Lời Chúa Mỗi Ngày Tuần 12.2.TN 2 – Anthony Đinh Minh Tiên, OP

print

Lời Chúa Mỗi Ngày Tuần 12.2 TN 2 – Anthony Đinh Minh Tiên, OP

 

Chúa Nhật 12 Thường Niên, Năm A..

Thứ Hai Tuần 12 TN2, Năm Chẵn.

Thứ Ba Tuần 12 TN2, Năm Chẵn.

Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả.

Thứ Năm Tuần 12 TN2.

Thứ Sáu Tuần 12 TN2, Năm Chẵn.

Thứ Bảy Tuần 12 TN2.

 

Chúa Nhật 12 Thường Niên, Năm A

Bài đọc:Jer 20:10-13; Rom 5:12-15; Mt 10:26-33.

1/ Bài đọc I:10 Con nghe biết bao người vu cáo:
“Kìa, lão “Tứ phía kinh hoàng! hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!”
Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã.
Họ nói: “Biết đâu nó chẳng mắc lừa,
rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó!”

11 Nhưng ĐỨC CHÚA hằng ở bên con
như một trang chiến sĩ oai hùng.
Vì thế những kẻ từng hại con
sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con.
Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề:
đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.

12 Lạy ĐỨC CHÚA các đạo binh,
Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can,
con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng,
vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài.

13 Hãy ca tụng ĐỨC CHÚA, hãy ngợi khen ĐỨC CHÚA,
vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo.

2/ Bài đọc II:12 Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.

13 Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội.

14 Thế mà, từ thời A-đam đến thời Mô-sê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như A-đam đã phạm. A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới.

15 Nhưng sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.

3/ Phúc Âm:26 “Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết.

27 Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.

28 “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.

29 Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em.

30 Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.

31 Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.

32 “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.

33 Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:Đừng sợ! Uy quyền của Thiên Chúa thắng vượt mọi quyền hành của thế gian.

            Con người sợ nhiều thứ trong cuộc đời: sợ khổ cực, sợ đau đớn, sợ mất mát, sợ tù đày, sợ hậu quả của tội, và nhất là sợ chết; vì chết sẽ lấy đi tất cả những gì con người có. Nhưng Thiên Chúa đòi con người không được sợ hãi, vì sợ hãi làm cho con người không dám sống theo sự thật để làm chứng cho Thiên Chúa, sợ hãi làm con người không dám sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa mà chỉ bằng lòng với tiêu chuẩn của thế gian, và sợ hãi làm con người trở thành nô lệ cho xác thịt, cho thế gian và cho ma quỉ. Để thắng vượt sợ hãi, con người cần một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa và uy quyền của Ngài; đồng thời con người cũng cần biết nấc thang giá trị của những gì con người sở hữu.

            Các bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những lý do tại sao chẳng có gì phải sợ hãi. Trong bài đọc I, ngôn sứ Jeremiah tuy có sợ hãi vì địch thù vây quanh tứ phía; nhưng ông đã thắng vượt được nhờ niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ông tin Thiên Chúa sẽ cứu ông khỏi mọi gian truân và sẽ làm cho các địch thù của ông phải bẽ mặt hổ ngươi. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đừng sợ ngay cả tội lỗi, vì Đức Kitô đã vô hiệu hóa hậu quả của tội nhờ máu của Người đổ ra trên Thập Giá. Hơn nữa, máu của người còn có sức thánh hóa và ban muôn vàn ân sủng cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ đừng sợ hãi bất cứ điều gì, vì Ngài đã chiến thắng tất cả. Các môn đệ phải vững tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa để dám làm chứng cho sự thật.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I:Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo.

1.1/ Jeremiah bị tư tế Pashhur chống đối: Là ngôn sứ của Đức Chúa, Jeremiah phải tuyên sấm những gì Thiên Chúa muốn nói cho vua Judah, các tư tế, và dân thành Jerusalem. Tư tế Pashhur, con ông Immer, là Tổng Quản Đốc Nhà Đức Chúa, chẳng những đã không nghe lời Jeremiah tuyên sấm, lại còn cho đánh đòn ngôn sứ Jeremiah và cho cùm ông tại cửa Bengiamin, tức là Cửa Trên trong Nhà Đức Chúa. Lão “Tứ phía kinh hoàng” là tên của ngôn sứ Jeremiah đặt cho tư tế Pashhur; sau khi ông này bắt bớ, đánh đập, và giam cầm tiên tri (Jer 20:3).

            Jeremiah nói tiên tri về vận mạng của Pashhur và của toàn dân: “Quả thật, Đức Chúa phán như sau: Này Ta sẽ biến ngươi thành nỗi kinh hoàng cho chính ngươi và tất cả bạn bè của ngươi. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm quân thù, chính mắt ngươi sẽ chứng kiến điều đó. Ta sẽ trao nộp toàn thể Judah vào tay vua Babylon; nó sẽ bắt chúng đi lưu đày ở Babylon; sẽ dùng gươm tàn sát chúng. Tất cả của cải thành này cùng với mọi công lao vất vả và mọi đồ quý giá, cũng như tất cả kho tàng của các vua Judah, Ta sẽ nộp vào tay quân thù chúng; bọn này sẽ cướp phá, tịch thu đem về Babylon. Còn ông, hỡi Pashhur, chính ông và tất cả những người ở trong nhà ông sẽ phải đi lưu đày. Ông sẽ đi Babylon, sẽ chết tại đó và sẽ phải chôn tại đó; ông cũng như tất cả bạn bè, tức là những người đã nghe ông tuyên sấm láo!”

            Tất vả những gì ngôn sứ Jeremiah tuyên sấm đều ứng nghiệm: Judah rơi vào tay quân thù Babylon vào năm 587 BC. Tất cả của cải quí giá của Đền Thờ và của Thành đều bị tịch thu mang về Babylon. Tất cả vua quan và tư tế đều bị lưu đày sang Babylon, dĩ nhiên có cả Pashhur, và ông đã chết trong nơi lưu đày.

1.2/ Ngôn sứ Jeremiah tìm sức mạnh nơi Thiên Chúa: Một mình phải đương đầu với bao nhiêu chống đối từ gia đình, bạn bè, các tư tế, và triều đình nhà vua, tiên-ri Jeremiah biết mình sẽ không thể địch nổi với bè lũ hung tàn, nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa. Ngôn sứ tin tưởng và cầu nguyện: “Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, chúng sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.”

            Ngôn sứ biết Thiên Chúa có uy quyền để trừng phạt và sức mạnh để giải thóat người công chính: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo.”

2/ Bài đọc II: Đức Kitô đã giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết.

2.1/ Đức Kitô đã giải thoát con người khỏi tội lỗi: Một thắc mắc thường được nhiều người nêu lên: Tại sao Thiên Chúa lại trừng phạt tất cả con người vì tội bất tuân của Adam? Thánh Phaolô trả lời câu hỏi này bằng cách so sánh Adam với Đức Kitô, Ngài lý luận như sau: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội… Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” Đức Kitô được so sánh như một Adam mới. Ngài đến để giải phá tất cả những hậu quả của tội do Adam cũ gây nên.

            Tuy nhiên, không phải chỉ có Adam phạm tội, mà tất cả mọi người đều phạm tội. Thánh Phaolô nói: “Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Adam đến thời Moses, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Adam đã phạm. Adam là hình ảnh Đấng sẽ tới.” Ai cũng biết phải có Lề Luật thì mới có tội. Thế mà Lề Luật chỉ có từ thời Moses, khi Đức Chúa ban cho con cái Israel Thập Giới. Tại sao thánh Phaolô qui tội cho con người khi Lề Luật chưa được ban hành? Có lẽ thánh Phaolô muốn ám chỉ đến Luật Tự Nhiên, như ngài đã từng đề cập đến trong Roman 1:20-21.

2.2/ Ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô: Giáo Hội gọi tội của Adam quả là cần thiết, là tội hồng phúc trong bài ca Exsultet của đêm Vọng Phục Sinh, vì nhờ tội đó mà chúng ta có Đức Kitô đến để ở với con người. Ngài không chỉ chuộc tội, nhưng còn mặc khải cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa, và nhờ công cuộc cứu độ của Người mà chúng ta được lãnh nhận hết ân sủng này đến ân sủng khác.

            Vì Đức Kitô đã đổ máu ra chuộc tội, chúng ta không sợ hãi hậu quả của tội nữa, vì từ nay chúng ta đã có cách khử trừ tội lỗi bằng cách chạy đến với bí-tích Giao Hòa. Chúng ta cũng không còn sợ ngay cả cái chết là hậu quả của tội; vì nếu tội được xóa bỏ, hình phạt do tội gây nên cũng được xóa bỏ. Chúng ta có hy vọng được sống đời đời với Đức Kitô trên thiên đàng.

3/ Phúc Âm: Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.

3.1/ Ba thái độ phải có của người môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ trung thành của Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:

            (1) Sẵn sàng chấp nhận gian khổ: “Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” Người môn đệ Đức Kitô chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng bắt bớ và giết Ngài. Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này: “Trò không hơn thầy, đầy tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Beel-zebul, huống chi là người nhà.”

            Trong khi rao giảng hay làm việc tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người phê bình, chống đối, đe dọa và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những điều người đời không muốn nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn chứng: người môn đệ nói phải tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang khi khán giả ngồi dưới đã từng ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu cha mẹ đang khi khán giả gởi cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải sinh con cái cho nhiều đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.

            (2) Không được sợ hãi người đời: Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị phê bình hay bị chống đối, người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được kêu gọi để rao giảng; ngược lại, ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả thích, cho dẫu những điều này không phải là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ: “Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.”

            Khi làm chứng cho sự thật, các môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả tính mạng như trường hợp của các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự thật, vì các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh quang, và cho linh hồn các ngài được sống đời đời.

            (3) Phải tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” Thứ hai, tóc trên đầu: Ngài nói: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” Tóc trên đầu con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu một sợi tóc vô nghĩa rơi xuống hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới, huống hồ là số phận của những người môn đệ Chúa.

            Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử thách niềm tin yêu của con người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn tránh đau khổ, con người không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.

3.2/ Phần thưởng cho những môn đệ sống trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”   Ngược lại, “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” Người nào sợ hãi không dám tuyên xưng danh Thầy mình, không dám nói những sự thật Thầy dạy, người ấy không phải là môn đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm, Đức Kitô cũng không nhận những người như thế trước mặt Cha của Ngài.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Chúng ta phải tập luyện để đừng sợ hãi bất cứ một điều gì trong cuộc đời vì Thiên Chúa đã chiến thắng tất cả. Gian khổ và bắt bớ chắc chắn sẽ đến, nhưng chúng chỉ là cơ hội cho chúng ta chứng tỏ niềm tin yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa, và giúp chúng ta tập luyện nhân đức.

            – Khi không còn sợ hãi bất cứ điều gì, chúng ta mới bắt đầu sống và sống tròn đầy, vì chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa; lúc đó, ma quỉ và thế gian phải sợ chúng ta.

            – Mỗi người chúng ta đều có bổn phận phải chứng tỏ niềm tin yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa. Chúng ta hãy vượt qua mọi sợ hãi để sống theo sự thật và làm chứng cho Ngài.

Thứ Hai Tuần 12 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc2 Kgs 17:5-8, 13-15a, 18; Mt 7:1-5.

1/ Bài đọc I5 Vua Át-sua tiến đánh cả xứ, đến Sa-ma-ri và vây hãm thành này ba năm.

6 Năm thứ chín triều vua Hô-sê, vua Át-sua chiếm được Sa-ma-ri và đày Ít-ra-en sang Át-sua. Vua cho họ định cư ở Khơ-lác, và ở ven sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan, và trong các thành xứ Mê-đi.

7 Sự việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, là Đấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác.

8 Họ theo những thói tục của các dân Đức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en và những thói tục các vua Ít-ra-en đã tạo ra.

13 Nhưng Đức Chúa đã dùng tất cả các ngôn sứ và các thầy chiêm mà cảnh cáo Ít-ra-en và Giu-đa: “Hãy trở lại, bỏ con đường tà của các ngươi, hãy tuân giữ các mệnh lệnh và quy tắc của Ta, đúng theo Lề Luật Ta đã truyền cho cha ông các ngươi, và Ta đã chuyển đến các ngươi nhờ các ngôn sứ tôi trung của Ta.”

14 Nhưng họ đã không nghe lời, họ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, những người không tin vào Đức Chúa, Thiên Chúa của họ.

15 Họ đã khinh dể những quy luật của Người, cũng như giao ước Người đã lập với cha ông họ và những chỉ thị Người đã truyền cho họ.

18 Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đẩy Ít-ra-en cho khuất nhan Người. Chỉ còn lại chi tộc Giu-đa.

2/ Phúc Âm1 “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán,

2 vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.

3 Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?

4 Sao anh lại nói với người anh em: “Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn”, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?

5 Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán.

Con người thích xét đoán vì đó là dịp để đề cao mình và giảm danh giá tha nhân. Không những xét đoán tha nhân, nhiều người còn nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa và xét đoán luôn cả sự quan phòng của Ngài. Họ chất vấn hay than phiền những đau khổ Thiên Chúa bắt họ phải chịu. Con người xét đoán không năng xét mình; vì thế, họ thấy họ tốt lành; nhưng nếu họ chịu khó xét mình, họ sẽ thấy họ mang đầy những khuyết điểm, và sẽ không dám xét đoán tha nhân. Con người dễ xét đoán, vì họ nghĩ chẳng có ai rỗi hơi kiểm điểm những lời xét đoán của họ; nhưng nếu họ biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, họ sẽ cẩn thận hơn khi phải xét đoán tha nhân.

Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật những lý do tại sao con người hãy năng xét mình và đừng xét đoán tha nhân. Trong bài đọc I, tác giả Sách Các Vua II nêu rõ những lý do tại sao vương quốc Israel thất thủ và toàn thể dân chúng bị lưu đày: vì họ đã quay lưng lại với Thiên Chúa và thờ các thần ngoại bang và không giữ những Lề Luật Thiên Chúa đã ra cho cha ông họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ đừng xét đoán; nhưng hãy biết xét mình trước. Hãy “lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Tại sao Thiên Chúa để Assyria chinh phục Israel?

1.1/ Israel bị thất thủ và bị lưu đày bên Assyria: Vua Assyria tiến đánh Israel, đến Samaria và vây hãm thành này ba năm. Năm 721 B.C., vua Assyria chiếm được Samaria và đày Israel sang Assyria. Vua cho họ định cư ở Halah, và ở ven sông Habor thuộc vùng Gozan, và trong các thành xứ Medes.

Nhiều người Do-thái tự hỏi tại sao Đức Chúa lại để dân riêng của Người rơi vào tay vua Dân Ngoại Assyria? Vẫn biết con cái Israel đắc tội với Đức Chúa; nhưng Dân Ngoại còn mắc tội nhiều và nặng hơn. Lý do Đức Chúa phải sửa phạt không phải vì Ngài ghét bỏ dân chúng; nhưng là để cho họ có cơ hội xét mình và nhận ra những tội lỗi họ đã xúc phạm đến Ngài. Trong khi con cái Israel lưu đày, Đức Chúa vẫn không ngừng sai các ngôn sứ của Ngài đến an ủi và khuyên bảo dân chúng hãy giữ vững niềm hy vọng. Ngài sẽ cứu dân dù chỉ còn sót lại một nhóm nhỏ và sẽ cho họ về lại quê hương.

1.2/ Nguyên nhân của việc thất thủ và lưu đày: Trong nơi lưu đày, rất nhiều các ngôn sứ và dân đã có cơ hội xét mình và nhận ra những tội tày trời họ đã xúc phạm đến Đức Chúa. Một số tội chính được liệt kê ra hôm nay:

+ Họ đã quay lưng lại với Đức Chúa và chạy theo thờ các thần khác.

+ Họ theo những thói tục của các dân Đức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Israel và những thói tục các vua Israel đã tạo ra.

+ Họ đã không nghe lời cảnh cáo của các ngôn sứ và thầy chiêm; lại còn khinh dể, bắt bớ và bỏ tù các ngôn sứ của Đức Chúa.

+ Họ đã không tuân giữ Lề Luật của Đức Chúa.

Nói mãi không nghe, nên Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Israel và đẩy Israel cho khuất nhan Người. Chỉ còn lại chi tộc Judah.

2/ Phúc Âm: Anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.

2.1/ Tuyệt đối không xét đoán: Chúa Giêsu truyền: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.” Có ít nhất 3 lý do ngăn cấm con người xét đoán tha nhân:

(1) Con người không biết hết hoàn cảnh và các dữ kiện liên quan: Con người dễ phê phán tha nhân vì họ nhìn từ bên ngoài; nhưng để phê phán đúng, họ phải đặt mình vào bên trong để hiểu hoàn cảnh của đương sự. Ví dụ, một người nghèo đói phải ăn cắp để có của ăn nuôi sống là điều hợp lý phải làm; chứ không phải trường hợp ăn cắp nào cũng xấu. Tục ngữ Việt-nam có câu: “Có ở trong chăn mời biết chăn có rận.” Hay trong truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.” Nàng Kiều phải bán mình để chuộc cha để trả ơn sinh thành nuôi dưỡng là điều một người con hiếu thảo phải làm, chứ không phải trường hợp mãi dâm nào cũng bị kết án.

(2) Con người bị chi phối bởi rất nhiều thành kiến: ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, giai cấp, liên hệ, quyền lợi … Một khi đã có những thành kiến, rất khó để con người phán đoán cách chí công vô tư. Người Hy-lạp có thói quen phân xử nạn nhân trong phòng tối để tránh thành kiến; nhưng cả hai bên vẫn có thể nghe tiếng nói của nhau và đoán được nguồn gốc của nhau.

(3) Con người không sạch hoàn toàn để phán xét: Trong câu truyện “Người phụ nữ ngoại tình” của Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu thách thức những người đòi kết án và ném đá người phụ nữ: “Ai trong các ông sạch tội, hãy quăng viên đá trước.” Và họ dần dần rút lui đến khi chỉ còn mình Chúa Giêsu, Đấng có quyền phán xét mọi người vì Ngài không bao giờ phạm tội. Nhưng Ngài nói với chị: “Tôi cũng vậy, tôi không phán xét chị. Thôi! chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Jn 8:12).

Có những trường hợp con người buộc phải xét xử như: bề trên, quan tòa, cha mẹ … Trong những trường hợp buộc phải xét xử, hãy xét xử cách rộng lượng, phải có đầy đủ các dữ kiện, và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, vì theo Lời Chúa cảnh cáo: “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.”

2.2/ Hãy kiểm điểm mình trước: Một trong những cách giúp con người đừng đóan xét tha nhân là năng kiểm điểm bản thân mình. Khi con người thành thật với chính mình, họ tìm ra trong người họ cũng đầy dẫy những tính hư, nết xấu, nhiều khi còn to lớn hơn của tha nhân gấp bội. Nhận ra bản thân như thế, họ sẽ dễ dàng thông cảm và không đoán xét tha nhân. Ngược lại, khi con người không năng xét mình, họ dễ dàng đoán xét tha nhân, vì họ nghĩ họ sạch tội. Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ để cảnh cáo hạng người này: ”Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ”Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn,” trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Khi gặp hoạn nạn, chiến tranh hay thiên tai, chúng ta hãy nắm lấy cơ hội để xét mình xem tại sao Thiên Chúa để những điều đó xảy ra. Chúng ta đừng kiêu ngạo và ngông cuồng kết án luôn sự quan phòng của Thiên Chúa.

– Chúng ta cần tập thói quen tuyệt đối không xét đoán tha nhân, vì đó không phải là việc của chúng ta. Trường hợp vì bổn phận phải xét xử, hãy theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, có tất cả các bằng chứng liên quan, hiểu hoàn cảnh của đương sự, và phán xét cách rộng lượng.

– Chúng ta dùng đấu nào đong cho tha nhân, Thiên Chúa sẽ dùng chính đấu ấy mà đong lại cho chúng ta. 

Thứ Ba Tuần 12 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc2 Kgs 19:9b-11, 14-21, 31-35a, 36; Mt 7:6, 12-14.

1/ Bài đọc I9 Trong các ngày ấy vua Assyria là Sennacherib, đã phái các sứ giả đến nói với vua Hezekiah và dặn rằng:

10 “Các ngươi sẽ nói với Khít-ki-gia, vua Giu-đa, thế này: Đừng để Thiên Chúa của ông là Đấng ông tin tưởng, lừa dối ông rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua.

11 Này, ông thừa biết các vua Át-sua đã xử thế nào với tất cả các nước: Các vị ấy đã tru hiến chúng; còn ông, ông thoát sao được? 14 Vua Khít-ki-gia cầm lấy thư từ tay các sứ giả trao cho mà đọc, rồi lên Nhà ĐỨC CHÚA, mở thư ra trước nhan ĐỨC CHÚA.

15 Vua cầu nguyện trước nhan ĐỨC CHÚA rằng: “Lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa Ít-ra-en, Đấng ngự trên các Kê-ru-bim, chính Ngài, và chỉ mình Ngài mới là Thiên Chúa thống trị mọi vương quốc trần gian. Chính Ngài đã làm nên trời đất.

16 Lạy ĐỨC CHÚA, xin lắng tai nghe, lạy ĐỨC CHÚA, xin đưa mắt nhìn. Xin nghe rõ những lời Xan-khê-ríp là kẻ đã sai người đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống.

17 Quả thật, lạy ĐỨC CHÚA, các vua Át-sua đã tàn phá các dân và xứ sở của họ,

18 quăng các tượng thần của họ vào lửa, vì chúng không phải là thần, mà chỉ là tác phẩm bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, cho nên các vua ấy đã phá huỷ được.

19 Nhưng giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng con, xin đoái thương cứu chúng con khỏi tay vua ấy, để mọi vương quốc trần gian nhận biết rằng chính Ngài, và chỉ một mình Ngài mới là Thiên Chúa, lạy ĐỨC CHÚA! “

20 Ông I-sai-a con ông A-mốc, sai người đến tâu vua Khít-ki-gia rằng: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện về vụ Xan-khê-ríp, vua Át-sua.

21 Đây lời ĐỨC CHÚA kết tội nó: Trinh nữ, cô gái Xi-on khinh dể, nhạo báng ngươi;
sau lưng ngươi, cô gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu! 31 Vì từ Giê-ru-sa-lem, sẽ nảy sinh số còn sót lại, và từ núi Xi-on, sẽ xuất hiện những người thoát chết.
Vì yêu thương cuồng nhiệt, ĐỨC CHÚA sẽ thực hiện điều đó.

32 Về vua Át-sua ĐỨC CHÚA phán như sau: Nó sẽ không vào được thành này, không bắn được mũi tên tới đó, không núp sau thuẫn mà xông lên, cũng chẳng đắp ụ để công phá.

33 Nó sẽ phải quay về, theo chính con đường nó đã đến, chứ thành này thì nó không vào được.
Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

34 Vì Ta và vì Đa-vít, tôi tớ của Ta chính Ta sẽ che chở và sẽ cứu thành này.”

35 Chính đêm ấy, thiên sứ của ĐỨC CHÚA ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua. Ban sáng, khi người ta thức dậy, thì kìa, toàn là thây ma xác chết.

36 Vua Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê và ở lại đó.

2/ Phúc Âm6 “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.

12 “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.

13 “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó.

14 Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chọn đường khó khăn và hẹp để đi.

Phần đông con người thích chọn lựa đường bằng phẳng và ngắn nhất để đi, cách nào ít đòi cố gắng nhất để làm, việc nào dễ dàng nhất nhưng có tiền nhiều nhất. Thực tế chứng minh, người thành công là người phải chọn lựa ngược lại, như chí sĩ Nguyễn Thái Học đã nói: “Nếu đường đời bằng phẳng cả; anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Vài ví dụ cho chúng ta thấy điều này: Các lực sĩ trước khi đoạt huy chương vàng, họ phải hy sinh luyện tập nhiều giờ và kiêng khem ăn uống. Binh lính phải luyện tập nhiều giờ, vì họ tin: ”thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu.”

Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta lời dạy quí giá của Chúa Giêsu và gương chọn lựa con đường khó đi của vua Hezekiah. Trong Bài Đọc I, khi chứng kiến sự thất thủ của vương quốc Israel và thế lực mạnh mẽ của đế quốc Assyria, vua Judah là Hezekiah vẫn không nao núng. Nhà Vua cầu nguyện và hoàn toàn tin tưởng nơi Đức Chúa, nên Ngài đã sai ngôn sứ Isaiah loan tin mừng cho vua: Quân thù Assyria sẽ không chiếm được Judah. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Niềm tin của vua Hezekiah được thử luyện

1.1/ Vua Judah tin tưởng và cầu nguyện với Thiên Chúa

(1) Lời đe dọa của vua Sennacherib: Sau khi vương quốc Israel miền Bắc thất thủ và bị lưu đày, vua Assyria là Sennacherib đã phái các sứ giả đến nói với vua Hezekiah rằng: “Đừng để Thiên Chúa của ông là Đấng ông tin tưởng, lừa dối ông rằng: Jerusalem sẽ không bị nộp vào tay vua Assyria. Này, ông thừa biết các vua Assyria đã xử thế nào với tất cả các nước: Các vị ấy đã tru hiến chúng; còn ông, ông thoát sao được? Vua Hezekiah cầm lấy thư từ tay các sứ giả trao cho mà đọc, rồi lên Nhà Đức Chúa, mở thư ra trước nhan Đức Chúa.

(2) Vua Hezekiah vững niềm tin nơi Thiên Chúa: Trong gian nan là lúc biểu lộ niềm tin. Vua Hezekiah tuyệt đối tin tưởng nơi Đức Chúa. Vua cầu nguyện trước nhan Đức Chúa rằng: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa Israel, Đấng ngự trên các Cherubim, chính Ngài, và chỉ mình Ngài mới là Thiên Chúa thống trị mọi vương quốc trần gian. Chính Ngài đã làm nên trời đất. Lạy Đức Chúa, xin lắng tai nghe, lạy Đức Chúa, xin đưa mắt nhìn. Xin nghe rõ những lời Sennacherib là kẻ đã sai người đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống.”

Nhà Vua phân biệt các thứ thần do tay con người nhào nặn với uy quyền vô biên của Thiên Chúa: “Quả thật, lạy Đức Chúa, các vua Assyria đã tàn phá các dân và xứ sở của nhiều nước, quăng các tượng thần của họ vào lửa, vì chúng không phải là thần, mà chỉ là tác phẩm bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, cho nên các vua ấy đã phá huỷ được. Nhưng giờ đây, lạy Đức Chúa, Thiên Chúa chúng con, xin đoái thương cứu chúng con khỏi tay vua ấy, để mọi vương quốc trần gian nhận biết rằng chính Ngài, và chỉ một mình Ngài mới là Thiên Chúa, lạy Đức Chúa!”

1.2/ Thiên Chúa giải phóng Judah khỏi tay vua Assyria.

+ Khi vua Hezekiah cầu nguyện xong, ngôn sứ của Đức Chúa là Isaiah con ông Amoz, sai người đến tâu vua Hezekiah rằng: “Đức Chúa, Thiên Chúa Israel, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện về vụ Sennacherib, vua Assyria. Đây lời Đức Chúa kết tội nó: Trinh nữ, cô gái Sion khinh dể, nhạo báng ngươi; sau lưng ngươi, cô gái Jerusalem lắc đầu!”

+ Kết quả của cuộc xâm chiếm: “Chính đêm ấy, thiên sứ của Đức Chúa ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Assyria. Ban sáng, khi người ta thức dậy, thì kìa, toàn là thây ma xác chết. Vua Assyria là Sennacherib nhổ trại và lên đường. Ông rút về Nineveh và ở lại đó.”

2/ Phúc Âm: Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.

2.1/ Phải hiểu thì mới biết quí trọng Lời Chúa và các bí tích: Để dẫn chứng sự cao quí của Lời Chúa và các bí tích, Chúa Giêsu đưa ra 2 hình ảnh cho các môn đệ suy nghĩ: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.” Có nhiều cách phiên dịch và áp dụng câu này trong lịch sử:

(1) Các tín hữu Do-thái quá khích dùng câu này để loại trừ Dân Ngoại. Họ nghĩ chỉ có họ mới xứng đáng được hưởng những của thánh, và Dân Ngoại bị so sánh với chó và heo.

(2) Giáo Hội sơ khai dùng câu này để bảo vệ bí tích Mình Thánh Chúa. Khẩu hiệu “của thánh dành cho người thánh” được dùng để ngăn cản những người không cùng niềm tin đến lãnh nhận Mình Thánh Chúa.

(3) Giáo Hội sơ khai cũng dùng lời này để bảo vệ Lời Chúa và đức tin Công Giáo, vì luôn có những lạc thuyết nổi lên đe dọa đức tin hay muốn thích ứng với những trào lưu hiện hành. Nói tóm, các tín hữu cần phải học hỏi để hiểu, thì mới biết quí trọng Lời Chúa và các bí tích.

2.2/ Hai ví dụ của việc sống Lời Chúa:

(1) Luật Vàng của nhân loại còn kém xa Lời Chúa: Luật Vàng dạy: “Điều gì mình không muốn người khác làm cho mình, mình đừng làm cho người khác.” Luật này chỉ tiêu cực, vì nó ngăn cản không cho tội xảy ra; nhưng không giúp con người phát triển vác mối liên hệ với tha nhân. Chúa Giêsu đẩy các môn đệ đến một bước tiến xa hơn: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Moses và lời các ngôn sứ là thế đó.” Đây là luật tích cực, vì nó giúp xây dựng và phát triển các mối liên hệ.

(2) Con người thích đường rộng rãi thênh thang, Chúa Giêsu dạy: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đương đầu với đau khổ và thế lực mạnh là lúc biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Ngài sẽ không bỏ rơi những ai hết lòng tin tưởng nơi Ngài.

– Chúng ta chỉ biết quí trọng Thiên Chúa và những gì thuộc về Ngài khi chúng ta chịu bỏ thời giờ học hỏi, vì “vô tri bất mộ.”

– Con đường đau khổ là con đường Thiên Chúa chọn cho Đức Kitô và loài người đi qua. Chúng ta hãy can đảm chọn con đường đó vì nó sẽ dắt chúng ta đến chỗ vinh quang.

Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả

Bài đọcIsa 49:1-6, Acts 13:22-26; Lk 1:57-66, 80.

1/ Bài đọc I1 Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: ĐỨC CHÚA đã gọi tôi
từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.

2 Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người.
Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người.

3 Người đã phán cùng tôi: “Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang.” 4 Phần tôi, tôi đã nói: “Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì.”
Nhưng sự thật, đã có ĐỨC CHÚA minh xét cho tôi, Người dành sẵn cho tôi phần thưởng.

5 Giờ đây ĐỨC CHÚA lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ
để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người. Thế nên tôi được ĐỨC CHÚA trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi. 6 Người phán: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.”

2/ Bài Đọc II22 Sau khi truất phế vua Sa-un, Người đã cho ông Đa-vít xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm được Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta. 23 Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Ít-ra-en một Đấng Cứu Độ là Đức Giê-su. 24 Để dọn đường cho Đức Giê-su, ông Gio-an đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ít-ra-en chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. 25 Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gio-an đã tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người. 26 “Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta.

3/ Phúc Âm57 Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai.

58 Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.

59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gio-an.” 61 Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa.

65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê.

66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? ” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.

80 Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en. 

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sứ vụ của Gioan là chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô.

Khi nhìn vào thân thể của con người, các nhà khoa học ngạc nhiên về cách cấu trúc và chức năng của từng chi thể như: não bộ, mắt, tai, phổi, tim … và còn ngạc nhiên hơn khi tìm ra cách hoạt động hòa điệu và nhịp nhàng của các chi thể, trong việc đem lại sự sống cho con người. Khi nghiên cứu về Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên về sự sắp xếp của Thiên Chúa, trong việc chuẩn bị cho nhân loại một Đấng Thiên Sai, để đem ơn cứu độ cho muôn người. Có những tổ phụ đi trước để chuẩn bị như Abraham, vua David, tiên-tri Isaiah. Có những người đồng thời để dọn đường và giới thiệu Đức Kitô, nhân vật chính của Kế Hoạch Cứu Độ, cho mọi người. Có những người đi sau để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô như các thánh tông-đồ và tử-đạo. Trải qua bao thế hệ, Thiên Chúa vẫn không ngừng các thánh và mọi tín hữu để loan báo Tin Mừng và làm cho con người tin vào Đức Kitô để đạt được ơn cứu độ. Thánh Phaolô có lý khi so sánh toàn thể nhân loại như những chi thể của một Nhiệm Thể là Đức Kitô. Chúng ta đều là những chi thể của một thân thể, và đều có nhiệm vụ góp phần mang lại sự sống cho Nhiệm Thể Đức Kitô.

         Các Bài Đọc trong ngày Sinh Nhật của Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy sự sắp xếp nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc sửa soạn cho nhân loại một Người Tôi Trung để chuộc tội và mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong Bài Đọc I, Bài Ca Thứ Hai của Người Tôi Trung Thiên Chúa, tiên tri Isaiah tường thuật việc Thiên Chúa chuẩn bị cho nhân loại một Người Tôi Trung và trao cho Ngài một sứ vụ gồm hai phần: mang vinh quang cho dân tộc Israel và trở nên ánh sáng cứu độ cho các dân tộc. Trong Bài Đọc II, Sách CVTĐ tường thuật một phần Bài Giảng của Phaolô tại Antioch, Pisidia. Phaolô muốn cho khán giả biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa đã được tường thuật bởi các tiên-tri và Thánh Vịnh: Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một Đấng Cứu Độ từ giòng dõi Vua David, và ông Gioan Tẩy Giả đã chuẩn bị, làm chứng, và chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô để lãnh nhận ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, thánh-sử Luca tường thuật những biến cố lạ lùng xảy ra chung quanh việc chào đời của Gioan Tẩy Giả. Tất cả những biến cố này chỉ cho thấy Thiên Chúa đã dùng ông để đi tiên phong dọn đường cho mọi người đón nhận Đức Kitô, và Gioan đã dùng cả cuộc đời ông để chu toàn sứ vụ và làm chứng cho Đức Kitô.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Người Tôi Trung chịu đau khổ để thực thi Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.

1.1/ Thiên Chúa chuẩn bị cho nhân loại “Người Tôi Trung” ngay từ đầu: Ai là “Người Tôi Trung” trong trình thuật hôm nay? Có ít nhất 3 cách giải thích:

(1) Có người cho là Vua Cyrus, Ba-tư; vì Thiên Chúa dùng ông để phóng thích và cho dân Do-thái trở về quê hương sau Thời Lưu Đày. Quan điểm này không đúng, vì sứ vụ của “Người Tôi Trung” không chỉ giải phóng Israel mà còn là ánh sáng muôn dân và mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất.

(2) Có người cho là dân tộc Israel như được tường thuật rõ ràng bên dưới. Quan điểm này cũng không có cơ sở, vì Israel không tự giải phóng mình, nhưng cần nhờ đến sức mạnh của Thiên Chúa. Hơn nữa, Israel cũng không quan niệm họ sẽ trở nên ánh sáng muôn dân và mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất.

(3) Đa số các học giả Kinh Thánh và Giáo Hội đều đồng ý danh hiệu Người Tôi Trung được Tiên-tri Isaiah dùng để chỉ Đấng Thiên Sai là Đức Kitô, người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Isaiah nói về “Người Tôi Trung” này như sau:

+ Người Tôi Trung đã có trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa ngay từ đầu: ”Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.”

+ Người Tôi trung được Thiên Chúa huấn luyện và bảo vệ: ”Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người.”

+ Người Tôi Trung phải chịu đau khổ, nhưng chắc chắn sẽ chiến thắng: ”Người đã phán cùng tôi: “Hỡi Israel, ngươi là Tôi Trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang.” Phần tôi, tôi đã nói: “Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì.” Nhưng sự thật, đã có Đức Chúa minh xét cho tôi, Người dành sẵn cho tôi phần thưởng.”

1.2/ Sứ vụ của Người Tôi Trung: Người Tôi Trung được Thiên Chúa trao cho hai sứ vụ:

(1) Đem nhà Jacob về cho Người và quy tụ dân Israel chung quanh Người: Đây là sứ vụ đầu tiên của “Người Tôi Trung.” Khi một phụ nữ Dân Ngoại đến van xin Đức Kitô chữa bệnh cho con Bà, Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.” Chính Ngài cũng truyền cho các môn đệ: “Đừng vào thành các Dân Ngoại, nhưng hãy đến với các chiên lạc của nhà Israel” (Mt 10:5-6).

(2) Để trở thành ánh sáng muôn dân, và để đem ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng cõi đất: Đây là sứ vụ thứ hai của “Người Tôi Trung.” Ông Simeon lặp lại lời này của Isaiah, khi nói tiên tri về con trẻ Giêsu: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho Dân Ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài” (Lk 2:29-34). Tuy Đức Kitô ít ra khỏi ranh giới Israel để loan truyền Tin Mừng cho các Dân Ngoại; nhưng Ngài đã chuẩn bị đầy đủ cho các môn đệ, và truyền cho các ông phải loan báo Tin Mừng cho muôn dân đến tận cùng trái đất (Mk 28:19).

2/ Bài Đọc II: Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu.

2.1/ Lời hứa ban Đấng Cứu Chuộc của Thiên Chúa từ thời Vua David. Đây là một đoạn trích trong Bài Giảng của Phaolô cho người Do-thái tại Antioch, Pisidia. Phaolô muốn dùng lịch sử để chứng minh cho khán giả biết Đức Kitô xuất thân từ giòng dõi của Vua David: ”Sau khi truất phế vua Saul, Người đã cho ông David xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm được David, con của Jesse, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta. Từ giòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu.”

2.2/ Ông Gioan làm chứng, Đức Kitô hoàn thành lời hứa cứu độ của Thiên Chúa: Phaolô nói về sứ vụ của Gioan: ”Để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng kêu gọi toàn dân Israel chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gioan đã tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa: Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người.””

Và Phaolô thuyết phục khán giả: “Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Abraham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta.”

3/ Phúc Âm: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Vì quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.

3.1/ Những sự lạ lùng xảy ra trong biến cố sinh nhật của Gioan:

(1) Hai cha mẹ đều cao niên mà lại có con: Theo chu kỳ tự nhiên, con người chỉ có thể sinh con trong một hạn tuổi nào đó. Khi đã quá tuổi, con người không thể có con. Tuy nhiên, khi Thiên Chúa can thiệp, Ngài có thể làm cho những người cao niên có con nối giòng. Lịch sử Cựu Ước đã tường thuật nhiều lần những điều này: Abraham và Sarah mang thai Isaac, cha mẹ của anh hùng Sampson, cha mẹ của tiên tri Samuel, và hôm nay, ông Zachariah và bà Elisabeth.

(2) Ông Zachariah bị câm và nói được: Ông bị câm vì ông không tin ông có thể có con trong lúc tuổi già và bà Elisabeth, vợ ông cũng đã quá tuổi sinh con. Sứ thần Gabriel phạt ông bị câm, vì ông đã không tin tưởng nơi quyền năng Thiên Chúa. Trong trình thuật hôm nay, khi được hỏi muốn đặt tên con là gì, ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gioan.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa.

(3) Đặt tên cho con: Tên là người. Tùy vào ước vọng cha mẹ muốn cho con ra sao, trở thành gì, hay kỷ niệm một biến cố gì; họ sẽ đặt tên con như thế. Ví dụ, nếu cha mẹ có con trong khi đã quá tuổi sinh con; họ sẽ đặt tên con là “Hồng Ân.” Tên John (hay Gioan), là chữ viết tắt của tiếng kép Do-thái “Jeho-hannah;” có nghĩa “quà tặng của Jehovah,” hay “hồng ân Thiên Chúa.” Cả hai, ông Zachariah và bà Elisabeth, đều muốn đặt tên con như thế, vì ông bà biết đứa trẻ là quà tặng của Thiên Chúa cho hai ông bà; mặc dù họ hàng láng giềng thắc mắc: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.”

3.2/ Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả:

(1) Cha mẹ, họ hàng, và láng giềng đều nhận ra bàn tay Thiên Chúa trong cuộc đời Gioan ngay từ đầu: Trình thuật kể: ”Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Judah. Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Vì quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Israel.”

(2) Gioan chuẩn bị tâm hồn dân và chỉ cho mọi người đến với Đức Kitô: Chúng ta có thể học hỏi ít là 4 điều từ Gioan Tẩy Giả: Thứ nhất, ông sẵn sàng hy sinh mọi thú vui thế gian để chu toàn sứ vụ của mình: ông sống trong sa mạc, mặc áo da thú, ăn chấu chấu và mật ong rừng. Thứ hai, ông chuẩn bị tâm hồn cho dân đón nhận Đấng Cứu Thế bằng cách rao giảng để dân ăn năn thống hối trước khi ông làm phép rửa cho họ. Thứ ba, ông sống rất thành thực và không vị nể bất cứ người nào: khi được hỏi ông có phải là Đấng Thiên Sai, ông trả lời ông chỉ là tiếng người hô trong sa mạc, và ông không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng Thiên Sai. Sau cùng, ông sẵn sàng đổ máu làm chứng cho sự thật. Ông bị vua Herode chém đầu vì ông dám ngăn cản cuộc hôn nhân bất hợp pháp của Nhà Vua.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Mọi người chúng ta đều được Thiên Chúa cho vào đời với một sứ vụ; chứ không tình cờ xuất hiện hay chỉ để ăn uống, hưởng thụ. Sứ vụ của chúng ta là làm sao giúp cho mọi người nhận ra tình yêu và đạt được ơn cứu độ của Thiên Chúa.

– Chúng ta đều có bổn phận như Gioan là dọn tâm hồn và chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô; chứ không hướng mọi người vào chúng ta, hay vào bất kỳ một nhân vật nào khác.

– Để hoàn thành điều này, chúng ta chắc chắn phải chịu nhiều đau khổ, như Đức Kitô và Gioan Tẩy Giả đã trải qua.

Thứ Năm Tuần 12 TN2

Bài đọc2 Kgs 24:8-17; Mt 7:21-29.

1/ Bài đọc I8 Giơ-hô-gia-khin lên ngôi vua khi được mười tám tuổi, và trị vì ba tháng ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Nơ-khút-ta, con gái ông En-na-than, bà là người Giê-ru-sa-lem.

9 Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, hệt như vua cha.

10 Khi ấy, các thuộc hạ của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, tiến lên đánh Giê-ru-sa-lem, và thành bị vây hãm.

11 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đến đánh thành, trong khi các thuộc hạ của vua vây hãm thành.

12 Vua Giơ-hô-gia-khin, vua Giu-đa, cùng với mẹ vua, các thuộc hạ, các tướng lãnh và thái giám của vua ra hàng vua Ba-by-lon. Vua đã bị bắt vào năm thứ tám triều vua Ba-by-lon.

13 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đưa mọi kho tàng của Nhà ĐỨC CHÚA và các kho tàng của hoàng cung ra khỏi đó. Vua đập bể mọi đồ bằng vàng mà vua Sa-lô-môn, vua Ít-ra-en, đã làm để dùng trong đền thờ ĐỨC CHÚA, như ĐỨC CHÚA đã phán.

14 Vua bắt toàn thể Giê-ru-sa-lem, mọi tướng lãnh và mọi dũng sĩ đi đày, tất cả là mười ngàn người phải đi đày, cùng với mọi thợ rèn và thợ làm khoá; không sót lại một ai, trừ dân cùng đinh trong xứ.

15 Vua đày vua Giơ-hô-gia-khin sang Ba-by-lon; vua đày mẹ vua này, các cung phi, các thái giám và phú hào trong xứ, từ Giê-ru-sa-lem sang Ba-by-lon.

16 Tất cả những người có thế giá, bảy ngàn người, thợ rèn và thợ làm khoá, một ngàn người, và tất cả các binh lính cũng bị vua đày sang Ba-by-lon.

17 Vua Ba-by-lon đặt ông Mát-tan-gia là chú của vua Giơ-hô-gia-khin làm vua thay thế; vua Ba-by-lon đổi tên vua Mát-tan-gia là Xít-ki-gia-hu.

2/ Phúc Âm21 “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.

22 Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?”

23 Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!

24 “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.

25 Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.

26 Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát.

27 Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”.

28 Khi Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người,

29 vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Gieo giống nào sẽ gặt hái quả đó, sống thế nào sẽ lãnh hậu quả như vậy.

Xây nhà là một việc làm tốn kém và đòi nhiều thời gian để nghiên cứu địa hình, khí hậu, và vật liệu thích hợp. Nếu không chịu bỏ thời gian nghiên cứu, căn nhà xây lên sẽ không tồn tại lâu dài. Xây dựng đời người còn tốn kém gấp bội và đòi hỏi thời gian cả cuộc đời. Thánh Phaolô cho các tín hữu một lời khuyên rất khôn ngoan: hãy xây dựng cuộc đời mình trên nền tảng vững chắc là Đức Kitô, hãy đặt Ngài làm Đá Tảng góc tường.

Các bài đọc hôm nay tập trung trong việc giúp con người nhận ra những hậu quả mà họ phải lãnh nhận tương xứng với những gì họ hành động. Trong bài đọc I, tác giả Sách Các Vua II tường thuật ngày tàn của vương quốc Judah. Họ bị đế quốc Babylon hủy diệt hoàn toàn và đem đi lưu đày vì đã từ chối không sống theo những lời chỉ dạy của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố niềm tin biểu lộ qua miệng lưỡi sẽ không đủ để giúp con người vào Nước Thiên Chúa; nhưng họ phải biểu lộ niềm tin qua hành động là xây dựng căn nhà cuộc đời của họ trên nền tảng Lời Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Hậu quả phải lãnh nhận vì khinh thường Lời Chúa.

1.1/ Hai lối sống trái ngược: Hôm qua, tác giả Sách Các Vua tường thuật cuộc canh tân toàn thể quốc gia của vua Josiah dựa trên nền tảng của Sách Luật được tìm thấy trong Đền Thờ. Hậu quả là vương quốc thoát khỏi cơn thịnh nộ của Đức Chúa và toàn dân được an bình trong một thời gian. Hôm nay, tác giả tường thuật ngày tàn của vương quốc Judah. Lý do vì các vua kế tiếp lại trở về nếp sống cũ: quay lưng lại với Đức Chúa và không giữ các lệnh truyền của Ngài. Hậu quả là Ngài không bảo vệ dân nữa và để mặc cho kẻ thù xâu xé.

Jehoiachin lên ngôi vua khi được mười tám tuổi, và trị vì ba tháng ở Jerusalem. Vua đã làm điều dữ trái mắt Đức Chúa, hệt như vua cha. Vua Babylon là Nebuchadnezzar đến đánh thành, trong khi các thuộc hạ của vua vây hãm thành. Biết không thể chống lại lực lượng của địch, vua Jehoiachin cùng với mẹ vua, các thuộc hạ, các tướng lãnh và thái giám của vua ra hàng vua Babylon. Vua đã bị bắt vào năm thứ tám triều vua Babylon.

1.2/ Hậu quả của lối sống không vâng lời Thiên Chúa:

(1) Mọi của cải xây dựng đều rơi vào tay quân thù: Người Do-thái rất tự hào về Đền Thờ của họ. Đền Thờ này được xây dựng bởi vua Solomon trên một đỉnh núi vững chắc là núi Sion. Khi Đền Thờ rơi vào tay vua Nebuchadnezzar, vua truyền đưa mọi kho tàng của Nhà Đức Chúa và các kho tàng của hoàng cung ra khỏi đó về Babylon. Vua đập bể mọi đồ bằng vàng mà vua Solomon, đã làm để dùng trong đền thờ Đức Chúa.

(2) Vua quan và dân chúng đều bị đem đi lưu đày: Vua Jehoiachin, mẹ vua , các cung phi, các thái giám và phú hào trong xứ, mọi tướng lãnh và mọi dũng sĩ, tất cả là mười ngàn người, cùng với mọi thợ rèn và thợ làm khoá; không sót lại một ai, trừ dân cùng đinh trong xứ. Tất cả bị đày từ Jerusalem sang Babylon.

Vua Babylon đặt ông Mattaniah là chú của vua Jehoiachin làm vua thay thế; vua Babylon đổi tên vua Mattaniah là Zedekiah. Mattaniah là con thứ ba của vua Josiah cai trị Judah. Nhà vua cai trị Judah 10 năm, từ 597-587 BC. Nhiều người Judah chỉ nhận Jehoiachin là vua chính thức của Judah.

2/ Phúc Âm:

2.1/ Nước Trời không dành cho những ai chỉ biết nói yêu mến Thiên Chúa:

+ Chúa Giêsu phân biệt rõ ràng hai lãnh vực lời nói và việc làm, và Nước Trời chỉ dành cho những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Một người ngây thơ có thể tin vào những lời đường mật của người dẻo miệng lưỡi ca tụng; nhưng không ai có thể đánh lừa Thiên Chúa bằng những lời tán tụng ngoài miệng, vì Ngài thấu suốt mọi ý hướng của con người.

+ Những tiên tri giả hay linh mục giả vẫn có thể nhân danh Thiên Chúa để rao giảng, trừ quỉ hay chữa bệnh. Việc làm của họ đôi khi thành công, không phải vì sự cố gắng của họ; nhưng vì quyền lực của Thiên Chúa. Nhưng nếu họ không tuân giữ các lệnh truyền của Thiên Chúa và gây thiệt hại cho người khác, họ cũng không được vào Nước Trời.

+ Chương 25 của Tin Mừng Matthew cho chúng ta thấy rõ: tiêu chuẩn phán xét của Thiên Chúa là những gì chúng ta làm cho một trong những người bé mọn là chúng ta làm cho Ngài; và chỉ những người biết thực thi bác ái mới được vào Nước của Thiên Chúa.

+ Vì thế, tình yêu thật phải biểu tỏ trong lời nói cũng như trong hành động. Người yêu thật sự là người sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu; chứ không phải nói yêu một đàng rồi sống ích kỷ để mặc người mình yêu muốn ra sao thì ra. Một người yêu Chúa thật là người luôn cố gắng tìm ra và thi hành thánh ý của Ngài. Cách cụ thể là luôn tìm dịp để giúp đỡ mọi người về phương diện tinh thần cũng như vật chất.

2.2/ Phải xây dựng cuộc đời trên nền tảng những Lời Chúa dạy: Để dẫn chứng tầm quan trọng của việc thi hành Lời Chúa, Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ cụ thể mà mọi người đều hiểu.

(1) Xây nhà trên đá: Nhà xây trên nền đá, tuy khó làm lúc đầu, nhưng sẽ chịu đựng được mọi thay đổi của thời tiết sẽ xảy ra: mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào. Tương tự như thế cho những ai xây dựng cuộc đời mình trên nền tảng vững chắc là Lời Chúa. Trước tiên họ phải bỏ thời giờ học hỏi để hiểu tường tận, sau đó phải tìm mọi dịp để mang ra áp dụng trong cuộc đời.

(2) Xây nhà trên cát: Nhà xây trên cát rất dễ làm lúc đầu, nhưng không chịu đựng nổi những đe dọa của thời tiết; chỉ cần một cơn sóng gió nhỏ cũng đủ cuốn trôi nhà ấy. Rất nhiều người xây dựng căn nhà cuộc đời mình trên những nền tảng không phải là Lời Chúa như: vàng bạc, danh vọng, uy quyền, sắc đẹp. Đến khi phải đối diện với bệnh tật hay đau khổ, họ không thể đứng vững, và nhiều người đã hủy hoại cuộc đời họ vì không thể thắng vượt được những cơn lốc của thế gian, và bẫy giăng của ma quỉ.

Người xây nhà trên cát có thể ví như con dã tràng ngoài biển, cố gắng xây dựng hang động của mình khi thủy triều rút xuống; nhưng khi thủy triều dâng lên hay biển động, nước sẽ tràn vào hang động của chúng và cuốn sạch ra biển. Chúng cứ tiếp tục xây để rồi lại bị cuốn đi. Nếu con người không biết suy nghĩ khôn ngoan hơn con dã tràng, họ sẽ không có cơ hội được sống hạnh phúc trong cơn nhà đời này, chứ đừng nói tới việc hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa mai sau.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Để xây căn nhà cuộc đời chúng ta cách chắc chắn, chúng ta phải xây dựng trên nền tảng vững chắc là Đức Kitô và những lời dạy bảo của Ngài.

– Chúng ta phải chịu khó bỏ thời giờ để học hỏi những giáo huấn của Đức Kitô và mang ra áp dụng trong cuộc sống: bắt đầu từ khi còn nhỏ, khi trưởng thành, và kéo dài trong suốt cuộc đời.

– Gieo nhân nào gặt quả đó. Chúng ta sống thế nào, Thiên Chúa sẽ trả cho chúng ta như thế.

Thứ Sáu Tuần 12 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc2 Kgs 25:1-12; Mt 8:1-4.

1/ Bài đọc I1 Ngày mồng mười tháng mười, năm thứ chín triều Xít-ki-gia-hu, Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, cùng toàn thể đạo quân tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Vua đóng trại và đắp chiến luỹ chung quanh để đánh thành.

2 Thành bị vây hãm cho đến năm thứ mười một triều vua Xít-ki-gia-hu.

3 Vào mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành, và không có bánh cho dân trong xứ.

4 Thành bị chọc thủng một lỗ. Đang đêm, tất cả các binh lính đi ra theo con đường cửa giữa hai bức tường, gần vườn của vua, -bấy giờ quân Can-đê đang bao vây thành-, rồi họ đi theo con đường hướng tới A-ra-va.

5 Đạo quân Can-đê rượt theo và đuổi kịp vua trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô; toàn thể đạo quân của vua bỏ vua chạy tán loạn.

6 Chúng bắt vua và đem lên Ríp-la gặp vua Ba-by-lon, chúng tuyên án kết tội vua.

7 Chúng cắt cổ những người con của vua Xít-ki-gia-hu trước mắt vua cha. Rồi vua Ba-by-lon đâm mù mắt vua Xít-ki-gia-hu, lấy hai dây xích đồng xiềng vua lại và điệu về Ba-by-lon.

8 Ngày mồng bảy tháng năm, -đó là năm thứ mười chín triều Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon-, quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan, thuộc hạ của vua Ba-by-lon, vào Giê-ru-sa-lem.

9 Ông đốt Nhà ĐỨC CHÚA, đền vua và mọi nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; ông còn phóng hoả đốt mọi dinh thự các nhà quyền quý.

10 Toàn thể đạo quân Can-đê, dưới quyền quan chỉ huy thị vệ, phá huỷ các tường thành chung quanh Giê-ru-sa-lem.

11 Quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan bắt những người dân còn sót lại trong thành, những người đã đào ngũ theo vua Ba-by-lon, và những người thợ thủ công còn sót lại phải đi đày.

12 Nhưng quan chỉ huy thị vệ chừa lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và canh tác.

2/ Phúc Âm1 Khi Đức Giê-su ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người.

2 Bỗng có một người phong hủi tiến lại, bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”

3 Người giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.

4 Rồi Đức Giê-su bảo anh: “Coi chừng, đừng nói với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ, như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa luôn thi hành những gì Ngài đã nói.

Lịch sử Cựu Ước là một chứng minh uy quyền của Thiên Chúa và sự bất trung của con người. Thiên Chúa hứa sẽ bảo vệ dân bao lâu họ chịu lắng nghe và tuân giữ những gì Ngài dạy; nhưng nếu họ không vâng lời, Thiên Chúa chẳng cần phải ra tay sửa phạt, Ngài chỉ không bảo vệ họ nữa, là bàn tay quân thù chung quanh sẽ đè nặng và tiêu diệt dân tộc Israel. Trước khi để quân thù sửa phạt, Thiên Chúa luôn gởi các ngôn sứ đến để cảnh cáo và kêu gọi trở lại với tình yêu đích thật.

Các bài đọc hôm nay đưa ra cho chúng ta hai tấm gương của những người bất trung và trung thành với Thiên Chúa. Trong bài đọc I, Đức Chúa để cho vua Babylon san phẳng thành Jerusalem với các dinh thự và Đền Thờ, đúng như lời Ngài đã cảnh cáo qua miệng các ngôn sứ. Vua quan, các nhà quí tộc, và hầu hết dân thành bị đem đi lưu đày tại Babylon. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tỏ tình yêu thương và chữa lành cho một người cùi bằng cách động đến anh. Chúa truyền cho anh đi trình diện các tư tế và dâng lễ vật như Luật truyền.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Jerusalem bị hoàn toàn phá hủy.

1.1/ Vua Zedekiah chống cự lại đế quốc Babylon.

Tuy đã chứng kiến lần thất bại thứ nhất và cảnh vua Jehoiachin cùng cả hoàng tộc cũng như quân quốc bị đày sang Babylon lần thứ nhất, vua Zedekiah vẫn không chịu ăn năn sám hối và tin tưởng nơi Đức Chúa. Nhà vua gởi sứ giả sang Ai-cập cầu viện để có sức mạnh quân sự chống lại đế quốc Babylon (Eze 17:11-21). Chuyện này đến tai vua Babylon.

“Ngày mồng mười tháng mười, năm thứ chín triều Zedekiah (588 BC), Nebuchadnezzar, vua Babylon, cùng toàn thể đạo quân tiến đánh Jerusalem. Vua đóng trại và đắp chiến luỹ chung quanh để đánh thành. Thành bị vây hãm cho đến năm thứ mười một triều vua Zedekiah. Vào mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành, và không có bánh cho dân trong xứ.”

Tuy Jerusalem là một thành trì rất kiên cố; nhưng nếu bị bao vây trong hai năm trời, toàn thể nguồn lương thực sẽ bị tiêu tan. Để thoát thân, vua Zedekiah chọc thủng một lỗ. Đây có lẽ tác giả muốn nói tới kênh đào Siloam, chỗ cung cấp nước cho cả thành Jerusalem, nằm gần thành David (Neh 3:15). Từ đó, người ta có thể đi xuống thung lũng Kidron và đi về Jericho trước khi xuôi Nam xuống vùng Arab.

“Đang đêm, tất cả các binh lính đi ra theo con đường cửa giữa hai bức tường, gần vườn của vua, rồi họ đi theo con đường hướng tới Arabah… Đạo quân Chaldeans rượt theo và đuổi kịp vua trong vùng thảo nguyên Jericho; toàn thể đạo quân của vua bỏ vua chạy tán loạn. Chúng bắt vua và đem lên Riplah gặp vua Babylon, chúng tuyên án kết tội vua. Chúng cắt cổ những người con của vua Zedekiah trước mắt vua cha. Rồi vua Babylon đâm mù mắt vua Zedekiah, lấy hai dây xích đồng xiềng vua lại và điệu về Babylon.”

1.2/ Jerusalem bị phá hủy bình địa.

“Ngày mồng bảy tháng năm, đó là năm thứ mười chín triều Nebuchadnezzar, vua Babylon, quan chỉ huy thị vệ Nebuzaradan, thuộc hạ của vua Babylon, vào Jerusalem. Ông đốt Nhà Đức Chúa, đền vua và mọi nhà cửa ở Jerusalem; ông còn phóng hoả đốt mọi dinh thự các nhà quyền quý. Toàn thể đạo quân Chaldeans, dưới quyền quan chỉ huy thị vệ, phá huỷ các tường thành chung quanh Jerusalem. Quan chỉ huy thị vệ Nebuzaradan bắt những người dân còn sót lại trong thành, những người đã đào ngũ theo vua Babylon, và những người thợ thủ công còn sót lại phải đi đày. Nhưng quan chỉ huy thị vệ chừa lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và canh tác.”

2/ Phúc Âm: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”

2.1/ Phép lạ Chúa chữa người phong hủi:

(1) Người phong hủi biết cách xin: Ông tiến lại, bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chỉ với câu một ngắn ngủi, ông đã lột tả được hai điều quan trọng:

+ Ông luôn sẵn sàng vâng theo thánh ý Thiên Chúa: Khi nói “nếu Ngài muốn,” ông cũng biết điều đối ngược có thể xảy ra là Thiên Chúa có thể không muốn, và ông sẵn lòng vâng theo thánh ý Thiên Chúa để chịu bệnh. Con người không biết chuyện tương lai nên không biết cách xin làm sao cho đúng; vì thế, điều khôn ngoan là cứ việc xin, nhưng phải khôn ngoan cho thêm câu như người phong hủi hôm nay “nếu Ngài muốn.” Lý do: có thể những điều con người muốn sẽ đưa họ đến chỗ thiệt hại hơn; chẳng hạn, nguy hiểm cho phần linh hồn. Thiên Chúa biết những gì ích lợi cho con cái, Ngài sẽ ban điều tốt nhất cho những ai tin tưởng tuyệt đối vào Ngài.

+ Ông tin Chúa Giêsu có thể làm được mọi sự: Khi nói “Ngài có thể làm cho tôi được sạch,” người phong hủi không một chút nghi ngờ quyền năng của Chúa Giêsu. Đây là điều kiện tiên quyết để được lành bệnh, như Chúa Giêsu vẫn thường đòi hỏi nơi bệnh nhân.

(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Thấy cách biểu lộ niềm tin và lối sống của người phong hủi, Chúa Giêsu giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.

Đây là hành động rất can đảm và biểu lộ lòng thương xót của Chúa Giêsu, vì Lề Luật ngăn cấm không cho sự tiếp xúc giữa người lành mạnh và người bị phong hủi. Khi Chúa Giêsu giơ tay đụng anh, Ngài đã làm cho mình trở nên không thanh sạch. Người không thanh sạch bị ngăn cấm không được vào Đền Thờ; nhưng lòng thương xót của Chúa Giêsu dành cho anh đã thắng vượt tất cả những ràng buộc của Lề Luật. Tiên tri Isaiah diễn tả rất hay về lòng thương xót như sau: ”Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Isa 53:4a).

2.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu:

(1) “Coi chừng, đừng nói với ai cả:” Thông thường, nhiều người sẽ không hiểu tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm anh không được tiết lộ; lẽ ra phải để anh rao truyền quyền năng của Chúa Giêsu để giúp nhiều người tin vào Ngài. Lý do Chúa Giêsu ngăn cấm anh vì Chúa không muốn dân chúng tin Ngài như một Đấng Thiên Sai uy quyền như truyền thống vẫn tin; nhưng là một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ để cứu độ con người.

(2) ”Hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ, như ông Moses đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Ngày xưa, xã hội không có bác sĩ như bây giờ; các tư tế có bổn phận khám xét những người bị bệnh phong, để tuyên bố một người có bệnh hay được lành bệnh. Bệnh phong không những nghiêm trọng về thể lý vì tính hay lây; nhưng còn nghiêm trọng hơn trong việc tế lễ. Lề Luật không cho phép người bị bệnh phong vào Đền Thờ dâng của lễ, vì họ được xếp vào hạng người không sạch. Khi tư tế tuyên bố người mắc bệnh đã lành, anh phải dâng của lễ tạ ơn như Lề Luật truyền (Lev 14:4-5).

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta cần có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa trong mọi trạng huống của cuộc đời, vì mọi sự đều có thể xảy ra dưới bàn tay uy quyền của Ngài.

– Không phải những điều chúng ta xin đều đẹp ý Ngài; vì thế, hãy mở lòng để đón nhận lời từ chối của Thiên Chúa, và can đảm vâng theo thánh ý Ngài.

Thứ Bảy Tuần 12 TN2

Bài đọcLam 2:2, 10-14, 18-19; Mt 8:5-17.

1/ Bài đọc I2 Mọi nơi cư ngụ của Gia-cóp, Đức Chúa huỷ diệt chẳng chút xót thương; nổi trận lôi đình, Người triệt hạ đồn luỹ của thiếu nữ Giu-đa; Người xô xuống đất và làm nhục vương quốc và thủ lãnh của nàng.

10 Hàng kỳ mục của thiếu nữ Xi-on ngồi thinh lặng ngay trên thềm đất, đầu rắc đầy tro bụi, mình mặc áo vải thô. Các cô trinh nữ Giê-ru-sa-lem gục đầu sát đất.

11 Suối lệ tuôn trào đến mòn đôi mắt, ruột gan tôi đòi đoạn, tâm can tôi rối bời; vì con gái dân tôi rã rời tan nát, còn lũ sơ sinh và bầy trẻ dại gục ngã khắp quảng trường.

12 Lũ trẻ thơ hoài công hỏi mẹ: “Bánh con đâu? ” rồi ngã gục trên quảng trường thành phố, tựa như người bị đâm: chúng trút linh hồn ngay trên tay mẹ.

13 Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, ví ngươi cùng ai, sánh ngươi với ai? Này trinh nữ, cô gái Xi-on, ai cứu được ngươi, ai ủi an ngươi? Tai hoạ ngươi mắc phải lớn quá rồi, lớn tựa trùng dương, ai chữa nổi?

14 Ngôn sứ của ngươi tỏ cho ngươi thấy toàn điều hư ảo, toàn chuyện khói mây, còn lỗi lầm ngươi, chúng không vạch rõ để đảo ngược vận số của ngươi.
Điều chúng thấy là điều huyền hoặc, chỉ đưa ngươi vào ảo tưởng mà thôi.

18 Tự đáy lòng, hãy kêu lên Chúa, hỡi tường thành của thiếu nữ Xi-on! Cứ để mặc suối lệ ngươi tuôn chảy, ngày đêm chẳng khi ngừng. Chớ khi nào ngơi nghỉ, cũng đừng để dòng lệ khô đi.

19 Đứng dậy đi, la lên trong đêm tối, khi năm canh chỉ mới bắt đầu!
Trước nhan Chúa, hãy trút niềm tâm sự, giơ tay hướng về Người
mà cầu cho sinh mạng của đoàn con đang lịm dần vì đói đầu đường, góc phố, khắp nơi nơi.

2/ Phúc Âm5 Khi Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: 6 “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.”

7 Người nói: “Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp:

8 “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. 9 Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: “Đi! “, là nó đi, bảo người kia: “Đến! “, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này! “, là nó làm.”

10 Nghe vậy, Đức Giê-su ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế.

11 Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.

12 Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

13 Rồi Đức Giê-su nói với viên đại đội trưởng rằng: “Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy! ” Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh.

14 Đức Giê-su đến nhà ông Phê-rô, thấy bà mẹ vợ ông đang nằm liệt và lên cơn sốt.

15 Người đụng vào tay bà, cơn sốt dứt ngay và bà chỗi dậy phục vụ Người.

16 Chiều đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giê-su. Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau,

17 để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy luôn biết tin tưởng và trông cậy nơi Thiên Chúa.

Đau khổ, đói khát và chết chóc xảy ra phần lớn là do tội bất trung của con người. Họ không chịu vâng lời và làm theo những điều Chúa truyền dạy. Khi phải sống trong đau khổ, con người có thể có hai thái độ: hoặc nhận ra tội lỗi đã xúc phạm đến Thiên Chúa và ăn năn trở lại, hoặc ngã lòng trông cậy, chửi trời và trách người.

Các bài đọc hôm nay cung cấp cho con người niềm hy vọng và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Trong bài đọc I, tác giả Sách Ai Ca, sau khi khóc than về những u sầu đau thương mà con cái Israel phải lãnh nhận, ông nhận ra đó là hậu quả của việc bất trung với Thiên Chúa. Ông khuyên họ phải biết than khóc tội lỗi của mình ngày đêm và tin tưởng trông cậy nơi tình thương Thiên Chúa sẽ giải thoát họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thương xót và chữa lành mọi người chạy đến với Ngài, ngay cả người đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng Dân Ngoại.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Bài thương ca về biến cố mất nước Judah năm 587 BC

1.1/ Đừng tin vào quyền thế của vua chúa hay sức mạnh quân sự.

Tác giả của bài thương ca muốn nói rõ cho mọi người biết: Đức Chúa là nguyên nhân chính, vua Babylon chỉ là nguyên nhân phụ trong biến cố mất nước của Judah: Chính Đức Chúa huỷ diệt chẳng chút xót thương mọi nơi cư ngụ của Jacob; chính Người triệt hạ đồn luỹ của thiếu nữ Judah; chính Người xô xuống đất và làm nhục vương quốc và thủ lãnh của nàng.

Tội của vua chúa và những nhà lãnh đạo ảnh hưởng đến nỗi nhục của toàn dân. Họ phải ăn năn vì các tội của họ: “Hàng kỳ mục của thiếu nữ Sion ngồi thinh lặng ngay trên thềm đất,
đầu rắc đầy tro bụi, mình mặc áo vải thô.” Chính tội của họ làm cho các con gái của họ bị hãm hiếp bởi Dân Ngoại, cho trẻ thơ dân họ phải vất vưởng kiếm ăn, phải hỏi mẹ chúng lương thực “Bánh con đâu?” vì quá đói, rồi chúng ngã gục trên các quảng trường của thành phố. Như những người bị đâm, chúng trút linh hồn ngay trên tay mẹ.

Jacob, Judah, Sion, Jerusalem là những tên khác nhau để chỉ một thực tại: vương quốc Judah. Tác giả cũng đổ tội cho vua chúa và các nhà lãnh đạo đã nghe lời các ngôn sứ giả: “Ngôn sứ của ngươi tỏ cho ngươi thấy toàn điều hư ảo, toàn chuyện khói mây, còn lỗi lầm ngươi, chúng không vạch rõ để đảo ngược vận số của ngươi. Điều chúng thấy là điều huyền hoặc, chỉ đưa ngươi vào ảo tưởng mà thôi.”

1.2/ Chỉ có Đức Chúa mới có thể giải thoát Israel.

Trong cảnh khổ nơi lưu đày, con cái Israel phải biết than khóc ngày đêm tội lỗi của mình: “Tự đáy lòng, hãy kêu lên Chúa, hỡi tường thành của thiếu nữ Sion! Cứ để mặc suối lệ ngươi tuôn chảy, ngày đêm chẳng khi ngừng. Chớ khi nào ngơi nghỉ, cũng đừng để dòng lệ khô đi.” Vì chỉ với tấm lòng ăn năn thành thật và kêu cầu lên Đức Chúa, họ mới có thể hy vọng Ngài giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày nơi đất khách quê người, con cháu họ mới thoát khỏi cảnh đói khát hiện giờ. Tác giả khuyến khích dân chúng: “Đứng dậy đi, la lên trong đêm tối, khi năm canh chỉ mới bắt đầu! Trước nhan Chúa, hãy trút niềm tâm sự, giơ tay hướng về Người mà cầu cho sinh mạng của đoàn con đang lịm dần vì đói đầu đường, góc phố, khắp nơi nơi.”

2/ Phúc Âm: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế.

2.1/ Đức tin của viên Đại Đội Trưởng thành Capernaum

(1) Cách biểu lộ đức tin của ông cho thấy:

– Ông là người có lòng thương xót: Người ông van xin Chúa Giêsu chữa khỏi bại liệt không phải là máu mủ ruột thịt gì của ông, nhưng chỉ là một người đầy tớ. Theo truyền thống Rôma, người đầy tớ chỉ được coi như một món hàng để mua bán và để xử dụng. Chúng ta không lạ gì khi Chúa Giêsu đáp trả lòng thương xót của ông, vì Ngài là Đấng Thương Xót.

– Ông là người rất tinh tế và khiêm nhường: Ông biết truyền thống Do-thái không cho phép người Do-thái vào cùng một mái nhà với người Dân Ngoại; vì thế, để tránh tai tiếng cho Chúa Giêsu, viên Đại Đội Trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh.” Câu trả lời này đã được Giáo Hội dùng để chuẩn bị tâm hồn các tín hữu trước khi rước Mình Thánh Chúa.

– Ông là người rất tin tưởng: Khi nghe Chúa Giêsu trả lời “Chính tôi sẽ đến chữa nó;” ông không một chút nghi ngờ quyền năng của Chúa Giêsu. Hơn nữa, với kinh nghiệm của một sĩ quan, ông còn tin Chúa Giêsu có thể chữa bệnh mà không cần hiện diện.

(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Trước cách biểu lộ đức tin của một viên sĩ quan Dân Ngoại,

Đức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: “Tôi bảo thật các ông: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế.” Sự thật đau lòng, nhưng phải mở mắt tất cả tín hữu: những người vô đạo nhiều khi biểu lộ đức tin cách sâu xa hơn những người có đạo!

– Ngài cũng cảnh cáo những con cái trong nhà mà thiếu đức tin: “Tôi nói cho các ông hay: từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Jacob trong Nước Trời; nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” Con cái trong nhà có quyền thừa hưởng gia tài của cha ông để lại; nhưng nếu con cái bất nhân bất nghĩa, gia tài sẽ được trao cho những ai có lòng tin yêu và biết cách xử dụng gia tài tốt hơn. Quyền thừa hưởng gia tài của Thiên Chúa chỉ dành cho những ai tin và trung thành với Thiên Chúa.

– Niềm tin yêu của viên Đại Đội Trưởng được đền đáp xứng đáng: Rồi Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: “Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!” Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh.

2.2/ Người đã mang lấy các tật nguyền của ta: Matthew tiếp tục tường thuật hai phép lạ nữa và trích dẫn lời tiên-tri Isaiah trong Bài Ca Thứ Tư về Người Tôi Trung của Yahveh: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta.”

– Gương sáng của bà mẹ vợ Phêrô: Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà, vì bà là mẹ vợ của Phêrô, môn đệ yêu mến của Ngài. Được Chúa Giêsu chữa khỏi, Bà không nại cớ mới bệnh dậy để nghỉ ngơi dưỡng sức; nhưng vội vã chỗi dậy để phục vụ Chúa và các môn đệ của Ngài. Đây phải là gương sáng cho chúng ta noi theo: Đã nhận được cách nhưng không thì cũng phải cho đi cách nhưng không. Người chỉ biết đưa tay nhận lãnh sẽ không tiến xa trong cuộc đời.

– Chúa Giêsu chữa lành mọi người bị đau khổ tật nguyền: “Chiều đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giêsu. Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau.” Điều này chứng minh: Thiên Chúa không muốn con người phải đau khổ. Các đau khổ xảy ra là do chính con người gây nên hay ảnh hưởng của thời tiết; tuy nhiên, Ngài để các đau khổ xảy ra cho các mục đích tốt đẹp hơn mà chúng ta đã nhiều lần đề cập tới.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Khi phải đương đầu với đau khổ, chúng ta đừng ngã lòng trông cậy; nhưng hãy biết xét mình để nhận ra những tội lỗi chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa.

– Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi những ai biết ăn năn và kêu xin lòng thương xót của Ngài.