Học Kinh Thánh của Cha Carôlô Hồ Bạc Xái: Luca Chương 22-24

print

Học Kinh Thánh của Cha Carôlô Hồ Bạc Xái: Luca Chương 22-24

 Bài đọc thêm.

BÀI 93: GIUĐA PHẢN THẦY (22,1-6)

BÀI 94: CHUẨN BỊ TIỆC LY (22.7-13)

BÀI 95: TIỆC LY – DIỄN TỪ GIÃ BIỆT (22,14-38)

BÀI 96: TRÊN NÚI CÂY DẦU (22,39-53)

BÀI 97: TRƯỚC TÒA ÁN ĐẠO (22,54-23,1)

BÀI 98: TRƯỚC PHILATÔ VÀ HÊRÔĐÊ (23,2-25)

BÀI 99: ĐƯỜNG THẬP GIÁ, HÀNH HÌNH, ĐÓNG ĐINH (23,26-49)

BÀI 100: TÁNG XÁC (23,50-56)

BÀI 101: NGÔI MỒ TRỐNG (24,1-12)

BÀI 102: HAI MÔN ĐỆ ĐI LÀNG EMMAU (24,13-35)

BÀI 103: HIỆN RA CHO 11 TÔNG ĐỒ – SAI ĐI TRUYỀN GIÁO (24,36-53)

 PHẦN VII

TƯỜNG THUẬT CHỊU NẠN

Bài đọc thêm

CUỘC CHỊU NẠN CỦA ĐỨC GIÊSU THEO THÁNH LUCA

(Lc 22,14-23,56)

            4 quyển Tin Mừng đều tường thuật cuộc chịu nạn của Đức Giêsu, mỗi bài chứa đựng những suy nghĩ độc đáo của tác giả. Bài tường thuật chịu nạn theo Thánh Lc chứa đựng những suy nghĩ độc đáo của ngài qua một số chi tiết mà chỉ một mình ngài ghi nhận.

1/ Một mình Lc ghi nhận Đức Giêsu lo sợ đến toát mồ hôi và Thiên Chúa phải sai thiên thần xuống nâng đỡ tinh thần Ngài (Lc 22,43-44 so sánh với Mt 26,38-46; Mc 14,32-42).

2/ Cả 4 quyển Tin Mừng đều ghi nhận việc Phêrô chém đứt tai một người trong bọn đến bắt Đức Giêsu, nhưng một mình Lc ghi thêm chi tiết Đức Giêsu chữa lành cho hắn (Lc 22,50-51 so sánh với Mt 26,51; Mc 14,47; Ga 18,10-11)

3/ Sau khi Phêrô chối Thầy, ông đã hối hận. Nhưng một mình Lc ghi nhận Phêro hối hận lúc Đức Giêsu đưa mắt âu yếm nhìn ông (Lc 22,61 so sánh với Mt 26,75; Mc 14,72; Ga 18,27).

4/ Cả 4 Tin Mừng đều ghi việc Đức Giêsu vác thập giá, nhưng một mình Lc ghi thêm chi tiết có Simon Kyrênê vác thập giá ‘theo sau’ Đức Giêsu (Lc 23,26 so sánh với Mt 27,32; Mc 15,21; Ga 19,17). Trong ngôn ngữ Tin Mừng, ‘theo sau’ có nghĩa là ‘làm môn đệ’ Simon là hình mẫu nững người môn đệ Đức Giêsu.

5/ Một mình Lc ghi nhận cảnh Đức Giêsu dừng lại an ủi các phụ nữ đang than khóc (Lc 23,28-31 so sánh với Mt 27,33-34; Mc 15,21-23; Ga 19,17-18)

6/ Một mình Lc chép lời Đức Giêsu xin tha cho các lý hình (Lc 23,34 so sánh với Mt 27,35; Mc 15,24-25; Ga 19,23-24). Khi các sách Công vụ Tông đồ , tường thuật cái chết của Têphanô. Lc chép lời cầu nguyện của Têphanô trước khi chết giống lời cầu nguyện của Đức Giêsu.

7/ Một mình Lc phân biệt trong hai tên gian ác cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu, có một tên lên tiếng bênh vực Ngài, và Đức Giêsu đã hứa ban thiên đàng cho anh (Lc 23,39-43 so sánh với Mt 24,44; Mc 15,32).

     Qua những chi tiết trên, chúng ta hiểu được Đức Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Lc:

     – Là một Đức Giêsu có nhiều nhân tính: cảm thấy cố đơn cần được nâng đỡ (chi tiết 1).

     – Nhưng dù yếu đuối, Đức Giêsu quên nỗi khổ của mình để quan tâm cứu chữa người khác: tên đầy tớ (chi tiết 2), Phêrô (chi tiết 3), các phụ nữ (chi tiết 5), các lý hình (chi tiết 6), tên trộm kành (chi tiết 7).

     Và Lc khuyên mỗi người chúng ta, nếu muốn làm môn đệ Đức Giêsu thì phải:

     * Làm như Simon Kyrênê vác thập giá đi theo Đức Giêsu (chi tiết 4).

     * Làm như Têphanô: tha thứ cho những kẻ làm khổ mình (chi tiết 6)

BÀI 93: GIUĐA PHẢN THẦY (22,1-6)

            Trong Đền thờ, Đức Giêsu vừa tiên báo án phạt Giêrusalem (21,20) và những vị hữu trách của thành này (20,19). Việc này khiến những người đó càng căm ghét Ngài và tìm cách hại Ngài. Tuy nhiên Đức Giêsu luôn là kẻ chủ động tình hình. Chỉ khi tới giờ đã định thì kẻ thù mới có thể ra tay mà thôi. Và bây giờ chính là giờ đó.

c 1 Hoàn cảnh là Lễ Bánh không men, cũng trùng với Lễ Vượt qua, cuộc lễ tưởng niệm việc Thiên Chúa giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai cập.

c 2b Từ lúc Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy trong Đền thờ (19,47-48), Ngài đã nói chuyện với các Thượng tế và kinh sư nhiều lần và về nhiều vấn đề (20,1-47), nhưng họ vẫn không tiến bộ chút nào trong sự hiểu biết về con người và sứ mạng của Ngài. Trái lại họ luôn muốn hại Ngài. Tuy nhiên họ chưa biết làm sao để hại. Hôm nay cơ hội đến với họ: Giuđa.

c 3 Giuđalà công cụ của Satan. Còn nhớ. theo quan điểm của Lc, Satan đã rời Đức Giêsu sau 3 lần cám dỗ Ngài thất bại. Bây giờ nó quay lại, dùng chính một người tông đồ của Ngài để hại Ngài.

c 4 Giuđa đi nói chuyện với các Thượng tế và lãnh binh đền thờ về cách thức ‘nộp’ Ngài: Trong các sách Tin Mừng, động từ ‘nộp’ làm nổi bật ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu như một cuộc hiến tế.

c 5-6 Hai bên đã đi đến thỏa thuận: Giuđa nhận tiền và tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu cho họ. Một làn nữa Lc dùng động từ ‘nộp’.

BÀI 94: CHUẨN BỊ TIỆC LY (22.7-13)

c 7 – Câu này xác định thời điểm của sự việc, đó là “ngày phải sát tế chiên vượt qua”. Lc xác định việc này để cho thấy ý nghĩa của nó có liên quan tới ý nghĩa lễ vượt qua. Sau này Phaolô sẽ nói rõ ra rằng ‘Đức Kitô, Lễ Vượt qua của chúng ta, đã được sát tế’ (1Cr 5,7-8).

     * Tuy nhiên có một điểm quan trọng mà các sách Tin Mừng chưa xác định rõ là bữa tiệc ly này diễn ra vào ngày thứ mấy của tuần. Chúng ta nên biết rằng ngày chính lễ vượt qua lầngỳ 14 tháng Nisan. Năm đó ngày này là thứ Bảy (Ga 19,31). Người Do thái có thói quen ăn tiệc vượt qua (trong đó phần chủ yếu là ăn thịt chiên) vào ngày áp (năm đó là thứ Sáu). Tường thuạt của ba Tin Mừng nhất lãm khiến chúng ta có cảm tưởng là Đức Giêsu ăn tiệc vượt qua vào hôm thứ Sáu ấy (như mọi người Do thái khác). Tuy nhiên điều này không thể được, vì thứ Sáu là ngày Ngài bị giết chết rồi. Vậy thì năm đó Đức Giêsu đã ăn tiệc vượt qua sớm hơn một ngày, tức là ngày thứ Năm.

c 8-13 Trong các đoạn Tin Mừng nhất lãm thuật chuyện này, chỉ có Lc ghi rõ tên hai môn đệ được Đức Giêsu sai đi chuẩn bị bữa tiệc, là Phêrô và Gioan.

     – Các chi tiết trong những câu này hơi lạ lùng:

  1. a) tự nhiên gặp một người đang đội vò nước.
  2. b) mà người đó lại là đàn ông (thông thường đi lấy nước là việc của phụ nữ).
  3. c) người đó chỉ cho một căn phòng đã dọn sẵn sàng (về việc tìm phòng: những người Do thái từ chỗ khác về hành hương Giêrusalem phải lo tìm một phòng để ăn tiệc Vượt qua).

     Ta sẽ hiểu những chi tiết lạ lùng trên nếu chú ý tới 2 điều sau:

     * Chuyện này được viết theo mẫu của chuyện trong 1Sm 10,1-10 (ngôn sứ Samuel chỉ trước cho Saulê những chi tiết lạ lùng mà ông sẽ gặp để ông tin rằng Thiên Chúa đã chọn ông làm vua Israel)

     * Chuyện này và chuyện Đức Giêsu chuẩn bị vào thành Giêrusalem giống nhau.

     Như thế ngụ ý của cách viết này: Đức Giêsu là một tiên tri thấy trước từng chi tiết sự việc tương lai. Ngoài ra Đức Giêsu coi trọng sự việc sắp tới cho nên tự mình thu xếp từng chi tiết của sự việc đó. (cũng có thể có một giải thích rất tự nhiên là: Đức Giêsu đã có hẹn trước với người sẽ cho Ngài mượn phòng nên đã thỏa thuận với người đó về những ám hiệu cho các môn đệ dễ nhận ra).

Qua tường thuật ngắn này Lc muốn nói: Đức Giêsu chính là Con Chiên Vượt qua mới, sẽ dùng cái chết của Ngài để thực hiện một cuộc Giải phóng mới cho mọi người.

BÀI 95: TIỆC LY – DIỄN TỪ GIÃ BIỆT (22,14-38)

            Đoạn này gồm nhiều chuyện:

                        * Ăn tiệc vượt qua (cc 14-18).

                        * Lập phép Thánh Thể (cc 19-20).

                        * Tiên báo sự phản bội của Giuđa (cc 21-23).

                        * Bài học phục vụ (cc 24-27).

                        * Phần thưởng cho các Tông đồ (cc 28-30).

                        * Tiên báo Phêrô chối Thầy (cc 31-34).

                        * Tiên báo tới giờ chiến đấu quyết liệt (cc 35-38).

A- ĂN TIỆC VƯỢT QUA (14-18)

c 14 “Đức Giêsu vào bàn ăn”: nguyên bản là ‘ngã người xuống’. Như thế đây là một bữa tiệc chứ không phải là bữa ăn thường (trong bữa ăn thường thì người ta ngồi).

c 15-18 Ý nghĩa bữa tiệc vượt qua là tưởng niệm việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai cập. Nhưng bữa tiệc mà Đức Giêsu ăn với các môn đệ hôm nay mang thêm một ý nghĩa mới nữa:

     – Đó là một bữa tiệc chia ly với các môn đệ (Tiệc ly), vì Đức Giêsu cùng ăn với họ ‘trước khi chịu khổ hình’ và ‘sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt qua này nữa’

     -Loan báo một cuộc giải phóng khác, cuộc giải phóng tối hậu và chung cục mà chính Đức Giêsu sẽ thực hiện, như lời Đức Giêsu nói: “cho đến khi lễ này dược nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa”.

B- LẬP PHÉP THÁNH THỂ (19-20)

c 19 – Đức Giêsu làm như một người chủ nhà đang chủ tọa bữa ăn vượt qua. Đang bữa ăn, Ngài đứng dậy, cầm lấy bánh và dâng lên Thiên Chúa một lời nguyện chúc tụng tạ ơn vì những ơn lành đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Sách Haggada (sách lễ nghi) về bữa ăn vượt qua có ghi như sau: ‘Chúng ta mang một món nợ, đó là phải tạ ơn, tán dương… chúc tụng Đấng đã làm những dấu lạ cho cha ông chúng ta và cho hết thảy chúng ta. Ngài đã kéo chúng ta từ nô lệ đến tự do,từ tang tóc đến lễ hội, từ thảm sầu đến mừng vui, từ tối tăm đến ánh sang và từ áp bức đến giải phóng. Và chúng ta hãy hát trước nhan Ngài một bài ca mới. Alleluia’. Sau khi đọc xong lời nguyện này, Đức Giêsu bẻ bánh và phân phát cho những người cùng bàn mỗi người một miếng, đồng thời nói: “Hãy cầm lấy, đây là mình Thầy”.

     – “Mình” tiếng Pháp là corps. Trong tiếng Aram, chữ ‘mình’ này không có nghĩa là xác thịt (chair) mà chỉ toàn vẹn con người. Như thế Đức Giêsu không bảo môn đệ ăn thịt của Ngài, mà là loan báo rằng con người của Ngài sắp bị nộp cho sự chết, và mời gọi họ tham dự vào việc đó.

     – “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”: Câu này không có trong Mt và Mc nhưng cũng được Phaolô nhắc lại (1Cr 11,24-25). Nó định nghĩa Thánh Thể là lễ tưởng niệm cuộc hiến tế của Đức Giêsu.

c 20 Tiếp theo Ngài cầm chén rượu nho và nói ‘chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em”

     – “Giao ước”: Ngày xưa trên núi Sinai, Môsê sau khi kết Giao ước với Thiên Chúa, đã lấy máu bò để đóng ấn Giao ước đó (Xh 24,3-8). Nay Đức Giêsu cũng lập một Giao ước và đóng ấn nó bằng máu Ngài đổ ra trên Thập giá. Chữ ‘mới’ không có trong Mt và Mc, chỉ có trong Thánh Lc (22,20) và Thánh Phaolô (1Cr 11,25).

     – “Máu”: trongtiếng Aram, chữ ‘máu’ có nghĩ là ‘mạng sống’ (Lv 17,14). Như thế Đức Giêsu không bảo các môn đệ uống máu tươi mà là thông phần vào việc Ngài hiến dâng mạng sống trên Thập giá (1Cr 11,17-34).

     Tóm lại, bằng những hành động làm trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu báo trước cái chết sắp tới của Ngài, đồng thời giải nghĩa cái chết ấy và kêu mời các môn đệ thông phần vào đó.

C- TIÊN BÁO SỰ PHẢN BỘI CỦA GIUĐA (21-23)

c 21 “Bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy”: Đức Giêsu không nói rõ tên Giuđa, Câu này cũng ám chỉ tới Tv 41,10 (kẻ cùng ăn với tôi quay lại phản bội tôi) nói tới số phận Người Công Chính của Thiên Chúa

c 22 “Đã hẳn Con Ngài ra đi như đã ấn định. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người”: Ngày nay nhiều người thắc mắc về ‘sự tiền định cho Giuđa phạm tội phản Thầy’. Thực ra điều này các Kitô hữu của cộng đoàn Lc không hề bận tâm (cho nên ta cũng không thể tìm được lời giải đáp trong Tin Mừng Lc). Điều họ quan tâm chính là tại sao Đấng Messia lại bị phản bội và chịu chết. Lc đã trả lời rằng đó chính là kế hoạch của Thiên Chúa đối với Người Công Chính của Ngài.

     – Nhiều người cũng dựa vào câu nàymà cho rằng Đức Giêsu kết án Giuđa, vì thế chắc chắn hắn phải xuống hỏa ngục. Ta cần lưu ý 2 điểm này:

  1. a) Đức Giêsu không hề nêu rõ tên Giuđa
  2. b) Những lời này Ngài thốt ra theo mẫu của những khúc ai ca mà các ngôn sứ thường dùng để than về số phận của mình (Is 1,4). Như thế Đức Giêsu chỉ than cho mình chứ không phải Ngài lên án Giuđa.

D- BÀI HỌC PHỤC VỤ (24-27)

c 24 Các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người được coi là lớn nhất. Chuyện này Mt và Mc ghi lại trong một bối cảnh khác (Mt 20,25-27; Mc 10,42-45), còn Lc lại cho vào diễn từ sau bữa tiệc vượt qua. Có lẽ vì những lời này của Đức Giêsu thường được nhắc lại trong các buổi bẻ bánh thời GH sơ khai.

c 25 Để giáo dục các môn đệ mình, trước tiên Đức Giêsu nói tới cách cư xử của các thủ lãnh thế gian (cụ thể là các quan chức của đế quốc Rôma). Họ hay lộng quyền và độc tài.

c 26 – Phần các môn đệ Đức Giêsu, những lãnh tụ tương lai của GH thì phải cư xử khác hẳn: “Ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất”. Trong xã hội Do thái, người nhỏ tuổi nhất là người đứng cuối cùng trong phẩm trật xã hội. Những lãnh tụ GH phải sẵn sàng phục vụ người ta trong tư thế như vậy.

c 27 – Và Đức Giêsu đưa gương của chính Ngài: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”.

E- PHẦN THƯỞNG CHO CÁC TÔNG ĐỒ (28-30)

            Tiếp theo, Đức Giêsu hứa sẽ thưởng cho các tông đồ, là những người ‘vẫn một lòng gắn bó với Thầy giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan’. Phần thưởng đó là họ được chia sẻ vương quốc mà Chúa Cha sẽ ban cho Ngài sau khi Ngài sống lại (‘trao vương quốc cho anh em’, ‘đồng bàn ăn uống với Thầy trong vương quốc’‘ngự tòa xét xử 12 chi tộc Israel’)

            Lời hứa này rất đáng ngạc nhiên vì Đức Giêsu nói ngay sau khi báo tin Giuđa sắp phản bội 21-23) và ngay trước khi Ngài lại báo tin Phêrô sắp chối Thầy (31-34). Nhưng ta hãy lưu ý:

  1. a) Giuđa đã ‘bỏ chỗ’ của hắn và sẽ có một người khác thay vào đó (Cv 1,15-26).
  2. b) Còn Phêrô thì sau khi chối Thầy đã biết ăn năn nên được tha thứ.

            Như thế, đây là lời hứa ban cho các tông đồ vẫn luôn trung tín (‘một lòng gắn bó’) với Ngài, mà lòng trung tín được xét theo đường dài lịch sử cuộc đời chứ không theo những yếu đuối nhất thời.

F- TIÊN BÁO PHÊRÔ CHỐI THẦY (31-34)

c 31 “Simon, Simon ơi”: Khi báo tin Phêrô sẽ chối Thầy. Đức Giêsu gọi ông bằng tên cũ, tên của con người cũ.

c 32b – Đức Giêsu cho biết ông sẽ rơi vào bẫy của Satan, nhưng cũng cho biết Ngài sẽ cầu nguyện cho ông và ông sẽ trở lại, đồng thời Ngài còn bày tỏ hy vọng sau khi trở lại ông sẽ củng cố anh em.

c 34“Hôm nay gà chưa kịp gáy thì đã 3 lần anh chối là không biết Thầy”: Lời này không giống nhau nơi các Tin Mừng.

Trong Mt 26,34 là ‘khi gà chưa gáy 2 lần con đã 3 lần chối Thầy’

Trong Ga 13,38: ‘Khi gà chưa gáycon đã 3 lần chổi Thầy’

Nhưng chú ý tất cả đều nói Phêro sẽ chối Thầy ‘Khi gà chưa gáy’. Gà gáy là kiểu nói trời sáng. Ý Đức Giêsu là Phêrô sẽ chối Thầy trước khi trời sang.

G- GIỜ CHIẾN ĐẤU QUYẾT LIỆT (35-38)

            Đức Giêsu kết thúc diễn từ giã biệt bằng cách so sánh hai giai đoạn trong sứ vụ của Ngài và của các môn đệ.

c 35-36a Giai đoạn đầu của sứ vụ (‘Mùa xuân Galilê’). Khi đó các môn đệ không cần thủ sẵn tiền bạc, giày dép (9,3-4) thế mà vẫn có đủ mọi sự cần thiết, vì khi đó các ông đi đến đâu cũng được đón tiếp nồng nhiệt.

c 36b Giai đoạn hiện tại: một giai đoạn thù nghịch, một thời kỳ khủng hoảng (thời kỳ Đức Giêsu chịu nạn, mà cũng là thời sau này GH bị bắt bớ). Bởi đó Đức Giêsu sửa đổi các chỉ thị người tông đồ cần phải mang theo tiền (vì không ai đón rước họ vào nhà nữa); còn phải mang theo bao bị (để đựng thức ăn, vì người ta sẽ không chịu bán cho họ nữa); hoàn cảnh khó khăn đến nỗi thay vì gậy, họ phải thủ sẵn gươm, thậm chí nếu chưa có gươm thì phải bán áo đi mà mua.

c 37 Lý do khiến hoàn cảnh đổi ngược hoàn toàn như thế là Đức Giêsu ‘bị liệt vào hàng phạm pháp’. Tuy nhiên các môn đệ cũng đừng ngạc nhiên về điều đó, bởi vì chính hiên Chúa đã dự định như thế và đã nói trước trong Thánh Kinh (Lời Ngài nói là trích từ Is 53,12).

c 38 Các môn đệ chẳng hiểu ý Đức Giêsu gì cả. Họ cứ tưởng là Ngài sắp ‘khởi nghĩa’ nên báo cáo là đã có sẵn 2 thanh gươm! Đức Giêsu thấy không cần giải thích dài dòng với họ. Ngài nói ‘Đủ rồi’ chỉ là để cắt đứt câu chuyện

BÀI 96: TRÊN NÚI CÂY DẦU (22,39-53)

c 39b – “Ngài đi ra núi Ôliu như đã quen”: Đức Giêsu quen tới nơi này để cầu nguyện, nhất là ban đêm (21,37).

     – Nhưng lần này Ngài không hoàn toàn đi một mình mà có đem theo các môn đệ. Mc 14,33 cho biếtđó là 3 môn đệ thân tín mà Ngài đã một số lần đem riêng theo: Phêrô, Giacôbê và Gioan.

c 41 “Ngài quỳ gối”: tư thế cầu nguyện thông thường là đứng thẳng. Đức Giêsu quỳ gối có lẽ vì lần này Ngài cầu nguyện khẩn thiết hơn.

c 42 “Cha ơi”: Abba, tiếng thân mật của trẻ con gọi cha mình (ba ba). Nên lưu ý rằng người Do thái không bao giờ dám gọi Thiên Chúa là Abba trong những lời kinh nguyện. Đức Giêsu dám gọi chứng tỏ một sự thân mật tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha.

     –  “Xin cho con khỏi uống chén này”: Trong Thánh Kinh ‘chén’ tượng trưng cho đau khổ(Tv 74,9; Is 51,17).Lúc đó nhân tính yếu đuối của Ngài nổi lên mạnh mẽ khiến Ngài sự cuộc thương khó sắp tới. Nhưng đàng khác lòng hiếu thảo thúc đẩy Ngài thi hành trọn ý Chúa Cha. Nghĩa là Ngài đang bị giằng co. Nhưng cuối cùng Ngài bỏ ý riêng mà chọn ý Chúa Cha.

c 43 – Một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Đức Giêsu: chỉ có Lc ghi lại chi tiết này, nhằm so sánh Đức Giêsu với Êlia (1V 19,4-8).

c 44 – Mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất: chi tiết này cũng riêng của Lc.

c 45“Các ông đang ngủ, vì buồn phiền”: Lc tìm lý do chữa lỗi cho các môn đệ (Mc 14,40 cũng bàu chữa tương tự ‘Vì mắt họ nặng nề’).

     – “Dậy mà cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”: Đây là lần thứ hai trước đoạn ngắn này Đức Giêsu nói tới sự cần thiết phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.

c 47“Kẻ dẫn đầu là Giuđa, một người trong Nhóm 12”: Lc (và cả Mc) vẫn còn coi Giuđa là tông đồ. Nhưng phần Giuđa trong tư cách tông đồ mà làm như vậy thì càng khả ố.

     – “Hắn lại gần Đức Giêsu để hôn Ngài”: a) Hôn là cách chào thông thường của môn đệ đối với Thầy; b) là cử chỉ thân ái giữa những người thân nhau.

     Vì toán lính chưa biết mặt Đức Giêsu nên Giuđa ra ám hiệu quy ước ấy.

c 48 “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn để nộp Con Người sao?”: Đức Giêsu nói một cách hiền từ đánh thức lương tâm của Giuđa.

c 50 “Một môn đệ rút gươm chém đứt tai phải của tên đầy tớ vị Thượng tế”:  Ga cho biết người ấy là Phêrô và tên đầy tớ ấy là Mancô (Ga 18,10).

c 51 – Nhưng Đức Giêsu vẫn nhân từ: Ngài bảo môn đệ ấy ngừng tay, và Ngài còn chữa lành tên đầy tớ ấy.

c 52 “Tên trộm cướp”: có lẽ là một người ‘đoàn trưởng cách mạng’ như Baraba (Ga 18,40). Vì thế mà Đức Giêsu rơi vào tình trạng ‘phạm pháp’. Hằng ngày Ngài vẫn ‘giảng dạy trong Đền thờ’ cách công khai nhưng họ đã không bắt, nay lại vào vườn Cây Dầu lùng bắt như bắt một tên tội phạm.

c 53 “Nhưng đây là giờ của các ông và quyền lực của tối tăm”: Việc Đức Giêsu bị bắt như một tên tội phạm là một sự vấp phạm đối với các tín hữu. Nhằm xóa bỏ cớ vấp phạm đó, Lc ghi lời Đức Giêsu cho biết đó chỉ là chiến thắng tạm thời của Satan (Còn Mc 14,49 ghi ‘Nhưng thế là ứng nghiệm lời Thánh Kinh’ để giải thích Đức Giêsu bị bắt là đúng chương trình của Thiên Chúa đã được Thánh Kinh nói trước).

BÀI 97: TRƯỚC TÒA ÁN ĐẠO (22,54-23,1)

            Tường thuật Đức Giêsu trước tòa án Do thái gồm ba cảnh. Hai cảnh đầu diễn ra ban đêm:

                        – Phêrô chối Thầy (cc 54-62).

                        – Đức Giêsu bị hành hạ (cc 63-65).

            Cảnh thứ ba diễn ra lúc tảng sáng: Thượng Hội đồng nhóm họp (cc 66-71).

            Như thế Lc khác với  Mc (chỉ có 2 phiên họp của Thượng Hội đồng tại dinh Thượng tế vào ban đêm và tảng sáng), và Ga (Đức Giêsu bị điệu ra trước Thượng Tế Khanna và Thượng Tế Caipha đều vào ban đêm.

A- PHÊRÔ CHỐI THẦY (54-62)

c 54 – Đang lúc Đức Giêsu bị bắt dẫn đi thì Phêrô ‘đi theo’, đó là đặc tính của ông (5,27-28  22,39); nhưng lần này ông theo ‘xa xa’.

c 56-62 Về 3 lần chối của Phêrô:

            – Lần 1: ‘Tôi có biết ông ấy đâu chị’.

            – Lần 2: ‘Này anh, không phải tôi đâu’.

            – Lần 3: ‘Này anh,tôi không biết ông nói gì’.

     Ta thấy 2 lần đầu (lần thứ nhất chối trước một phụ nữ; lần thứ hai trước một người đàn ông), ông phủ nhận biết Đức Giêsu và là môn đệ Ngài, tức là cắt đứt sự liên hệ với Đức Giêsu và các môn đệ khác vì cho rằng liên hệ đó sẽ có hại cho ông; lần thứ ba ông bảo không hiểu người ta nói gì cả. Mặc dù Lc đã tránh ghi chi tiết Phêrô đã thề,nhưng vẫn ghi đúng sự kiện Phêrô đã chối trước mặt ‘từ hai nhân chứng trở lên’ (Đnl 19,15), để cho thấy sự trầm trọng của việc làm này.

     – Về tiếng gà gáy: so sánh 4 sách Tin Mừng (Mt 26,69-75; Lc 22,26-62; Ga 18,17. 25,27) thì ta thấy Mt, Lc và Ga chỉ ghi một lần thôi vì một chi tiết mà Đức Giêsu đã báo trước nay xảy ra đúng như thế mà Phêrô chưa hối hận thì thực khó hiểu.

Tại sao Mc ghi 3 lần? Có lẽ Mc có trong tay nhiều mẩu chuyện thuộc nhiều truyền thông khác nhau và ông đã phối hợp chúng lại. Cũng nên ghi chú rằng lời Đức Giêsu báo trước việc Phêrô chối Thầy trong Mc là ‘gà gáy 2 lần’ (Mc 14,30). Còn trong các Tin Mừng kia chỉ nói ‘gà gáy’ mà thôi (Mt 26,34; Lc 22,34; Ga 38)

       – “Đức Giêsu quay lại nhìn ông”: chi tiết riêng của Lc cho thất Đức Giêsu là người rất nhân từ, vẫn còn thương đến người môn đệ yếu đuối của mình. Chính cái nhìn đã giúp Phêrô sám hối: ‘Ông sực nhớ lời Chúa… và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết’.

B- ĐỨC GIÊSU BỊ HÀNH HẠ (63-64)

            Toán lính bảo Đức Giêsu ‘nói tiên tri’, nghĩa là họ không tin Ngài là một tiên tri. Thế nhưng mỉa mai thay chính trong lúc đó Ngài mới thực sự là tiên tri vì đang ứng nghiệm nhiều lời tiên tri chính Ngài đã nói trước, như:

a/ Một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được (13,33).

b/ Lời tiên tri về việc Phêrô chối Thầy (22,34).

C- TRƯỚC THƯỢNG HỘI ĐỒNG (22,66-23,1)

c 66 – Thượng Hội Đồng là Tòa án tối cao của do thái gồm 71 thành viên thuộc 3 giới Tư tế (dòng tộc Sađốc, 1V 2,35), Kinh sư (từ mọi giai cấp trong dân miễn là thông luật), và Kỳ mục.

     – Hãy chú ý cách viết của Lc: trong phiên xử này không có người chủ tọa (Mc 14,61-64: người chủ tọa là vị Thượng tế), cũng không có nhân chứng (Mc 14,58: có những người làm chứng gian). Lc chỉ ghi nhận cách rõ rang một nhân vật thôi là Đức Giêsu (những nhân vật khác được nói chung là ‘họ’, ‘mọi người’, ‘cử tọa’).

c 67-70 – Cuộc hỏi cung rất ngắn ngủi (không hỏi về lời Đức Giêsu nói sẽ phá Đền thờ: Mc 14,57-58) và tập trung vào bản thân Đức Giêsu: Ngài có thật là Messia không? Và có phải là Con Thiên Chúa không?

     – Thực ra hỏi là cho có hỏi, chứ họ đã nuôi ý định ‘mong bắt quả tang Đức Giêsu lỡ lời để nộp Ngài cho nhà chức trách có thẩm quyền là Tổng Trấn’ (20,20).

     – Đức Giêsu cũng biết thế nên Ngài nói ‘Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin. Tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời’I.

     – Dù vây, Ngài cũng sẽ cho họ biết một điều quan trọng ‘Từ nay Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng’. Họ hỏi Ngài nói thế có phải ngụ ý rằng Ngài là Con Thiên Chúa chăng. Đức Giêsu khéo léo đáp ‘Chính các ông nói’, nghĩa là do tự miệng họ nói ra sự thật.

     – Thế là họ đã tìm ra được cớ để đưa Ngài đên Philatô hầu xin ông này ký án tử.

BÀI 98: TRƯỚC PHILATÔ VÀ HÊRÔĐÊ (23,2-25)

A- TRƯỚC TÒA PHILATÔ (2-7)

c 2 Đức Giêsu bị tố cáo 3 tội:

a/ ‘Xách động dân’

b/ ‘ngăn cản không cho nộp thuế cho Xêsa’: Hai tội này có tính cách chính trị. Ở phía trước Lc đã cho thấy ‘Họ rình rập và sai một số người giả bộ làm người công chính đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giêsu nói lỡ lời để nộp Ngài cho nhà chức trách có thẩm quyền là Tổng trấn’ (20,20), nhưng ‘chúng không tài nào bắt quả tang Ngài lỡ lời trước mặt dân… (nên) làm thinh luôn’ (20,26). Cho nên hai tội danh này chỉ là vu khống, nhằm tác động lên Philatô vì nếu Đức Giêsu quả thật phạm những tội đó tức là Ngài chống lại quyền của hoàng đế La Mã.

c/ Tội thứ ba là ‘xưng mình là Messia, là Vua nữa’: tội danh có tính cách tôn giáo (xưng mình là Messia), nhưng họ cũng liên kết với chính trị (xưng mình là vua), nghĩa là họ muốn Philatô coi Đức Giêsu là một con người nguy hiểm trực tiếp thách thức uy quyền của hoàng đế La Mã.

c 3 Nhưng Philatô không vội tin, ông hỏi Đức Giêsu ‘Ông là vua Do thái sao?’. Philatô hỏi vậy là do lời kết án của của các thượng tế. Khi Đức Giêsu đáp ‘Chính Ngài nói đó’, Philatô hiểu đây không phải là vua theo nghĩa chính trị và kết luận rằng Đức Giêsu không có tội.

c 4 Do đó Philatô nói với các Thượng tế ‘Ta xét thấy người này không có tội gì’.

c 5-7 Sau đó, mặc dù các Thượng tế cứ khăng khăng cáo tội. Philatô vẫn giữ kết luận của mình không hề hỏi cung Đức Giêsu về vấn đề vua nữa. Dựa theo lời các Thượng tế nói Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động ‘từ Galilê đến đây’. Philatô liền giao Đức Giêsu cho kẻ có thẩm quyền ở miền ấy, tức là Hêrôđê Antipas, lúc ấy đang có mặt tại Giêrusalem.

B- TRƯỚC TÒA HÊRÔĐÊ (8-12)

c 8 – Cảnh thứ hai gồm hai nhân vật chính: một là Hêrôđê. Đây là Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê Cả. Thái thú miền Galilê (3,1); hai là Đức Giêsu. Cảnh này đã được Lc chuẩn bị từ lâu trước bởi vì không phải đến hôm nay Hêrôđê mới ‘muốn gặp’ Đức Giêsu mà đã muốn như vậy ‘từ lâu’. Ông cũng đã có suy nghĩ về Ngài (9,7-9). Động từ ‘gặp’ đã được dùng ở 9,9, nay lại được tác giả dùng 2 lần trong câu 23,8. Ông cũng mong được ‘xem Ngài làm một vài phép lạ’.

c 9 – Những câu hỏi của Hêrôđê chẳng có nội dung nào đáng kể nên Đức Giêsu không thèm trả lời. Ta nên nhớ rằng Đức Giêsu đã từng từ chối làm phép lạ theo yêu cầu của người hiếu kỳ (11,16-29).

c 11 – Hêrôđê quay sang chế diễu Ngài cùng với bọn lính bằng cách khoác cho Ngài một chiếc áo rực rỡ, nhằm nói Ngài là một ông vua cỏ, rồi giao Ngài lại cho Philatô.

c 12 – Nhờ vụ án Đức Giêsu mà từ hôm đó Hêrôđê và Philatô thân thiện lại với nhau sau một thời gian thù nghịch. Trong cuộc chịu nạn, Đức Giêsu đã hòa giải những kẻ thù địch nhau.

C- LẠI RA TRƯỚC TÒA PHILATÔ (13-25)

c 13-16 – Trong đoạn này tội chối từ Đức Giêsu lên tới cao điểm, vì tham gia vụ án gồm có ‘thượng tế, thủ lãnh và dân’. Dân Giêrusalem đòi giết chết Đấng được sai đến với họ!

     – Philatô vẫn nghĩ Đức Giêsu vô tội. Nhưng vì các thượng tế cứ khăng khăng đòi lên án Ngài, nên ông tìm một cách để ve vuốt họ: sẽ đánh đòn Đức Giêsu rồi thả ra. Làm như vậy là Philatô dựa theo một tục lệ thả một người tù vào mỗi dịp lễ lớn.

c 18-25 Khi đó họ đòi thả Baraba. Baraba không phải là một tên cướp thường mà là lãnh tụ một nhóm cách mạng quá khích và đã từng giết người.

     – Cách viết của tác giả trong đoạn này muốn nêu rõ nhiều điều:

a/ Sự xảo trá của những kẻ thù ghét Đức Giêsu, họ đã từng kết án Đức Giêsu xách động dân chúng, nay chính họ xách động dân chúng đòi tha cho một tên sát nhân.

b/ họ quyết tâm giết chết một người vô tội (chữ ‘vô tội’ được tác giả dùng 3 lần trong cc 14-22)

c/ thấy trách nhiệm của ‘tất cả’ dân chúng Giêrusalem (c 18)

d/ và trách nhiệm của các thủ lĩnh Do thái nặng hơn của Philatô.

BÀI 99: ĐƯỜNG THẬP GIÁ, HÀNH HÌNH, ĐÓNG ĐINH (23,26-49)

Có thể chia đoạn này thành 4 phần:

a/ Đường lên núi Sọ            cc 26-32

b/ Đóng đinh                         cc 33-34

c/ Nhục mạ Đức Giêsu        cc 35-38

d/ Đức Giêsu trên thập giá   cc 39-49

A- ĐƯỜNG LÊN NÚI SỌ (26-32)

c 26 – Đúng theo lịch sử thì chính những người lính Rôma điệu Đức Giêsu đến nơi hành hình. Nhưng Lc viết là các thủ lãnh Do thái (‘họ’) điệu Đức Giêsu, để cho thấy rõ phần trách nhiệm của họ trong vụ này.

     – Simon xứ Kyrênê vác thập giá:

  1. a) Vì Đức Giêsu đã quá yếu

b)Ngoài ra Lc muốn trình bày Simon như một hình mẫu của người môn đệ: ông ‘vác thập giá’ ‘đi theo’ Ngài. Đó chính là những điều mà Đức Giêsu muốn những môn đệ của Ngài phải làm (9,23  14,27).

c 27-31 Những lời Đức Giêsu nói với các phụ nữ thương khóc Ngài rất giống với những lời Ngài than tiếc cho thành Giêrusalem (19,41-44). Như thế việc Ngài lưu lại Giêrusalem được đánh đấu bằng một lời than tiếc, và việc Ngài kết thúc chuyến lưu lại ấy cũng được đánh dấu bằng một lời than tiếc nữa.

  – Chi tiết họ ‘vừa đi vừa đấm ngực vừa than khóc’ cho ta thấy dân chúng sau khi đòi lên án tử Đức Giêsu nay đã bắt đầu hối hận.

  – “Phúc thay những đàn bà hiếm hoi, những lòng dạ không sinh không đẻ”: vào thời mà đông con được coi là một mối phúc thì câu này quả là đi ngược hẳn lại. Lý do những người son sẻ cảm thấy hạnh phúc hơn những người có con là vì tai họa sắp giáng xuống trên đầu họ.

  – “Cây xanh mà người ta còn đối xử như thế thì cây khô héo sẽ ra sao”: ‘Cây xanh’ chính là Đức Giêsu, một kẻ vô tội mà bị giết chết. ‘Cây khô héo’ là dân thành Giêrusalem, họ đã không chấp nhận Đấng Thiên Chúa sai đến, mà còn đóng đinh Ngài.

B- ĐÓNG ĐINH (33-34)

c 33 – Nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh được gọi là ‘đồi Sọ’ vì có hình dáng giống chiếc sọ người.

     – Sự hiện diện của hai tên gian phi bên cạnh Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh Is 53,7 (Đức Giêsu là Người Tôi Tớ) mà chính Đức Giêsu đã từng trích dẫn trong bữa tiệc ly (22,37): Tv 22,19 (Đức Giêsu là Người Công Chính).

     – Lời Đức Giêsu cầu nguyện xin tha cho những kẻ hành hạ Ngài: đây là điều mà những kẻ làm môn đệ Ngài phải noi theo (Têphanô: Cv 7,60).

– Những kẻ hành hạ Ngài ‘chẳng biết’, sự chẳng biết này không phải không có lỗi, nhưng sau Phục sinh Thiên Chúa dùng lời rao giảng của các Tông đồ để phá tan sự chẳng biết đó và mời họ sám hối tội lỗi của họ (Lời rao giảng của Phêrô: Cv 3,17-19).

C- ĐỨC GIÊSU BỊ NHỤC MẠ (35-38)

c 35 “Dân chúng đứng nhìn, các thủ lãnh chế nhạo”: Lc phân biệt hai thái độ khác nhau của dân chúng và các thủ lĩnh.

     Hia động từ ‘nhìn xem’ và ‘chế nhạo’ cũng là một cách trích dẫn mặc nhiên Tv 22,8 ‘Mọi người nhìn tôi đều chế nhạo tôi’. Như thế, theo Lc cảnh này không phải là một cảnh tự nhiên mà là thực hiện lời tiên tri tring Sách Thánh.

     – “Nếu ông thật là Messia, là kẻ ưu tuyển của Thiên Chúa thì hãy tự cứu mình đi”: Đây không phải là một sự công nhận, nhưng là một sự mỉa mai. Ý của các thủ lĩnh là Đức Giêsu chỉ là một kẻ mạo danh Messia.

c 36 Trao giấm: đây cũng là một chi tiết ứng nghiệm Tv 69,22 ‘Lúc tôi khát, chúng đã cho tôi uống giấm’.

c 37 “Nếu ông là vua Do thái”: trong đoạn Tin Mừng này tư cách Vua của Đức Giêsu luôn được Lc nhắc tới. Chữ ‘Vua’ được dùng nhiều lần. Ở đây c 38 và c 42, có kẻ gọi Ngài là vua để chỉ nỉa nai (thủ lĩnh, quân lính), có kẻ gọi thế vì tin thực sự (trộm lành).

D- ĐỨC GIÊSU TRÊN THẬP GIÁ (39-49)

c 39 Mt và Mc đều nói cả hai tên trộm đều chửi bới Đức Giêsu, còn Lc thì nói chỉ có một tên sỉ nhục Ngài thôi.

     Tên trộm dữ này cũng gọi Ngài là Messia, nhưng theo nghĩa mỉa mai.

c 40 Nhưng tên kia lên tiếng mắng lại: đây là một chi tiết riêng của Lc.

c 42 Lạy Đức Giêsu: người trộm lành gọi Ngài bằng tên, chứng tỏ một sự thân tình, một sự phó thác.

     – Xin nhớ đến con: những lời này giống như lời kinh của người hấp hối đọc trong đạo Do thái.

     – Khi Ngài sẽ lên làm vua: người trộm lành in rằng Đức Giêsu là vủa thật, mặc dù hoàn cảnh lúc đó cho thấy một tình thế hoàn toàn ngược lại.

1/ Ý tưởng của đoạn Tin Mừng này là tư cách Vua của Đức Giêsu: có người gọi Ngài là vua chỉ để mỉa mai, có những người gọi Ngài như thế một cách đầy tin tưởng.

2/ Những kẻ mỉa mai Ngài là các thủ lĩnh Do thái và binh lính, tấm bảng phía trên thập giá và tên trộm dữ.Vừa mỉa mai họ vừa khích Ngài hãy ‘điệu võ giương oai’. Đây là cám dỗ mà Đức Giêsu nhiều lần đã gặp (4,3   4.23).

  Đức Giêsu là vua thậtnhưng dứt khoát không làm vua theo kiểu phô trương thế  lực như vậy.

3/ Thái độ của người trộm lành rất đáng ngưỡng mộ: anh đã tuyên xưng Đức Giêsu là vua trong tình thế mà mọi sự xem ra đã sụp đổ hết.

4/ Lời của Đức Giêsu còn nhiều ý nghĩa hơn nữa (c 43)

“Ta nói thật”: công thức mở đầu rất trang trọng chứng tỏ điều Ngài sắp nói rất nghiêm chỉnh.

“Ngay hôm nay”: ơn cứu độ ban cho anh này là lập tức chứ không phải là một sự đợi chờ cho đến sau khi Ngài sống lại, hay cho đến ngày tận thế.

“Anh sẽ được ở với Ta trên thiên đàng”: hạnh phúc thiên đàng chủ yếu là được ở với Chúa, sống trong tình thân thiết của Chúa.

KẾT LUẬN

            Những kẻ mỉa mai, thách thức Đức Giêsu tỏ quyền làm vủa bằng cách xuống khỏi thập giá, nhưng Đức Giêsu chứng tỏ quyền làm vua của mình bằng cách kéo người ta lên với Ngài! Ngay trên thập giá Vua Giêsu đã bắt đầu chinh phục các tâm hồn. Trước hết là người trộm lành, kế đó là viên sĩ quan (23,47), rồi đến dân chúng (23,48).

BÀI 100: TÁNG XÁC (23,50-56)

c 50-51 Lc không nhắc đến các môn đệ Đức Giêsu trong việc mai tang Ngài (so sánh với Mc 6,29: các môn đệ của Gioan Tẩy giả lo mai táng ông). Người đứng ra lo cho Đức Giêsu là một nhân vật mới xuất hiện: Giuse thành Arimathê. Lc mô tả ông với hai nét: “lương thiện” “công chính”. Ông còn “là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa đến”. Như thế ông có điểm giống ông Simêon (2,25) và là một trong những người mà bà Anna đã nói đến (2,38). Mặt khác, tuy là thành viên Thượng Hội Đồng ông ‘đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng’ (22,4-5  22,71  23.1).

c 52 Giuse đến gặp Tổng trấn để xin lãnh xác Đức Giêsu. Lc không ghi lại câu trả lời của Philatô, vì việc trao xác là đương nhiên và hợp với cảm tình Philatô sẵn có với Đức Giêsu.

c 53-54 Lc mô tả việc mai tang cách sơ sài: hạ xác, liệm bằng vải gai và đặt vào mộ đục sẵn trong đá. Không nói đến xức thuốc thơm và bang bằng vải có tẩm thuốc thơm (Ga 19,40). Lý do phải vội vã là vì ‘hôm đó là ngày áp lễ và ngày Sabbat đã ló rạng’.

c 55 Câu này trở lại đề tài mà Lc thường nhấn mạnh: sự hiện diện của các phụ nữ. Với chi tiết họ ‘đã theo Đức Giêsu từ Galilê’. Lc muốn nói họ là những ‘môn đệ’ trung thành; và với chi tiết ‘các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào’, ông cũng muốn nói họ là những nhân chứng quan trọng.

c 56 Rồi các bà về nhà chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Với chi tiết này, Lc chuẩn bị trước cho bài tường thuật sáng Chúa nhật các bà trở lại mồ và được biết Đức Giêsu đã sống lại.

           

PHẦN VIII – TƯỜNG THUẬT PHỤC SINH

 

BÀI 101: NGÔI MỒ TRỐNG (24,1-12)

I- TẦM QUAN TRỌNG

          Như ta đã biết Giêrusalem là một địa điểm trung tâm của tác phẩm Lc. Toàn quyển Tin Mừng là một cuộc hành trình ‘lên Giêrusalem’, toàn quyển Công vụ là một cuộc hành trình của Tin Mừng từ Giêrusalem đến khắp thế giới.

          Tại sao Lc lại coi Giêrusalem là trung tâm? Bởi vì ở đây Đức Giêsu chịu nạn, chịu chết và sống lại. Như thế tường thuật về Đức Giêsu sống lại chính là trung tâm và cao điểm bộ tác phẩm của Lc.

          Cũng nên ghi nhận rằng Lc trình bày biến cố Sống lại và những gì liên can tới nó như diễn ra chỉ trong một ngày, đó là ‘ngày thứ nhất trong tuần’, trong ngày đó, người ta khám phá ngôi mộ trống, các thiên sứ cho biết Ngài đã sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra và liền đó Ngài lên trời.

II- GIẢI THÍCH

c 1”Ngày thứ nhất trong tuần”: tức là ngyà Chúa nhật, chính vì Đức Giêsu đã sống lại trong ngày này, cho nên từ rất sớm GH đã chọn ngày này làm ngày thánh, ngày nghỉ ngơi thay cho ngày Sabbat của người Do thái.

    “Đem thuốc thơm đã chuẩn bị sẵn”: vì lúc liệm xác Đức Giêsu các môn đệ đã làm hơi vội vã (vì sắp tới giờ bắt đầu Lễ Vượt qua), nên sáng Chúa nhật, các bà đem thuốc thơm đến bổ túc việc liệm xác cho đàng hoàng.

c 3 “Khôgn thấy xác Chúa Giêsu đâu nữa”: đây là lần duy nhất Lc dùng từ Chúa Giêsu trong quyển Tin Mừng, nhưng từ này được ông dùng nhiều lần trong Công vụ (Cv 1,21  8,16  11,20  15,11). Ngày Đức Giêsu sống lại, Lc đã lần đầu tiên gọi Ngài là Chúa, chứng tỏ Đức Giêsu phục sinh mang một thân phận mới.

c 4 “Bỗng có hai người”: chú ý chi tiết này không giống nhau nơi các sách Tin Mừng: Mt 28,2.5 nói ‘Một thiên sứ’; Mc 16,5 nói ‘Một thanh niên bận áo trắng’; Ga 20,12 nói ‘hai thiên sứ mặc áo trắng’.

c 5 “Sao đi tìm Đấng Hằng sống giữa người đã chết”:

    – Kiểu nói Đấng Hằng sống (le Vivant): trong nhiều kiểu nói về việc Phục sinh (thức dậy, chỗi dậy) Lc đã chọn kiểu nói Đấng Hằng sống.

    Trong Cựu Ước, Đấng Hằng sống là chính Thiên Chúa (Ds 14,21.26; Đnl 32,40). Như thế theo Tin Mừng Lc (cũng như Phaolô và Gioan: Rm 5,10; 1Cr 15,45; Ga 3,36; 1Ga 5,11) Đức Giêsu đồng hóa với sự sống (vì thế kiểu nói này phản ánh một quan niệm thần học của Lc. Ngoài ra Lc còn chọn kiểu nói này để dễ hiểu hơn cho độc giả Hy lạp vốn quen xem các thần linh là bất tử).

    Cộng với kiểu nói Chúa Giêsu, kiểu nói Đấng Hằng sống đề cao Thiên tính của Đấng Phục sinh.

    Câu hỏi của các thiên sứ có giọng điệu một lời trách. Tại sao trách? Vì các bà tỏ ra đã quên hết những lời tiên tri về việc Messia sẽ sống lại. Nếu các bà nhớ những lời đó thì các bà đã biết đi đâu để tìm Ngài. Đằng này Ngài đã sống lại mà các bà lại đi tìm Ngài nơi những kẻ chết. Đúng ra sự kiện ngôi mộ trống phải khiến các bà nhớ lại những lời tiên tri và hiểu rằng Ngài đã sống lại mới phải.

c 6 “Các bà hãy nhớ lại”: vì lý do trên nên các thiên sứ bảo các bà hãy nhớ lại những lời tiên tri.

c 7 “Ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại”: và các thiên sứ đã trích một lời tiên tri trong Hs 6,2 và Jona 2,1. Theo ý kiến của các nhà chú giải ‘ngày thứ ba’ không mang nghĩa đen.

c 8 Lời nhắc nhở của các thiên sứ đã khiến các bà nhớ lại và đã tin ngay rằng Đức Giêsu đã phục sinh.

    Chú ý: Lc thường mô tả tâm trạng và tình cảm của các nhân vật (1,12  14,65  2,9) nhưng ở đây ông hoàn toàn không nói gì về tâm trạng và tình cảm của các bà. Đó là vì ông dành trọn bài mô tả cho đức tin của các bà, một đức tin không phải dựa trên tình cảm và có tính hời hợt. Nhưng là một đức tin đặt nền vững chắc trên sự kiện ngôi mộ trống, lời các thiên sứ và lời của các tiên tri Cựu Ước.

c 9 Kể lại cho nhóm 11: chỉ còn 11 vì Giuđa đã hư mất. Chi tiết này cũng chuẩn bị xa cho tường thuật cuộc đề cử Mathia (Cv 1,15-26)

    – “Và cho những người khác nữa”: Tin Mừng về việc Phục sinh không dàng riêng cho các Tông đồ mà còn cho các môn đệ khác nữa, bởi vì tất cả đều sẽ nhận sứ mạng làm chứng cho việc Phục sinh (Lc 10,1-16).

c 10 Lc kể tên các bà: đó là ‘Maria Madalena; Gioana, Maria mẹ của Giacôbê và mấy bà khác’. Đây chính là những bà đã từng đi theo Đức Giêsu (8,2-3), đã từng có mặt trong cuộc liệm xác Đức Giêsu (23,55). Bởi thế lời chứng của các bà là có giá trị và đáng tin.

c 11 “Nhưng các ông coi là chuyện nhảm”: dù vậy các Tông đồ chưa vội tin vào lời các bà. Chi tiết này cho thấy đức tin của các Tông đồ sau này là một đức tin có suy nghĩ và cân nhắc cẩn thận.

c 12 “Nhưng Phêrô đứng dậy và chạy tới mồ”: đoạn song song trong Gioan 20,2-10 kể có hai người chạy đến mồ là Phêrô và Gioan. Ở đây Lc đã bỏ không nhắc tới Gioan vì muốn tập tring chú ý vào Phêrô. Chính Phêrô là nhân chứng tuyệt hảo nhất về việc Phục sinh, và do đó cũng chính Phêrô sẽ ‘củng cố đức tin của anh em mình’ (22,32). Cũng trong chiều hướng này Lc đã ghi một cuộc Đức Giêsu hiện ra riêng cho Phêrô (24,34) và Phêrô đã lên tiếng thay cho cả nhóm để tuyên bố về việc Phục sinh (Cv 2,14-36  3,12-36  4,8-12).

BÀI 102: HAI MÔN ĐỆ ĐI LÀNG EMMAU (24,13-35)

I- TẦM QUAN TRỌNG

    – Tường thuật này là riêng của Lc.

    – Lc viết bài này dựa theo một nguồn tư liệu riêng, tức là ‘truyền thống các môn đệ’ (do đó Tin Mừng của Lc còn được gọi là Tin Mừng của các môn đệ).

    Ngày xưa khi Đức Giêsu đi rao giảng thì chung quanh Ngài không chỉ có nhóm 12 mà còn có nhiều môn đệ. Trong những cuộc du hành truyền giáovà nhất là khi thu thập tư liệu để soạn sách Tin Mừng, Lc đã gặp nhiều người trong họ và nhờ thế mà biết được chuyện này.

II- GIẢI THÍCH

c 13 “Hai môn đệ”: lần hiện ra này của Đức Giêsu không phải cho các Tông đồ mà là cho môn đệ. Vì mục đích riêng vừa nói ở trên. Một người tên là Clêôpat (c 18) còn người kia tên gì không rõ. Có lẽ Lc cố ý như thế. Ch. Perrot viết: ‘người bạn của Clêôpat không được nêu rõ tên nhưng lại mang tên của mỗi người tín hữu’

    – “Emmau”: không rõ ở nơi nào, có người nghĩ là làng Amva cách Giêrusalem 30 km về phái tây.

    – “Cách Giêrusalem chừng 60 dặm”: tương đương với 12 km. Do đồng hóa Emmau với Amva, một số chuyên viên đã chọn các thủ bản ghi ‘160 dặm’ để hợp hơn với khoảng cách 30 km từ Amva tới Giêrusalem.

    – Như thế, hai môn đệ này đã tách rời khỏi nhóm các tông đồ và các môn đệ (c 9), đồng thời họ cũng đi khỏi Giêrusalem là nơi bắt đầu có những tín hiệu hy vọng (c 9).

c 16 “Nhưng mắt các ông còn bị ngăn cản, không nhận ra Ngài”:

    – Động từ ‘bị ngăn cản’ ở thể thụ động. Tác nhân nào đã ngăn cản không cho các ông nhận ra Đức Giêsu? C 25 kể ra 2 tác nhân về phái chính các ông, đó là sự ‘tối dạ’ và ‘lòng chậm tin’ của các ông. Nhưng thể thụ động còn ngầm chỉ một tác nhân khác quan trọng hơn nữa, đó là chính Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa ngăn cản? Thưa vì sau khi sống lại, Đức Giêsu tuy vẫn là Đức Giêsu như trước đây, nhưng đã ở trong một tình trạng khác: cũng như trong cuộc biến hình. ‘dung mạo người hoàn toàn đổi khác’ (9,29), hôm nay Ngài đã ‘đi vào trong vinh quang của Ngài’ (c 26  9,32). Từ nay Ngài thuộc về ‘thế giới của Thiên Chúa’ cho nên mắt người phàm không thể nào nhận ra Ngài được. chỉ khi nào Ngài ‘mở mắt’ (c 31), ‘mở trí’ (24,15) và ‘mở lòng’ (Cv 16,14) cho ai thì người đó mới nhận ra Ngài. (Trong những cuộc hiện ra của Đức Giêsu do Lc và Gioan ghi lại, người ta không nhận ra Ngài ngay, mà phải sau một lời nói của Ngài hoặc một dấu chỉ (Lc 24,30.35.37.39-43; Ga 20,14.16-20  21,4.6.7)

    Trong phần tiếp theo của bài tường thuật, Đức Giêsu sẽ làm công việc mở mắt và lòng trí các ông.

c 17-19a – Sai câu hỏi Đức Giêsu mở đầu câu chuyện, câu trả lời đầu tiên của Clêôpat cho thấy tính cách công khai của vụ xử tử Đức Giêsu: “Một mình ông ở Giêrusalem là không biết”

c 19b-21 – Đức Giêsu hỏi câu thứ hai và hai ông thuyết nguyên một bài giảng: mở đầu là một bản toát yếu về sứ mạng và cái chết của Đức Giêsu. Theo họ đánh giá, Đức Giêsu là ‘Một vị ngôn sứ’. Tuy nhiên các thượng tế và thủ lãnh Do thái nghĩ rằng đó chỉ là một ngôn sứ giả nên đã tìm cách để đóng đinh Ngài. Tính từ sở hữu ‘Các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta’ cho thấy chính hai ông cũng đồng quan điểm với họ. Điều này biểu lộ sự thất vọng của hai ông về một Đức Giêsu Messia chính trị (‘Phần chúng tôi trước đây vẫn hy vọng rằng chính Ngài là đấng sẽ cứu thoát Israel’), nọ không chấp nhận một Messia chịu khổ, họ không chấp nhận thập giá. Lúc Đức Giêsu bị đóng đinh họ vẫn còn nuôi hy vọng, nhưng sau khi chờ đợi một thời gian, họ hoàn toàn thất vọng (‘những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi’)

c 22-24 Rồi hai ông kể lại những việc xảy ra trong ngày Chúa nhật. Ta hãy chú ý động từ ‘thấy’ được lập đi lập lại nhiều lần: vài phụ nữ đã ‘thấy’ thiên sứ; thiên sứ bảo rằng Đức Giêsu vẫn sống; những chính các bà thì ‘không thấy’ xác Đức Giêsu; vài người trong nhóm tông đồ đã đến mồ, họ cũng ‘thấy’ ngôi mộ trống nhưng cũng ‘không thấy’ chính Đức Giêsu.

c 25-27 Tới phiên Đức Giêsu nói. Lời trách của Ngài nhằm dạy họ rằng vấn đề quan trọng không phải là ‘thấy’ mà là phải hiểu (‘ôi những kẻ tối dạ’) vì phải tin (‘lòng chậm tin’). Họ đã thấy Ngài sống thế nào và làm những gì rồi chết ra sao. Nhưng qua đó họ phải hiểu tất cả những việc đó đều nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà sách thánh đã nói trước (‘lời các ngôn sứ’); và họ phải tin vào kế hoạch đó. Nhân đó, Đức Giêsu giải thích sách thánh lại cho họ hiểu và tin (‘từ Môsê tới các ngôn sứ’: kiểu nói có nghĩa là thành phần chủ yếu của Thánh kinh, thành phần mà người Do thái quen đọc ở hội đường)

c 28-35 Phần mở gút cho vở tuồng chính là bữa ăn tối tại Emmau. Nhờ lời giải thích sách thánh của Đức Giêsu sự hiểu biết và đức tin đã nẩy mầm trong hai ông (c 32: ‘lòng cháy bừng lên’). Cái mầm này sẽ mọc lớn và vững mạnh trong ‘nghi lễ’ bẻ bánh. Cách Lc dùng chữ rõ ràng ngầm so sánh việc bẻ bánh này với bí tích Thánh Thể.

    a/ ‘Trời đã xế chiều và ngày sắp tàn’

    b/ Những động từ ‘cầm, chúc tụng, bẻ ra và trao’

    – Kết quả là ‘Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài’: Đấng phục sinh không còn ‘ngăn cản’ mắt họ nữa. Ngài đã dùng sách Thánh và Lễ bẻ bánh để cho phép họ ‘nhận ra’ Ngài.

    – ‘Nhưng Ngài lại biến mất’: Tình trạng của Đức Giêsu phục sinh là vẫn luôn luôn hiện diện nhưng không hữu hình (chỉ thấy được khi nào Ngài muốn cho thấy).

III- ĐÚC KẾT

    Tường thuật này chứa đựng nhiều suy tư của tác giả:

    1/ Đức Giêsu phục sinh là Đấng vẫn hằng hiện diện trong GH tuy ta không thấy Ngài.

    2/ Hai nơi chúng ta dễ cảm nghiệm được sự hiên diện của Ngài nhất là Lời Chúa và Thánh Lễ.

    3/ Mỗi người chúng ta đều có thể có được cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau. Mỗi tín hữu chính là người bạn không tên của Clêôpát.

BÀI 103: HIỆN RA CHO 11 TÔNG ĐỒ – SAI ĐI TRUYỀN GIÁO (24,36-53)

     Có thể chia đoạn này thành 3 phần:

    a/ Đức Giêsu hiện ra với các tông đồ (36-43).

    b/ Lời chỉ bảo sau cùng (50-53).

    c/ Đức Giêsu lên trời.

A- HIỆN RA VỚI CÁC TÔNG ĐỒ (35-43)

          Tư tưởng quan trọng trong phần này là nỗi khó khăn của các tông đồ khi phải chuyển từ nhận thức Đức Giêsu vẫn như trước đây sang nhận thức vè Đức Giêsu phục sinh: một mặt Ngài đã hoàn toàn biến đổi (vì đã phục sinh), nhưng mặt khác Ngài vẫn là Đấng đã chịu đóng đinh. Bởi khó khăn đó nên các tông đồ ban đầu đã không tin, và chỉ dấn dần về sau các ông mới tin được.

c 36 Sáng kiến xuất phát từ chính Đức Giêsu: Ngài chủ động đến với các ông và ban ‘bình an’ cho các ông. Cần nhớ ‘bình an’ là một trong những ân huệ đặc biệt của thời Messia (2,14  19,38).

c 37 Phản ứng đầu tiên của các ông khi thấy Ngài là ‘kinh hồn bạt vía và tưởng là thấy ma’: Phản ứng này rất trái ngược với điều mà chính họ đã vừa nói trước đây với hai môn đệ Emmau (c 34: ‘những người này (các tông đồ) bảo hai ông (hai môn đệ Emmau) ‘Chúa đã sống lại thật rồi và đã hiện ra với ông Simon’). Có lúc tin, có lúc lại không tin: đó là tâm trạng chưa ổn định của các tông đồ ban đầu.

c 38-40 Để thuyết phục các ông, trước hết Đức Giêsu nói (cc 38-39) và sau đó là làm một hành động (c 40). Việc cho các ông thấy và rờ chân tay Ngài nhằm chứng minh rằng Đức Giêsu  hôm qua đã từng chịu nạn chịu chết; và Ngài cũng là người bình thường, vì ‘ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thấy có đây’.

c 41 Vậy mà các ông vẫn chưa tin, Đức Giêsu lại nói lời thứ hai và làm cử chỉ thứ hai (c 41: ‘Ở đây anh em có gì ăn không?; c 43: ‘Ngài cầm lấy và ăn trước mặt các ông’). Nhưng các tông đồ vẫn chưa đi đến đức tin: Lc không ghi một câu nói nào của các ông sau cố gắng thứ hai này của Đức Giêsu.

B- NHỮNG CHỈ BẢO SAU CÙNG (44-49)

          Phần thứ hai của cuộc hiện ra gồm một bài giảng khá dài của Đức Giêsu để đưa các tông đồ thực sự đến với đức tin, để tiếp theo đó Ngài có thể sai họ đi loan báo Tin Mừng.

c 44-46 Để tin vào Đức Giêsu phục sinh, chỉ có sự hiện ra của Ngài chưa đủ, cần phải thuyết phục bằng lời Thánh Kinh nữa. Vì thế Đức Giêsu bắt đầu chứng minh rằng những điều được nói trong Thánh Kinh (‘Luật Môsê, ngôn sứ và Thánh vịnh’) nay đã ứng nghiệm nơi Ngài; Đấng Messia phải chịu khổ, chịu chết rồi mới sống lại. Đấy cũng là cách mà Đức Giêsu phục sinh đã dùng đối với hai môn đệ Emmau (24,25-27).

c 47 Ngài còn cho họ biết rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa không chấm dứt với việc phục sinh của Ngài, nhưng còn phải kéo dài tới thời GH: GH phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân biết, tin và sám hối để được tha tội.

    – “Bắt đầu từ Giêrusalem”: Thành phố mà Đức Giêsu hoàn thành kế hoạch Thiên Chúa không phải là điểm tới mà chỉ là điểm khởi đầu cho một sứ vụ sẽ lan tới khắp muôn dân.

c 48-49 Để có thể chu toàn một sứ mạng quan trọng như vậy, các tông đồ cần nhận được ‘quyền năng từ trời cao ban xuống’. Quyền năng này vốn có trong Đức Giêsu (1,35  4,14) cũng được Đức Chúa Cha hứa ban cho các tông đồ.

C- ĐỨC GIÊSU LÊN TRỜI (50-53)

          Việc Đức Giêsu được rước lên trời được Lc thuật lại ở đây, cuối quyển Tin Mừng, và ở đoạn đầu quyển Công vụ Tông đồ(Cv 1,9-12), nhằm cho thấy sự liên tục của chướng trình cứu độ.

c 50 “Sau đó Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania”: Tại sao Đức Giêsu chọn địa điểm này? Vì đây là nơi Ngài được phong vương (19,28-38: bắt đầu cuộc rước vào thành Giêrusalem).

    – “Giơ tya chúc lành cho các ông”: Cử chỉ này là của Vị Thượng Tế để ban phúc cho dân Chúa (Si 50,22-22), Dacaria đã không thể làm cử chỉ này (1,21-22), nay Đức Giêsu hoàn thành nó.

c 51 – “Ngài rời khỏi các ông và được rước lên trời”: So sánh với 9,51 (‘Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem’), chúng ta hiểu Lc muốn nói rằng cuộc xuất hành của Đức Giêsu đã hoàn tất, nay Ngài trở về bên cạnh Chúa Cha.

c 52 “Bấy giờ các ông bái lạy Ngài”: Đây là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng Lc mô tả các tông đồ trong tư thế bái lạy Đức Giêsu. Cử chỉ tôn kính này chỉ dành cho một mình Thiên Chúa (4,8). Cử chỉ bái lạy này cho thấy các ông đã hoàn toàn vượt khỏi sự kềm hãm của lòng cứng tin và đã thực sự đạt tới đức tin.

    – “Lòng đầy hoan hỉ”: với đức tin đã có, các ông chấp nhận từ nay dù không còn thấy Thầy bằng cặp mắt xác thịt nhưng lòng vẫn hân hoan vì các ông luôn tin vào Ngài.