Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 33 Thường Niên

print

Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 33 Thường Niên

KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN

(24/11: Các Thánh tử đạo Việt Nam)

Lời Chúa: Ga 17, 11b-19

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta. Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh. Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.”

Suy Niệm

“Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua,

lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước.

Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Ðức Kitô.”

Ðó là câu trả lời của ông Micae Hồ Ðình Hy

khi vua Tự Ðức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.

Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn,

cho phụ trách ngành dệt trong cả nước.

Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.

Ông không thấy có gì xung khắc

giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.

Khi quân Pháp bắn phá cảng Ðà Nẵng thì ông bị bắt,

bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.

Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản.

Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc,

hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm

trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.

Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy

soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.

Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ.

“Như Cha đã sai Con đến trong thế gian,

Con cũng sai họ đến trong thế gian” (Ga 17,18).

Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết.

Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân…

Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.

Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu

vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ,

và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.

“Họ không thuộc về thế gian,

cũng như Con không thuộc về thế gian” (Ga 17,16).

Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian,

nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.

Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội,

nhưng họ có một thang giá trị riêng.

Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng.

Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình

và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.

Họ là nhúm men vùi trong đống bột.

Men không được tách khỏi bột,

và men cũng không được biến chất thành bột.

Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.

Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây.

Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.

Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh,

thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.

Tử đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.

Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác.

Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình

để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái…

Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.

Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát,

khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,

Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.

Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,

lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.

Thế gian này vàng thau lẫn lộn.

Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.

Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,

giữ được vị mặn của muối,

và sức tác động của men,

để đem đến cho thế gian

một linh hồn, một sức sống.

Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,

chỉ sợ mình bỏ sống đạo

vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.

Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng

chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,

những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,

thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui

của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.

Chúa Nhật 33 Thường niên, năm A.

Thứ Hai tuần 33 Thường niên.

Thứ Ba tuần 33 Thường niên.

Thứ Tư tuần 33 Thường niên.

Thứ Năm tuần 33 Thường niên.

Thứ Sáu tuần 33 Thường niên.

Thứ Bảy tuần 33 Thường niên.

 

VÀO MÀ HƯỞNG NIỀM VUI

Chúa Nhật 33 Thường niên, năm A

Lời Chúa: Mt 25, 14-30

Khi ấy, Đức Giêu nói với các môn đệ rằng: “Cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến thanh toán sổ sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Ông chủ đáp: “Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý ngươi phải gởi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng, để khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

Suy niệm

Người ta vẫn hay có cái nhìn tĩnh và buồn về đời sống Kitô hữu.

Đó là một đời sống cam chịu, nhẫn nhục, cúi đầu vâng phục Ý Chúa,

một đời sống khổ đau vì phải bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá.

Nhìn như thế đúng nhưng không đủ.

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác,

tươi tắn hơn nhiều, chủ động và tích cực hơn nhiều.

Thiên Chúa được ví như một ông chủ sắp đi xa.

Vì tin tưởng các đầy tớ của mình, nên khi vắng nhà (c. 14),

ông không ngại giao phó cho họ những món tiền rất lớn, tùy khả năng.

Người được năm yến, kẻ được hai, người được một (c. 15).

Mỗi yến bạc tương đương với sáu ngàn ngày công.

Hẳn các đầy tớ hiểu ý chủ muốn mình đầu tư sinh lợi.

Anh nhận được năm yến đã đi ngay lập tức và làm ăn với số vốn ấy.

Chúng ta không rõ anh đã đầu tư thế nào và bao lâu,

chỉ biết anh đã sử dụng cách hiệu quả những gì anh nhận được.

Sau một thời gian, tiền lời bằng số vốn bỏ ra.

Anh nhận được hai yến cũng vậy, cũng sinh lợi được hai yến khác.

Anh được một yến cũng đi,

nhưng là đi đào lỗ dưới đất để chôn giấu yến bạc (c. 18).

Anh không dám đầu tư vì sợ làm ăn lỗ lã.

Anh sợ số bạc lớn bị mất, nên anh muốn chôn giấu nó cho an toàn.

Khi ông chủ trở về để nghe báo cáo sổ sách của các đầy tớ,

ông đã khen hai anh đầy tớ vất vả làm ăn bằng những lời giống nhau:

“Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín!

Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh.

Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (c. 21. 23).

Còn anh đầy tớ chôn giấu yến bạc dưới đất vì sợ hãi ông chủ,

đã bị chủ chê là đầy tớ xấu xa và biếng nhác.

Yến bạc của chủ còn nguyên chẳng hề là điều đáng tự hào.

Ông chủ ngạc nhiên vì tại sao anh lại không gửi tiền vào ngân hàng

để đồng vốn có thể sinh lợi (c. 27).

Anh bị tước mất yến bạc anh đã giữ kỹ, và tống vào chỗ tối tăm.

Một đầy tớ không sinh lợi từ số vốn được trao là một đầy tớ vô dụng (c. 30).

Mỗi Kitô hữu cũng là một người đầy tớ, một quản lý của Chúa,

được tin cậy giao phó, được yêu cầu đầu tư, được mong mỏi sinh lợi.

Sống đời Kitô hữu là chấp nhận dùng tất cả khả năng của mình (c. 15)

để làm cho những gì Chúa ban sinh lợi nhiều nhất.

Điều đó cần đến công sức, tính toán, sáng tạo, và nhất là tình yêu.

Yến bạc là khả năng và hoàn cảnh thuận lợi để ta làm việc cho Chúa.

Kitô hữu không phải là người thích an nhàn hay hưởng thụ.

Họ nỗ lực phấn đấu từng ngày để đời mình sinh hoa trái cho Chúa.

Ngày Phán xét, chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên nỗ lực sinh lợi của mình.

Mỗi người chúng ta không rõ mình đã nhận bao nhiêu yến bạc.

Điều quan trọng là không được giấu đi, và vui vẻ tận dụng điều mình có.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

nếu ngày mai Chúa quang lâm,

chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,

còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,

Chúa đâu muốn mất một người nào…

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa

xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,

vui tươi và hạnh phúc,

để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn

cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con

niềm tin vững vàng

và niềm hy vọng nồng cháy,

để tất cả những gì chúng con làm

đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

XIN CHO TÔI NHÌN THẤY

Thứ Hai tuần 33 Thường niên

Lời Chúa: Lc 18, 35-43

Khi Ðức Giêsu gần đến Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ báo cho anh biết là Ðức Giêsu Nadarét đang đi qua đó. Anh liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi!” Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Ðavít, xin dủ lòng thương xót tôi!” Ðức Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đền gần, Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy.” Ðức Giêsu nói: “Anh hãy thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu anh.” Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.

Suy niệm

Trong những năm hành đạo, Đức Giêsu đã chữa một số người mù.

Vào những ngày cuối đời, khi trên đường lên Giêrusalem lần cuối,

Ngài đã chữa cho anh mù ở Giêricô.

Giêricô được coi là thành phố cổ xưa nhất, không xa Giêrusalem,

nằm ở hạ lưu sông Giođan, thấp hơn mực nước biển 300 mét.

Anh mù ở Giêricô kiếm sống bằng cách ngồi bên vệ đường ăn xin.

Anh vừa bị tách biệt với người khác, vừa bị lệ thuộc vào người khác.

Mất khả năng nhìn, nhưng anh vẫn còn khả năng nghe và nói.

Để gặp được Đức Giêsu, anh đã tận dụng mọi khả năng còn lại.

Anh nghe tiếng đám đông đi qua, tiếng chân người rộn ràng (c. 36).

Anh tò mò hỏi xem chuyện gì vậy.

Khi biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi ngang qua,

anh thấy ngay điều mình chờ đợi từ lâu, nay đã đến.

Vị ngôn sứ nổi tiếng này anh nghe đồn đã làm bao phép lạ lẫy lừng.

Ngay cả người mù bẩm sinh cũng được Ngài làm cho sáng mắt.

Cơ hội ngàn năm một thuở đã đến rồi.

Anh tự nhủ mình không thể nào để vuột mất.

Nhưng làm thế nào để Đức Giêsu lưu tâm đến anh?

Làm thế nào để cho Ngài dừng lại?

Vũ khí mạnh nhất và gần như duy nhất của anh, là tiếng kêu.

Chỉ tiếng kêu của anh mới lôi kéo được sự chú ý của Ngài,

và báo hiệu cho Ngài về sự hiện diện của anh.

Anh kêu thật to tên Ngài dù không biết Ngài ở đâu.

“Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (c. 38).

Hãy nghe tiếng kêu của anh giữa tiếng đám đông ồn ào cười nói.

Anh kêu tiếng kêu của trái tim, đầy tin tưởng, hy vọng, tha thiết.

Nhưng tiếng kêu ấy lại bị bắt phải im đi, có thể vì sợ gây phiền hà.

Anh mù chẳng những đã không vâng lời, lại còn kêu to hơn nữa.

Rồi tiếng kêu của anh cũng đến tai Đức Giêsu, khiến Ngài dừng chân.

Đức Giêsu muốn gặp người đã gọi tên mình để xin thương xót (c. 40).

Cuộc hạnh ngộ bắt đầu bằng câu hỏi anh mong từ lâu:

“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 41).

Câu trả lời quá hiển nhiên: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy.”

Khi được sáng mắt, anh không phải ngồi bên vệ đường như trước đây.

Anh đã nhập vào đám đông những người theo Chúa và đi trên đường.

Nếu hôm nay Chúa hỏi tôi: “Anh chị muốn tôi làm gì cho anh chị?”,

tôi sẽ trả lời Ngài ra sao? tôi sẽ xin Ngài điều gì?

Ơn biết mình mù và muốn thấy rõ chính mình, là một ơn lớn.

Có người mù, không biết mình mù, nên vẫn thản nhiên ở lại trong cảnh mù.

Người ấy có thể vô tội, nhưng có nguy cơ gây hại cho tha nhân (Mt 15, 14).

Lại có người cố ý không muốn thấy, cố ý mù để khỏi phải thay đổi.

Họ không thấy được cái xà trong mắt mình (Mt 7, 3).

Xin Chúa giúp chúng ta xóa những nguyên nhân gây mù,

đó là dục vọng của đôi mắt (1 Ga 2, 16), là thành kiến về người khác.

Xin Chúa giúp chúng ta nhờ đối thoại mà ra khỏi tình trạng mù xem voi,

và được Thánh Thần đưa vào sự thật trọn vẹn (Ga 16, 13).

Ước gì chúng ta khiêm tốn đến với Chúa Giêsu

mà “mua thuốc xức mắt để thấy được” (Kh 3, 18).

Cầu nguyện

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu giãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen

XUỐNG MAU ĐI

Thứ Ba tuần 33 Thường niên

Lời Chúa: Lc Lc 19, 1-10

Sau khi vào Giêrikhô, Ðức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. Và kìa, có một người tên là Giakêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Ðức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Ðức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. Khi Ðức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Còn ông Giakêu thì đứng mà thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Ðức Giêsu nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất.”

Suy niệm

Ở thành phố Giêricô không chỉ có anh mù Báctimê ngồi ăn xin,

mà còn có ông Giakêu, đứng đầu các người thu thuế.

Ông là người giàu có, nhưng thật ra ông là người nghèo,

vì ông bị mọi người khinh rẻ bởi cái nghề thu thuế của ông.

Giakêu đi chung với đám đông, theo sau Đức Giêsu.

Ông có một khao khát mãnh liệt là được thấy mặt Ngài,

vì chắc ông đã nghe nhiều người nói về vị ngôn sứ khác thường này.

Giêsu không khinh giới thu thuế, trái lại còn kết bè kết bạn với họ.

Giêsu là ai? Đó là người ông tìm cách gặp mặt (c. 3).

Có hai cản trở khiến cho cuộc gặp gỡ trở nên khó khăn.

Đám đông vây quanh Đức Giêsu khiến ông không thấy Ngài.

Hơn thế nữa, thân hình ông lại thấp bé.

Nhưng Giakêu không nản lòng.

Ông chạy đón đàng trước và leo lên một cây sung để thấy Đức Giêsu,

vì ông biết thế nào Ngài cũng đi qua đó.

Như thế ông đã vượt qua được đám đông và sự thấp bé của mình.

Để vượt qua thì phải chạy chứ không đi từ từ,

và phải vất vả leo lên cao, vượt lên trên cái tôi nhỏ bé.

Giakêu khao khát đến mức nào mới dám nghĩ và dám làm như vậy.

Điều mà Giakêu không ngờ là Đức Giêsu đã dừng lại nơi cây sung,

và ngước mắt nhìn lên ông đang nằm bò trên cây như một đứa trẻ.

Ánh mắt của Ngài kéo theo hàng trăm cái nhìn khác của đám đông.

Giakêu chắc xấu hổ luống cuống, còn Đức Giêsu thì hạnh phúc tràn trề.

Dường như Ngài quên đám đông, để chỉ nghĩ đến con chiên lạc này.

“Giakêu, xuống nhanh đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (c. 5).

Đây là một lời hối thúc dịu dàng và một đề nghị bất ngờ.

Giakêu ngỡ ngàng trước ánh mắt ấy, lời nói ấy.

Ông đã nhanh chóng leo xuống và dẫn Đức Giêsu về nhà mình.

Đường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không biết,

nhưng chắc chắn đó là đoạn đường đầy niềm vui.

Giakêu bỗng thấy mình mất đi mặc cảm tự ti, lấy lại được danh dự,

vì Đức Giêsu sắp đến nhà ông, căn nhà ít ai muốn đến (c. 7).

Ông chỉ muốn thấy mặt Ngài, còn Ngài lại muốn vén mở lòng mình.

Cách cư xử của Ngài đối với một người tội lỗi như ông

đã làm lòng ông tan chảy và mời gọi ông đổi đời.

Những thứ ông từng say mê, bây giờ chẳng có gì hấp dẫn.

“Tôi xin cho người nghèo nửa tài sản của tôi…” (c. 8).

Giakêu đã hoán cải một cách bất ngờ, tự nguyện, sâu xa và cụ thể.

Cuộc đổi đời của Giakêu là kết quả của việc hai người đi tìm nhau.

Không phải chỉ Giakêu mới là người đi tìm.

“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (c. 10).

Giakêu dạy cho chúng ta biết cách tìm kiếm Chúa trong đời.

Phải ước ao cho mãnh liệt, rồi ta sẽ được soi sáng để tìm ra con đường,

ngay cả khi ở trong tình huống tưởng như tuyệt vọng.

“Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (c. 9).

Giakêu đã quảng đại và vui sướng, mở lòng để đón lấy ơn cứu độ đó.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

sám hối không phải là điều dễ dàng,

bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn

để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng

khi thấy Chúa là Đấng vô tội

mà lại đứng chung với các tội nhân,

chờ Gioan ban phép Rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành

với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.

Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh

lối nghĩ và lối sống của mình,

tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,

thành thật để khỏi tự dối mình.

Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,

dám đi đến những hành động cụ thể,

và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.

Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con

niềm vui của Giakêu,

hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.Amen

LÀM ĂN SINH LỢI

Thứ Tư tuần 33 Thường niên

Lời Chúa: Lc 19, 11-28

Khi dân chúng đang nghe những điều ấy, thì Đức Giêsu lại kể thêm một dụ ngôn, vì Người đang ở gần Giêrusalem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi. Vậy Người nói: “Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. Ông gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói với họ: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến.” Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: “Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi.” “Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu. Người thứ nhất đến trình: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén. Ông bảo người ấy: “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành. Người thứ hai đến trình: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén. Ông cũng bảo người ấy: “Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành. Rồi người thứ ba đến trình: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. Ông nói: “Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ! Rồi ông bảo những người đứng đó: “Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén. Họ thưa ông: “Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi!” – “Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi. Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi.” Nói những lời ấy xong, Đức Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem.

Suy niệm

Khi Đức Giêsu đến gần Giêrusalem,

nhiều người nghĩ rằng Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện rồi.

Họ cho rằng khi Ngài tiến vào thành thánh lẫm liệt như một vị vua,

Nước ấy sẽ bừng tỏa trọn vẹn trên đoàn dân của Thiên Chúa (c. 11).

Thật ra Nước Thiên Chúa không đến nhanh như họ nghĩ.

Đức Giêsu còn phải chịu đau khổ, chết, rồi được Phục Sinh.

Sau đó Giáo Hội còn phải chờ một thời gian dài

trước khi Nước Thiên Chúa đến cách viên mãn qua việc Ngài trở lại.

Thời gian của Giáo Hội là thời gian đợi chờ,

thời gian lo làm ăn sinh lợi với những gì Chúa tặng ban.

Đó chính là ý nghĩa của dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay.

Một nhà quý tộc kia đi xa để lãnh nhận vương quyền.

Trước khi đi ông gọi mười người đầy tớ lại,

và trao cho họ mỗi người một số tiền không lớn lắm, là một đồng mina.

Ông ra lệnh: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến” (c. 13).

Khi nhà quý tộc trở về trong tư cách là vua,

ông truyền gọi các đầy tớ lại để họ báo cáo về công việc làm ăn.

Hai người đầy tớ đầu tiên đã sinh lợi không ít.

Một người được lời thêm mười đồng, người kia được thêm năm đồng.

Cả hai được vua ban thưởng rất trọng hậu, cho cai trị các thành phố.

Còn người thứ ba trả lại cho nhà vua đồng mina anh đã nhận.

“Thưa Ngài, đồng mina của Ngài đây, tôi đã giữ kỹ nó trong khăn.”

Tất cả tội của người đầy tớ này nằm ở thái độ giữ kỹ.

Giữ kỹ thì chẳng mất gì, vẫn còn nguyên vẹn.

Nhưng giữ kỹ lại không thể làm cho đồng tiền sinh lời.

Hơn nữa, giữ kỹ là không vâng lời ông chủ trước khi đi: “Hãy lo làm ăn!”

Người đầy tớ sợ ông chủ, vì ông là người nghiêm khắc (c. 21).

Chính vì sợ làm ăn thua lỗ, sợ bị ông chủ trừng phạt

mà anh chọn thái độ chắc ăn là giữ kỹ đồng vốn trong khăn.

Thái độ này không được ông chủ, nay trở thành nhà vua, chấp nhận.

“Tại sao anh không gửi tiền của tôi vào ngân hàng,

để khi trở về, tôi mới rút được cả vốn lẫn lời chứ?” (c. 23).

Ý của chủ là đồng tiền cần phải được đầu tư để sinh lời.

Nỗi sợ đã làm cho anh đầy tớ mất đi sự liều lĩnh cần thiết.

Bài Tin Mừng nhắc các Kitô hữu một điều cần.

Giữ kỹ, giữ nguyên những gì Chúa ban vẫn chỉ là một thái độ tiêu cực.

Kitô hữu là người tích cực sử dụng đồng vốn nhận được để sinh lời.

Ra khỏi thái độ rụt rè, sợ hãi, để dám nghĩ, dám làm việc lớn cho Chúa,

đó mới là thái độ đúng đắn của người Kitô hữu có trách nhiệm.

Nếu không liều lĩnh trong những dự tính và hành động,

nhiều nén bạc Chúa ban sẽ bị bỏ quên mãi trong khăn.

Ông chủ trong dụ ngôn thật ra không phải là người ham lời.

Ông chỉ muốn các đầy tớ trung tín trong việc rất nhỏ (c. 17).

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con dám hành động

theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,

vì xác tín rằng

Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,

Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,

và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,

xin cho con dám liều theo Chúa

mà không tính toán thiệt hơn,

anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,

can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,

và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.

Ước gì khi dâng lên Chúa

những hy sinh làm cho tim con rướm máu,

con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt

của người một lòng theo Chúa. Amen

ĐỨC GIÊSU KHÓC

Thứ Năm tuần 33 Thường niên

Lời Chúa: Lc 19, 41-44

Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Ðức Giêsu khóc thương mà nói: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.”

Suy niệm

Người ta có thể khóc vì nhiều lý do.

Khóc vì buồn thương, khóc vì tình yêu của mình bị từ chối.

Khóc vì tiếc nuối một điều tốt đẹp bị hủy hoại.

Một người đàn ông khóc là chuyện không thường xảy ra.

Chính vì thế chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Đức Giêsu khóc.

Con Thiên Chúa nhập thể biết đến nỗi đau của phận người.

Giọt nước mắt của Ngài cho thấy Ngài thật sự có một trái tim.

Đức Giêsu khóc khi đến gần và trông thấy thành phố Giêrusalem.

Trong thành Giêrusalem có ngôi Đền thờ lộng lẫy (Lc 21, 5).

Đền thờ ấy là Đền thờ thứ hai được xây sau khi dân lưu đày trở về.

Còn Đền thờ thứ nhất do Salômôn xây, đã bị quân Babylon phá hủy.

Vua Hêrôđê Cả đã trùng tu và nới rộng Đền thờ thứ hai này.

Công việc sửa sang kéo dài từ năm 20 trước công nguyên,

đến năm 64 sau công nguyên mới hoàn tất.

Vào thời gian này, người Do Thái nổi dậy chống lại quân Rôma.

Vào lễ Vượt qua năm 70, thành phố bị vây hãm (c. 43).

Đền thờ bị tiêu hủy sau tám mươi tư năm tu sửa.

Đây là một bi kịch lớn mà Đức Giêsu đã linh cảm với nỗi đau đớn.

Bài Tin Mừng hôm nay

nằm ngay sau biến cố Đức Giêsu lên Giêrusalem lần cuối (Lc 19, 28).

Ngài biết đây là lần cuối, nên giữa bầu khí tung hô của dân chúng,

Đức Giêsu lại rơi vào nỗi đau buồn, xót xa.

Ngài sẽ là vị ngôn sứ phải chết trong thành này (Lc 13, 33).

Như mọi người Do Thái khác, Đức Giêsu quý thành phố và Đền thờ.

Thành phố Giêrusalem là thủ đô của đất nước.

Đền thờ là nơi mỗi năm Ngài đến đó dự các lễ lớn đôi ba lần.

Đây là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu nguyện (Lc 2, 49; 19, 46).

Nhưng mọi điều tốt đẹp Ngài đang thấy, có ngày sẽ đổ vỡ tan hoang.

“Không để hòn đá nào trên hòn đá nào” (c. 44).

Thiên Chúa là Đấng đi thăm Dân Israel (Lc 1, 68; 7, 16; 19, 44).

Ngài thăm Dân Ngài qua Người Con là Đức Giêsu (Lc 1, 78).

Ngài đến thăm để đem ơn cứu độ, đem lại bình an (c. 42).

Hôm nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục đi thăm nhân loại.

Ngài vẫn sai Con của Ngài đến với chúng ta để ban ơn bình an.

Nhưng con người hôm nay có thể khép lòng, và để lỡ cơ hội quý báu.

“Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11).

Làm sao mỗi Kitô hữu nhận ra thời điểm Ngài đến thăm mình? (c. 44).

Thế giới Tây phương hôm nay đang có khuynh hướng loại trừ Thiên Chúa.

Họ nhân danh tự do tôn giáo để loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.

Nhưng không có Trời thì ai ở được với ai.

Nhân loại bị kéo vào những cuộc chiến tranh, thù hận không lối thoát.

Hãy để Thiên Chúa đi vào đời bạn và chi phối những chọn lựa của bạn.

Chỉ trong Thiên Chúa mọi sự mới có nền tảng vững vàng.

Nếu không, như Giêrusalem, chúng ta chỉ có là những bức tường than khóc.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,

Chúa đã muốn trở nên con của loài người,

con của trái đất, con của một dân tộc.

Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa

dù họ từ khước Tin Mừng

và đóng đinh Chúa vào thập giá.

Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,

một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu

sau những năm dài chiến tranh,

một quê hương đang mở ra trước thế giới

nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc

và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.

Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên

trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,

nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,

và làm một điều gì đó thật cụ thể

cho những đồng bào quanh chúng con.

Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước

bằng khối óc, quả tim và đôi tay.

Và ước gì chúng con biết khiêm tốn

cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.

NHÀ CẦU NGUYỆN

Thứ Sáu tuần 33 Thường niên

Lời Chúa: Lc 19, 45-48

Khi ấy, Ðức Giêsu vào Ðền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán và nói với họ: “Ðã có lời chép rằng: “Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!” Hằng ngày, Người giảng dạy trong Ðền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy. Nhưng họ không biết phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.

Suy niệm

“Đức Giêsu vào Đền thờ” (c. 45),

ngay sau khi Ngài vẻ vang tiến vào thành phố Giêrusalem.

Ngài vào Nhà của Cha Ngài, nơi Ngài đã được tiến dâng (Lc 2, 22),

nơi Ngài đã muốn ở lại năm mười hai tuổi (Lc 2, 49).

Ngài đã lên Đền thờ nhiều lần trong đời, nhưng đây là lần cuối.

Lên Đền thờ lần cuối là một quyết định sinh tử (Lc 9, 51),

vì Ngài biết những gì đang chờ đợi mình ở đây (Lc 13, 33).

“Ngài bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán ở đó.”

Người ta bán những con vật, để người mua dâng cúng cho Đền thờ.

Nơi buôn bán này ở chung quanh Đền thờ,

tuy vẫn nằm trong khu vực Đền thờ, nơi Dân Ngoại được phép lui tới.

Dĩ nhiên việc buôn bán ở đây là có phép của ban an ninh Đền thờ,

nên chúng ta không hiểu tại sao Đức Giêsu lại muốn đuổi họ.

Hiếm khi chúng ta thấy Đức Giêsu nổi giận hay dùng sức mạnh.

Còn ở đây Ngài mạnh mẽ cả trong hành động lẫn lời nói.

“Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện,

thế mà các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp” (c. 46).

Đức Giêsu đã vào thành Giêrusalem như một vị vua khiêm hạ.

Còn bây giờ Ngài đuổi những người buôn bán như một ngôn sứ.

Vị ngôn sứ giận dữ vì thấy nhà cầu nguyện trở thành nơi kinh doanh.

Đức Giêsu đã muốn làm cho Đền thờ được sạch khỏi chuyện bán buôn,

dù chuyện này cũng nhắm phục vụ cho việc tế tự.

Sau khi thanh tẩy Đền thờ, Ngài đã chọn nơi thánh này

làm nơi Ngài tập trung dạy dỗ từng ngày cho đến lễ Vượt Qua (c. 47).

Ngài đã sống những ngày cuối đời như một vị Thầy dạy.

Lời giáo huấn của Đức Giêsu đã gây ra những phản ứng ngược nhau.

Dân chúng thì say sưa với những lời Ngài dạy (c. 48),

còn giới lãnh đạo tôn giáo ở Đền thờ lại tìm cách giết Ngài (c. 47).

Phải chăng họ khó chịu với việc Đức Giêsu được dân chúng tung hô,

hay bực bội về việc Ngài như có quyền đuổi những người buôn bán,

hay ghen tương với việc dân chúng mê mải nghe Ngài?

Đời người Kitô hữu gắn liền với nhiều đền thờ.

Có những đền thờ, nhà thờ bằng gỗ đá, được cung hiến.

Có những đền thờ thiêng liêng như Hội Thánh, như các tín hữu.

Chính bản thân tôi, thân xác tôi, tâm hồn tôi cũng là đền thờ.

Nơi nào có Chúa hiện diện, nơi ấy là đền thờ.

Cần bỏ dép ở ngoài trước khi bước vào ngôi đền thờ là trái tim tha nhân.

Cần năng thanh tẩy lại đền thờ tâm hồn mình bằng bí tích Hòa Giải.

Chúng ta thường thiếu sự giận dữ của Đức Giêsu

khi đứng trước những đền thờ là tâm hồn của những người trẻ bị ô uế.

Chúng ta dửng dưng khi Chúa bị trục xuất ra khỏi đền thờ lòng mình,

để thay vào đó là những thần tượng vô hồn, rẻ tiền và câm lặng.

Xin Chúa Giêsu giúp ta quét dọn cái rác rưởi nơi đền thờ của trí tuệ,

để lời Chúa làm chúng ta say mê lắng nghe và thực hành.

Cầu nguyện

Như đóa sen trong đầm lầy,

xin giữ tâm hồn con thanh khiết.

Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,

xin gìn giữ mắt con.

Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,

xin dạy con biết trân trọng thân xác.

Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,

xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.

Xin nâng con lên cao

vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,

để biết tự hiến trong yêu thương.

Xin đừng để con phung phí sức lực

vào những chuyện tình cảm chóng qua,

nhưng giúp con tự rèn luyện mình

để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.

Như đóa sen trong đầm lầy,

xin giữ thân xác con thanh khiết. Amen.

ĐỜI NÀY, ĐỜI SAU

Thứ Bảy tuần 33 Thường niên

Lời Chúa: Lc 20, 27-40

Khi ấy, có mấy người thuộc nhóm Xađốc đến gặp Ðức Giêsu. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Mấy người ấy hỏi Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải cưới lấy nàng, để gầy dựng một dòng giống cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Ðức Giêsu đáp: “Con ái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Ðức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Apbraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.” Quả vậy, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.

Suy niệm

Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.

Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.

Cái chết là số phận của mỗi người,

nhưng nói chung ai cũng muốn sống.

Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.

Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.

Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.

Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.

Chính cuộc đời duy nhất này

định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.

Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.

Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này

để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.

Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.

Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.

Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.

Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.

Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,

và sống như thể chỉ có đời này.

Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.

Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết

linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.

Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.

Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng

đời sau là sự kéo dài của đời này.

Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.

Ðức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.

Ðời sau khác hẳn đời này.

Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,

nhưng sống như các thiên thần,

nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.

Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.

Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.

Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.

Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,

nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu

để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.

Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,

chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.

Cái chết dạy tôi biết cách sống.

Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,

và những nỗi khổ đau do mê lầm.

Tôi đang đi về đời sau

để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.

Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.

Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,

và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

khi ra thăm nghĩa địa,

khi vào viếng phòng hài cốt,

con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao

mới dám nghĩ một ngày nào đó

những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.

Con người trở về bụi tro,

nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,

vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

trần gian này quá đẹp

khiến con mải mê, quên mình là lữ khách;

thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.

Con loay hoay vun vén cho đời sống cá nhân,

như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.

Xin khơi dậy nơi con

niềm khát khao những điều cao cả.

Xin đừng để con

mãn nguyện với những cái tầm thường.

Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt ngào của trời cao,

khi con quên mình

để sống cho anh em trên mặt đất. Amen.