Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 1 Mùa Vọng

 

Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 1 Mùa Vọng

 

(Chúa Nhật 1 Mùa Vọng, năm B)

(Thứ Hai tuần 1 Mùa Vọng)

(Thứ Ba tuần 1 Mùa Vọng)

(Thứ Tư tuần 1 Mùa Vọng)

(Thứ Năm tuần 1 Mùa Vọng)

(Thứ Sáu tuần 1 Mùa Vọng)

(Thứ Bảy tuần 1 Mùa Vọng)

 

NGƯỜI GIỮ CỬA

(Chúa Nhật 1 Mùa Vọng, năm B)

Lời Chúa: Mc 13, 33-37

Ðức Giêsu nói với các môn đệ về ngày Quang Lâm của Người rằng: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Ðiều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”

Suy niệm

Có bao nhiêu thời gian sống ở đời

được chúng ta dành cho việc chờ đợi?

Có sự chờ đợi làm ta căng thẳng, mệt mỏi;

nhưng cũng có sự chờ đợi

đem lại hương vị và ý nghĩa cho cuộc sống.

Người mẹ tần tảo nuôi con, chờ ngày con thành tài.

Người vợ chờ đợi ngày chồng trở về từ biên ải.

Con người không chỉ sống bằng quá khứ

nhưng còn bằng những ngóng đợi về tương lai.

Cái tương lai tưởng như mơ hồ, xa xôi

mà lại lôi kéo được cái hiện tại đi về một hướng.

Biết sống là biết chờ đợi

Chờ đợi làm nên cuộc sống.

Mùa Vọng đưa ta đi vào thái độ chờ đợi.

Chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang mai này.

Chờ đợi Chúa vẫn đến trong niềm vui và nước mắt.

Chờ như người giữ cửa thức trắng đêm,

vì không biết giờ nào chủ trở về.

Nhưng chờ không phải là thụ động khoanh tay

mà là vuông tròn sứ mạng được giao phó.

Ông chủ đi xa đã để lại ngôi nhà,

giao quyền cho các đầy tớ, mỗi người một việc (câu 34).

Có lẽ từ lâu ta đã thấy không cần chờ đợi Chúa,

vì chúng ta có quá nhiều điều khác để đợi mong,

những điều gần gũi hơn, thiết thực hơn, cấp bách hơn.

Hãy nói cho tôi biết, bạn đang chờ gì,

tôi sẽ nói cho bạn biết, bạn đang đi về đâu.

Nếu không có Ai để chờ, thì cũng chẳng cần tỉnh thức.

Tỉnh thức trong đêm tối đâu phải là chuyện dễ dàng.

“Ngài trở lại và thấy các môn đệ đang ngủ…

Rồi Ngài lại đến và thấy họ vẫn đang ngủ,

đôi mắt họ li bì nặng giấc” (Mt 26, 40-45).

Chiến đấu chống lại sự buồn ngủ của mắt

còn dễ dàng hơn chống lại sự mê ngủ của tinh thần.

Cuộc sống vật chất ngày càng cao,

cung ứng cho con người biết bao thứ ru ngủ,

và đưa con người vào cơn mê mà họ không hay biết.

Ma túy là mối đe dọa giới trẻ hôm nay.

Ma túy đi vào trường học, được bán ở cổng trường,

để chích, để hút, để ngửi.

Nó cho người ta sống lâng lâng trong một thế giới ảo,

để rồi không còn khả năng sống đời thực của mình nữa.

Nhưng ma túy đâu phải chỉ là bạch phiến, cần sa.

Ma túy là tất cả những gì gây nghiện,

khiến con người thành nô lệ và đánh mất mình.

Tiền bạc, tiếng tăm, tình dục, tiện nghi…

vẫn là những thứ ma túy mê hoặc con người.

Mùa Vọng là mùa tỉnh thức,

để thành thật tự hỏi:

“Tôi đang nghiện thứ ma túy gì?”

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin đánh thức con.

Xin đưa con ra khỏi cơn mê

mà tự sức con không sao thoát ra được.

Xin đừng ngại đánh thức con

bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,

nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ

đang cắt tỉa con vì yêu con.

Ước gì con được tỉnh táo

để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,

những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.

Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,

xin cho con thức luôn và sáng luôn,

trước nhan Chúa.

 

 

 

TỪ PHƯƠNG ĐÔNG PHƯƠNG TÂY

(Thứ Hai tuần 1 Mùa Vọng)

Lời Chúa: Mt 8, 5-11

Khi Ðức Giêsu vào thành Caphácnaum, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm”. Người nói: “Chính tôi sẽ đến chữa nó”. Viên đại đội trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: “Ði!”, là nó đi, bảo người kia: “Ðến!”, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này!”, là nó làm”. Nghe vậy, Ðức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời.”

Suy Niệm

Tín đồ Do thái giáo có tiếng về sống đức hy vọng.

Họ đã hy vọng và vẫn còn hy vọng Đấng Mêsia sẽ đến để đem ơn cứu độ.

Họ đã chờ và vẫn chờ từ bao ngàn năm nay.

Còn Kitô hữu chúng ta có tiếng về sống đức ái.

Tuy nhiên, tự bản chất Kitô giáo vẫn là tôn giáo của đức hy vọng.

Chúng ta tin Đấng Mêsia là Đức Giêsu đã đến rồi.

Ngài đến đem ơn cứu độ không phải cho riêng dân Israel,

nhưng cho mọi dân mọi nước trên toàn thế giới.

Nhưng Kitô hữu vẫn còn sống trong chờ đợi và hy vọng.

Chúng ta mong ngày trở lại trong vinh quang của Chúa Giêsu,

cũng là ngày thế giới này đi đến chỗ tận cùng, để sang một trang mới.

MARANA THA, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến (1 Cr 6, 22; Kh 22, 20).

đó là lời nguyện của các Kitô hữu trong Giáo Hội buổi sơ khai.

Đó cũng là lời nguyện khẩn thiết của chúng ta, đặc biệt trong Mùa Vọng.

Ngày quang lâm là ngày tận thế đáng sợ,

khi Chúa Giêsu trở lại xét xử kẻ sống và kẻ chết.

Nhưng đó cũng là ngày hội vui lớn nhất của nhân loại,

ngày mà niềm hy vọng của chúng ta được thành tựu viên mãn.

Ngày ấy “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc

cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời” (c. 11).

Đức Giêsu ngỡ ngàng khi thấy niềm tin lớn lao của viên đại đội trưởng.

Ông thuộc dân ngoại mà lại có lòng tin lớn hơn các người Israel khác (c. 10).

Ông tin Đức Giêsu có thể chữa lành cho người đầy tớ yêu quý của ông.

Không cần Ngài đến nhà, chỉ cần một lời nói của Ngài thôi cũng đủ (c. 8).

Lòng tin mạnh mẽ và khiêm tốn của ông đã chinh phục Đức Giêsu.

Lời của viên sĩ quan dân ngoại đã trở nên lời ta đọc trước khi rước lễ.

“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con,

nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”

Đầy tớ của viên đại đội trưởng đã được chữa lành,

nhưng điều quan trọng hơn là chuyện ông có hy vọng được dự tiệc.

Đây là bữa tiệc cánh chung, bữa tiệc trong Nước Trời (x. Is 25, 6-8).

Một người dân ngoại được ngồi dự tiệc bên các tổ phụ Do thái.

Đây là điều hẳn làm cho nhiều người Do thái phải ngạc nhiên.

Mà không phải chỉ có viên đại đội trưởng,

có nhiều người từ tứ phương thiên hạ cũng được mời (c. 11).

Nước Trời như một bữa tiệc vui và thịnh soạn do Thiên Chúa thết đãi,

trong đó mọi dân tộc khác nhau cùng đến để chia sẻ và hiệp thông.

Mọi đau buồn, mọi cách ngăn đều bị xóa bỏ.

Màu tím là màu của phụng vụ Mùa Vọng,

nhưng đây không phải là màu buồn.

Mùa Vọng nhắc chúng ta về niềm hy vọng rất xanh tươi

mà Chúa Giêsu đã mang lại cách đây hai ngàn năm

và chúng ta có bổn phận vun đắp cho thành tựu.

Làm sao để ơn cứu độ của Ngài được mọi người trên thế giới nhận biết?

Làm sao để dân ngoại được ơn đức tin và ơn chữa lành như viên sĩ quan?

Làm sao để chẳng ai vắng mặt trong bữa đại tiệc của Nước Trời?

Mùa Vọng đưa ta về thế giới bao la của châu Á, với 3% người công giáo.

Nếu ngày mai tận thế, Chúa sẽ hỏi ta 97% kia đâu.

Cầu nguyện

Lạy Cha,

Cha muốn cho mọi người được cứu độ

và nhận biết chân lý,

chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người

chưa nhận biết Đức Giêsu,

họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con

khát vọng truyền giáo,

khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,

niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,

và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực

trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất

để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến

với những người bạn gần bên,

giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,

qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện

cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con

sinh nhiều hoa trái. Amen.

 

 

THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG

(Thứ Ba tuần 1 Mùa Vọng)

Lời Chúa: Lc 10, 21-24

Khi ấy, được Thánh Thần tác động, Ðức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” Rồi Ðức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”

Suy niệm

Ông tổ Jessê là cha của vua Đavít (Lc 3, 32).

Bài đọc 1 nói về một nhánh nhỏ đâm ra từ gốc tổ Jessê (Is 11, 1).

Đó là Đấng Mêsia, người thuộc dòng dõi Jessê, cha của Đavít.

Nét đặc biệt của Đấng này là có Thần Khí Đức Chúa ngự trên:

“thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh,

thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11, 2).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu được đầy tràn Thánh Thần,

khiến Ngài vui sướng dâng lên Cha lời cầu nguyện tự phát (c. 21).

Như thế có sự hiện diện của cả Ba Ngôi Thiên Chúa trong giây phút này.

Trong Thánh Thần, Con dâng lên Cha lời ngợi khen chúc tụng.

Lời cầu nguyện của Con bao giờ cũng bắt đầu bằng câu Abba, Lạy Cha.

Abba là người Cha gần gũi thân thương,

nhưng Abba cũng là Chúa tể trời đất, đầy quyền năng siêu việt.

Đức Giêsu ngợi khen Cha, vì Cha giấu kín nhóm này,

nhưng lại mặc khải cho nhóm kia về Con của Cha.

Thật ra, Cha không ghét bỏ những người khôn ngoan thông thái.

Nhưng sự giàu có tri thức đã khiến một số người tự mãn, tự hào,

đi đến chỗ khép lại và từ chối tin vào Đức Giêsu.

Những người bé mọn, đơn sơ mới là những người khôn ngoan thật sự.

Họ mềm mại mở ra như trẻ thơ, để đón nhận Tin Mừng về Nước Trời.

Bảy mươi hai môn đệ mới đi sứ vụ trở về, là những người bé mọn ấy.

Họ là những người có phúc vì được thấy, được nghe

những điều mà bao thế hệ khác ước ao, nhưng không được (cc. 23-24).

Họ là những người được đưa vào thế giới thân tình giữa Cha và Con.

Thế giới ấy thật là riêng tư, nơi Cha và Con hiểu biết nhau trọn vẹn.

“Không ai thực sự biết Con là ai, trừ Cha;

cũng không ai thực sự biết Cha là ai, trừ Con” (c. 22).

Nhưng thế giới tưởng như khép kín ấy cũng là thế giới mở ra cho con người.

Cha mặc khải cho những người bé mọn (c. 21).

Và Con cũng mặc khải cho người nào Con muốn (c. 22).

Rốt cuộc Cha mặc khải về Con, và Con mặc khải về Cha.

Chỉ Thiên Chúa mới mặc khải được cho ta về Thiên Chúa.

Mừng lễ Giáng Sinh là mừng Quà Tặng của Cha là Đức Giêsu.

Ngài là Đấng duy nhất biết Cha thâm sâu,

nên cũng là Đấng duy nhất có thể mặc khải về Cha trọn vẹn.

Ngài là Đấng Trung Gian duy nhất và là Người Con Một của Cha.

Thiên Chúa Cha đã bắc cho chúng ta một nhịp cầu.

Cha mời chúng ta qua nhịp cầu ấy mà đến với thế giới Thiên Chúa,

nơi Cha và Con khăng khít với nhau trong tình yêu.

Hãy để Cha lôi kéo ta đến với Con của Ngài (Ga 6, 44).

Hãy để Con là đường đưa ta đến với Cha (Ga 14, 6).

Hãy là người khôn ngoan thật sự, biết mở ra để nghe Cha, Con mặc khải.

Biết được Cha và Con là ai, đó là hạnh phúc của người Kitô hữu.

Đó cũng là ước mơ ngàn đời của Cha và Con cho nhân loại.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con biết con,

xin cho con biết Chúa.

Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,

quên đi chính bản thân,

yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.

Xin cho con biết tự hạ,

biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.

Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.

Ước gì con biết nhận từ Chúa

tất cả những gì xảy đến cho con

và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.

Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.

Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.

Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)

 

 

ĂN NO NÊ

(Thứ Tư tuần 1 Mùa Vọng)

Lời Chúa: Mt 15, 29-37

Khi ấy, Ðức Giêsu xuống khỏi miền Tia và Xiđon, đến ven Biển Hồ Galilê. Người lên núi và ngồi đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Israel. Ðức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường.” Các môn đệ thưa: “Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no?” Ðức Giêsu hỏi: “Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông đáp: “Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ.” Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngả lưng xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại bảy thúng đầy

Suy niệm

Khi mô tả về thời cánh chung, thời thiên sai, thời của Đấng Mêsia,

ngôn sứ Isaia nghĩ đến một bữa tiệc lớn cho muôn dân tộc

do Đức Chúa của Israel khoản đãi trên núi thánh.

Không phải chỉ đãi thịt béo, rượu ngon,

Đức Chúa còn lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người,

Khổ đau không còn nữa, chỉ còn tiếng reo vui (Is 25, 6-10).

Nơi Đức Giêsu, lời của ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lên một ngọn núi

thuộc miền Thập Tỉnh của dân ngoại (x. Mc 7, 31).

Dân chúng kéo đến cùng với những người bệnh hoạn tật nguyền.

Trên ngọn núi ấy, Ngài đã đem đến niềm vui cho bao người.

Kẻ câm nói được, người què đi được, người mù sáng mắt.

Đức Giêsu không giảng về một Nước Trời xa xôi.

Ngài cho thấy một Nước Trời gần gũi khi thân xác được lành mạnh.

Kitô giáo không duy tâm, duy linh hay duy vật.

Đức Giêsu quan tâm đến trọn cả con người với xác và hồn.

Chính vì thế Ngài vừa rao giảng, vừa chữa bệnh.

Ngài biết chạnh lòng thương đám đông,

vì họ đã ở lại với Ngài từ ba ngày qua mà không có gì ăn.

Ngài hiểu thế nào là cái đói và hậu quả của nó

nên Ngài không muốn để họ đi về mà bụng lại rỗng không.

“Sợ rằng họ bị xỉu dọc đường” (c. 32).

Đức Giêsu đã nghĩ đến việc cho họ ăn như một nhu cầu cấp thiết.

“Chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no” (c. 33).

Trước vấn đề lương thực cho một đám đông ở nơi hoang vắng,

các môn đệ thấy mình bất lực và bế tắc.

“Bảy cái bánh và ít cá nhỏ”, đó là tất cả những gì họ có.

Để nuôi đám đông, các môn đệ phải cộng tác với Đức Giêsu,

trao cho Ngài tất cả những gì mình có,

để rồi nhận lại tất cả từ Ngài, và đem chia sẻ cho đám đông.

Bữa ăn ở nơi vắng này không phải là một đại tiệc với rượu thịt,

nhưng rõ ràng là rất cần thiết, đem lại no đủ và thậm chí dư thừa.

Thế giới hôm nay có hơn một tỉ người đói, đa số ở Á châu.

Những bữa ăn đầy đủ vẫn là nỗi khát khao ám ảnh nhiều người.

Đói chẳng những làm ngất xỉu hay dẫn đến cái chết,

nhưng còn làm người ta mất nhân cách, sống không ra người.

Bận tâm của Đức Giêsu về cái đói cũng là mối bận tâm của Giáo Hội.

Phép lạ bánh hóa nhiều của Đức Giêsu phải được nhân lên khắp nơi,

để không còn ai phải đói trên thế giới.

Bữa tiệc cánh chung, nơi muôn người từ đông sang tây đến dự,

phải được chuẩn bị từ những bữa ăn cho kẻ nghèo hôm nay.

Sống Mùa Vọng là lưu tâm đến bao người thiếu ăn ở quanh ta.

Và dù chỉ có mấy cái bánh, ta vẫn tin có thể bẻ ra để nuôi được họ.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công

chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm

về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

 

 

XÂY TRÊN NỀN ĐÁ

(Thứ Năm tuần 1 Mùa Vọng)

Lời Chúa: Mt 7, 21.24-27

Khi ấy Chúa Giêsu nói với môn đệ rằng: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bảo táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.”

Suy Niệm

Sau khi một cơn bão đi qua thành phố,

người ta ngạc nhiên khi thấy những căn nhà sụp đổ

lại là những công trình mới xây chưa được bao lâu.

Còn những công trình xưa lại hiên ngang đứng vững.

Cũng có khi sau một cơn dông,

một cây còn xanh bỗng nhiên ngã đổ.

Người ta lại gần và thấy ruột của cây đã bị mục từ lâu.

Dông bão làm lộ ra sự thật, vén mở chân tướng,

vì khi biển lặng, ai cũng có thể là hoa tiêu.

Đời con người tránh sao khỏi những dông tố.

Ai cũng mong xây căn nhà đời mình cho kiên cố vững vàng,

đứng được trước bão táp phong ba.

Nhà càng cao, nền càng phải chắc chắn.

Xây trên cát hay trên đá cho thấy ai dại, ai khôn.

Thầy Giêsu dạy các môn đệ biết thế nào là xây đời mình trên đá.

Đó là đem ra thực hành những lời Thầy dạy

mà họ đang nghe trong Bài Giảng trên núi (Mt 5-7).

Sống lời Thầy dạy là chọn đi vào con đường hẹp, ít người đi,

với những thách đố và thiệt thòi, những hiểm nguy và nhục nhã.

Chỉ ai dám sống như thế mới đứng vững khi dông bão bất ngờ ập tới.

Lúc ấy người bị coi là ngu vì sống lời Thầy, mới lộ ra là người khôn.

Vì lời của Thầy Giêsu diễn tả ý muốn của Cha trên trời,

nên thi hành lời Thầy cũng là thi hành ý muốn của Cha.

Đây là điều kiện cần thiết để được vào Nước Trời,

vì tuyên xưng trên môi Thầy Giêsu là Chúa, vẫn chưa đủ (c. 21).

Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa ngóng đợi Nước Chúa đến.

Đây là thời gian thuận tiện để suy nghĩ về cái nền của căn nhà mình,

cái nền của những công trình ta đang đầu tư xây dựng.

Có khi chúng ta thấy nó sao quá mong manh.

Chúng ta không đợi đến lúc dông bão mới gia cố nền móng.

Căn nhà của giáo xứ, giáo phận hay Giáo Hội cũng vậy.

Xây nhà cao tầng mà nền không chắc thì nhà dễ nghiêng.

Đối với ngôn sứ Isaia,

“Chính Đức Chúa là Đá Tảng bền vững ngàn năm” (Is 26, 4).

Tin vào Ngài, ta sẽ được bảo vệ chở che và thêm mạnh sức.

Ngoài Đức Chúa, chẳng có gì vĩnh hằng.

Cuộc sống hôm nay có vẻ ổn định hơn xưa.

Thật ra số phận con người hôm nay bấp bênh hơn nhiều.

Chỉ một sai sót nhỏ cũng kéo theo một cuộc khủng hoảng toàn cầu.

Chỉ một tranh chấp nhỏ cũng có thể làm bùng lên một cuộc chiến.

Hãy xây tương lai của xã hội và Giáo Hội trên Đá Tảng.

Hãy xây những dự tính của đời mình trên nền đá.

Nhờ đó những công trình của chúng ta trở thành vĩnh cửu.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

 

 

MẮT HỌ LIỀN MỞ RA

(Thứ Sáu tuần 1 Mùa Vọng)

Lời Chúa: Mt 9, 27-31

Ðang khi Ðức Giêsu ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng: “Lạy Con Vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” Khi Ðức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa Ngài, chúng tôi tin.” bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: “Các anh tin thế nào thì được như vậy.” Mắt họ liền mở ra. Người nghiêm giọng bảo họ: “Coi chừng, đừng cho ai biết!” Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả vùng.

Suy niệm

Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 500 ngàn người bị mù hai mắt,

và 900 ngàn người mù một mắt.

Tỉ lệ người mù như thế là cao so với nhiều nước khác.

Bao cố gắng được đưa ra để giảm số người bị mù,

trong đó có việc mổ cho 350 ngàn người mắc bệnh đục thủy tinh thể.

Người ta hy vọng nhờ đóng góp của các ân nhân,

sẽ có 100 ngàn người nghèo được mổ trong năm 2010.

Hạnh phúc biết bao cho ai lần đầu tiên thấy khuôn mặt người thân,

thấy được màu xanh của lá và phân biệt được sáng với chiều.

Hạnh phúc cho ai lần đầu tiên đi đứng mạnh dạn một mình

mà không cần bàn tay dắt hay cây gậy khua phía trước.

Ở nước Palestin thời xưa cũng có nhiều người mù.

Mù thường bị coi như một hình phạt của Thiên Chúa (Đnl 28, 28-29).

Người mù hẳn là người bị đứng ngoài lề xã hội.

Vào thời y khoa còn kém, người mù phải chịu cảnh tăm tối suốt đời.

Nỗi đau của người mù cũng ảnh hưởng trên cả đất nước.

Chính vì thế khi nói đến thời đại hạnh phúc của Đấng Mêsia,

Isaia nhiều lần nhắc đến chuyện người mù được sáng mắt (Is 35, 5; 42, 7).

Trong bài đọc 1 ta vừa nghe (Is 29, 18), ngôn sứ Isaia viết:

“Mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm, và sẽ được nhìn thấy.”

Được nhìn thấy bằng đôi mắt nghĩa là được mở ra với thế giới bên ngoài.

Tiếp xúc bằng mắt vẫn có cái gì vượt trội hơn tiếp xúc bằng tay hay tai.

Khi chữa lành những người mù và những tật bệnh khác,

Đức Giêsu khai mở thời đại thiên sai (x. Mt 11, 2-6).

Ngài cho thấy Nước Thiên Chúa nay đã đến.

Khi hai anh mù gọi Đức Giêsu là Con vua Đavít (c. 27),

họ nhìn nhận Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai.

Bởi thế họ hy vọng Ngài sẽ cho họ quà tặng của thời thiên sai.

“Xin thương xót chúng tôi” là xin đưa chúng tôi ra khỏi cảnh mù lòa.

Đức Giêsu đã muốn chữa hai anh một cách kín đáo, tại nhà của Phêrô.

Ngài không chữa cho họ ngay lập tức, nhưng lại hỏi họ một câu rất lạ:

“Các anh có tin là tôi có thể làm được điều ấy không?” (c. 28).

Chỉ khi họ tuyên xưng niềm tin vào quyền năng của Ngài,

Đức Giêsu mới mở mắt cho họ bằng một lời và một chạm nhẹ (c. 29).

Niềm vui quá lớn khiến họ không giữ được lặng thinh (c. 31).

Giáng Sinh là lễ của Ánh sáng, Ánh sáng ngay giữa đêm đen.

Ơn của Mùa Vọng là ơn thoát ra khỏi cảnh tăm tối mù lòa.

Mù lòa đâu phải chỉ là chuyện của 37 triệu người mù trên thế giới.

Mù lòa về chính mình, mù lòa vì không thấy những Ladarô trước cửa,

mù lòa về chính những người trong gia đình, trong giáo xứ,

mù lòa vì không thấy Chúa vẫn đang hiện diện gần bên,

những mù lòa ấy cũng nguy hiểm không kém và cần được chữa lành.

Xin Giêsu đụng vào mắt tôi để tôi được sáng,

và để tôi giúp người khác cũng được thấy ánh sáng Giêsu.

Cầu nguyện

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.

 

 

CHẠNH LÒNG THƯƠNG

(Thứ Bảy tuần 1 Mùa Vọng)

Lời Chúa: Mt 9, 35 – 10, 1.5a.6-8

Ðức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Khi thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Rồi Ðức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Ðức Giêsu sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng: “Hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel. Dọc đường hãy rao giảng rằng; Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.”

Suy niệm

Thiên Chúa của Do Thái giáo là Thiên Chúa gần gũi với con người.

Thiên Chúa của Israel có thể trừng phạt dân vì sự bất trung của họ,

nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa giàu lòng tha thứ.

Khi đọc bài đọc 1 của ngôn sứ Isaia, chúng ta ngạc nhiên

khi thấy một Thiên Chúa tỉ mỉ quan tâm đến hạnh phúc của con người.

Ngài nghe và đáp lại tiếng dân kêu than, khóc lóc (c. 19).

Ngài dạy dỗ và chỉ đường cho người lưỡng lự phân vân (c. 21).

Nhưng hơn nữa, Ngài còn để ý đến đời sống vật chất của dân chúng.

Ngài làm cho mưa thuận gió hòa,

cho khe suối róc rách vì có dòng nước chảy.

Nhờ đó hạt giống được gieo trở thành lương thực,

súc vật chăn nuôi được gặm cỏ thỏa thuê,

bò cầy ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối (cc. 23-24).

Con người có đủ bánh ăn và nước uống trong lúc ngặt nghèo.

Qua cuộc sống của mình, Đức Giêsu cũng muốn cho ta thấy

một Thiên Chúa nhân từ bằng xương bằng thịt,

một Thiên Chúa bị thu hút bởi con người, mê say phục vụ con người.

Không rõ trong sứ vụ công khai, trong gần ba năm rong ruổi,

Đức Giêsu đã đi bộ bao nhiêu cây số của xứ Paléttin,

đôi chân dẻo dai của Ngài đã đến với bao nhiêu làng mạc, thành phố.

đôi tay của Ngài đã chạm đến bao nhiêu thương tích của nhân gian.

Chỉ biết trái tim của Ngài là trái tim bằng thịt,

cứ nhói đau và chạnh thương trước bể khổ của phận người.

Bệnh tật thân xác là gánh nặng kéo con người xuống.

Đức Giêsu đã trở nên như vị lương y đối diện với đủ thứ bệnh tật.

Mù lòa, câm điếc, bất toại, phong hủi đều được Ngài chữa lành,

thậm chí Ngài còn hoàn sinh kẻ chết.

Ma quỷ cũng là một mãnh lực làm con người mất tự do.

Khử trừ ma quỷ và thần ô uế, là dấu cho thấy Nước Trời đã đến.

Mọi sự Đức Giêsu đã làm thì Ngài sai các môn đệ tiếp tục (cc. 6-8).

Hôm nay chúng ta cũng được sai để tiếp tục việc của Ngài ngày xưa:

loan báo Tin Mừng Nước Trời, chữa lành thế giới khỏi mọi bệnh tật,

giải phóng con người khỏi những xích xiềng mới do chính họ tạo nên,

và loại trừ thần ô uế ra khỏi mọi nơi con người sinh sống.

Công việc này thật bao la,

vì không giới hạn trong mảnh đất Paléttin nhỏ hẹp.

Công việc này không dễ,

vì ta phải đối diện với sức đề kháng mạnh mẽ của ác thần.

Nhưng với quyền năng Chúa ban, chúng ta tin mình sẽ thắng (c. 1).

Lễ Giáng Sinh là lễ mừng ơn cứu độ cho con người.

Chúng ta được mời nhìn thế giới hôm nay bằng cái nhìn của Giêsu,

yêu thế giới bơ vơ hôm nay bằng trái tim của Giêsu,

đến với thế giới xa xôi hôm nay bằng đôi chân của Giêsu.

Ước gì tay chúng ta chạm đến người nghèo, người yếu đau, sa ngã.

Và ước gì chúng ta cho không những gì đã nhận được nhưng không.

Cầu nguyện

Lạy Cha,

thế giới hôm nay cũng như hôm qua

vẫn có những người bơ vơ lạc hướng

vì không tìm được một người để tin;

vẫn có những người đã chết từ lâu

mà vẫn tưởng mình đang sống;

vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,

ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;

vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,

bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;

vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,

dù không phải là người phong…

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ

và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết,

xin cho chúng con

nhìn thấy chính bản thân chúng con.

 

print