Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 24 Thường Niên

print

Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 24 Thường Niên

 

Chúa Nhật 24 Thường niên, năm A.

Thứ Hai tuần 24 Thường niên.

Thứ Ba tuần 24 Thường niên.

Thứ Tư tuần 24 Thường niên.

Thứ Năm tuần 24 Thường niên.

Thứ Sáu tuần 24 Thường niên.

Thứ Bảy tuần 24 Thường niên.

 

HẾT LÒNG THA THỨ

Chúa Nhật 24 Thường niên, năm A

Lời Chúa: Mt 18, 21-35

Một hôm, ông Phêrô đến gần Ðức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Ðức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.

Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết”. Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao!” Bấy giờ người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”. Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. Bấy giờ tôn chủ cho đòi y đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.

Suy niệm

“Và bạn nữa, người bạn của giây phút cuối cùng.

Bạn không hiểu điều bạn đã làm.

Cầu xin cho hai chúng ta là những người trộm lành

được gặp lại nhau trên Thiên quốc,…

Chúa là Chúa của hai chúng ta.”

Ðó là lời trối của cha Christian de Chergé

viết cho người Hồi giáo nào đó sẽ ám sát mình,

bởi cha biết cái chết là điều không sao tránh khỏi.

Ta không thấy có chút hờn oán nào.

Cha coi kẻ giết mình như một người bạn,

một người trộm lành như cha,

và cha mong được sống với anh trên trời.

Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên,

đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.

Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ.

Tha thứ để làm cho oán tiêu tan,

để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người.

Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác:

Tôi phải tha thứ cho anh em tôi

vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi.

Ðời tôi là một chuỗi những vấp ngã,

được đan kết với bao thứ tha.

Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi,

nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù,

nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân.

Tha thứ là khả năng của Thiên Chúa.

Tự sức riêng, ta không ra khỏi được vòng oán thù.

Chẳng ngày nào thế giới không có tiếng súng.

Luật mắt đền mắt là luật công bằng,

nhưng có thể làm cả thế giới hoá mù.

Chỉ sự tha thứ mới đem lại bình an.

Dám tha thứ là dám chịu thiệt thòi,

dám tin rằng cuối cùng tình thương sẽ thắng.

Quả tim chai đá phải tan chảy trước tình thương.

Ðức Giêsu mời gọi chúng ta tha thứ,

không phải 7 lần, mà là 70 lần 7,

nghĩa là tha thứ như Thiên Chúa,

tha vô giới hạn.

Cần biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa,

để sẵn sàng tha cho bạn mình một món nợ nhỏ,

vì Chúa đã tha cho mình món nợ khổng lồ.

Chúng ta chỉ biết chắc mình đã được Chúa tha,

khi chúng ta không giữ ơn tha thứ cho riêng mình,

khi chúng ta mang quả tim thương xót

của Ðấng hay tha thứ.

Cha Chergé đã bị giết cũng với 6 đan sĩ khác.

Chắc nay cha hiểu rõ hơn câu này:

“Vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ.”

Cầu nguyện

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ cõi chết đến sự sống,

từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ thất vọng đến hy vọng,

từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ ghen ghét đến yêu thương,

từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an

trong trái tim chúng con,

trong thế giới chúng con,

trong vũ trụ chúng con.

(Thánh Têrêxa Calcutta)

 

 

 

 

CỨ NÓI MỘT LỜI

Thứ Hai tuần 24 Thường niên

Lời Chúa: Lc 7, 1-10

Khi ấy, Ðức Giêsu vào thành Caphácnaum. Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người lắm. Khi nghe đồn về Ðức Giêsu, ông cho mấy kỳ mục của người Do Thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. Họ đến gặp Ðức Giêsu và khẩn khoản nài xin Người rằng: “Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho. Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta.” Ðức Giêsu liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với Người: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Cũng vì lý do ấy, tôi đã không nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: ‘Ði!’ là nó đi; bảo người kia: “Ðến!’ là nó đến; và bảo người nô lệ của tôi: ‘Làm cái này!’ là nó làm.” Nghe vậy, Ðức Giêsu thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng: “Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Israel, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế.” Về đến nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn.

Suy niệm

Viên đại đội trưởng ở đây là người coi một trăm quân.

Ông đã nghe đồn về khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu.

Nhưng ông chẳng hề dám gặp mặt Ngài,

vì ông biết mình là dân ngoại, bị người Do Thái coi là nhơ uế.

Bởi tình thương đối với anh nô lệ mà ông yêu quý,

ông đã mạnh dạn nhờ các kỳ mục Do Thái xin Đức Giêsu đến nhà ông

để cứu sống anh nô lệ đang bệnh nặng gần chết (cc. 2-3).

Sau khi nghe kể lại những điều tốt đẹp viên sĩ quan Rôma này đã làm,

Đức Giêsu liền lên đường đến nhà ông ấy để chữa bệnh (cc. 4-6).

Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý.

Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài

mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa,

căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6).

Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông,

nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6).

Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ.

Ông tin rằng chẳng cần Ngài vào nhà ông và gặp anh nô lệ sắp chết.

Chỉ cần Ngài nói một lời cũng đủ làm cho anh ta lành mạnh (c. 7).

Viên đại đội trưởng tin vào sức mạnh của lời Đức Giêsu.

Đối với ông, lời ấy có uy lực như một mệnh lệnh.

Là một sĩ quan trong quân đội Rôma

ông hiểu thế nào là sự phục tùng của lính tráng dưới quyền.

“Tôi bảo người này: “Đi!” là nó đi; bảo người kia: “Đến!” là nó đến;

và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này!” là nó làm.” (c. 8).

Lệnh được ban ra là phải thi hành.

Viên đại đội trưởng tin rằng lời của Đức Giêsu cũng thế.

Chỉ cần một lời cũng đủ làm cơn bệnh nguy tử phải thoái lui.

Đức Giêsu ngỡ ngàng trước một lòng tin mạnh mẽ như vậy.

Khó lòng tìm thấy lòng tin đó nơi cộng đoàn dân Israel (c. 9).

Ngài đã không đến nhà viên sĩ quan,

chẳng gặp mặt ông, cũng chẳng nói lời nào.

Chỉ biết là sau đó anh nô lệ đã được khỏi (c. 10).

Ở đâu ta cũng gặp những người như viên sĩ quan Rôma.

Họ có thể là mẫu mực cho các Kitô hữu về sự khiêm hạ và tín thác.

Nhiều con người hôm nay, có tấm lòng thật tốt như viên sĩ quan,

nhưng vẫn ngại chưa dám mời Chúa vào nhà,

chưa dám trực tiếp gặp mặt Chúa,

chỉ dám nói chuyện với Ngài qua trung gian.

Nhưng họ có thể đã mang trong mình một niềm tin kiên vững

và đã có kinh nghiệm về sự chữa lành kỳ diệu của Ngài.

“Tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, chỉ xin Ngài nói một lời…”

Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa.

Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài.

Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Đấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thuong của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

 

 

THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM DÂN NGƯỜI

Thứ Ba tuần 24 Thường niên

Lời Chúa: Lc 7, 11-17

Khi ấy, Ðức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain, có các môn đệ và một đám người rất đông cùng đi với Người. Khi Ðức Giêsu đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có đám rất đông người trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Ðức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Ðức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận.

Suy niệm

Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.

Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.

Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.

Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.

Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.

Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.

Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,

và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.

Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.

Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,

dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.

Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.

Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.

Bà đã dự đám tang của người chồng.

Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.

Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.

Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.

Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.

Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?

Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.

Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).

Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.

Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),

Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).

Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:

Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).

Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.

Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.

Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.

Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,

chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.

Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).

Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.

Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).

Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?

Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.

Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,

khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.

Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).

Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),

Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.

Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,

và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.

Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.

Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,

và bầu trời vắng tiếng chim.

thì đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,

vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,

bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,

bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.

Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,

vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.

Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.

Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.

Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu ở Belem,

Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,

nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.

Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.

Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.

Đó là lỗi của chúng con.

Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,

và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.

Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,

xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa

để yêu trái đất lạnh giá này hơn,

và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

 

 

LŨ TRẺ NGỒI NGOÀI CHỢ

Thứ Tư tuần 24 Thường niên

Lời Chúa: Lc 7, 31-35

Khi ấy, Đức Giêsu nói với dâ chúng rằng: “Vậy tôi phải ví người thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than”. Thật vậy, ông Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: “Ông ta bị quỷ ám”. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: “Ðây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Nhưng Ðức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.”

Suy niệm

Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài

với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32).

Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau.

Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới,

thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.

Nhưng nhóm kia đã không tham gia.

Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.

Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc.

Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy.

Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh.

Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi.

Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới.

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người ở thời của Ngài.

Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ.

Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,

đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).

Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.

Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33).

Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến.

Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.

Người ta đã coi ông là bị quỷ ám,

nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế.

Khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,

Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.

Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.

Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,

một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng.

Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng.

Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế.

Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa.

Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn

mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa.

Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan,

bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34).

Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.

Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ.

Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh.

Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý,

con người chẳng được tự do.

Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ.

Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan,

mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)?

Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu

ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau?

Cầu nguyện

Lạy Cha,

xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau

trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau

không chút thành kiến,

và tin tưởng vào thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau,

xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,

nhờ đó chúng con vượt qua

những tự ái nhỏ nhen,

những tham vọng ích kỷ

và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,

để tìm kiếm chân lý

ở mọi nơi và mọi người,

nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,

xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,

để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,

và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,

xin cho chúng con được triển nở không ngừng

và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

 

 

CHỊ HÃY ĐI BÌNH AN

Thứ Năm tuần 24 Thường niên

Lời Chúa: Lc 7, 36-50

Khi ấy, có người thuộc nhóm Pharisêu mời Ðức Giêsu dùng bữa với mình. Ðức Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn. Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên. Thấy vậy, ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” Ðức Giêsu lên tiếng bảo ông: “Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông!” Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói.” Ðức Giêsu nói: “Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người nợ năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nhiều hơn?” Ông Simon đáp: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.” Ðức Giêsu bảo: “Ông xét đúng lắm.” Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn chào tôi được một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.” Rồi Ðức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.” Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: “Ông này là ai mà lại tha được cả tội?” Nhưng Ðức Giêsu nói với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.”

Suy niệm

Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.

Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).

Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).

Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.

Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.

Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,

cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).

Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,

các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,

chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.

Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.

Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.

Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,

nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.

Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.

Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.

Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.

Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).

Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.

Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.

Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,

hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha?

Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.

Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.

Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt

đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy!).

Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,

vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.

Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.

Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.

Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:

“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết

người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”

Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.

Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,

thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!

Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).

Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.

Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,

nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.

Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.

Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:

rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.

Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.

Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.

Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.

Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.

Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,

Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)

Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.

cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.

“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn?”

Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.

Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.

Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.

Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.

Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.

Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).

Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.

Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,

nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.

Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.

Câu này trước đây thường được dịch như sau:

“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.

Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”

Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.

Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.

Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.

Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.

Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.

Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),

và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.

Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.

Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,

vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn!!!

Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?

Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?

Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.

Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).

Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.

Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,

can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.

Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.

Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:

“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.

Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.

Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.

Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.

Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.

Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:

“Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).

Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ:

lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,

Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,

và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.

Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?

Cầu nguyện

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi Cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi

mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên

để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang

để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường

để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai

để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề

để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.

(R. Tagore)

 

 

MẤY NGƯỜI PHỤ NỮ CÙNG ĐI

Thứ Sáu tuần 24 Thường niên

Lời Chúa: Lc 8, 1-3

KÐức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Ðó là bà Maria gọi là Maria Mácđala, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Ðức Giêsu và các môn đệ.

Suy niệm

Nhóm Mười hai cùng đi với Thầy Giêsu qua các thành phố, làng mạc,

để rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (c. 1).

Chuyện các môn đệ nam giới đi theo Thầy

là chuyện bình thường trong xã hội Do Thái.

Chuyện lạ ở đây là chuyện cùng đi với Thầy còn có các phụ nữ.

Các bà đi theo Thầy, rong ruổi trên những nẻo đường của vùng Galilê.

Họ như thuộc cùng một nhóm với các môn đệ.

Vào thời Đức Giêsu, chuyện phụ nữ đi chung như thế quả là gây sốc.

Nếu một phụ nữ cứ tiếp xúc với nam giới ở ngoài họ hàng,

thì bản thân chị ấy và gia đình sẽ phải mang tiếng xấu.

Vả lại chẳng ông chồng nào chịu để cho vợ mình làm như vậy.

Những phụ nữ đã đi theo Thầy Giêsu từ Galilê.

Câu này nói lên căn cước của nhóm phụ nữ.

Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy chịu đóng đinh (Lc 23, 49).

Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy được mai táng (Lc 23, 55).

Họ là những người đầu tiên ra thăm mộ vào sáng sớm (Lc 24, 1-3).

Theo Tin Mừng Matthêô (28, 9-10), Máccô (16, 9) và Gioan (Ga 20, 18),

chính họ là những người đầu tiên được thấy Đấng Phục Sinh

Hai môn đệ Emmau tuy không tin lời chứng của các phụ nữ về Phục Sinh,

nhưng hai ông đã gọi họ là những phụ nữ trong nhóm chúng tôi (Lc 24, 22).

Những phụ nữ này còn có mặt cùng với nhóm Mười Hai,

để cầu nguyện chung, sau khi Thầy Giêsu được cất về trời (Cv 1, 13-14).

Như thế nhóm phụ nữ này đã kiên trì và can đảm đi theo Thầy Giêsu,

từ Galilê đến Núi Sọ, và từ Núi Sọ đến cộng đoàn Giáo Hội sơ khai.

Một cách nào đó, họ xứng đáng được gọi là người môn đệ.

Đức Giêsu đã không chỉ thu hút được các môn đệ nam theo Ngài.

Qua việc trừ quỷ và chữa bệnh, Ngài đã làm cho nhiều cuộc đời tươi trở lại.

Một nhóm phụ nữ khi được chữa lành, đã muốn tỏ lòng biết ơn,

trong đó có bà Gioanna, là người đã lập gia đình, giàu có và quyền quý.

Họ quyết định đi theo Đức Giêsu và các môn đệ như những trợ tá.

Họ dùng của cải mình có để phục vụ các ngài (c. 3).

Không nên coi việc phục vụ của nhóm phụ nữ là thấp kém,

vì các môn đệ cũng được mời gọi làm người phục vụ anh em (Mc 10, 43).

Và chính Thầy Giêsu cũng đã sống như một người phục vụ (Lc 22, 27).

Không thấy nói đến việc các phụ nữ này được Thầy Giêsu sai đi rao giảng.

Có lẽ vì vào thời đó ở nước Do Thái, người ta còn coi thường phụ nữ,

và không coi các phụ nữ như những chứng nhân đáng tin.

Khi nhìn Nhóm Thầy Giêsu cách đây hai mươi thế kỷ,

chúng ta thấy Thầy đã táo bạo, dám đi ngược với nền văn hóa thời đó.

Ngài mở rộng thế giới của phụ nữ, vốn chỉ giới hạn trong gia đình.

Phụ nữ hôm nay được mời gọi tham gia vào những công việc chung.

Chúng ta cần thấy sự hiện diện tích cực của các phụ nữ lo việc bác ái,

dạy giáo lý, làm việc cho giáo xứ, hay ở trong các tổ chức của giáo phận.

Làm sao có được nhiều phụ nữ thánh thiện và năng động như Mẹ Têrêsa?

Cầu nguyện

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,

xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,

xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,

xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,

xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,

Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,

xin cho các Kitô hữu chúng con

trở thành tình yêu

cho trái tim khô cằn của thế giới.

Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,

biết sống nhờ và sống cho tha nhân,

biết quảng đại cho đi

và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,

xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa

ở sâu thẳm lòng chúng con,

và trong lòng từng con người bé nhỏ.

 

 

VỚI TẤM LÒNG CAO THƯỢNG

Thứ Bảy tuần 24 Thường niên

Lời Chúa: Lc 8, 4-15

Khi ấy, người ta tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Ðức Giêsu. Bấy giờ Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: “Người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt. Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết qủa gấp trăm.” Nói xong, Người hô lên rằng: “Ai có tai nghe thì nghe.”

Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. Người đáp: “Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; còn với kẻ khác thì phải dùng dụ ngôn để chúng nhìn mà không nhìn, nghe mà không hiểu. Ðây là ý nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và trong thời thử thách, họ bỏ cuộc. Hạt giống rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. Hạt giống rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.”

Suy niệm

Đức Kitô hào phóng gieo vãi lời của Thiên Chúa khắp nơi.

Ngài như người gieo hạt giống, tung gieo trong gió,

có vẻ như chẳng để ý đến chuyện có hạt rơi vào đất cằn khô,

và một số hạt không bao giờ sinh huê lợi.

Các Kitô hữu sơ khai đã đọc dụ ngôn này và thấy nơi đó một lời nhắn nhủ.

Họ thấy mình chính là người đã nhận được hạt giống lời Chúa.

Nhưng không phải hạt giống nào cũng thành cây lúa trĩu hạt.

Có những hạt giống bị thui chột bởi những lý do bên ngoài và bên trong.

Làm sao để mọi hạt giống được gieo trong tim ta, đều sinh hoa trái?

Câu hỏi của Giáo hội sơ khai cũng là câu hỏi của Giáo hội bây giờ.

Thửa đất là trái tim con người xưa nay vẫn thế.

Hạt giống Lời Chúa hôm xưa và hôm nay cũng vẫn là một.

Cả bốn hạng người trong dụ ngôn đều đã nghe (cc. 12. 13. 14. 15),

nghĩa là đều đã đón nhận Lời Chúa vào trái tim, vào trung tâm đời mình.

Nhưng có Lời bị đánh cắp.

Quỷ đến và lấy Lời đã gieo ra khỏi trái tim người nghe

vì sợ họ tin mà được cứu độ (c. 12).

Quỷ giống như chim trời đến ăn mất hạt giống rơi xuống vệ đường (c. 5).

Tại quỷ hay tại trái tim con người như đất vệ đường quá cứng?

Hạt giống nằm chơ vơ, trở thành mồi ngon cho bao tấn công đe dọa.

Nhưng có Lời không mọc rễ.

Nghe Lời và vui vẻ đón nhận vẫn chưa đủ.

Hạt giống cần có nhiều đất để mọc rễ nuôi sống cây.

Đất nhiều sỏi đá chỉ cho một lòng tin nhất thời, khi mọi sự dễ dàng,

nhưng không đủ sức đứng vững khi thử thách ập tới.

Đã và đang có những Kitô hữu quỵ ngã trước những thách đố cam go,

vì Lời Chúa chưa bao giờ mọc rễ trong tim họ.

Thử thách của đời Kitô hữu làm lộ ra tình trạng “không rễ” của ta,

và đòi ta tránh gặp gỡ Lời Chúa một cách hời hợt, nông cạn.

Nhưng có Lời bị chết ngộp.

Ngộp vì những thứ trói buộc của cuộc đời phù vân này,

những lo âu trăn trở, những thèm muốn khoái lạc, giàu sang.

Cây lúa có mọc lên cũng bị chết ngộp bởi bụi gai ở ngay nơi tim tôi.

Cuối cùng có Lời được nắm giữ.

Dù thửa đất tốt là trái tim cao thượng và quảng đại,

Nhưng nắm giữ Lời Chúa cũng đòi một nỗ lực không ngừng.

Bất chấp những tấn công từ bên ngoài, hay thèm muốn bên trong,

cần có thái độ kiên trì để vượt qua những khủng hoảng không tránh khỏi.

Xin được trân trọng nghe Lời Chúa trong thánh đường và trong cuộc sống.

Xin được khiêm tốn nghe Lời Chúa qua các bậc thầy và qua trẻ thơ.

Ước gì Lời Chúa giúp ta làm cho đất của tim mình xốp hơn và mềm lại,

bớt đá sỏi, thêm đất màu, bớt bụi gai, thêm ẩm ướt.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa

và dạy con bước đi

ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.

Xin truyền cho con sức mạnh của Người.

Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con

tìm lại được sức trẻ

để gieo trồng hàng ngàn cây xanh

cho một thế giới mới

Ước gì mồ hôi con

pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.

Ước gì máu con

hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ

để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn

vì bất công và ích kỷ.

Chúc tụng Chúa là Cha,

đã dẫn con đi đến cùng,

đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung

với tràn trề bình an và niềm vui.

(ĐHY Roger Etchegaray)