Tìm Hiểu Lời Chúa Chúa Nhật 28 Thường Niên, Năm A

Tìm Hiểu Lời Chúa Chúa Nhật 28 Thường Niên, Năm A

 

Thời sau cùng được mô tả như một bữa tiệc, một thời gian hạnh phúc tuyệt vời. Nó sẽ giống như một bữa tiệc với thức ăn phong phú nhất và thức uống thỏa mãn nhất. Mỗi miếng ăn sẽ được thưởng thức với tất cả thích thú và mỗi ngụm uống sẽ được uống một cách mê say. Sẽ tràn ngập vui mừng, như vào thời điểm một đám cưới khi mọi thù hận được gạt sang một bên và tình yêu bao trùm tất cả. Chúng ta sẽ không phải lao động để tổ chức cho bữa tiệc này; nó được dọn sẵn cho chúng ta. Chúa sẽ dọn bàn, và Chúa sẽ mời chúng ta đến dự tiệc. Chỉ cần chúng ta đáp trả.

 

BÀI ĐỌC 1: Is 25,6-10

Bữa tiệc của Chúa

 

Bài đọc bắt đầu với hình ảnh bữa tiệc của đấng thiên sai, bữa tiệc mà Chúa chuẩn bị cho thời kỳ cuối cùng, một hình ảnh mà Chúa Giêsu sẽ nhắc đến trong câu chuyện Tin Mừng về tiệc cưới. Sau những dòng đầu tiên, hình ảnh chuyển sang việc vén tấm màn tang thương và tử thần sẽ bị tiêu diệt vĩnh viễn, rồi từng giọt nước mắt đều được lau khô. Trong những phần trước của Kinh Thánh, chúng ta đã biết  người chết được cho là sẽ tồn tại một cuộc sống khốn khổ ở Sheol, một cuộc sống không có sự sống, một kiểu tồn tại nửa vời, không có sức mạnh hoặc thực chất. Người chết ở đó thậm chí không thể ca ngợi Thiên Chúa. Dần dần, dân Israel nhận ra rằng tình yêu thương của Thiên Chúa bao bọc và bền chặt đến nỗi Ngài không thể bỏ rơi hoặc chối bỏ các tín hữu của mình ngay cả trong cái chết. Ngay cả cái chết cũng không thể cắt đứt các tín hữu khỏi Thiên Chúa. Đây là một trong những đoạn văn quan trọng thể hiện sức mạnh vĩnh cửu, quyền năng cứu rỗi của tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người. Khi nói với những người Sađusê (những người không tin có sự sống lại), Chúa Giêsu sẽ nói: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của người sống.” (Lc 20,38) Và thánh Phaolô sẽ nói: “Cho dầu là sự chết hay sự sống…không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Chúa Kitô Giêsu” (Rm 8,38-39).

 

ĐÁP CA: Tv 23

Mục tử nhân hậu

Có lẽ đây là một trong những Thánh vịnh được yêu thích nhất trong tập Thánh vịnh. Đó là những tâm tình của sự tín thác vào Chúa. Chúa được miêu tả như một mục tử, một chỉ định phổ biến cho một vị thần hoặc vua trong thi ca Cận Đông cổ đại. Tước hiệu này hàm ý sự quan tâm đến dân chúng và trong trường hợp của Israel, đó là vai trò lãnh đạo trong cuộc Xuất hành – Chinh phục (so sánh Tv 78,52-55; 80; Is 40,11 và Gr 31,10). Tác giả Thánh vịnh tin tưởng vào sự lãnh đạo của mục tử đến mức vững tin rằng ngay cả khi con đường dẫn qua những đồi núi hiểm trở tăm tối (c. 4a), vị mục tử luôn ở đó để bảo vệ (c. 4b). Cuộc Xuất hành- Chinh phục kết thúc với việc Israel an toàn trong miền đất của Chúa. Cuộc hành trình đó cũng kết thúc với một bữa tiệc thịnh soạn Chúa dọn sẵn. Những kẻ thù đã cố gắng cản trở cuộc hành trình sẽ bị xấu hổ khi họ thấy những ân huệ Thiên Chúa ban cho tác giả. Trong suốt Thánh vịnh này, tác giả diễn tả những niềm vui và hạnh phúc sâu thẳm của những người hăng say đi tìm sự công chính.

Chúa Giêsu đã áp dụng cho chính mình người Mục Tử nhân lành. Vị Mục Tử này hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Người cũng là Đấng cất bước đi tìm con chiên lạc (Ga 10,11-16). Vị Mục Tử này để chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10,10).

 

BÀI ĐỌC 2: Pl 4,12-14;19-20

Cám ơn vì được cứu trợ

Phaolô đã tiến đến những lời chào cuối cùng trong bức thư của mình. Ngay cả khi đang viết thư cho cộng đoàn thân yêu của mình tại Philípphê, nơi chỉ một mình ngài nhận quà, Phaolô vẫn quan tâm duy trì sự độc lập của mình. Trong thế giới cổ đại, cũng như trong thế giới hiện đại, một ân huệ đòi hỏi một sự đáp lại: “Không có cái gọi là bữa tối miễn phí”! Vì vậy, Phaolô chỉ ra rằng ngài có thể tự xoay sở mà không cần đến món quà mà họ đã giúp đỡ ngài, vì tất cả sức mạnh của ngài đều đến từ Thiên Chúa. Nhưng ngài cũng cầu chúc họ được phúc lành của sự thỏa mãn mọi nhu cầu, theo sự giàu sang của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu. Đây là một phúc lành có một không hai, mà giá trị tuyệt vời của nó bị che lấp bởi việc chúng ta sử dụng bất cẩn từ ngữ “vinh quang”. Vinh quang của Thiên Chúa là một thuật ngữ đáng sợ về sự phong phú của nó. Không một con người nào có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà có thể sống được, tuy nhiên ông Môsê trong một khoảnh khắc nào đó có thể nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa – sau đó, khuôn mặt của ông ta tái mét đến nỗi ông ta phải đeo khăn che mặt. Ngược lại, đó là sự vinh quang khiến Isaia phải khiếp sợ trước tội lỗi của mình, khiến Êdêkien phủ phục xuống đất. Đó là kinh nghiệm về quyền năng vô hạn và sự uy nghiêm của Thiên Chúa.

 

 

TIN MỪNG: Mt 22,1-14

Đây là Chúa nhật thứ ba liên tiếp bài Tin Mừng trình bày Chúa Giêsu đối đầu với những người lãnh đạo dân chúng. Một lần nữa, Chúa Giêsu dùng các dụ ngôn mô tả sự bất trung của những người có mối quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Bài đọc mỗi Chúa nhật có một trọng tâm cụ thể. Vào Chúa nhật thứ hai mươi sáu, chúng ta nhận thấy rằng những người tội lỗi biết ăn năn thống hối sẽ vào Nước Trời trước những người được cho là công chính. Trong Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, những người chịu trách nhiệm chăm sóc vườn nho đã âm mưu chiếm đoạt nó cho riêng mình. Hôm nay chúng ta được thấy hậu quả nghiêm trọng của việc từ chối lời mời dự tiệc cưới của nhà vua.

Dụ ngôn này dựa vào cách giải thích ẩn dụ làm nổi bật các khía cạnh thần học khác nhau. Nhà vua chắc chắn là Thiên Chúa, Đấng đã lên kế hoạch cho buổi cử hành cánh chung; con của vua là Chúa Giêsu. Các đầy tớ là các ngôn sứ và các nhà lãnh đạo tôn giáo khác, những người phục vụ Thiên Chúa bằng cách kêu gọi mọi người kết hợp với Thiên Chúa. Sứ vụ này đã khiến một số người trong số họ phải trả giá bằng mạng sống. Nhóm khách đầu tiên, những người được mời đầu tiên, dường như là những người đáng kính, tuy nhiên khi lời mời cuối cùng được gửi đến, họ vẫn bận tâm với các công việc của họ. Sự vô tâm đáng trách hay sự thờ ơ của họ không phải là chuyện nhỏ. Từ chối lời mời của nhà vua tương đương với việc bất quy phục về chính trị. Những người cuối cùng lấp đầy phòng tiệc cưới thì được chọn ngẫu nhiên. Họ là những người đường phố, cả tốt và xấu. Họ có thể không có được địa vị xã hội của nhóm những người được mời đầu tiên, nhưng ít nhất họ đã chấp thuận lời mời. Các nhà chú giải không thống nhất về ý nghĩa của y phục cưới. Có lẽ nó tiêu biểu cho một số khía cạnh của sự công chính. Nó cũng cho thấy rằng mặc dù lời mời được đưa ra một cách tự do, thì vẫn có những tiêu chuẩn cho việc tham dự tiệc cưới.

Đặc tính cánh chung của dụ ngôn này thật rõ ràng. Việc sử dụng bữa tiệc như một hình ảnh ẩn dụ cho những niềm vui của thời đại hoàn thành có thể được bắt nguồn từ xa xưa như trong truyền thống ngôn sứ cổ đại (x. Is 25, 6). Dường như có một khoảng thời gian giữa lời mời dự tiệc cưới ban đầu và việc thông báo rằng bữa tiệc đã sẵn sàng. Khoảng thời gian tạm thời này giống với khoảng thời gian giữa lời mời tham dự vào thời đại hoàn thành và việc một người bước vào thời đại ấy. Cuối cùng, hình phạt được nhà vua đưa ra nhắc nhớ đến cuộc phán xét sau cùng và những đau khổ sẽ đi kèm với nó..

Câu nói cuối cùng (c. 14) nắm bắt được cốt lõi của toàn bộ dụ ngôn. Lời mời đến tiệc cưới là một lời đề nghị cho tất cả. Tuy nhiên, chỉ một số ít người thực sự thích tham gia vào cuộc lễ. Mặc dù trong đoạn văn này, Chúa Giêsu không lôi kéo những người lãnh đạo dân chúng tham gia, nhưng rõ ràng Người kể dụ ngôn vì lợi ích của họ. Tâm điểm mà Chúa Giêsu đưa ra là: việc tận hưởng thời gian cánh chung của sự viên mãn mở ra cho tất cả mọi người nhưng không bắt buộc bất cứ ai.

THAM KHẢO SÁCH GIÁO LÍ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

+  GLHTCG  543-546: Chúa mời gọi người tội lỗi, nhưng đòi hỏi sự hoán cải

+  GLHTCG  1402-1405, 2837: Thánh Thể là sự nếm trước Nước Trời đang đến

Lm. Giuse Ngô Quang Trung

 

 

print