Tìm Hiểu Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh

Tìm Hiểu Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh

Ý nghĩa của Lễ Phục Sinh: Phục Sinh là lễ quan trọng nhất, là lễ của mọi lễ, là Chúa nhật của các Chúa nhật trong cử hành của Hội Thánh vì mang nhiều ý nghĩa sâu xa: 1) Chúa Kitô Phục Sinh là nền tảng cho đức tin của chúng ta. Đó là một biến cố lớn lao nhất, vĩ đại nhất chứng minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Đó là lí do thánh Phaolô đã viết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14). “Đức Giêsu là Chúa, Người đã sống lại từ cõi chết” (Rm 10,9) cũng là trọng tâm lời rao giảng của các Tông đồ (kerygma), bởi vì Chúa đã báo trước Người sẽ sống lại và các Tông đồ phải loan truyền tin vui ấy cho mọi người. 2) Chúa Phục Sinh là sự bảo đảm chắc chắn cho chính sự phục sinh của chúng ta, như Người đã nói với Martha trước mồ chôn Lazarô: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). 3) Lễ Phục Sinh đem lại cho chúng ta niềm vui, niềm hi vọng và ơn can đảm trong cuộc sống đầy đau khổ và thử thách này, bởi vì chúng ta xác tín rằng mình còn có cuộc sống vinh hiển mai sau với Chúa Kitô.

 

BÀI ĐỌC 1: Cv 10,34,37-43

Ông Phêrô giảng tại nhà ông Cornêliô

Ông Phêrô đã đến nhà và gặp gỡ ông Cornêliô. Cornêliô là một viên đại đội trưởng người Rôma, có lòng đạo đức và kính sợ Thiên Chúa. Ông nhận được một thị kiến Chúa cho biết ông nên mời Phêrô đến để hướng dẫn ông. Ông Phêrô đã thân hành đi đến nhà ông Cornêliô và trình bày những điểm tóm tắt về con người và sứ vụ của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu xuất thân từ Nazaret, đã được Thiên Chúa xức dầu để ra đi loan báo Tin mừng bình an của Thiên Chúa cho mọi người. Tuy nhiên, Người đã bị xử tử như một tội phạm. Vì vậy, Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết để xác nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa của mọi người. Biến cố này là tỏ tường đối với nhiều người, đặc biệt những người đã được tuyển chọn trước để làm chứng nhân, tức là các tông đồ. Biến cố này đánh dấu sự hoàn tất những lời Thiên Chúa đã hứa với Israel. Đây cũng là khởi điểm sự hoàn tất kế hoạch của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo. Đời sống nhân loại chuyển sang một bước ngoặt mới, lịch sử nhân loại từ nay thấm đẫm tình yêu và ân sủng. Ông Phêrô còn cho ông Cornêliô biết rằng Thiên Chúa đã đặt Chúa Giêsu Phục Sinh làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Người Do Thái vẫn luôn mong đợi rằng vào điểm cuối cũng của thời gian, khi Thiên Chúa hoàn tất công trình của Ngài, Ngài sẽ sắp đặt lại mọi sự vào đúng trật tự của nó, sẽ xét xử mọi người theo giá trị thực sự của họ. Bây giờ trước mặt viên đại đội trưởng Rôma ông Phêrô xác quyết rằng Chúa Giêsu chính là Đấng ấy. Qua biến cố sống lại, Đức Giêsu được đặt làm Chúa muôn loài. Lần đầu tiên trong sách Công vụ Tông đồ, ông Phêrô giảng kerygma cho một người ngoài Do Thái giáo, mở đường cho sứ vụ Hội Thánh đến với muôn dân.

 

ĐÁP CA: Tv 118

Lời tạ ơn

Thánh vịnh 118 là một thánh ca tạ ơn long trọng, cũng là Thánh vịnh cuối cùng trong bộ Hallel (Tv 113-118), được hát trong cộng đoàn phụng vụ tại Đền Thờ Giêrusalem kéo dài tám ngày của Lễ Vượt Qua và Bánh Không Men. Khi Chúa Giêsu tiến vào thành thánh Giêrusalem trong dịp Lễ Lá dân chúng cũng dùng Tv 118,25-26 để tung hô, vạn tuế Người (Mt 21,9; Mc 11,9-10; Lc 19,38; Ga 12,13).

Thánh vịnh 118 bắt đầu bằng lời mời gọi tạ ơn tình yêu thương bền vững của Chúa, là giao ước Chúa dành cho dân Ngài (cc. 1-2). Các câu 16-17 nói về “cánh tay hữu của Chúa” “cánh tay đã được nâng lên cao”, mà chúng ta hiểu là nói về Chúa Giêsu Kitô, Đấng Phục sinh, Đấng đã ban cho chúng ta sự sống mới và chiến thắng cái chết. Chúa Giêsu là “hòn đá mà những người thợ xây loại bỏ”: giới chức tôn giáo của Giao ước cũ đã “khước từ” Người để rồi Nươig trở nên “viên đá tảng” trong đức tin của chúng ta (c. 22).

Chúa Giêsu đã trích dẫn Thánh vịnh 118, 22-23 khi Người giảng dạy trong Đền thờ vào ngày thứ Hai cuối cùng của Người tại Giêrusalem. Chúa đã áp dụng câu Thánh vịnh này cho chính Người trong Mt 21,42. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, thánh Phêrô đã làm chứng tại phiên tòa xét xử mình trước cùng một tòa án đã kết án tử hình Chúa Giêsu, rằng Chúa Giêsu Kitô là “tảng đá”, và giới chức tôn giáo chính là “những người thợ xây”đã loại bỏ Người. Lúc đó, ông đã dùng Thánh vịnh 118, 22 cho Chúa Kitô trong Công vụ 4,11. Ông Phêrô sẽ trích dẫn Thánh vịnh 118, 22 một lần nữa, xác định Chúa Giêsu là “đá tảng” trong 1 Pr 2, 7. Thánh Phaolô cũng viết rằng Chúa Giêsu là “hòn đá tảng” trong thư Rôma 9,33 bằng cách đề cập đến một lời tiên tri liên quan trong Isaia 28,16b. Và trong thư Êphêsô 2,19-20, Phaolô viết rằng “Kitô hữu là người nhà của gia đình Thiên Chúa … được xây dựng trên nền tảng của các Tông đồ và tiên tri, mà chính Chúa Giêsu là viên đá tảng.” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ứng nghiệm lời Thánh vịnh 118,23 qua các công việc của Người, “công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 23) bởi vì Người đã ban cho chúng ta hồng ân cứu chuộc muôn đời.

 

BÀI ĐỌC 2: Cl 3,1-4

Đời sống mới trong Chúa Kitô

Bài đọc này có thể nói là phần nổi của một tảng băng trôi, trong đó nội dung tiềm ẩn nằm nhiều hơn dưới bề mặt! Ở đây Phaolô ngỏ lời với chúng ta rằng, tất cả những gì chúng ta quan tâm, những gì chúng ta tìm kiếm phải là những thực tại thượng giới, những điều thuộc về Chúa Kitô, bởi vì chúng ta đã được chia sẻ sự sống mới với Người. Cuộc sống đó không còn phải là cuộc sống bình thường nữa vì đã được biến đổi trọn vẹn. Tất cả những điều này có nghĩa là gì? Chúng ta được tham dự vào sự sống mới của Chúa Kitô, bởi vì khi tin vào Chúa Kitô có nghĩa là chúng ta gắn bó số phận của chúng ta cho Người. Chúng ta đã được rửa tội để tháp nhập vào Chúa Kitô, nghĩa là, qua phép Rửa tội, chúng ta đã được nhúng, được ngâm mình cùng với Người. Chúng ta cũng được lớn lên trong Chúa Kitô, được chia sẻ gia tài của Người, địa vị của Người là Con Thiên Chúa. Do vậy, cuộc đời của chúng ta không chỉ còn đóng khuôn nơi những hoạt động tự nhiên bình thường: hô hấp, tiêu hóa, cảm nhận, nhìn xem, vui chơi, yêu ghét…Thần khí của Chúa Kitô, Đấng đã làm cho Chúa Kitô sống lại, cũng thúc đẩy chúng ta sống rộng lượng, bao dung, phục vụ, tự chủ, bình an và cởi mở… Cuộc sống này, Phaolô nói, vẫn còn ở trong trạng thái tiềm tàng và sẽ được thể hiện đầy đủ chỉ khi Chúa Kitô đến. Nhưng nếu chúng ta thành thật với đức tin mình tuyên xưng trong Bí tích Rửa tội, thì những nguyên lí của sự sống Chúa Kitô phục sinh phải soi dẫn chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống hôm nay.

 

CA TIẾP LIÊN: Victimae Paschali Laudes (Lời ca ngợi Hi Tế Vượt Qua)

Bài ca tiếp liên là một phần cử hành đặc biệt, dành cho những lễ trọng đặc biệt, hiện nay là lễ Phục Sinh và lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Những Ca tiếp liên rất khó truy cứu nguồn gốc lịch sử và tác giả thực sự. Những bài ca tiếp liên đã trở thành những tác phẩm âm nhạc cổ điển nổi tiếng, bởi vì có ý kiến cho rằng nguồn gốc của nó có liên quan đến những buổi diễn nguyện thời Trung Cổ.

Victimae Paschali Laudes là một trong bốn Ca tiếp liên được quy định trong sách lễ Rôma ấn hành năm 1570, sau Công đồng Trentô (1545–63). Ba Ca tiếp liên khác là “Veni Sancte Spiritus” cho lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống; “Lauda Sion” cho lễ Mình và Máu Chúa Kitô; và “Dies Irae” cho lễ Cầu hồn. Vào năm 1727 Đức Bênêđictô XIII lại thêm Ca tiếp liên “Stabat Mater” vào lễ kính Bảy sự Đau đớn của Đức Trinh Nữ Maria.

Trước Công đồng Trentô rất nhiều lễ có những Ca tiếp liên riêng. Vào mùa Phục Sinh có khoảng 16 Ca tiếp liên khác nhau được sử dụng.

 

TIN MỪNG: Ga 20,1-9

Ngôi mộ trống

Những câu chuyện về sự phục sinh bắt đầu bằng việc thuật lại chuyến thăm của bà Maria Magđalêna tới mộ. Đó là ngày đầu tuần trong khi trời vẫn còn tối. Đề cập đến bóng tối chứ không phải bình minh của một ngày mới, vốn là theo truyền thống, có thể là cách kết hợp biểu tượng ánh sáng / bóng tối của phương pháp truyền thống. Nói cách khác, thiếu niềm tin là cuộc sống chìm trong tăm tối. Việc xác định ngày là ngày đầu tiên trong tuần mang ý nghĩa trong thần học Kitô giáo. Nó được ví như sự bừng sáng của một thụ tạo mới, là thời gian hoàn thành cánh chung.

Không có lời giải thích nào được đưa ra cho việc đi thăm của bà Maria. Bản văn không nói rằng bà ấy đến để khóc hay để xức dầu cho thi thể. Nó chỉ đơn giản nói rằng bà ấy đã đến ngôi mộ. Khi thấy hòn đá đã được lăn khỏi mộ, bà cho rằng xác của Chúa Giêsu đã được người ta lấy đi. Bà dường như không hề nghĩ đến việc Người sẽ sống lại, mà chỉ nghĩ đến việc lấy mất xác. Bà chạy đi nói với ông Phêrô và “người môn đệ kia”. Văn bản khó hiểu. Vì lý do nào đó mà Maria nói ở số nhiều: “Chúng tôi không biết. . .”, và người môn đệ cùng với Phêrô không được nêu tên.

Bài đọc có một sự thiên vị rõ ràng có lợi cho người môn đệ này. Ông được coi là người mà Chúa Giêsu thương mến (ám chỉ Gioan?), Và ông là người duy nhất trong bản tường thuật được cho là đã tin. Ông được yêu thương, và ông tràn đầy niềm tin. Văn bản cũng gợi ý về địa vị đặc quyền của ông Phêrô trong cộng đồng. Ông là người mà bà Maria chạy đến gặp, và khi hai người vội vã đến ngôi mộ, người môn đệ kia đợi cho đến khi ông Phêrô bước vào thì chính ông mới đi vào.

Các chi tiết về các băng vải liệm rất ý nghĩa. Nó vẫn còn ở trong ngôi mộ, mặc dù thi thể không còn. Nếu thi thể chỉ đơn thuần được chuyển đến một ngôi mộ khác, thì vẫn cần phải có các băng vải liệm, và có lẽ chúng phải được mang theo. Tuy nhiên, nếu thi thể được mang đi để phi tang, thì những tấm vải có thể đã bị vứt bỏ. Không có lời giải thích nào được đưa ra cho lý do tại sao chiếc khăn che đầu lại được cuộn lại một cách riêng biệt. Việc giải thích những chi tiết này dường như đã được coi như là đặc điểm trong bài tường thuật. Chúng ta không được biết ông Phêrô nghĩ gì về nó, nhưng người Môn đệ Yêu dấu đã ghi nhận những điều này và ông đã  tin. Thật là bất thường khi đức tin về sự phục sinh nảy sinh từ kinh nghiệm trong ngôi mộ trống hơn là từ sự hiện ra của Chúa Phục Sinh, nhưng đó là trường hợp xảy ra ở đây.

Bài đọc kết thúc về một ghi chú tò mò. Lý do chung cho sự thiếu đức tin của các môn đệ được đưa ra: họ không hiểu Kinh Thánh liên quan đến sự sống lại của Chúa Giêsu. Bất kể Chúa Giêsu có thể đã hướng dẫn các môn đệ như thế nào khi Người còn ở với họ, họ không đủ trang bị để hiểu sự đau khổ và cái chết của Người, chưa nói gì đến việc Người sống lại từ cõi chết. Họ sẽ cần cả kinh nghiệm phục sinh và mở mang tâm trí để hiểu được ý nghĩa của Kinh Thánh.

Việc lựa chọn bài đọc này cho Chúa nhật Phục Sinh làm nổi bật sự khó hiểu của sự kiện. Thực tế là cả Maria, có lẽ là nữ môn đệ thân cận nhất của Chúa Giêsu, cũng như ông Phêrô, người lãnh đạo cộng đồng Kitô hữu, được chuẩn bị một cách tự nhiên để đón nhận chân lí về sự phục sinh, hẳn cảnh giác chúng ta kẻo chúng ta quá dễ dãi cho mình đã nắm bắt được. Có nhiều điều trong hiện thực về sự phục sinh tiếp tục thách thức cũng như nâng đỡ chúng ta.

THAM KHẢO SÁCH GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

+  GLHTCG 638-655, 989, 1001-1002: Sự Phục Sinh của Chúa Kitô và sự sống lại của chúng ta

+ GLHTCG 647, 1167-1170, 1243, 1287: Phục Sinh, ngày của Chúa

+ GLHTCG 1212: Các bí tích khai tâm

+ GLHTCG 1214-1222, 1226-1228, 1234-1245, 1254: Bí tích Rửa tội

+ GLHTCG 1286-1289: Bí tích Thêm sức

+ GLHTCG 1322-1323: Bí tích Thánh Thể

Lm. Giuse Ngô Quang Trung

 

 

print