Các Bài Suy Niệm Tam Nhật Thánh

Các Bài Suy Niệm Tam Nhật Thánh

THỨ NĂM TUẦN THÁNH.

Tình Yêu Trọn Hảo– ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên. 2

Bánh Không Men– Jm. Lam Thy. 3

Yêu Thương Đến Cùng– Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 8

Lời Thầy Năm Xưa– Lm. Jos Dđh. 10

Đôi Tay Biểu Tượng Tình Yêu – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 11

Tiệc Ly Bữa Tiệc Cứu Độ- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long. 13

Yêu Đến Cùng –Lm. Huệ Minh. 16

Ở Lại Trong Tình Thương Của Thầy- Lm. Jb. Nguyễn Minh Hùng. 18

THỨ SÁU TUẦN THÁNH.

Họ Nhìn Xem Đấng Họ Đã Đâm Thâu Qua- Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa. 20

Sức Mạnh Của Thánh Giá–  Lm. Jb. Nguyễn Minh Hùng. 22

Người Chết Vì Yêu- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 25

Suy Niệm Về Thánh Giá- Lm. Emmanuel Nguyễn Vinh Gioang. 32

CANH THỨC VƯỢT QUA.

Ngôi Mộ Mở Tung Và Trống Rỗng- Chú Giải Của Fiches Dominicales. 35

BÀI ĐỌC THÊM.. 37

Tình Thương Của Thiên Chúa Đối Với Nhân Loại – ĐTGM. Phao Lô Bùi Văn Đọc  38

Ánh Sáng Chúa Kitô- Nguyễn Ngọc Long. 40

Đức Kitô Đã Sống Lại Từ Cõi Chết- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên. 42

Đêm Tình Yêu– Lm. Antôn Trung Thành. 44

Ánh Sáng Của Ngày Mới- Trích Logos C.. 46

Vui Lên Toàn Trái Đất- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 49

Lời Loan Báo Hi Vọng Cho Con Người Hôm Nay – Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê. 51

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Tình Yêu Trọn Hảo– ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên

Với kinh Vinh Danh được long trọng xướng lên trong thánh lễ chiều nay, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tam nhật thánh. Khởi đi từ căn nhà nay được gọi là “Nhà tiệc ly”, Chúa Giêsu bắt đầu bước vào cuộc khổ nạn.

Bức tranh do danh họa Leonardo Da Vinci, người Italia, mang tựa đề “Tiệc Ly” hay “Bữa tối cuối cùng – Last supper” là bức tranh sơn tường đầu tiên được khởi vẽ năm 1495 và hoàn thành năm 1498, trên bức tường của một phòng ăn tập thể ở Nữ tu viện Santa Maria delle Grazie, Milan, Ý. Đây là một tác phẩm bất hủ đã góp phần đem lại danh tiếng cho nhà họa sĩ. Các tông đồ được chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm ba người. Mỗi vị tông đồ đều được diễn tả trong tâm trạng ngỡ ngàng đến mức thất kinh, hoảng sợ. Họ vừa nghe Chúa nói: “Có một kẻ trong anh em sẽ nộp Thày ”(Ga 13,22). Riêng Giuđa, kẻ bán thày, thì vẫn thản nhiên. Sự lạnh lùng được thể hiện rõ trên khuôn mặt. Không những thế, họa sĩ còn thể hiện khuôn mặt Giuđa với màu sậm. Phải chăng, ông muốn diễn tả, sự giảo quyệt gian dối hiện rõ cả nơi khuôn mặt của người tông đồ phản bội?

Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu được diễn tả như một người bình thản. Người điềm tĩnh giữa phong ba, như Người vẫn điềm tĩnh khi thuyền gặp bão trên biển hồ, khi phải đối diện với Philatô, với Hêrôđê, với những người biệt phái và dân chúng bị kích động đang căm ghét Chúa.

Chính trong bối cảnh này, Chúa Giêsu hiến mình làm của ăn của uống cho các môn đệ, và qua các môn đệ, Chúa Giêsu nuôi dưỡng ngàn thế hệ mai sau. Người ta thường trao quà tặng trong lúc vui vẻ hạnh phúc và cho những người trung thành có công trạng. Chúa Giêsu trao ban chính mình trong một bữa ăn mà mọi người tham dự đều có tâm trạng hoảng loạn và có người phản bội. Chúa trao ban thân mình để bày tỏ tình yêu thương và giúp họ can đảm đón nhận mầu nhiệm thập giá gần kề.

Ngày hôm nay, hai mươi thế kỷ sau biến cố Tiệc ly, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trao ban thân mình cho nhân loại. Mỗi khi linh mục dâng lễ, qua lời truyền phép, bánh trở nên Mình Chúa, rượu trở nên Máu Chúa. Bức tranh “Tiệc ly” cũng vẫn đang thể hiện cuộc đời này. Trước lời mời gọi đến đón nhận Mình Thánh Chúa Giêsu, có nhiều người nhiệt thành sốt sắng, nhưng cũng có những kẻ dửng dưng lạnh lùng, thậm chí có người lại lộng ngôn phạm thượng. Tại “Bàn-tiệc-cuộc-đời” này, tôi mang khuôn mặt nào trong số các tông đồ? Trong “cõi người ta” đầy bon chen bận rộn, Thánh Thể vẫn hiện diện, âm thầm và sâu lắng, như bằng chứng của một tình yêu tự hiến, yêu cho đến cùng, yêu hết mọi người dù gặp nhiều phản bội dối gian.

Thánh Thể là Bí tích của tình yêu thương. Ai đón nhận bí tích này đều được mời gọi thực hành đức bác ái. Người tín hữu không có đức bác ái sẽ đi ngược với ý nghĩa của bí tích này. Trong khi các tông đồ hoảng loạn thất kinh, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ tới: Người bưng chậu nước đi rửa chân cho từng người trong họ, kể cả chân Giuđa, người tông đồ phản bội. Chúa không chỉ rửa chân cho những người luôn ở bên cạnh Chúa như Phêrô, Gioan và Giacôbê mà bỏ rơi những tông đồ khác. Đó là cách hành xử của con người theo kiểu sòng phẳng có trao có nhận. Chúa bao dung và nhân hậu với hết mọi người. Cử chỉ rửa chân được chính Chúa lý giải liền sau đó: “Nếu Thày là Chúa, là Thày, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thày đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thày đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15). Như thế là đã rõ, cử chỉ của Chúa Giêsu vừa là nghĩa cử khiêm nhường yêu thương, vừa là một bài học nêu gương và một lệnh truyền cho các tông đồ hãy bắt chước người.

Hãy thinh lặng âm thầm cầu nguyện bên Thánh Thể để học sống yêu thương và hy sinh cho người khác. Chúa Giêsu hiến thân vì con người, nhưng con người lại quá so đo tính toán khi hiến thân cho Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2015 này, đã nói đến sự dửng dưng vô cảm của con người đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại. Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng trước nỗi đau của con người. Chúng ta hãy học nơi Thánh Thể tình yêu thương và sự hy sinh, phục vụ vì hạnh phúc của những người xung quanh.

Sống màu nhiệm Thánh Thể không dừng lại ở việc rước Mình Thánh Chúa, mà còn được thể hiện qua những nghĩa cử yêu thương, tha thứ, hài hòa trong cách đối xử với tha nhân. Đó là tình yêu trọn hảo và là lời mời gọi của thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh.

 
Bánh Không Men– Jm. Lam Thy

Đã bước vào Tuần Thánh, chuẩn bị cho cao điểm của Mùa Chay là Tam Nhật Vượt Qua. Mở đầu cho Tam Nhật Vượt Qua là Thứ Năm Tuần Thánh với Thánh lễ Tiệc Ly. Ba bài đọc trong Thánh lễ Tiệc Ly (chung cho cả chu kỳ ba năm Phụng vụ A-B-C) là: Xh 12, 1-8.11-14 (“Lễ Vượt Qua”); 1Cr 11, 23-26 (“Bí tích Thánh Thể”); Ga 13, 1-15 (“Bữa ăn cuối cùng của Đức Giê-su và các môn đệ”). Nói về Lễ Vượt Qua, cả 3 sách Tin Mừng (Mát-thêu, Mac-cô, Lu-ca) đều có nhắc đến việc “Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua”  (Mt 26, 17 -19; Mc 14, 12 -16; Lc 22, 7-13). Theo Thánh sử Lu-ca thì: “Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Đức Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: “Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua.” (Lc 22, 7-8). Như vậy lễ Bánh Không Men gắn liền với lễ Vượt Qua. Xin dựa vào Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia và Vatican.net để tìm hiểu vấn đề:

Lễ Vượt Qua của người Do-thái là ngày 14 tháng A-víb (khoảng tháng 3, tháng 4 dương lịch). Với thời gian này, một lễ khác có nguồn gốc riêng nhưng cùng được mừng chung trong mùa xuân và được sát nhập vào lễ Vượt Qua đó là lễ Bánh Không Men (Xh 12, 15-20). Trong tháng này, lễ Vượt Qua mừng ngày 14, còn lễ Bánh Không Men được ấn định từ ngày 15 đến ngày 21. Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men có khi được mừng chung với nhau (Đnl 16, 1-8; 2Sb 30, 1-13); nhưng cũng có khi được mừng riêng (Lv 23, 5-8). Truyền thống người Do-thái áp dụng lễ này vào dịp kỷ niệm ngày dân It-ra-en thoát ách nô lệ, ra khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, trở về Đất Hứa (“Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi Ai-cập. Người ta không được đi tay không đến trước nhan Ta.” – Xh 23, 15).

Theo định nghĩa của Thánh Kinh thì bánh không men được gọi là bánh khổ cực (“Anh em hãy giữ tháng A-víp và mừng lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, vì trong tháng A-víp, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em ra khỏi Ai-cập ban đêm. Anh em hãy giết chiên dê và bò làm lễ vật Vượt Qua dâng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, ở nơi ĐỨC CHÚA chọn cho Danh Người ngự. Anh em không được ăn bánh có men với lễ vật đó; trong vòng bảy ngày, anh em sẽ ăn bánh không men – thứ bánh khổ cực, vì anh em đã phải vội vã ra khỏi đất Ai-cập, để mọi ngày trong đời anh em, anh em nhớ ngày ra khỏi đất Ai-cập.” – Đnl 16, 1-4). Bánh không men cũng tiêu biểu cho sự tinh tuyền và chân thật (“Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” – 1Cr 5, 7-8).

Đó là ý nghĩa nguyên thủy của lễ Bánh Không Men. Khi Đức Giê-su cùng các môn đệ chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua thì cũng là dịp kỷ niệm tuần lễ Bánh Không Men. Cũng vì đây là bữa ăn cuối cùng Đức Ki-tô dùng bữa với các môn đệ trước khi chính thức bước vào cuộc Thương Khó trong hành trình Vượt Qua tội lỗi và cái chết để đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, nên Giáo hội tuyên xưng đây là bữa Tiệc Ly (nói nôm na là bữa tiệc chia tay giữa Chúa Ki-tô và các môn đệ). Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể và đó chính là Bánh Không Men Giáo hội dùng trong Thánh lễ, bởi Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác cho nên dùng loại bánh đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể. Bộ Giáo Luật hiện hành của Giáo Hội “Codex Iuris Canonici” (số 926) đã qui định: “Theo truyền thống lâu đời của Giáo Hội La-tinh, khi cử hành Thánh Thể bất cứ ở đâu, tư tế phải dùng bánh không men.”

Cũng giống như vấn đề Ăn Chay cần phải biết “đừng xé áo nhưng hãy xé lòng”, vấn đề đặt ra đối với người Ki-tô hữu khi suy niệm về lễ Bánh Không Men chính là tìm hiểu mục đích và ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa trong đó:

-Ý nghĩa tiềm ẩn của lễ Bánh Không Men: Ngay từ Cựu Ước, Lễ Bánh Không Men là chỉ thị của Thiên Chúa để nhắc nhở dân It-ra-en phải luôn ghi nhớ hồng ân được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, vượt qua biển Đỏ trở về Đất Hứa; khi cử hành phải sát tế chiên Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa dĩ vãng (Cựu Ước) đó, lễ Bánh Không Men còn tiềm ẩn dấu chỉ cho công cuộc cứu độ nhân loại trong tương lai (Tân Ước), nên phải công nhận một điều đây chính là nhiệm tích Thiên Chúa mạc khải cho con dân của Người. Và để thực hiện công trình cao vời khôn ví đó, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống trần trong vai trò Con Chiên phải chịu sát tế để chuộc tội loài người và đem lại sự sống vĩnh cửu cho những kẻ tin. Lễ Bánh Không Men được thực hiện trong bữa Tiệc Ly trải dài trong Tam Nhật Vượt Qua với hy tế Thập Giá và mầu nhiệm Phục Sinh vinh hiển.

Kể từ bữa Tiệc Ly, Bánh Không Men chính là Thánh Thể – là Thịt và Máu Đức Giê-su –  là Bánh Hằng Sống (“Tôi là bánh trường sinh…Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống… Thật, tôi bảo thật: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, thì không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” – Ga 6, 48-58)

Như vậy lễ Bánh Không Men đã trở thành một dấu chỉ cho một đời sống mới, không bị tội lỗi thống trị. Trong 7 ngày thực hiện lễ Bánh Không Men thì phải hiểu số 7 là số tiêu biểu cho sự trọn vẹn về thuộc linh (Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người trong bảy ngày). Bảy ngày tiêu biểu cho trọn cuộc đời của một người đi theo Chúa. Ngày nào cũng là tiếp nhận sự sống thánh khiết từ Thiên Chúa qua đức tin và trong Đức Giê-su Ki-tô. Sự ăn Bánh Không Men tiêu biểu cho sự tiếp nhận chính sự thánh khiết của Chúa Giê-su vào trong đời sống của con dân Chúa.

– Mục đích của việc cử hành Lễ Bánh Không Men: Thánh Kinh Tân Ước giúp cho người tín hữu hiểu rõ mục đích và ý nghĩa của lễ Bánh Không Men: “Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1Cr 5, 7-8); “Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa.” (Dt 12, 14). Rõ ràng mục đích chính yếu của việc cử hành Lễ Bánh Không Men là để nhắc cho dân Chúa nhớ rằng, họ đã được giải thoát khỏi cuộc đời cũ nô lệ cho tội lỗi, và đã được Thiên Chúa dẫn vào cuộc đời mới, tự do trong thánh khiết, công chính, theo chân lý của Thiên Chúa. Trọn đời sống của họ phải luôn nên thánh, nếu không, họ sẽ không được Thiên Chúa tiếp nhận.

Tóm lại, người Ki-tô hữu cần phải nhìn lại mình để thấy được rằng con người sống trên đời thường bị các loại men tác động. Có thể kể ra những loại men đó như sau: men tôn giáo, men đạo đức giả, men tội lỗi.

* Men tôn giáo: Trước đây, đã 2 lần Đức Giê-su làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng đi theo Người. Sau đó, Người “bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh” (Mc 7, 31). Thánh sử Mat-thêu trình thuật về thời điểm này: “Khi sang bờ bên kia, các môn đệ quên đem bánh. Ðức Giê-su bảo các ông: “Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc”. Các môn đệ nghĩ thầm rằng: “Tại chúng ta không đem bánh.” Nhưng, biết thế, Đức Giê-su nói: “Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà kém tin vậy? Anh em chưa hiểu ư? Tại sao anh em không hiểu rằng Thầy chẳng có ý nói về bánh, khi Thầy nói: Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc?” Bấy giờ các ông mới hiểu là Người không bảo phải coi chừng men bánh, mà phải coi chừng giáo lý Pha-ri-sêu và Xa-đốc.” (Mt 16, 5-12).

Đức Giê-su đã phân biệt rach ròi về “men” theo 2 nghĩa (nghĩa đen – nghĩa chiểu tự : men bột ; nghĩa bóng – nghĩa thiêng liêng : men tôn giáo – giáo lý), để dạy các môn đệ hiểu rõ về giáo lý sai lầm của bọn kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu (“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ…” – Mt 23, 23-25…). Điều đó cho thấy, cái men tôn giáo (là những giáo lý sai lầm) khi đã thấm nhập vào con người thì nguy hiểm như thế nào. Không chỉ ở thời điểm thượng cổ ấy, mà ngay trong thế giới hiện tại cũng không thiếu những thứ men tôn giáo vô cùng hiểm độc (khủng bố, đánh bom tự sát giết người hàng loạt sẽ được nên thánh tử vì đạo!!!)

* Men đạo đức giả: Tâm lý chung của con người luôn chuộng vẻ bề ngoài, thích mặc áo thầy tu hơn là cuộc sống đạo tu nhân tích đức. Họ đã quên mất một điều là: ”chiếc áo không làm nên thầy tu”. Tiêu biểu cho hạng người này là những kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu giả hình (“Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài.6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 1-7).

* Men tội lỗi: Không chỉ có thánh Gio-an Tẩy Giả gọi bọn Pha-ri-sêu là rắn độc, mà ngay cả Đức Giê-su cũng gọi họ như vậy: “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục? Vì thế, này tôi sai ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các người: các người sẽ giết và đóng đinh người này vào thập giá, đánh đòn người kia trong hội đường và lùng bắt họ từ thành này đến thành khác. Như vậy, máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben, người công chính, đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia, mà các người đã giết giữa đền thánh và bàn thờ. Tôi bảo thật các người: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này.” (Mt 23, 33-36). Điều đó cho thấy trong con người luôn có “cốt cách của một thánh nhân cũng như của một tên đại bợm” (ngạn ngữ Tây phương). Cái men tội lỗi không chừa bất cứ một ai, chỉ có điều người ta có nhận ra nó hay không và khi nhận ra có biết ăn năn hối cải hay không mà thôi.

Ý thức được vấn đề, người Ki-tô hữu không chỉ mỗi năm một lần dự lễ Bánh Không Men theo nghi thức, mà là, mỗi ngày hãy sống đúng tinh thần của lễ Bánh Không Men: Luôn luôn giữ mình thánh khiết theo chân lý sụ thật của Lời Chúa; thánh khiết từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm. Mỗi ngày từ bỏ chính mình, để hoàn toàn sống cho Chúa, sống vì Chúa, sống trong Chúa, sẵn sàng chịu khổ vì danh Chúa. Vui hưởng sự tự do thoát khỏi quyền lực và hậu quả của tội lỗi, không còn mang vác gánh nặng của tội lỗi. Mong chờ ngày Sa-bát phước hạnh sau cùng, là ngày rời khỏi thế gian này, được diện kiến tôn nhan chính Bánh Không Men Hằng Sống là Đức Giê-su Ki-tô. Đặc biệt hơn nữa là hãy liên lỉ cầu nguyện sao cho tới ngày Đấng Cứu Độ quang lâm lần thứ hai, sẽ được đứng ở bên phải Người. Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Chúa, trong bữa Tiệc Ly trọng đại, trước ngày tự hiến thân chịu khổ hình, Ðức Giê-su đã trối cho Hội Thánh một hy lễ mới muôn đời tồn tại làm bằng chứng tình thương của Người. Chiều nay, chúng con đến tham dự yến tiệc cực thánh, như lời Người truyền dạy, xin Chúa cho tất cả chúng con được tràn đầy tình yêu và sức sống viên mãn của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển tri cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Thánh lễ Tiệc Ly).

Yêu Thương Đến Cùng– Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Tông đồ Gio-an khảng định: giờ Đức Giê-su ra đi chịu chết chính là đỉnh điểm (kairos) của đời sống Con Người (xem Ga chương 12 câu 27-34). Đó là thời điểm và cách thức mà Giê-su – Cứu Chúa có thể diễn đạt tình yêu của Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất; “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. Tình yêu đó sẽ ôm ấp mọi con người, không loại trừ bất cứ ai, trong trường hợp cụ thể lúc đó kể cả Giu-đa lẫn Phê-rô, những kẻ đang rắp tâm phản bội hoặc yếu đuối bội phản Thầy. Tình yêu Thiên Chúa bao dung và rộng mở không biên giới; nhưng vấn đề chính ở đây là liệu người ta có sẵn lòng đón nhận tình yêu đó hay không. Vấn đề này về mặt lý thuyết xem ra rất đơn giản, nhưng trên thực tế lại không dễ dàng được chấp nhận. Câu chuyện Gio-an tường thuật là một minh họa rất rõ nét: trước khi lên đường đi chịu chết Đức Giê-su đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ Người. Điều gì đã xẩy ra vào buổi chiều hôm đó cũng có thể xảy ra cho bất kỳ ai, ở bất cứ đâu và vào bất cứ thời đại nào.

Trong tấn kịch này, vai diễn của Phê-rô có phần nổi trội hơn tất cả. Phản ứng của ông có thể là hoàn toàn tư riêng, nhưng chắc chắn nó cũng biểu lộ thái độ chung mà nhiều môn đệ khác cùng chia sẻ: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao?… Không đời nào con chịu đâu!” Phản ứng này xem ra hoàn toàn hợp lý: làm sao người môn đệ có thể để ông thầy cúi xuống rửa chân cho mình? Nếu Đức Giê-su không nài ép, “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”, thì có lẽ Phê-rô sẽ chẳng bao giờ chịu chấp nhận, và các môn đệ khác cũng không nốt.

Thế đấy! Tin và chấp nhận một Thiên Chúa khiêm hạ tới độ hủy mình ra như không, chỉ vì yêu thương tôi, một con người tội lỗi thấp hèn, là không dễ chút nào. Tôi dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa uy nghi cao cả đòi buộc tôi phải giữ phải tránh điều này điều nọ, một Thiên Chúa phán truyền mệnh lệnh, một Thiên Chúa thưởng phạt công minh…, nói chung một Thiên Chúa bề trên, kẻ cả; nhưng tôi lại thấy thật không thể chấp nhận nổi một Thiên Chúa đặt mình dưới cả tôi, cúi xuống trở nên thấp hèn hơn tôi, và sẵn sàng bị tước đoạt đi tất cả…, một Thiên Chúa kèo dưới… chỉ để yêu thương tôi. Tôi luôn có khuynh hướng tôn thờ, kính sợ Thiên Chúa, nhưng lại rất ái ngại đi sâu hơn nữa vào ‘lòng thương xót đến cùng’ của Người. Xét cho cùng thì tôi vẫn thấy ‘thái độ kính sợ Đức Chúa’ của Cựu Ước nói riêng, và của mọi tôn giáo nói chung, dễ chấp nhận hơn là tinh thần tự hủy của Tân Ước, như Đức Ki-tô Giê-su đã từng thể hiện trên thập giá. Thiết tưởng đây chính là ‘cớ vấp phạm’ lớn nhất của thập giá Đức Ki-tô mà Phao-lô đã đề cập tới, đặc biệt đối với những ai xưng mình là Ki-tô hữu (= người có đạo), là môn đệ (= linh mục tu sĩ) qua mọi thời.

Thế nhưng, đối với Đức Ki-tô, thì ‘cớ vấp phạm” ấy lại là một điều kiện tiên quyết (sine qua non), vì “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”. Câu này là một khảng định chắc nịch chứ không chỉ là một lời mời gọi chung chung, một lời khuyên… không thi hành cũng được. Và ‘chung phần với Thầy’ chính là tham gia vào cái thứ tình yêu độc nhất vô nhị mà chỉ một mình Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su thập giá mới có, tức là yêu thương đến cùng, là yêu tới độ hủy mình ra như không, đặt mình vào chỗ thấp nhất trong thiên hạ hầu có thể trao ban và phục vụ.

Thiết nghĩ ít ai trong chúng ta đã không vấp phạm về điều này ít là một lần trong đời. Lấy một thí dụ nhỏ, có mấy ai trong chúng ta nghĩ rằng: các việc bác ái mình làm nhiều khi thật nông cạn và chẳng Tin Mừng tí nào không? Bao lâu ta còn chưa chịu để cho Chúa ‘rửa chân’ cho, bấy lâu ta còn thi hành một thứ bác ái trịch thượng của bậc kẻ cả, phục vụ đấy mà trên thế thượng phong ban phát. Riêng với các linh mục cảm nghiệm này còn phải cụ thể và thường xuyên hơn nữa; chẳng hạn, có bao giờ linh mục ngồi vào tòa giải tội trong tư thế mình còn thấp hèn hơn cả các hối nhân tới xưng tội, hoặc tiến ra cử hành Thánh Lễ mà cảm thấy Chúa đang cúi xuống rửa chân cho mình…, hoặc khi rước mình và máu thánh Chúa mà nghiệm thấy quá bất xứng vì  được Chúa biến thành miếng ăn nuôi sống con người tội lỗi và bất toàn như mình chăng? Nhiều lần khi cho rước lễ tôi đã tận mắt chứng kiến việc Chúa đi vào các môi miệng, được trao vào các bàn tay mà đôi khi chính bản thân mình còn cảm thấy rờn rợn? Thế đấy, chính vì ‘để Thày rửa chân cho’ thường xuyên bị lãng quên mà bác ái phục vụ rất ít khi thực sự là quên mình, là cúi xuống; Thánh Lễ lúc đó sẽ nặng về tính thờ phượng kính tôn hơn là “Người yêu thương đến cùng”, ‘Alter Christus’ mang nặng nội dung chức thánh địa vị hơn là ‘mục tử tự hiến’, “vào chung phần với Thầy” được cắt nghĩa là vào hưởng vinh quang thiên quốc hơn là tham dự vào tình yêu thập giá tự hủy của Đức Ki-tô, và còn nhiều điều khác nữa…

Bài học ‘rửa chân’ thật mấu chốt và quan trọng biết bao! Thế nhưng thật đáng tiếc nó thường bị coi (kể cả bởi các chủ tế cử hành) chỉ như một biểu tượng cá biệt hơn là diễn tả hoàn hảo một mạc khải về tình yêu trao hiến phục vụ đích thực. Tệ hơn nữa nó còn bị thu hẹp thành một nghi thức phụng vụ được cử hành trong Thánh Lễ ngày Thứ Năm Tuần Thánh… và sau đó là kết thúc luôn, không còn được thực thi cách cụ thể trong cuộc sống đức tin của cuộc sống thường ngày.

Lạy Chúa Giê-su khiêm hạ vì yêu thương, xin cho con biết để cho chính con được Chúa rửa chân cho mỗi khi tiến ra cử hành Thánh Lễ, để con cũng được ‘chung phần’ với yêu đến cùng của Thập Giá. Vinh quang thập giá chính là vinh quang của tự hủy phải được tỏ rạng nơi mọi linh mục của Chúa, bây giờ và luôn mãi. Xin cho con, trước khi dám ‘cùng chết với Chúa’, biết khiêm tốn chấp nhận để Chúa chết và tự hủy ra như không vì con và cho con. A-men.

Lời Thầy Năm Xưa– Lm. Jos Dđh

Không ai đủ khả năng để tổng hợp những “lời hay ý đẹp”, áp dụng vào cuộc sống của mình, chia sẻ cho đời. Chung quanh ta nhiều tài năng phong phú, có giá trị như bị lãng quên, phải chăng vì lý do chưa phù hợp với hoàn cảnh. Có khá nhiều cơ hội vụt qua, nhanh đến độ bất ngờ, để lại hối tiếc mà thôi. Tình yêu cao quý nhất là thủy chung, tình người trân trọng hơn cả vẫn là chữ tín, và chỉ khi hiểu nhau, tình thầy trò, hay tình huynh đệ mới thực sự không phai mờ.

Tục ngữ có câu : dốt đến đâu, học lâu cũng biết. Đức Giêsu đến thực thi đức yêu thương, Ngài không chọn tìm học trò khôn ngoan hay khờ dại. Mà những ai thuộc về Đức Giêsu đều được gắn liền với đức ái mục tử. Ngài lưu ý các học trò về tinh thần khim tốn, sống yêu thương, giúp nhau rửa sạch vết nhơ tội lỗi. Trong bữa tiệc cuối cùng, Chúa Giêsu không dùng những lời ngọt ngào yêu thương, nhưng Ngài vô cùng cương quyết : “nếu Thầy không rửa chân cho anh em, anh em sẽ không được dự phần với Thầy”.

Bữa tiệc chia tay hôm đó, Thầy Giêsu không tuyên dương hay có ý khiển trách người học trò phản bội hay chối Chúa, Thầy đã làm gương sáng cho các học trò về hành động yêu thương. “Ta là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, vậy anh em hãy rửa chân cho nhau”. Lời Thầy Giêsu làm lệch hướng các học trò về quyền bính, và cụ thể hóa bằng hành động cúi mình rửa chân : “anh em có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng ?”

Lời Thầy Giêsu không khỏi làm các học trò ưu tư, ăn uống thì cần rửa tay, mà ở đây Thầy lại chủ động rửa chân cho các ông. Lời Thầy nhẹ nhàng nhưng sâu rộng, tay và đầu sạch rồi, nhưng chân cần phải sạch để bước theo Thầy vững vàng hơn. Lời Thầy không thể mơ hồ đến độ cứ rửa đôi chân sạch bụi đời là đủ, nhưng hãy theo gương Thầy sống yêu thương phục vụ đến cùng. Lời Thầy đầy ắp yêu thương và không thiếu cương quyết : “việc Thầy làm bây giờ anh em không hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”.

Trọng Thầy mới làm được thầy, dù khó chấp nhận việc Thầy mình làm, nhưng kẻ bộc trực như Phêrô còn phải khuất phục. Rõ ràng bài học vâng phục, bác ái, không thể là hành động tùy tiện chọn lựa của người tông đồ. Thương mến ai, người ta cho kiến thức, địa vị, tài sản; giao lưu tiệc tùng, người ta thích kẻ đồng bàn với mình phải là hiểu nhau, là bè bạn thân thích cùng khả năng. Chúa rửa chân cho các học trò không phân biệt, như một lời nhắn gởi Chúa sẽ còn cùng các học trò đi khắp nơi rửa chân cho những người đau khổ, bệnh tật, cả những tâm hồn tội lỗi nữa.

Buổi hội họp sau hết với các học trò không phải là tìm phương án đối phó với những kẻ chống đối, mà là mở ra một hướng đi mới cho các học trò cùng hành động yêu thương. Mơ ước của Chúa Giêsu là các môn đệ phải thấm nhuần bài học anh em hãy yêu thương nhau, để rồi người người, nhà nhà biết tiếp tục lời Thầy : hãy yêu như Thầy yêu. Lời Thầy năm xưa sẽ còn là lời nhắc nhớ, hãy lấy tình bác ái để cư xử với nhau, lấy tinh thần người làm lớn phục vụ rửa chân cho nhau nên tinh sạch. Người môn đệ theo Chúa mãi mãi là hành động đẹp, khi mỗi người biết yêu thương nhau. Amen..

Đôi Tay Biểu Tượng Tình Yêu – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Đã nhiều lần chúng ta nhìn thấy bức tranh vẽ hay điêu khắc đôi bàn tay gầy guộc chắp vào nhau hướng lên trời. Nhiều người chỉ biết rằng đây là biểu tượng của cầu nguyện. Thực ra, đôi bàn tay này do một người em đã vẽ bàn tay người anh. Một bàn tay vất vả hy sinh lao động để nuôi em ăn học.

Chuyện kể rằng có một gia đình nghèo gồm 18 người con. Hai người con lớn trong nhà đều chung ước mơ trở thành họa sĩ. Nhà nghèo nên họ quyết định chỉ một người đi học. Họ sẽ tung một đồng xu. Người thua sẽ làm thợ mỏ, dùng toàn bộ thu nhập để chu cấp cho người thắng đi học. Sau này thành tài người thắng sẽ giúp ngược lại.

Đồng xu được tung lên, người em thắng cuộc và được đi học. Người anh trong suốt 4 năm, làm lụng để nuôi người anh em của mình ăn học. Sau 4 năm thành họa sĩ nổi danh, người em muốn thực hiện lời cam kết ngày nào nên trong bữa ăn sum họp, người em đứng dậy để cảm ơn người anh trai đã hy sinh 4 năm giúp mình hoàn thành được ước mơ. Người em nói:

– Anh Albert, bây giờ đã đến lượt anh. Anh hãy theo đuổi ước mơ của mình. Em sẽ lo toàn bộ chi phí và chăm sóc gia đình. Albert mỉm cười, rồi bật khóc:

– Không, anh không thể vẽ được nữa. Đã quá muộn rồi. Bây giờ, sau 4 năm làm việc trong hầm mỏ, không còn ngón tay nào của anh là lành lặn. Thậm chí bây giờ anh còn bị thấp khớp ở tay phải nặng tới mức không thể nâng nổi một chiếc ly, nói gì đến việc cầm cọ vẽ. Cảm ơn em, nhưng bây giờ đã quá muộn rồi…

Trước tình yêu quá cao vời của anh, người em đã thực hiện một tác phẩm cẩn thận nhất trong đời: vẽ lại đôi bàn tay của anh trai mình, với lòng bàn tay hướng vào nhau và những ngón tay gầy guộc hướng lên trời. Ông chỉ gọi bức tranh của mình đơn giản là “Đôi tay”, nhưng cả thế giới đều đặt tên cho kiệt tác đó là “Đôi tay cầu nguyện”.

Xem ra đôi bàn tay còn có ý nghĩa là trao ban, là hy sinh cho người mình yêu. Đôi bàn tay ấy đã nâng ước mơ cho người em thành tài trong cuộc đời.

Hôm nay thứ năm tuần thánh cũng mời gọi chúng ta chiêm ngắm một tình yêu tự hiến qua hình ảnh tấm bánh bẻ ra để trao ban. Chúa Giê-su đã lưu dấu mãi tình yêu tự hiến cho người mình yêu.  Ngài muốn chúng ta mỗi khi ăn tấm bánh ấy phải loan truyền tình yêu tự hiến của Ngài đến muôn đời. Một tình yêu cho đi mà không mong đền đáp. Một tình yêu hiến dâng quên đi cả tính mạng của mình. Một tình yêu chịu nghiền nát thành của ăn cho người mình yêu.

Trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa  đã chọn tấm bánh như một biểu trưng, một dấu chỉ cho cả cuộc đời mình. Tấm bánh được làm nên là vì sự sống, vì niềm vui của người khác mà không bao giờ là cho chính bản thân mình. Có thể đó là tấm bánh đơn sơ, dân dã đem lại niềm vui cho trẻ thơ mỗi khi mẹ đi chợ về. Có thể đó là tấm bánh nhỏ bé nhưng vô cùng cần thiết, đem lại sức sống cho người đang đói lả. Bánh có thể được đặt trang trọng trên những bàn tiệc thịnh soạn. Bánh có thể được nâng niu trên đôi tay gầy gò, run rẩy của người hành khất bên vỉa hè. Như thế, Bánh không kén chọn người ăn, và dù là cao cấp hay bình dân, bánh được làm ra là để cho đi chính mình, trao tặng chính mình, để trở nên niềm vui và sức sống cho người khác. Chúa Giêsu đã trở nên tấm bánh thật vừa với tầm tay của tất cả hạng người.

Thật đơn sơ nhưng cũng vô cùng sâu xa, vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến. Khi xưng mình là bánh, Chúa Giêsu muốn bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, chịu tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa  chịu nhỏ đi để con người được lớn lên. Chúa  chịu hủy hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa chịu chết cho ta được sống.

Hơn ba mươi năm đi khắp nẻo đường đời và trên đỉnh cao thập tự giá, Ngài đã sống như một tấm bánh. Tấm Bánh được bẻ ra và trao tặng như một cử chỉ yêu thương. Ngài trở nên Tấm Bánh như một lời mời gọi: “Anh em cầm lấy mà ăn”. Ngài trở nên tấm bánh để từ đây, Thiên Chúa có thể ở lại mãi với con người.

Hôm nay chúng ta kỷ niệm ngày Chúa lập bí tích Thánh Thể. Bí tích của tình yêu tự hiến. Qua tấm bánh đơn sơ nhưng nói lên tình yêu hiến dâng của Thầy Chí Thánh Giê-su chấp nhận tan biến cho người mình yêu.

Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu vô biên của Chúa để sống ngàn đời tri ân. Xin cho cuộc đời chúng ta cũng biết tự hủy chính mình như tấm bánh đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Amen.

Tiệc Ly Bữa Tiệc Cứu Độ- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Có lẽ trong đời mình, nhiều người trong chúng ta đã từng tổ chức các bữa tiệc khác nhau: tiệc cưới, tiệc giỗ, tiệc tân gia, tiệc sinh nhật, tiệc thôi nôi, tiệc đầy tháng, v.v… Còn đối với Chúa Giêsu, trong suốt cuộc đời dương thế của mình, Ngài chỉ “tổ chức” duy nhất một bữa tiệc, cũng là “tiệc chia tay” với các môn đệ dấu yêu trước khi Ngài đi vào cuộc thương khó, tử nạn. Bữa tiệc duy nhất này vẫn thường được gọi bằng cái tên rất dễ thương: Tiệc Ly. Tuy nhiên, đây không phải là bữa tiệc ly – tiệc chia tay thông thường, mà là bữa tiệc đặc biệt nhất, quan trọng nhất, và cũng gây nhiều cảm hứng nhất cho các nhà điêu khắc, hội họa trong lịch sử nhân loại. Vậy Tiệc Ly là bữa tiệc gì mà đặc biệt như thế?

Tiệc Ly, trước hết, là bữa tiệc Vượt Qua. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em, trước khi chịu khổ hình” (Lc 26,15). Chúng ta biết Lễ Vượt Qua của người Do Thái bắt đầu vào tối Thứ Sáu. Nhưng Chúa Giêsu đã ăn tiệc Vượt Qua vào tối Thứ Năm, nghĩa là Ngài ăn lễ trước một ngày. Vì đêm Thứ Sáu và ngày Thứ Bảy, Chúa Giêsu đã chết và đang ở trong mộ đá. Và vì là tiệc Vượt Qua, nên Chúa Giêsu đã đích thân lên chương trình kỹ lưỡng: từ việc mượn phòng tiệc, sắp đặt các chỗ ngồi, chuẩn bị đồ ăn thức uống, rồi sai các môn đi chuẩn bị trước. Nhưng đây cũng là lễ Vượt Qua được “làm mới”. Mới ở chỗ: nếu trong lễ Vượt Qua thời Cựu Ước, máu chiên của cuộc vượt qua được bôi lên cửa nhà những người Do Thái, làm cho tai họa “bỏ qua” nhà họ và các con trai đầu lòng của họ thoát chết, thì trong bữa Tiệc Ly – lễ Vượt Qua mới, chính Chúa Giêsu đã trở thành Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Máu của Ngài – máu của Chiên Thiên Chúa sẽ giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết để được trường sinh trong Vương Quốc của Ngài.

Tiệc Ly, thứ đến, còn là bữa Tiệc Thánh. Là bữa Tiệc Thánh vì tất cả những gì liên hệ đều thánh. Người chủ sự bữa tiệc hôm đó không phải là một người phàm, dù đó là người gia trưởng trong các gia đình Do Thái hoặc là Môisê hay Aaron đi nữa; chủ tiệc là Con Thiên Chúa, Đấng “ba lần thánh”. Cả đến đồ ăn thức uống của bữa tiệc đó, tức là bánh và rượu, cũng đã trở thành “của ăn của uống cực thánh” – Mình và Máu châu báu của Chúa. Điều đặc biệt hơn nữa: bữa Tiệc Thánh này sẽ được tiếp nối và kéo dài cho đến tận thế, và những người làm công việc tiếp nối này cũng được “thánh hiến” qua Bí tích Truyền Chức mà Ngài sẽ thiết lập ngay sau đó. Tất cả những gì “liên hệ” tới lễ Tiệc Ly này đều trở thành “thánh”: Thánh lễ, chén thánh, đĩa thánh, khăn thánh, Bánh Thánh, Máu Thánh…

Sau nữa, Tiệc Ly còn là bữa tiệc yêu thương phục vụ. Thánh Gioan đã viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Ngài “yêu thương tất cả những kẻ thuộc về mình”, yêu thương cả Giuđa là kẻ nhẫn tâm phản bội Ngài; yêu thương cả Phêrô là kẻ vô tâm chối bỏ Ngài. Nhưng không phải là yêu thương một cách chung chung mà là yêu thương từng người, cũng không phải là yêu thương một cách hời hợt như ta thường thấy giữa thầy trò, mà là “yêu thương đến cùng”, yêu thương đến độ hiến mạng sống mình, biến thịt máu mình làm của ăn của uống nuôi sống linh hồn. Cử chỉ rửa chân là cử chỉ nói lên sự yêu thương phục vụ đúng nghĩa của nó: yêu thương thì không nề hà, yêu thương thì không tính toán, yêu thương thì không phân biệt đẳng cấp thứ bậc, chủ tớ…; yêu thương thì sẵn sàng quên mình đi để phục vụ.

Có khi nào chúng ta thấy trong một bữa tiệc mà Đức Giám Mục, hay Đức Giáo Hoàng đi lại phục vụ chén bát, phân phát đồ ăn thức uống, châm đá, hoặc bưng nước cho giáo dân rửa tay chưa? Có lẽ là chưa! Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm công việc phục vụ đó, nhưng không chỉ “bưng nước”, mà Ngài còn đích thân cúi xuống rửa chân cho từng người một. Ngài là vị Thiên Chúa mà dân Israel không dám gọi bằng tên, càng không dám tới gần. Nhưng nay Ngài đến thật gần với con người, và không những thế Ngài còn cúi xuống thật thấp trong cung cách là một người tôi tớ, người rốt hết, chứ không phải là một người chủ.. Đây là một cử chỉ nói lên cung cách phục vụ khiêm nhường thẳm sâu nhất của Ngài. Và Ngài cũng mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu thương phụ vụ như Ngài đã nêu gương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (Ga 15,12); “Anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”, nghĩa là “hãy phục vụ nhau như thế”!

Nếu người ta cám ơn thánh Luca vì ngài là vị thánh sử duy nhất đã ghi lại lời Chúa Giêsu dạy về dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-31), thì ta cũng phải biết ơn thánh Gioan vì ngài cũng là vị thánh sử duy nhất ghi lại biến cố vô cùng ý nghĩa xảy ra trước giờ phút Chúa chịu tử nạn, đó là biến cố Ngài rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-20).

Vì những yếu tố trên, Tiệc Ly trở thành bữa tiệc vô tiền khoáng hậu, bữa tiệc cứu độ.

Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi rước lễ, linh mục đều nâng bánh rượu và xướng rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa Đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Là Kitô hữu, chúng ta thật diễm phúc vô cùng, vinh dự vô cùng vì hằng ngày chúng ta được Chúa mời tham dự bữa tiệc đặc biệt này. Hãy dâng lời tạ ơn Chúa luôn. Và một trong những cách thế tạ ơn tốt nhất, thiết nghĩ, đó chính là nỗ lực để “thực thi tình yêu và lòng thương xót” đối với anh chị em đồng loại như Chúa đã nêu gương.

Tất nhiên, Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã rửa chân được cho bao nhiêu người, nhưng Chúa sẽ hỏi đôi bàn tay chúng ta đã giúp đỡ sẻ chia cho được những ai! Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã hôn được bao nhiêu bàn chân, nhưng Chúa sẽ hỏi môi miệng chúng ta đã làm cho bao nhiêu người được an vui hạnh phúc. Chúa không muốn chúng ta trở thành những người thợ làm thuê (rửa chân – hôn chân thuê), những robot, người máy của thời hiện đại, nhưng muốn chúng ta thực sự trở thành những con trai con gái của một vị Thiên Chúa yêu thương, yêu thương đến cùng bằng nỗ lực thực hành giới luật yêu thương mà Chúa đã dạy (x. Tình Chúa – Tình Người, Lm. Giuse Dương Hữu Tình).

Cụ thể đó là ta đã cúi xuống để có thể lắng nghe và cảm thông với những đau khổ và nhọc nhằn của anh chị em đồng loại hay chưa? Ta đã cúi xuống để phục vụ cha mẹ già trong gia đình, gia tộc mình, bằng sự yêu thương kính trọng hay chưa? Ta đã cúi xuống để yêu thương và phục vụ chồng của mình, vợ của mình, con cái của mình bằng sự hy sinh trao hiến chưa? Ta đã quan tâm đến hàng xóm láng giềng, là những người sống bên cạnh chúng ta nhiều hơn chưa?

Dĩ nhiên để có thể yêu thương theo cung cách của Chúa yêu là không dễ chút nào. Cần phải có ơn Chúa trợ giúp. Bí tích Thánh Thể chính là nguồn trợ lực vô cùng cần thiết.

Vậy xin cho mỗi người chúng ta biết năng tham dự Thánh lễ và tiếp nhận Thánh Thể Chúa mỗi ngày, nhờ đó ta có thêm sức mạnh để thực thi giới luật yêu thương đối với anh em mình như Chúa dạy, và để nhờ đó mà ta có được sự sống đời đời mai sau. Amen.

Yêu Đến Cùng –Lm. Huệ Minh

Đâu đó, ta thấy người ta nói về tình yêu. Người ta vẫn nghiên cứu, phân tích tình yêu dưới nhiều góc độ, tốn rất nhiều giấy mực, để lý giải tình yêu… nhưng có lẽ rất ít người hiểu cho đúng tình yêu là gì.

Thi sĩ Xuân Diệu, một người được xem là nhà thơ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết như thế này:

“Làm sao giải nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt…”

Và khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ công giáo trứ danh, khuyên chúng ta – trong bài “Ðà Lạt trăng mờ” – như sau:

“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,

Ðể nghe dưới đáy, nước hồ reo

Ðể nghe tơ liễu run trong gió

Và để xem Trời giải nghĩa yêu.”

“Và để xem Trời giải nghĩa yêu!” Ðúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là phẩm chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để “giải nghĩa yêu”.

Về tình yêu, Chúa Giêsu “giải nghĩa yêu” khi Ngài thỏ thẻ với ông Nicôđêmô biết: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).

Chúa Giêsu cũng đã “giải nghĩa yêu” rất thẳng thắn và chân thành : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13)

Thật vậy, ý nghĩa của tình yêu giờ đây đã được sáng tỏ: yêu thương là trao ban, là hy sinh, là cống hiến, là cho đi… Chính Thiên Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã trao ban Người Con Một cho thế gian; Chúa Giêsu đã yêu thương thế gian nên Ngài đã hy sinh tính mạng cho thế gian.

Xem ra Chúa Giê-su không hề giải nghĩa yêu bằng những lời hoa mĩ. Ngài thể hiện lòng yêu thương qua cuộc sống. Tin Mừng hôm nay cho biết rằng: “Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng… Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn thắt lưng. Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.” (Ga 13, 1.4-5).

Chúa Giêsu đã yêu là “Yêu đến cùng”. Yêu theo cách của Chúa Giêsu là trao ban tất cả, tận hiến tất cả,đến cả mạng sống mình.

Đó là một tình yêu vô vị lợi, không chút tính toán , không mảy may vụ lợi, không ngần ngại quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ . Chúa Giêsu đã yêu thương con người đến cùng, nên đã cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ : “Này là Mình Thầy” : Đó là tình yêu tự hiến, hy sinh chính mình để cho nhân loại được sống. Chúa Giêsu yêu thương đến cùng nên đã chấp nhận chịu chết đau thương trên thập giá : Đó là tình yêu cao cả, từ bỏ ý riêng hoàn toàn để thực hiện ý Chúa Cha. “Xin cất chén này xa Con, nhưng đừng vì ý Con, mà hoàn toàn tuân theo thánh ý Cha”. Như thế, yêu đến cùng là một tình yêu đích thực và đã làm nên những điều kỳ diệu.

“Yêu đến cùng” là sống trọn vẹn, là “chơi xả láng”.

Đó chính là từ ngữ mà Thánh Gioan Tông Đồ diễn tả về cách sống của Chúa Giêsu đối với các môn đệ của Mình và cho cả chúng ta. Tình yêu ấy muốn trao ban tất cả những gì là tốt đẹp, là thiện hảo nhất cho người mình yêu mến.

Chúa Giêsu đã nêu gương trước cho chúng ta, Chúa Giêsu đã không giữ lại cho mình cái gì, dù là cả sinh mạng. Ngài hiến thân để trở thành của lễ toàn hảo dâng lên Chúa Cha hầu mong cứu chuộc con người khỏi thần chết và sự dữ. Tình yêu ấy kêu mời chúng ta hãy biết thể hiện tình yêu cách trọn vẹn, không tính toán đối với anh em mình.

“Yêu đến cùng” là quỳ gối xuống, trở thành kẻ tôi đòi, chấp nhận thân phận của một người phục vụ để cho mong cho anh em được lớn lên. “Không còn vẻ hình hài, dáng dấp oai phong” nhưng trở nên “Con chiên gánh tội trần gian”.

Học với chữ “yêu” của Chúa Giêsu. Yêu này đòi hỏi mỗi người chúng ta sống quảng đại, sẵn sàng chia sẻ, chịu thua lỗ, để anh em mình “được lời”. Sống chữ “yêu” của Chúa, chúng ta hãy tập cho mình thái độ “cúi mình, uốn cong lưng xuống” để phục vụ và sống vì, sống cho anh em.

“Yêu đến cùng” là chết để cho anh em mình sống. Chúa đã từng dạy và nêu gương cho tất cả chúng ta về một tình yêu tận hiến hoàn toàn. Ngài đã trở nên chiếc bánh cho mọi người ăn, trở nên máu cho mọi người uống. “Ngài hiến thân vì và cho tất cả chúng ta” bằng chính cái chết của mình. Và “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng người dám hiến thân vì người mình yêu”.

Tình yêu của Chúa đã đi đến tuyệt đỉnh, để như hạt lúa bị chôn vùi, thối đi, để con người chúng ta có được mùa gặt bội thu.

Yêu đến cùng là quảng đại dấn thân và có khi phải thiệt thân vì Tin Mừng. Vì yêu nên chấp nhận sống cảnh âm thầm, vô danh như những tu sĩ sống đời chiêm niệm. Yêu đến cùng là sẵn sàng chấp nhận phần thiệt thòi để người khác được nhiều phần lợi hơn như các thánh tử đạo đã chấp nhận thiệt cả thân mình.

Yêu đến cùng đòi hỏi quảng đại hy sinh theo gương Chúa Giêsu : chủ nhân  trở thành tôi tớ bằng cách tự nguyện phục vụ, Thiên Chúa trở thành “kẻ tội đồ” để mang lại sự sống cho kẻ tin.

Yêu đến cùng không chỉ có tấm lòng nhưng là thể hiện tấm lòng bằng hành động cụ thể, nghĩa là không chỉ làm những việc từ thiện, mà làm việc bác ái với tấm lòng yêu thương chân thành và quảng đại.

Nhìn lên tình yêu Giêsu, ta hãy học và bắt chước thái độ “Yêu đến cùng” của Chúa, là chúng ta biết khiêm tốn phục vụ trong những điều nhỏ bé nhất một cách vô vị lợi.

Ở Lại Trong Tình Thương Của Thầy- Lm. Jb. Nguyễn Minh Hùng

Có lần Chúa Giêsu nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.  Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9-10). Khi mời gọi chúng ta hãy ở lại trong tình thương của Người, Chúa Giêsu, qua cuộc sống trần thế, đã chứng tỏ lòng yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Chúa Cha đã dành cho Người.

Tình yêu mạnh mẽ ấy đã khiến Chúa vui hiến thân làm giá cứu chuộc loài người. Tình yêu ấy thúc đẩy Chúa để lại cho trần thế Kho Báu muôn đời cần thiết cho loài người: bí tích Thánh Thể.

Khai mạc Tam nhật Thánh, chúng ta cử hành và tưởng niệm việc Chúa hiến mình đến muôn đời để ở lại với chúng ta nơi bí tích Thánh Thể, là chúng ta cử hành và nhắc nhở nhau về một tình yêu vô song. Đó là một tình yêu dữ dội, một tình yêu trào tràn, một tình yêu ngút ngàn. Đó là một tình yêu muôn đời không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu, ngoài Thiên Chúa.

Bản chất của tình thương yêu nơi cung lòng Thiên Chúa là thế: một khi đã thông truyền, nó sẽ thông truyền trọn vẹn, không kém bớt, không tiêu hao, không sứt mẻ, không giảm suy. Nó là một công thức luôn luôn: “thế nào… thế ấy”. Được yêu thế nào, sẽ yêu thế ấy.

Tình yêu thương của Chúa Cha truyền sang Chúa Con là tình yêu của Đấng Toàn Năng thể hiện mình. Người là Thiên Chúa cuồn cuộn trong sự thủy chung, giàu có trong sự trao ban, trào tràn trong sự hiến dâng, bền bỉ trong sự giải cứu, sẵn sàng trong sự đón nhận, lớn lao trong sự tha thứ, cao cả trong sự chở che, mạnh mẽ trong sự phục hồi…

Đến lượt Chúa Con, sau khi nhận lãnh tình yêu của Chúa Cha, lại tiếp tục truyền sang chúng ta. Người yêu chúng ta bằng một tình yêu tròn đầy từ muôn đời cho đến muôn đời, luân chảy từ Chúa Cha đến chúng ta; một tình yêu không bao giờ có thể sánh ví, một tình yêu núi không thể đo, biển không thể dò.

Bởi vậy, Chúa Giêsu khẳng định về tình yêu của Người: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Gioan 15,9).

Bởi tình yêu của Thiên Chúa là môi sinh che chở chúng ta đẹp đến vậy, cho nên tình yêu ấy trở thành nguồn hạnh phúc vô cùng cho những ai biết ở lại trong nó.

Chúa Giêsu biết chúng ta cần tình yêu ấy, Chúa Giêsu biết chúng ta trông ngóng tình yêu ấy, Chúa Giêsu biết chúng ta không thể thiếu tình yêu ấy, vì thế, ngay sau lời dạy “hãy ở trong tình yêu của Thầy”, Chúa dạy ta cách thức để giữ mãi tình yêu ấy: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”(Ga 15, 11).

Lắng nghe Chúa Giêsu dạy, Ta phấn đấu mỗi ngày một nhiều hơn để sống giới răn của Chúa, sống hoàn hảo nhất Lời Chúa dạy. Bởi chỉ có phương thế ấy, ta mới có thể trọn vẹn chiếm lấy tình thương yêu của Thiên Chúa.

Ta hãy đến lãnh nhận Mình và Máu Thánh của Chúa. Khi thông hiệp với Chúa rồi, ta giữ lấy tình yêu của Chúa mà sống trong đời, để mọi nơi, mọi lúc, ta chứng tỏ cho đời, nơi cuộc sống của mình là chính tình yêu vô cùng của Thiên Chúa từ bi đại lượng.

Hãy nỗ lực bằng khả năng trao ban tình thương mà bản thân đã được Chúa dành cho mình, để ta luôn có Chúa Giêsu nơi tâm hồn mình. Và vì có Chúa Giêsu, ta cũng sẽ trọn vẹn sống trong Thiên Chúa.

Hãy hoàn hảo hóa giới răn của Chúa nơi đời sống bản thân mình, để ta nên một trong Chúa Cha và Chúa Con nhờ tình yêu chan chứa của Chúa Cha và Chúa con.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống giới răn Chúa, để chúng con luôn biết giữ mãi tình yêu của Chúa nơi tâm hồn và nơi cuộc đời chúng con. MỘt khi giữ trọn tình yêu Chúa, chúng con hy vọng, mãi muôn đời chúng con sẽ ở lại trong tình yêu của Chúa, như Chúa ở lại trong tình yêu của Chúa Cha. Amen.

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Họ Nhìn Xem Đấng Họ Đã Đâm Thâu Qua- Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa

Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá thật thê thảm, nhưng cũng thật sâu thẳm nhiều người biết đến. Trải qua năm này sang năm khác chúng ta lại nghe bài thương khó và nhìn lại biến cố đau thương này.

Nhưng nếu chỉ nghĩ đến khía cạnh thê thảm về cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá thôi, thì nhiều người sợ không muốn theo đạo, hoặc không muốn nhìn lên cây Thập giá. Vì thế, điều căn bản và sâu thẳm khi SUY TÔN Thánh giá là chúng ta SUY TÔN TÌNH YÊU CỦA NGÀI.

– Trước hết, vì tội lỗi nhân loại nên con người phải chết. Chúa Kitô đã nhập thể. Ngài cũng chấp nhận cái chết. Nhưng cái chết của Ngài là vì “yêu những kẻ thuộc về Người đang ở thế gian này và Người đã yêu họ đến cùng”.

– Đó cũng là điều căn bản mà chiều nay chúng ta cử hành, chúng ta chiêm ngắm: chiêm ngắm Tình Yêu được biểu lộ ra bên ngoài, Tình Yêu chiến thắng đến cùng, chiến thắng sự chết và chiến thắng tội lỗi.

– Vâng, chiều nay chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của một VỊ VUA, VUA TÌNH YÊU được thể hiện trên cây thập giá để chúng ta ngắm nhìn.

– Đó là một sự kinh ngạc đến nỗi viên sỹ quan ngoại giáo đã phải kêu lên: “Thật, người này là Con Thiên Chúa”. Liệu chúng ta có ngây dại hoặc đần độn mãi không? Chắc chắn rằng không! Người ta đã đâm thâu trái tim Con duy nhất, Con Thiên Chúa. Và chúng ta đã khám phá ra TÌNH YÊU của Ngài được thể hiện ở đó. “Trong trái tim Chúa yêu muôn đời, con xin được một chỗ nghỉ ngơi”.

– Yêu đến cùng! Vâng, Ngài đã chết; Vua vũ trụ đã chết vì một sức mạnh và ngọt ngào vô biên:  Mọi sự đã hoàn tất. Chúng ta chiêm ngắm Đấng đã chết vì Tình Yêu.

– Chúng ta thấy trong bàn tay bị đóng đinh của Chúa Giêsu trên thập giá, có cả những bàn tay khép kín, sợ sệt của chúng ta chẳng có gì để mà yêu, để mà mở ra. Hãy xin Chúa ban cho chúng ta ơn tha thứ và biết mở bàn tay ra để yêu!

– Chúng ta thấy trên bàn chân Chúa bị đóng đinh, có cả những bước chân chối từ của chúng ta không muốn để Chúa dẫn đi, để vâng lời Ngài và tin tưởng vào Ngài. Chúng ta đã phạm tội vì không để Chúa dẫn đi trên con đường tình Yêu Thập giá. Hãy xin Chúa ban cho chúng ta ơn phó thác.

– Chúng ta thấy trong trái tim Chúa bị đâm thâu, có cả những thiếu sót của tình yêu chúng ta: tình yêu ty tiện và vụ lợi. Hãy xin ơn biết mở trái tim chúng ta ra cho Chúa và cho anh chị em chúng ta!

– Vâng, chiều nay chúng ta mệt nhọc vì tội lỗi chúng ta; chúng ta như Phêrô chối Chúa và trốn chạy. Nhưng trước tình yêu cao cả của Chúa, như Phêrô, chúng ta hãy khóc. Những giọt nước mắt thống hối và bình an để tình yêu Chúa lấp đầy; những giọt nước mắt của trái tim trẻ thơ sẽ tìm lại được tình yêu. Và cuối cùng chúng ta được yêu, được yêu đến cùng. Mọi sự được hoàn tất!

– Một lát nữa, chúng ta suy tôn Thánh giá; khi suy tôn chúng ta sẽ lãnh nhận hoa quả của Thập giá. Và khi suy tôn, chúng ta liên tưởng đến Mẹ Maria, người Mẹ liên kết thẳm sâu với Thập giá chừng nào!

– Vì thế, chúng ta hãy đón nhận Đức Maria như người mẹ của chúng ta! Món quà tuyệt vời! Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá, chắc chắn Mẹ cũng đứng dưới chân những đau khổ của chúng ta, dưới cả những tội lỗi của chúng ta. Mẹ khóc vì chúng ta và cho chúng ta!

– Chiều nay, khi suy tôn Thập giá, chúng ta có thể nói với Chúa Giêsu về tình yêu của chúng ta bằng hương thơm trái tim chúng ta, hay nói cụ thể hơn bằng lời cầu nguyện sâu xa, chăm chú, đầy tình yêu. Hoa quả của Thập giá, chính là tình yêu được canh tân vì Chúa Kito.

– Hơn nữa, hoa quả vĩ đại nhất của thập giá, chính là có thể đón nhận thân thể Chúa Giêsu như Giuse Arimathia. Thân thể Chúa Giêsu chỉ muốn nên một với chúng ta, đó là Thánh Thể quý giá chừng nào mà một lát nữa chúng ta đón nhận và cố gắng đón nhận mỗi ngày.

– Trên con đường theo Chúa Kito, đôi lúc chúng ta có thể như Nicođemo đến với Chúa Giêsu ban đêm vì sợ người do-thái; nhưng từ nay chúng ta hãy là Nicodemo xuất hiện giữa công nghị để bảo vệ đức tin chúng ta, bảo vệ danh Chúa Kito, như Ngài đã bảo vệ chúng ta vì chúng ta không còn sợ nữa.

Tôn kính Thánh giá, đón nhận thánh giá, đó là trở nên nhân chứng của Chúa Kito.

Lạy Chúa Giêsu Kito, giờ đây chúng ta xin phó thác vào Chúa, vị VUA VŨ TRỤ của chúng con! Xin Chúa tạo dựng lại thế giới, đặt sự sống mới vào mọi nơi và mọi người. Xin Chúa làm sống lại tất cả những gì đã chết. Xin Chúa làm cho trái tim tội lỗi của chúng con biết mở ra cho tương lai Phục sinh!

Sức Mạnh Của Thánh Giá–  Lm. Jb. Nguyễn Minh Hùng

Kể từ sau ngày 11.9.2001, hàng năm, ngày này trở thành ngày giỗ của trên 3.000 nạn nhân bị khủng bố giết hại tại tòa Tháp đôi Trung tâm Thương mại Quốc tế ở New York của Mỹ.

Ngày này cả nước Mỹ hướng về biến cố đau thương này, cử hành nghi thức tưởng niệm long trọng vừa như tưởng niệm các nạn nhân, vừa như nhắc nhau nhớ mãi sự kiện lịch sử nhói lòng bởi những bàn tay bất nhân, đêm ngày chỉ biết nhuộm máu đồng loại.

Có thể nói, từ ngày đó cho đến nay, người Mỹ giảm thiểu bình an. Dù rằng Mỹ rất mạnh về kinh tế, nỗi bậc về vũ khí và quân sự… dư sức đem quân đi đánh quốc gia của người khác, nhưng tại Mỹ, dân chúng vẫn thắp thỏm, hoang mang, bởi khủng bố có thể đe dọa bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.

Bạn cứ nghĩ mà xem, con người ta sống mà cứ phải cảnh giác, cảnh giác, cảnh giác… thì bình an ở đâu. Thiếu vắng bình an sẽ là đau khổ, sẽ là sợ hãi, sẽ là tăm tối. Bình an không còn trong lòng người, không còn bảo đảm cho nơi mình phải sống, không còn là cứu cánh cho cuộc đời nhiều gai góc, chắc chắn cuộc sống sẽ khó khăn hơn, lòng người nhiều chao đảo, chới với hơn.

Có thể nói, hai tòa tháp đôi ấy là biểu tượng của nền văn minh hiện đại của nhân loại, biểu tượng của sự khôn ngoan, là sức mạnh vững vàng, là niềm kiêu hãnh của con người… Vậy mà chỉ trong nháy mắt, hai tòa tháp khổng lồ biến thành đống gạch vụn, vùi lấp trong lòng nó đến hơn 3.000 sinh mạng cùng biết bao nhiêu của cải khác.

Nói với bạn về biến cố 11.9.2001 trong những ngày tuần Thánh, những ngày đặc biệt tưởng nhớ Chúa Kitô Thánh Giá, tôi muốn làm một so sánh, chẳng phải lớn lao gì, nhưng đủ để thấy sức mạnh vạn năng của Tình yêu Thiên Chúa trong những gì tầm thường nhất, nhỏ bé nhất.

Cứ ngước nhìn Thánh Giá mà xem, bạn sẽ thấy ở đó một hình tượng thảm khốc: một người chết gục đầu, chết trần trụi, không đủ một tấm áo che thân; thân xác gắn chặt vào những chiếc đinh oan nghiệt; chết tức tưởi, chết ô nhục, thân xác thâm bầm đầy thương tích, lồng ngực mở rộng, trái tim bị đâm thủng, gai nhọn cài nát đầu, chết đơn độc treo giữa trời và đất…

Người đó là ai? Là Thiên Chúa làm người. Nhưng tất cả sao chỉ là là đau đớn ê chề. Tưởng chừng chỉ là thất bại?

Thánh Giá – đó là phương tiện của tội lỗi, phương tiện của sự chết, người ta dùng nó để giết người, và loài người dùng nó để giết chết Chúa của mình.

Bạn cứ nhìn và sẽ thấy, cây Thánh Giá thật là yếu ớt, mong manh, nhỏ bé.

Nhưng không: không thất bại! Không yếu ớt! Đối người tin, đó lại là sức mạnh lớn lao của tình yêu, của ơn cứu chuộc.

Từ một dụng cụ độc ác, đê hèn, loài người nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu biến nó thành dấu chứng của tình yêu lớn khôn cùng: tình yêu vâng phục đối với Chúa Cha, tình yêu dâng hiến cho nhân loại.

Nếu chỉ nhìn bằng ánh mắt phàm trần, so với công trình lớn lao của nhân loại, Thánh Giá có đáng gì đâu. Nhưng sức mạnh của Thánh Giá là sức mạnh ngàn đời.

Văn minh của loài người dẫu lớn đến đâu, niềm kiêu hãnh; sự khôn ngoan của họ dẫu mạnh cách mấy; những công trình trần thế dẫu có nguy nga, dẫu được coi là xây dựng vững vàng, nhưng chỉ một hành vi phá hoại mà thôi, tất cả tan biến như bọt biển. Chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô mới muôn đời tồn tại.

Hay dẫu thế gian này có qua đi, dẫu cả loài người có tàn hơi, kiệt sức, hay nền khoa học hiện đại này được con người ca tụng là phát triển rực rỡ, một ngày nào đó cũng sẽ là tro bụi. Tất cả chỉ là tạm bợ, là hư nát. Chỉ có Thánh Giá được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới, là cây gỗ duy nhất đáng để chúng ta tôn thờ.

Dẫu cho bất kỳ thời đại nào, con người có thù nghịch với Thánh Giá, Thánh Giá vẫn còn đó. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Hội Thánh và lịch sử nhân loại, người ta đã bắt bớ, bách hại Hội Thánh, cố tình đặt mối hận thù với Thánh Giá Chúa Kitô, Thánh Giá không vì thế mà mất đi, Hội Thánh không vì thế mà lụng bại.

Trái lại, Thánh Giá vẫn còn đó, muôn đời là dấu chứng của tình yêu, của lòng thương xót vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người, và Hội Thánh của Chúa Kitô vẫn mãi mãi là dấu chỉ của ơn cứu độ, mà từ nơi Thánh Giá, Thiên Chúa ban cho trần gian.

Thánh Phaolô đã đúc kết những suy nghĩ của mình trong những dòng chữ ngắn gọn, nhưng đầy ý nghĩa:

“Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta, là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa…. Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Chúa Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ… Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1, 18- 25).

Do những lời trên của thánh Phaolô cho phép ta có quyền nói mạnh rằng: Thiên Chúa đã dùng chính cái mà con người cho là điên rồ, là yếu đuối để lật đổ chính sự không ngoan và mạnh mẽ của họ.

Thế mới hay: tất cả chỉ là tạm bợ, còn Thánh Giá Chúa Kitô được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới. Thánh Giá, cây gỗ duy nhất mà muôn đời chúng ta tôn thờ.

Dẫu cho thời gian có qua đi, vạn vật có qua đi, thì Thánh Giá vẫn còn mãi như dấu chỉ và sức mạnh của tình yêu mà Thiên Chúa không ngừng yêu thương con người.

Ta hãy ngước nhìn Thánh Giá để biết ơn Thiên Chúa, và cảm tạ tình yêu lớn lao của Người. Vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 8, 16).

Chính tình yêu làm nên ơn cứu độ. Thiên Chúa yêu cho đến mức, ngay chính người Con Duy Nhất của mình, Người cũng chẳng tiếc, để tất cả được trao ban cho ta.

Yêu trần gian đến thế, cho nên mọi sáng kiến đều nhằm một mục đích duy nhất là chuộc trần gian về với mình: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian , không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 8, 17).

Bạn thân mến, để kết thúc những gì bạn và tôi vừa suy niệm, một lần nữa ta hãy ngước nhìn Thánh Giá và học nơi đó bài học của yêu thương và tha thứ, bài học lớn lao của sự chấp nhận và hy sinh – chấp nhận tan biến để mưu cầu lợi ích cho anh chị em và dám hy sinh để biết từ bỏ những gì cản trở ta vươn lên trong việc thực hiện yêu thương. Ngước nhìn Thánh Giá, bạn và tôi còn học nơi đó tất cả lòng khiêm nhu, khó nghèo, vâng phục… Và chính nơi Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được sức mạnh và sự nâng đỡ để tiếp tục vác thập giá đời mình bước đi với Chúa Kitô trên con đường thương khó.

Người Chết Vì Yêu- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Con người sống phải yêu. Yêu là hơi thở, là lý do sống của con người. Có tình yêu thì cuộc đời mới đáng sống, cho dẫu phải trải qua đau thương, tan nát, sầu phiền. . . Vì yêu mà con người sẵn lòng nếm trải những đắng cay muộn phiền. Thế nên, có ai đó nói rằng:

“Yêu là một loại cảm nhận, dù có thống khổ vẫn cảm thấy hạnh phúc.

Yêu là một loại nhận thức, dù có tan nát cõi lòng nhưng vẫn cảm thấy ngọt.

Yêu là sự từng trải, dù có bị nghiền nát vẫn cảm thấy tươi đẹp.”

Có một cô gái đã kể với tôi như sau:

“Bạn con, 25 tuổi lấy chồng. 27 tuổi sinh đứa con đầu lòng. 31 tuổi xây nhà.

Cuộc đời cô ấy diễn ra luôn được hoạch định trước. Năm nay làm gì, sang năm mua gì. Mọi thứ đều nằm trong kế hoạch được lên sẵn.

Nhưng cuộc đời đâu mãi là màu hồng. 3 tháng trước, cô ấy đi khám thai lại phát hiện mình bị ung thư. May mắn là bệnh mới ở giai đoạn đầu, nghĩa là cô ấy có khả năng kéo dài sự sống. Điều lạ là con đến thăm cô ấy luôn  lạc quan yêu đời và còn đùa rằng: “Thế là tao tránh được nỗi lo tuổi già rồi. Không sợ xấu, sợ nhăn nữa…. Bệnh tật, vốn không nằm trong toan tính của đời người. Nhưng tao vẫn yêu, vẫn vui để bé ra đời trong hạnh phúc ngay từ trong trứng nước”.

Tình yêu đã chiến thắng khổ đau. Tình yêu còn mang dáng dấp của sự bất tử. Cô gái trên đang mang trong mình hoa trái của tình yêu, điều đó đã khiến cô luôn vui tươi lạc quan ngay trong đau khổ bệnh tật. Tình yêu giúp cô tận hiến cả bản thân đến nỗi quên đi cái đau của bệnh tật để sống vì mầm sống tương lai.

Cuộc đời không bao giờ theo ý ta mong đợi. Đôi khi cái xui, cái khổ, cái đắng cay cứ theo nhau chồng chất lên cuộc đời ta. Điều quan yếu là ta phải sống có mục đích, có lý tưởng, có tình yêu để vượt thắng tất cả hầu đạt được mục đích của mình.

Hôm nay chúng ta chiêm ngắm hành trình cuộc thương khó của Chúa Giê-su như là mẫu gương cho cuộc đời chúng ta. Ngài đã đi vào cuộc thương khó trong chén đắng với lời xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Mục đích của Ngài đến trần gian là để cứu độ nhân gian. Lý tưởng của Ngài là trở nên mọi sự cho mọi người. Tình yêu của Ngài dành trọn vẹn cho Thiên Chúa Cha. Thế nên, cuộc thương khó là “Giờ” của tình yêu mà Ngài sẽ tỏ bày với Chúa Cha. Ngài vẫn hằng mong mỏi Giờ này để tôn vinh Chúa Cha. Ngài từng nói vì “Giờ” này mà tôi đã đến thế gian.

Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người đều chọn sống cho tình yêu và vì tình yêu. Cách sống vì tình yêu sẽ mang lại cho người mình yêu niềm vui và hạnh phúc. Cách sống cho tình yêu sẽ mang lại cho đời những nghĩa cử cao đẹp khi cống hiến cho người mình yêu.

Xin cám ơn tình yêu cao vởi của Thầy Giê-su mà nhân loại được giao hòa với Chúa Cha và được trở nên con cái Ngài.

Xin cám ơn tình yêu hy sinh một nắng hai sương của cha mẹ mà con cái được no đầy hạnh phúc yêu thương.

Cám ơn tình yêu của những đôi vợ chồng son sắt thủy chung luôn chia sẻ ngọt bùi với nhau trong mọi thăng trầm cuộc đời.

Xin cám ơn tình yêu của những tông đồ nhiệt thành đang phục vụ giáo xứ, phục vụ cộng đoàn mà chẳng cần đền đáp.

Tất cả những tình yêu hy sinh ấy đã tô đẹp cho cuộc đời. Tất cả những tình yêu hy sinh ấy đã mang lại cho đời hương thơm của hạnh phúc để làm vơi đi nhứng gánh nặng khổ đau.

Xin Chúa là tình yêu giúp chúng ta biết sống theo gương Chúa luôn sống cho tình yêu và dâng hiến cho tình yêu. Xin cho chúng ta biết chết đi cái tôi của mình để sống cho người mình yêu. Amen Tôn Thờ Thánh Giá Khám Phá Tình Yêu

Khám Phá Tình Yêu Thánh Giá Tôn Thờ– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.

Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết”.

Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : “Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.

Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta” (Is 53, 2-6).

Người ta nói rằng: nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết  “Thiên Chúa là Tình Yêu “, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiền xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?

Thưa, Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.

Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục ; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả là một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.

Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chống lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, “sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” (1Cr 15, 54-55).

Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra ; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé ? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương miện chiến thắng chúng ta nhận.

Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.

TIẾNG NÓI CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG-  Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Nếu như người ta vẫn nói trái tim có lý lẽ của nó, thì chúng ta cũng có thể nói : Tình yêu cũng có ngôn ngữ riêng của nó. Ngôn ngữ của tình yêu không chỉ là những lời lẽ ngọt ngào, mà còn là những ngôn ngữ không lời, những dấu chỉ không thành tiếng. Ngôn ngữ của tình yêu, không chỉ được nghe bằng tai, mà còn bằng sự cảm nhận của trái tim, ngắm nhìn bằng con mắt và tiếp xúc bằng các giác quan.

Có thể nói bầu khí phụng vụ của ngày Thứ sáu Tuần thánh mang những màu sắc và cung điệu trầm buồn, nhưng trong sự trầm lắng này, chúng ta như có thể nghe được tiếng nói và đụng chạm được đến tình yêu của Thiên Chúa qua cuộc tử nạn đau thương của Chúa Giêsu.

Có những người cho rằng, phải chăng cái ác và sự bất công luôn thắng thế ? Phải chăng Thiên Chúa cũng chịu thua trước sức mạnh của ma quỷ và sự dữ ? Tại sao một Thiên Chúa vô tội lại phải chịu một bản án bất công như vậy ? Chúng ta sẽ không thể trả lời được bằng những lý lẽ thông thường, mà chỉ có thể trả lời rằng : Thiên Chúa có cách riêng của Ngài để bày tỏ tình yêu thương đối với con người.

Tiên tri Isai đã thấy trước và đã nói về Chúa Giêsu trong hình ảnh của một người tôi tớ chịu đau khổ. Người tôi tớ này một mực trung thành với Thiên Chúa. Nhìn dáng vẻ bề ngoài, người ta chỉ có thể thấy một gương mặt tan nát, một thân xác tả tơi vì bị hành hạ. Ngài hoàn toàn im lặng đón nhận tất cả sự xỉ nhục, hành hạ của kẻ dữ mà không buông một lời oán trách. Ngài đón nhận tất cả tội vạ của muôn dân, gánh chịu muôn nhục hình do tội nhân loại. Bị ngược đãi, Ngài không mở miệng phản kháng, giống như chiên cừu khi bị xén lông. Tiên tri Isai cho thấy, Người Tôi tớ của Thiên Chúa chịu tất cả những hành hạ ấy, chỉ vì một lòng hiếu trung với Thiên Chúa, để cho Thiên Chúa được vinh danh và để đem lại sự sống và ơn tha thứ cho nhân loại.

Hình ảnh Người Tôi Trung đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu và được thánh Gioan thuật lại trong bài thương khó hôm nay. Có người đặt vấn đề : Chúa Giêsu có thể tránh cuộc khổ nạn và dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại không ? Chắc chắn Chúa có thể dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại, nhưng Chúa đã không tìm cách tránh né. Ngài đối diện và đón nhận thập giá với lòng yêu mến, vâng phục tuyệt đối dành cho Thiên Chúa Cha và tình yêu vô hạn dành cho con người, là những kẻ được Chúa yêu thương.

Trong cuộc khổ hình thập giá, Chúa Giêsu không chỉ đau khổ thể xác bởi sự hành hạ dã man của những tên lính, thánh Gioan còn cho thấy, Chúa Giêsu vô cùng đau khổ trong tâm hồn bởi những người Ngài thương yêu đã gây tổn thương cho Ngài. Ngay từ bữa tiệc ly tối hôm qua, Chúa đã thể hiện tình yêu đến cùng dành cho các môn đệ, qua việc trao ban chính con người và mạng sống để làm của ăn của uống cho nhân loại. Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các tông đồ để thể hiện tình yêu thương và dạy các ông bài học phục vụ. Trong lúc đó, các tông đồ dường như không quan tâm, họ tỏ ra dửng dưng trước hành động của Chúa Giêsu và quay sang bàn với nhau về chuyện khác.

Tiếp đến, Chúa Giêsu đau đớn với tâm trạng bị phản bội bởi kẻ Ngài yêu thương là Giuđa. Ngài đã tin tưởng anh, đã yêu thương anh như những môn đệ khác, vậy mà giờ đây, chính anh lại đưa các thượng tế và quân lính đến bắt Thầy mình. Anh đã trở thành kẻ chỉ điểm để người ta bắt Thầy, anh đã lấy cái hôn làm dấu chỉ để phản bội Thầy. Người ta chỉ hôn nhau khi thể hiện tình yêu thương, nhưng Giuđa lại dùng cái hôn để làm dấu chỉ phản bội. Cái hôn ấy chẳng khác gì cái tát vào mặt Chúa Giêsu.

Không chỉ sự phản bội của Giuđa gây đau khổ trong tâm hồn Chúa Giêsu, các tông đồ khác cũng không khá hơn. Các ông trước đây có người từng thề sống thề chết với Thầy, thì giờ đây, chỉ một chút sợ hãi, các ông đã bỏ trốn hết. Simon Phêrô là người được Chúa tin tưởng đặt làm đầu trong anh em, ông chỉ dám đi theo Chúa xa xa vì sợ liên lụy. Khi thử thách đến, Phêrô đã không ngại ngần từ chối mối liên hệ của mình với Thầy Giêsu, Đấng đã yêu thương ông.

Một đau khổ khác mà Chúa Giêsu phải chịu, đó là sự vô ơn và vô cảm của đám đông. Trong những người la hét đòi đóng đinh Chúa, không thiếu những kẻ mới mấy ngày trước họ hoan hô, vỗ tay reo mừng khi Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là con vua Đavít. Thế mà trước dinh Philatô, họ đã trở mặt và tuyên bố : Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cesare.

 Trong lúc chịu đau khổ cùng cực trong tâm hồn và thể xác, chúng ta nhận thấy lòng thương xót của Chúa Giêsu vẫn tuôn trào qua hành động đón nhận tất cả những cực hình và qua ánh mắt yêu thương, tha thứ của Chúa. Trong lúc quân dữ đang hùng hổ tìm bắt Chúa, Chúa Giêsu hết sức ôn tồn, bình tĩnh bước ra gặp chúng và hỏi : Các anh tìm ai ? Nó đáp : Tìm Giêsu Nazareth. Ngài đáp : Chính tôi đây. Một lời nói với đầy sức mạnh và uy quyền đã khiến chúng bật ngã ra đàng sau. Lúc chúng ra tay bắt Chúa, Đức Giêsu đã không nghĩ đến mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với chúng : Nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để những người này đi.

Lúc dân chúng tố cáo Chúa Giêsu trước mặt các Thượng tế về các bài giảng của Ngài, Chúa Giêsu đã không lên tiếng biện hộ cho mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với những kẻ tra hỏi Người : Tôi giảng dạy công khai trong đền thờ, tôi không nói gì lén lút cả, xin các ông cứ hỏi những người đã nghe tôi, chính họ biết tôi đã nói gì. Thánh Gioan đã tinh tế cho thấy : Trong khi trong dinh thượng tế, Chúa Giêsu vẫn hết lòng tin tưởng và yêu mến những kẻ Ngài đã tuyển chọn, thì bên ngoài, Phêrô, kẻ được Ngài tuyển chọn, lại công khai từ chối Chúa tới ba lần trước mặt một đứa đầy tớ gái. Lúc này, tình yêu thương của Thiên Chúa đã thể hiện qua cái nhìn của Chúa Giêsu. Ánh mắt yêu thương của Chúa đã gặp được ánh mắt sợ hãi, phản bội của Phêrô, khiến cho Phêrô cảm thấy ân hận suốt đời trước một tình yêu quá lớn lao.

Trước dinh Philatô, Chúa Giêsu cảm nhận sâu xa và đau đớn vô cùng bởi sự bội bạc, vô ơn của đám dân chúng. Họ đã chọn đứng về phía sự ác và sự dữ khi đòi tha Baraba và giết Giêsu. Họ công khai từ chối thẩm quyền của Thiên Chúa để quy phục quyền bính của một ông vua đang đô hộ họ. Những người Do Thái đã rắp tâm loại trừ Chúa Giêsu và họ đã tìm mọi cách gây áp lực để đạt được ý đồ gian ác của họ. Khi Chúa Giêsu phải vác thập giá trên vai, bước đi những bước nhọc nhằn, thì quân lính và dân chúng hả hê, thỏa mãn vì đã đạt được mưu đồ của họ là vùi dập một con người cho đến chết. Cái ác dường như thắng thế, công lý dường như bất lực, Thiên Chúa dường như cũng im lặng trước khổ đau của Chúa Giêsu. Nhưng trong khung cảnh tối tăm của sự ác ấy, ánh sáng của tình yêu vẫn không hề bị dập tắt.

Thánh Gioan, vị tông đồ được Chúa yêu, đã cảm nhận được sự đau khổ và tình yêu của Chúa qua hành trình thập giá. Mỗi bước đi, mỗi chặng dừng, từ dinh Thượng tế Anna đến Caipha, từ dinh Philatô đến dinh Herode và từ dinh Philatô đến cái chết thảm thương trên thập giá đồi Calvariô, là một chặng đường dài của lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nếu chỉ nghe hoặc xem lại cuộc thương khó của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy một cuộc hành hình bất công, đầy hung ác, tàn bạo và máu me. Nhưng nếu chúng ta nghe bài thương khó này bằng trái tim và bằng sự cảm nhận của tâm hồn, chúng ta sẽ được đụng chạm đến tình thương của Thiên Chúa. Và, nếu chúng ta lắng nghe cuộc thương khó của Chúa trong thinh lặng, để cho trái tim mở ra, chúng ta sẽ nhận ra hình ảnh và trách nhiệm của mình có liên quan trong cuộc hành hình này.

Cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà chúng ta suy niệm chiều nay là cách thức Thiên Chúa nói với con người về một tình yêu bao la, về lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa dành cho con người. Với tiếng nói tình yêu này, chúng ta không chỉ nghe bằng tai, nhưng xin cho trái tim của chúng ta cũng biết lắng nghe, biết mở ra để cho lòng thương xót của Chúa đổ tràn trong chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ biến mình trở thành kẻ dửng dưng vô tình trước tình yêu của Chúa và cũng đừng bao giờ đóng cửa trái tim trước nỗi khổ đau của anh chị em. Amen.

Suy Niệm Về Thánh Giá- Lm. Emmanuel Nguyễn Vinh Gioang

Hôm nay, một hình dáng xù xì, khẳng khiu, vươn cao lên, xòe rộng ra, ôm lấy chúng ta, bao phủ chúng ta, đó là bóng Cây Thánh Giá của Chúa Giêsu Kitô.

Thập giá và Thánh Giá khác nhau một trời một vực: thập giá là do lòng hận thù độc ác của loài người sản xuất ra, còn Thánh Giá là do lòng yêu thương vô bờ vô bến của Thiên Chúa sáng tạo nên.

Trước khi trở thành Thánh giá, thập giá là hai miếng gỗ sù sì, trần trụi, gồ ghề, nặng nề, bắt chéo vào nhau như một hình chữ thập, dùng để giết người một cách rất  dã man.

Thập giá là hình khổ kinh khủng nhất, do người Rôma độc ác bày ra để hành hạ và giết chết những kẻ phản loạn, những người nô lệ, những ai bị họ đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Thập giá ghê tởm nầy, cách đây hơn 2000 năm, đã được Chúa Giêsu vác lên Núi Sọ và bị đóng đinh chết vào đó. Và kể từ đó, kể từ khi Con Đức Chúa Trời chịu đóng đinh chết tất tưởi trên thập giá, thì thập giá đã trở thành Thánh Giá lạ lùng. Lạ lùng đến nỗi loài người không thể nào hiểu được và không thể nào cắt nghĩa được!

Trước, thì thập giá quá đên tối, quá kinh tởm, quá tủi nhục; nay, thì Thánh Giá quá sáng chói, quá hấp dẫn, quá cao sang.

Trước, thì thập giá chỉ có mặt nơi tử địa, nơi pháp trường, nơi những chổ đê hèn nhục nhã; nay, thì Thánh Giá có mặt khắp nơi, nơi trang trọng nhất, nơi cao sang nhất.

Trước, thì thập giá bị chối từ, bị nhờm gớm; nay, thì Thánh Giá được ôm ấp, được ao ước, được mang nơi ngực, được đeo nơi cổ, được hôn kính dấu yêu.

Trước, thì thập giá được làm bằng lọai gỗ sần sù, lởm chởm; nay, thì Thánh Giá được làm bằng vàng, bằng bạc, bằng mọi thứ kim loại đắc giá nhất trên đời nầy.

Vì sao người công giáo chúng ta lại dành cho Thánh Giá một địa vị vô cùng đặc biệt như thế? – Vì trên Thánh Giá, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, vì yêu thương loài người quá bội, nên đã nộp mình chịu chết để cứu chuộc loài người, để cho loài người được sống.

Nhìn lên Thánh giá, người Công Giáo chúng ta thấy hai chữ ĐAU KHỔ.

Trên thánh giá, Chúa Giêsu nếm chịu mọi nỗi đau khổ:

– đau khổ vật chất (bị lột hết áo quần ra, không một mãnh vải che thân );

– đau khổ thể xác (từ trên đỉnh đầu cho đến dưới bàn chân, chẳng chổ nào là chẵng xể xài rách nát, cùng bày xương ra…);

– đau khổ tinh thần (bị sĩ nhục, bị bỏ vạ, bị cáo gian, bị chửi rủa thậm tệ);

– đau khổ tâm hồn (thấy trước đủ mọi tội lổi tầy trời của loài người chống lại Thiên Chúa, thấy trước mọi vong ân bội nghiã của loài người đối với Thiên Chúa );

– đau khổ tình cảm (thấy những người thân yêu, nhất là Mẹ yêu dấu của mình, đang ở dưới chân mà không an ủi gì được).

Nhìn lên Thánh Giá, người công giáo chúng ta thấy hai điều trái ngược: Đấng vô tội, lại bị vu cáo; Đấng công chính, lại bị kết án; Đấng vô cùng thánh thiện, lại bị đày ải; Đấng cao sang vô cùng trên trời dưới đất, lại bị hành hạ, bị đóng đinh chết; Đấng toàn năng, phép tắc vô cùng, lại bị sĩ nhục; Đấng giàu có vô cùng, lại bị trần truồng nhuốc hổ; Đấng sáng láng vô cùng, lại bị tối tăm vây phủ; Đấng là sự sống, thì nay lại tắt thở và chết.

Nhưng, sau khi nếm cái chết chẳng đủ ba ngày, Chúa Giêsu sống lại, đánh bại tủ thần, và ban cho những ai biết đi theo Ngài trên Con Đường Thánh Giá và bằng lòng chết với Ngài trên Cậy Thánh Giá, được sống lại và sống muôn đời.

Đối với người công giáo chúng ta, Thánh Giá của Chúa Giêsu là nguồn hy vọng rạng ngời, là nguồn hạnh phúc vô biên.

Người công giáo chúng ta tung hô Thánh Giá là Cây cứu chuộc muôn dân đặng rỗi, là Cây làm cho kẻ có phước được phần vui mừng, là Cây làm cho kẻ có tội được lòng trông cậy, là Cây làm cho kẻ yếu đuối được nhờ sức mạnh, là Cây làm cho kẻ khốn nạn được sự an lành, là Cây tốt lành rất mực, diềm dà im mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình; là gươm giáo dẹp giặc linh hồn, khử trừ đánh diệt tam cừu oan gia, sát phạt tà ma, thịt mình, thế tục; là chìa khóa mở cửa thiên đàng, đưa chúng ta vào nơi Quê Thật.

Thánh Giá gồm những mầu nhiệm cao siêu nhất trong Đạo Công Giáo: Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Mầu Nhiệm Ngôi Hai Xuống Thế Làm Người, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Cứu Chuộc Loài Người.

Thánh Giá dạy người công giáo những bài học mà Chúa Giêsu đã truyền dạy phải sống và thi hành:

Hình thẳng hướng lên: Người Công Giáo hãy sống mến Chúa!

Hình ngang: Người Công Giáo hãy sống yêu người!

Tay Chúa giăng ra: Người Công Giáo hãy rộng mở đôi tay đối với mọi người, không xua đuổi ai. Người Công Giáo hãy tha thứ mọi xúc phạm của người khác đối với mình, không loại trừ xúc phạm nào.

Tay Chúa bị đóng đinh: Người Công Giáo hãy dùng đôi tay để cầu nguyện, lao động, giúp đỡ, bố thí. Người Công Giáo hãy đền tội cho đôi tay của mình là đôi tay thường biếng nhác, cắp trộm, đánh đập kẻ khác, dâm ô hèn hạ.

Chân Chúa bị đóng đinh: Người Công Giáo hãy dùng đôi chân để đi Nhà Thờ, đi làm việc đạo đức bác ái, đi làm việc hữu ích. Người Công Giáo hãy biết đền tội cho đôi chân của mình là đôi chân thường đi vô ích, đi đến nơi tội lỗi, đi đến với kẻ phạm tội.

Tim Chúa bị đâm thủng: Người Công Giáo hãy thắp lửa mến Chúa và yêu người trong trái tim của mình. Người Công Giáo hãy tắt lửa dục tình trong lòng mình. Người Công Giáo hãy biết ăn năn thống hối về những tội mình đã vô tình và vô ơn đối với Chúa.

Người Công Giáo chúng ta hãy đặt Thánh Giá nơi chỗ cao trọng nhất trong nhà mình!

Người Công Giáo chúng ta hãy đeo Thánh Giá trên ngực là nơi đầy ý nghĩa nhất trong con người của mình.

Người Công Giáo chúng ta hãy làm Dấu Thánh Giá trên con người của mình, làm một cách nghêm trang, sốt sắng, và làm cho ra Một Hình Thánh Giá cân đối.

Người Công Giáo chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu đang đau khổ vì tội lỗi của loài người. Thánh Casimirô, mỗi lần nhìn lên Thánh Giá, là mỗi lần ngài cảm động và rơi lệ.

Người Công Giáo chúng ta hãy luôn mang Thánh Giá trong tâm hồn mình để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu, luôn mang Thánh Giá trong đầu óc mình để suy niệm về tình Chúa Giêsu yêu thương loài người..

Và nhất là, trong cuộc sống của mình, người Công Giáo chúng ta hãy luôn sống và thực hành những bài học của Thánh Giá Chúa Giêsu. Amen.

CANH THỨC VƯỢT QUA

Ngôi Mộ Mở Tung Và Trống Rỗng- Chú Giải Của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Người đang sống

Thật nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh chỉ dừng lại ở chỗ khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không dẫn ta đi đến cùng câu chuyện, cho đến khi gặp Maria Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và lời loan báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời Người nói với tôi (câu 28). Dường như phụng vụ hôm nay muốn mời ta đi lại hành trình đức tin theo gót những chứng nhân đầu tiên.

Trong đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác giả rõ ràng đã sắp xếp một quá trình “tiệm tiến gây ấn tượng”.

– Trước tiên đó là những “di chuyển” rất nhiều và rất nhanh: động từ “chạy” được lặp lại ba lần chỉ trong một câu. Sau khi khám phá ra ngôi mộ mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.

– Kế đó là những “dấu chỉ” ngày càng rõ nét (với những động từ “nhìn”, “thấy”), và “lời giải thích” về các dấu chỉ do chính các tác nhân đưa ra.

– Maria Madalêna “thấy” phiến đá lập cửa mồ “được cất đi”, và kết luận rằng thi thể của Thầy mình cũng đã “bị lật đi”. Môn đệ kia tới trước. Tuy nhiên ông không vào mộ trước Phêrô, “cúi xuống, ông thấy tấm khăn liệm còn đó”.

– Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ. “Ông nhìn tấm khăn liệm nằm đó, tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn liệm, nhưng cuộn lại và để riêng ra”. Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12) gợi lên ở đây sự “kinh ngạc” của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn những gì nhận thấy. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh Kinh. Tin Mừng thứ tư nói rõ: “Thật vậy cho đến lúc ấy các môn đệ vẫn chưa tin rằng theo Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ trong kẻ chết”.

– Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào mộ, ông nói rằng ngay lần cảm nghiệm phục sinh đầu tiên đó “ông đã thấy và ông đã tin”.

Và ông đã tin

Dưới mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất. Trái lại, “Môn đệ kia” được trình bày ở đây như mẫu mực của người môn đệ, người môn đệ tuyệt hảo; “Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; Người trong bữa Tiệc ly đã “tựa đầu vào lòng Đức Giêsu”, với trực giác của tâm hồn, đã nhìn thấy trong cõi rỗng không của ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt gọn gàng chứ không bừa bãi- biết bao dấu chỉ về một thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm nhận được: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo ông, chẳng có ai “lấy đi” thi thể của Đức Giêsu như Maria Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp nếu đã lấy trộm xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Theo ông, sự chết đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết sức mạnh. Trong ông đã hình thành một ‘chuyển biến từ thấy đến hoàn toàn tin’ vào Đức Giêsu phục sinh. Khăn liệm được xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi thể Đức Giêsu không hề bị lấy cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã đi ra, để lại khăn liệm gọn gàng thứ tự tại nơi Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn khăn liệm, Đức Giêsu chẳng cần y phục vì Người giã từ thế giới loài người” (A. Marchadour, “Tin Mừng thánh Gioan”. Ccnturion, trg 244).

Là một trong những chứng nhân đầu tiên đã “thấy Đức Giêsu Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu mực cho những ai tin theo lời chứng của ông: “tin dù không thấy” (Ga 20, 29, Tin Mừng Chúa nhật tới).

BÀI ĐỌC THÊM

Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và Gioan mời ta theo các ngài: (‘Cử hành’ -tạp chí của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ và phụng vụ, số 237, trg 41-42).

Các động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập trình thuật: ra đi, chạy, vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn trong hành trình của các môn đệ đồng thời kéo theo hành trình của độc giả. Hành trình này không kết thúc ở đoạn cuối của một giai thoại. Các cuộc hiện ra với Maria Mađalêna, với các môn đệ, với Tôma, vẫn còn biết bao chặng đường thiết yếu để đi đến cùng: “Tin dù không thấy” và “tin nhờ vào quyển sách của các chứng nhân” (Ga 20, 29-31).

Trong chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu trả lời đầu tiên. Bí hiểm ngay ở khởi điểm: “Chúng tôi không biết họ đã đặt Đức Chúa ở đâu”. Cần một cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm nhịp theo tiến trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến ghi nhận khác. Ghi nhận đầu tiên là của Maria Mađalêna: tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi. Ghi nhận thứ hai là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng. Ghi nhận thứ ba nhưng liệu có trùng với hai ghi nhận trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý “đã thấy và đã tin”.

Ánh sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu. nhưng ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của một thi thể người chết nhưng biến mất, bước đầu cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống ở nơi khác. Hai con người đang sinh ra trong đức tin, mỗi người cất bước theo con đường riêng, dắt dìu nhau. Họ mời ta hãy bước theo họ.

Tại ngôi mộ để ngỏ (G. Boucher trong “Thiên đường tại thế”)

Buổi sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena đến viếng mộ Đức Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung ra. Ai đã lăn tảng đá lấp cửa mộ ra rồi. Thoạt nhìn ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo, gian lận, một trò bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không chấp nhận được.

Phải, phản ứng thế nào trước một xì căng đan như thế trước hết Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy đến với Phêrô. Tức tốc Phêrô và Gioan thoát ra khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Ông rời bỏ nơi ẩn náu. ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật là một sự báng bổ, ghi nhận đầu tiên là thế.

Phêrô và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi mộ mở ngỏ. Họ phải đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan đã thấy. Ông đã thấy và đã tin.

Gioan thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả! Có gì đâu mà thấy. Vậy mà điều ông thấy đã khiến ông tin.

Ta hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì? Một lỗ hổng đen ngòm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông chứa đầy sự sống. Những vật trang hoàng cho lễ tang đã biến thành y phục sáng láng. Một sự vắng mặt la lên sự có mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn hơn tất cả những bài diễn văn. Một bức tường chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết thúc tất cả mang vóc dáng sự khởi đầu. Một cái chết nối kết với một sinh thành. Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí quyết.

Ai đã sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống rỗng? Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ chân dung đích thực của Đức Giêsu, bạn ông.

Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu. Đâu có câm nín. Đâu có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó vẫn còn nói với ta. Ta sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ, lại là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.

Dưới ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn sâu vào mỗi người, chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết. Sau đó chẳng còn gì. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết giam kín ta.

Nhưng này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người mở tung. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Có tên là chỗi dậy. Phục sinh.

Ngôi mộ mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký ức ta lấy được sự sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng khi vượt qua bức tường sự chết, khi nâng tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu hoàn thành cuộc phục sinh đã báo trước.

Tình Thương Của Thiên Chúa Đối Với Nhân Loại – ĐTGM. Phao Lô Bùi Văn Đọc

Đêm canh thức Phục Sinh, Giáo hội cho chúng ta nghe nhiều bài đọc Kinh Thánh, để dọn lòng chúng ta đón mừng Chúa Phục Sinh cách long trọng, hân hoan nhất. Chúng ta được nhìn lại tất cả lịch sử nhân loại, tất cả lịch sử cuộc đời chúng ta, dưới ánh sáng của Lời Chúa. Giáo hội như muốn cho chúng ta nghe cho rõ, thấy cho được Tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại và đối với mỗi một người chúng ta.

Chúng ta đi từ Sáng tạo, từ lúc bắt đầu lịch sử của vũ trụ, bắt đầu lịch sử cuộc đời chúng ta. Vũ trụ bao la cũng như mỗi một người chúng ta, đều không phải là do ngẫu nhiên mà có, nhưng là do Tình thương của Thiên Chúa mà có. Chúa muốn có mặt chúng ta ở đời này, nên cuộc đời của chúng ta có ý nghĩa, có giá trị trước mặt Chúa và trước mặt người khác. Chính vì thế không phải chúng ta muốn sống ra sao cũng được. Nhưng phải sống sao cho ra cái giống người, cho xứng đáng là hình ảnh của Thiên Chúa.

Giáo hội lại cho chúng ta nghe câu chuyện của ông Abraham hiến tế ông Isaác, như báo trước cho chúng ta hy tế thập giá của Chúa Giêsu. Ở đây tình thương của Thiên Chúa còn được nhấn mạnh nhiều hơn nữa. Thiên Chúa sẵn sàng hy sinh Con một của Người là Chúa Giêsu, để cho chúng ta nhờ Chúa Giêsu mà được tha tội. Chúng ta được mời gọi lắng nghe Chúa Giêsu, để hiểu được Tình thương của Thiên Chúa. Bước theo Chúa Giêsu, noi gương Chúa Giêsu, sống như người con thảo đối với Thiên Chúa, người anh em đối với mọi người.

Ông Môsê vâng nghe lời Thiên Chúa, giải thoát Dân Israel ra khỏi ách nô lệ của Dân Ai cập, là hình bóng của Chúa Giêsu là Môsê mới, vâng lời Thiên Chúa, dùng máu của mình để giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ thần dữ, nô lệ tội lỗi, những điều xấu, những điều ác mà con người làm ra. Chúng ta là những con người tự do, sinh ra để sống tự do, chứ không phải để làm nô lệ cho bất cứ ai, và nhất là không phải để làm nô lệ cho thần dữ, cho kẻ ác, cho dục vọng và những khuynh hướng xấu khống chế chúng ta.

Bài thư gởi tín hữu Rôma nhắc nhớ rằng chúng ta đã chịu phép rửa, đã được lãnh nhận hồng ân cứu độ. Con người cũ của chúng ta, con người do tội lỗi thống trị, đã bị huỷ diệt, bị chôn vùi, đã chết, thay vào đó có con người mới, đầy sự sống mới của Chúa Ktô Phục sinh. Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết, Người không còn chết nữa, sự chết không làm chủ được Người nữa. Và số phận của chúng ta cũng vậy, ta sẽ được giống Chúa. Sự chết không còn làm chủ được ta nữa. Nếu ta có chết vì già, vì bệnh hay vì tai nạn đi nữa, mai ngày ta cũng sẽ được phục sinh với Chúa.

Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật cho chúng ta câu chuyện ngôi mộ trống. Những người phụ nữ, sau khi đã chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu, và đã cùng với một vài người đàn ông vội vã liệm xác Chúa, cho khỏi lỗi luật ngày Sabbat. Ngày thứ ba họ trở lại thăm xác Chúa, thì không thấy đâu nữa, nhưng chỉ thấy hai thiên thần hiện ra bảo rằng : Ngài không còn đây nữa, ngài đã trỗi dậy rồi, sao lại tìm Người Sống giữa kẻ chết.

Chúa đã sống lại rồi, chúng ta không đi tìm Chúa nơi mồ mã nữa. Người không thuộc về âm phủ, không ở trong âm phủ. Các thế lực của âm phủ không làm gì được Ngài. Ta hãy tìm Ngài nơi khác, và nơi khác đó không còn là ở đây hay ở kia, vì Ngài không còn bị ràng buộc bởi không gian nữa. Ngài đã sống lại, các ranh giới thời gian và không gian không kềm hãm được Ngài. Ngài đã về cùng Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì ở khắp mọi nơi, nên ta có thể gặp Ngài khắp mọi nơi trên đường đời của ta, miễn là ta tin Ngài đã sống lại và ao ước gặp gỡ Ngài.

Nhưng ta không gặp Ngài kiểu gặp người phàm nữa, vì dù đã sống lại trong thân xác, Ngài đã vượt qua kiếp phàm nhân. Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh, Ngài ở trong vinh quang, ở trong Thần Khí. Cũng giống như Chúa Cha, Ngài là Tình thương và Chân lý. Đâu có Tình thương và chân lý, đó có Ngài.

Khi ta yêu thương, thì có Chúa trong tình yêu của ta, khi ta tha thứ, có Ngài trong sự tha thứ của ta, khi ta hy sinh, có Ngài trong sự hy sinh của ta. Khi ta cố gắng sống trong chân lý, sống thật thà, không lừa dối, trong chân lý có Ngài, trong sự ngay thật của ta có Ngài. Điều chắc chắn đêm nay là, nếu ta có lòng tin, ta sẽ gặp Chúa cách đặc biệt trong thánh lễ, vì Giáo hội cử hành thánh lễ là đón tiếp Chúa đến trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Ngài.

Ánh Sáng Chúa Kitô- Nguyễn Ngọc Long

Trong đêm Phục Sinh mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sống lại, Giáo hội rước Cây nến Phục sinh cháy sáng bừng bừng tiến vào nhà thờ và hát ca ngợi: Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô!

Trong khung cảnh đêm tối chỉ một mình ánh sáng từ Cây nến Phục sinh tỏa ra hương vị thánh thiêng cả nhà thờ. Ánh sáng lung linh thật đẹp và thi vị! Nhưng phải chăng ánh sáng này có gì đặc biệt khác với ánh sáng từ các ngọn nến khác khi cũng được đốt lên? Tại sao Giáo hội lại xưng tụng đây là Ánh sáng Chúa Kitô từ Cây nến Phục sinh trong đêm này?

Trong đời sống nhiều khi chúng ta phải ngồi suy nghĩ hằng giờ, có khi cả tuần lễ, cả tháng trời mong tìm ra giải đáp cho một vấn đề. Nhưng vẫn trong vòng bế tắc… Bỗng dưng một tia sáng lóe lên trong tâm trí.. thế là trong người rộn lên niềm mừng vui vì ta tìm ra đáp số cho vấn đề đang suy nghĩ. Ánh sáng này thật lạ lùng huyền bí và có giá trị khôn lường. Cả tâm hồn lẫn trí khôn cùng làn da thớ thịt gân cốt mạch máu lúc này bừng lên sức sống mới. Trong người cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Trên gương mặt lộ hẳn niềm rộn vui. Có người cảm thấy sung sướng quá cười nói, ca hát, múa nhảy như lúc lên “cơn”! Ánh sáng này chiếu tỏa từ trong thâm tâm ra bên ngoài. Ánh sáng này đánh thức ta bừng dậy.

Tia sáng lóe lên trong tâm trí. Đó là điều bất ngờ xảy đến không ai có thể làm ra được. Tia sáng này không được bật lên như ngọn đèn điện, khi em bé đưa tay bật nút điện ở trên tường hay do bạn trẻ bật hộp quẹt lấy lửa hút thuốc. Không, tia sáng này không do chúng ta nối chế ra. Tia sáng này đến từ một nguồn ánh sáng khác. Tia sáng này là quà tặng, là ân đức từ trời cao chiếu xuống. Tia sáng lóe lên trong tâm trí!

Kinh thánh thuật lại công trình sáng tạo trời đất bắt đầu bằng việc Thiên Chúa tác tạo ánh sáng. Ngài phán: “Hãy có ánh sáng! Và liền có ánh sáng” (Gen 1,3). Ánh sáng này là hình ảnh Chúa Giêsu đến chiếu sáng trần gian như chính ngài khẳng định: “Thầy là ánh sáng trần gian” (Gioan 8,12) Ánh sáng Chúa Kitô: Lumen Christi!

Ngày nay những phong trào, những lý thuyết hứa hẹn mang lại ánh sáng, hào quang soi chiếu cuộc sống, tâm hồn con người luôn luôn thu hút mọi giới. Con người khao khát tìm về ánh sáng cho cuộc đời. Và những gì ngoài đường xá phố chợ đèn điện chiếu sáng thường gợi chú ý mọi người. Nhưng tia sáng bừng lên trong tâm trí không phải là món hàng bày bán trong cửa tiệm bán đồ điện. Người ta không thể bật tia sáng này lên như bật ngọn đèn neon trong nhà mình.

Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô không phải là sản phẩm như cây nến có thể mua trong cửa hàng đem về đốt lên trong phòng khách, trong bàn ăn, để tăng vẻ đầm ấm thân mật.

Không, Ánh sáng Chúa Kitô không dừng lại nơi đây như thế. Ánh sáng này dọi chiếu, soi đường chỉ phương hướng cho con người, như chính Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy là ánh sáng trần gian”.

Trong ánh sáng Chúa Kitô con người nhận ra nhau là anh em con một Cha trên trời. Cho dù khác nhau về nhiều mặt, nhưng trong ánh sáng Chúa Kitô tất cả mọi người cùng có nhân vị như nhau. Chúa Giêsu đến trần gian mang ánh sáng tình yêu đến cho mọi người. Ngài không dùng quyền hay làm phép lạ xóa tan bóng tối, nhưng Ngài không sợ bóng tối, trái lại soi chiếu vào trong bóng tối. Trong ánh sáng Ngài chúng ta nhận ra những khuyết điểm yếu kém đời mình.

Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô là ánh sáng lóe lên từ trong tâm hồn. Ánh sáng này có sức soi chiếu mang niềm vui mừng phấn khởi cho tâm hồn con người.

Đức Kitô Đã Sống Lại Từ Cõi Chết- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên

“Hôm nay là ngày Thiên Chúa dựng nên.

Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ”

Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay, cộng đoàn chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa Phục Sinh. Đó là niềm vui mừng và hoan lạc không chỉ cho chúng ta là những người có niềm tin, mà còn cho toàn thể nhân loại. Quả vậy, như lời Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì niềm tin của chúng ta trở nên vô ích. Và chúng ta là người dại dột hơn ai hết vì chúng ta tin vào một chuyện hão huyền”. Thế nhưng, sự thật là Đức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết.

Đức Kitô sống lại, trước tiên là một tin vui cho toàn thể địa cầu

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta nhìn sự kiện Chúa Giêsu phục sinh như một cuộc tạo thành mới. Bài trích sách Sáng Thế kể về trình thuật Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật mà trung tâm điểm là con người. Với công trình tạo dựng ấy, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Thế nhưng, tình trạng tốt đẹp đó đã bị phá hỏng bởi ông bà Nguyên Tổ đã nghe theo lời ma quỷ mà phạm tội bất tuân, chống lại Thiên Chúa. Tội lỗi ban đầu đó đã khiến cho đau khổ và sự chết tràn vào thế gian. Ảnh hưởng của tội lỗi, không chỉ trên sự sống của con người, mà còn trên muôn loài, muôn vật. Như lời Thánh Phaolô: “Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22). Nhưng nhờ sự chết và sống lại của Đức Kitô, mà muôn loài được giải thoát khỏi vòng tội lỗi và sự chết. Không chỉ có thế, sự Phục sinh của Đức Kitô, còn mang đến cho nhân loại sự sống mới sung mãn hơn, tràn đầy hơn sự sống mà nhân loại đã có thuở ban đầu. Vậy nên, chúng ta mới hiểu được lý do tại sao trong đêm Vọng Phục Sinh này Giáo Hội lại ca lên: “Ôi ! tội A-dong thật là cần thiết, tội đã được tẩy xóa nhờ cái chết của Chúa Kitô. Ôi! tội hồng phúc, vì đã cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc cao sang”. (x.Exsultet).

Đức Kitô sống lại mang đến cho đau khổ một ý nghĩa mới

Đau khổ, thập giá, vốn là một sự xỉ nhục, nên không ai trong chúng ta thích đau khổ, và đặc biệt, không ai trong chúng ta muốn nói đến sự chết. Thế nên, đau khổ sẽ mãi là một mầu nhiệm, mãi là một câu hỏi lớn của con người ở mọi thời đại, nếu những đau khổ đó không được giải đáp bằng sự Phục Sinh của Đức Kitô.

Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của con người có một ý nghĩa mới. Nỗi đau đó, không trở nên vô ích, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Chúa Kitô đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.

Đức Kitô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng thân xác chúng ta, một ngày kia sẽ được sống lại với Chúa

Quả vậy, Đức Kitô chính là Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc là toàn thể nhân loại chúng ta. Ngài đã sống lại và đi vào cõi vinh quang bất diệt. Ngài đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết dẫn vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng hay ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quang cùng với Ngài.

Người tín hữu sống niềm tin vào Chúa phục sinh như thế nào?

Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Niềm tin đó, giúp chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ, đối với chúng ta, không còn là điều phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Cuộc sống này, không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ hướng tới ngày mai, hướng tới sự sống bên kia thế giới, hay hướng tới thiên đàng đã được hứa ban, nhưng còn hướng chúng ta tới cuộc sống hiện tại, tức là hôm nay và ngay lúc này.

***

Đã có bao nhiêu lễ Phục Sinh đến rồi đi qua, nhưng thử hỏi, điều đó có giúp ích gì cho cuộc sống của tôi hôm nay? Nhiều người tự nhủ, Chúa sống lại ư! điều đó có can hệ gì đến tôi? Mừng lễ thì mừng vậy, chứ thay đổi đời sống của tôi thì còn phải xem xem đã!!! Xin Chúa đừng quấy rầy tôi, xin đừng đụng chạm đến cuộc sống riêng tư của tôi!!! Với những quan niệm và cách nhìn như vậy, đã khiến không ít người trong chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội hoán cải trong cuộc đời. Vâng, việc mừng lễ Đức Kitô sống lại sẽ chẳng có ý nghĩa gì, nếu chúng ta không biết thay đổi đời sống mình cho phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.

Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh hôm nay, một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta cũng biết chết đi cho con người cũ là những tính mê nết xấu; là sự ghen ghét, đố kị; là sự gian tham, lọc lừa… để sống lại cho con người mới trong Chúa Kitô là tình yêu thương, bao dung; là sự trung thực, ngay thẳng… Chỉ có như vậy, việc chúng ta mừng lễ Phục Sinh mới thực sự có ý nghĩa và mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được Phục Sinh với Chúa.

Đêm Tình Yêu– Lm. Antôn Trung Thành

Ngày thứ Bảy tuần thánh, Giáo Hội dừng chân trước mộ Chúa Giêsu để suy niệm về cuộc khổ nạn đau thương của Ngài. Chính vì vậy, Giáo Hội gọi ngày thứ Bảy tuần thánh là ngày thầm lặng.

Theo cái nhìn của loài người thì đây là ngày buồn nhất trong năm. Không khí đượm màu tang tóc. Vì Chúa Giêsu đã chết, được an táng trong mồ. Nhưng như lời Chúa Giêsu đã tiên báo “Sau ba ngày Ngài sẽ sống lại” (x. Mc 8, 31; Mc 9, 31; Mc 10, 33- 34). Vì vậy, Giáo Hội tưởng niệm cái chết của Chúa trong niềm hy vọng phục sinh. Chính đêm nay, niềm hy vọng phục sinh đã bừng lên trong toàn thể Giáo Hội. Đức Kitô đã chiến thắng sự chết. Ngài đã sống lại, đó là niềm vui, niềm hy vọng và là nền tảng niềm tin của tất cả mọi người kitô hữu chúng ta. Bởi vì, Giáo Hội đã được khai sinh từ mầu nhiệm trọng đại này, và đó cũng là đích điểm của mọi người kitô hữu chúng ta.

Lễ nghi đêm nay bắt đầu bằng nghi thức thắp nến phục sinh. Toàn thể thế giới nằm trong bóng tối, và đang mong đợi ánh sáng, nhân loại đang trông chờ ơn giải thoát. Chủ tế bắt đầu nghi thức làm phép lửa và thắp lên cây nến phục sinh. Cả nhà thờ đang tối tăm, bổng ánh sáng phục sinh chiếu soi lan toả. Ánh sáng phục sinh tượng trưng cho Chúa Kitô đã sống lại. Chúa Kitô đến xua tan bóng tối tội lỗi, sự chết, sự thất vọng, để đi vào sự sống bất diệt. Trong lời nguyện làm phép lửa, Giáo Hội cầu xin Thiên Chúa cho ngọn lửa khao khát nước trời thiêu đốt tâm hồn các tín hữu và thanh tẩy muôn vàn tội lỗi, để mai sau họ được xứng đáng tham dự ánh sáng ngàn thu.

Trong đêm nay, mỗi người kitô hữu chúng ta đều cầm nến sáng được thắp từ cây nến phục sinh, tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô. Chính vì vậy, đời sống của mỗi người chúng ta phải chiếu sáng cho những người xung quanh. Khi đứng cầm nến sáng trong tay, Giáo Hội còn nhắc nhở chúng ta phải có thái độ tỉnh thức, sẵn sàng để đón chờ Chúa Kitô ngự đến trong ngày chung thẩm.

Trong phần công bố Tin Mừng Phục sinh, Giáo Hội kêu mời mọi người kitô hữu chúng ta “Hãy vui lên”. Vui lên vì Chúa đã khải hoàn. Vui lên vì Chúa đã chiến thắng thần chết. Vui vì :

Đêm cực thánh khử trừ muôn tội vạ,

đêm vạn năng thanh tẩy hết lỗi lầm,

biến tội nhân thành con người công chính,

đem vui mừng cho hồn nặng sầu thương.

Trong phần phụng vụ Lời Chúa, Giáo Hội cho chúng ta đọc 9 bài sách thánh: 7 bài Cựu Ước, 1 bài Thánh Thư và một bài Tin Mừng. Tất cả các bài đọc hôm nay, giúp chúng ta suy niệm về chương trình ơn cứu độ của Thiên Chúa theo dòng lịch sử từ thời Cựu Ước sang thời Tân Ước. Việc Thiên Chúa yêu thương tạo dựng muôn loài, nhất là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài (Bài đọc I). Đến việc ông Apraham vâng lệnh Chúa sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, chính vì sự vâng phục này mà ông được gọi là “Cha của kẻ tin”. Ông còn được Chúa chúc phúc để trở thành cha của một dân tộc đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển. Việc sát tế này là hình ảnh tiên báo việc sát tế Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa sau này (Bài đọc II).

Rồi đến sự kiện dân Do Thái đi qua biển đỏ khô chân và được bình an. Đó là hình ảnh của cuộc giải thoát mới do công trình cứu độ của Đức Kitô. Đó cũng là cuộc giải thoát dân Do Thái khỏi kiếp nô lệ đến vùng tự do (Bài đọc III). 

Khi dân Do Thái đang sống trong kiếp lưu đày tại Babilon, vì đã bất trung với Thiên Chúa, nhưng họ đã sám hối nên Chúa lại tha thứ cho họ. Rồi Chúa lấy lòng nhân từ vô biên qui tụ họ lại để họ vui hưởng nền hoà bình lâu dài (Bài đọc IV).

Chính tiên tri Isaia đã loan báo một thời thịnh đạt mà Israel sẽ vui hưởng, thời kỳ mà Thiên Chúa sẽ ký kết một giao ước vĩnh cửu với những hồng ân mà Ngài đã hứa với Đavít. Chính điều này sẽ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô (Bài đọc V).

Nhưng dân Do Thái đã bỏ Chúa đi tôn thờ thần tượng, phạm đủ thứ tội nên họ bị lưu đày. Tiên tri Êzekiel đã chọ họ biết như vậy. Nhưng rồi Chúa sẽ qui tụ họ về, thanh tẩy họ, ban cho họ một quả tim và một thần trí mới để họ thực thi huấn lệnh Ngài (Bài đọc VI).

Bài đọc Thánh Thư dẫn chúng ta vào ý nghĩa của bí tích Rửa Tội. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta đã chịu Phép Rửa Tội, tức là chúng ta cùng chết với tội và chết cho Chúa Kitô để được sống lại với Người (x. Rm 6, 3-11).

Đó cũng là mong muốn của Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta tuyên thệ lại lời hứa khi chịu Phép Rửa Tội trong phần Phụng Vụ Thánh Tẩy. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta được khỏi tội. Cho nên, qua nghi thức này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta hãy hiên ngang dấn thân theo Chúa và trung thành phụng vụ Người. Hãy chết đi cho tội, cho ích kỷ, cho những gì làm cho chúng ta xa Chúa, để luôn sống xứng đáng thân phận làm con Chúa và Giáo Hội.

Cuối cùng, bài Tin Mừng Thánh Luca tường thuật về sự kiện ngôi mộ trống và việc Chúa Phục Sinh hiện ra với bà Maria Mađalêna. Đây là sự kiện đầu tiên và hết sức quan trọng cho niềm tin Phục Sinh của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai và cho mỗi người qua mọi thời đại.

Mừng vọng phục sinh đêm nay, chúng ta cảm tạ tình thương bao la của Chúa. Đồng thời để đáp lại tình thương đó chúng ta quyết tâm sống cho Chúa và chết cho tội, để cùng Người sống lại vinh quang. Xin Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta cử hành trong phần cuối cùng của đêm nay luôn đồng hành, dưỡng nuôi tâm hồn chúng ta trên con đường về với Ngài. Amen.

Ánh Sáng Của Ngày Mới- Trích Logos C

Vào năm 1995 một số tạp chí Khoa Học Thế Giới đề cập đến tấm vải liệm xác Chúa Giêsu đang được cất giữ tại nhà thờ Turinô, nước Ý.

Đó là tấm vải gai dài 4m36, rộng 1m1 mang hình ảnh người đàn ông cao khoảng 1m81 nặng khoảng 77 kg.

Qua những kỹ thuật hiện đại nhất ngày nay, người ta kiểm nghiệm thấy : hình ảnh ấy do vết máu in trên vải, người chết do Bị đóng đinh và Bị một vết thương Bên cạnh sườn sau khi chết.

Trước khi Bị đóng đinh vào thập giá, người ấy Bị đánh vào mặt và chịu nhiều cú đòn roi, Bị trói cổ tay và treo lên cao.

Một Hội Nghị Khoa Học Quốc Tế diễn ra tại Rôma năm 1993, qui tụ các chuyên gia của mọi ngành khoa học đã kết luận chắc chắn rằng : tấm vải liệm này thật sự đã Bọc thi thể của Chúa Giêsu ở Nazareth.

Ngày nay, người ta dùng máy tính để tái tạo lại khuôn mặt Chúa Giêsu in trên tấm khăn liệm. Qua ảnh chụp, người ta thấy khuôn mặt khắc khổ của một người đàn ông có râu và tóc dài.

Hội Nghị Khoa Học Quốc Tế yêu cầu Tòa Thánh Vatican tổ chức một cuộc triển lãm khoa học cho mọi người xem tấm khăn liệm đó, nhưng Tòa Thánh im lặng. Tòa Thánh im lặng vì tất cả những gì Hội Thánh tin đều không cần kiểm nghiệm và tranh cãi. Hội Thánh tin rằng Chúa đã Bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ Ba đã sống lại. Hội Thánh tin rằng Chúa đã chết và đã sống lại.

Đó cũng là niềm tin của chúng ta. Chính trong niềm tin ấy mà chúng ta cử hành Lễ Vọng Phục Sinh đêm nay.

Tin Mừng Thánh Luca thuật lại vào ngày thứ nhất trong tuần khi các phụ nữ ra thăm mồ Chúa thấy tảng đá được lăn ra khỏi cửa mồ và không thấy xác Chúa. Các Bà về Báo tin cho các tông đồ và mọi người. Phêrô chạy ra mồ Chúa cũng chỉ thấy còn tấm khăn liệm ở đó. Chúa Giêsu đã mở tấm khăn liệm của sự chết để chỗi dậy trong sự phục sinh.

Tấm khăn liệm được mở ra.

Chúa Kitô Phục Sinh cũng mở tấm khăn liệm Bao trùm một “Hội Thánh chết” để mọi người nhìn thấy một “Hội Thánh sống”.

Đó là kinh nghiệm của “Hội Thánh tử nạn” Bước vào ánh sáng Chúa Kitô để trở thành “Hội Thánh Phục Sinh”.

Trước hết, tấm khăn liệm của những ngày thương khó đã được mở ra để Hội Thánh Bước vào “ngày thứ nhất” vinh quang. Đêm cũ Bước sang ngày mới. Bóng tối nhường Bước cho Bình minh. Các môn đệ từ Bỏ Chúa trong cuộc tử nạn để tìm gặp lại Chúa Phục Sinh.

Chúa Kitô Phục Sinh cũng cất Bỏ tấm khăn liệm giam hãm tâm trí của các môn đệ. Ngài tháo Bỏ tấm mạng che khuất đôi mắt đức tin để các ông nhận ra được ánh sáng.

Tấm mạng ấy cũng che khuất tầm nhìn đức tin của các phụ nữ ra thăm mồ Chúa, khiến họ không thể hiểu được mầu nhiệm Phục Sinh. Nhưng sau đó, họ đã nhớ lại những điều Chúa dạy để tin vào Ngài.

Cũng thế, Chúa Phục Sinh cũng tháo cởi tấm khăn liệm Bao phủ các môn đệ trong Bóng tối của sự hoài nghi và sợ hãi. Các ông đã nhận ra Chúa nhờ ánh sáng Phục Sinh và các ông đã tin Chúa.

Ngày hôm nay, qua mầu nhiệm Phục Sinh, Chúa cũng mở tấm khăn liệm đang phủ kín cuộc đời chúng ta, giam hãm chúng ta trong Bóng tối của ích kỷ, gian tham.

Chúa mở tấm khăn liệm đang che khuất đôi mắt đức tin của chúng ta để chúng ta nhận ra được Chúa và Bước đi trong ánh sáng của Ngài. Chúa tháo Bỏ tấm khăn liệm của “tâm hồn chết” vì tội lỗi của chúng ta để chúng ta mặc lấy “tâm hồn sống” và sống dồi dào trong ơn thánh.

Tảng đá được lăn ra.

Tảng đá được lăn ra khỏi mồ để hiển lộ dung mạo Đức Kitô Phục Sinh. Tảng đá của nhát đảm sợ hãi cũng được lăn ra khỏi “Hội Thánh trong hang toại đạo” để hiển lộ khuôn mặt của Hội Thánh đang can đảm tiến Bước trên con đường sáng cùng Đức Kitô Phục Sinh.

Chúng ta cũng hãy lăn tảng đá ra khỏi nấm mồ của lòng hận thù ghen ghét, của ích kỷ và ươn lười để chúng ta Bước ra khỏi Bóng tối mà Bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô.

Hôm nay, trong ánh sáng của niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy mở lòng, mở trí, mở vòng tay để đón nhận Chúa Phục Sinh. Nhất là Biết mở cánh cửa đóng kín của tâm hồn mà Bước đi loan Báo Tin Mừng Phục Sinh.

Ngày mới được mở ra

Đêm nay, chúng ta thắp lên ngọn nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô. Ánh sáng Chúa Kitô đang Bừng lên trong lòng chúng ta, xua tan đi đêm dài của ngày cũ để mọi người Bước vào ánh sáng của một ngày mới. Ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh soi sáng những tâm hồn đang Bị giam cầm trong Bóng tối của thất vọng, u sầu. Ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh cũng xoá tan màn đêm tội lỗi và chết chóc.

Chúng ta đang Bước vào “Bình minh” của cuộc đời mới. Hãy luôn để cho cây nến Phục Sinh trong lòng chúng ta luôn cháy sáng, chiếu toả niềm tin sáng ngời trong Năm Thánh Truyền Giáo này.

Vui Lên Toàn Trái Đất- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.

Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.

Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần… Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.

Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê rằng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”. (Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.

Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lớn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).

Vâng, Chúa Kitô đã đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống” (Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.

Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.

Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.

Lời Loan Báo Hi Vọng Cho Con Người Hôm Nay – Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê

Một đêm nữa đang chờ đợi chúng ta. Là đêm dài hơn mọi đêm. Sau đêm mà chúng ta cảm thấy bất lực trước cuộc chiến nội tâm của Đức Giêsu và trước sự chọn lựa khủng khiếp tự hiến vì phần rỗi nhân loại, chúng ta sắp cử hành mẹ của mọi đêm, đêm mà sự chết không có thể giam hãm quyền lực của Thiên Chúa. Ngày thứ bảy này Giáo hội chờ đợi để có thể chạy đến mộ Chúa vào lúc tờ mờ sáng để loan báo rằng ‘Người không còn ở đây nữa, Người đã sống lại rồi!’. Một sự chờ đợi trong thinh lặng ngập tràn niềm vui. Đứng trước ngôi mộ trống, cộng đoàn các môn đệ nhớ lại các lời nói và hành động của Thầy, giờ đây được giải thích cách đúng đắn. Không chỉ có thế: còn mở rộng tầm nhìn về bên kia chân trời và nhớ lại toàn bộ lịch sử giữa Thiên Chúa và dân Israel, bằng cách tiếp nhận vào trong đời mình những chuyện kể của Thánh Kinh, tiến dần đến Đức Kitô, cái chết và sự sống lại của Người. Chúng ta tràn đầy niềm vui trong đức tin. Hôm nay Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài thật sự là Đấng Hằng Sống.

Một lời loan báo hy vọng cho con người ngày nay

Tình trạng nhiều phương diện đáng lo ngại trên thế giới dễ tạo nên một sự ngờ vực trong mọi vấn đề, một vắng bóng những lý tưởng và viễn ảnh cho tương lai, nhưng lễ Phục Sinh trình bày cho mọi người chúng ta một bảo đảm và một khả thể của một cuộc sống mới, của những viễn ảnh lý tưởng sâu xa, của một niềm hy vọng đổi mới.

Đức Kitô sống lại là con người mới và tất cả những ai hiệp thông với Người, trở nên những con người mới, có khả năng đổi mới thế giới bệnh hoạn này. Dĩ nhiên việc đổi mới này không phải là một trò ma thuật xảy ra tức thời nhờ sự can thiệp của một vị thần giải quyết mọi tình huống nan giải (Deus ex machina), nhưng là hoa quả của một sự đổi mới não trạng và viễn ảnh bắt nguồn từ trải nghiệm sống động với Đức Giêsu Kitô phục sinh, đang sống và được nhận biết như là Chúa của thế giới và của lịch sử.

Nhất là sự thay đổi được thực hiện bên trong sâu thẳm của chính chúng ta, trong tâm trí chúng ta, khi mà nhờ qua sự gắn bó của lòng tin và tham dự các bí tích, chúng ta được biến đổi trong Người và trở nên những tạo vật mới cùng với Người: chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa và bước vào trong một quỹ đạo mới hướng về tha nhân và thế giới.

Trải nghiệm sự mới mẽ này không chỉ xảy ra bên trong tâm hồn chúng ta mà thôi đâu, vì nếu như thế, có nguy cơ giản lược chiều kích đức tin vào chủ nghĩa duy tâm, như thể thuộc bình diện tâm lý: ơn cứu độ của Đức Kitô phục sinh thấm sâu vào đời sống của ta và thúc đẩy con người đổi mới thế giới bằng năng lực mới xuất phát từ chính trải nghiệm mãnh liệt này.

Người kitô hữu, từ trải nghiệm của Đức Kitô có được nhờ đức tin, nhận được sự thôi thúc cộng tác cho sự canh tân toàn thế giới, tìm cách linh hoạt xã hội bằng tinh thần tin mừng.

Kinh nghiệm sự thất bại của Lôgích xem thị trường như phương dược trị bệnh cho nền kinh tế, nhắc nhớ chúng ta cần phải làm chủ những hiện tượng kinh tế bằng những giá trị đạo đức của sự công bình, trong sáng, liên đới; thiếu những giá trị ấy, xã hội chúng ta sẽ đi đến chỗ tiêu diệt. Người kitô hữu dấn thân để những giá trị này luôn được thực thi trong lãnh vực kinh tế và những kẻ gọi là ‘ma giáo’ sẽ bị lột mặt nạ và trừng phạt.

Nhờ đức tin, người kitô hữu khám phá rằng mình được kêu gọi để họp thành một đại gia đình có chung một người Cha duy nhất, dấn thân để đập tan những bức tường ngăn cách mà hàng ngày ta dựng nên đối với kẻ khác, để tạo dựng một bầu khí tiếp nhận nhau, xây dựng một nền văn minh tình thương và một xã hội trong đó mọi người đều được mời gọi cộng tác trong sự tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ của từng người.

Nếu chúng ta là kitô hữu có ý thức về vẻ đẹp và tầm quan trọng của đức tin, chúng ta sẽ hành động một cách quyết liệt ngay cả trong tình cảnh Giáo hội bị chống đối, vì chúng ta cảm nhận Giáo hội là mẹ của ta và bất cứ xúc phạm nào nơi người mẹ cũng làm thương tổn những đứa con. Ý thức rằng sức mạnh của sự dữ sẽ không thắng được, chúng ta nên mạnh mẽ trong việc làm chứng cho đức tin và góp phần, với lòng trung thành với Chúa và Giáo hội, làm cho Giáo hội, mà ta là thành phần tích cực, mỗi ngày một đẹp hơn và đáng tin hơn.

 

print