rất nhiều thế giới trẻ, vì vậy ở một số quốc gia có khuynh hướng sử dụng thuật ngữ “giới trẻ” ở số nhiều. Hơn nữa, nhóm tuổi liên quan đến Thượng Hội Đồng này (16-29 tuổi) không đại diện cho một tổng thể đồng nhất, nhưng bao gồm các nhóm sống trong những tình cảnh cụ thể”.[26]
  2. Từ quan điểm nhân khẩu học, ở một số quốc gia có nhiều người trẻ, trong khi những quốc gia khác có tỷ lệ sinh rất thấp. Tuy nhiên, “một sự khác biệt nữa bắt nguồn từ lịch sử, làm cho các quốc gia và lục địa theo truyền thống Kitô giáo cổ đại trở nên khác biệt, ở đó nền văn hóa của chúng mang một ký ức không thể bỏ qua, trong khi các quốc gia và lục địa khác được đánh dấu bởi các truyền thống tôn giáo khác và trong đó Kitô giáo là một thiểu số đôi khi gần đây. Ngoài ra, ở những nơi khác, các cộng đồng Kitô hữu và những người trẻ là một phần tử của chúng là đối tượng của việc bắt bớ”.[27] Chúng ta cũng cần phải phân biệt những người trẻ “có quyền tiếp cận những cơ hội càng ngày càng gia tăng do việc toàn cầu hóa, với những người trẻ sống bên lề xã hội hoặc ở những vùng quê và là nạn nhân của các hình thức khai trừ và vất bỏ”.[28]
  3. Có nhiều sự khác biệt khác là những điều rất phức tạp để mô tả chi tiết ở đây. Do đó, hầu như không thích hợp để ngừng lại và đưa ra một phân tích toàn diện về giới trẻ trong thế giới ngày nay, về cách các em sống và những gì đang xảy ra với các em. Tuy nhiên, vì không thể làm lơ thực tại, tôi sẽ vạch ra một cách ngắn gọn một số đóng góp được đưa ra trước Thượng Hội Đồng và những đóng góp khác mà tôi đã nhận được trong suốt thời gian Thượng Hội Đồng.

Một số cảm nghiệm về giới trẻ

  1. Tuổi trẻ không phải là một đối tượng có thể được phân tích một cách trừu tượng. Thật ra, không có “tuổi trẻ” mà chỉ có những người trẻ với cuộc sống cụ thể của các em. Trong thế giới tiến bộ nhanh chóng ngày nay, có rất nhiều đời sống trong số này phải chịu đau khổ và bị thao túng.

Giới trẻ trong một thế giới khủng hoảng

  1. Các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng đã đau lòng nhấn mạnh rằng “Nhiều người trẻ sống trong hoàn cảnh chiến tranh và chịu đựng bạo lực dưới vô số hình thức: bắt cóc, tống tiền, các nhóm tội phạm có tổ chức, buôn người, nô lệ và bóc lột tình dục, hãm hiếp trong chiến tranh, vv. Những người trẻ khác, vì đức tin của các em, rất khó tìm được công ăn việc làm trong xã hội của mình và chịu đựng nhiều kiểu ngược đãi khác nhau, thậm chí cả cái chết. Nhiều người trẻ, vì bị ép buộc hoặc thiếu các lựa chọn khác, đang sống trong tình trạng gây ra các tội ác và bạo lực: các binh lính trẻ em, các băng đảng vũ trang và tội phạm, buôn bán ma túy, khủng bố, vv. Bạo lực này làm tan vỡ nhiều đời sống của người trẻ. Những sự lạm dụng và nghiện ngập, cùng với bạo lực và những sự lầm đường lạc lối, là nhiều lý do trong các lý do khiến những người trẻ phải vào tù, với ảnh hưởng đặc biệt trong một số nhóm chủng tộc và xã hội nào đó”.[29]
  2. Nhiều người trẻ bị đầu độc tư tưởng, bị khai thác và bị dùng làm bia đỡ đạn hoặc như một lực lượng tấn công để tiêu diệt, đe dọa hoặc chế giễu người khác. Và tồi tệ nhất là nhiều em cuối cùng trở thành những kẻ theo cá nhân chủ nghĩa, thù nghịch và không còn tin tưởng người khác; như thế, các em dễ dàng trở thành mồi ngon của các để nghị phi nhân và những kế hoạch phá hoại được dựng nên bởi các nhóm chính trị hoặc các quyền lực kinh tế.
  3. Vẫn còn “nhiều người trên thế giới là những người trẻ phải chịu các hình thức loại trừ và bị đẩy ra ngoài lề xã hội, vì lý do tôn giáo, dân tộc hoặc kinh tế. Chúng ta hãy nhớ lại hoàn cảnh của những trẻ vị thành niên và thiếu nữ có thai, tệ nạn phá thai, cũng như sự lan tràn của HIV, các dạng nghiện ngập khác nhau (ma túy, trò chơi may rủi, tranh ảnh khiêu dâm, vv.) và tình trạng trẻ em và thanh thiếu niên sống ngoài đường phố vô gia cư, vô gia đình, và không có nguồn lợi kinh tế”.[30] Và trong trường hợp các phụ nữ, những hoàn cảnh bị loại ra ngoài lề này còn trở nên đau đớn và khó khăn gấp đôi.
  4. Chúng ta không thể là một Hội Thánh không biết khóc khi đối diện với những thảm cảnh của giới trẻ này. Chúng ta không bao giờ được phép trở nên dửng dưng với nó, bởi vì ai không biết khóc thì không thể là một người mẹ. Chúng ta muốn khóc để chính xã hội có thể trở nên từ mẫu hơn, để thay vì giết con, thì học cách sinh con, ngõ hầu trở thành một lời hứa của sự sống. Chúng ta khóc khi nhớ đến những người trẻ đã chết vì đau khổ và bạo lực, và chúng ta đòi xã hội phải học cách trở thành một người mẹ biết lo lắng cho con. Nỗi đau đó không biến mất mà vẫn đồng hành với chúng ta trên mọi bước đường, bởi vì thực tại phũ phàng không thể bị che giấu. Điều tồi tệ nhất chúng ta có thể làm là chấp nhận tinh thần thế tục ấy, mà giải pháp của nó là làm tê mê những người trẻ bằng những sứ điệp khác, những phân tâm khác và với những điều tầm thường.
  5. Có lẽ “nhiều người trong chúng ta có một đời sống khá thoải mái nên không biết khóc. Một số thực tại của cuộc đời chỉ được nhìn thấy với cặp mắt được rửa bằng nước mắt. Tôi xin mỗi người hãy tự hỏi: Tôi đã học được cách khóc chưa? Tôi có biết khóc không khi thấy một đứa trẻ đói khát, một đứa trẻ nghiện ngập ở ngoài đường, một đứa trẻ vô gia cư, một đứa trẻ bị bỏ rơi, một đứa trẻ bị lạm dụng, một đứa trẻ bị xã hội sử dụng như một nô lệ? Hay là tiếng khóc của tôi chỉ là tiếng than van của những kẻ chỉ biết nghĩ đến mình vì họ muốn một điều gì đó cho mình?”[31] Hãy cố gắng học cách khóc cho những người trẻ không được may mắn như bạn. Lòng thương xót và trắc ẩn cũng được thể hiện trong nước mắt. Nếu nó không đến với bạn, hãy cầu xin Chúa ban cho bạn những giọt nước mắt vì sự đau khổ của người khác. Chỉ khi nào bạn biết khóc bạn mới có thể làm điều gì đó cho người khác tận đáy lòng.
  6. Đôi khi nỗi đau khổ của một số người trẻ thật là thương tâm; một nỗi đau không thể diễn tả được bằng lời; đó là một nỗi đau đánh vào chúng ta như một cái tát. Những người trẻ này chỉ có thể thưa với Thiên Chúa rằng các em đau khổ rất nhiều, rằng quá khó để tiếp tục, rằng các em không còn tin vào bất cứ ai. Tuy nhiên, trong tiếng kêu đau lòng này, những lời của Chúa Giêsu lại hiên diện: “Phúc cho những ai khóc lóc, vì họ sẽ được an ủi” (Mt 5: 4). Có những người trẻ đã tìm cách mở ra một con đường trong cuộc đời bởi vì lời hứa thánh thiêng này đã đến với các em. Chớ gì luôn luôn có một cộng đồng Kitô hữu gần gũi những người trẻ đang đau khổ, để làm cho những lời ấy có thể vang lên bằng những cử chỉ, những cái ôm và sự giúp đỡ cụ thể!
  7. Đúng là các cường quốc đang cung cấp một số trợ giúp, nhưng thường với giá đắt. Ở nhiều nước nghèo, sự giúp đỡ kinh tế của một số nước giàu hơn hoặc một số tổ chức quốc tế thường liên gắn liền với việc chấp nhận những quan điểm Tây Phương về tình dục, hôn nhân, cách sống hoặc công bằng xã hội. Việc thực dân hoá tư tưởng này đặc biệt có hại cho những người trẻ. Đồng thời, chúng ta thấy cách một loại quảng bá nào đó đang dạy cho người trẻ luôn không thoả mãn và đóng góp cho nền văn hóa bỏ đi, trong đó chính những người trẻ cuối cùng trở thành một vật liệu “bị phế thải” như thế nào.
  8. Nền văn hóa ngày nay trình bày một mô hình con người gắn liền với hình ảnh những người trẻ. Người đẹp là người có vẻ trẻ trung, là người biết sử dụng các phương pháp điều trị để xoá đi các dấu vết thời gian. Thân thể trẻ được sử dụng liên tục trong quảng cáo để bán các sản phẩm. Người mẫu đẹp là người mẫu trẻ. Nhưng chúng ta phải ý thức rằng điều này không liên can gì đến giới trẻ. Nó chỉ có nghĩa là những người lớn muốn nắm giữ tuổi trẻ lại cho chính mình chứ không phải họ tôn trọng, yêu thương và chăm sóc cho những người trẻ.
  9. Một số người trẻ “cảm thấy truyền thống gia đình như áp bức và chạy trốn nó theo sự thúc đẩy của một nền văn hóa toàn cầu hóa, là nền văn hoá đôi khi không cung cấp cho các em bất kỳ điểm tham chiếu nào. Đằng khác, ở những nơi khác trên thế giới không có sự xung đột liên thế hệ thật sự giữa những người trẻ và người lớn, nhưng ở đó họ đang không ngó ngàng gì đến nhau. Đôi khi người lớn không tìm cách hoặc không thành công trong việc truyền thụ các giá trị cơ bản của cuộc sống, hoặc thích nghi những kiểu sống của tuổi trẻ, do đó đảo ngược mối liên hệ giữa các thế hệ. Bằng cách này, mối liên hệ giữa những người trẻ và người lớn có thể kết thúc theo tình cảm, mà không bao giờ chạm đến khía cạnh giáo dục và văn hóa”.[32] Điều này làm tổn thương những người trẻ biết bao, mặc dù một số người không nhận ra nó! Chính những người trẻ đã vạch ra cho chúng ta rằng điều này cản trở rất nhiều cho việc truyền thụ đức tin “trong một số quốc gia không có tự do ngôn luận, nơi những người trẻ … không được phép tham gia vào đời sống của Hội Thánh”.[33]

Ước muốn, các vết thương và nghiên cứu

  1. Những người trẻ ý thức rằng thân xác và phái tính là điều cần thiết cho đời sống và cho việc phát triển căn tính của các em. Tuy nhiên, trong một thế giới chỉ nhấn mạnh đến phái tính, thật khó mà duy trì được quan hệ lành mạnh giữa thân xác của một người và việc sống các mối liên hệ tình cảm. Vì lý do này và các lý do khác, [giáo huấn về] luân lý phái tính thường là “nguyên nhân gây ra hiểu lầm và xa cách Hội Thánh, vì nó bị coi là nơi để xét đoán và lên án”. Đồng thời, những người trẻ bày tỏ “ước muốn đối thoại rõ ràng về các vấn đề liên quan đến sự khác biệt giữa căn tính nam và nữ, tính hỗ tương giữa người nam và người nữ và việc đồng tính luyến ái”.[34]
  2. Trong thời đại chúng ta, “những sự phát triển về khoa học và công nghệ y sinh có tác động mạnh mẽ đến nhận thức về thân xác, dẫn đến ý tưởng rằng người ta không có giới hạn trong việc sửa đổi nó. Khả năng can thiệp vào DNA, khả năng chèn các yếu tố nhân tạo vào cơ thể (cyborg) và sự phát triển của khoa học thần kinh tạo nên một nguồn lực lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra những vấn đề về nhân học và đạo đức”.[35] Chúng có thể lam cho chúng ta quên rằng sự sống là một hồng ân, và chúng ta được dựng nên với những giới hạn bẩm sinh, rằng chúng ta có thể dễ dàng bị khai thác bởi những người nắm giữ quyền lực về kỹ thuật.[36] “Hơn nữa, một số người trẻ càng ngày càng bị mê hoặc bởi những hành vi mạo hiểm như một phương tiện để khám phá ra chính mình, tìm kiếm những cảm xúc mạnh mẽ và được người khác công nhận…. Những hiện tượng này, trong đó các thế hệ trẻ bị đặt vào, tạo nên một trở ngại cho sự trưởng thành trong sáng của các em”.[37]
  3. Nơi những người trẻ, chúng ta cũng tìm thấy, được ghi khắc trong tâm hồn, những trận đòn đã nhận được, những thất bại, những ký ức buồn. Thường thì “chúng là các vết thương của những thất bại trong lịch sử của chính mình, những ước mơ bất thành, những kỳ thị và những bất công phải chịu, hoặc sự thể là không cảm thấy được yêu thương hoặc nhìn nhận”. Hơn nữa, “cũng có những vết thương về luân lý, sức nặng của những sai lầm mắc phải, mặc cảm sau khi lỗi lầm”.[38] Chúa Giêsu làm cho những người trẻ này nhận ra sự hiện diện của Người giữa những thập giá của các em, để ban cho các em tình bằng hữu, sự an ủi, và việc đồng hành chữa lành của Người, và Hội Thánh muốn trở nên công cụ của Chúa trên con đường đi đến chữa lành nội tâm và bình an trong tâm hồn này.
  4. 84. Ở một số người trẻ, chúng ta nhận thấy một khao khát Thiên Chúa, ngay cả khi nó không có tất cả những đường nét của mặc khải của Thiên Chúa. Ở những người trẻ khác chúng ta có thể thấy một giấc mơ về tình huynh đệ, đó không phải là chuyện nhỏ. Ở nhiều em, có thể có một mong muốn thật sự để phát triển các kỹ năng mà các em được trang bị hầu cống hiến một điều gì đó cho thế giới. Ở một số em, chúng ta thấy một sự nhạy cảm nghệ thuật đặc biệt, hoặc tìm kiếm sự hòa hợp với thiên nhiên. Nơi những em khác, có lẽ có một nhu cầu lớn về truyền thông. Ở nhiều em trong số đó, chúng ta tìm thấy một mong muốn sâu xa để sống một cuộc sống khác. Tất cả những điều này là những khởi điểm đích thực, những sức sống nội tâm đang chờ đợi và mở ra cho một lời động viên, soi sáng và khích lệ.
  5. Thượng Hội Đồng đã đặc biệt thảo luận về ba chủ đề có tầm quan trọng lớn, và về những chủ đề này tôi muốn dùng nguyên văn kết luận của Thượng Hội Đồng, mặc dù chúng vẫn cần chúng ta tiếp tục phân tích sâu xa hơn và khai triển một khả năng đáp ứng đầy đủ và hiệu quả hơn.

Môi trường kỹ thuật số

  1. “Môi trường kỹ thuật số (điện toán) đặc trưng cho thế giới đương thời. Một phần lớn nhân loại đang đắm chìm trong nó một cách bình thường và liên tục. Đó không chỉ là vấn đề ‘sử dụng’ các công cụ truyền thông, mà là sống trong một nền văn hóa phần lớn bị thuật số hóa, nó ảnh hưởng sâu xa đến các quan niệm về thời gian và không gian, nhận thức về bản thân, về tha nhân và thế giới, phương thức giao tiếp, học hỏi, tìm hiểu và liên hệ với những người khác. Một cách tiếp cận thực tế có khuynh hướng đặt hình ảnh trên việc nghe và đọc có tác động đến cách học hành và phát triển sự suy nghĩ cách phê phán”.[39]
  2. Mạng điện toán (internet) và mạng xã hội đã tạo ra một cách giao tiếp và quan hệ mới, và “chúng là một công viên ở đó những người trẻ dành nhiều thì giờ và gặp gỡ nhau một cách dễ dàng, ngay cả khi mọi người không có quyền truy cập giống nhau, đặc biệt là ở một số nơi trên thế giới. Trong mọi trường hợp, chúng là một cơ hội phi thường để đối thoại, gặp gỡ và trao đổi giữa con người cùng truy cập tin tức và kiến thức. Ngoài ra, môi trường kỹ thuật số là bối cảnh của việc tham gia chính trị xã hội và quyền công dân tích cực. Nó có thể tạo điều kiện cho một luồng thông tin độc lập có khả năng bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất một cách hiệu quả nhất bằng cách tiết lộ các vi phạm quyền lợi của họ. Ở nhiều quốc gia, mạng điện toán và mạng xã hội hiện là một nơi thiết yếu để tiếp cận và thu hút giới trẻ, đặc biệt là trong các sáng kiến và hoạt động mục vụ”.[40]
  3. Tuy nhiên, để hiểu hiện tượng này như một tổng thể, chúng ta phải nhìn nhận rằng, như mọi thực tại của con người, nó cũng có những giới hạn và thiếu sót. Thật là không lành mạnh khi lầm lẫn giữa việc giao tiếp với sự tiếp xúc thuần tuý ảo. Thật ra, “môi trường kỹ thuật số cũng là một không gian của cô đơn, thao túng, bóc lột và bạo lực, đến trường hợp cực đoan của mạng lưới đen. Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số có thể khiến mọi người có nguy cơ bị lệ thuộc, cô lập và mất liên lạc dần dần với thực tại cụ thể, do đó cản trở sự phát triển của các mối liên hệ thật sự giữa các cá nhân. Các hình thức bạo lực mới đang lan truyền qua các phương tiện truyền thông xã hội, chẳng hạn như bôi nhọ trên mạng; mạng cũng là một kênh để phân phát tài liệu khiêu dâm và khai thác con người cho mục đích tình dục hoặc qua các trò chơi may rủi”.[41]
  4. Đừng quên rằng “các lợi ích kinh tế khổng lồ đang hoạt động trong thế giới kỹ thuật số. Chúng có thể đưa ra những hình thức kiểm soát tinh vi như chúng đang xâm lấn, tạo ra các cơ chế để thao túng lương tâm và các tiến trình dân chủ. Hoạt động của nhiều diễn đàn luôn kết thúc có lợi cho cuộc gặp gỡ giữa những người có cùng một cách suy nghĩ, ngăn chặn việc đối đầu của những khác biệt. Những đường liên lạc kín này tạo điều kiện cho việc phổ biến những thông tin sai lệch và các tin tức giả, tạo ra những thành kiến và thù hận. Việc phổ biến các tin tức giả là cách diễn tả của một nền văn hóa đã mất ý thức về chân lý và bóp méo sự thật vì những lợi ích cụ thể của nó. Danh tiếng của con người đang bị đe dọa bởi những cuộc xét xử trực tuyến vô bằng cớ. Hiện tượng này cũng liên quan đến Hội Thánh và các mục tử của Hội Thánh”.[42]
  5. Trong một tài liệu được 300 người trẻ trên khắp thế giới chuẩn bị trước Thượng Hội Đồng, các em đã vạch ra rằng “các mối liên hệ trực tuyến có thể trở nên vô nhân đạo. Không gian kỹ thuật số làm cho chúng ta ra đui mù trước sự yếu đuối của người khác và cản trở chúng ta trong việc hướng nội. Các vấn đề như nội dung khiêu dâm làm sai lệch nhận thức về tình dục của con người của những người trẻ. Kỹ thuật được sử dụng theo cách này tạo ra một thực tại song song sai lầm coi thường phẩm giá con người”.[43] Việc đắm chìm trong thế giới ảo đã dẫn đến một loại “di cư kỹ thuật số”, nghĩa là xa lánh gia đình cùng các giá trị văn hóa và tôn giáo, dẫn nhiều em đến một thế giới cô độc và tự sáng chế, đến nỗi cảm thấy mất gốc rễ, mặc dù vẫn ở cùng một chỗ. Cuộc sống tươi mới và dồi dào của những người trẻ, là những người đang tìm cách xác định cá tính của mình, ngày nay bị đương đầu với một thách đố mới: là thách đố của việc tương tác với một thế giới thật và ảo, trong đó các em đi vào một mình như vào một lục địa chưa từng ai biết đến. Người trẻ ngày nay là những người đầu tiên thực hiện việc tổng hợp này giữa những gì là cá nhân, những gì cụ thể đối với một nền văn hóa của các em và những gì là toàn cầu. Đó là lý do tại sao điều này đòi hỏi các em phải thành công trong việc chuyển từ tiếp xúc ảo sang một sự giao tiếp tốt đẹp và lành mạnh.

Những người di cư như một mô hình của thời đại chúng ta

  1. Làm sao chúng ta có thể không nhớ đến nhiều người trẻ đang chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi những cuộc di cư? Những cuộc di cư này “đại diện cho một hiện tượng cấu trúc toàn cầu, chứ không phải chỉ là một trường hợp khẩn cấp chuyển tiếp. Những cuộc di cư có thể xảy ra trong một quốc gia hoặc giữa các quốc gia khác nhau. Mối quan tâm đặc biệt của Hội Thánh là về những người chạy trốn chiến tranh, bạo lực, đàn áp chính trị hoặc tôn giáo, thiên tai do biến đổi khí hậu và nghèo đói cùng cực: nhiều người trong số họ còn trẻ. Nói chung, họ đang tìm kiếm những cơ hội cho chính mình và gia đình mình. Họ mơ ước về một tương lai tốt đẹp hơn và muốn tạo điều kiện để hiện thực hóa nó”.[44] Những người di cư “nhắc nhở chúng ta về tình trạng nguyên thủy của đức tin, đó là đức tin của ‘những ngoại kiều và khách lữ hành trên mặt đất’ (Dt 11:13)”.[45]
  2. Những người di cư khác “bị thu hút bởi nền văn hóa Tây phương, đôi khi hàm chứa những kỳ vọng thiếu thực tế khiến họ phải thất vọng ê chề. Những kẻ buôn người vô lương tâm, thường liên quan đến các băng đảng ma túy và vũ khí, khai thác yếu điểm của những người di cư, là những người trong suốt cuộc hành trình của họ, thường xuyên phải đối diện với bạo lực, buôn người, lạm dụng tâm lý và thậm chí cả thể xác, và những đau khổ không kể xiết. Chúng ta phải ghi nhận sự tổn thương đặc biệt của những người di cư không có ai đi cùng và tình trạng của những người bị bắt buộc phải sống nhiều năm trong các trại tị nạn hoặc bị nhốt một thời gian dài nơi các quốc gia chuyển tiếp, mà không thể tiếp tục việc học hành, hoặc thi thố tài năng của họ. Ở một số quốc gia mà họ đến được, các hiện tượng di cư nảy sinh ra tình trạng báo động và sợ hãi, thường bị xúi giục và khai thác cho mục đích chính trị. Từ đó, một tâm lý bài ngoại, đóng cửa và rút vào chính mình được lan rộng. Chúng ta phải phản ứng một cách cứng rắn với điều ấy”.[46]
  3. “Những người trẻ di cư sống tách biệt với môi trường gia đình của các em và thường trải qua sự mất gốc về văn hóa và tôn giáo. Việc chia cách này cũng ảnh hưởng đến các cộng đồng địa phương, là những cộng đồng đang mất đi những phần tử mạnh mẽ và đầy nghị lực nhất, và gia đình, đặc biệt là khi một cha mẹ, hoặc cả hai đều di cư, để con cái họ ở lại quê nhà. Hội Thánh có một vai trò quan trọng để làm nơi nương tựa cho những người trẻ của những gia đình rạn nứt này. Nhưng những câu chuyện về người di cư cũng là những câu chuyện về các cuộc gặp gỡ giữa những con người và các nền văn hóa: đối với cộng đồng và xã hội chủ nhà, chúng đại diện cho một cơ hội phong phú hoá và phát triển con người không thể thiếu được cho tất cả mọi người. Các sáng kiến tiếp nhận dựa vào Hội Thánh có một vai trò quan trọng trong vấn đề này và có thể hồi sinh các cộng đồng có khả năng thực hiện chúng”.[47]
  4. “Nhờ nguồn gốc đa dạng của các Nghị Phụ, Thượng Hội Đồng đã nhìn thấy nhiều quan điểm về chủ đề di dân, đặc biệt là giữa các quốc gia khởi hành và các quốc gia cùng đích. Ngoài ra, đã vang lên một tiếng kêu báo động từ các Hội Thánh mà các thành viên bị bắt buộc phải chạy trốn chiến tranh cùng bắt bớ và những người coi các cuộc di cư bất đắc dĩ này như một mối đe dọa cho chính mạng sống của họ. Việc bao gồm tất cả các quan điểm khác nhau này đặt Hội Thánh vào vị trí đóng một vai trò tiên tri trước xã hội trong lĩnh vực di cư”.[48] Cha đặc biệt xin những người trẻ đừng sa vào lưới của những kẻ muốn dùng các các con để chống lại những người trẻ khác, là những người mới đến đất nước của các con, bằng cách coi những người trẻ ấy như những đối tượng nguy hiểm và không có cùng một phẩm giá không thể chuyển nhượng được thích hợp mỗi con người.

Hãy chấm dứt mọi hình thức lạm dụng

  1. Trong thời gian gần đây, chúng ta đã được mãnh liệt yêu cầu lắng nghe tiếng khóc than của những nạn nhân của các loại lạm dụng khác nhau được thực hiện bởi một số giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Những tội lỗi này gây ra cho các nạn nhân “những đau khổ có thể kéo dài suốt đời và không có sự ăn năn nào có thể khắc phục được. Hiện tượng này lan rộng trong xã hội, nhưng nó cũng ảnh hưởng đến Hội Thánh và đại diện cho một trở ngại nghiêm trọng đối với sứ vụ của Hội Thánh”.[49]
  2. Đúng là “thật đáng tiếc, tai họa lạm dụng tính dục thiếu niên là một hiện tượng lịch sử, lan rộng trong tất cả các nền văn hóa và xã hội”, đặc biệt là trong chính các gia đình và trong các cơ cấu khác nhau; phạm vi của nó đã được đưa ra ánh sáng “nhờ vào sự thay đổi về nhạy cảm của dư luận quần chúng”. Tuy nhiên, “tính phổ quát của tai họa này, trong khi xác nhận hậu quả trầm trọng của nó trong các xã hội của chúng ta nói chung, không tài nào làm giảm bớt sự quái dị của nó trong Hội Thánh” và “trong sự tức giận chính đáng của mọi người, Hội Thánh nhìn thấy sự phản chiếu của cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bị phản bội và bị vả vảo mặt”.[50]
  3. “Thượng Hội Đồng tái khẳng định cam kết chắc chắn trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt để ngăn chặn điều này xảy ra một lần nữa, từ việc lựa chọn và đào tạo những người được trao sứ vụ lãnh đạo và giáo dục”.[51] Đồng thời, không được sao lãng quyết tâm áp dụng “các hành động và biện pháp trừng phạt cần thiết như thế”.[52] Và tất cả điều này với ân sủng của Đức Kitô. Không có thể quay đầu trở lại.
  4. “ Có nhiều loại lạm dụng khác nhau: lạm dụng quyền lực, lạm dụng kinh tế, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục. Rõ ràng là chúng ta phải xóa bỏ các hình thức thực thi quyền bính mà chúng được ghép vào và đấu tranh chống lại sự thiếu trách nhiệm và minh bạch mà nhiều trường hợp đã được quản lý. Ước muốn thống trị, sự thiếu đối thoại và minh bạch, các hình thức sống hai mặt, sự trống rỗng về tâm linh, cũng như các yếu tố tâm lý tạo thành nền tảng trên đó sự thối nát nảy nở”.[53] Giáo sĩ trị là một cám dỗ thường trực cho các linh mục, là những người coi “tác vụ mà họ đã lãnh nhận như một quyền bính để thực thi hơn là một việc phục vụ miễn phí và đại lượng để cống hiến. Điều này khiến chúng ta tin rằng mình thuộc về một nhóm có tất cả các câu trả lời và không còn cần phải lắng nghe và học hỏi bất cứ điều gì”.[54] Rõ ràng là chủ nghĩa giáo sĩ trị có thể làm cho những người được thánh hiến có nguy cơ đánh mất sự tôn trọng đối với giá trị thiêng liêng và không thể chuyển nhượng được của mỗi con người và của sự tự do của người ấy.
  5. Cùng với các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng, tôi muốn bày tỏ với lòng ưu ái và “biết ơn đối với những người đã có can đảm tố cáo sự dữ mà họ phải chịu: họ giúp Hội Thánh nhận thức được những gì đã xảy ra và cần phải phản ứng một cách dứt khoát”.[55] Tuy nhiên, cũng cần phải ghi nhận đặc biệt “những nỗ lực chân thành của vô số giáo dân, linh mục, tu sĩ và Giám Mục, là những người, hằng ngày, hiến thân cách trung thực và tận tụy trong việc phục vụ giới trẻ. Công việc của họ là một khu rừng đang phát triển mà không gây ồn ào. Nhiều người trẻ có mặt ở Thượng Hội Đồng cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đồng hành với các em và nhắc lại nhu cầu lớn lao về các khuôn mặt gương mẫu”.[56]
  6. Cảm tạ Thiên Chúa vì những kẻ phạm các tội ác khủng khiếp này không phải là đa số các linh mục. Đa số linh mục là những vị đang thi hành chức vụ của các ngài cách trung thành và quảng đại. Cha xin những người trẻ hãy để cho mình được khích lệ bởi đa số này. Trong mọi trường hợp, nếu các con thấy một linh mục gặp nguy hiểm, vì ngài đã mất niềm vui trong tác vụ của mình, vì ngài đang tìm kiếm sự bù đắp tình cảm hoặc đã đi sai đường, các con hãy can đảm nhắc nhở ngài về cam kết dấn thân của ngài với Thiên Chúa và với dân Ngài, chính các con phải loan báo Tin Mừng cho ngài và khuyến khích ngài giữ vững con đường ngay lành. Bằng cách này, các con sẽ giúp đỡ một cách vô giá vào một điều cơ bản: là ngăn ngừa sự tái diễn của những hành động tàn bạo này. Đám mây đen này cũng trở nên một thách thức đối với những người trẻ yêu mến Chúa Giêsu và Hội Thánh của Người, bởi vì các con có thể đóng góp rất nhiều để chữa lành vết thương này nếu các con dùng khả năng của mình để canh tân, thôi thúc và đòi hỏi sự kiên định và chứng từ, quay trở về với ước mơ và có những tư tưởng mới.
  7. Đây không phải là tội lỗi duy nhất của các phần tử Hội Thánh, mà lịch sử dài của Hội Thánh không phải là không có nhiều bóng tối. Tội lỗi của chúng ta rành rành trước mắt mọi người; chúng phản ảnh quá rõ ràng trong những nếp nhăn trên khuôn mặt ngàn năm của Hội Thánh, là Mẹ và Thầy chúng ta. Bởi vì hai ngàn năm qua, Hội Thánh đã tiến bước trên đường lữ hành trong khi chia sẻ “niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và nỗi thống khổ của con người”.[57] Và Hội Thánh đã hành trình như vậy, mà không cần đến bất cứ cuộc giải phẫu thẩm mỹ nào. Hội Thánh không ngần ngại vạch trần tội lỗi của các phần tử của mình, là điều mà đôi khi có một số người cố gắng che đậy, trước ánh sáng rực rỡ của Lời Tin Mừng, là điều đốt sạch và thanh luyện. Hội Thánh cũng không ngừng hổ thẹn lặp lại mỗi ngày: “Lạy Chúa, xin thương con theo lượng từ bi Chúa… Tội lỗi con luôn ở trước mặt con (Tv 51:3,5). Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ rằng mình không được bỏ rơi Mẹ mình khi Mẹ đang bị thương, trái lại, chúng ta phải đứng cạnh Mẹ, hầu Mẹ có thể dồn hết sức lực và khả năng của mình để luôn luôn làm lại từ đầu.
  8. Giữa thảm trạng này, là điều đã làm tổn thương tâm hồn chúng ta một cách chân chính, “Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi Hội Thánh của Người, chính Người ban cho Hội Thánh sức mạnh và các công cụ cho một con đường mới”.[58] Do đó, giây phút đen tối này, “với sự giúp đỡ quý giá của những người trẻ, thật sự có thể là cơ hội cho một cuộc cải cách có ý nghĩa lịch sử “,[59] để mở ra một Lễ Ngũ Tuần mới cùng bắt đầu một giai đoạn thanh tẩy và thay đổi có khả năng mang lại cho Hội Thánh một tuổi trẻ mới. Nhưng những người trẻ có thể giúp đỡ nhiều hơn nếu họ cảm thấy là thành phần của “Dân Chúa thánh thiện và kiên trì, được Chúa Thánh Thần nâng đỡ và sinh động hoá”, bởi vì “chính Dân Thánh này của Thiên Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi bệnh dịch giáo sĩ trị, là mảnh đất màu mỡ cho tất cả những điều ghê tởm này”.[60]

Có một lối thoát

  1. Ở chương này, tôi đã dừng lại để nhìn đến thực tại của những người trẻ trong thế giới ngày nay. Một số khía cạnh khác sẽ được bàn đến trong các chương sau. Như tôi đã nói, tôi không nhận là có thể nói được hết mọi sự trong bài phân tích này. Tôi khuyến khích các cộng đồng làm một cuộc kiểm tra về thực tại của giới trẻ của họ với sự tôn trọng và đúng đắn, để tìm ra các đường lối mục vụ đầy đủ nhất. Tuy nhiên, tôi không muốn kết thúc chương này mà không nói vài lời với mỗi người trong anh chị em.
  2. Tôi xin nhắc lại cho anh chị em về tin mừng đã được ban cho chúng ta vào sáng Phục Sinh: rằng có một lối thoát trong tất cả các tình cảnh đen tối và đau thương mà chúng ta bàn đến. Chẳng hạn, thật sự là thế giới kỹ thuật số có thể làm cho chung ta có nguy cơ chỉ nghĩ đến mình, cô lập hoặc tìm thú vui trống rỗng. Nhưng đừng quên rằng cũng có những người trẻ tỏ bày óc sáng tạo và đôi khi thiên tài trong môi trường này. Đó là trường hợp của Đấng Đáng Kính Carlo Acutis.
  3. Cậu biết rất rõ rằng toàn thể các cơ cấu truyền thông, quảng cáo và mạng xã hội có thể được sử dụng để ru ngủ chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ của chủ nghĩa tiêu thụ và mua sắm những món hàng mới mà chúng ta có thể, ám ảnh thời gian nhàn rỗi của chúng ta, và giam hãm chúng ta trong tiêu cực. Nhưng cậu đã biết cách sử dụng những kỹ thuật truyền thông mới để truyền thụ Tin Mừng, cùng truyền đạt các giá trị và vẻ đẹp.
  4. Cậu đã không rơi vào cạm bẫy. Cậu đã thấy rằng nhiều người trẻ, trong khi có vẻ khác biệt, thật sự cuối cùng lại cũng giống như những em khác, chạy theo bất cứ điều gì mà những kẻ có quyền lực áp đặt trên các em qua những cơ cấu của chủ nghĩa tiêu thụ và suy đồi. Bằng cách này, các em không để cho những hồng ân mà Chúa ban cho mình phát triển, các em không cống hiến cho thế giới này những khả năng cá nhân và đặc thù mà Thiên Chúa đã gieo vào mỗi người trong các em. Vì thế, Carlo nói, “mỗi người được sinh ra như một bản chính, nhưng nhiều người chết như những bản sao”. Đừng để điều ấy xảy ra cho các con.
  5. Đừng để ai cướp mất hy vọng và niềm vui của các con, hoặc làm cho các con nghiện ngập để họ sử dụng các con như nô lệ cho tư lợi của họ. Hãy dám thành những người cao thượng hơn, bởi vì con người của ccác con quan trọng hơn bất cứ điều gì khác. Các con không cần phải sở hữu hay tỏ ra có vẻ sở hữu. Các con có thể trở thành điều mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của các con, biết các con là, nếu các con nhận ra rằng mình được mời gọi trở nên một điều gì đó lớn hơn nhiều. Hãy cầu khẩn Chúa Thánh Thần và tin tưởng bước đến mục tiêu cao cả: là nên thánh. Bằng cách này, các con sẽ không là bản sao, mà sẽ hoàn toàn là chính mình.
  6. Để điều này xảy ra, các con cần phải nhận ra một điều cơ bản: tuổi trẻ không chỉ để tìm những thú vui chóng qua và những thành công bề ngoài. Để tuổi trẻ đạt đến cùng đích trong cuộc sống, nó phải là thời gian dấn thân quảng đại, chân thành hiến dâng, và hy sinh, dù đắt giá nhưng cuối cùng hiệu quả. Như một thi sĩ thời danh đã viết:

Nếu để tìm lại được những gì tôi đã tìm lại,

Thì trước hết tôi phải mất đi những gì tôi đã mất;

Nếu để có được những gì tôi đã có,

Thì tôi đã phải chịu đựng những gì tôi đã chịu;

Nếu để được yêu lúc này,

Thì trước hết tôi phải chịu tổn thương,

Tôi nghĩ rằng thật đúng khi chịu đựng những khổ đau tôi đã chịu,

Tôi nghĩ rằng thật đúng khi khóc về những điều tôi đã khóc.

Bởi vì cuối cùng, tôi đã thấy,

Người ta chỉ được vui hưởng điều họ hưởng

Sau khi đã phải chịu đựng để có nó.

Bởi vì cuối cùng, tôi đã hiểu,

Rằng những chùm hoa nở rộ trên cây

Rút nhựa sống từ những gì được chôn dưới đất”.[61]

  1. Nếu con còn trẻ, nhưng cảm thấy yếu đuối, mệt mỏi hoặc thất vọng, hãy cầu xin Chúa Giêsu đổi mới con. Với Người, hy vọng không trở nên thất vọng. Con cũng có thể làm điều ấy nếu con cảm thấy đắm chìm trong tật xấu, thói quen xấu, ích kỷ hoặc dùng thì giở rảnh rỗi cách không lành mạnh. Chúa Giêsu, tràn đầy sức sống, muốn giúp con làm cho tuổi trẻ của con có giá trị. Như thế, con sẽ không tước đi khỏi thế giới sự đóng góp này mà chỉ một mình con mới có thể làm, trong tất cả sự duy nhất và đặc thù của con.
  2. Tuy nhiên, Cha cũng muốn nhắc nhở các con rằng “Thật khó mà chống lại được khuynh hướng thiên về sự dữ cũng như những cạm bẫy và cám dỗ của ma quỷ và tính ích kỷ của thế gian nếu chúng ta sống quá cô lập. Cuộc tấn công quyến rũ chúng ta đến nỗi, nếu quá cô đơn, chúng ta dễ mất ý thức về thực tại và sự sáng suốt bề trong, và dễ dàng chịu thua nó”.[62] Điều này đặc biệt đúng với những người trẻ, bởi vì cùng nhau các con có một sức mạnh đáng ngưỡng mộ. Khi các con hứng khởi với đời sống cộng đồng, các con có khả năng hy sinh lớn lao cho người khác và cho cộng đồng. Ngược lại, sự cô lập làm cho các con yếu đi và dễ bị rơi vào những tệ nạn tồi tệ nhất của thời đại chúng ta.

CHƯƠNG BỐN

Một Sứ Điệp Cao Cả cho tất cả Người Trẻ

  1. Vượt lên trên mọi hoàn cảnh, Cha muốn thông báo cho tất cả những người trẻ một điều quan trọng nhất, tiên quyết nhất, một điều không bao giờ được giữ kín. Đó là một sứ điệp bao gồm ba chân lý cao cả mà tất cả chúng ta cần phải nghe mãi và nghe đi nghe lại.

Một Thiên Chúa là tình yêu

  1. Trước hết Cha muốn nói với mỗi người trong chúng con về chân lý thứ nhất: “Thiên Chúa yêu thương các con”. Dù trước đây các con đã nghe vể điều ấy rồi cũng không sao, Cha muốn nhắc lại cho các con: Thiên Chúa yêu thương các con. Không bao giờ được nghi ngờ điều này, dù bất cứ điều gì xảy ra với các con trong cuộc sống. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, các con được yêu thương vô hạn.
  2. Có lẽ kinh nghiệm về tình phụ tử mà các con có không phải là kinh nghiệm tốt nhất, người cha trần thế của các con có lẽ ở rất xa và vắng mặt, hoặc trái lại, thống trị và chiếm hữu; hoặc không phải là người cha mà các con cần. Cha không biết. Nhưng điều Cha có thể nói với các con một cách chắc chắn là các con có thể an toàn lao vào vòng tay của Cha Trên Trời của các con, của Thiên Chúa, Đấng đã ban sự sống cho các con và tiếp tục ban nó cho các con mọi lúc. Ngài sẽ kiên quyết nâng đỡ các con, đồng thời, các con sẽ cảm thấy rằng Ngài hoàn toàn tôn trọng sự tự do của các con.
  3. Trong Lời Ngài, chúng ta tìm thấy nhiều cách diễn tả về tình yêu của Ngài. Như Ngài đang tìm những cách thế khác nhau để bày tỏ nó, để Ngài có thể chạm đến tâm hồn các con bằng một trong những lời ấy. Chẳng hạn, đôi khi Ngài tỏ ra như một người cha thân thương chơi đùa với con cái: “Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má” (Hs 11,4 ).

Đôi khi Ngài tỏ ra đầy tình yêu của những người mẹ, với một tình yêu sâu thẳm dành cho con cái mình, là một tình yêu bền chặt đến nỗi không thể nào lãng quên hay từ bỏ chúng:  “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49,15).

Ngài thậm chí còn tỏ ra như một người yêu đến mức vẽ hình người mình yêu trong lòng bàn tay để luôn gần gũi dung nhan người yêu: “Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49,16).

Vào những lúc khác, Ngài nhấn mạnh đến sức mạnh và sự vững bền trong tình yêu không gì có thể thắng nổi của Ngài: “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay” (Is 54:10).

Hoặc Ngài nói với chúng ta rằng chúng ta luôn được Ngài mong đợi, vì chúng ta đã không tình cờ xuất hiện trong thế gian này. Ngay cả trước khi chúng ta hiện hữu, chúng ta đã ở trong kế hoạch yêu thương của Ngài: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng chung thủy của Ta” (Gr 31: 3).

Hoặc Ngài cho chúng ta biết rằng Ngài nhìn thấy vẻ đẹp của chúng ta, là điều mà không ai có thể nhận ra: “Vì trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương” (Is 43:4).

Hoặc Ngài giúp chúng ta khám phá ra rằng tình yêu của Ngài không tẻ nhạt, nhưng là niềm vui thuần khiết được đổi mới khi chúng ta để cho mình được Ngài yêu thương: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng” (Sp 3:17).

  1. Đối với Ngài, các con thật sự quý giá, các con không phải là không đáng kể, các con quan trọng đối với Ngài, bởi vì các con là công trình của tay Ngài. Đó là lý do tại sao Ngài chú ý đến các con và nhớ đến các con với lòng ưu ái. Các con phải tin tưởng vào “trí nhớ của Thiên Chúa: trí nhớ của Ngài không phải là một ‘đĩa cứng’ ghi lại và lưu trữ tất cả dữ liệu của chúng ta, trí nhớ của Ngài là một quả tim nhân ái dịu hiền, vui mừng dứt khoát xóa đi mọi dấu vết xấu xa của chúng ta”.[63] Ngài không muốn theo dõi những sai lầm của các con và, trong mọi trường hợp, Ngài sẽ giúp các con học được một điều gì đó, thậm chí từ cả những vấp ngã của các con. Vì Ngài yêu các con. Hãy cố gắng ngừng lại trong giây lát và để mình được Ngài yêu thương. Hãy cố gắng ngưng mọi tiếng nói và tiếng khóc bên trong và nghỉ ngơi một vài giây phút trong vòng tay yêu thương của Ngài.
  2. Đó là một tình yêu “không lấn áp hay đàn áp, một tình yêu không loại trừ, không bắt phải câm nín, một tình yêu không làm nhục hay độc đoán. Đó là tình yêu của Chúa, một tình yêu mọi ngày, kín đáo và tôn trọng, một tình yêu tự do và giải thoát, một tình yêu chữa lành và đỡ dậy. Đó là tình yêu của Chúa, Đấng biết nhiều về việc nâng lên hơn là đạp xuống, về việc hòa giải hơn là cấm đoán, về việc trao ban cơ hội mới thay vì lên án, nhìn đến tương lai hơn là về quá khứ”.[64]
  3. Khi Ngài yêu cầu các con điều gì hoặc đơn thuần để cho các con gặp những thử thách trong cuộc đời, Ngài mong các con nhường chỗ để Ngài đẩy các con về phía trước, động viên các con, giúp các con trưởng thành. Ngài không phiền hà khi các con trình bày những thắc mắc của mình với Ngài. Điều khiến Ngài lo lắng là các con không nói với Ngài, không mở long ra một cách chân thành để đối thoại với Ngài. Thánh Kinh nói rằng ông Giacob đã vật lộn với Thiên Chúa (x. St 32:25-31), nhưng điều ấy đã không làm cho ông tránh đi theo con đường của Chúa. Thật ra, chính Chúa khuyến khích chúng ta: “Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận!” (Is 1:18). Tình yêu của Ngài rất thật, rất chân chính, rất cụ thể đến nỗi nó mang đến cho chúng ta một mối liên hệ đầy đối thoại chân thành và hiệu quả. Cuối cùng, hãy tìm vòng tay của Cha Trên Trời của các con trong khuôn mặt yêu thương của các nhân chứng can đảm của Ngài trên thế gian!

Đức Kitô cứu các con

  1. Chân lý thứ nhì là Đức Kitô, vì tình yêu, đã hy sinh đến cùng để cứu các con. Vòng tay rộng mở của Người trên thập giá là dấu chỉ quý giá nhất của một người bạn có khả năng đạt đến cực độ: “Khi đã yêu những kẻ thuộc về mình trên thế gian, thì Người đã yêu họ cho đến cùng” (Ga 13: 1).

Thánh Phaolô đã khẳng định rằng ngài đã sống trong sự phó thác vào tình yêu tận hiến ấy, là tình yêu đã ban cho ngài mọi sự: “Hiện nay tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Ðấng đã yêu thương tôi và đã hiến mạng sống Mình vì tôi” (Gal 2:20).

  1. Đức Kitô này đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi của chúng ta trên Thập Giá của Người, ngày nay vẫn tiếp tục cứu độ và cứu chuộc chúng ta bằng quyền năng của việc tự hiến hoàn toàn của Người. Các con hãy nhìn lên Thánh Giá của Người, bám chặt lấy Người, để Người cứu chúng con, bởi vì “những ai để cho mình được Người cứu độ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn rầu, cô lập và trống rỗng nội tâm”.[65] Và nếu các con phạm tội và lạc xa Người, Người sẽ đến nâng các con dậy bằng quyền năng Thập Giá của Người. Đừng bao giờ quên rằng “Người tha thứ bảy mươi lần bảy. Hết lần này đến lần khác Người lại đến để vác chúng ta trên vai của Người. Không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta phẩm giá mà tình yêu vô hạn và bền vững này đã ban cho chúng ta.  Người cho phép chúng ta ngẩng cao đầu lên và bắt đầu lại một lần nữa, với một sự dịu dàng không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng nhưng luôn luôn đem lại cho chúng ta niềm vui”.[66]
  2. Chúng ta “được Chúa Giêsu cứu bởi vì Người yêu chúng ta và không thể làm gì khác hơn. Chúng ta có thể làm bất cứ điều gì chống lại Người, nhưng Người yêu thương chúng ta và cứu chúng ta. Bởi vì chỉ những gì được yêu thương mới có thể được cứu. Chỉ những gì được ôm lấy mới có thể được biến đổi. Tình yêu của Chúa lớn hơn tất cả những mâu thuẫn, những yếu đuối và những nhỏ mọn của chúng ta. Nhưng chính nhờ những mâu thuẫn, những yếu đuối và những nhỏ mọn này của chúng ta mà Người muốn viết lại chuyện tình này. Người ôm lấy đứa con hoang đàng, Người ôm lấy Thánh Phêrô sau những lời chối Chúa và Người luôn ôm lấy chúng ta, luôn luôn, sau khi chúng ta sa ngã để giúp chúng ta đứng dậy và đứng trên đôi chân của mình. Vì sự sa ngã tồi tệ nhất, là sự sa ngã có thể tiêu hủy cuộc đời chúng ta, chính là nằm yên dưới đất mà không để cho ai giúp đỡ mình”.[67]
  3. Ơn tha thứ và ơn cứu rỗi của Người không phải là điều gì chúng ta có thể mua được hoặc chúng ta phải có được bằng việc làm hoặc nỗ lực riêng của mình. Người tha thứ cho chúng ta và giải thoát chúng ta một cách nhưng không. Sự hy sinh của Người trên Thánh Giá là một điều quá cao trọng đến nỗi chúng ta không bao giờ có thể trả và không phải trả, chúng ta chỉ cần đón nhận sự hy sinh này với lòng biết ơn vô biên và niềm vui được yêu thương nhiều hơn chúng ta có thể tưởng tượng được: “Người đã yêu chúng ta trước” (1 Ga 4:19).
  4. Hỡi những người trẻ được Chúa yêu thương, các con đáng giá biết bao khi các con được máu châu báu của Đức Kitô cứu chuộc! Các người trẻ thân mến, “các con thật vô giá! Các con không phải là món đồ để bán đấu giá! Làm ơn đừng để mình bị quyến rũ. Đừng để mình bị nô lệ hoá bởi các hình thức thực dân hoá tư tưởng, là điều nhồi nhét những tư tưởng vào đầu các con, với hậu quả là các con trở thành nô lệ, nghiện ngập và thất bại trong cuộc đời. Các con thật vô giá, Các con phải luôn lặp lại điều này: Tôi không phải là món đồ để bán đấu giá, tôi vô giá. Tôi được tự do, tôi được tự do! Việc yêu chuộng tự do này là điều Chúa Giêsu ban”.[68]
  5. Hãy chăm chú nhìn vào vòng tay rộng mở của Đức Kitô chịu đóng đinh, hãy để mình được Chúa cứu đi cứu lại. Và khi các con đi xưng tội của mình, các con hãy tin chắc vào lòng thương xót của Người, là điều giải thoát các con khỏi mặc cảm tội lỗi. Hãy chiêm ngắm Máu Người đổ ra với tình yêu cao cả như thế, và hãy để mình được Máu ấy thanh tẩy. Bằng cách này, các con luôn có thể được tái sinh một lần nữa.

Người đang sống!

  1. Nhưng có một chân lý thứ ba, không thể tách rời chân lý trước được: Người đang sống! Chúng ta phải ghi nhớ thường xuyên, bởi vì chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một gương sáng trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta hai ngàn năm về trước. Điều này không có ích gì cho chúng ta, nó sẽ để nguyên cho chúng ta như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta. Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta là Đấng còn đang sống. Người là Đức Kitô Phục Sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, được phục sức trong ánh sáng vô tận. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em ra vô ích” (1 Cor 15: 17).
  2. Nếu Người đang sống, thì Người có thể thật sự hiện diện trong cuộc đời chúng con mọi lúc, để đổ đầy ánh sáng trên nó. Như vậy sẽ không bao giờ còn cô đơn và bị bỏ rơi nữa. Ngay cả khi mọi người bỏ đi, Người sẽ ở đó, như Người đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Người lấp đầy mọi sự bằng sự hiện diện vô hình của Người, và các con đi bất cứ nơi nào, Người sẽ chờ đợi các con ở đó. Bởi vì Người không những đã đến mà còn đang đến và sẽ tiếp tục đến mỗi ngày để mời các con tiến bước đến một chân trời luôn luôn mới.
  3. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu hạnh phúc và tràn ngập niềm vui. Hãy vui mừng với Người Bạn đã chiến thắng. Họ đã giết Đấng thánh, Đấng công chính, Đấng vô tội, nhưng Người đã chiến thắng. Sự dữ không có lời cuối. Ngay cả trong cuộc đời các con, sự dữ sẽ không có lời cuối, bởi vì các con có một Người Bạn yêu thương các con và muốn chiến thắng trong các con. Cứu Chúa của các con đang sống!
  4. Nếu Người đang sống, thì đó chính là một đảm bảo rằng sự tốt lành có thể đi theo cuộc đời chúng ta, và những nỗ lực của chúng ta không ra vô ích. Như thế, chúng ta có thể thôi phàn nàn và nhìn về phía trước, bởi vì với Người, chúng ta luôn có thể nhìn về phía trước. Đây là sự an toàn của chúng ta. Chúa Giêsu sống đời đời. Nếu chúng ta bám chặt lấy Người, chúng ta sẽ sống và vượt qua tất cả các hình thức chết chóc và bạo lực đang rình rập chúng ta trên đường.
  5. Mọi giải pháp khác đều thiếu sót và tạm thời. Có lẽ chúng sẽ hữu ích trong một thời gian, sau đó chúng ta lại không được bảo vệ và bị bỏ rơi trước những giông bão của cuộc đời. Trái lại, với Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta bén rễ sâu vào một sự an toàn cơ bản, vượt trên tất cả mọi sự. Thánh Phaolô nói rằng ngài muốn được kết hợp với Đức Kitô để “biết Người và quyền năng phục sinh của Người” (Phl 3:10). Đó là quyền năng cũng tự biểu lộ không ngừng trong cuộc đời chúng con, bởi vì Người đã đến để ban cho các con sự sống, “và sự sống dồi dào” (Ga 10.10).
  6. Nếu các con trân quý vẻ đẹp của sứ điệp này bằng quả tim của các con và để cho mình được Chúa gặp gỡ; nếu các con để cho mình được Người yêu thương và cứu rỗi; nếu các con kết bạn với Người và bắt đầu trò chuyện với Người, là Đức Kitô hằng sống, về những điều cụ thể trong cuộc đời các con, thì đây sẽ là kinh nghiệm tuyệt vời, kinh nghiệm cơ bản giúp nâng đỡ đời Kitô hữu của các con. Đây cũng là một kinh nghiệm mà các con có thể thông truyền cho những người trẻ khác. Bởi vì “là một Kitô hữu, không phải là kết quả của một một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định”.[69]

Thần Khí ban sự sống

  1. Trong ba chân lý này – Thiên Chúa yêu thương các con, Đức Kitô là Cứu Chúa của các con, Người đang sống – Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu xuất hiện. Ở đâu có Chúa Cha và Chúa Giêsu, thì ở đó cũng có Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng chuẩn bị và mở rộng tâm hồn để đón nhận sứ điệp này, chính Ngài là Đấng giữ cho hy vọng cứu độ này được sống, chính Ngài là Đấng sẽ giúp các con lớn lên trong niềm vui này nếu các con để cho Ngài hoạt động. Chúa Thánh Thần đổ đầy quả tim của Đức Kitô Phục Sinh và từ đó, như một suối nguồn, đổ vào đời sống các con. Và khi các con nhận được Chúa Thánh Thần, Ngài làm cho các con càng ngày càng đi sâu vào con tim của Đức Kitô, để các con có thể lớn lên trong tình yêu, ánh sáng và quyền năng của Ngài.
  2. Các con hãy cầu khẩn Chúa Thánh Thần mỗi ngày để không ngừng kinh nghiệm một cách mới mẻ sứ điệp cao cả này. Tại sao lại không? Các con không mất gì và Ngài có thể thay đổi cuộc đời các con, Ngài có thể soi sáng các con và ban cho các con một con đường tốt hơn. Đừng tự làm cho mình thành tàn tật, Ngài không lấy đi từ các con một điều gì, trái lại, Ngài giúp các con tìm thấy tất cả những gì các con cần bằng một cách tốt nhất. Các con có cần tình yêu không? Các con sẽ không tìm thấy nó trong tình trạng thác loạn, sử dụng người khác, cố gắng chiếm đoạt hoặc thống trị họ. Các con sẽ tìm thấy nó bằng một cách làm cho các con thật sự hạnh phúc. Các con đang tìm những cảm xúc mãnh liệt ư? Các con sẽ không sống nó bằng cách tích lũy vật chất, tiêu tiền, theo đuổi cách tuyệt vọng những sự vật của thế gian này. Nó sẽ đến một cách tốt đẹp và thỏa mãn hơn nhiều nếu các con để cho mình được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
  3. Các con tìm kiếm đam mê ư? Như một bài thơ hay nói: “hãy bắt đầu biết yêu!” (hoặc “hãy để cho mình được yêu)!”, bởi vì “không gì có thể quan trọng hơn việc tìm thấy Thiên Chúa. Nghĩa là, hãy bắt đầu yêu Ngài một cách dứt khoát và tuyệt đối. Các con bắt đầu yêu gì, trí tưởng tượng của các con to cỡ nào, và cuối cùng để lại dấu vết của nó khắp nơi. Nó sẽ quyết định điều gì sẽ làm cho các con ra khỏi giường vào buổi sáng, điều gì các con sẽ làm lúc hoàng hôn, các con sẽ trải qua những ngày cuối tuần như thế nào, các con đọc gì, biết ai, điều gì làm tim của các con bị tan vỡ và điều gì làm các con tràn ngập niềm vui và lòng biết ơn. Hãy bắt đầu yêu! Hãy ở trong tình yêu! Tất cả mọi sự sẽ khác”.[70] Tình yêu Thiên Chúa này, là điều có thể tiếp cận mọi sự trong đời sống với niềm đam mê, có thể có được nhờ Chúa Thánh Thần, bởi vì “tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ vào tâm hồn chúng ta qua Chúa Thánh Thần là Đấng đã được ban cho chúng ta” (Rm 5: 5).
  4. Ngài là nguồn mạch tốt nhất của tuổi trẻ. Vì bất cứ ai tin cậy vào Chúa “giống như một cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi” (Gr 17: 8). Trong khi “thanh niên thì mệt mỏi nhọc nhằn” (Is 40: 30), những người đặt niềm tin vào Chúa “được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân” (Is 40:31).

CHƯƠNG NĂM

Những con đường của tuổi trẻ

  1. Người ta sẽ sống tuổi trẻ thế nào khi họ để cho mình được chiếu sáng và biến đổi bởi lời loan báo vĩ đại của Tin Mừng? Thật quan trọng khi đặt câu hỏi này, bởi vì tuổi trẻ, còn hơn cả một nguồn tự hào, là một hồng ân từ Thiên Chúa: “Trẻ là một ân sủng, một gia tài”.[71] Đó là một món quà mà chúng ta có thể lãng phí một cách vô ích, hoặc có thể đón nhận với lòng biết ơn và sống trọn vẹn.
  2. Thiên Chúa là tác giả của tuổi trẻ và Ngài hoạt động trong mỗi người trẻ. Tuổi trẻ là thời gian có phúc cho người trẻ và là phúc lành cho Hội Thánh và thế giới. Đó là một niềm vui, một ca khúc về hy vọng và một mối phúc. Trân quý tuổi trẻ có nghĩa là xem giai đoạn này của cuộc đời như một giây phút quý giá chứ không phải là một giai đoạn chuyển tiếp trong đó những người trẻ cảm thấy bị đẩy về phía tuổi trưởng thành.

Một thời gian cho những giấc mơ và những chọn lựa

  1. Trong thời Chúa Giêsu, bước qua thời thơ ấu là một bước rất đáng mong đợi trong cuộc đời, được nhiều người ăn mừng và trân quý. Vì thế, khi Chúa Giêsu cho một “đứa trẻ” sống lại (Mc 5:39), Người đã để em đi một bước, khuyến khích em và đổi em thành “thiếu nữ” (Mc 5:41). Khi Người nói với em: “Này cô bé, hãy chỗi dậy!” (Talità kum), Người đồng thời làm cho em có trách nhiệm hơn với cuộc đời của em trước những cửa vào tuổi trẻ.
  2. “Tuổi trẻ, giai đoạn phát triển nhân cách, được đánh dấu bằng những giấc mơ đang dần dần hình thành, bằng những mối liên hệ càng ngày càng trở nên kiên định và cân bằng hơn, bằng những nỗ lực và thử nghiệm, bằng những lựa chọn, đang từ từ xây dựng một kế hoạch cho cuộc đời. Vào lúc này của cuộc đời, những người trẻ được mời gọi tự tiên liệu, mà không cần phải chặt đứt gốc rễ của mình, để xây dựng sự tự chủ của mình, nhưng không phải trong cô độc”.[72]
  3. Tình yêu của Thiên Chúa và mối liên hệ của chúng ta với Đức Kitô hằng sống không ngăn cản chúng ta mơ ước, không đòi chúng ta phải thu hẹp chân trời của mình. Trái lại, tình yêu này thúc chúng ta, khuyến khích chúng ta, và đẩy chúng ta đến một cuộc sống tốt đẹp và tươi đẹp hơn. Từ “thao thức” tổng hợp nhiều khát vọng của con tim những người trẻ. Như Thánh Phaolô VI đã nói, “chính trong sự bất mãn đang hành hạ các con…. lại có một tia sáng”.[73] Sự thao thức vì bất mãn, cùng với sự kinh ngạc về những điều mới lạ xuất hiện ở chân trời, mở ra một con đường cho sự táo bạo khiến các em phải đứng ra và gánh trách nhiệm trong một sứ vụ. Sự thao thức lành mạnh này, là điều trước hết đánh thức tuổi trẻ, vẫn là đặc điểm của mọi quả tim vẫn còn trẻ, sẵn sàng và cởi mở. Sự bình an nội tâm thật cùng đồng tồn tại với sự thiếu hài lòng sâu thẳm này. Thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không ngừng nghỉ cho đến khi chúng được an nghỉ trong Chúa”.[74]
  4. Một thời gian trước đây, có một người bạn đã hỏi tôi là tôi thấy gì khi nghĩ về một người trẻ. Câu trả lời của tôi là: “Tôi thấy một cậu bé hay một cô bé đang tìm kiếm con đường riêng của mình, đang muốn bay bằng đôi chân của mình, đang nhìn đến thế giới và nhìn về phía chân trời với cặp mắt tràn đầy hy vọng, đầy tương lai cũng như ảo ảnh. Một người trẻ đi bằng hai chân như những người lớn, nhưng không giữ cho chúng song song giống như người lớn, người trẻ luôn luôn có một chân trước chân sau, để sẵn sàng đi ra, để nhảy trước, luôn lao về phía trước. Nói về những người trẻ là nói về những lời hứa, là nói về những niềm vui. Những người trẻ có nhiều sức lực, các em có khả năng tìm kiếm với hy vọng. Một người trẻ là một lời hứa của đời sống, nghĩa là có một mức độ dẻo dai nào đó; người ấy có đủ điên rồ để có thể tự lừa dối mình và có đủ khả năng để có thể bình phục từ bệnh ảo tưởng có thể xảy ra”.[75]
  5. Một số người trẻ có lẽ chối từ giai đoạn này của cuộc đời vì các em muốn tiếp tục là trẻ em, hoặc mong ước “kéo dài tuổi thiếu niên cách vô hạn và trì hoãn các quyết định; do đó, nỗi sợ sự dứt khoát tạo ra một loại tê liệt về quyết định. Tuy nhiên, tuổi trẻ không thể ngừng lại ở một thời gian lơ lửng: đây là tuổi của những chọn lựa, và sự quyến rũ cùng nhiệm vụ lớn nhất của nó nằm ở chính tuổi này. Những người trẻ đưa ra những quyết định trong các lĩnh vực chuyên nghiệp, xã hội, chính trị và các lĩnh vực khác, rất căn bản, là điều đem lại cho cuộc đời các em một hướng đi quyết định”.[76] Các em cũng đưa ra những quyết định liên quan đến tình yêu, việc lựa chọn bạn đời hoặc có thể có con đầu lòng. Chúng ta sẽ đào sâu các chủ đề này trong những chương cuối, dành riêng cho ơn gọi cá nhân và sự phân định của nó.
  6. Nhưng ngược lại với những giấc mơ đưa đến các quyết định, luôn luôn “có đe dọa của việc than thở, cam chịu. Chúng ta hãy để các điều ấy lại cho những kẻ thờ ‘nữ thần than thở’!…. Đó là một tà thần: nó khiến chúng ta đi lạc đường. Khi mọi sự dường như khựng lại và trì trệ, khi các vấn đề cá nhân làm phiền chúng ta, và không thể tìm ra câu trả lời đúng cho những khó khăn của xã hội, thật không tốt khi bỏ cuộc. Con đường là Chúa Giêsu: hãy lên ‘thuyền’ của chúng ta và cùng với Người chèo ra chỗ nước sâu! Người là Chúa! Người thay đổi quan niệm sống của chúng ta. Đức tin vào Chúa Giêsu dẫn đến một niềm hy vọng vượt xa hơn, đến một sự chắc chắn không dựa trên phẩm chất và tài năng của mình, nhưng dựa trên Lời Chúa, trên lời mời gọi đến từ Người. Đừng tính toán quá nhiều theo kiểu nhân loại, cũng đừng lo lắng thái quá về những gì đe doạ sự an toàn của chúng ta. Hãy ra khơi, hãy ra khỏi chính mình”.[77]
  7. Các con phải kiên trì trên con đường của những giấc mơ. Để làm điều này, các con phải đề phòng một cám dỗ thường cản trở chúng ta: đó là lo âu. Lo âu có thể trở thành một kẻ đại thù khi nó làm cho chúng ta đầu hàng vì không thấy kết quả tức thì. Những giấc mơ đẹp nhất chỉ đạt được bằng hy vọng, kiên nhẫn, quyết tâm, và không vội vàng. Đồng thời, chúng ta không được ngừng lại vì thiếu an toàn, chúng ta không được sợ rủi ro hoặc sai lầm. Thay vào đó, chúng ta phải sợ sống tê liệt, như kẻ không hồn, thu mình thành những con người không còn sống vì họ không muốn mạo hiểm, vì họ không thực thi cam kết dấn thân của mình hoặc sợ phạm sai lầm. Ngay cả khi các con sai lầm, các con luôn luôn có thể đứng lên và bắt đầu lại, vì không ai có quyền đánh cắp hy vọng của các con.
  8. Hỡi những người trẻ, đừng bỏ mất những năm tốt nhất của tuổi trẻ, đừng ngắm nhìn cuộc sống từ ban công. Đừng lầm lẫn hạnh phúc với một chiếc ghế bành và đừng sống cả cuộc đời trước màn ảnh. Đừng trở nên cảnh tượng đau lòng của một chiếc xe phế thải. Đừng trở thành những chiếc xe đang đậu, thay vào đó hãy để cho những giấc mơ nở hoa và hãy có những quyết định tốt. Hãy mạo hiểm, ngay cả khi các con thất bại. Đừng sống sót với tâm hồn tê mê và đừng nhìn thế giới như thể các con là du khách. Hãy gây tiếng ồn ào! Hãy xua tan những nỗi lo sợ làm tê liệt các con, để các con không trở thành những xác ướp trẻ. Hãy sống! Hãy cho mình những gì tốt nhất trong cuộc sống! Hãy mở cửa lồng và hãy bay đi! Làm ơn đừng về hưu non.

Khát khao sống và kinh nghiệm

  1. Dự phóng về tương lai đáng mơ ước này không có nghĩa là những người trẻ hoàn toàn tiến về phía trước, bởi vì, đồng thời cũng có một khát vọng mãnh liệt để sống giây phút hiện tại, để tận dụng tối đa những khả năng mà cuộc sống này mang lại cho các em. Thế giới này tràn đầy vẻ đẹp! Làm sao chúng ta có thể coi thường những quà tặng của Thiên Chúa?
  2. Ngược lại với những gì nhiều người nghĩ, Chúa không muốn làm suy yếu các ước muốn có một đời sống trọn vẹn này. Thật tốt khi nhớ lại những gì một hiền sĩ của Cựu Ước đã dạy: “Con ơi, nếu có của, hãy làm cho đời con được tốt đẹp…. Đừng từ chối không hưởng một ngày vui”, (Hc 14:11,14). Thiên Chúa thật, Ngài yêu các con, muốn các con hạnh phúc. Đó là lý do tại sao trong Thánh Kinh, chúng ta cũng tìm thấy lời khuyên này dành cho những người trẻ: “Này bạn thanh niên, cứ vui hưởng tuổi xuân của bạn, và làm cho tâm hồn được hạnh phúc trong những ngày còn trẻ:…. Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn” (Gv 11:9-10). Bởi vì chính Thiên Chúa “cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” (1 Tim 6:17).
  3. Làm sao một người có thể biết ơn Thiên Chúa nếu không có khả năng tận hưởng những món quà nho nhỏ hàng ngày của Ngài, nếu không biết ngừng lại trước những vật đơn giản và dễ thương mà họ gặp trên mỗi bước đường? Bởi vì “không ai tệ hơn kẻ làm hại chính mình” (Hc 14: 6). Đây không nói về sự vô độ, luôn bị ám ảnh bởi việc đi tìm những lạc thú mới, là điều cản trở các con trong việc sống cách tốt nhất trong hiện tại. Vấn đề là biết mở mắt ra và ngừng lại để sống trọn vẹn và với lòng biết ơn, từng món quà nho nhỏ của cuộc sống.
  4. Rõ ràng là Lời Chúa mời các con sống phút hiện tại, chứ không chỉ chuẩn bị cho ngày mai: “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34). Nhưng điều này không có nghĩa là lao mình vào một nếp sống đồi trụy, vô trách nhiệm, là nếp sống biến chúng ta thành trống rỗng và luôn bất mãn; nhưng thay vào đó, là sống trọn vẹn hiện tại, sử dụng năng lực của mình cho những điều tốt đẹp, nuôi dưỡng tình huynh đệ, theo Chúa Giêsu và trân quý mỗi niềm vui nho nhỏ của cuộc đời như một món quà của tình yêu Thiên Chúa.
  5. Về vấn đề này, Cha muốn nhắc lại rằng Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, khi bị giam cầm trong một trại tập trung, đã không muốn những ngày của ngài chỉ bao gồm chờ đợi và hy vọng vào tương lai. Ngài đã chọn “sống giây phút hiện tại bằng cách lấp đầy nó với tình yêu”; và cách mà Ngài nhận ra đó là: “Tôi nắm bắt những cơ hội phát sinh mỗi ngày, để thực hiện những hành động bình thường một cách phi thường”.[78] Khi các con đấu tranh để biến ước mơ của mình thành hiện thực, hãy sống trọn vẹn ngày hôm nay, cho đi tất cả và từng giây phút lấp đầy nó bằng tình yêu. Bởi vì thật sự là ngày hôm nay của tuổi trẻ của các con có thể là ngày cuối cùng, và như thế thật đáng giá để sống nó với tất cả ước muốn và tất cả chiều sâu có thể.
  6. Điều này cũng áp dụng cho những lúc khó khăn, là những lúc phải được sống để có thể tìm hiểu sứ điệp của chúng. Như các Giám Mục Thụy Sĩ đã dạy: “Ngài ở đó, nơi mà chúng ta nghĩ rằng Ngài đã đã bỏ rơi chúng ta, và rằng không còn hy vọng cứu rỗi nữa. Đó là một sự nghịch lý, nhưng đối với nhiều Kitô hữu, đau khổ,…. bóng tối đã trở thành nơi gặp gỡ với Thiên Chúa”.[79] Hơn nữa, ước muốn được sống và có những cảm nghiệm mới đặc biệt liên quan đến nhiều người trẻ trong điều kiện khuyết tật về thể lý, tâm thần và cảm giác. Ngay cả khi các em không thể luôn luôn có những kinh nghiệm giống như các đồng bạn của mình, các em vẫn có những tài nguyên đáng ngạc nhiên, không thể tưởng tượng được, đôi khi vượt quá những gì thông thường. Chúa Giêsu lấp đầy các em bằng những món quà khác, mà cộng đồng được mời gọi trân quý, để các em có thể khám phá ra kế hoạch yêu thương của Người dành cho mỗi em.

Trong tình bằng hữu với Đức Kitô

  1. Cho dù các con có sống và trải qua bao nhiêu năm tháng của tuổi trẻ, các con sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa sâu xa và trọn vẹn nhất của nó, nếu các con không gặp Người Bạn tốt nhất của các con mỗi ngày, nếu các con không sống trong tình bằng hữu với Chúa Giêsu.
  2. Tình bằng hữu là một món quà của cuộc đời và là một hồng ân từ Thiên Chúa. Qua bạn bè, Chúa thanh lọc chúng ta và giúp chúng ta trưởng thành. Đồng thời, những người bạn trung thành, những người ở bên cạnh chúng ta trong những lúc khó khăn, là phản ảnh tình yêu của Chúa, là niềm an ủi và sự hiện diện yêu thương của Người. Có những người bạn dạy chúng ta cởi mở, hiểu biết, quan tâm đến người khác, ra khỏi sự thoải mái và cô lập của chính mình, cùng chia sẻ đời sống với tha nhân. Đó là lý do tại sao “không có gì quý giá hơn người bạn trung thành” (Hc 6:15).
  3. Tình bạn không phải là một mối liên hệ tạm thời, thoáng qua, nhưng ổn định, kiên định, chung thủy, trưởng thành theo thời gian. Đó là một mối liên hệ của tình cảm làm cho chúng ta cảm thấy hợp nhất, và đồng thời là một tình yêu quảng đại dẫn chúng ta đến việc tìm kiếm những điều tốt đẹp của bạn mình. Ngay cả khi bạn bè có thể rất khác nhau, luôn có một số điểm chung khiến họ cảm thấy gần gũi, có một sự thân mật được chia sẻ với lòng chân thành và tin tưởng.
  4. Tình bằng hữu rất quan trọng đến nỗi chính Chúa Giêsu tự giới thiệu mình là bạn: “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, nhưng Thầy gọi các con là bạn hữu” (Ga 15:15). Nhờ ân sủng Người ban cho chúng ta, mà chúng ta được nâng lên đến mức thật sự là bạn hữu của Người. Với cùng một tình yêu mà Người dành cho chúng ta, chúng ta có thể yêu Người, chia sẻ tình yêu của Người cho tha nhân, với hy vọng là họ cũng sẽ tìm thấy chỗ đứng của họ trong cộng đồng bạn hữu mà Chúa Giêsu Kitô đã sáng lập.[80] Và mặc dù Người đã hoàn toàn hạnh phúc như Đấng Phục Sinh, chúng ta có thể quảng đại với Người, giúp Người xây dựng Triều Đại của Người trên thế gian này, là công cụ của Người để đưa sứ điệp của Người, ánh sáng và trên hết là tình yêu của Người, đến cho tha nhân (x. Ga 15:16). Các môn đệ đã nghe lời mời gọi của Chúa Giêsu để trở nên bạn hữu của Người. Đó là một lời mời không ép buộc, nhưng được nhẹ nhành đề nghị với sự tự do của họ: “Hãy đến mà xem”, Người đã nói với họ, và họ “đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1:39). Sau cuộc gặp gỡ thân mật và bất ngờ đó, họ bỏ tất cả lại và đi với Người.
  5. Tình bằng hữu với Chúa Giêsu thì bất khả phân ly. Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta, ngay cả đôi khi Người có vẻ im lặng. Khi chúng ta cần Người, Người cho phép chúng ta tìm thấy Người (x. Gr 29:14) và Người vẫn ở bên cạnh chúng ta dù chúng ta đi bất cứ nơi nào (x. Gs 1:9). Người không bao giờ vi phạm giao ước của Người. Người yêu cầu chúng ta đừng bỏ Người: “Hãy ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong các con” (Ga 15: 4). Nhưng nếu chúng ta xa lánh Người, “Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tim 2:13).
  6. Với một người bạn, chúng ta có thể trò chuyện và chia sẻ những điều bí mật nhất. Chúng ta cũng trò chuyện với Chúa Giêsu. Cầu nguyện là một thách đố và một cuộc phiêu lưu. Và là một cuộc phiêu lưu kỳ thú biết bao! Nó cho phép chúng ta biết Người mỗi ngày một hơn, cho chúng ta đi vào chiều sâu của Người và lớn lên trong một sự kết hợp chặt chẽ hơn bao giờ hết với Người. Cầu nguyện cho phép chúng ta thưa Người mọi điều xảy ra cho mình và tín thác trong vòng tay của Người, đồng thời cho chúng ta những giây phút thân mật và tình cảm quý giá, trong đó Chúa Giêsu rót sự sống của Người vào chúng ta. Khi cầu nguyện chúng ta “mở cuộc chơi” cho Người, và chúng ta nhường chỗ cho Người “để Người có thể hành động, vào cuộc và giành thắng lợi”.[81]
  7. Vì vậy, chúng ta có thể cảm nghiệm được sự kết hợp không ngừng với Người, là điều vượt trên tất cả những gì chúng ta có thể sống với người khác: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2:20). Đừng tước tình bằng hữu này khỏi tuổi trẻ của các con. Các con sẽ có thể cảm thấy Người ở cạnh các con không chỉ khi cầu nguyện. Các con sẽ nhận ra rằng Người đi cùng các con mọi lúc. Hãy cố gắng tìm hiểu và các con sẽ sống những kinh nghiệm đẹp khi biết là các con luôn được Người đồng hành. Đây là điều mà các môn đệ trên đường Emmaus đã trải qua khi, trong lúc họ đang đi đường và hoang mang trò chuyện, thì Chúa Giêsu hiện ra và “đi với họ” (Lc 24:15). Một vị thánh nói rằng “Kitô giáo không phải là một tập hợp các chân lý phải tin, các luật lệ phải tuân theo, và các điều cấm đoán. Nhìn cách này thấy đáng ghét. Kitô giáo là một con người đã yêu tôi rất nhiều và đòi tôi yêu lại. Kitô giáo là Đức Kitô”.[82]
  8. Chúa Giêsu có thể kết hợp mọi người trẻ của Hội Thánh lại với nhau trong một giấc mơ duy nhất, “một giấc mơ vĩ đại và một giấc mơ có khả năng liên hệ với tất cả mọi người. Giấc mơ mà vì nó Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình trên Thánh Giá và Chúa Thánh Thần, trong ngày Lễ Ngũ Tuần, đã được tuôn đổ và đánh dấu bằng lửa trong tâm hồn tất cả mọi người nam nữ, trong tâm hồn mỗi người…. đã khắc sâu vào đó với hy vọng sẽ tìm được chỗ để lớn lên và phát triển. Một giấc mơ, một giấc mơ tên là Giêsu, được gieo bởi Chúa Cha: Thiên Chúa như Người, như Chúa Cha, được Chúa Cha gửi đến với niềm tin rằng Người sẽ lớn lên và sống trong mọi tâm hồn. Một giấc mơ cụ thể, là một Ngôi, tuần hoàn trong huyết quản của chúng ta, làm cho con tim run rẩy và nhảy nhót”.[83]

Lớn lên trong trưởng thành

  1. Nhiều người trẻ quan tâm đến thân thể của các em, cố gắng phát triển sức mạnh thể chất hoặc ngoại hình. Những em khác làm việc chăm chỉ để nâng cao tài năng và kiến ​​thức của mình, và bằng cách này các em cảm thấy tự tin hơn. Một số em nhắm cao hơn, cố gắng tham gia nhiều hơn và tìm kiếm một sự phát triển tâm linh. Thánh Gioan nói: “Hỡi các bạn trẻ, tôi đã viết cho anh em: anh em là những người mạnh mẽ; Lời Thiên Chúa ở lại trong anh em” (1 Ga 2:14). Tìm kiếm Chúa, bảo vệ Lời Người, cố gắng đáp lại bằng đời sống của mình, lớn lên trong các nhân đức, điều này làm cho quả tim của những người trẻ trở nên mạnh mẽ. Vì lý do đó, cần phải giữ “mối liên hệ” với Chúa Giêsu, để “nối kết” với Người, để các con không lớn lên trong hạnh phúc và sự thánh thiện chỉ với sức mạnh và sự thông minh riêng của mình. Giống như các con lo lắng để không mất sự kết nối của các con với mạng Internet, hãy chắc chắn rằng sự kết nối của các con với Chúa vẫn đang hoạt động; và điều này có nghĩa là không làm gián đoạn cuộc đối thoại, lắng nghe, nói về những điều của của các con, và khi các con không biết rõ mình nên làm gì, thì hãy hỏi Người: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa sẽ làm gì nếu Chúa ở địa vị của con?” [84]
  2. Cha hy vọng rằng các con có thể coi trọng bản thân, nghiêm túc với chính mình, tìm kiếm sự phát triển tâm linh của mình. Ngoài các nhiệt tình điển hình của tuổi trẻ, còn có vẻ đẹp của việc tìm kiếm “công lý, đức tin, đức ái và hòa bình” (2 Tim 2:22). Điều này không có nghĩa là mất sự tự phát, tươi mát, nhiệt thành và dịu dàng. Bởi vì trở nên một người trưởng thành không có nghĩa là từ bỏ các giá trị tốt nhất của giai đoạn này của cuộc đời. Nếu không, một ngày nào đó, Chúa có thể quở trách các con: “Ta nhớ lại lòng quý mến của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong hoang địa” (Gr 2: 2).
  3. Mặt khác, ngay cả một người lớn cũng phải trưởng thành mà không mất đi giá trị của tuổi trẻ. Bởi vì thật ra, mỗi giai đoạn của cuộc đời là một ân sủng thường trực, với giá trị lâu dài. Một người trẻ sống tốt vẫn là một kinh nghiệm nội tâm, và trong cuộc sống trưởng thành, nó được đồng hóa, đào sâu và tiếp tục sinh hoa quả. Người trẻ tự nhiên cảm thấy được thu hút bởi chân trời vô hạn mở ra trước các em.[85] Cuộc sống trưởng thành, với sự chắc chắn và các tiện nghi của nó, có thể có nguy cơ thu hẹp chân trời ấy lại và đánh mất giá trị phù hợp với tuổi trẻ. Thay vào đó, điều ngược lại sẽ xảy ra: là trưởng thành, lớn lên và tổ chức đời sống của mình mà không bao giờ được mất sự hấp dẫn, sự mở rộng và sự quyến rũ ấy cho một thực tại luôn luôn là một điều gì nhiều hơn. Trong mọi giây phút của cuộc đời, chúng ta sẽ có thể đổi mới và củng cố tuổi trẻ của mình. Khi tôi bắt đầu sứ vụ của mình như một Giáo Hoàng, Chúa đã mở rộng nhãn quan của tôi và ban cho tôi một tuổi trẻ được đổi mới. Điều tương tự có thể xảy ra với một cặp vợ chồng đã kết hôn nhiều năm, hoặc với một tu sĩ trong tu viện của mình. Có những điều cần nhiều năm để “ổn định”, nhưng sự trưởng thành này có thể cùng tồn tại với một ngọn lửa luôn được đổi mới, với một con tim luôn luôn trẻ trung.
  4. Lớn lên có nghĩa là giữ gìn và nuôi dưỡng những gì quý giá nhất mà tuổi trẻ mang lại cho các con, nhưng đồng thời cũng có nghĩa là mở lòng ra để thanh lọc những gì không tốt và đón nhận những hồng ân mới của Thiên Chúa, Đấng mời gọi các con phát triển những gì giá trị. Đôi khi, mặc cảm tự ti có thể làm cho các con không muốn nhìn thấy khuyết điểm và yếu điểm của mình, và bằng cách này các con có thể đóng lòng lại với sự phát triển và trưởng thành. Hãy để chính mình được Chúa yêu thương, vì Người yêu con người thật của các con, đánh giá cao các con và tôn trọng các con, nhưng Người cũng ban cho các con mỗi ngày một nhiều hơn: tình bằng hữu với Người nhiều hơn, cầu nguyện nhiều hơn, đói khát Lời Chúa nhiều hơn, khao khát rước Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể nhiều hơn, mong ước được sống Tin Mừng của Người nhiều hơn, có nhiều sức mạnh nội tâm hơn, được nhiều bình an và niềm vui thiêng liêng hơn.
  5. Nhưng Cha muốn nhắc nhở các con rằng các con sẽ không nên thánh và tìm được sự sung mãn bằng cách sao chép người khác. Noi gương các vị thánh không có nghĩa là sao chép cách sống và sự thánh thiện của các ngài: “Có những chứng từ có thể hữu ích để khuyến khích và thúc đẩy chúng ta, nhưng không phải để chúng ta sao chép chúng, vì điều này thậm chí có thể khiến chúng ta xa cách con đường mà Chúa muốn cho chúng ta”.[86] Các con phải khám phá ra các con là ai và phát triển cách sống riêng của mình để nên thánh, bất chấp người khác nói gì hay nghĩ gì. Nên thánh có nghĩa là trở nên chính mình cách đầy đủ hơn, trở thành con người mà Thiên Chúa đã muốn mơ ước và dựng nên, chứ không phải một bản sao. Đời sống của con phải là một tác nhân ngôn sứ kích thích những người khác, để lại một dấu trên thế gian này, một dấu độc đáo mà chỉ một mình con mới có thể để lại được. Thay vào đó, nếu con đơn thuần chỉ là một bản sao, con sẽ tước đi khỏi trái đất này, và thậm chí cả thiên đàng, một điều mà không ai khác có thể cung cấp được. Cha nhớ rằng Thánh Gioan Thánh Giá, trong Bài Trường Ca Thiêng Liêng của ngài, đã viết rằng mọi người phải rút ra những ích lợi từ lời khuyên nhủ tâm linh của ngài “theo cách riêng của người ấy”,[87] vì chính Thiên Chúa muốn bày tỏ ân sủng của Ngài “cho một người bằng cách này và cho người khác bằng cách khác.”[88]

Con đường huynh đệ

  1. Sự phát triển tâm linh của các con được thể hiện trên hết trong tình bác ái huynh đệ, đại lượng và từ tâm. Thánh Phaolô đã nói như sau: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy” (1 Tx 3:12). Cầu mong các con sẽ sống mỗi ngày một nhiều hơn “sự xuất thần” này của việc ra khỏi chính mình để tìm kiếm điều tốt đẹp cho những người khác, thậm chí đến mức hy sinh mạng sống mình.
  2. Một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa được gọi là “xuất thần”, vì nó kéo chúng ta ra khỏi chính mình và nâng chúng ta lên, lôi cuốn chúng ta vào tình yêu và vẻ đẹp của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta cũng có thể ra khỏi chính mình để nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người, phẩm giá và sự vĩ đại của họ như hình ảnh của Thiên Chúa và con cái của Chúa Cha. Chúa Thánh Thần muốn thúc đẩy chúng ta ra khỏi chính mình, ôm lấy người khác bằng tình yêu và tìm kiếm điều tốt đẹp cho họ. Đó là lý do tại sao luôn luôn tốt hơn để cùng nhau sống đức tin và thể hiện tình yêu của chúng ta trong đời sống cộng đồng, chia sẻ tình yêu, thì giờ, đức tin và các lo âu của chúng ta với những người trẻ khác. Hội Thánh cung cấp nhiều không gian khác nhau để sống đức tin trong cộng đồng, bởi vì mọi sự sẽ dễ dàng hơn khi cùng nhau làm.
  3. Những vết thương mà các con đã nhận được có thể đưa các con đến cám dỗ sống cô lập, rút vào chính mình, chất chứa oán hờn, nhưng đừng bao giờ ngừng lắng nghe lời mời gọi tha thứ của Chúa. Như các Giám Mục Rwanda đã dạy rất hay, “sự hòa giải với người khác trước hết đòi hỏi phải khám phá nơi người ấy sự rạng ngời của hình ảnh Thiên Chúa…. Từ quan điểm này, điều quan trọng là phải phân biệt tội nhân với tội lỗi của họ, và với hành vi phạm tội của họ, để đi đến hòa giải đích thực. Điều này có nghĩa là chúng ta ghét sự xấu xa mà người khác gây ra cho mình, nhưng vẫn tiếp tục yêu họ bất chấp yếu điểm của họ vì chúng ta nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa trong họ”.[89]
  4. Đôi khi tất cả năng lực, ước mơ và nhiệt huyết của tuổi trẻ bị tan biến vì cám dỗ khép kín trong chính mình, trong những vấn đề của mình, trong những cảm giác bị tổn thương, trong những lời phàn nàn và trong sự thoải mái của mình. Đừng để điều này xảy ra cho các con, bởi vì các con sẽ trở nên già trước tuổi từ bên trong. Mỗi lứa tuổi đều có vẻ đẹp riêng của nó, và tuổi trẻ không thể bỏ mất thế giới không tưởng chung, khả năng cùng nhau mơ ước, những chân trời cả thể mà chúng ta cùng nhau ngắm nhìn.
  5. Thiên Chúa yêu niềm vui của những người trẻ và mời gọi họ trên hết đến niềm vui này để sống trong sự hiệp thông huynh đệ, với niềm vui cao thượng của những người biết chia sẻ, vì “cho đi thì có phúc hơn là nhận lại” (Cv 20:35 ) và “Thiên Chúa yêu một người vui vè cho đi” (2 Cor 9: 7). Tình bác ái huynh đệ gia tăng khả năng hạnh phúc của chúng ta, bởi vì nó cho phép chúng ta vui mừng vì những điều tốt đẹp của người khác: “Hãy vui với những người vui” (Rm 12:15). Chớ gì sự tự phát và sự thúc đẩy của tuổi trẻ của các con càng ngày càng biến đổi thành sự tự phát của tình bác ái huynh đệ, thành sự tươi mới khiến chúng ta luôn đáp ứng với sự tha thứ, với lòng quảng đại, với mong ước xây dựng cộng đồng. Một câu ngạn ngữ châu Phi nói: “Nếu bạn muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu bạn muốn đi xa, hãy đi cùng với những người khác”. Chúng ta đừng để cho mình bị cướp mất tình huynh đệ.

Tuổi trẻ và sự tham gia

  1. Thật vậy, đối diện với một thực tại đầy bạo lực và ích kỷ, đôi khi những người trẻ có nguy cơ rút lui vào các nhóm nhỏ, do đó không có dịp đương đầu với những thách đố của đời sống trong xã hội, của một thế giới rộng lớn, kích thích với nhiều nhu cầu. Các em cảm thấy mình đang sống tình bác ái huynh đệ, nhưng có lẽ nhóm của các em đã đơn giản trở thành sự nối dài của cái tôi của các em. Điều này càng trở nên trầm trọng hơn nếu ơn gọi giáo dân chỉ đơn thuần được hiểu như một việc phục vụ trong Hội Thánh (như đọc sách, giúp lễ, giáo lý viên,…), mà quên rằng ơn gọi giáo dân trước hết là bác ái trong gia đình và bác ái xã hội hoặc chính trị: đó là một cam kết cụ thể bắt đầu từ đức tin, để xây dựng một xã hội mới, là sống giữa thế giới và xã hội để Phúc Âm hoá những hoàn cảnh khác nhau của mình, kiến tạo hòa bình, chung sống, công lý, nhân quyền, nhân từ, và như thế mở rộng Triều Đại của Thiên Chúa trên thế gian.
  2. Cha đề nghị những người trẻ hãy vượt ra ngoài các nhóm thân hữu và xây dựng “tình bằng hữu xã hội, tìm kiếm công ích. Sự thù hận xã hội tiêu diệt. Sự thù hận phá hoại một gia đình. Sự thù hận tiêu diệt một đất nước. Sự thù hận hủy diệt thế giới. Và sự thù hận lớn nhất là chiến tranh. Ngày nay chúng ta thấy rằng thế giới đang bị chiến tranh tàn phá. Bởi vì họ không thể ngồi lại để đàm phán…. Phải có những khả năng đễ tạo nên tình bằng hữu xã hội”.[90] Thật không dễ dàng, chúng ta phải luôn từ bỏ một điều gì đó, chúng ta phải thương lượng, nhưng nếu nghĩ đến lợi ích của tất cả mọi người, chúng ta sẽ có thể ý thức được kinh nghiệm vĩ đại của việc bỏ những khác biệt ra ngoài để cùng nhau đấu tranh cho một mục đích chung. Nếu chúng ta có thể tìm thấy những điểm tương đồng giữa rất nhiều điều khác biệt, trong nỗ lực bình thường và đôi khi đắt giá này, để xây dựng một cây cầu, để kiến tạo một nền hòa bình có ích cho mọi người, thì đó là phép lạ của nền văn hóa gặp gỡ. Đây là điều những người trẻ có thể có can đảm sống với đam mê.
  3. Thượng Hội Đồng công nhận rằng “mặc dù dưới một hình thức khác so với các thế hệ trước, việc tham gia xã hội là một tính năng cụ thể của giới trẻ ngày nay. Bên cạnh một số em vẫn thờ ơ, có nhiều em khác sẵn sàng tự nguyện cung cấp các sáng kiến, làm công dân tích cực và đoàn kết xã hội: điều quan trọng là phải hỗ trợ và khích lệ các em phát huy tài năng, kỹ năng và óc sáng tạo, và khuyến khích tinh thần trách nhiệm của các em. Sự tham gia xã hội và tiếp xúc trực tiếp với những người nghèo vẫn là một cơ hội cơ bản để khám phá và đào sâu đức tin cùng phân định ơn gọi của chính mình…. Việc chuẩn bị để dấn thân vào đời sống chính trị ngõ hầu xây dựng công ích cũng được ghi nhận”.[91]
  4. Ngày nay, nhờ ơn Chúa, các nhóm trẻ từ các giáo xứ, trường học, phong trào hoặc các đại học có thói quen đồng hành với những người già cả và bệnh tật, hoặc đến thăm các khu dân nghèo, hay cùng nhau giúp đỡ người nghèo trong đêm gọi là “đêm bác ái”. Thường thì các em ý thức rằng trong các hoạt động này, các em nhận được nhiều hơn là cho đi, bởi vì người ta học hỏi và trưởng thành hơn rất nhiều khi có can đảm tiếp xúc với sự đau khổ của tha nhân. Hơn nữa, nơi những người nghèo có một sự khôn ngoan tiềm ẩn, và với những lời đơn sơ, họ có thể giúp chúng ta khám phá ra những giá trị mà chúng ta không nhìn thấy.
  5. Những người trẻ khác tham gia vào các chương trình xã hội nhằm xây nhà cho những người vô gia cư, hoặc phục hồi các khu vực bị ô nhiễm hay quyên góp giúp đỡ những người nghèo. Tốt hơn nếu những hoạt động tích cực chung này được áp dụng không những chỉ cho các hoạt động lẻ tẻ mà còn được tổ chức một cách ổn định, với các mục tiêu rõ ràng hầu đưa đến một sinh hoạt liên tục và hiệu quả hơn. Các sinh viên có thể kết hợp với nhau cách liên ngành để áp dụng kiến ​​thức của họ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, và trong nhiệm vụ này, họ có thể làm việc bên cạnh những người trẻ từ các Hội Thánh khác hoặc các tôn giáo khác.
  6. Như trong phép lạ của Chúa Giêsu, những chiếc bánh và những con cá của người trẻ có thể hoá ra nhiều (x. Ga 6: 4-13). Như trong dụ ngôn, các hạt giống nhỏ của những người trẻ có thể biến thành những cây và quả được thu hoạch dồi dào (x. Mt 13:23.31-32). Tất cả những điều này được bắt đầu từ nguồn sống của Bí tích Thánh Thể, trong đó bánh và rượu của chúng ta được biến đổi để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Những người trẻ được trao cho một nhiệm vụ to lớn và khó khăn. Với niềm tin vào Đấng Phục Sinh, các em sẽ có thể đối diện với nó bằng sự sáng tạo và hy vọng, luôn đặt mình vào vai trò phục vụ, như những người đầy tớ trong tiệc cưới, là những người vô tình cộng tác vào dấu chỉ đầu tiên của Chúa Giêsu. Họ chẳng làm gì khác hơn vâng lệnh Mẹ: “Người bảo gì, hãy làm như vậy” (Ga 2:5). Lòng thương xót, óc sáng tạo và hy vọng làm cho đời sống phát triển.
  7. Cha muốn khuyến khích các con trong nghĩa vụ này, bởi vì Cha biết rằng “quả tim của các con, quả tim trẻ trung, muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Cha đã theo dõi tin tức thế giới và Cha thấy rằng nhiều người trẻ ở nhiều nơi trên thế giới đã xuống đường để bày tỏ ước muốn có một nền văn minh công bằng và huynh đệ hơn. Những người trẻ xuống đường. Đó là những người trẻ muốn trở thành những nhân vật chính của sự thay đổi. Làm ơn đừng nhường vai trò làm những nhân vật chính của sự thay đổi cho những người khác! Các con là những người có tương lai! Qua các con tương lai đi vào thế giới. Cha cũng xin các con hãy trở thành những nhân vật chính của sự thay đổi này. Hãy tiếp tục vượt qua thái độ thờ ơ bằng cách đưa ra một câu trả lời Kitô giáo với các quan tâm xã hội và chính trị đang xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Cha xin các con hãy trở thành những người xây dựng thế giới, để làm việc cho một thế giới tốt đẹp hơn. Các người trẻ thân mến, làm ơn đừng nhìn cuộc sống “từ ban công”, hãy đặt mình vào đó. Chúa Giêsu không ở trên ban công, Người đã nhập cuộc; đừng nhìn cuộc sống “từ ban công”, hãy bước vào đó như Chúa Giêsu đã làm”.[92] Nhưng trên hết, bằng mọi cách, hãy đấu tranh vì công ích, hãy phục vụ người nghèo, hãy là những nhân vật chính của cuộc cách mạng bác ái và phục vụ, có khả năng chống lại bệnh đuổi theo chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa cá nhân hời hợt.

Những nhà truyền giáo can đảm

  1. Trong tình yêu của Đức Kitô, những người trẻ được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng ở mọi nơi bằng đời sống của của các em. Thánh Alberto Hurtadô đã nói rằng “trở nên tông đồ không có nghĩa là mang huy hiệu trên áo vét; không có nghĩa là nói về chân lý, nhưng sống chân lý, trở thành hiện thân của chân lý, được biến đổi trong Đức Kitô. Trở nên một tông đồ không nhất thiết phải cầm một ngọn đuốc trên tay, phải có ánh sáng, mà là ánh sáng ấy…. Tin Mừng,…. không chỉ là một bài học, mà là một gương sáng. Sứ điệp biến thành một đời sống thật sự được sống”.[93]
  2. Giá trị của chứng từ không có nghĩa là không được nói về Lời Chúa. Tại sao không nói về Chúa Giêsu, tại sao không nói với người khác rằng Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để sống, rằng thật tốt khi trò chuyện với Người, rằng thật tốt khi chúng ta suy niệm lời Người? Hỡi các người trẻ, đừng để thế giới lôi kéo các con chỉ tham dự vào những điều tiêu cực hoặc hời hợt. Các con có thể lội ngược dòng và biết cách chia sẻ Chúa Giêsu cùng truyền đạt đức tin mà Người đã ban cho các con. Chớ gì các con cảm nhận được trong lòng sự thúc đẩy không thể cưỡng lại được đã tác động trên Thánh Phaolô khi ngài nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cor 9:16).
  3. “Chúa Giêsu sai chúng ta đi đâu? Không có ranh giới, không có giới hạn: Người sai chúng ta đến với mọi người. Tin Mừng dành cho tất cả mọi người và không chỉ dành cho một số người. Tin Mừng không chỉ dành cho những người có vẻ gần gũi hơn, dễ tiếp thu hơn, sẵn sáng đón nhận hơn. Tin Mừng dành cho tất cả mọi người. Đừng ngại đi và mang Đức Kitô vào mọi môi trường, đến những cuộc sống ở ngoại vi, ngay cả với những người có vẻ xa hơn, thờ ơ hơn. Chúa tìm kiếm tất cả, muốn mọi người cảm nhận được sự ấm áp của lòng thương xót và tình yêu của Người”.[94] Người mời chúng ta đi mà không sợ hãi với việc rao giảng truyền giáo, dù chúng ta ở đâu và với bất cứ ai, trong khu phố, trong văn phòng, trong thể thao, khi chúng ta đi chơi với bạn bè, khi làm việc thiện nguyện hoặc làm việc, luôn luôn có những dịp tốt và thích hợp để chia sẻ niềm vui của Tin Mừng. Đây là cách Chúa tiếp cận mọi người. Và Người muốn các con, những người trẻ, thành công cụ của Người để chiếu ánh sáng và hy vọng, bởi vì Người muốn trông cậy vào lòng can đảm, sự tươi mới và nhiệt tình của các con.
  4. Đừng mong ước rằng sứ vụ này dễ dàng và thoải mái. Một số người trẻ đã hiến cuộc đời mình để không trì hoãn thôi thúc truyền giáo của các em. Các Giám Mục Hàn Quốc công bố thế này: “Chúng tôi hy vọng có thể trở thành những hạt lúa mì và công cụ để cứu rỗi nhân loại, theo gương các vị tử vì đạo. Ngay cả khi đức tin của chúng ta nhỏ bé như hạt cải, Thiên Chúa sẽ làm cho nó lơn lên và sử dụng nó như một công cụ cho công trình cứu độ của Ngài”.[95] Các bạn trẻ, đừng đợi đến ngày mai để hợp tác trong việc biến đổi thế giới bằng năng lực, sự táo bạo và óc sáng tạo của các con. Cuộc sống của các con không phải là “thời gian chuyển tiếp”. Các con là bây giờ của Thiên Chúa, Ngài muốn các con sinh hoa quả.[96] Bởi vì “chính lúc cho đi là lúc nhận được”[97] và cách hay nhất để chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp là sống tốt hiện tại với quyết tâm và lòng đại lượng.

 

CHƯƠNG SÁU

Người Trẻ với cội rễ

  1. Đôi khi tôi đã nhìn thấy những cây non, xinh đẹp, cành vươn lên trời, có khuynh hướng càng ngày càng mọc cao hơn, và chúng dường như là một bài ca hy vọng. Rồi, sau một cơn bão, tôi thấy chúng đổ xuống, không còn sự sống. Bởi vì chúng có ít rễ, các nhánh của chúng đã lan rộng mà không đâm rễ sâu xuống đất, vì thế chúng đã quỵ ngã trước sức tấn công của thiên nhiên. Đó là lý do tại sao tôi đau lòng khi thấy một số người đề nghị với những người trẻ xây dựng một tương lai không có gốc rễ, như thể thế giới vừa mới bắt đầu lúc này. Bởi vì “người ta không thể lớn lên nếu không có những rễ mạnh mẽ giúp họ đứng vững và gắn chặt vào lòng đất. Thật dễ dàng để bị “cuốn đi” khi người ta không có nơi nào để gắn bó, để bám chặt lấy”.[98]

Đừng để cho mình bị mất gốc

  1. Câu hỏi này không phải là thứ yếu, và nó đáng cho tôi dành một chương ngắn để bàn đến. Nếu hiểu điều này chúng ta có thể phân biệt niềm vui của tuổi trẻ với sự sùng bái sai lầm của nó, mà một số người đang dùng để quyến rũ những người trẻ và sử dụng chúng cho mục đích riêng của họ.
  2. Hãy nghĩ đến điều này: nếu một người đề nghị với các con là đừng quan tâm đến lịch sử, coi thường những kinh nghiệm của người lớn, không cần biết tất cả những gì trong quá khứ và chỉ nhìn về tương lai mà người ấy đề nghị với các con, thì đó có phải là một cách dễ dàng để thu hút các con với đề nghị của người ấy, để các con làm theo những gì người ấy nói với các con không? Người ấy cần các con nông cạn, mất gốc, mất niềm tin vào mọi sự, để chỉ tin vào lời hứa của người ấy và làm theo kế hoạch của ngưởi ấy. Đó là cách mà nhiều hệ tư tưởng với nhiều màu sắc khác nhau đang hoạt động, phá hủy (hoặc tháo gỡ) mọi khác biệt để chúng có thể thống trị mà không ai chống đối. Để đạt được điều này, chúng cần những người trẻ coi rẻ lịch sử, chối từ những sự phong phú về tinh thần và nhân bản đã được truyền lại qua các thế hệ, cùng bỏ qua tất cả những gì có trước đó.
  3. Đồng thời, những kẻ thao túng cũng sử dụng một nguồn tài nguyên khác: một sự tôn thờ tuổi trẻ, như thể tất cả những gì không phải là trẻ đều đáng ghét và nhất thời. Những thân thể trẻ trở thành biểu tượng của giáo phái mới này, do đó, mọi sự liên quan đến thân xác đều được thần tượng hóa và đáng mong ước một cách vô hạn, và những gì không phải là trẻ bị nhìn với một cái nhìn khinh miệt. Nhưng đây là một vũ khí mà cuối cùng làm cho những người trẻ bị tha hoá, làm cho các em đánh mất những giá trị thật sự, và sử dụng các em để đạt được ích lợi cá nhân, kinh tế hoặc chính trị.
  4. Các người trẻ thân mến, đừng để cho người ta sử dụng tuổi trẻ của các con để quảng bá một cuộc sống hời hợt, lầm lẫn vẻ đẹp với ngoại hình. Thay vào đó, các con nên ý thức rằng có một vẻ đẹp nơi những người lao động trở về nhà bẩn thỉu và lếch thếch, nhưng với niềm vui vì đã kiếm được cơm bánh cho con cái. Có một vẻ đẹp phi thường trong sự hiệp thông của gia đình quây quần quanh bàn ăn và trong cơm bánh được chia sẻ cách quảng đại, ngay cả khi cái bàn rất nghèo. Có một vẻ đẹp trong người vợ đầu tóc bù xù và có phần già đi, nhưng vẫn tiếp tục chăm sóc cho người chồng ốm đau, bất chấp sức mạnh và sức khỏe của chính mình. Mặc dù mùa xuân của tuổi biết yêu đã qua, nhưng có một vẻ đẹp trong sự chung thủy của những cặp vợ chồng vẫn còn yêu thương nhau trong mùa thu của cuộc đời; và ở những bô lão đang nắm tay nhau cùng bước. Có một vẻ đẹp vượt xa vẻ bề ngoài hay vẻ thẩm mỹ của thời trang ở tất cả những người nam nữ đang sống theo ơn gọi cá nhân của họ bằng tình yêu, trong việc phục vụ vị tha cho cộng đồng, cho đất nước, trong việc quảng đại xây dựng hạnh phúc gia đình, tham gia vào những việc vô danh và tự nguyện để khôi phục tình bằng hữu xã hội. Việc khám phá và làm nổi bật vẻ đẹp này, là vẻ đẹp giống như vẻ đẹp của Đức Kitô trên Thánh Giá, là đặt nền móng cho sự đoàn kết xã hội thật sự và một nền văn hóa gặp gỡ.
  5. Cùng với các chiến lược tôn thờ tuổi trẻ và ngoại hình sai lầm, ngày nay người ta còn đề cao một linh đạo không có Thiên Chúa, một tình cảm không có cộng đồng và không dấn thân phục vụ những người đau khổ, một sự sợ hãi người nghèo, coi họ như những đối tượng nguy hiểm, cùng hàng loạt những đề nghị có ý làm cho các con tin vào một thiên đàng tương lai, là một thiên đàng có vẻ càng ngày càng xa vời. Cha không muốn đề nghị các con điều đó, và với tất cả tình yêu của Cha, Cha muốn cảnh báo các con rằng đừng để mình bị chi phối bởi ý thức hệ này. Chúng sẽ không làm các con trẻ hơn chút nào, mà sẽ biến các con thành nô lệ. Cha đề nghị một con đường khác, được xây dựng bởi tự do, nhiệt tình, óc sáng tạo và những chân trời mới, nhưng đồng thời vun trồng những gốc rễ, là điều nuôi dưỡng và nâng đỡ chúng ta.
  6. Về quan điểm này, tôi muốn ghi nhận rằng “nhiều Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng từ các quốc gia không thuộc Tây phương đã vạch ra rằng ở nước họ việc toàn cầu hóa mang đến cho họ các hình thức thực dân hoá nền văn hóa thật sự, nó nhổ những người trẻ ra khỏi các liên hệ văn hóa và tôn giáo mà từ đó các em đến. Cần phải có một cam kết của Hội Thánh để đồng hành với các em trong việc chuyển tiếp này mà không đánh mất những đặc điểm quý giá nhất của căn tính của các em”.[99]
  7. Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến ​​một xu hướng “đồng nhất hóa” giới trẻ, để xóa tan những khác biệt về nguồn gốc của các em, để biến các em thành những loại hàng hoá dễ nhào nặn được chế tạo hàng loạt. Vì thế, nó cũng tạo ra một sự hủy diệt văn hóa cũng nghiêm trọng như sự tuyệt chủng của các loài động vật và thực vật.[100] Vì lý do này, trong một thông điệp gửi đến những người dân bản địa trẻ tuổi tụ tập ở Panama, tôi đã thúc giục các em “chăm sóc cho gốc rễ của mình, sức mạnh từ gốc rễ, sẽ giúp các con lớn lên, phát triển và sinh hoa kết quả”.[101]

Mối liên hệ của các con với người già

  1. Thượng Hội Đồng có tuyên bố rằng “những người trẻ dự thảo kế hoạch cho tương lai và đối diện cuộc đời với năng lượng và năng động. Nhưng…. đôi khi các em có khuynh hướng ít chú ý đến ký ức về quá khứ mà từ đó các em đến, đặc biệt là nhiều món quà mà cha mẹ, ông bà của các em và hành lý văn hóa của xã hội nơi họ sống đã được chuyển trao cho các em. Việc giúp những người trẻ khám phá ra sự phong phú sống động trong quá khứ, bằng cách làm cho các em nhớ lại và sử dụng chúng trong việc lựa chọn và trong sự phát triển tiềm năng của các em, là một hành động của tình yêu đích thực đối với các em, đối với sự phát triển của các em và những lựa chọn mà các em được gọi để thực hiện”.[102]
  2. Lời Chúa khuyên không nên mất liên lạc với những bậc lão thành, để thu thập kinh nghiệm của họ: “Hãy có mặt khi các bậc lão thành hội họp, thấy vị nào khôn ngoan, hãy hết lòng gắn bó…. Thấy người học thức uyên thâm, con hãy năng lui tới, chân đi mòn ngưỡng cửa nhà họ” (Hc 6:34, 36). Trong mọi trường hợp, những năm dài họ sống và tất cả những gì xảy ra với họ trong cuộc sống khiến chúng ta phải nhìn họ với lòng tôn trọng: “Hãy đứng dậy trước những người có tóc bạc” (Lv 19:32), bởi vì “Sức mạnh là niềm tự hào của giới thanh niên, mái đầu bạc là vinh dự của hàng bô lão” (Cn 20: 29).
  3. Thánh Kinh yêu cầu chúng ta: “Hãy lắng nghe cha con, đấng sinh thành ra con, đừng khinh dể mẹ con khi người già yếu.” (Cn 2:22). Giới răn thảo kinh cha và mẹ “là giới răn đầu tiên đi kèm với một lời hứa” (Ep 6: 2; x. Xh 20:12; Đnl 5:16; Lv 19:3), và lời hứa là: “để ngươi được hưởng phúc và sống lâu dài trên trái mặt đất này” (Ep 6: 3).
  4. Điều này không có nghĩa là các con phải đồng ý với mọi điều người lớn nói, cũng như không nên tán thành tất cả mọi hành động của họ. Một người trẻ nên luôn có một tinh thần biết phán đoán. Thánh Basiliô Cả, khi nói về các tác giả Hy Lạp cổ đại, đã khuyên những người trẻ nên quý trọng họ, nhưng chỉ chấp nhận những gì tốt họ có thể dạy.[103] Nó chỉ đơn thuần là mở lòng ra để đón nhận sự khôn ngoan được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, là sự khôn ngoan có thể cùng tồn tại với một số đau khổ của con người, và nó không có lý do gì để biến mất trước những sự mới lạ của xã hội tiêu thụ và thị trường.
  5. Thế giới chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có lợi khi có một sự đoạn tuyệt giữa các thế hệ. Nó là tiếng còi của một tương lai không gốc rễ, không cội nguồn. Đó là lời nói dối muốn cho các con tin rằng chỉ những gì mới là tốt và đẹp. Sự tồn tại của các mối liên hệ giữa các thế hệ ngụ ý rằng, trong các cộng đồng, có một ký ức tập thể, vì mỗi thế hệ sở hữu những lời giáo huấn của những thế hệ trước, do đó, để lại một di sản cho những thế hệ sau. Điều này tạo thành khuôn khổ tham chiếu để củng cố vững chắc một xã hội mới. Như câu ngạn ngữ nói: “Nếu người trẻ có sự hiểu biết và người già có sức lực, thì sẽ không có gì mà họ không thể làm được”.

Ước mơ và những viễn cảnh

  1. Trong lời tiên tri của ngôn sứ Giôen, chúng ta tìm thấy một câu cho phép chúng ta hiểu điều này một cách tuyệt diệu. Ông nói: “Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến.” (Gl 3: 1; x. Cv 2:17). Nếu người trẻ và người già mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần, họ cùng nhau tạo thành một sự kết hợp tuyệt vời. Người già được báo mộng và người trẻ thấy thị kiến. Làm sao hai điều này bổ túc cho nhau?
  2. Các bậc lão thánh có những giấc mơ dệt nên những ký ức, những hình ảnh của rất nhiều điều mà họ đã sống, được đánh dấu bằng kinh nghiệm của những tháng năm dài. Nếu người trẻ được bén rễ trong những giấc mơ của những người già, thì các em có thể nhìn thấy tương lai, các em có thể có những cái nhìn mở rộng chân trời và vạch ra cho các em những con đường mới. Nhưng nếu người già không mơ, thì những người trẻ không còn có thể thấy rõ đường chân trời nữa.
  3. Thật là tuyệt đẹp khi tìm thấy, trong số những gì mà cha mẹ chúng ta giữ lại, một số kỷ niệm cho phép chúng ta mường tượng ra những gì ông bà của mình đã mơ ước cho mình. Mỗi con người, ngay cả trước khi được sinh ra, đã nhận được từ ông bà của mình, như một món quà, phúc lành của một giấc mơ đầy tình yêu và hy vọng: đó là một cuộc sống tốt đẹp hơn. Và nếu không phải ông bà chúng ta, thì chắc chắn ông bà cố của chúng ta cũng đã mơ thấy nó và vui mừng vì nó, khi các ngài ngắn nhìn những đứa con của mình trong nôi và sau đó là những đứa cháu của mình. Giấc mơ nguyên thủy, giấc mơ sáng tạo của Thiên Chúa là Cha chúng ta, có trước và đồng hành với cuộc đời của tất cả con cái Ngài. Ký ức về phúc lành này, kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác, là một di sản quý giá mà chúng ta phải biết cách giữ cho sống mãi để chúng cũng có thể truyền nó lại.
  4. Đó là lý do tại sao nên để người già kể lại những câu chuyện dài, đôi khi có vẻ hoang đường, huyền ảo, chúng là những giấc mơ của người già, nhưng chúng thường chứa đầy những kinh nghiệm phong phú, những biểu tượng hùng hồn và những sứ điệp tiềm ẩn. Những câu chuyện này cần có thời gian và chúng ta phải chuẩn bị một cách biết ơn để lắng nghe và giải thích một cách kiên nhẫn, vì chúng không đi vào trong một tin nhắn của mạng xã hội. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả sự khôn ngoan mà mình cần cho cuộc đời không thể bị đóng khung trong những giới hạn mà các phương tiện truyền thông hiện đại áp đặt.
  5. Trong sách Sự Khôn Ngoan của Thời Gian[104] tôi đã bày tỏ một số ao ước dưới dạng yêu cầu. “Điều tôi yêu cầu những người già, kể cả chính tôi là gì? Tôi yêu cầu chúng ta phải là những người bảo vệ ký ức. Chúng ta, là những ông bà cần phải lập ra một ca đoàn. Tôi tưởng tượng những người già là một ca đoàn thường trực của một cung thánh tâm linh cao cả, ở đó những lời cầu nguyện khẩn xin và những bài hát ca ngợi nâng đỡ toàn thể cộng đồng hoạt động và chiến đấu trong chiến trường của cuộc sống”.[105] Đẹp thay khi “những thanh niên và thiếu nữ, những người già cùng các trẻ em, ca ngợi danh Chúa” (Tv 148:12-13).
  6. Người già chúng ta có thể tặng gì cho người trẻ? “Đối với những người trẻ ngày nay, là những người đang sống trong sự pha trộn các tham vọng anh hùng với những bất ổn, chúng ta có thể nhắc nhở các em rằng một cuộc sống không có tình yêu là một cuộc sống khô cằn”.[106] Chúng ta có thể nói gì với các em? “Với những người trẻ sợ hãi, chúng ta có thể nói rằng sự lo lắng về tương lai có thể vượt qua được”.[107] Chúng ta có thể dạy các em những gì? “Đối với những người trẻ quá bận tâm đến chính mình, chúng ta có thể dạy rằng một người cảm thấy vui hơn khi cho đi thay vì nhận lại, và tình yêu đó không chỉ được bày tỏ bằng lời nói, mà còn bằng việc làm”.[108]

Cùng nhau mạo hiểm

  1. Tình yêu cho đi và hoạt động, thường thất bại. Người hành động, người mạo hiểm, thường phạm phải sai lầm. Về vấn đề này, chứng từ của bà Maria Gabriela Perin, một phụ nữ mồ côi cha từ khi mới sinh, đã phản ánh về việc này đã ảnh hưởng đến đời sống của bà thế nào, trong một quan hệ không kéo dài bao lâu nhưng đã làm cho bà trở thành một người mẹ và bây giờ một người bà: “Điều tôi biết là Thiên Chúa làm ra những câu chuyện. Trong sự tài khéo và lòng thương xót của Ngài, Ngài đã lấy những chiến thắng và những thất bại của chúng ta và dệt thành những tấm thảm đẹp đầy trớ trêu. Mặt trái của vải có vẻ lộn xộn với các sợi chỉ rối bời – những biến cố trong cuộc sống của chúng ta – và có lẽ đó là cái mặt khiến chúng ta mất bình an khi chúng ta nghi ngờ. Tuy nhiên, mặt phải của tấm thảm trình bày một câu chuyện tuyệt vời, và đây là mặt mà Thiên Chúa thấy”.[109] Khi những người già nhìn cuộc sống một cách chăm chú, họ thường hiểu theo trực giác điều gì ẩn núp sau những sợi chỉ rối tung và nhận ra điều Thiên Chúa làm một cách sáng tạo ngay cả với những sai lầm của chúng ta.
  2. Nếu chúng ta cùng đi với nhau, người già và người trẻ, chúng ta sẽ bén rễ sâu trong hiện tại và, từ đó, thăm lại quá khứ cùng nhìn đến tương lai: thăm lại quá khứ để học từ lịch sử và chữa lành những vết thương đôi khi ảnh hưởng đến chúng ta; nhìn đến tương lai để nuôi dưỡng lòng nhiệt thành, làm cho những giấc mơ nảy mầm, hồi sinh những lời tiên tri, khiến hy vọng nở hoa. Bằng cách này, cùng nhau, chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau, sưởi ấm tâm hồn nhau, gây hứng khởi cho tâm trí nhau bằng ánh sáng Tin Mừng và ban cho đôi tay chúng ta sức mạnh mới.
  3. Các rễ không phải những mỏ neo đang xích chặt chúng ta vào những thời đại khác và không cho chúng ta tái sinh trong thế giới hiện tại để tạo ra một điều gì mới. Trái lại, chúng là một điểm móc nối cho phép chúng ta phát triển và đáp ứng với những thách đố mới. Do đó, chúng ta không được phép “ngồi đó mà tiếc nuối những thời gian quá khứ; chúng ta phải chấp nhận cách hiện thực nền văn hóa của mình, yêu nó và đổ đầy nó với Tin Mừng. Chúng ta được sai đi hôm nay để loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu trong thời đại mới. Chúng ta phải yêu thời đại của mình với những khả năng và những rủi ro của nó, với những niềm vui và những nỗi buồn của nó, với sự giàu có và những giới hạn của nó, với những thành công và những thất bại của nó”.[110]
  4. Trong Thượng Hội Đồng, một trong những kiểm toán viên, một người trẻ đến từ Quần Đảo Samoa, nói rằng Hội Thánh như một chiếc thuyền, trong đó những người già giúp đi đúng hướng bằng cách giải thích vị trí của các ngôi sao, và những người trẻ chèo nó với sức mạnh trong khi tưởng tượng ra những gì đang chờ họ ở phía trước. Chúng ta hãy tránh xa những người trẻ nghĩ rằng người lớn là một quá khứ không còn quan trọng nữa, đã lỗi thời, hoặc những người trưởng thành tin rằng họ luôn biết những người trẻ phải cư xử cách nào. Thay vào đó, tất cả chúng ta ở trên cùng một chiếc thuyền và cùng nhau chúng ta tìm kiếm một thế giới tốt đẹp hơn, dưới sự thúc đẩy luôn luôn mới của Chúa Thánh Thần.

CHƯƠNG BẢY

Mục vụ giới trẻ

  1. Mục vụ giới trẻ, như chúng ta thường thực hành, đã chịu sự tấn công của những thay đổi văn hóa và xã hội. Những người trẻ thường không tìm thấy câu trả lời cho các quan tâm, các nhu cầu, các vấn đề và các thương tích của mình trong những cấu trúc này. Sự gia tăng và phát triển của các hiệp hội và phong trào với các đặc điểm chính yếu là trẻ trung có thể được hiểu là một hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng mở ra những con đường mới. Tuy nhiên, cần phải đào sâu sự tham gia của chúng vào việc mục vụ của toàn thể Hội Thánh, cũng như sự hiệp thông lớn hơn giữa chúng và sự phối hợp các hoạt động của chúng một cách tốt hơn. Mặc dù không phải lúc nào cũng dễ dàng tiếp cận những người trẻ, nhưng chúng ta đang phát triển trên hai khía cạnh: việc ý thức rằng toàn thể cộng đồng phải tham gia vào việc Phúc Âm Hoá các em và đòi hỏi cấp bách rằng những người trẻ phải là những nhân vật chính trong các đề nghị mục vụ.

Một chăm sóc mục vụ cách hội đồng

  1. Tôi muốn nhấn mạnh rằng chính các người trẻ phải là những tác nhân trong các mục vụ giới trẻ, được đồng hành và hướng dẫn, nhưng tự do tìm ra những con đường mới với óc sáng tạo và táo bạo của các em. Do đó, không cần tạm ngừng ở đây để đề ra một loại chỉ nam mục vụ giới trẻ hoặc một hướng dẫn mục vụ thực tế. Thay vào đó, trên hết, phải làm lộ ra óc thông minh, tài khéo léo và sự hiểu biết mà chính các em có về sự nhạy cảm, ngôn ngữ và các vấn đề của những người trẻ khác.
  2. Các em cho chúng ta thấy cần phải áp dụng những kiểu mới và những chiến thuật mục vụ mới. Chẳng hạn như, trong khi người lớn bận tâm với việc phải làm sao để mọi sự được hoạch định chu đáo, với các cuộc họp định kỳ và thời gian nhất định, thì phần lớn những người trẻ ngày nay không mấy quan tâm đến các kế hoạch mục vụ này. Mục vụ giới trẻ cần phải có một sự linh động khác, và mời những người trẻ tham gia vào các biến cố, đôi khi cung cấp cho các em một không gian không những chỉ để được đào tạo, mà còn cho phép các em chia sẻ cuộc sống, ăn mừng, ca hát, lắng nghe các chứng từ và các kinh nghiệm thật sự và cụ thể, cùng trải qua một cuộc gặp gỡ cộng đồng với Thiên Chúa hằng sống.
  3. Ngoài ra, điều đáng mong ước là chúng ta thu thập nhiều thực hành chứng tỏ rằng đã có hiệu quả hơn: những phương pháp, ngôn ngữ, động cơ thật sự hấp dẫn để đem những người trẻ lại gần Đức Kitô và Hội Thánh. Không cần biết chúng có màu sắc gì, dù là “bảo thủ hay cấp tiến”, dù là “thiên tả hay thiên hữu”. Điều quan trọng là thu góp tất cả những gì đã đưa đến kết quả tốt và có hiệu quả trong việc truyền đạt niềm vui của Tin Mừng.
  4. Mục vụ giới trẻ chỉ có thể theo cách hội đồng, nghĩa là có khả năng hình thành một cuộc “đồng hành”, trân quý “các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho theo ơn gọi và vai trò của mỗi phần tử, qua động năng của việc đồng trách nhiệm…. Được tác động bởi tinh thần này, chúng ta sẽ có thể tiến đến một Hội Thánh có tính tham gia và đồng trách nhiệm, có thể phát triển sự phong phú của tính đa dạng hợp thành nó, đồng thời đón nhận cách tri ân sự đóng góp của các tín hữu giáo dân, đặc biệt là giới trẻ và phụ nữ, của những người nam nữ sống đời thánh hiến, và của các nhóm, các hiệp hội và các phong trào. Không ai có thể bị loại ra ngoài hoặc được phép tự ý đứng sang một bên”.[111]
  5. Bằng cách này, qua việc học hỏi lẫn nhau, chúng ta có thể phản ánh tốt hơn khối đa diện tuyệt vời mà Thiên Chúa muốn cho Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô là. Hội Thánh có thể thu hút những người trẻ chính bởi vì không phải là một đơn vị thuần nhất, nhưng là một mạng lưới các hồng ân khác nhau mà Chúa Thánh Thần không ngừng đổ vào Hội Thánh, khiến cho Hội Thánh luôn luôn đổi mới bất chấp những đau thương của mình.
  6. Có nhiều đề nghị cụ thể trong Thượng Hội Đồng nhằm canh tân mục vụ giới trẻ và giải phóng nó khỏi các chương trình không còn hiệu quả vì chúng không nhập vào cuộc đối thoại với nền văn hóa hiện đại của giới trẻ. Rõ ràng là tôi không thể thu thập tất cả ở đây; một số trong chúng có thể được tìm thấy trong Tài liệu Kết Thúc của Thượng Hội Đồng Giám Mục.

Những cách hành động chính

  1. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh ngắn gọn rằng mục vụ giới trẻ liên quan đến hai cách hành động chính. Một là đi ra tìm kiếm, mời gọi, kêu gọi thu hút những người trẻ mới đến để có kinh nghiệm vể Chúa. Cách khác là tăng trường, việc khai triển một con đường trưởng thành cho những em đã trải qua kinh nghiệm ấy.
  2. Về cách thứ nhất, đi ra tìm kiếm, tôi tin tưởng vào khả năng của chính những người trẻ, là những người biết cách tìm ra các phương thế hấp dẫn để mời các em khác. Các em biết cách tổ chức các lễ hội, các cuộc thi đua thể thao và các em cũng biết cách Phúc Âm hoá trên các mạng xã hội bằng các sứ điệp, bài hát, video và những cách khác. Chúng ta chỉ cần khuyến khích những người trẻ và cho cho các em tự do hành động để có thể nhiệt tình với sứ vụ trong môi trường giới trẻ. Lời công bố ban đầu[c] có thể đánh thức một kinh nghiệm sâu xa về đức tin trong một “buổi tĩnh tâm đầy xúc động”[d], trong một cuộc trò chuyện ở quán nước, trong một phút giải lao ở đại học, hoặc bằng một trong những con đường nhiệm mầu của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng nhất là mỗi người trẻ phải có đủ can đảm để gieo lời công bố ban đầu này ở vùng đất màu mỡ là con tim của một người trẻ khác.
  3. Trong cuộc tìm kiếm này, phải dành đặc quyển cho ngôn ngữ gần gũi, ngôn ngữ của tình yêu vô vị lợi, liên hệ và hiện sinh, là tình yêu chạm đến con tim, vươn đến cuộc sống, đánh thức hy vọng và các ước vọng. Chúng ta phải đến gần những người trẻ với ngữ pháp của tình yêu, không phải theo cách thuyết pháp để cải đạo.[e] Ngôn ngữ mà những người trẻ hiểu được là ngôn ngữ của những người hiến thân, những người ở đó vì các em và với các em, và những người, bất chấp các giới hạn và yếu đuối của mình, cố gắng sống đức tin một cách kiên định. Đồng thời, chúng ta cần tìm những cách nhạy cảm hơn để cho kerygma [lời công bố ban đầu] được nhập thể vào ngôn ngữ của những người trẻ ngày nay.
  4. Về sự tăng trưởng, tôi muốn đưa ra một lời khuyên quan trọng. Việc này đang xảy ra ở một số nơi, sau khi đã tạo nên cho những người trẻ một kinh nghiệm mãnh liệt về Thiên Chúa, một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu, là cuộc gặp gỡ đã đánh động con tim của các em, các em được đề nghị tham gia các buổi “đào luyện” trong đó người ta chỉ trình bày những vấn đề về giáo lý và luân lý: về những sự dữ cụ thể của thế giới ngày nay, về Hội Thánh, về học thuyết xã hội, về đức khiết tịnh, về hôn nhân, về điều hoà sinh sản và về các vấn đề khác. Hậu quả là nhiều người trẻ chán nản, mất đi ngọn lửa đã được nhóm lên bởi cuộc gặp gỡ Đức Kitô và niềm vui đi theo Người, nhiều em bỏ cuộc hành trình và những em khác trở nên buồn rầu và tiêu cực. Chúng ta đừng vội nóng lòng truyền cho các em một lượng giáo lý khổng lồ, nhưng trên hết, phải cố gắng khơi dậy và làm cho bén rễ những kinh nghiệm quan trọng, là những kinh nghiệm nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu. Như Romano Guardini đã nói: “Khi chúng ta cảm nghiệm được một tình yêu cao cả…. thì mọi sự khác đều trở thành một phần của nó”.[112]
  5. Bất cứ chương trình huấn luyện nào, bất cứ con đường lớn lên nào của giới trẻ, chắc chắn phải bao gồm việc đào luyện về giáo lý và luân lý. Điều quan trọng không kém là nó phải được tập trung vào hai trục chính: một là đào sâu kerygma, kinh nghiệm nền tảng của cuộc gặp gỡ Thiên Chúa qua Đức Kitô đã chết và Phục Sinh. Trục kia là sự lớn lên trong tình huynh đệ, trong đời sống cộng đồng và trong việc phục vụ.
  6. Tôi đã nhấn mạnh rất nhiều về điều này trong Evangelii Gaudium và tôi nghĩ rằng thật phù hợp để nhắc lại ở đây. Một đàng, thật là một sai lầm nghiêm trọng khi nghĩ rằng trong mục vụ giới trẻ “phải thay thế kerygma bằng một cách đào luyện được coi là ‘vững chắc’ hơn. Không có gì vững chắc hơn, sâu xa hơn, an toàn hơn, thích hợp hơn và khôn ngoan hơn lời công bố ban đầu này. Điều trước hết trong toàn thể việc đào luyện của Kitô hữu là đào sâu kerygma để nó luôn luôn được nhập thể mỗi ngày một hơn”.[113] Vì vậy, mục vụ giới trẻ phải luôn bao gồm những thời gian giúp đổi mới và đào sâu kinh nghiệm cá nhân về tình yêu của Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô hằng sống. Điều này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng nhiều phương tiện khác nhau: chứng từ, bài hát, chầu Thánh Thể, không gian để suy niệm về Thánh Kinh và cả những khuyến khích khác nhau qua mạng xã hội. Nhưng kinh nghiệm vui mừng của việc gặp gỡ Chúa này không bao giờ được thay thế bằng một loại “nhồi sọ về học thuyết”.
  7. Mặt khác, bất cứ kế hoạch mục vụ giới trẻ nào cũng phải kết hợp rõ ràng các phương tiện và nguồn tài nguyên khác nhau để giúp người trẻ lớn lên trong tình huynh đệ, sống như anh em, giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng cộng đồng, phục vụ tha nhân, gần gũi người nghèo. Nếu tình bác ái huynh đệ là “điều răn mới” (Ga 13:34), là “làm tròn Lề Luật” (Rm 1:.10), nếu đó là điều bày tỏ rõ nhất tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thì nó phải chiếm một vị trí quan trọng nhất trong bất cứ kế hoạch đào luyện và tăng trưởng nào dành cho giới trẻ.

Những môi trường thích hợp

  1. Trong tất cả các tổ chức của mình, chúng ta cần phải phát triển và tăng cường khả năng tiếp đón thân mật hơn nhiều, bởi vì nhiều người trẻ đến với chúng ta cảm thấy mình ở trong tình trạng rất mồ côi. Ở đây tôi không đề cập đến những vấn đề trong gia đình, nhưng đến một kinh nghiệm ảnh hưởng không kém đến trẻ em, người trẻ và người lớn, cha mẹ và con cái. Đối với những người cảm thấy mồ côi như thế, là những người đương thời với chúng ta, có lẽ cả chính chúng ta, các cộng đồng như giáo xứ và trường học phải cống hiến những con đường tình yêu vô điều kiện cùng sự cổ võ, xác nhận và phát triển. Nhiều người trẻ ngày nay cảm thấy mình như những đứa con thất bại, vì giấc mơ của cha mẹ và ông bà của các em bị đốt cháy bởi sự bất công, bạo lực xã hội, và tình trạng “mạnh ai nấy lo”. Biết bao nhiêu em cảm thấy bị mất gốc! Nếu những người trẻ lớn lên trong một thế giới tro tàn, thì không dễ cho các em duy trì ngọn lửa của những tư tưởng và những dự án lớn. Nếu các em lớn lên trong một sa mạc không có ý nghĩa, thì các em có còn muốn hy sinh đời mình để gieo hạt giống không? Kinh nghiệm về sự gián đoạn, mất gốc và sụp đổ của những điều chắc chắn cơ bản, được cổ võ bởi nền văn hóa truyền thông ngày nay, gây ra một cảm giác mồ côi sâu xa mà chúng ta phải đáp lại bằng cách tạo ra những không gian huynh đệ và hấp dẫn hơn, ở đó người ta sống có ý nghĩa.
  2. Để tạo nên một “ngôi nhà” dứt khoát “là làm thành một gia đình. Đó là học cách cảm thấy kết hợp với những người khác ở ngoài những liên hệ thực dụng hoặc nghề nghiệp, là được kết hợp một cách nào đó để cảm thấy cuộc đời mình nhân bản hơn một chút. Tạo nên một ngôi nhà là cho phép lời tiên tri thành nhục thể và làm cho những ngày giờ của chúng ta bớt xa cách, bớt thờ ơ và ẩn danh hơn. Đó là tạo ra các mối dây liên kết được xây dựng bằng những cử chỉ đơn giản hàng ngày mà tất cả chúng ta đều có thể làm được. Một ngôi nhà, như tất cả chúng ta đều biết rất rõ, cần sự hợp tác của mọi người. Không ai có thể thờ ơ hoặc xa lạ, bởi vì mỗi người là một viên đá cần thiết cho việc xây dựng nó. Điều này liên quan đến việc xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng để học cách kiên nhẫn, học cách tha thứ cho nhau; học để biết bắt đầu lại mỗi ngày. Và chúng ta có thường xuyên tha thứ và bắt đầu lại không? Bảy mươi lần bảy, bao nhiêu lần cũng được nếu cần. Để tạo nên những mối liên hệ bền chặt đòi hỏi phải có lòng tin tưởng được nuôi dưỡng mỗi ngày bằng sự kiên nhẫn và tha thứ. Đó là cách mà phép lạ được thể hiện: ở đây chúng ta cảm nghiệm rằng mình được sinh ra một lần nữa; ở đây, tất cả chúng ta được sinh ra một lần nữa bởi vì chúng ta cảm thấy sự âu yếm của Thiên Chúa khiến chúng ta có thể mơ về một thế giới nhân bản hơn và do đó, môt thế giới thiêng liêng hơn”.[114]
  3. Trong khuôn khổ này, trong các tổ chức của mình, chúng ta phải cung cấp cho người trẻ những nơi thích hợp, ở đó các em có thể hoạt động cách thoải mái và có thể ra vào tự do, những nơi đón chào các em và là nơi các em có thể tin tưởng cùng gặp gỡ những người trẻ khác trong những lúc đau khổ hay buồn chán, cả những khi các em muốn ăn mừng các niềm vui của các em. Một số điều như thế đã được thực hiện ở các nguyện đường và trung tâm giới trẻ khác nhau, là những nơi mà trong nhiều trường hợp thành môi trường mà những người trẻ cảm nghiệm được tình bạn và bắt đầu yêu thương, ở đó các em tìm thấy chính mình, có thể chia sẻ âm nhạc, hoạt động giải trí, thể thao và thậm chí các suy tư và cầu nguyện, nhờ những khoản trợ cấp nho nhỏ và các đề nghị khác nhau. Bằng cách này, lời công bố không thể thiếu này được truyền từ người này sang người khác, là điều không thể thay thế được bằng bất cứ nguồn lực hoặc chiến thuật mục vụ nào khác.
  4. “Tình bằng hữu và việc chạm trán, thường xảy ra trong các nhóm có cấu trúc nhiều hay ít, mang đến cơ hội để củng cố các kỹ năng xã hội và quan hệ trong một bối cảnh mà trong đó một người không bị đánh giá hay xét đoán. Kinh nghiệm nhóm cũng là một nguồn quan trọng để chia sẻ đức tin và giúp đỡ lẫn nhau trong việc làm nhân chứng. Những người trẻ có khả năng hướng dẫn những người trẻ khác và thực hành một hoạt động tông đồ thật sự giữa đồng bạn của các em”.[115]
  5. Điều này không có nghĩa là các em trở nên cô lập hay cắt đứt tất cả mọi tiếp xúc với cộng đồng giáo xứ, các phong trào và các tổ chức Hội Thánh khác. Nhưng các em sẽ dễ dàng hội nhập hơn với các cộng đồng cởi mở, sống đức tin, ước ao làm rạng danh Chúa Giêsu Kitô, vui vẻ, tự do, huynh đệ và tận tâm. Các cộng đồng này có thể trở thành những môi trường mà ở đó các em cảm thấy có thể nuôi dưỡng các mối liên hệ quý giá.

Việc chăm sóc mục vụ của các cơ quan giáo dục

  1. Trường học chắc chắn là một nơi để tiếp cận trẻ em và thanh thiếu niên. Đó là một nơi đặc quyền để thăng tiến con người, và vì lý do này mà cộng đồng Kitô giáo luôn chú ý đến nó, cả bằng cách đào tạo các nhà giáo và những nhân viên điều hành, lẫn thiết lập các trường học của mình ở mọi nghành và mọi cấp. Trong lĩnh vực này, Chúa Thánh Thần đã sinh ra vô số các đặc sủng và chứng từ về sự thánh thiện. Tuy nhiên, nhà trường cần phải tự kiểm một cách khẩn cấp. Nếu chúng ta kể đến các kết quả chăm sóc mục vụ của nhiều trường học, thì việc chăm sóc mục vụ tập trung vào giáo dục tôn giáo thường không có khả năng khơi dậy những kinh nghiệm lâu dài về đức tin. Hơn nữa, có một số trường Công Giáo hầu như chỉ được tổ chức để sống sót. Việc sợ thay đổi làm cho họ không thể chấp nhận được sự bấp bênh làm cớ cho họ nghi ngờ khi phải đối diện với những nguy hiểm, dù có thật hay tưởng tượng, mà mọi thay đổi mang đến. Nhà trường biến thành một “hầm trú ẩn” bảo vệ họ khỏi những sai lầm “từ bên ngoài”, là cách diễn tả biếm họa về khuynh hướng này. Hình ảnh này phản ánh một cách mạnh mẽ những gì nhiều người trẻ đã trải qua khi các em rời khỏi một số cơ sở giáo dục: sự khác biệt không thể vượt qua được giữa những gì các em đã được dạy và thế giới mà các em đang sống. Ngay cả những đề nghị tôn giáo và luân lý mà các em nhận được cũng không chuẩn bị cho các em đương đầu với một thế giới chế nhạo các em, và các em không học được những cách cầu nguyện và sống đức tin có thể dễ dàng được duy trì giữa nhịp sống của xã hội này. Trên thực tế, một trong những niềm vui lớn nhất của một nhà giáo là nhìn thấy một học sinh được coi là một người mạnh mẽ, hòa nhập, lãnh đạo và có khả năng cho đi.
  2. Các trường Công Giáo tiếp tục cần thiết như những nơi để Phúc Âm hoá giới trẻ. Điều quan trọng là phải quan tâm đến một số tiêu chuẩn hướng dẫn được nêu lên trong Tông Hiến Veritatis Gaudium, theo cái nhìn về đổi mới và hồi sinh việc “đi ra” truyền giáo của các trường học và đại học, chẳng hạn như: kinh nghiệm về kerygma, đối thoại ở mọi lãnh vực, liên ngành và đa ngành, cổ võ một nền văn hóa gặp gỡ, nhu cầu cấp thiết để tạo ra “những mạng nối kết” và lựa chọn quan tâm đến những người bé mọn, những người mà xã hội ruồng bỏ và loại bỏ.[116] Và cũng quan trọng không kém là một khả năng thống nhất kiến ​​thức của đầu óc, con tim và bàn tay.
  3. Mặt khác, chúng ta không thể tách rời việc đào luyện về tâm linh ra khỏi việc giáo dục về văn hóa. Hội Thánh luôn luôn muốn phát triển một môi trường văn hóa tốt đẹp nhất cho giới trẻ. Hội Thánh không được bỏ nó, bởi vì những người trẻ có quyền hưởng nó. “Đặc biệt ngày nay, quyền văn hóa có nghĩa là bảo vệ sự khôn ngoan, là một sự hiểu biết được nhân bản và nhân đạo hóa. Quá thường xuyên, chúng ta bị điều kiện hoá bởi các mẫu sống tầm thường và phù phiếm, khiến chúng ta theo đuổi thành công với giá rẻ, làm mất giá trị của hy sinh, khắc sâu vào tâm trí ý tưởng rằng việc nghiên cứu không có ích gì nếu không đem lại một điều gì cụ thể tức thì. Không, việc nghiên cứu được dùng để đưa ra những thắc mắc, khiến chúng ta không bị tê liệt bởi sự tầm thường, hầu đi tìm ý nghĩa trong cuộc sống. Chúng ta phải đòi lại quyền không để bị lấn át bởi nhiều tiếng hát của các nàng tiên Siren[f], mà ngày nay, làm cho chúng ta mất tập trung vào việc nghiên cứu này. Ulysses, để không bị khuất phục trước bài hát của các nàng Siren, là loài đã làm các thủy thủ say mê và bị chúng đập tầu vào đá, đã trói mình vào cột buồm của con tàu và bịt tai những người bạn đồng hành của chàng. Thay vào đó, Orpheô, để chống lại bài hát của Siren, đã làm một điều khác: chàng đã giới thiệu một giai điệu hay hơn, làm cho các nàng Siren bị mê hoặc. Đây là công tác quan trọng của chúng ta: đáp lại sự kiềm chế tê liệt của nền văn hóa tiêu thụ bằng những lựa chọn năng động và mãnh liệt, với việc nghiên cứu, kiến ​​thức và chia sẻ”.[117]

Các lĩnh vực khác nhau của việc phát triển mục vụ

  1. Nhiều người trẻ có thể học cách trân quý sự im lặng và mật thiết với Thiên Chúa. Các nhóm tụ họp lại để chầu Thánh Thể và cầu nguyện bằng Lời Chúa cũng gia tăng. Chúng ta không bao giờ được phép coi thường những người trẻ như thể các em không có khả năng mở long ra cho các đề nghị chiêm niệm. Chỉ cần tìm những kiểu và những phương pháp phù hợp để giúp các em tham gia vào kinh nghiệm quý giá này. Còn về các lĩnh vực thờ phượng và cầu nguyện, “trong nhiều bối cảnh khác nhau, những người trẻ Công giáo muốn có những đề nghị về cầu nguyện và những giây phút bí tích có khả năng ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của các em bằng một phụng vụ tươi mát, chân thật và vui mừng”.[118] Điều quan trọng là phải coi trọng những thời điểm mãnh liệt nhất trong năm phụng vụ, đặc biệt là Tuần Thánh, Lễ Hiện Xuống và Lễ Giáng Sinh. Các em cũng thích những dịp lễ hội, là những dịp tạm ngưng các việc thường lệ và giúp các em cảm nghiệm được niềm vui của đức tin.
  2. Một cơ hội đặc quyền để phát triển và cũng để mở lòng ra với những hồng ân thiêng liêng của đức tin và đức ái là phục vụ: nhiều người trẻ cảm thấy được thu hút bởi khả năng giúp đỡ tha nhân, đặc biệt là các trẻ em và người nghèo. Thông thường thi việc phục vụ này đại diện cho bước đầu để khám phá hoặc tái khám phá ra đời sống Kitô hữu và Hội Thánh. Nhiều người trẻ cảm thấy mệt mỏi với các chương trình giáo lý và thậm chí tâm linh của chúng ta, và đôi khi muốn có dịp được tham gia vào những hoạt động giúp ích tha nhân.
  3. Chúng ta không thể quên những cách diễn tả nghệ thuật, như kịch nghệ, hội họa và những cách khác. “tầm quan trọng của âm nhạc là điều rất đặc biệt; nó đại diện cho một môi trường thật sự mà trong đó những người trẻ không ngừng đắm chìm, như một nền văn hóa và ngôn ngữ có khả năng khơi dậy cảm xúc và hình thành một căn tính. Ngôn ngữ âm nhạc cũng đại diện cho một nguồn tài nguyên mục vụ đặc biệt ảnh hưởng đến phụng vụ và việc canh tân phụng vụ”.[119] Ca hát có thể là một khích lệ lớn lao trên đường đời của những người trẻ. Thánh Augustinó nói: “Hãy hát, nhưng tiếp tục tiến bước; hãy làm khây khoả công việc của bạn bằng ca hát, đừng trở nên lười biếng: hãy hát và tiến bước…. Bạn, nếu bạn tiến lên, hãy bước đi; nhưng hãy tiến bước trong sự tốt lành, trong đức tin ngay thẳng, trong những công việc tốt lành: hãy hát và bước đi”.[120]
  4. “Tầm quan trọng của việc tập thể thao trong giới trẻ cũng là điều đáng chú ý. Hội Thánh không được coi thường các tiềm năng của chúng về mặt giáo dục và đào tạo, trong khi vẫn duy trì một sự hiện diện được khẳng định trong đó. Thế giới thể thao cần được giúp đỡ để vượt qua những điều mơ hồ là một phần của nó, như huyền thoại về các nhà vô địch, việc làm nô lệ cho luận lý thương mại và quan niệm thành công bằng bất cứ giá nào”.[121] Ở nền tảng của kinh nghiệm thể thao có “niềm vui: niềm vui của thể dục, niềm vui được ở bên nhau, niềm vui được sống và ban tặng những món quà mà Tạo hóa ban cho chúng ta mỗi ngày”.[122] Mặt khác, một số Giáo Phụ của Hội Thánh đã sử dụng thí dụ về các hoạt động thể thao để mời những người trẻ phát triển về sức mạnh và làm chủ cơn buồn ngủ hoặc sự thoải mái. Thánh Basiliô Cả, khi nói với những người trẻ, đã dùng thí dụ về những nỗ lực mà thể thao đòi hỏi và dạy các em về khả năng hy sinh để phát triển nhân đức: “Sau khi chịu đựng hàng ngàn hy sinh để tăng cường sức mạnh thể chất của họ bằng mọi cách, đổ mồ hôi trong các buổi tập luyện vất vả của nhà tập thể dục,… và, nói tóm lại, sau khi đã tự khép mình vào kỷ luật thì toàn thể đời sống của họ trong giai đoạn trước cuộc thi không là gì khác hơn việc chuẩn bị cho nó,… họ hy sinh toàn thể nguồn lực thể chất và tinh thần của mình để đạt được một vương miện…. Và chúng ta, những người đang mong đợi phần thưởng phi thường ở đời sau, là phần thưởng không ngôn ngữ nào có thể diễn tả nổi, chẳng lẽ chúng ta nghĩ rằng mình có thể nhận được chúng bằng cách đi qua cuộc sống trong sự yếu mềm và ù lỳ sao?”[123]
  5. Nơi nhiều thanh thiếu niên, việc tiếp xúc với các thụ tạo gây ra một sức thu hút đặc biệt, và các em rất nhạy cảm với việc bảo vệ môi trường, như trong trường hợp các hướng đạo sinh và các nhóm khác, là các nhóm tổ chức những ngày ở giữa thiên nhiên, cắm trại, leo núi, du ngoạn và các chiến dịch cho môi trường. Theo tinh thần của Thánh Phanxicô Assisi, đây là những kinh nghiệm có thể dẫn đến một con đường để nhập vào trường của tình huynh đệ phổ quát và cầu nguyện chiêm niệm.
  6. Những dịp này và những dịp khác mở đường cho việc Phúc Âm hoá giới trẻ không được phép làm cho chúng ta quên rằng, ngoài những thay đổi trong lịch sử và sự nhạy cảm của người trẻ, còn có những món quà của Thiên Chúa luôn hiện hữu, chứa đựng một sức mạnh vượt mọi thời đại và mọi hoàn cảnh: Lời Chúa luôn luôn sống động và hiệu quả, sự hiện diện của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng chúng ta, và Bí tích Giao Hoà giải thoát chúng ta cùng củng cố chúng ta. Chúng ta cũng có thể đề cập đến sự phong phú vô tận về tinh thần mà Hội Thánh bảo tồn trong chứng từ của các thánh và trong giáo huấn của các bậc thầy tâm linh vĩ đại. Mặc dù chúng ta phải tôn trọng các giai đoạn phát triển khác nhau và đôi khi phải kiên nhẫn chờ đợi đúng lúc, chúng ta không thể không mời những người trẻ đến với những nguồn mạch của đời sống mới này, chúng ta không có quyền tước đoạt những điều tốt đẹp như thế khỏi các em.

Một mục vụ giới trẻ phổ thông

  1. Ngoài các việc mục vụ thông thường được thực hiện bởi các giáo xứ và các phong trào, theo một số mô hình nhất định, điều rất quan trọng là dành không gian cho một “mục vụ giới trẻ phổ thông”, với phong cách khác, thời gian khác, nhịp điệu khác, phương pháp khác. Nó bao gồm một hoạt động mục vụ rộng lớn và linh động hơn, là điều khuyến khích, ở những nơi khác nhau mà những người trẻ sinh hoạt, những tài năng lãnh đạo tự nhiên và những đặc sủng mà Chúa Thánh Thần đã gieo giữa các em. Trên hết, nó cố không áp đặt quá nhiều chướng ngại, quy tắc, kiểm soát và những cấu trúc bắt buộc đối với những tín hữu trẻ này, là những nhà lãnh đạo tự nhiên trong các khu phố và môi trường khác nhau. Chúng ta chỉ cần đồng hành với các em và khuyến khích các em, tin tưởng nhiều hơn một chút vào sự tài khéo của Chúa Thánh Thần, Đấng tuỳ nghi hành động như Ngài muốn.
  2. Chúng ta đang nói về các nhà lãnh đạo thật sự “bình dân”, chứ không phải những người ưu tú hoặc những người đóng chặt trong các nhóm cá nhân ưu tuyển nhỏ. Để có thể đem lại sự sống cho một mục vụ phổ thông trong thế giới của những người trẻ, người ta phải “học cách lắng nghe ý kiến của mọi người, trở thành phát ngôn viên của các em và làm việc để cổ võ các em”.[124] Khi chúng ta nói về “dân chúng”, chúng ta không nói về các cấu trúc của xã hội hay Hội Thánh, mà là những người đang hành trình, không với tư cách cá nhân mà như kết cấu của một cộng đồng của tất cả mọi người và cho tất cả mọi người, là cộng đồng không bỏ những người nghèo nhất và yếu đuối nhất lại đằng sau: “Dân chúng muốn mọi người tham gia vào công ích và như thế đồng ý đi với tốc độ của những người chót hết để cùng nhau đến nơi”.[125] Do đó, các nhà lãnh đạo “bình dân” là những người có khả năng bao gồm trong cuộc hành trình của giới trẻ tất cả mọi người, kể cả những người nghèo nàn, yếu đuối, bị hạn chế và bị thương. Họ không cảm thấy khó chịu hay sợ hãi những người trẻ bị thương và bị đóng đinh.
  3. Cùng theo dòng tư tưởng này, đặc biệt là với những người trẻ không lớn lên trong các gia đình hoặc cơ quan Kitô giáo, và đang trên đường từ từ trưởng thành, chúng ta phải khích lệ “tất cả những gì tốt đẹp có thể được”.[126] Đức Kitô cảnh báo chúng ta đừng cho rằng mọi sự đều là lúa (x. Mt 13:24-30). Đôi khi, khi cho rằng một mục vụ giới trẻ được thanh lọc và thuần khiết, được đánh dấu bằng những tư tưởng trừu tượng, xa cách thế gian và được bảo vệ khỏi bất cứ vết nhơ nào, chúng ta biến Tin Mừng thành một đề nghị vô vị, khó hiểu, xa cách với văn hóa cỷa giới trẻ Kitô giáo, và chỉ thích nghi với một nhóm Kitô hữu trẻ ưu tuyển là những em cảm thấy mình khác biệt, nhưng thật sự đang trôi nổi trong sự cô lập mà không có sự sống hay khả năng sinh hoa trái. Do đó, cùng với các cỏ dại mà chúng ta bỏ đi, chúng ta cũng nhổ hay làm nghẹt thở hàng ngàn chồi non đang cố gắng phát triển giữa những giới hạn của chúng.
  4. Thay vì “làm cho các em nghẹt thở với một bộ quy luật chỉ biến Kitô giáo một hình ảnh thu nhỏ và nguỵ trang đạo đức, chúng ta được mời gọi tập trung vào sự táo bạo của các em và giáo dục các em cách nhận lãnh trách nhiệm của mình, chắc chắn rằng ngay cả sai lỗi, thất bại và khủng hoảng cũng là những kinh nghiệm có thể củng cố nhân tính của các em”.[127]
  5. Ở Thượng Hội Đồng, có một đề nghị khai triển một mục vụ giới trẻ có khả năng tạo ra các không gian bao gồm, ở đó có chỗ cho tất cả các loại người trẻ và là nơi thật sự biểu lộ rằng chúng ta là một Hội Thánh cởi mở. Và thậm chí một người không cần phải hoàn toàn chấp nhận tất cả các giáo huấn của Hội Thánh để tham gia vào một số sinh hoạt dành riêng cho giới trẻ của chúng ta. Một thái độ cởi mở đối với tất cả những ai mong muốn và sẵn sàng để cho mình được tìm thấy bởi chân lý được Thiên Chúa mặc khải là đủ. Một số góp ý mục vụ có thể giả sử rằng cuộc hành trình đã đi theo một con đường đức tin nhất định, việc nhưng chúng ta cần một mục vụ giới trẻ phổ thông có thể mở cửa và dành chỗ cho tất cả mọi em và cho mỗi em với những nghi ngờ, thương tích, vấn đề và việc đang tìm kiếm căn tính của các em, với những sai lầm, lịch sử, kinh nghiệm về tội lỗi và tất cả những khó khăn của các em.
  6. Cũng phải có chỗ cho “tất cả những em có quan niệm khác về cuộc đời, tuyên xưng một đức tin khác, hoặc tuyên bố mình là những kẻ xa lạ với chân trời tôn giáo. Tất cả những người trẻ, không trừ ai, đều ở trong trái tim của Thiên Chúa, và do đó, trong trái tim của Hội Thánh. Nhưng chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận rằng lời khẳng định này vang vọng trên môi chúng ta không phải lúc nào cũng được diễn tả thật sự trong hành động mục vụ của chúng ta: thường thì chúng ta vẫn bị giam hãm trong những vòng luẩn quẩn của mình, nơi mà tiếng nói của các em không thể đến được, hoặc chúng ta dấn thân vào những hoạt động không mấy đòi hỏi nhưng làm hài lòng chúng ta hơn, vì thế bóp nghẹt quan tâm mục vụ lành mạnh này là điều khiến chúng ta phải bước ra ngoài những gì chúng ta cho là an toàn. Tuy nhiên, Tin Mừng đòi buộc chúng ta phải táo bạo và muốn làm điều đó mà không cần phải suy đoán, không chủ trương dụ dỗ các em theo đạo, nhưng bằng cách làm chứng về tình yêu của Chúa và tiếp cận tất cả những người trẻ trên thế giới”.[128]
  7. Mục vụ giới trẻ, khi không còn là mục vụ chỉ dành cho những em ưu tú và chấp nhận trở thành “phổ thông”, là một tiến trình chậm chạp, tôn trọng, kiên nhẫn, đáng tin cậy, không mệt mỏi, trắc ẩn. Trong Thượng Hội Đồng, thí dụ về các môn đệ trên đường Emmaus (x. Lc 24:13-35) đã được đề ra, đây cũng có thể là một khuôn mẫu về những gì xảy ra trong mục vụ giới trẻ.
  8. “Chúa Giêsu đi cùng hai môn đệ là những người chưa hiểu ý nghĩa của những gì đã xảy ra và họ đang rời bỏ Giêrusalem và cộng đồng. Để trở nên bạn đồng hành với họ, Người đã cùng đi với họ trên đường. Người đã hỏi họ và kiên nhẫn lắng nghe câu chuyện của họ về biến cố đã xảy ra để giúp họ nhận ra những gì họ đang trải qua. Rồi, Người công bố Lời Chúa cho họ một cách thân mật và đầy sinh lực, giải thích biến cố mà họ đã sống dưới ánh sáng của Thánh Kinh. Người chấp nhận lời mời của họ và ngừng lại với họ khi màn đêm buông xuống: Người đã bước vào đêm đen của họ. Khi nghe Người nói, lòng họ rạo rực và tinh thần họ bừng sáng; lúc bẻ bánh, mắt họ mở ra. Chính họ là những người chọn đi con đường ngược lại, để trở về với cộng đồng và chia sẻ với cộng đồng kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh mà không chút chần chừ”.[129]
  9. Những biểu lộ khác nhau của việc đạo đức phổ thông, đặc biệt là những cuộc hành hương, thu hút những người trẻ, là những em không dễ dàng phù hợp với các cấu trúc Hội Thánh, và là một cách diễn tả cụ thể về lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Không được coi thường các hình thức tìm kiếm Thiên Chúa, đặc biệt hiện diện nơi những người trẻ nghèo nhất, cả trong các lĩnh vực khác của xã hội, nhưng chúng phải được khuyến khích và cổ võ. Bởi vì việc đạo đức phổ thông “là một cách sống đức tin hợp pháp”[130] và là “một cách diễn tả của hành động truyền giáo tự phát của Dân Chúa”.[131]

Luôn luôn truyền giáo

  1. Tôi muốn nhắc nhở rằng không cần phải cố gắng nhiều để làm cho những người trẻ trở thành các nhà truyền giáo. Ngay cả những em yếu nhất, bị giới hạn và thương tích nhất cũng có thể thành những nhà truyền giáo theo cách riêng của các em, bởi vì chúng ta phải luôn để cho điều tốt đẹp được truyền đạt, ngay cả khi nó cùng tồn tại với nhiều yếu đuối. Một người trẻ đi hành hương để xin Đức Mẹ giúp đỡ và mời một người bạn hoặc một người bạn khác cùng đi, với cử chỉ đơn giản này, em làm một việc truyền giáo quý giá. Không thể tách rời khỏi mục vụ giới trẻ phổ thông những hành động truyền giáo thông thường không thể cưỡng lại được, là điều chọc thủng mọi kiểu mẫu thông thường của chúng ta. Chúng ta hãy đồng hành với điều ấy, cổ võ nó, nhưng đừng có ý điều khiển nó một cách quá đáng.
  2. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần đang nói với mình, chúng ta phải biết rằng mục vụ giới trẻ phải luôn luôn là một mục vụ truyền giáo. Những người trẻ được phong phú hoá khi các em thắng vượt sự nhút nhát và tìm được can đảm để thăm viếng các gia đình, và bằng cách này, các em tiếp xúc với cuộc sống của mọi người, học cách nhìn xa hơn gia đình và nhóm của mình, bắt đầu hiểu đời sống theo một nhãn quan rộng lớn hơn. Đồng thời, đức tin và ý thức thuộc về Hội Thánh của các em được củng cố. Các cuộc truyền giáo của giới trẻ, thường được tổ chức trong những ngày nghỉ, sau một thời gian chuẩn bị, có thể khơi dậy một sự đổi mới về kinh nghiệm đức tin và suy nghĩ nghiêm túc về ơn gọi.
  3. Tuy nhiên, những người trẻ có khả năng tạo ra các hình thức truyền giáo mới, trong các lĩnh vực đa dạng nhất. Chẳng hạn như, vì các em rất quen thuộc với các mạng xã hội, cần phải tổ chức cách nào để các em có thể lấp đầy các mạng ấy bằng Thiên Chúa, tình huynh đệ, và dấn thân.

Đồng hành bởi người lớn

  1. Những người trẻ cần phài được tôn trọng trong sự tự do của các em, nhưng cũng cần được đồng hành. Gia đình phải là nơi đồng hành đầu tiên. Mục vụ giới trẻ đề ra một dự án về đời sống dựa trên Đức Kitô: việc xây dựng một ngôi nhà, một gia đình được xây trên đá (x. Mt 7:24-25). Gia đình đó, dự án đó, đối với hầu hết trong số các em sẽ thành hiện thực trong hôn nhân và tỉnh yêu hôn nhân. Vì lý do ấy, điều cần thiết là mục vụ giới trẻ và mục vụ gia đình phải là một sự kéo dài tự nhiên, bằng cách làm việc theo cách thức phối hợp và tổng hợp để có thể đi kèm một cách phù hợp với tiến trình ơn gọi.
  2. Cộng đồng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đồng hành với những người trẻ, và toàn thể cộng đồng phải cảm thấy có trách nhiệm đón chào, thúc đẩy, khuyến khích và động viên các em. Điều này có nghĩa là chúng ta phải nhìn những người trẻ với sự hiểu biết, quý trọng và quý mến, cùng tránh việc luôn luôn phê phán các em hoặc đòi hỏi một sự hoàn hảo không tương ứng với tuổi của các em.
  3. Trong Thượng Hội Đồng, “nhiều người đã nhận ra việc thiếu những chuyên gia dấn thân trong việc đồng hành. Việc tin vào giá trị thần học và mục vụ của sự lắng nghe hàm ý coi lại và canh tân các hình thức mà qua đó tác vụ linh mục được thể hiện cách thông thường, cũng như việc phân định các ưu tiên của tác vụ này. Ngoài ra, Thượng Hội Đồng nhận ra sự cần thiết phải chuẩn bị cho các tu sĩ và các giáo dân nam nữ có đủ điều kiện để đồng hành với những người trẻ. Đặc sủng lắng nghe, mà Chúa Thánh Thần mang đến trong các cộng đồng, cũng có thể nhận được một hình thức công nhận chính thức cho việc phục vụ Hội Thánh”.[132]
  4. Hơn nữa, điều đặc biệt cần thiết là việc đồng hành với những người trẻ tỏ ra có tiềm năng lãnh đạo, để có thể đào tạo và chuẩn bị các em. Những người trẻ trong cuộc họp tiền Thượng Hội Đồng Giám Mục đã kêu gọi phát triển “các chương trình đào luyện và phát triển liên tục các nhà lãnh đạo trẻ. Một số phụ nữ trẻ đã cảm thấy mình cần nhiều mẫu gương lãnh đạo của phụ nữ trong Hội Thánh. Các em cũng muốn góp phần vào Hội Thánh với những tài năng trí tuệ và chuyên nghiệp của mình. Chúng ta cũng tin rằng các chủng sinh và các tu sĩ nam nữ còn có khả năng lớn hơn để đồng hành với những nhà lãnh đạo trẻ”.[133]
  5. Chính những người trẻ đã mô tả cho chúng ta những đặc tính mà các em hy vọng tìm thấy nơi những người đồng hành với các em, và đã bày tỏ rất rõ: “Người bạn đồng hành như vậy cần có những phẩm chất nhất định: phải là một Kitô hữu trung thành cùng dấn thân trong Hội Thánh và thế giới; liên tục tìm kiếm sự thánh thiện; một người bạn tâm tình không xét đoán; tích cực lắng nghe các nhu cầu của người trẻ và đưa ra câu trả lời đầy đủ; tràn đầy tình yêu và tự ý thức; nhận ra những giới hạn của mình cùng hiểu niềm vui và nỗi buồn của đời sống tâm linh. Một phẩm chất quan trọng hàng đầu nơi những người đồng hành là nhìn nhận chính bản tính con người của mình, nghĩa là họ là con người và do đó họ có thể sai lỗi: không phải là người hoàn hảo, nhưng là những người có tội đã được tha thứ. Đôi khi những người đồng hành được đặt trên bệ, và sự sa ngã của họ có thể có những tác động tàn phá huỷ hoại khả năng tiếp tục tham gia vào Hội Thánh của những người trẻ. Những người đồng hành không được dẫn dắt những người trẻ như thể họ là những người thụ động đi theo các em, nhưng đi bên bên cạnh các em, cho phép các em trở thành những người tham gia tích cực trong cuộc hành trình. Họ phải tôn trọng sự tự do là một phần của tiến trình phân định của một người trẻ, và cung cấp cho các em những công cụ tốt nhất để làm điều ấy. Một người đồng hành phải hết lòng tin tưởng vào khả năng của một người trẻ để tham gia vào đời sống Hội Thánh. Một người đồng hành phải vun trồng hạt giống đức tin nơi người trẻ, mà không được mong thấy ngay những thành quả của công việc của Chúa Thánh Thần. Vai trò của người đồng hành không phải và không thể chỉ dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, mà giáo dân cũng phải được phép lãnh nhận sứ vụ này. Tất cả mọi người đồng hành phải được huấn luyện cơ bản vững chắc và tham gia vào việc đào luyện thường xuyên”.[134]
  6. Chắc chắn rằng các cơ sở giáo dục của Hội Thánh là một môi trường cộng đồng cho việc đồng hành; chúng cho phép nhiều người trẻ được hướng dẫn, đặc biệt là khi chúng “cố gắng chào đón tất cả mọi người trẻ, bất chấp các lựa chọn tôn giáo, nguồn gốc văn hóa và các hoàn cảnh cá nhân, gia đình hoặc xã hội. Bằng cách này, Hội Thánh đem đến một đóng góp cơ bản cho nền giáo dục không thể thiếu được của các người trẻ ở những nơi đa dạng nhất trên thế giới”.[135] Các cơ sở này sẽ làm giảm bớt vai trò của mình một cách quá mức nếu chúng đặt ra các tiêu chuẩn cứng ngắc cho việc nhập học và tiếp tục học cùa các học sinh, bởi vì chúng sẽ tước đoạt khỏi nhiều người trẻ một sự đồng hành để giúp các em phong phú hoá đời sống của mình. 

CHƯƠNG TÁM

Ơn Gọi

  1. Từ “ơn gọi” có thể được hiểu theo nghĩa rộng, như lời mời gọi của Thiên Chúa. Nó bao gồm lời mời gọi đến sự sống, lời mời gọi làm bạn hữu với Ngài, lời mời gọi nên thánh, vv. Điều này có giá trị cao, bởi vì nó đặt cả cuộc đời của chúng ta trước mặt Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta và cho phép chúng ta hiểu rằng không có gì là kết quả của một sự hỗn loạn vô nghĩa, nhưng trái lại, mọi sự có thể được đưa vào một con đường để đáp lại Chúa, Đấng có một dự án tuyệt vời cho chúng ta.
  2. Trong Tông Huấn Gaudete et Exsultate, tôi đã muốn tập trung vào ơn gọi của tất cả mọi người để lớn lên vì vinh quang Thiên Chúa, và tôi đã “tái đề nghị lời mời gọi nên thánh một cách thực tế cho thời đại chúng ta, với tất cả những rủi ro, thách đố và cơ hội của nó”.[136] Công đồng Vaticanô II đã giúp chúng ta đổi mới nhận thức về lời mời gọi này được nói với mọi người: “Tất cả tín hữu ở mọi hoàn cảnh và tình trạng sống đều được Thiên Chúa mời gọi, mỗi người theo cách của mình, đến sự thánh thiện, sự toàn thiện như sự toàn thiện của Cha trên trời”.[137]

Lời mời gọi làm bạn hữu của Chúa

  1. Điều cơ bản là phân định và khám phá ra rằng điều Chúa Giêsu muốn trên hết từ mọi người trẻ là tình bằng hữu với Người. Đây là sự phân định nền tảng. Trong cuộc đối thoại của Chúa Phục Sinh với bạn Người là ông Simon Phêrô, câu hỏi quan trọng là: “Này Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21:16). Nói cách khác: con có muốn Thầy làm bạn với con không? Sứ vụ mà ông Phêrô nhận được để chăm sóc chiên mẹ và chiên con của Chúa sẽ luôn được nối kết với tình yêu nhưng không này, với tình yêu của tình bằng hữu này.
  2. Và, nếu cần một thí dụ ngược lại thì chúng ta hãy nhớ đến cuộc gặp gỡ giữa Chúa và chàng thanh niên giàu có. Cuộc gặp gỡ này cho chúng ta thấy rõ điều mà chàng thanh niên không cảm nhận được là ánh mắt yêu thương của Chúa (x. Mc 10:21). Anh ta đã buồn bã bỏ đi, sau khi làm theo một cảm hứng tốt, vì anh đã không thành công trong việc từ bỏ nhiều gì mà anh sở hữu (x. Mt 19:22). Anh đã bỏ lỡ cơ hội để có một tình bằng hữu cao quý. Và chúng ta vẫn không bao giờ biết người thanh niên độc đáo ấy, mà Chúa Giêsu đã nhìn với tình yêu và vòng tay rộng mở, đã có thể là gì với chúng ta, và đã có thể làm gì cho nhân loại.
  3. Bởi vì “sự sống mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta là một câu chuyện tình, một câu chuyện sự sống muốn hòa lẫn với chúng ta và bén rễ vào đất của mọi người. Sự sống ấy không phải là một sự cứu rỗi “ở trên đám mây” đang chờ được tải xuống, cũng không phải là một “áp dụng” mới được phát minh hay một thao luyện tinh thần do kỹ thuật tự trau dồi. Sự sống mà Thiên Chúa ban cho chúng ta cũng không phải là một “bài dạy kèm” để hiểu những tin tức mới nhất. Ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là một lời mời gọi để trở nên một phần của một chuyện tình được đan kết với những câu chuyện cá nhân của chúng ta; nó đang sống và muốn được sinh ra ở giữa chúng ta để chúng ta có thể sinh hoa trái nơi mình đang ở, dù một mình hay với bất cứ ai. Chính ở đó mà Chúa đến để gieo và để được gieo”.[138]

Sống cho tha nhân

  1. Bây giờ tôi muốn tập trung vào ơn gọi được hiểu theo nghĩa cụ thể của lời mời gọi phục vụ truyền giáo cho người khác. Chúng ta được Chúa mời gọi tham gia vào công việc tạo dựng của Người, bằng cách góp phần vào công ích dựa trên những khả năng mà chúng ta đã nhận được.
  2. Ơn gọi truyền giáo này liên quan đến việc phục vụ tha nhân của chúng ta. Bởi vì cuộc đời của chúng ta trên trái đất đạt đến sự trọn vẹn khi nó biến thành một sự dâng hiến. Tôi xin nhắc lại rằng “Sứ vụ ở trong lòng dân chúng không phải là một phần của đời sống tôi, hoặc một đồ trang sức mà tôi có thể bỏ đi, nó cũng không phải là một phần phụ thuộc, hoặc một thời điểm trong nhiều thời điểm của cuộc sống. Nó là một điều mà tôi không có thể xóa bỏ khỏi con người của tôi nếu tôi không muốn tiêu diệt chính mình. Tôi là một sứ vụ trên thế gian này, và đó là lý do tại sao tôi đang ở trong thế gian này”.[139] Do đó, chúng ta phải nghĩ rằng mọi hoạt động mục vụ, mọi việc đào luyện và mọi linh đạo đều hướng về ơn gọi.
  3. Ơn gọi của chúng ta không chỉ hệ tại các hoạt động mình phải làm, mặc dù nó được diễn tả trong đó. Ơn gọi là một điều gì lớn hơn, nó là một con đường hướng nhiều nỗ lực và nhiều hành động theo chiều phục vụ. Vì lý do ấy, trong khi phân định một ơn gọi, điều quan trọng là phải liệu xem người ta có nhận ra trong chính mình các khả năng cần thiết cho việc phục vụ xã hội cụ thể ấy không.
  4. Điều đó mang lại một giá trị rất lớn cho các nhiệm vụ này, bởi vì chúng không còn là một tổng số các hành động được thực hiện để kiếm tiền, để bận rộn hoặc để làm hài lòng người khác. Tất cả các điều này tạo thành một ơn gọi bởi vì chúng ta được mời gọi để làm điều ấy; nó còn hơn một lựa chọn thực dụng đơn thuần từ phía chúng ta. Cuối cùng, đó là một câu hỏi để nhận ra tại sao tôi được tạo ra, tại sao tôi ở trái đất này, kế hoạch của Chúa cho cuộc đời của tôi là gì. Người sẽ không chỉ cho tôi mọi nơi, mọi lúc và mọi chi tiết, vì tôi sẽ phài tự mình lựa chọn một cách thận trọng, nhưng chắc chắn Người sẽ chỉ cho tôi một hướng đi của đời tôi, vì Người là Đấng Tạo Hóa của tôi, là thợ gốm của tôi và tôi cần lắng nghe tiếng Người để cho mình được Người nhào nặn và hướng dẫn. Rồi, tôi sẽ là điều tôi phải là và tôi cũng sẽ trung thành với thực tại riêng của chính mình.
  5. Để chu toàn ơn gọi của mình, một người cần phát triển, tạo ra sự nảy mầm và vun sới tất cả những gì người ấy đang có. Đây không phải là tự chế ra mình, tự tạo ra mình từ nhưng không, mà là tự khám phá chính mình dưới ánh sáng của Thiên Chúa và làm cho mình được thăng hoa: “Trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người đều được mời gọi phát triển chính mình, vì mỗi cuộc đời là một ơn gọi”.[140] Ơn gọi của chúng ta dẫn chúng ta đến việc rút ra những điều tốt nhất trong chính mình để làm sáng danh Thiên Chúa và vì lợi ích của tha nhân. Nó không chỉ là làm những công việc, mà là làm chúng với một ý nghĩa, với một hướng đi. Về vấn đề này, Thánh Alberto Hurtado đã nói với những người trẻ rằng phải suy nghĩ rất cẩn thận về hướng đi của đời mình: “Trong một con tàu, nếu người hoa tiêu trở nên cẩu thả, người ấy sẽ bị sa thải ngay tại chỗ, vì người ấy nắm trong tay những gì quá thiêng liêng. Và trong cuộc sống, chúng ta có cẩn thận về con đường của mình không? Con đường của bạn là gì? Nếu cần phải tập trung hơn một chút vào tư tưởng này, tôi yêu cầu mỗi bạn phải chú ý đến nó, bởi vì đạt được kết quả trong việc này đơn thuần tương đương với thành công; thất bại trong việc này chỉ đơn thuần là thất bại”.[141]
  6. Vấn đề “sống cho người khác” trong cuộc đời của mỗi người trẻ thường được gắn liền với hai câu hỏi cơ bản: thành lập một gia đình mới và công ăn việc làm. Các cuộc thăm dò khác nhau được thực hiện trong giới trẻ luôn khẳng định rằng đây là hai chủ đề chính mà các em ước muốn và bận tâm. Cả hai phải là chủ đề của một sự phân định đặc biệt. Chúng ta hãy bàn cách ngắn gọn về chúng.

Tình yêu và gia đình

  1. Những người trẻ cảm nhận cách mạnh mẽ về lời mời gọi yêu thương và mơ ước được gặp đúng người để lập gia đình và cùng nhau xây dựng một cuộc sống. Chắc chắn đó là một ơn gọi mà chính Thiên Chúa đề ra qua những cảm tình, ước mong và ước mơ. Về chủ đề này, tôi đã bàn luận dài trong Tông Huấn Amoris Laetitia và tôi mời tất cả mọi người trẻ đọc chúng đặc biệt trong các chương 4 và 5.
  2. Tôi thích nghĩ rằng “hai Kitô hữu kết hôn với nhau đã nhận ra trong chuyện tình của họ tiếng gọi của Chúa, ơn gọi làm cho hai người nam nữ nên một xương thịt, một cuộc đời. Bí tích Hôn Phối bao trùm tình yêu này bằng ân sủng của Thiên Chúa; nó bén rễ trong chính Thiên Chúa. Với hồng ân này, với sự chắc chắn của ơn gọi này, chúng ta có thể an toàn tiến bước, chúng ta không sợ bất cứ điều gì, chúng ta có thể cùng nhau đương đầu với mọi sự!”[142]
  3. Trong bối cảnh này, tôi xin nhắc rằng Thiên Chúa dựng nên chúng ta có phái tính. Chính Thiên Chúa “tạo ra phái tính, đó là một món quà tuyệt vời cho các thụ tạo của Ngài”.[143] Trong ơn gọi kết hôn, chúng ta phải nhận ra và biết ơn vì thực tế rằng “phái tính, tình dục, là một món quà từ Thiên Chúa. Không phải là điều cấm kỵ. Đó là một món quà của Chúa, một hồng ân mà Chúa ban cho chúng ta. Nó có hai mục đích: để yêu thương và để sinh ra sự sống. Đó là một đam mê, đó là tình yêu nồng nàn. Tình yêu đích thực thì đam mê. Tình yêu giữa một người nam và một người nữ, khi đam mê, dẫn đến sự sống. Luôn luôn. Để ban sự sống với xác và hồn”.[144]
  4. Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng “gia đình tiếp tục là điểm quy chiếu chính cho người trẻ. Con cái trân quý tình yêu và sự quan tâm của cha mẹ, mối liên hệ gia đình rất quan trọng đối với các em, và đến lượt các em, các em hy vọng sẽ thành công trong việc thiết lập một gia đình. Không thể phủ nhận sự gia tăng của viêc ly thân, ly dị, tái hôn và gia đình chỉ có một cha hay một mẹ có thể gây ra những đau khổ lớn lao và một cuộc khủng hoảng căn tính. Đôi khi, các em phải gánh những trách nhiệm không tương xứng với tuổi tác của các em và điều đó buộc các em phải trở thành người lớn trước tuổi bình thường. Các ông bà thường góp phần một cách quyết định vào việc giáo dục tình cảm và tôn giáo: qua sự khôn ngoan của họ, họ là một mắt xích quyết định trong mối liên hệ giữa các thế hệ”.[145]
  5. Chắc chắn rằng những khó khăn gặp phải trong gia đình gốc khiến nhiều người trẻ tự hỏi liệu có đáng để lập một gia đình mới, để chung thủy và để quảng đại hay không. Cha muốn nói với các con là có, thật đáng để đánh cuộc vào gia đình và trong đó các con sẽ tìm thấy những khuyến khích tốt nhất để trưởng thành và những niềm vui đẹp nhất để chia sẻ. Đừng để ai đánh cắp cơ hội yêu thương chân chính của các con. Đừng để những kẻ đề nghị một cuộc sống truỵ lạc theo cá nhân chủ nghĩa lừa dối các con mà kết cuộc đi đến một loại cô lập và cô độc tồi tệ nhất.
  6. Ngày nay, một nền văn hóa tạm bợ, là một ảo ảnh, đang thống trị. Việc tin rằng không có gì có thể là dứt khoát là một sự lừa dối gian sảo. Nhiều lần “có những người cho rằng hôn nhân ngày nay là ‘lỗi thời’…. Trong một nền văn hoá tạm bợ và tương đối, nhiều người tán dương tầm quan trọng của việc ‘tận hưởng’ giây phút hiện tại. Họ cho rằng không đáng để có một quyết tâm suốt đời, để có một quyết định dứt khoát…. Trái lại, Cha yêu cầu các con trở thành những nhà cách mạng, Cha yêu cầu các con lội ngược dòng. Đúng, về việc này, Cha yêu cầu các con nổi lên chống lại nền văn hóa tạm bợ này, là nển văn hóa, thật ra, tin rằng các con không có khả năng nhận lãnh trách nhiệm, không có khả năng yêu thương thật”.[146] Nhưng Cha tin tưởng ở các con, đó là lý do tại sao Cha khuyến khích các con chọn hôn nhân.
  7. Hôn nhân đòi hỏi sự chuẩn bị, và điều này đòi phải biết tự giáo dục chính mình, phát triển những đức tính tốt nhất, đặc biệt là tình yêu, kiên nhẫn, khả năng đối thoại và phục vụ. Nó cũng bao gồm giáo dục giới tính của chính mình, ngõ hầu nó càng ngày càng ít là công cụ để sử dụng người khác và càng ngày càng có nhiều khả năng hiến mình trọn vẹn cho một người duy nhất, một cách độc quyền và quảng đại.
  8. Các Giám Mục Colombia đã dạy chúng ta rằng “Đức Kitô biết rằng các vợ chồng không hoàn hảo và họ cần khắc phục những yếu đuối và tính hay thay đổi của mình để tình yêu của họ có thể lớn lên và kéo dài theo thời gian. Vì lý do này mà Người ban các cặp vợ chồng ân sủng của Người, đồng thời cũng là ánh sáng và sức mạnh cho phép họ thực hiện dự định của họ về đời sống hôn nhân cho phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa “.[147]
  9. Đối với những người không được mời gọi kết hôn hoặc đời sống thánh hiến, phải luôn nhớ rằng ơn gọi đầu tiên và quan trọng nhất là ơn gọi của bí tích Rửa Tội. Những người chưa lập gia đình, ngay cả khi không phải do sự lựa chọn của họ, có thể trở thành những nhân chứng đặc biệt của ơn gọi này trong hành trình phát triển cá nhân của họ.

Công ăn việc làm

  1. Các Giám Mục Hoa Kỳ đã nói rõ rằng, tuổi trẻ, một khi đến tuổi thành niên, “thường đánh dấu một việc gia nhập của một người vào thế giới việc làm. ‘Bạn làm gì để kiếm sống?’ là một chủ đề trò chuyện liên tục, bởi vì công ăn việc làm là một phần rất quan trọng trong cuộc đời của các em. Đối với các thanh niên nam nữ, kinh nghiệm này rất thay đổi vì các em thường chuyển từ công việc này sang công việc khác và thậm chí từ nghề này sang nghề khác. Công việc có thể xác định việc sử dụng thời gian của các em và những gì các em có thể làm hoặc mua. Nó cũng có thể xác định chất lượng và số lượng của thời gian giải trí. Công việc xác định và ảnh hưởng đến căn tính và việc biết mình là ai của một người trẻ và là nơi chính mà ở đó tình bạn và các mối liên hệ khác được phát triển, vì người ta thường không làm việc một mình. Những người trẻ nam nữ nói về công việc như hoàn thành một chức năng và như một điều làm cho đời các em có ý nghĩa. Nó cho phép những người trẻ thỏa mãn nhu cầu thực tế của các em, và, quan trọng hơn, tìm kiếm ý nghĩa và thực hiện ước mơ và cái nhìn của các em. Mặc dù công việc có thể không giúp các em thực hiện các ước mơ của mình, nhưng điều quan trọng là những người trẻ phải nuôi dưỡng một cái nhìn, học cách làm việc theo cách thật sự cá nhân và đầy đủ cho đời sống của mình, và tiếp tục phân định ơn gọi của Thiên Chúa.”[148]
  2. Cha xin những người trẻ đừng mong sống mà không làm việc, bằng cách lệ thuộc vào sự giúp đỡ của người khác. Điều này không tốt, bởi vì “công việc là một điều cần thiết, nó là một phần của ý nghĩa cuộc đời trên trái đất này, một cách trưởng thành, một sự phát triển của con người và sự thỏa mãn cá nhân. Theo nghĩa này, giúp đỡ tài chánh cho người nghèo phải luôn luôn là giải pháp tạm thời trong các trường hợp khẩn cấp”.[149] Cho nên, “linh đạo Kitô giáo, cùng với việc chiêm niệm đầy kính sợ về các thụ tạo, mà chúng ta tìm thấy ở Thánh Phanxicô thành Assisi, cũng đã phát triển một sự hiểu biết phong phú và lành mạnh về việc làm, như chúng ta có thể tìm thấy, chẳng hạn, trong cuộc đời của Chân phước Charles de Foucauld và các môn đệ của ngài”.[150]
  3. Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng thế giới công việc là một lĩnh vực trong đó những người trẻ “trải nghiệm những hình thức loại trừ và bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Trước hết và nghiêm trọng nhất là nạn thất nghiệp của người trẻ, mà ở một số quốc gia đang lên đến những mức độ rất cao. Điều này không những chỉ làm cho các em thành nghèo, mà tình trạng thiếu công ăn việc làm còn cướp đi khả năng mơ ước và hy vọng của những người trẻ và tước đoạt cơ hội đóng góp của các em vào sự phát triển của xã hội. Ở nhiều quốc gia, tình trạng này phụ thuộc vào sự thể là một số nhóm trẻ trong dân chúng không có trình độ chuyên môn đầy đủ, đặc biệt là do những thiếu xót trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Thông thường thì sự bất ổn định về công ăn việc làm ảnh hưởng đến những người trẻ tương ứng với lợi ích kinh tế của việc bóc lột lao động”.[151]
  4. Một vấn đề rất tế nhị mà chính trị phải coi là vấn đề ưu tiên, đặc biệt là tốc độ phát triển công nghệ, cùng với quan tâm về việc giảm chi phí lao động, có thể nhanh chóng thay thế vô số các việc làm bằng máy móc. Đây là một vấn đề cơ bản của xã hội, bởi vì việc làm đối với một người trẻ không chỉ đơn thuần là một hoạt động nhằm tạo ra thu nhập. Đó là một cách diễn tả phẩm giá con người, nó là một hành trình trưởng thành và hòa nhập vào xã hội, nó là một khuyến khích không ngừng để phát triển về trách nhiệm và óc sáng tạo, nó là một sự bảo vệ chống lại khuynh hướng theo chủ nghĩa cá nhân và tìm thoả mãn của con người, và nó cũng làm vinh danh Thiên Chúa qua việc phát triển khả năng của một người.
  5. Một người trẻ không phải lúc nào cũng có cơ hội để quyết định mình sẽ phải cố gắng làm công việc gì, phải dành năng lực và khả năng đổi mới của mình cho nhiệm vụ nào. Bởi vì, ngoài những mong muốn của một người và vượt xa khả năng của một người cùng sự phân định mà một người có thể thực hiện được, còn có những giới hạn khắc nghiệt của thực tế. Đúng là các con không thể sống mà không làm việc và đôi khi phải chấp nhận những gì các con tìm thấy, nhưng không bao giờ được từ bỏ ước mơ của mình, không bao giờ được dứt khoát chôn vùi một ơn gọi, không bao giờ được bỏ cuộc. Luôn luôn tìm kiếm, ít ra là một phần hoặc sự không hoàn toàn để sống điều các con đã phân định như một ơn gọi đích thực của mình.
  6. Khi một người khám phá ra rằng Thiên Chúa gọi mình làm một điều gì, là điều mà mình đã được tạo ra để làm, điều ấy có thể là y tá, thợ mộc, viễn thông, kỹ sư, nhà giáo, nghệ thuật hoặc bất kỳ công việc nào khác, thì người ấy sẽ có thể tập trung hết khả năng của mình để hy sinh, đại lượng và dấn thân. Biết rằng chúng ta không làm những việc chỉ vì chúng, nhưng làm với ý nghĩa, như một đáp trả cho một lời mời gọi vang lên tận đáy lòng một người để cống hiến một điều gì đó cho tha nhân, khiến cho những công việc này mang đến cho lòng mình một cảm nghiệm đặc biệt về sự viên mãn . Đây là điều mà Sách Giảng Viên của Thánh Kinh Cựu Ước nói: “Tôi nhận ra rằng, đối với con người, không có gì tốt hơn là hưởng những thú vui do công việc chính mình làm ra” (Gv 3:22).

Các ơn gọi thánh hiến đặc biệt

  1. Nếu chúng ta bắt đầu từ xác tín rằng Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục khơi dậy ơn gọi linh mục và đời sống tu trì, chúng ta có thể nhân danh Chúa mà “thả lưới một lần nữa”, với một lòng tín thác hoàn toàn. Chúng ta có thể, và chúng ta phải, có can đảm để nói với mỗi người trẻ rằng các em hãy tự hỏi mình về khả năng đi theo con đường này.
  2. Đôi khi tôi đưa ra đề nghị này với những người trẻ, là những người trả lời tôi hầu như bằng một giọng chế giễu: “Không, sự thực là con sẽ không đi theo hướng ấy.” Tuy nhiên, nhiều năm sau, một số trong số các em đã ở trong chủng viện. Chúa không thể thất bại trong lời hứa sẽ không để Hội Thánh không có các mục tử, vì nếu không có các mục tử thì Hội Thánh không thể sống hay thực thi sứ vụ của mình được. Và nếu có một số linh mục không phải là những chứng nhân tốt thì không phải vì thế mà Chúa thôi mời gọi. Trái lại, Người đầu tư gấp đôi, vì Người không ngừng chăm sóc cho Hội Thánh yêu dấu của mình.
  3. Trong việc phân định ơn gọi của mình, các con đừng loại trừ khả năng hiến thân cho Thiên Chúa trong ơn gọi linh mục, đời sống tù trì hoặc các hình thức thánh hiến khác. Tại sao không? Các con hãy yên tâm rằng nếu các con nhận ra ơn gọi từ Thiên Chúa và làm theo nó, nó sẽ mang lại cho cuộc đời các con một sự sung mãn trọn vẹn.
  4. Chúa Giêsu đang đi giữa chúng ta như Người đã làm ở Galilêa. Người đi qua các đường phố của chúng ta, ngừng lại và nhìn vào mắt chúng ta, không vội vàng. Lời mời gọi của Người thật hấp dẫn, thật quyến rũ. Tuy nhiên, ngày nay, sự lo âu và tốc độ của rất nhiều kích thích đã tấn công chúng ta khiến chúng ta không còn chỗ cho sự im lặng nội tâm trong đó chúng ta nhận ra ánh mắt của Chúa Giêsu và lắng nghe tiếng gọi của Người. Trong khi đó, các con sẽ nhận được nhiều đề nghị được gói kỹ lưỡng, trông rất đẹp mắt và hấp dẫn, nhưng theo thời gian, chúng sẽ làm cho các con kiệt sức, mệt mỏi và cô đơn. Đừng để điều này xảy ra cho các con, bởi vì cơn lốc của thế gian này kéo các con vào một cuộc đua vô nghĩa, không có định hướng, không có mục tiêu rõ ràng, và các con sẽ phí phạm rất nhiều nỗ lực của mình. Thay vào đó, hãy tìm những nơi tĩnh mịch và im lặng là những nơi cho phép các con suy niệm, cầu nguyện, nhìn thế giới chung quanh mình rõ hơn, và rồi, cùng với Chúa Giêsu, các con sẽ có thể nhận ra ơn gọi của mình trên thế gian này.

 

CHƯƠNG CHÍN

Sự phân định

  1. Về phân định nói chung, tôi đã bàn đến trong Tông Huấn Gaudete et Exsultate. Tôi xin phép nhắc lại một số suy tư ấy, trong khi áp dụng chúng vào việc phân định ơn gọi của một người trên thế gian.
  2. Tôi nhắc lại rằng tất cả mọi người, nhưng “đặc biệt là giới trẻ, chịu ảnh hưởng của một nền văn hóa bấm nút đổi đài liên tục. Chúng ta có thể đồng thời coi hai hoặc ba màn ảnh và tương tác trong những cảnh tượng ảo cùng một lúc. Nếu không có sự khôn ngoan của việc  phân định, chúng ta có thể dễ dàng biến thành cái bung xung cho mọi xu hướng chóng qua”.[152] Và “điều này đặc biệt quan trọng khi một sự mới mẻ xuất hiện trong đời sống của chúng ta.  Và như thế, chúng ta phải phân biệt xem đó là rượu mới đến từ Thiên Chúa hoặc sự mới mẻ gian trá của tinh thần thế tục hay tinh thần của ma quỷ”.[153]
  3. Sự phân định này, “mặc dù nó bao gồm lý trí và sự cẩn trọng, nó vượt trên chúng, vì nó là vấn đề thoáng nhìn vào mầu nhiệm của kế hoạch độc đáo và không thể lập lại mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta…. Nó liên quan đến ý nghĩa cuộc đời tôi trước mặt Chúa Cha, là Đấng biết tôi và yêu thương tôi, đến ý nghĩa thật sự của cuộc đời tôi, mà không ai biết rõ hơn Ngài”.[154]
  4. Chính trong khuôn khổ này, việc đào luyện lương tâm được đặt ra, cho phép sự phân định được phát triển theo chiều sâu và lòng trung thành với Thiên Chúa: “Việc đào luyện lương tâm là một cuộc hành trình của toàn thể cuộc đời, ở đó người ta học cách nuôi dưỡng cùng những cảm tình như Chúa Giêsu Kitô, qua việc áp dụng các tiêu chuẩn về các lựa chọn của mình và các chủ ý của các hành động của mình (x. Pl 2: 5)”.[155]
  5. Sự đào luyện này có ý để cho chính mình được Đức Kitô biến đổi và đồng thời “một thói quen tốt, được kiểm chứng trong việc xét mình: một thực tập mà trong đó không chỉ là vấn đề xác định tội lỗi của mình mà còn nhận ra công việc của Thiên Chúa trong kinh nghiệm hàng ngày của chính mình, trong các biến cố lịch sử và các nền văn hóa nơi mình sống, trong chứng từ của rất nhiều người nam nữ đã đi trước chúng ta hoặc những người đi cùng chúng ta với sự khôn ngoan của họ. Tất cả điều này giúp phát triển trong đức minh trí (thận trọng), bằng cách nói lên rõ ràng chiều hướng toàn cầu của cuộc đời với những lựa chọn cụ thể, với một sự sáng suốt thanh thản về những hồng ân và giới hạn của mình”.[156]

Làm sao để phân định ơn gọi của mình

  1. Một diễn tả của việc phân định là việc tham gia để nhận ra ơn gọi của chính mình. Đó là một nhiệm vụ đòi hỏi những không gian cô độc và im lặng, bởi vì nó là một quyết định rất riêng tư mà không ai khác có thể làm thay: “Mặc dù Chúa nói với chúng ta bằng rất nhiều cách khác nhau, trong công việc, qua người khác và ở mọi lúc, nhưng chúng ta không thể bỏ qua sự im lặng của cầu nguyện lâu giờ để hiểu rõ hơn ngôn ngữ của Thiên Chúa, để giải thích ý nghĩa thật sự của những cảm hứng mà chúng ta nghĩ rằng mình đã nhận được, để làm cho những lo âu của mình lắng dịu và để tái lập toàn thể cuộc đời mình trong ánh sáng của Thiên Chúa”.[157]
  2. Sự im lặng này không phải là một hình thức cô lập, bởi vì “cần phải nhớ rằng sự phân định trong cầu nguyện đòi hỏi phải bắt đầu từ một ý định lắng nghe Chúa, những người khác, chính thực tại, là những gì luôn luôn thách đố chúng ta một cách mới mẻ. Chỉ những ai sẵn sàng lắng nghe mới có tự do để từ bỏ các ý tưởng riêng tư hoặc chưa đầy đủ của mình…. Vì vậy chúng ta sẵn sàng chấp nhận ơn gọi, là điều có thể phá vỡ sự an toàn của chúng ta, nhưng dẫn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, bởi vì mọi sự đều xuôi chảy, mọi sự đều an bình, thì chưa đủ. Thiên Chúa có thể ban cho chúng ta một điều gì tốt hơn nhiều, nhưng chúng ta không nhận ra vì sự sao lãng biếng nhác của mình”.[158]
  3. Khi nói đến việc phân định ơn gọi của một người, cần phải hỏi nhiều câu hỏi khác nhau. Chúng ta không nên bắt đầu bằng cách tự hỏi xem làm sao có thể kiếm được nhiều tiền hơn, hoặc có thể được nhiều danh tiếng và uy tín hơn trong xã hội, nhưng chúng ta thậm chí cũng không nên bắt đầu bằng cách tự hỏi xem nhiệm vụ nào sẽ mang lại cho chúng ta nhiều niềm vui hơn. Để không nhầm lẫn, cần phải thay đổi quan điểm và tự hỏi: tôi có biết mình, ngoài vẻ bề ngoài và cảm xúc của tôi không? Tôi có biết điều gì làm cho quả tim của tôi vui và điều gì làm nó buồn không? Ưu điểm và khuyết điểm  của tôi là gì? Những câu hỏi khác lập tức theo sau những câu hỏi này: làm sao tôi có thể phục vụ thế giới và Hội Thánh cách tốt hơn và hữu ích hơn? Chỗ đứng của tôi trên thế gian này là gì? Tôi có thể cống hiến gì cho xã hội? Những câu hỏi rất thực tế tiếp theo: tôi có các khả năng cần thiết để thực hiện loại phục vụ này không? Tôi có thể phát triển những khả năng này không?
  4. Những câu hỏi này phải tập trung ít vào chúng ta và khuynh hướng của mình, mà phải phải tập trung vào những người khác, để nhận ra cuộc sống của mình liên quan đến người khác như thế nào. Đó là lý do tại sao tôi muốn nhắc lại câu hỏi lớn là gì: “Thường trong cuộc sống, chúng ta lãng phí thì giờ để tự hỏi: “Nhưng tôi là ai? “. Chúng ta có thể tiếp tục tự hỏi mình là ai suốt cả cuộc đời trong khi tìm kiếm xem mình là ai. Nhưng hãy tự hỏi: “Tôi sống cho ai?”[159] Chắc chắn là chúng ta sống cho Thiên Chúa. Nhưng Ngài cũng muốn chúng ta sống cho những người khác, và Ngài đặt vào chúng ta nhiều đức tính, khuynh hướng, hồng ân và đặc sủng không phài cho chúng ta, mà cho những người khác.

Lời mời gọi của Chúa Giêsu, Bạn chúng ta

  1. Để phân định ơn gọi của mình, chúng ta phải nhận ra rằng đây là lời mời gọi của một người bạn: Chúa Giêsu. Khi tặng bạn bè một món quà, người ta tặng điều tốt nhất mà mình có. Và điều ấy không hẳn phải là đắt tiền nhất hay hiếm hoi nhất, nhưng là điều chúng ta biết sẽ mang lại niềm vui cho người khác. Một người bạn nhận thức rõ ràng về điều này, đến nỗi có thể hình dung ra nụ cười của bạn mình trong trí tưởng tượng khi người bạn mở món quà của mình. Sự phân định của tình bạn này là điều Cha đề nghị với những người trẻ như một mẫu gương nếu các con muốn tìm thánh ý Thiên Chúa cho cuộc đời mình.
  2. Cha muốn các con biết rằng khi Chúa nghĩ về mỗi người, về những gì Người muốn các con dâng cho Người, hãy nghĩ về Người như một người bạn cá nhân của các con. Và nếu Người quyết định ban cho các con một ân sủng, một đặc sủng giúp các con sống trọn vẹn và biến các con thành người có ích cho tha nhân, một người để lại dấu tích trong lịch sử, chắc chắn đó sẽ là điều khiến các con vui mừng và hứng khởi hơn bất cứ điều gì khác trên đời này. Không phải vì điều Người ban là một đặc sủng phi thường hay hiếm có, mà bởi vì nó hợp với các con, phù hợp với toàn thể cuộc đời các con.
  3. Món quà của ơn gọi chắc chắn sẽ là một món quà đòi hỏi gắt gao. Quà tặng của Thiên Chúa có tính tương tác và để thưởng thức chúng, chúng ta phải tham gia tích cực, phải mạo hiểm. Tuy nhiên, nó sẽ không phải là một đòi hỏi bị áp đặt từ bên ngoài, mà là điều gì đó sẽ kích thích các con lớn lên và lựa chọn để làm cho món quà này trưởng thành và trở nên một món quà cho người khác. Khi Chúa khơi dậy ơn gọi, đừng chỉ nghĩ các con đã là ai, mà nghĩ về tất cả những gì các con sẽ trở thành cùng với Người và những người khác.
  4. Sức lực của cuộc sống và sức mạnh của một nhân cách nuôi dưỡng lẫn nhau trong mỗi người trẻ và đẩy các em vượt qua mọi giới hạn. Việc thiếu kinh nghiệm cho phép điều này xảy ra, mặc dù chẳng bao lâu nó sẽ biến thành kinh nghiệm, thường là kinh nghiệm đau thương. Điều quan trọng là kết hợp ước ao “sự vô tận của khởi đầu chưa được thử thách này”[160] với tình bằng hữu vô điều kiện mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Trước mọi luật lệ và mọi bổn phận, điều Chúa Giêsu đề nghị chúng ta lựa chọn là đi theo Người, như những người bạn đi theo nhau, tìm kiếm nhau và tìm thấy nhau qua một tình bạn trong sạch. Mọi sự khác sẽ đến sau, và ngay cả những thất bại của cuộc đời cũng có thể là một kinh nghiệm vô giá về tình bằng hữu này, là tình bằng hữu không bao giờ đổ vỡ.

Lắng nghe và đồng hành

  1. Có nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân, các chuyên gia và thậm chí những người trẻ có trình độ, có thể đồng hành với những người trẻ trong việc phân định ơn gọi của các em. Khi chúng ta được gọi để giúp những người khác nhận ra con đường của cuộc đời họ, điều tiên quyết là lắng nghe. Sự lắng nghe này cần phải có ba loại nhạy cảm hoặc chú ý khác biệt và bổ túc cho nhau.
  2. Loại nhạy cảm hoặc chú ý thứ nhất là với người ấy. Đó là vấn đề lắng nghe một người đang nói với mình qua lời nói của họ. Dấu chỉ của sự lắng nghe này là thì giờ tôi dành cho người ấy. Đó không phải là vấn đề số lượng, mà là người ấy cảm thấy rằng thì giờ của tôi là của họ: là họ có thì giở cần thiết để nói ra tất cả những gì họ muốn nói. Người ấy phải cảm thấy rằng tôi lắng nghe người ấy một cách vô điều kiện, không xúc phạm đến họ, không làm gương mù cho họ, không gắt gỏng, không mệt mỏi. Sự lắng nghe này là điều Chúa làm khi Người bắt đầu đi bên cạnh các môn đệ trên đường Emmaus và đồng hành với họ trong một thời gian dài mặc dầu họ đi sai hướng (x. Lc 24: 13-35). Khi Chúa Giêsu làm như thể Người tiếp tục đi xa hơn vì hai người đã về đến nhà, họ nhận ra rằng Người đã cho họ thì giờ của Người, và lúc ấy, họ cho Người thì giờ của họ, bằng cách biếu Người lòng hiếu khách của họ. Sự lắng nghe chăm chú và vô vị lợi này cho thấy giá trị mà người khác dành cho chúng ta, bất chấp tư tưởng và lựa chọn sống của người ấy.
  3. Loại nhạy cảm hoặc chú ý thứ hai bao gồm việc phân định. Đó là việc cố gắng xác định đúng lúc để phân biệt giữa ân sủng và cám dỗ. Bởi vì đôi khi những điều lướt qua trí tưởng tượng của chúng ta chỉ là những cám dỗ có thể đưa chúng ta ra khỏi con đường thật sự của mình. Ở đây tôi phải tự hỏi một cách chính xác người ấy đang nói gì với tôi, người ấy muốn nói gì với tôi, người ấy muốn tôi hiểu gì về những điều đang xảy ra cho người ấy. Đây là những câu hỏi giúp tôi hiểu những suy nghĩ của người ấy và theo dõi các lý luận luận tác động trên người ấy và cảm nhận được sức nặng và nhịp điệu của tình cảm của người ấy bị ảnh hưởng bởi luận lý này. Việc lắng nghe này nhằm phân định những lời cứu rỗi của Thần Khí tốt, là thần khí đề nghị chúng ta chân lý của Chúa, mà cả cái bẫy của thần khí xấu, là các sự lừa dối và quyến rũ của nó. Chúng ta phải có lòng can đảm, nhân ái và tế nhị cần thiết để giúp người kia phân biệt sự thật và sự lừa dối hoặc những lời bào chữa.
  4. Loại nhạy cảm hoặc chú ý thứ ba bao gồm việc lắng nghe những thôi thúc mà các kinh nghiệm khác “chuyển đến”. Đó là sự lắng nghe sâu xa về “nơi người kia thật sự muốn đi đến”. Ngoài những gì người ấy cảm nhận và suy nghĩ trong hiện tại và những gì người ấy đã làm trong quá khứ, sự chú ý được xoay quanh điều người ấy muốn trở thành. Đôi khi điều này đòi hỏi người ấy không nhìn quá nhiều vào những gì mình thích, vào những ước muốn nông cạn của mình, nhưng vào những gì đẹp lòng Chúa nhất, vào kế hoạch của Người cho cuộc sống của người ấy, được bày tỏ theo chiều hướng của quả tim, vượt ra ngoài mức độ bề ngoài của thị hiếu và cảm tình. Sự lắng nghe này là chú ý đến ý định cuối cùng, đó là điều dứt khoát quyết định cuộc đời, bởi vì có một người như Chúa Giêsu, Đấng hiểu và trân quý ý định cuối cùng này của quả tim. Đó là lý do tại sao Người luôn luôn sẵn sàng giúp mọi người nhận ra điều đó, và đủ để người ấy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con! Xin thương xót con!”
  5. Chỉ như thế, sự phân định mới trở thành một khí cụ thật của cuộc chiến đấu để theo Chúa cách tốt hơn.[161] Bằng cách này, ước muốn nhận ra ơn gọi của một người đạt được một cường độ tối cao, một phẩm chất khác và một cấp độ cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhiều với phẩm giá của đời sống một người. Bởi vì, cuối cùng, một sự phân định tốt là một cuộc hành trình tự do làm sáng tỏ điều độc đáo của mỗi người, là điều thật sự của người ấy, rất cá nhân, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được. Nhìn từ bên ngoài, những người khác không thể hoàn toàn hiểu hoặc thấy trước người ấy sẽ phát triển thế nào.
  6. Chính vì thế, khi chúng ta lắng nghe người khác bằng cách này, đến một lúc nào đó, chúng ta phải biến mất để người kia đi theo con đường mà người ấy đã tìm ra. Chúng ta phải biến mất như Chúa đã biến mất khỏi nhãn quan của các môn đệ, bỏ họ ở lại một mình với của con tim bừng cháy, biến đồi thành một sự thúc đẩy không thể cưỡng lại được để lên đường (x, Lc 24: 31-33). Khi trở về cộng đồng, các môn đệ của Emmaus sẽ nhận được lời xác nhận rằng Chúa đã thật sự sống lại (x. Lc 24:34).
  7. Vì “thời gian vượt trên không gian”,[162] chúng ta phải khơi dậy và các tiến trình đồng hành, mà không áp đặt những con đường của mình. Và đây là các tiến trình của những con người luôn luôn độc đáo và tự do. Vì lý do đó mà rất khó để thiết lập các công thức, ngay cả khi tất cả các dấu chỉ đều có vẻ tích cực, bởi vì “cần phải đặt những yếu tố tích cực này dưới một việc phân định cẩn thận, để chúng không cô lập hoá lẫn nhau và không bị đặt đối nghịch với nhau, như là có những sự tuyệt đối chống lại nhau. Điều tương tự cũng đúng với các yếu tố tiêu cực: không được loại chúng ra cả khối mà không có sự phân biệt, bởi vì trong mỗi yếu tố ấy, có thể có một số giá trị tiềm ẩn đang chờ đợi để được giải phóng và phục hồi sự thật trọn ven của nó”.[163]
  8. Nhưng để đồng hành với những người khác trên cuộc hành trình này, trên hết, chính chúng ta cẩn phải đi theo cuộc hành trình này mỗi ngày. Đức Mẹ đã làm điều ấy, đối diện với những vấn đề và những khó khăn của chính Mẹ khi còn rất trẻ. Nguyện xin Mẹ đổi mới tuổi trẻ của chúng ta bằng quyền năng của lời cầu nguyện của Mẹ và luôn đồng hành cùng chúng ta bằng sự hiện diện từ mẫu của Mẹ.

* * *

Và để kết thúc … một ước mong

  1. Các người trẻ thân mến, Cha sẽ rất vui khi thấy các con chạy nhanh hơn những người chậm chạp và sợ hãi. Hãy chạy, “được thu hút bởi Dung Nhan yêu dấu ấy, là Dung Nhan mà chúng ta tôn thờ trong Bí tích Thánh Thể, và nhận ra trong thân xác của những anh chị em đau khổ của chúng ta. Nguyện xin Chúa Thánh Thần thúc đẩy các con về phía trước trong cuộc chạy đua này. Hội Thánh cần động lực, trực giác và đức tin của các con. Chúng ta cần chúng! Và khi các con đến nơi mà Cha và những người khác chưa đến, hãy kiên nhẫn chờ đợi Cha và họ”.[164]

Làm tại Loreto, tại Đền Thờ Nhà Thánh, ngày 25 tháng 3, Lễ trọng Truyền tin của Chúa, năm 2019, năm thứ bảy của triều đại giáo hoàng của tôi.

+ PHANXICÔ

[a] Trong bản dịch này, khi Đức Thánh Cha nói với những người trẻ, người dịch sẽ dịch là “Cha” và khi ngài nói chung, người dịch sẽ dịch là “tôi”.

[b] Bản Tiếng Anh dịch là “a narrow and stifling relationship with Mary and Joseph” là không chỉnh. Ở đây dịch theo bản Tiếng Ý là “una relazione chiusa ed esclusiva con Maria e Giuseppe”

[c] Bản tiếng Anh dịch là “When the message is first brought up” không lột được ý nghĩa mà ĐTC muốn nói. Trong bản tiếng Ý, ĐTC dùng chữ “primo anuncio” có nghĩa là “Lời công bố ban đầu”, cũng được gọi là Kerygma.

[d] “Tĩnh tâm đầy xúc động” là dịch từ cụm từ “ritiro di impatto” của tiếng Ý hay “retraite de choc” của Tiếng Pháp, có nghĩa là một buổi tĩnh tâm làm cho tâm hồn được đánh động đến nỗi giật nẩy lên như bị một cú sóc. Bản Tiếng Anh dịch không hoàn toàn chính xác là “youth retreat”.

[e] Ở đây ĐTC dùng từ “proselitismo” có nghĩa là thuyết phục người khác trở lại đạo bằng bất cứ chiến thuật nào, kể cả dùng tiến để dụ dỗ.

[f] Siren là những nữ dị nhân trong chuyện thần thoại Hy Lạp Odysseus của Homer. Trong đó Ulysses là tên La Tinh của Odysseus.

[1] Từ Hy Lạp thường được dịch là “mới” nhưng cũng có nghĩa “trẻ”.

[2] Tự Thú, X, 27: PL 32, 795.

[3] THÁNH IRÊNÊ, Adversus Hæreses, II, 22, 4: PG 7, 784

[4] Tài Liệu Kết Thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường Kỳ Thứ XV, 60.  Từ giờ trở đi sẽ được viết là FD.  Tài liệu tiếng Việt tại: http://www.giaoly.org/vn/tlktthdgt/.  Tài liệu Tiếng Anh có thể được tìm thấy tại: http://www.vatican.va/roman_curia/synod/documents/rc_synod_doc_20181027_doc-final-instrumentum-xvassemblea-giovani_en.html.

[5] Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 515.

[6] Ibid., 517.

[7] Bài Giáo Lý (27 tháng 6, 1990), 2-3: Insegnamenti 13, 1 (1990), 1680-1681.

[8] Tông Huấn Hậu Thương Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (19 tháng 3, 2016), 182: AAS 108 (2016), 384.

[9] FD 63.

[10] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sứ Điệp cho Những Người Trẻ Nam Nữ (8 tháng 12, 1965): AAS 58 (1966), 18.

[11] Ibid.

[12] FD 1

[13] Ibid., 8.

[14] Ibid., 50.

[15] Ibid., 53

[16] X. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải Dei Verbum, 8.

[17] FD 150.

[18] Huấn Từ trong Buổi Canh Thức với Những Người Trẻ, XXXIV Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại Panama (26 tháng 1, 2019): L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1, 2019, 6.

[19] Prayer at the Conclusion of the Way of the Cross, XXXIV Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại Panama (26 tháng 1, 2019): L’Osservatore Romano, 27 tháng 1, 2019, 12.

[20] FD 65.

[21] Ibid., 167.

[22] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Huấn Từ dành cho Những Người Trẻ ở Turin (13  tháng 4, 1980), 4: Insegnamenti 3, 1 (1980), 905.

[23] BÊNÊĐICTÔ XVI, Sứ Điệp cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXVII (15 tháng 3, 2012): AAS 194 (2012), 359.

[24] FD 8.

[25] Ibid.

[26] Ibid., 10.

[27] Ibid., 11.

[28] Ibid., 12.

[29] Ibid., 41.

[30] Ibid., 42.

[31] Huấn Từ dành cho Những Người Trẻ ở Manila (18 tháng 1, 2015): L’Osservatore Romano, 19-20 tháng 1, 2015, 7.

[32] FD 34.

[33] Tài Liệu của Buồi Họp Tiền Thượng Hội Đồng để Chuẩn Bi cho Thương Hội Đồng Giám Mục Thường Kỳ XV, Rome (24 tháng 3, 2018), I, 1.

[34] FD 39.

[35] Ibid., 37.

[36] X. Thông Điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 106: AAS 107 (2015), 889-890.

[37] FD 37.

[38] Ibid., 67.

[39] Ibid., 21.

[40] Ibid., 22.

[41] Ibid., 23.

[42] Ibid., 24.

[43] Tài Liệu của Buồi Họp Tiền Thượng Hội Đồng để Chuẩn Bi cho Thương Hội Đồng Giám Mục Thường Kỳ XV, Rome (24 tháng 3, 2018), I, 4.

[44] FD 25.

[45] Ibid.

[46] Ibid., 26.

[47] Ibid., 27.

[48] Ibid., 28.

[49] Ibid., 29.

[50] Huấn Từ Kết Thúc Cuộc Họp về Bảo Vệ Trẻ Em của Hôi Thánh (24 tháng 2, 2019)L’Osservatore Romano, 25-26 tháng 2, 2019, 10.

[51] FD 29.

[52] Thư gửi Dân Thiên Chúa (20 tháng 8, 2018), 2: L’Osservatore Romano, 21-21 tháng 8, 2018, 7.

[53] FD 30.

[54] Huấn Từ Khai Mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường Kỳ XV (3 tháng 10, 2018)L’Osservatore Romano, 5 tháng 10, 2018, 8.

[55] FD 31.

[56] Ibid.

[57] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Mục Vụ về Hội Thánh trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 1.

[58] FD 31.

[59] Ibid.

[60] Huấn Từ Kết Thúc Cuộc Họp về Bảo Vệ Trẻ Em của Hôi Thánh (24 tháng 2, 2019)L’Osservatore Romano, 25-26 tháng 2, 2019, 11.

[61] FRANCISCO LUIS BERNÁRDEZ, “Soneto”, in Cielo de tierra, Buenos Aires, 1937.

[62] Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3, 2018), 140. Xem bản dịch tiếng Việt ở: https://tonggiaophanhanoi.org/tu-lieu/14204-tong-huan-gaudete-et-exsultate-vui-mung-va-han-hoan-cua-duc-thanh-cha-phanxico.html.

[63] Bài Giảng trong Thánh Lễ, Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXXI tại Krakow (31 Thánh 7, 2016): AAS 108 (2016), 963.

[64] Huấn Từ Khai Mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXXIV tại Panama (24 tháng 1, 2019)L’Osservatore Romano, 26 tháng 1, 2019, 12.

[65] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 1: AAS 105 (2013), 1019. Xem Bản tiếng Viêt tại: http://www.giaoly.org/vn/tong-huan-niem-vui-cua-tin-mung-i/.

[66] Ibid., 3: AAS 105 (2013), 1020.

[67] Huấn Từ trong Buổi Canh Thức với Những Người Trẻ, XXXIV Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại Panama (26 tháng 1, 2019)L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1, 2019, 6.

[68] Huấn Từ trong Buổi Gặp Gỡ những Người Trẻ trong Thượng Hội Đồng (6 tháng 10, 2018)L’Osservatore Romano, 8-9 tháng 10, 2018, 7.

[69] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25 tháng 12, 2005), 1: AAS 98 (2006), 217.

[70] PEDRO ARRUPE, Enamórate.

[71] THÁNH PHAOLÔ VI, Huấn Từ phong Chân Phước cho Nunzio Sulprizio (1 tháng 12, 1963): AAS 56 (1964), 28.

[72] FD 65.

[73] Bài Giảng trong Thánh Lễ với Người Trẻ ở Sydney (2 tháng 12, 1970): AAS 63 (1971), 64.

[74] Tự Thú, I, 1, 1: PL 32, 661.

[75] God is Young. A Conversation with Thomas Leoncini, New York, Random House, 2018, 4.

[76] FD 68.

[77] Buổi Gặp Gỡ những Người Trẻ ở Cagliari (22 thánh 9, 2013): AAS 105 (2013), 904-905

[78] Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá, Pauline Books and Media, 2003, pp. 9, 13.

[79] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THUỴ SỸ, Prendre le temps: pour toi, pour moi, pour nous, 2 tháng 2, 2018.

[80] X.THÁNHTHOMAS AQUINAS, Tồng Lược Thần Học, II-II, q. 23, art. 1.

[81] Huấn Từ dành cho Những Người Tình Nguyện trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXXiV tại Panama (27 tháng 1, 2019)L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1, 2019, 11.

[82] THÁNH OSCAR ROMERO, Bài Giảng (6 tháng 11, 1977), in Su Pensamiento, I-II, San Salvador, 2000, p. 312.

[83] Huấn Từ Khai Mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXXIV tại Panama (24 tháng 1, 2019)L’Osservatore Romano, 26 tháng 1, 2019, 12.

[84] X. Buổi Gặp Gỡ Người Trẻ ở Đền Thờ Quốc Gia Maipú, Santiago de Chile (17 tháng 1, 2018)L’Osservatore Romano, 19 tháng 1, 2018, 7.

[85] X. ROMANO GUARDINI, Die Lebensalter.  Ihre ethische und pädagogische Bedeutung, Würzburg, 3rd ed., 1955, 20.

[86] Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3, 2018), 11.

[87] Bài Trường Ca Thiêng Liêng, Red. B, Prologue, 2.

[88] Ibid., XIV-XV, 2.

[89] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC RWANDA, Thư của các Giám Mục Công Giáo Rwanda gửi các Kitô Hữu trong Năm Hoà Giải Ngoại Thường, Kigali (18 tháng 1, 2018), 17.

[90] Chảo Mừng Người Trẻ tại Trung Tâm Văn Hóa Cha Félix Varela ở Havana (20 thánh 9, 2015)L’Osservatore Romano, 21-22 thánh 9, 2015, 6.

[91] FD 46.

[92] Huấn Từ trong Buổi Canh Thức of the Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXVIII tại Rio de Janeiro (27 Thánh 7, 2013): AAS 105 (2013), 663.

[93] Ustedes son la luz del mundo. Address in Cerro San Cristóbal, Chile, 1940. The text can be found at: https://www.padrealbertohurtado.cl/escritos-2/.

[94] Bài Giảng trong Thánh Lễ, Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXVIII tại Rio de Janeiro (28 Thánh 7, 2013): AAS 105 (2013), 665.

[95] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO ĐẠI HÀN, Thư Mục Vụ nhân dịp Kỷ Niệm lần thứ 150 cuộc Tử Vì Đạo trong thời Bắt Đạo Byeong-in (30 tháng 3, 2016).

[96] X. Bài Giảng trong Thánh Lễ, Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXXIV tại Panama (27 tháng 1, 2018): L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1, 2019, 12.

[97]Kinh Hoà Bình”, kinh được gợi hứng bởi Thánh Phanxicô thành Assisi.

[98] Huấn Từ trong Buổi Canh Thức, Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXXIV tại Panama, (26 tháng 1, 2019)L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1, 2019, 6.

[99] FD 14.

[100] X. Thông Điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 145: AAS 107 (2015), 906.

[101] Video Sứ Điệp bằng Video cho Ngày Họpp Mặt Giới Trẻ Ban Xứ Thế Gới tại Panama (17-21 tháng 1, 2019)L’Osservatore Romano, 19 tháng 1, 2019, 8.

[102] FD 35.

[103] X. Ad Adolescentes, I, 2: PG 31, 565

[104] X. POPE FRANCIS AND FRIENDS, Sharing the Wisdom of Time, Chicago, Loyola Press, 2018.

[105] Ibid., 12.

[106] Ibid., 13.

[107] Ibid.

[108] Ibid.

[109] Ibid., 162-163.

[110] EDUARDO PIRONIO, Sứ Điệp cho Giới Trẻ Á Căn Đình tại Đại Hội Giới Trẻ Quốc Gia ở Cordoba, (12-15 thánh 9, 1985), 2.

[111] FD 123.

[112] Das Wesen des Christentums. Die neue Wirklichkeit des Herrn, Mainz, 7th ed., 1991, 14.

[113] Số 165: AAS 105 (2013), 1089.

[114] Huấn Từ trong Buổi Thăm Viếng Good Samaritan Home, Panama, (27 tháng 1, 2019)L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1, 2019, 10.

[115] FD 36.

[116] X. Tông Hiến Veritatis Gaudium (8 tháng 12, 2017), 4: AAS 110 (2018), 7-8.

[117] Huấn Từ Từ tại Buổi Gặp Gỡ với các Sinh Viên và các Đại Diện Thế Giới Học Thuật tại Piazza San Domenico, Bologna (1 tháng 10, 2017): AAS 109 (2017), 1115.

[118] FD 51.

[119] Ibid., 47.

[120] Sermo 256, 3: PL 38, 1193.

[121] FD 47.

[122] Diễn Từ dành cho Phái Đooàn của Thế Vận Hội Đặc Biệt Thế Giới (16 tháng 2, 2017)L’Osservatore Romano, 17 tháng 2, 2017, 8.

[123] Ad Adolescentes, VIII, 11-12: PG 31, 580.

[124] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á Căn Đình, Declaración de San Miguel, Buenos Aires, 1969, X, 1.

[125] RAFAEL TELLO, La nueva evangelización, II (Appendices I and II), Buenos Aires, 2013, 111.

[126] X. . Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 44-45: AAS 105 (2013), 1038-1039.

[127] FD 70.

[128] Ibid., 117.

[129] Ibid., 4.

[130] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 124: AAS 105 (2013), 1072.

[131] Ibid., Số 122, 1071.

[132] FD 9.

[133] Tài Liệu của Buồi Họp Tiền Thượng Hội Đồng để Chuẩn Bi cho Thương Hội Đồng Giám Mục Thường Kỳ XV, Rome (24 tháng 3, 2018), 12.

[134] Ibid., 10.

[135] FD 15.

[136] Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3, 2018), 2.

[137] Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 11.

[138] Huấn Từ trong Buổi Canh Thức, XXXIV Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại Panama (26 tháng 1, 2019)L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1, 2019, 6.

[139] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 273: AAS 105 (2013), 1130.

[140] THÁNH PHAOLÔ VI, Thông Điệp Populorum Progressio (26 tháng 3, 1967), 15: AAS 59 (1967), 265.

[141] [141] Meditación de Semana Santa para jóvenes, written aboard a cargo ship returning from the United States in 1946 (https://www.padrealbertohurtado.cl/escritos-2/).

[142] Gặp Gỡ những Người Trẻ Umbria tại Assisi (4 tháng 10, 2013): 105 (2013), 921.

[143] Tông Huấn Hậu Thương Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (19 tháng 3, 2016), 150: AAS 108 (2016), 369.

[144] Huấn Từ dành cho Người Trẻ từ Giáo Phận Grenoble-Vienne (17 thánh 9, 2018): L’Osservatore Romano, 19 thánh 9, 2018, 8.

[145] FD 32.

[146] Gặp Gỡ những Người Tình Nguyện, XXVIII Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại Rio de Janeiro (28 Thánh 7, 2013): Insegnamenti 1, 2 (2013), 125.

[147] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC COLOMBIA, Mensaje Cristiano sobre el matrimonio (14 May 1981)..

[148] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO HOA KỲ, Con Cái Sự Sáng: Một Kế Hoạch Mục Vụ cho Mục Vụ Thanh Niên (Young Adults), tháng 11, 12, 1996, Phần 1, 3.

[149] Thông Điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 128: AAS 107 (2015), 898.

[150] Ibid., 125: AAS 107 (2015), 897.

[151] FD 40.

[152] Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3, 2018), 167.

[153] Ibid., 168.

[154] Ibid., 170.

[155] FD 108.

[156] Ibid.

[157] Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3, 2018), 171

[158] Ibid., 172.

[159] Huấn Từ của ĐTC Phanxicô trong Buổi Canh Thức Chẩn Bị cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXXIV, Papal Basilica of Saint Mary Major (8 tháng 4, 2017): AAS 109 (2017), 447.

[160] ROMANO GUARDINI, Die Lebensalter. Ihre ethische und pädagogische Bedeutung, Würzburg, 3rd ed., 1955, 20.

[161] X. Tông Huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3, 2018), 169.

[162] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 222: AAS 105 (2013), 1111.

[163] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Hậu Thương Hội Đồng Giám Mục Pastores Dabo Vobis (25 tháng 3, 1992), 10: AAS 84 (1992), 672.

[164] Cầu Nguyên Canh Thức với Những Người Trẻ Ý tại Circus Maximus in Rome (11 tháng 8, 2018)L’Osservatore Romano, 13-14 tháng 8, 2018, 6.